LỄ
PHỤC SINH
Lời Chúa: Cv 10,34a.37-43; Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
1.
Đấng Phục Sinh
Một cậu bé hỏi mẹ về đứa em mới chết hiện
đang ở đâu. Người mẹ đáp: Em con đang ở trên thiên đàng với Chúa Giêsu. Mấy
ngày sau, bà mẹ nói chuyện với bạn bè tỏ ý đau buồn khi nhắc đến đứa con mới mất.
Bé ngạc nhiên hỏi mẹ: Khi mẹ mất vật gì, tức là mẹ không biết nó đang ở đâu phải
không mẹ? Bà mẹ đáp: Phải. Bé hỏi tiếp: Mẹ biết em con đang ở với Chúa, sao mẹ
lại nói là em con đã mất? Bà mẹ chợt tỉnh, không còn đau buồn nữa, mà ý thức
con mình đang vui hưởng hạnh phúc thiên đàng.
Thánh Phaolô quả quyết: "Nếu Chúa Kitô
không sống lại thì niềm tin của chúng ta là điều vô ích, chúng ta là những người
khờ dại nhất vì chúng ta tin tưởng vào một điều hão huyền". Có bao nhiêu bậc
vĩ nhân của thế giới đã từng chết cho hoà bình. Có bao nhiêu con người đã sống,
đã chết và để lại cho nhân loại một gương mẫu hay một giáo thuyết cao cả hướng
dẫn cuộc sống con người. Tuy nhiên trong lịch sử nhân loại, chưa từng có một bậc
vĩ nhân hay một thánh hiền nào được tuyên xưng là đã sống lại, duy chỉ có một
mình Chúa Giêsu là được các tín hữu tin nhận và tuyên xưng Đấng Phục Sinh. Nếu
Chúa Giêsu không sống lại thì cái chết của Ngài, dù có một giá trị cao cả đến
đâu, thì cũng chỉ là một cái chết trong muôn ngàn cái chết của loài người,
nghĩa là không hề có giá trị cứu rỗi. Vậy đâu là ý nghĩa của biến cố Phục sinh?
Phục sinh không có nghĩa là hồi sinh trở về đời
sống cũ, giống như trường hợp cậu con trai bà goá thành Naim, em bé gái 12 tuổi,
và đặc biệt là ông Ladarô đã chết 4 ngày được Chúa Giêsu cho sống lại. Cả ba
trường hợp này, người chết đều sống lại, nhưng đó chỉ là trở lại với đời sống
cũ. Có nghĩa là một ngày nào đó họ cũng phải theo cái số phận chung của loài
người là trở về với bụi đất. Họ vẫn còn nằm dưới quyền của sự chết.
Trường hợp của Chúa Giêsu hoàn toàn khác hẳn.
Quả thực, Ngài đã chết, nhưng khi nói rằng Ngài Phục sinh, có nghĩa là Ngài hoàn
toàn chiến thắng sự chết, Ngài không sống lại một thời gian để rồi lại chết. Sống
lại đối với Chúa Giêsu có nghĩa là mặc lấy sự sống sung mãn mới mẻ đến độ sự chết
không còn chi phối nữa, cũng không một định luật tự nhiên nào có thể ảnh hưởng
được Ngài: Ngài đến với các môn đệ khi cửa đóng kín, Ngài chuyện vãn với họ, ăn
uống với họ, nhiều người trong họ sờ được Ngài như một người đang sống chứ
không phải như một bóng ma. Đó là tình trạng đích thực của sự sống lại mà một số
môn đệ của Chúa Giêsu đã cảm nghiệm được mỗi lần Ngài hiện ra với họ.
Là những chứng nhân của Đấng Phục sinh, các
môn đệ Đức Giêsu đã ra đi khắp nơi để rao giảng Tin Mừng của Ngài. Tin Mừng ấy
là: "Ai tin nhận Đức Giêsu, tuyên xưng Ngài là Chúa và sống theo giáo huấn
của Ngài, người đó cũng sẽ được phục sinh như Ngài". Họ không thể là một
nhóm người lừa bịp bởi vì không một kẻ lừa bịp nào chịu lấy mạng sống của mình
đeể làm chứng cho điều mình rao giảng. Qua 2000 năm, không biết bao nhiêu sợi
dây được nối kết bằng máu và bằng những cuộc sống phi thường của các tín hữu
Kitô ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày nay tất cả mọi tín hữu trên khắp thế giới
đều được liên kết bởi cùng một niềm tin, đó là sự Phục sinh của Đức Giêsu Kitô.
Nói đến niềm tin là nói đến một cái gì mà
khoa học không thể kiểm chứng được. Sự Phục sinh của Đức Giêsu quả thật không
thuộc trật tự khả giác. Người ta không thể dùng bất cứ tiêu chuẩn khoa học nào
để kiểm chứng niềm tin ấy. Hai ngàn năm qua, các tín hữu Kitô tin chắc rằng với
không biết bao nhiêu sóng gió đã xảy ra
cho Giáo Hội, nếu Đấng Phục sinh không hiện diện trong Giáo Hội của Ngài, thì
Giáo Hội không thể nào tồn tại cho đến ngày nay. Nếu giờ đây các tín hữu Việt
Nam cố gắng sống thánh thiện, tốt lành, chịu đựng mọi thứ bách hại là bởi vì họ
thực sự có Đấng Phục sinh đang sống trong họ và ở với họ. Nếu giữa những mất
mát thương đau của cuộc sống họ vẫn đứng vững được là bởi vì họ tin vào sự Phục
sinh mà họ cũng sẽ được tham dự vào trong ngày sau hết. Chính niềm tin ấy mang
lại ý nghĩa cho cuộc sống, hướng dẫn các Kitô hữu bước qua tăm tối và giúp cho
họ sống vui tươi, can đảm và kiên nhẫn trong mọi nghịch cảnh.
2. Đức Kitô sống lại
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau
chia sẻ về ba thái độ. Trước hết là thái
độ của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái
bao gồm việc rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây
băng cuộn lại từ đầu đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt
được đục sẵn nơi vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận
ra rằng mình đã không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau
ngày thứ bảy, tức là ngày thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối
với chúng ta hiện nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp
xác lại. Khi đến nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy
qua một bên và Chúa Giêsu không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về
báo tin cho Phêrô và Gioan. Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna,
bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ
chỉ để tìm lại một xác chết. Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống
trơn, bà khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông
đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ. Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông
mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên.
Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ
trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách
phá rối các ông để kết án và xử tử các ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những
gì đã xảy ra và tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Với một
tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của
Gioan.
Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của
ông được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã
theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà
với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng
ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời
mình, cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ
dàng nhận ra sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức
tin. Những lo lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt
lên được. Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của
Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ
có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong
cuộc đời mình, nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển
trên con đường tình yêu của Chúa.
3. Rao truyền ơn Phục Sinh - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào
một tình trạng thê thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy
yêu dấu. Còn đâu an ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật
được chữa lành, kẻ tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm
hy vọng tràn trề khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã
chiến thắng, sự dữ đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những
người tin Chúa. Tâm hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài
như cùng bị chôn táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa
Giêsu Phục Sinh đã khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc
tâm hồn các ngài thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn
các ngài bừng lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng.
Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa
Giêsu đã Phục Sinh tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài.
Ơn Phục Sinh đã được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu
đuối đã trở nên mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến
thành niềm vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không
còn có thể ngồi yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa,
hăng hái ra đi đem Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực
dậy những mảnh đời đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang
héo úa. Các ngài muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh
phúc, dồi dào hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng
ta, noi gương các Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh
đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ
cơm ăn áo mặc. Có những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm
thân gầy mòn vì lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm
tối thất học, nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có
những mạch máu như ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị
phản bội. Có những cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn
kín trong những nấm mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục
Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong
vũng lầy tội lỗi. Có những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền
lợi, danh vọng. Có những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ
máu vì chia rẽ bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử
thách. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời
anh em thoát khỏi những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng
và khôi phục niềm tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc
đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến
với mọi người, bản thân ta cần được Phục Sinh trước.
Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa
những mầm mống chết chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản
thân ta cũng đang ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ,
chia rẽ, bất hoà, tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo
úa, lòng mến đang nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục
Sinh có thể thấm vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy
trừ mọi lực lượng sự chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta
phải chiến đấu với chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp,
chắc chắn ta sẽ toàn thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.
Bạn
có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng người bạn không? Bạn có
muốn loại trừ chúng không?
2.
Bạn
có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
3.
Bạn
có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
4.
Tuần
này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
4. Đón nhận ơn Phục Sinh – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Sau khi Đức Kitô phục sinh, các môn đệ biến đổi
lạ lùng. Maria Mácđala buồn sầu ảm đạm trở nên phấn khởi vui tươi. Tô-ma cứng cỏi
trở nên tin tưởng. Hai môn đệ Emmau lạnh lùng trở nên sốt mến. Tất cả các môn đệ
hèn yếu trở nên vững mạnh, từ ích kỷ nhỏ nhen chỉ biết lo cho quyền lợi bản
thân trở nên quảng đại hiến thân cho Nước Chúa, từ chia rẽ tranh dành địa vị trở
nên đoàn kết yêu thương, từ khép kín trở nên cởi mở đi đến với mọi người.
Chúa Phục sinh đổ vào tâm hồn các ngài một
nguồn sống mới. Tâm hồn các ngài được ơn phục sinh. Ơn phục sinh được tóm tắt
trong một câu ngắn gọn: "Ông đã thấy và ông đã tin".
Nhờ đâu các ngài đã thấy?
Các ngài đã thấy nhờ gắn bó với Chúa. Thương nhớ Thày,
nên khi ngày Sabbat vừa chấm dứt các ngài đã vội vã ra thăm mộ Thày. Các ngài không
đi, nhưng chạy. Các ngài chạy vì muốn thu ngắn quãng đường. Các ngài chạy vì muốn
thu ngắn mọi khoảng cách ngăn các ngài với Chúa. Các ngài muốn ở sát bên Chúa.
Các ngài muốn kết hiệp với Chúa.
Các ngài đã thấy vì đã biết dứt bỏ quá khứ. Khi nhìn vào mộ,
các ngài thấy gì? Các ngài không thấy gì hết! Ngôi mộ trống rỗng. Không có gì,
nhưng các ngài thấy tất cả. Nếu xác Chúa còn đó thì thật đáng buồn. Xác còn có
nghĩa là Chúa vẫn còn trong thế giới kẻ chết. Ngôi mộ còn xác là ngôi mộ gieo
niềm tuyệt vọng. Ngôi mộ trống là ngôi mộ chứa đầy niềm hi vọng. Ngôi mộ trống
là một khởi điểm mới, là khối hỗn mang để Chúa làm nên một trời mới đất mới.
Các ngài hiểu rằng không nên gắn bó với xác chết nhưng nên gắn bó với Đức Kitô
đang sống. Không nên gắn bó với quá khứ chết chóc, nhưng nên gắn bó với tương
lai tràn đầy sự sống.
Các ngài đã thấy vì đã có thái độ khiêm nhường. Tin mừng thuật lại:
Các ngài đã "cúi xuống nhìn vào ngôi mộ". Khi cúi xuống nhìn vào ngôi
mộ, các ngài không thấy Chúa. Nhưng càng cúi xuống sâu các ngài thấy rõ mình.
Chìm xuống đáy lòng như chìm xuống đáy đại dương, xa mọi sóng gió xôn xao. Càng
nhìn vào đáy lòng mình, càng bắt gặp niềm bình an. Bình an là quà tặng Chúa Phục
sinh rộng rãi ban phát cho các môn đệ sau khi Người sống lại.
Các ngài đã thấy vì đã nhìn với ánh mắt tin yêu. Thánh Gioan quan
sát kỹ hiện trường nên đã miêu tả rất cặn kẽ: Khi ở ngoài mộ nhìn vào "Ông
thấy những băng vải còn ở đó". Khi đã bước vào trong mộ, Ông "thấy những
băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng
vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi".
Là người gần gũi, quen biết các thói quen của
Thày, thánh Gio-an lập tức nhận ra dấu vết Người để lại. Khăn liệm được xếp đặt
gọn gàng chứng tỏ bàn tay Người tự xếp đặt. Người tự xếp đặt tức là Người đang
sống. Người bỏ khăn liệm vì Người không còn trong thế giới kẻ chết.
Trái tim yêu mến đã làm cho thánh Gioan nhạy bén cảm
nhận được mầu nhiệm phục sinh.
Hôm nay, Đức Kitô phục sinh đang tuôn đổ ơn
lành xuống cho ta. Để đón nhận được ơn lành của Người, ta hãy học tập nơi các
môn đệ, biết tha thiết gắn bó với Người trong lúc vui cũng như lúc buồn, biết dứt
khoát với quá khứ tội lỗi lười biếng, trì trệ, biết khiêm nhường chìm vào đáy
sâu tâm hồn, biết nhìn thế giới bằng ánh mắt tin yêu.
Với những phấn đấu như thế, ta sẽ đón nhận được
ơn Chúa Phục sinh. Chúa sẽ tuôn đổ Ơn Phục Sinh tràn ngập tâm hồn ta, biến đổi
ta nên người mới, tràn đầy niềm vui, tràn đầy niềm hi vọng, tràn đầy sự quảng đại,
tràn đầy tình yêu mến.
Lạy Đức Kitô phục sinh, xin cho linh hồn con
được sống lại thật. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.
Chỉ
một lần mừng lễ Phục sinh, tâm hồn các tông đồ đã đổi mới hoàn toàn. Còn ta, đã
bao lần mừng lễ Phục sinh, sao ta chưa thay đổi đời sống?
2.
Khi
ngắm thứ nhất mùa Mừng: "Đức Chúa Giêsu sống lại, ta hãy xin cho được sống
lại thật về phần linh hồn", bạn suy nghĩ gì? Bạn có thực sự tha thiết đổi
mới cuộc đời không?
3.
Bạn
sẽ làm gì để sống ơn Phục sinh Chúa ban?
5. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh - Achille
Degeest
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Những bài tường thuật khác nhau về Chúa Phục
Sinh trong bộ Phúc Âm hoặc trong các thư thánh Phaolô đặt
ra một vấn đề đồng nhất. Những bài ấy cùng nói về một sự kiện, nhưng không hoàn
toàn giống nhau. Nhiều công trình khảo cứu cố gắng tìm những điểm trùng hợp
trong các bản văn nói trên để đem lại những thành quả có thể thoả đáng nhưng
không giải quyết được chú ý nhiều là của cha de Grandmaison trình bày trong cuốn
“Đức Giêsu Kitô”. Lĩnh vực này vẫn mở ra cho môn nghiên cứu Kinh Thánh và có
nhiều quan điểm mới mẻ xuất hiện kể từ sau cha de Grandmaison). Nhân bài Phúc
Âm hôm nay, chúng ta có thể chú ý đến một số điểm nổi bật như những đỉnh cao của
một dãy núi, cho thấy ý nghĩa tổng quát của những sự kiện.
1) Sự kiện Phục Sinh đặt nền tảng cho niềm tin của các
tông đồ và cộng đồng giáo hữu tiên khởi.
Người ta cho rằng có thể có những bài tường
thuật khác nhiều chi tiết hơn và có tính chất mô tả. Thật ra không phải vậy.
Trong những đoạn thuật về sự kiện Phục Sinh, không có điểm nào cho trí tưởng tượng
khai thác. Chúng ta phải nhìn nhận rằng đôi khi những yêu cầu hợp lý của hành
vi tin như vậy là tốt.
2) Việc phát hiện ngôi mộ trống không khiến cho những phụ
nữ đạo đức cũng như các tông đồ tức khắc xác tín rằng Chúa đã sống lại.
Câu của thánh Gioan: Ông đã thấy, và ông đã
tin, phải được đặt trong tương quan với sự thấu hiểu Kinh Thánh –và không có bằng
chứng nào rằng niềm tin của thánh Gioan đột xuất như một làn chớp, cho dẫu ngài
hiểu biết nhanh hơn các tông đồ khác. Ở đây sự kiện lịch sử là ngôi mộ trống trở
nên như một thứ cầu nhún bỗng nhiên được một lò xo bí ẩn nhập vào làm bật lên,
phóng tâm trí vượt lên cao quá tầm lịch sử. Thuộc về thượng tầng ấy là những lần
Chúa hiện ra cho các môn đệ, và hành vi tin do đó phát sinh –là sự thấu hiểu
Kinh Thánh- là sự làm chứng của các tông đồ. Ở đây chúng ta tiếp xúc với một điều
gì khiến chúng ta có được niềm vững tin mạnh hơn sự kiểm chứng lịch sử, đó là
hành vi tin, một hành vi không do sự cưỡng ép bên ngoài hay bên trong, nhưng được
kích động cả ngoài và trong, một hành vi hợp lý, tự do, được sự giúp đỡ của ân
sủng –hành vi ấy là hành vi tin của chúng ta ngày nay.
3) Những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ làm biến đổi tâm
hồn các ông.
Chúa hiện ra bất thần, trong những trường hợp
các ông ý thức rõ về bản thân mình, Chúa chợt đến trong đời sống thật sự của
các ông. Điều đó cần nói rõ ra để thấy những thuyết chủ trương ảo giác là không
vững. Điều quan trọng nhất: Đức Giêsu đảo ngược tâm trạng và não trạng các môn
đệ. Não trạng Do Thái của các ông không chấp nhận cuộc thương khó, vậy mà giờ
đây các ông chấp nhận cuộc khổ nạn của Thày là liên quan mật thiết với chương
trình cứu độ của Thiên Chúa. Các ông đã ngã lòng, vậy mà bây giờ các ông có một
niềm xác tín chiến thắng. Các ông đại diện cho Giáo Hội đang phát triển cách mạnh
mẽ và hân hoan, các ông phát khởi một lịch sử và một mầu nhiệm ngày nay chưa chấm
dứt sức năng động làm cho nhân loại dậy lên (Tất nhiên phải hiểu rằng những
hình ảnh trên đây chỉ muốn gợi ý cho sự suy niệm và cầu nguyện, tuyệt nhiên không
có cao vọng bàn đến những vấn đề bao quanh lịch sử và mầu nhiệm Phục Sinh của
Chúa).
6. Hy vọng mạnh hơn thất bại – Achille
Degeest.
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Điều gì người ta sống cách sâu đậm nhất là điều
khó diễn tả nhất. Đó là trường hợp của kinh nghiệm về đức tin nơi Chúa Giêsu
Kitô Phục Sinh. Đối với người vô thần, sự sống lại của Đức Kitô là cái gì chỉ
có trong lòng tin của người Kitô hữu. Đối với người Kitô hữu, đó là một thực tại
còn chắc chắn hơn sự kiện lịch sử được chứng minh cách vững vàng nhất. Họ có thể
diễn tả thế nào lòng tin của mình trước người không tin, hoặc ngay trước những
đòi hỏi hợp lý của chính lý trí mình?
Ai tin Đức Kitô sống lại, chỉ còn cách có
thái độ như các Tông đồ. Với ngôn ngữ và cách suy nghĩ của riêng mình, các ngài
làm chứng rằng đã biết Chúa Giêsu trước khi Người chết, và đã gặp lại Người sau
khi sống lại. Làm chứng, nghĩa là quả quyết đã sống và đã thấy. Các ngài không
hiểu bằng cách nào Chúa Giêsu đã từ cõi chết đi vào cõi sống, đã hiện ra trong
những điều kiện khác với điều kiện trước khi chết. Các ngài không nói gì về điểm
này. Nhưng quả quyết một cách vô cùng chắc chắn là sự việc đã xảy ra.
Người Kitô hữu ngày nay cũng thế, họ tin Chúa
chịu chết và phục sinh nhưng không thể trả lời cho những ai chất vấn họ, xin họ
giải thích. Vậy mà sự hiện diện và hoạt động của Chúa Phục Sinh trong cuộc sống
họ là một kinh nghiệm biến đổi cả con người họ. Họ có thể làm chứng mà không thể
cắt nghĩa việc ấy.
Chúng ta có thể rút từ bài đọc của thánh
Gioan hai đề tài suy niệm:
1) Hai người đều chạy.
Phêrô và Gioan khi nghe Maria Madalêna báo
tin liền vội vàng chạy tới mồ. Trong sự vội vàng và sự ‘hướng về’ này, chúng ta
nhìn thấy một ý nghĩa tượng trưng. Ta có hướng về Chúa Giêsu sống lại và đang sống
không? Đối với Phêrô và Gioan, ngôi mộ tượng trưng cho thất bại ê chề, kể từ
chiều thứ sáu (sau khi Chúa tắt thở). Bây giờ thì họ lại hướng về một hy vọng
tuy còn mập mờ, bí ẩn, nhưng họ vẫn lao mình chạy. Trong đời ta phải chăng cũng
có những thất bại mà ta tưởng là nhất định rồi. Chẳng hạn một ước muốn không
thành, một công việc tông đồ không kết quả, một hạnh phúc hợp lý rơi vào thất bại…
Ta có hay chăng một niềm hy vọng biết nhìn thấy quyền năng Phục Sinh Chúa dành
cho ta qua thử thách, dù lớn lao thế nào đi nữa? Ta là môn đệ của Chúa sống lại.
Người kêu mời ta đừng bao giờ đặt một viên đá tuyệt vọng trên cái gì hết, song
hãy hy vọng. Cái được phục sinh có thể sẽ khác với ta chờ đợi nhưng ‘khác’ hơn
theo nghĩa ‘tốt’ hơn.
2) Ông thấy và tin.
Điều này nói về tông đồ Gioan. Bản văn thêm rằng
lúc đó ông hiểu rõ Kinh Thánh, tức Cựu Ước. Quả thật con người và lịch sử của
Chúa Giêsu là ánh sáng soi chiếu toàn bộ Cựu Ước, cũng như Tân Ước. Phải đọc
Thánh Kinh thế nào? Thưa bằng cách tìm gặp ở đó Chúa Giêsu Kitô là chân lý ta,
là sức mạnh ta, là sự chỉ giáo, luân lý, đời sống của ta.
7. Người đã trỗi dậy rồi
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
·
Có
vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ sống lại.
·
Các
phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn, họ
phân vân và bối rối không hiểu.
·
Là
những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen với chuyện Chúa phục
sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng,
ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã
chuẩn bị. Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn. Nếu sứ thần không hiện ra
giải thích thì ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những
gì đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ
ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy
đã phục sinh!
Phêrô đứng lên chạy
ra mộ
(Lc 24,12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng
ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin. Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều
khó, dù Đức Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được
nửa đầu của lời loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì
thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài
dạy (c.8).
Đức Giêsu phục sinh
hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này,
đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26). Nhắc nhớ là nối quá
khứ với hiện tại và tương lai. Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương. Chúng
ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy vọng và vui sống.
"Sao các bà lại
tìm Người Sống ở nơi kẻ chết".
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục
sinh. Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ. Kitô giáo không kết
thúc bằng thập giá và phần mộ. Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới.
Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường.
Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng
cửa vì sợ hãi. Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta không
tin Ngài đã sống lại thật. Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống,
cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Cuộc
đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự
sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin
có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?
·
Lễ
Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi
với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến
và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin
hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng
cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được
gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy
môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi
ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên
chúng con. Amen.
8.
Mặt trời hé mọc
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần
dừng lại thật lâu bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19,41).
Ngôi mộ này của ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ
âm thầm của Đức Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai.
Ngôi mộ nằm im lìm như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa
mồ.
Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một
cái gai. Tử thần đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng.
Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt
lúa ủ trong lòng đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được
một mầm non đang nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng
sáng. Họ thấp thỏm không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm
đó. Và khi loé lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời,
thì cả ba đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm:
"Ai sẽ lăn giùm tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to thật là một trở
ngại. Nhưng lạ thay, khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi,
và xác của Thầy cũng không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng bị
đóng đinh đã chỗi dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự
sống đã bật dậy, làm bàng hoàng sửng sốt. Không cần phải lăn tảng đá. Không cần
phải xức dầu thơm. Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang
sống, Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn.
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta. Những ngôi
mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều chúng ta yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu
hiệu của những đổ vỡ, đớn đau. Ta có chờ gì nơi đó, hay chỉ biết tiếc nuối? Chỉ
sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng chẳng có mất mát, khổ đau, thất bại
nào lại không thể làm ta lớn lên và cứng cáp. Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm
được niềm vui, dám chôn đi điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Có
những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép kín. Hiện nay có điều
gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng Phục Sinh có giúp
bạn ra khỏi không?
·
Đức
Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn thấy mình có những điều
cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm
đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm
con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui
làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm
con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần
mỗi ngày làm mới lại đời con.
9. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
Giáo Hội Chính Thống có một truyền thống rất
ý nghĩa về lễ Phục Sinh: Sau Thánh Lễ mỗi người được phát cho một quả trứng gà
đã được làm phép. Khi đến chúc mừng lễ cho nhau, người ta đập vỡ quả trứng và
nói: “Đức Kitô đã sống lại”. Người kia cũng đập quả trứng và đáp lại: “Quả thật,
Đức Kitô đã sống lại, Halleluia”.
Ngày nay, ở các nước Âu Châu vào dịp lễ Phục
Sinh, người ta vẫn thấy trưng bày các quả trứng được trang trí tô vẽ đủ màu sắc
rực rỡ, thậm chí có cả những quả trứng chocolate lớn nhỏ đủ
cỡ dành để làm quà tặng mừng Chúa Phục Sinh.
Thưa anh chị em,
Quả trứng có vỡ ra, con gà mới có thể chào đời.
Cũng thế, ngôi mồ có mở ra, Đức Kitô mới sống lại từ cõi chết. Trước khi đập vỡ
quả trứng để chào đời, con gà đã phải ngủ vùi trong quả trứng. Cũng thế, Đức
Kitô đã bị chôn vùi trong mồ ba ngày rồi mới sống lại. Tin Mừng hôm nay đã cho
chúng ta thấy ngôi mồ trống và loan báo tin Đức Kitô đã sống lại.
Ngài đã chết. Người ta đã chôn Ngài trong mồ
đá. Cửa mồ mở ra. Xác Ngài không còn đó nữa. Maria Madalena hoảng hốt kêu lên; “Người ta đã lấy mất xác Thầy rồi!”. Hai môn đệ Phêrô và
Gioan chạy ra mồ kiểm chứng. Hai ông thấy mồ mở toang. Nhìn vào trong thấy khăn
liệm còn đó, nhưng xác Ngài đã biến mất. Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã thấy
và đã tin: Chúa đã sống lại thật như Ngài đã tiên báo.
Chúa đã sống lại. Chúa đã từ trong cõi chết sống
lại. Ngài sống lại thật sự chứ không phải chỉ sống trong tưởng tượng, trong
lòng tin của chúng ta, tuy chúng ta không thấy Ngài, tuy chúng ta chỉ nhận ra
Ngài nhờ đức tin. Nhưng Ngài đang sống thật, dù chúng ta không tin. Ngài cũng
đang sống thật, đang điều khiển dòng lịch sử.
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không tỏ mình
cho quần chúng từng đi theo Ngài khi Ngài đi rao giảng, nhưng chỉ cho một số
người được tuyển chọn để làm chứng nhân. Họ đã được thấy Ngài Phục Sinh, được
ăn uống với Ngài sau khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Người Do Thái không chịu tin, đút tiền cho
lính canh để lấp liếm. Người Hy Lạp cười khinh bỉ khi nghe Thánh Phêrô nói đến
hai tiếng “Phục Sinh”. Nhưng đối với chúng ta thì Chúa Giêsu sống lại đem ý
nghĩa cho cuộc sống của chúng ta: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta vẫn
còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem
chúng ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là
những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện
hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục,
những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ
cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho
chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên
kia bờ tuyệt vọng, làm cho những đau thương quằn quại của con người không còn
là nỗi quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ
đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, thập
giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Tin Mừng
theo Thánh Gioan quan niệm thập giá là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh. Cái “Giờ”
mà Chúa Giêsu vừa trông đợi vừa lo sợ, chính là giờ Ngài được giương cao trên
thập giá để kéo mọi người lên cùng Ngài. Chúa Giêsu đã sống lại, khiến cho cái
chết của chúng ta không còn là ngõ cụt, không còn là đêm tối tuyệt vọng nữa, vì
ánh sáng của Chúa Kitô đã bừng lên trong cõi chết. Chúa Kitô đã sống lại, niềm
hy vọng của chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên
Chúa, Ngài đang điều khiển dòng lịch sử, và khi Ngài tỏ hiện trong vinh quang,
thì chúng ta cũng được xuất hiện cùng với Ngài trong hạnh phúc và vinh quang bất
diệt.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã được sống lại với Chúa Kitô Phục
Sinh. Nhờ phép Rửa, chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại của
Chúa Kitô, được mang mầm sống mới trong mình, mầm sống ấy phải lớn lên trong cuộc
sống mỗi ngày và sẽ đưa chúng ta vượt qua chính cái chết tự nhiên của con người
để vào cuộc sống vinh quang với Chúa Kitô. Sự sống của chúng ta, vinh quang của
chúng ta được dấu ẩn trong Chúa Kitô. Hiện giờ chúng ta chưa thấy vinh quang ấy
như thế nào, nhưng khi Chúa Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ thấy. Vì Ngài thế nào
thì chúng ta cũng sẽ giống như vậy.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta,
chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng
sống, giữ lấy sự bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Chúa
Kitô và như Chúa Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã được sống
lại với Chúa Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người
theo xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng đích của
chúng ta mà tiến lên. Chúa Kitô đã mang lại cho những đau khổ của con người một
ý nghĩa, đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng, nhưng là
một phản ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nếu sự Phục Sinh của Chúa Giêsu thật là cần
thiết cho chính Ngài và cho những người tin vào Ngài, thì nó cũng lại rất cần
cho cuộc sống hôm nay của chúng ta, khi mà nhiều người chán sống, khi mà cuộc đời
có quá nhiều cái làm chết con người hoặc coi thường mạng sống con người. Chúa sống
lại là một tin vui cho người đang tin vào cuộc sống đời sau, và còn là lời cảnh
tỉnh cho người tưởng chết là hết, chết là giải quyết tất cả…
Nếu chúng ta tin như vậy, thì hơn ai hết,
chúng ta phải làm chứng cho niềm tin Phục Sinh nầy bằng cách dám chấp nhận gian
khổ, chấp nhận hy sinh, để cùng với mọi người xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho
mọi người được sống xứng đáng phẩm giá con người hơn. Nếu chúng ta tin rằng mọi
sự từ bỏ đều được Chúa đền bù, mọi hy sinh đều là tham dự vào hy sinh cao cả của
Chúa Kitô, thì tại sao chúng ta không dám từ bỏ, không dám hy sinh? Nếu chúng
ta tin rằng: Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi, khỏi con người
theo xác thịt ích kỷ hẹp hòi và cho chúng ta một Thần Khí mới, một tinh thần mới,
thì tại sao chúng ta cứ tiếp tục sống ích kỷ hẹp hòi? Tại sao chúng ta cứ khư
khư giữ lấy sự an toàn bản thân, không dám liều mạng, xả thân vì anh em, vì tha
nhân? Hạt giống chỉ có thể nẩy mầm khi nó có thể phá huỷ được cái vỏ bao bọc
nó. Con gà chỉ có thể ra đời khi phá vỡ vỏ trứng. Con tằm phải phá ổ kén mới
thành con bướm. Có cuộc chuyển hoá hay vượt qua nào mà không đau khổ, rướm máu?
Trong ngày mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta hãy
kiểm điểm xem: chúng ta đã thật sự sống niềm tin Phục Sinh chưa? Chúng ta đã
đánh giá đúng những thực tại trần thế chưa? Chúng ta đã nhìn gian khổ, hy sinh,
nỗ lực của con người bằng cặp mắt nào, cặp mắt của một người chỉ tin vào của cải
vật chất hay của một người tin vào một cuộc sống vượt trên cuộc sống trần gian
nầy và làm cho cuộc sống trần gian nầy có ý nghĩa cao cả thật sự của nó?
Trong Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, khi chúng
ta mừng Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chúng ta hãy cầu xin Ngài
cho chúng ta biết sống như Ngài: sống cho Chúa và sống cho mọi người anh em.
10.
Phục Sinh
Tâm thức trả thù ăn sâu vào trong con người tội
lỗi chúng ta đến nỗi chết rồi mà cũng không dung tha. Thật là một tâm thức nghịch
lại với thái độ sống của Chúa Kitô, Ngài đã giảng dạy sự tha thứ, đã chịu chết
và đã sống lại, đã tha thứ cho con người và dạy con người sống tha thứ cho
nhau.
Tin Mừng Chúa sống lại là Tin Mừng của sự tha
thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người và con người một khi chấp nhận Tin Mừng sống
lại cũng phải sống tinh thần tha thứ này. Chúa Kitô sống lại có ích gì cho
chúng ta, nếu chúng ta không sống lại, không để cho ơn Chúa biến đổi mình trở
nên con người mới giống hình ảnh của Ngài.
Nơi bài đọc 2 chúng ta nghe thánh Phaolô
khuyên các tín hữu Côlôsê như sau: “Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô thì anh
em hãy tìm những sự trên trời nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy
nghĩ đến những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Những sự trên
trời đó không phải là những viễn vông, mơ mộng, không thực tế theo tâm thức người
đời, không tin Thiên Chúa, nhưng là những điều rất đòi hỏi và rất thiết thực.
Đó là sự sống đời đời, và để đạt đến sự sống đời đời này người đồ đệ của Chúa
phải cố gắng hết sức mình để yêu thương phục vụ anh chị em.
Sống hướng về trời để có đủ tinh thần mà tha
thứ những xúc phạm của tha nhân và hy sinh những lợi lộc ích kỷ mà từ bỏ những
mưu toan hại người, để ra tay nâng đỡ phục vụ anh chị em, nêu cao khuyến khích
anh chị em khi anh chị em lỡ lầm đồng thời giúp họ đừng tiếp tục làm điều xấu nữa.
Sống hướng về trời, về những điều trên trời
là điều cần thiết như người đi ngoài biển khơi không có địa bàn phải nhìn lên
những ánh sao sáng trên trời để định hướng thuyền đời mình đạt đến bến bờ.
Chúng ta sẽ bị lạc vào trong những tranh chấp hận thù, bị rơi vào trong sự u buồn
liên lỉ, trong sự áy náy bứt rứt lương tâm, nếu chúng ta không hướng về Chúa và
lãnh nhận ơn Phục sinh của Ngài.
Các tông đồ đã sống trong lo âu hồi hộp khi
Chúa bị treo trên thập giá, khi họ chưa hiểu gì về mầu nhiệm sống lại của Chúa.
Biến cố mồ trống mà Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta là một lời mời gọi Maria,
Gioan, Phêrô, mời gọi những kẻ đã theo Chúa hãy vượt qua những giới hạn của tâm
thức trần tục của họ để nhìn thấy được sự Phục sinh của Chúa, để cho ơn Chúa biến
đổi cuộc đời mình, hầu giúp chúng ta trở thành những chứng nhân rao giảng sự
tha thứ của Thiên Chúa.
Có một du khách đến thăm xưởng chế tạo các địa
bàn, khi qua phòng trưng bày các mẫu kiểu địa bàn, du khách đã thắc mắc hỏi: Tại
sao có một số địa bàn có cây kim luôn chỉ về hướng bắc, còn một số địa bàn khác
thì không, kim chỉ lung tung. Hướng dẫn viên trả lời: Những địa bàn có kim chỉ
đúng phương hướng là những địa bàn đã thực sự trọn hảo, đã được chuyển sức hút
từ trường vào trong đó để cây kim chính luôn hướng về hướng bắc. Còn những địa
bàn có kim chỉ lung tung là những địa bàn chưa nên trọn, chưa có sức từ trường
và không thể hoạt động theo từ trường. Đây là những mẫu trưng cho du khách nhìn
chơi mà thôi, chứ không có ích lợi gì cả.
Hình ảnh chiếc địa bàn có thể được dùng để
nói về người đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trong một thời đại, như có hai loại địa
bàn cũng có thể có hai loại người Kitô. Chiếc địa bàn chưa trọn không có sức từ
trường tượng trưng cho người Kitô “hữu danh vô thực”, có tên gọi là người Kitô
hữu nhưng không có thực tế, không có sức sống của Chúa Kitô Phục sinh chuyển
vào, nên như chiếc địa bàn chỉ lung tung, làm lung tung, nói lung tung, dở dở
ương ương đang theo những chiều gió cám dỗ thổi đâu cũng được.
Còn mẫu người Kitô hữu thứ hai như những địa
bàn đã nên trọn, đã hoàn tất, có sức thu hút từ trường. Họ là những người Kitô
hữu đã lãnh nhận sức sống từ Chúa Phục sinh, luôn luôn sống kết hợp với Chúa,
luôn qui hướng về Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh như địa bàn chỉ về hướng bắc
mà do đó mới có thể trở nên trọn nơi chính thực thể của mình và nên hữu ích cho
anh chị em xung quanh.
Việc chuyển sức từ trường vào chiếc địa bàn
là một tác động tự động máy móc, việc chuyển sức sống của Chúa Kitô Phục sinh
vào con người chúng ta là một hành động đặc biệt không thể nào giống như một
trò ảo thuật chỉ hô một tiếng thì có liền ngay.
Chúa Kitô đã chọn các tông đồ và huấn kuyện
các ngài nhiều năm tháng với nhiều công sức, chuẩn bị cho các ngài trong giây
phút trọng đại cuối cùng để tin nhận Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi qua cái chết để
tiến đến sự Phục sinh, để thực hiện trọn vẹn ơn cứu chuộc con người. Nhưng thử
hỏi chúng ta đã nhìn thấy gì? Chúng ta đã nhìn thấy thái độ của các tông đồ như
thế nào trước biến cố chết và sống lại của Chúa hay không?
Một thái độ không tin, lưỡng lự hay có tin
thì cũng chưa vững vàng lắm. Hai người nữ đến mồ Chúa nhìn thấy dấu lạ, hòn đá
che cửa mồ đã bị đẩy qua một bên thì vội vàng kết luận là có người ăn cắp xác của
Thầy mình. Phêrô chạy đến nhìn thấy sự việc cũng không hiểu sao, chỉ có tông đồ
Gioan người được Chúa Giêsu yêu dấu thì thấy và tin, nhưng thái độ tin lúc này
cũng mới là khởi đầu. Lòng tin đó cần phải tiến sâu hơn nữa nhờ lời cầu nguyện,
suy niệm lại những lời Chúa nói, những việc Chúa làm và được Chúa Thánh Thần tiếp
sức thì mới đủ mạnh để làm chứng cho Chúa, để luôn luôn sống định hướng về Chúa
như chiếc địa bàn đã được chuyển sức từ trường.
Từ một Phêrô lưỡng lự chưa hiểu Kinh Thánh,
chưa hiểu chương trình hành động cứu rỗi của Thiên Chúa. Qua Chúa Kitô Phục
sinh đến, một Phêrô đã vững tin dám đứng trước dân chúng để rao giảng Chúa Kitô
Phục sinh là Đấng cứu rỗi duy nhất như được mô tả trong bài đọc 1 của thánh lễ
hôm nay. Chúng ta hiểu là phải có biến cố tiếp sức của Chúa, biến cố Chúa Thánh
Thần hiện xuống tràn đầy trên các tông đồ, trong mọi đồ đệ của Chúa Kitô. Không
thể nào chỉ dừng lại ở Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá để than khóc lo sợ,
nhưng không thể nào chỉ chú mình tôn thờ Chúa Kitô Phục sinh cho riêng mình như
Maria khi được Chúa hiện ra thì bà sụp lạy quì dưới chân Chúa. Chúa bảo bà hãy
ra đi, hãy mang Tin Mừng đến cho các tông đồ khác, cho những ai chưa tin. Chúa
muốn như chiếc địa bàn chỉ hướng về phía bắc. Người tín hữu Kitô chỉ hướng về một
Chúa Kitô Phục sinh để từ đó mà có sức làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.
Mừng lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta hãy đem
cuộc đời mình đến cho Chúa chuyển sức sống vào đó, cho chúng ta được Phục sinh
với Chúa, được sống sức sống của Chúa, trở thành người Kitô hữu sống động.
11.
Chúa đã sống lại! Alleluia – R. Veritas
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một cuốn phim mang tựa đề “Thế Giới Trong Tăm
Tối” diễn tả câu truyện về một nhà khảo cổ danh tiếng tổ chức một cuộc khai quật
khoa học ở Giêrusalem.
Ngọn đồi Golgotha được cẩn thận đào bới, kể cả
những phiến đá và các hang động của một nghĩa trang bên cạnh cũng được thăm dò
khám xét kỹ lưỡng. Vì theo Tin Mừng Thánh Gioan, xác của Chúa Giêsu được chôn cất
trong một phần mộ gần nơi Ngài bị án tử hình Thập giá. Sau bao công khó đào bới
khám xét, một ngày kia nhà khảo cổ tuyên bố: “Tôi đã tìm được xác ông Giêsu”. Rồi
ông tổ chức một cuộc họp báo rầm rộ, quy tụ hàng trăm ký giả và nhiếp ảnh viên
để trình bày kết quả mỹ mãn của bao ngày tháng đào bới khảo cứu vất vả. Ông đã
trưng dẫn trước mặt mọi người một xác người đã khô đét, nhưng còn có thể nhận
ra là tay chân của xác người này bị đâm thủng, cạnh sườn bị đâm thâu và cả những
dấu chứng tỏ thân xác ấy bị nhuốm máu qua những vết in trên tấm khăn liệm xác.
Cuốn phim quay lại cảnh mọi người im lặng
theo dõi bài thuyết trình của nhà khảo cố. Tình cờ có một phụ nữ phát biểu lớn
tiếng: “Đây là sự thật hiển nhiên. Ông ta bị đóng đinh, đã chết và đã được táng
xác” và nhà khảo cổ tiếp lời: “Vâng, đúng thế, bị đóng đinh, chết và được an
táng. Nhưng làm gì có chuyện Phục Sinh, bởi vì xác ông ta vẫn còn nằm đây”.
Tiếp đến, cuốn phim diễn tả hậu quả của cuộc
tìm được xác ông Giêsu:
-
Không
ai còn mừng lễ Phục Sinh nữa.
-
Một
linh mục tắt đèn Nhà Chầu, cất Mình Thánh Chúa và đóng cửa nhà thờ.
-
Chuông
các thánh đường im tiếng.
-
Các
nữ tu cởi khăn trùm đầu.
-
Thánh
giá tại nhiều nơi bị hạ xuống.
-
Đèn
bên những ngôi mộ bị dập tắt.
-
Thế
giới chìm đắm trong màn đêm u tối dày đặc.
Cuốn phim kết thúc với cảnh chính nhà khảo cổ
đang hấp hối. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông ta đã thú nhận: “Tôi đã
đánh lừa thế giới. Chính tôi đã làm giả xác của ông Giêsu và bí mật đặt vào
trong mộ mấy năm trước khi khởi sự cuộc đào bới tìm kiếm này”.
Sau lời tuyên bố đó là cảnh hàng ngàn người
tuôn đến ngôi mộ thánh ở Giêrusalem như chúng ta chứng kiến hàng năm trong Tuần
Thánh. Những ngọn nến được thắp lên và các tín hữu mang những ngọn nến được thắp
sáng, ngọn nến của niềm hy vọng đi khắp nơi soi sáng con đường tăm tối. Chuông
các nhà thờ ngân vang như báo tin Chúa Giêsu đã Phục Sinh: Tình yêu mạnh hơn tội
lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Anh chị em thân mến,
Câu truyện phim giả tưởng trên đây mang sứ điệp
của lễ Phục Sinh mà những người Kitô hữu chúng ta tưởng niệm và mừng kính hôm
nay. Đó là cuộc Phục Sinh của Chúa Giêsu không chỉ liên hệ đến cuộc đời của
Ngài mà còn trực tiếp liên quan đến vận mạng của toàn thể nhân loại cũng như ảnh
hưởng mật thiết đến cuộc sống, niềm tin và hy vọng của tôi cũng như của anh chị
em. Vì, nếu Chúa Kitô không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội lỗi trong
mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến gặp Thiên
Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là kẻ vô phúc nhất, ngu đần
nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô không sống
lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục, những đau khổ của con người không
có lối thoát và cái chết của con người là ngõ cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho
chúng ta niềm hy vọng. Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên
kia bờ tuyệt vọng, làm cho những quằn quại của kẻ sắp bị cái chết tiêu diệt,
nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau làm phát sinh sự sống mới.
Chúa Giêsu sống lại, Thập giá không còn là dấu hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu
của vinh quang.
Mừng Chúa sống lại, người Kitô hữu cũng mừng
sự sống lại của chính mình bằng cách đổi mới cách sống của mình, như Thánh
Phaolô đã kêu gọi: “Nếu anh em sống lại với Đức Kitô, anh em hãy nghĩ đến những
sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất”. Đây không phải là lời khuyên
xa lánh các thực tại trần thế. Trái lại, đây là lời mời gọi mỗi người Kitô hữu
hãy tìm và thể hiện những giá trị mới của cuộc sống mà Chúa Giêsu đã mạc khải
qua các giáo huấn, qua cuộc sống cũng như cái chết của Ngài.
Một em bé nọ thường nghe mẹ em buột miệng thốt
lên: “Chúa đã sống lại, ta hãy vui lên!”. Mỗi khi gặp điều gì khó khăn trong cuộc
sống, bà tự nhủ: “Chúa đã sống lại, hãy vui lên!”. Bà thường tự nhủ trong lòng,
nhưng khi bà thốt lên thành tiếng, con trai bà cũng nghe được. Em bé bắt chước
mẹ, em thốt lên câu đó mỗi khi em gặp điều bất bình, khi bạn bè chơi xỏ, khi gặp
điều không được như ý… Và thú thật, khi thốt lên câu: “Chúa đã sống lại, ta hãy
vui lên!” thì em bình thản trở lại. Hành động của bà mẹ và em bé kia nói lên cố
gắng sống niềm vui Phục Sinh một cách cụ thể, chuyển tải một chân lý nền tảng
nhất của đạo Kitô vào trong cuộc sống hằng ngày, qua đó, biểu lộ niềm tin và hy
vọng. Tình yêu mạnh hơn tội lỗi. Sự sống mạnh hơn cái chết.
Thưa anh chị em.
Người Kitô hữu mừng Chúa sống lại cũng được mời
gọi làm chứng cho niềm tin về sự sống mới này. Chúa Kitô đã chết và đã sống lại
vì chúng ta, chính là để chúng ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư
khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự an toàn ích kỷ cho mình, nhưng là sống cho
Chúa và như Chúa, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho mọi người. Ước chi Thánh lễ Phục
Sinh hôm nay cũng như Thánh lễ mỗi ngày Chúa Nhật giúp chúng ta thực thi cụ thể
trong cuộc sống lời chúng ta tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết.
Chúng con tuyên xưng Chúa đã sống lại. Chúng con đợi chờ ngày Chúa quang lâm”.
12.
Xác nhận lòng tin - McCarthy
Suy Niệm 1. BƯỚC NHẢY VỌT CỦA LÒNG TIN
Đôi khi, chúng ta ghen tị
với các Tông đồ và các môn đệ đầu tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất
cả các Kitô hữu sau này, bởi vì họ thực sự nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của
họ đã được đụng chạm vào Người. Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và
chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng đối với chúng ta, nếu giống như các Tông đồ,
chỉ cần cá nhân chúng ta có thể được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc giống như các môn đệ
đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng
ta.
Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận
mắt nhìn thấy Đức Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng nào
hơn cho lòng tin của họ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ không
thể nhìn thấy và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập
tức có thể nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ nhìn
thấy một con người có bên ngoài hình giống như họ.nhưng khởi đi từ đó, để tin
tưởng được rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ đại của
lòng tin.
Điều này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều
người đã từng được nghe Đức Giêsu nói và được nhìn thấy Người hành động, mà vẫn
không hề có lòng tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các Tông đồ, đã từng được
ở với Người ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất thiết
là tin tưởng.
Cú
sốc do cuộc thương khó và cái chết trên thánh giá của Người gây ra, quả thật là
quá lớn lao, đến nỗi làm cho các Tông đồ chậm tin tưởng vào nguồn tin tức về Sự
Sống Lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày Phục Sinh. Người đã
khiển trách họ vì sự không tin tưởng và sự cứng lòng của họ, bởi vì họ đã không
chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người, sau khi Người sống lại (Mc
16,14).
Tất cả những điều này để lại cho cái gì cho
chúng ta? Chúng ta không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các Tông đồ
đã nhìn thấy Người. Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra
các sự kiện của Tuần Thánh, khi Đức Giêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ
tay vào những vết thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn
mặt của Người và nói “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”. Chúng ta phải sống bằng
lòng tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức
Giêsu, thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng cách
nào để những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phải làm
gì, để có được lòng tin?
Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là
những môn đệ gián tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó,
nhưng lại dễ dàng hơn theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ
đã trôi qua, kể từ khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ
lên, ánh sáng đã bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng Con
Thiên Chúa bước đi trên trái đất đã trở nên “tự nhiên” theo thời gian, và vì thế,
theo cách thức nào đó, đã lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời,
thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau –tất cả đều phải làm một cú nhảy
của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.
Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và
nghe tiếng Người nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục Sinh, nhưng cuộc sống
của họ đã được hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống
của chúng ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi trong niềm
hy vọng, bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chiến thắng sự dữ, và sự sống sẽ
chiến thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.
Suy Niệm 2. VIẾNG MỘ
Vào buổi sáng Phục Sinh, các phụ nữ đi ra
ngôi mộ, nơi chôn cất Đức Giêsu. Họ phải thực hiện một công việc u buồn –hoàn tật
việc ướp xác Đức Giêsu. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất để họ đi ra mộ. Họ
muốn được gần gũi với Đấng đã đem lại thoả mãn cho cuộc sống của họ, và cái chết
của Người đã nhận chìm họ vào một nỗi u buồn không thể nào khuây khoả được.
Bản thân chúng ta cũng thường làm điều tương
tự như vậy. Khi một người thân yêu nào đó của chúng ta qua đời, chúng ta nhận
thấy thật khó chấp nhận được là người đó đã vĩnh viễn rời xa khỏi chúng ta.
Chúng ta cảm thấy có nhu cầu duy trì mối quan hệ với người chết. Một trong những
cách thức để chúng ta đáp ứng được nhu cầu này, đó là đi viếng mộ. Tuy nhiên,
thay vì làm dịu đi nỗi đau của sự mất mát, thì điều này lại có thể làm cho nỗi
đau đó càng gia tăng thêm. Điều này thậm chí có khuynh hướng làm cho kẻ chết lại
càng đúng là kẻ chết hơn, bởi vì không có nơi nào làm cho chúng ta tin chắc chắn
rằng người thân yêu của chúng ta đã bị chết, cho bằng ở ngay tại mộ.
Trong buổi sáng ngày Phục Sinh đầu tiên đó, nếu
mọi việc cứ diễn tiến như lòng mong muốn, thì các phụ nữ sẽ ướp xác Đức Giêsu,
đóng cửa mộ lại, và hơn bao giờ hết, họ càng thêm tin tưởng rằng sự kiện xảy ra
trong ngày Thứ Sáu không phải là một cơn ác mộng, mà là một thực tại khủng khiếp.
Nhưng mọi việc lại không diễn ra như dự định.
Tại mộ, họ đã gặp hai thiên thần, hai vị đó
đã nói với họ “Tại sao các bà lại đi tìm người sống giữa kẻ chết? Người không
còn ở đây nữa, nhưng Người đã sống lại rồi”. Sứ điệp Phục Sinh lần đầu tiên được
gửi đến cho những nữ môn đệ có lòng tin này: Đức Giêsu không chết, Người đang sống.
Như vậy, họ không được phí phạm thì giờ trong việc tìm kiếm Người tại chốn mồ mả.
Tất cả chúng ta thường cảm thấy đau buồn khi ở
trong nghĩa trang, vì tại đó, tất cả mọi sự đều nói lên cái chết. Tuy nhiên,
chính tại một nơi như vậy, mà lần đầu tiên sự sống lại đã được loan báo. Thật
là phù hợp khi tại nơi đây, một nơi dường như cái chết thống trị, mà tin vui về
sự sống lại của Đức Giêsu lần đầu tiên đã được công bố.
Thông qua tiếng nói của Phụng vụ, cũng sứ điệp
đó đem đến cho chúng ta: Đừng tìm kiếm người thân yêu của bạn tại mộ. Người chết
không còn ở đó nữa. Đức Giêsu đã chế ngự cái chết, không phải chỉ cho bản thân
Người, nhưng cho tất cả chúng ta. Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết,
chúng ta sẽ được đi theo Người. Vậy đối với người Kitô hữu, theo ý nghĩa cuối
cùng của sự huỷ diệt, không có điều gì giống như cái chết. Những người thân yêu
đã qua đời của chúng ta không phải là người chết nữa, họ vẫn còn sống, thậm chí
họ còn được sống một cuộc sống thực sự và đẹp đẽ hơn cả chúng ta. Họ không ở
cách xa chúng ta. Những người nào được chết trong ơn nghĩa Chúa, họ không ở
cách xa chúng ta hơn so với Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì rất gần gũi với chúng
ta.
Chúng
ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời của chúng ta,
trong trường hợp họ vẫn còn cần đến sự giúp đỡ của chúng ta. Và chúng ta hãy tiếp
tục đi viếng nghĩa trang, nếu điều này giúp cho ký ức về họ được sống động.
Nhưng chúng ta đừng tìm kiếm họ tại đó. Và nếu nỗi buồn vẫn cứ đeo đẳng trong
tâm hồn chúng ta, thì nhờ sự kiện đã xảy ra vào buổi sáng ngày Phục Sinh, nỗi
buồn của chúng ta sẽ được hoà lẫn với một niềm hy vọng âm thầm.
NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC
1. Viktor Frankl đã trải
qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn sống sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều
đã chết. Anh kể lại rằng vào một ngày kia, liên sau khi được phóng thích khỏi
trại giam, anh đã đi bộ xuyên suốt vùng đồng quê, hướng về khu phố chợ, cách trại
giam vài dặm đường.
Cánh đồng cỏ trổ đầy hoa. Những con chim chiền
chiện hót vang trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm khắp chung quanh đó,
anh không nhìn thấy một người nào, không có gì cả, ngoại trừ mặt đất và bầu trời
bao la, tiếng hót của những con chim chiền chiện, và sự thoáng đãng của không
gian. Anh dừng chân lại, nhìn ra chung quanh mình, rồi ngước mắt nhìn lên bầu
trời trong xanh. Thế rồi anh quỳ gối xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã được phóng
thích. Trong khi cầu nguyện, một câu nói chợt nảy đến trong anh, diễn tả được cảm
giác mà anh đang có: “Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ nơi nhà tù chật hẹp của tôi,
và Người đã đáp lại trong sự tự do của không gian”.
Anh không thể nói được là mình đã quỳ gối tại
đó trong bao lâu, miệng cứ lập đi lập lại câu nói này. Nhưng sau này, anh kể
“Trong ngày hôm đó và ngay tại thời điểm đó, cuộc sống mới của tôi bắt đầu. Tôi
tiến triển từng bước một, cho đến khi một lần nữa, tôi được trở thành một con
người”.
Chúng ta không thể tách biệt niềm vui mà
Frankl đã cảm nhận được ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy hoa, với nỗi
đau khổ mà anh đã trải qua trong trại giam. Trên thực tế, niềm vui này sẽ không
có ý nghĩa, nếu trước đó, không xảy ra nỗi đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta
không thể tách biệt sự sống lại của Đức Giêsu với cuộc thương khó và cái chết của
Người. Không thể tách biệt vinh quang của Người với nỗi đau đớn của Người. Mặc
dù một cách chậm chạp, nhưng các Kitô hữu tiên khởi đã thấu hiểu rằng cuộc
thương khó và cái chết của Đức Giêsu chính là cách thế để
Người đi vào trong vinh quang của Người. Chúng ta không thể có được ngày Chúa
Nhật Phục Sinh, mà không có ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang trải qua
ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì chúng ta nên nhớ đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
2. Sáng ngày Chúa Nhật
Phục Sinh, khi các nữ môn đệ lên đường đi ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ rất thắc
mắc rằng: Ai đã lăn tảng đá lớn đặt ở lối đi vào mộ?
Có một người đàn ông đã cãi nhau với cha của
mình, hậu quả là suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện với ông cụ, mặc
dù hai cha con chỉ sống cách xa nhau vài dặm đường. Anh ta là người con trai
duy nhất; mẹ của anh đã rời bỏ gia đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô đơn một
mình. Thế giới của ông càng ngày càng nhỏ bé và tối tăm hơn, với từng ngày trôi
qua. Ông cụ chưa chết đi, nhưng về mặt ý nghĩa, thì ông cụ đã như ở trong mồ rồi.
Chúng ta kinh ngạc về năng quyền mà Đức Giêsu
có, để cho kẻ chết sống lại, quả thật đúng là như thế. Chẳng hạn, người con
trai trong câu chuyện trên có thể lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ của người cha. Bằng
một lời nói hoặc một cử chỉ, anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi ngôi mộ của nỗi
cô đơn và tuyệt vọng của ông. Và bằng cách giúp đỡ người cha, anh ta cũng sẽ
giúp đỡ được chính bản thân mình. Đây là một trong những cách đền bù đáng quý của
cuộc sống, mà chúng ta không thể làm phấn chấn tinh thần cho người khác, nếu
chúng ta không biết cũng tự gây phấn khởi cho chính bản thân mình.
13.
Chú giải của Noel Quesson
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử
này. Đó là biến cố Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt
qua của người Do Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng,
"ngày thứ nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một
cuộc tạo dựng mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển
nhiên chống lại sự hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa
có thể tạo dựng một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ
nhận biến cố Phục sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh
Thánh, đều nghĩ rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên" công
cuộc sáng tạo đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu
từ thuở đời đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết,
cũng không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất"
(Kh 21,4).
Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử
trên. Đó là các phụ nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra “biến cố".
Là người ở trong cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria
Mácđala. Ông gán cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga
20,11-18).
Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông
Simôn Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến
Chi ta "chạy". Chi tiết này rất có
ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới
chỉ đứng trước sự kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được
việc đó. Chị cảm thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm.
Ở đoạn văn trên, ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho "môn đệ"
không nêu rõ danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Truyền
thống vẫn thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ
đó. Ngoài ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan
vẫn thường được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất
quan trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng
tôi chẳng biết họ để Người ở đâu
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người
ta đã đem Chúa đi khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì
quá mong ước Người sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả
các bản văn đều nói ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp
ta cảm thấy rằng, sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả
năng khiến ta tin. Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi
ta phải thắc mắc. Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ” được nhắc tới
bảy lần! Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng
chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải
thích chi tiết hơn, chỉ nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác
Gioan nhận ra một biểu tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để
cho các môn đệ hăng say hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất
Gioan đã đi trước Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại
nhấn mạnh đến điểm bất thường này?
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng
không vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy
những băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với
các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan
đã mục kích và viết lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra,
và khăn quấn đầu Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại
riêng biệt, đặt đúng chỗ của nó”.
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã
tham dự vào. Chỉ thấy thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại
chỗ. Gioan cũng ghi nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung
quanh đầu để giữ quai hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn
còn ở đó, được cuốn lại đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng,
không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh
Phêrô đến thăm mộ, Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất
đỗi ngạc nhiên, không hiểu gì hết” (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại:
“Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết. Còn Gioan sáng
suốt hơn, "ông đã thấy và đã tin".Vây ông đã thấy những gì? Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô,
nhưng Phêrô không biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần
những con mắt của tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói
đến "người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã
chạy nhanh hơn! Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ
hồ Galilê, chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức
Giêsu trước Phêrô (Ga 21,7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn
tác động tới đức tin. Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã
có đặc ân này. Thay vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất
cả chúng ta được mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình
yêu”. Đó là điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp
gọn gàng là một dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy
"băng vải tuột ra” và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ
một thứ trực giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng
tay chân mà di động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu
cách thể lý bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều
gì với Phêrô. Dấu chỉ không có khả năng "trao ban đức tin" cho một
ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua “cái thấy được”, để
đi tới "điều tin nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố: "Phúc thay
những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như thế, Gioan đã tỏ ra là một
môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm
sâu của con người. Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu
chúng ta. Chúng ta chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những
dấu chỉ trên đây chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một
cử chỉ, một lời nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần
phải được giải thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: "Sự việc
đó muốn nói với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?" Đó
là điều rất cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng
đòi buộc những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất
cả chúng ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu
biết, đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người
ta giải thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao
đổi mới được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện “mộ trống" và "những
khăn liệm được sắp xếp gọn gàng”, chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.Ta
cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh
Thánh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau:
"Các ông không hiểu Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ
trống" chỉ là một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong
những lần hiện ra, bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông
ý nghĩa của dấu chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại
những đoạn Kinh Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7;
Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến
cố của đời sống. Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm
sáng tỏ chúng, nhờ việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn
tin, cần phải yêu mến.
14.
Chú giải của Fiches Dominicales
NGÔI MỘ MỞ TUNG VÀ TRỐNG
RỖNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Người đang sống
Thật nghịch lý, Tin Mừng ngày lễ Phục sinh chỉ
dừng lại ở chỗ khám phá ra ngôi mộ mở tung và trống rỗng mà không dẫn ta đi đến
cùng câu chuyện, cho đến khi gặp Maria Madalêna cùng với Đấng Phục sinh và lời
loan báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Đức Chúa, và đây là lời Người nói với
tôi (câu 28). Dường như phụng vụ hôm nay muốn mời ta đi lại hành trình đức tin
theo gót những chứng nhân đầu tiên.
Trong đoạn Tin Mừng ta đọc sáng nay, tác giả
rõ ràng đã sắp xếp một quá trình "tiệm tiến gây ấn tượng".
-
Trước tiên đó là những "di chuyển" rất nhiều và rất nhanh: động từ
"chạy” được lặp lại ba lần chỉ trong một câu. Sau khi khám phá ra ngôi mộ
mở tung, Maria Madalêna chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ
kia. Simon Phêrô và môn đệ kia chạy đến mồ, môn đệ kia tới trước. Các cuộc chạy
nối tiếp nhau để tìm ra một câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi không thể hiểu nổi
về ngôi mộ mở tung và trống rỗng.
-
Kế đó là những “dấu chỉ" ngày càng rõ nét (với những động từ
"nhìn", "thấy"), và "lời giải thích" về các dấu
chỉ do chính các tác nhân đưa ra.
-
Maria Madalêna "thấy" phiến đá lập cửa mồ "được cất đi”, và kết
luận rằng thi thể của Thầy mình cũng đã "bị lật đi". Môn đệ kia tới
trước. Tuy nhiên ông không vào mộ trước Phêrô, "cúi xuống, ông thấy tấm
khăn liệm còn đó".
-
Còn Simon Phêrô, sau khi đã vào trong mộ. "Ông nhìn tấm khăn liệm nằm đó,
tấm vải phủ đầu không ở cùng chỗ với khăn liệm, nhưng cuộn lại và để riêng
ra". Khác với Tin Mừng của Luca (24, 12) gợi lên ở đây sự "kinh ngạc"
của Phêrô, thánh Gioan không đi xa hơn những gì nhận thấy. Mãi sau này, khi đã
gặp gỡ Đấng Phục sinh và đã nhận tràn đầy Thánh Thần, Phêrô mới hiểu tại sao
ngôi mộ lại trống và tâm hồn ông mới mở ra để hiểu lời Thánh Kinh. Tin Mừng thứ
tư nói rõ: "Thật vậy cho đến lúc ấy các môn đệ vẫn chưa tin rằng theo
Thánh Kinh Đức Giêsu phải phục sinh từ trong kẻ chết".
-
Riêng người môn đệ kia, sau đó cũng vào mộ, ông nói rằng ngay lần cảm nghiệm phục
sinh đầu tiên đó "ông đã thấy và ông đã tin".
2. Và ông đã tin
Dưới mắt Giáo Hội, Phêrô vào trước và đương
nhiên trở thành chứng nhân thứ nhất. Trái lại, "Môn đệ kia" được
trình bày ở đây như mẫu mực của người môn đệ, người môn đệ tuyệt hảo; "Người
môn đệ được Đức Giêsu yêu mến"; Người trong bữa Tiệc ly đã "tựa đầu
vào lòng Đức Giêsu", với trực giác của tâm hồn, đã nhìn thấy trong cõi rỗng
không của ngôi mộ, vị trí của tấm vải liệm -xếp đặt gọn gàng chứ không bừa bãi-
biết bao dấu chỉ về một thực tại khác, chỉ có đức tin mới cảm nhận được:
"Ông đã thấy và ông đã tin". Theo ông, chẳng có ai "lấy đi"
thi thể của Đức Giêsu như Maria Madalêna đã loan báo: Kẻ cắp nếu đã lấy trộm
xác Thầy làm sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn thận xếp đặt gọn gàng đến
thế? Theo ông, sự chết đã hoàn toàn bị sự sống tước đoạt hết sức mạnh. Trong
ông đã hình thành một ‘chuyển biến từ thấy đến hoàn toàn tin’ vào Đức Giêsu phục
sinh. Khăn liệm được xếp đặt ngay ngắn đã chứng tỏ rằng thi thể Đức Giêsu không
hề bị lấy cắp, nhưng chính Đức Giêsu đã đi ra, để lại khăn liệm gọn gàng thứ tự
tại nơi Người đã được liệm. Khác với Lazarô đi ra vẫn quấn khăn liệm, Đức Giêsu
chẳng cần y phục vì Người giã từ thế giới loài người" (A. Marchadour, “Tin
Mừng thánh Gioan". Ccnturion, trg 244).
Là một trong những chứng nhân đầu tiên đã
"thấy Đức Giêsu Phục sinh, người môn đệ kia đồng thời là mẫu mực cho những
ai tin theo lời chứng của ông: "tin dù không thấy" (Ga 20, 29, Tin Mừng
Chúa nhật tới).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Khi sinh ra trong đức tin. Phêrô và Gioan mời ta theo
các ngài:
(‘Cử hành’ -tạp chí của Trung tâm Quốc gia về
Mục vụ và phụng vụ, số 237, trg 41-42).
Các động từ chỉ sự di chuyển tràn ngập trình
thuật: ra đi, chạy, vào những động từ ấy nói lên các giai đoạn trong hành trình
của các môn đệ đồng thời kéo theo hành trình của độc giả. Hành trình này không
kết thúc ở đoạn cuối của một giai thoại. Các cuộc hiện ra với Maria Mađalêna, với
các môn đệ, với Tôma, vẫn còn biết bao chặng đường thiết yếu để đi đến cùng:
"Tin dù không thấy" và “tin nhờ vào quyển sách của các chứng nhân”
(Ga 20, 29-31).
Trong chặng đầu tiên, ta đuổi theo một câu trả
lời đầu tiên. Bí hiểm ngay ở khởi điểm: "Chúng tôi không biết họ đã đặt Đức
Chúa ở đâu". Cần một cuộc điều tra. Một hoạt động từ thứ hai điểm nhịp
theo tiến trình: nhìn, thấy. Ta đi từ ghi nhận này đến ghi nhận khác. Ghi nhận
đầu tiên là của Maria Mađalêna: tảng đá được cất đi, thi thể bị lấy đi. Ghi nhận
thứ hai là của các môn đệ: vải liệm xếp gọn gàng. Ghi nhận thứ ba nhưng liệu có
trùng với hai ghi nhận trên không? Người môn đệ Đức Giêsu yêu quý "đã thấy
và đã tin".
Ánh sáng đức tin phát xuất từ Kinh Thánh và Lời
Đức Giêsu. nhưng ngôi mộ mở tung, đầy những dấu chỉ của một thi thể người chết
nhưng biến mất, bước đầu cho phép ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa đang sống ở nơi
khác. Hai con người đang sinh ra trong đức tin, mỗi người cất bước theo con đường
riêng, dắt dìu nhau. Họ mời ta hãy bước theo họ.
2. Tại ngôi mộ để ngỏ
(G.
Boucher trong "Thiên đường tại thế")
Buổi sáng hôm ấy một phụ nữ, Maria Madalena đến
viếng mộ Đức Giêsu. Nhưng, sững sờ: cửa mộ để ngỏ, mở tung ra. Ai đã lăn tảng
đá lấp cửa mộ ra rồi. Thoạt nhìn ngôi mộ mở tung gợi lên một trò lừa đảo, gian
lận, một trò bỡn cợn đê tiện hoặc một sự tục hoá không chấp
nhận được.
Phải, phản ứng thế nào trước một xì căng đan
như thế trước hết Maria Madalêna tham vấn các môn đệ. Bà chạy đến với Phêrô. Tức
tốc Phêrô và Gioan thoát ra khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Ông rời bỏ
nơi ẩn náu. ông chạy đến xem và ghi nhận tại chỗ. Thật là một sự báng bổ, ghi
nhận đầu tiên là thế.
Phêrô và Gioan cùng chạy. Họ chạy đến ngôi mộ
mở ngỏ. Họ phải đối diện với một biến cố quan trọng. Và Gioan đã thấy. Ông đã
thấy và đã tin.
Gioan thấy. Mà thấy gì? Chẳng thấy gì cả! Có
gì đâu mà thấy. Vậy mà điều ông thấy đã khiến ông tin. Ta hãy cùng Gioan cúi xuống. Ta thấy gì? Một lỗ hổng đen ngòm, đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông
chứa đầy sự sống. Những vật trang hoàng cho lễ tang đã biến thành y phục sáng
láng. Một sự vắng mặt la lên sự có mặt. Một sự im lặng chết chóc hùng hồn hơn tất
cả những bài diễn văn. Một bức tường chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết
thúc tất cả mang vóc dáng sự khởi đầu. Một cái chết nối kết với một sinh thành.
Một mầu nhiệm mà ta khám phá ra bí quyết.
Ai đã sáng chế ra từ ngữ ngôi mộ trống rỗng?
Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Bằng chứng là Gioan thấy được trong mộ chân dung
đích thực của Đức Giêsu, bạn ông.
Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Đâu có hoang vu.
Đâu có câm nín. Đâu có bay mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó vẫn
còn nói với ta. Ta sẽ bỡ ngỡ. Vì sự vắng mặt ấy tuy to lớn như một nấm mồ, lại
là một sự hiện diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới ánh mắt của não trạng hiện đại đã ăn sâu
vào mỗi người, chết là chấm dứt tất cả. Là dấu chấm hết. Sau đó chẳng còn gì.
Chẳng còn gì ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài sự trống rỗng và hư vô. Cái chết
khép lại tất cả. Cái chết giam kín ta.
Nhưng này đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người
mở tung. Mở ra một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Có tên là
chỗi dậy. Phục sinh.
Ngôi mộ mở tung lòng trí và tâm can ta. Ký ức
ta lấy được sự sống và hồi sinh. Ta mở lòng ra cho đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng
khi vượt qua bức tường sự chết, khi nâng tảng đá cửa mộ lên, Đức Giêsu hoàn
thành cuộc phục sinh đã báo trước.
15.
Phục Sinh
Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà
tất cả những người tin Chúa Kitô trên khắp thế giới, đều hân hoan mừng kính cuộc
chiến thắng khải hoàn của Đấng Cứu Thế trên tội lỗi và sự chết. Chúa Giêsu đã bị
giết chết trên thập giá, được an táng trong mộ đá, nhưng ngày thứ ba sau khi chết,
Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc
nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử.
Chúa đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra
điều này? Cả bốn sách Tin Mừng đều tường thuật về biến cố này nhưng đều không
cho biết Chúa Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự không có ai có mặt để chứng
kiến biến cố lịch sử quan trọng đó. Nhưng có những nhân chứng đã nhìn thấy ngôi
mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ và sau đó Chúa đã hiện ra
nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều.
Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Chúa
Giêsu.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa
Giêsu Phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một
biến cố, một sự kiện tự nhiên, nghĩa là không thể chụp hình, đo lường hay thí
nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà
thí nghiệm, kinh nghiệm. Cho nên, việc Chúa sống lại, đối với chúng ta hôm nay,
vấn đề chính yếu là tin: không thấy mà tin.
Anh chị em có bao giờ thấy, chụp hình hay đo
lường được tình yêu không? Chỉ thấy qua hậu quả thôi phải không? Thấy họ hay đi
với nhau, thấy họ thường ngồi nói chuyện với nhau, thấy họ có những cử chỉ thân
mật với nhau… chúng ta biết họ yêu thương nhau. Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục
sinh cũng thế, chúng ta không thấy Chúa sống lại, nhưng chúng ta tin, vì Kinh
Thánh đã nói về việc Ngài Phục sinh, lòng tin của Giáo Hội hai mươi thế kỷ qua:
Chúng ta tôn thờ Đấng bị đóng đinh trên thập giá, chúng ta tôn thờ Đấng đang ngự
trong nhà chầu… là chúng ta tin Chúa Giêsu đang sống, chứ không phải tôn thờ
Ngài đã chết, không còn liên hệ gì đến chúng ta. Không, chúng ta tin Chúa đang
sống, Ngài đang điều hành vũ trụ này, Ngài có mặt khắp nơi, Ngài đồng hành với
chúng ta trên mọi nẻo đường, ngõ ngách… đâu đâu cũng có Ngài, Ngài là Thiên
Chúa toàn năng và hằng hữu. Vì thế, biến cố Phục sinh là nòng cốt của niềm tin
Công giáo. Niềm tin này kéo theo nhiều niềm tin khác: tin Chúa Giêsu Phục sinh
không chỉ là một nhân vật lịch sử được ghi chép lại, nhưng là một lòng tin vẫn
sống động trong lịch sử hôm nay. Chúng ta không chỉ biết về Ngài mà thôi, nhưng
chúng ta thực sự gặp gỡ chính Ngài, như Ngài đang sống động hiện diện giữa
chúng ta.
Nói rõ hơn, vì Chúa đã sống lại thật, nên
chúng ta không chỉ nghe biết về Chúa như nghe biết một nhân vật nào đó, chẳng hạn
như ông tổng thống Mỹ, ông chủ tịch nhà nước Trung Quốc, ông vua này, bà hoàng
nọ. Nhưng có một khác biệt sâu xa giữa việc nghe biết về một con người bình thường
hay về những nhân vật lịch sử, vì họ đã chết và đã biến khỏi mặt đất. Với Chúa
Giêsu thì khác hẳn, Ngài đã sống lại và đang sống. Chúng ta biết Ngài và gặp gỡ
Ngài một cách thực sự.
Tiếp đến, chúng ta tin Chúa sống lại là chúng
ta tin chúng ta được cứu chuộc. Bởi vì Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại.
Nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác, thì Ngài không có quyền gì cứu
chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa và Ngài
có quyền cứu chuộc tất cả chúng ta.
Đàng khác, Chúa sống lại còn là niềm hy vọng
cho chúng ta: tất cả chúng ta cũng sẽ sống lại. Thân xác chúng ta sẽ sống lại,
đúng như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: “Tôi tin xác loài người ngày
sau sống lại”. Bởi vì thân xác sống lại là hiệu quả của mầu nhiệm Phục sinh của
Chúa Giêsu, như Kinh Thánh đã nói: “Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại cũng sẽ
làm cho chúng ta sống lại với Chúa Giêsu”. Như vậy, Chúa Giêsu đã chiến thắng sự
chết và cho hết thảy chúng ta được chung hưởng chiến thắng đó.
Tóm lại, ngày đại lễ Phục sinh hôm nay, chúng
ta xác tín: Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Ngài đang sống thật sự và đang ở với những ai tin Ngài, trong đó có chúng ta.
Chúng ta hãy cảm tạ Chúa và cố gắng sống như những người đã được cứu chuộc: sống
công bình và yêu thương, sống vui vẻ và phấn khởi, để cuộc đời chúng ta luôn là
một lời ca “Allêluia” chứng nhân cho Chúa.
16.
Kinh ngạc
Biến cố Phục sinh đã xảy ra với nhiều kinh ngạc.
Kinh ngạc về sự chết! Kinh ngạc về các tông đồ! Kinh ngạc vì Ngài đã sống lại!
Kinh ngạc vì Ngài đã hiện ra với những người phụ nữ trước hết và sai họ đi loan
báo Tin Mừng!
“Vào
thời Chúa Giêsu, phụ nữ là giới bị thua thiệt. Họ không được bình đẳng với đàn
ông. Phần lớn họ không có cơ hội học hành, không được đối xử đồng đều về mặt
pháp lý, và không được tham gia một số công tác dành cho nam giới. Tình trạng
này được cải thiện từ từ nhờ thái độ và lời giáo huấn của Chúa Giêsu”.
Trong bản tường thuật của Matthêu về sự sống
lại của Chúa Giêsu, chúng ta nghe kể bà Maria Mácđala và một bà Maria khác đến
mộ với sự buồn bã, vì nghĩ rằng xác Ngài vẫn còn nằm trong mộ. Tuy nhiên, các
bà đã cảm nghiệm một sự kinh ngạc vĩ đại nhất trong cuộc đời. Chúa Giêsu Kitô
không còn chết nữa, Ngài đã sống lại!
Từ kinh ngạc chuyển sang vui mừng. Matthêu kể
rằng: “Hai bà vội vã ra khỏi mồ vừa sợ hãi vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin
cho các môn đệ Người”. Sự buồn rầu và tuyệt vọng của họ đã bị đánh tan bởi sự
kinh ngạc và vui mừng khi nghe tin Chúa đã sống lại.
Chúng ta cũng đã có những cảm nghiệm giống
như các bà khởi từ sự buồn bã, tăm tối và thất vọng chuyển sang kinh ngạc và
vui mừng. Điều này có thể xảy ra trong nhiều hình thức khác nhau đối với mỗi
người trong cuộc đời. Đó có thể là một tình huống tuyệt vọng đã trở nên sáng sủa
hơn. Điều chúng ta nghĩ rằng xấu nhất, nhưng với sự giúp đỡ của Thiên Chúa, đã
trở nên tốt hơn như khi một người ốm đau được ơn chữa lành, một người vô thần
đón nhận ánh sáng đức tin, những kẻ thù địch hòa giải với nhau, những kẻ bị
giam cầm được thả tự do…
Cha Manton đã kể lại cảm nghiệm ấy qua câu
chuyện như sau. Vào ngày Thứ Tư Tuần Thánh trong năm cuối cùng của cuộc thế chiến
thứ hai, tôi đã trông thấy một bà quỳ trước bàn thờ Đức Mẹ, nước mắt tuôn rơi.
Tôi tự hỏi, “Bà ấy có chuyện rắc rối gì đây?” Bà sụt sùi, thò tay vào trong túi
sách màu đen rút ra cái điện tín nhàu nát. Rồi lại khóc nức nở, “Con nhận được
cái điện tín này cách đây 2 tiếng đồng hồ”. Điện văn với hàng tin, “Bộ chiến
tranh rất tiếc phải báo tin cho bà biết rằng con trai của bà đã bị mất tích tại
chiến trường”.
Tôi chẳng biết phải làm gì để an ủi bà ngoài
những tiếng lầm bầm hứa hẹn cầu nguyện cách riêng cho con bà. Sáng hôm sau, Thứ
Năm Tuần Thánh, tôi lại thấy bà mẹ đó quỳ trước bàn thờ Thánh Thể, khuôn mặt buồn
sầu hơn bao giờ hết. Dường như bà đã già đi nhiều chỉ qua một đêm. Bà giống như
Chúa Giêsu chịu hấp hối trong vườn cây dầu…
Vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, tôi thấy bà ngồi
ở hàng ghế đầu tiên, nhìn vào khoảng trống của bàn thờ với cây thập giá phủ
khăn tím. Bà giống như Đức Mẹ Maria đang đứng dưới chân thập giá. Đây là ngày
Thứ Sáu khổ nạn của tâm hồn bà.
Bước sang đêm Thứ Bảy Tuần Thánh, trước khi
chúng tôi bắt đầu nghi thức Vọng Phục Sinh, bà tiến đến nói với tôi một tin mừng.
Dường như đây không phải là người đàn bà của ngày hôm trước. Đây là một người
đàn bà mới với cái điện tín mới. Con trai của bà an toàn, đang là một tù binh
chiến tranh. Bà đã không thể nói với tôi được điều gì, chỉ đơn giản đẩy chiếc
điện tín vào tay tôi. Rồi bà lại khóc nữa, nhưng những giọt nước mắt của niềm
vui và hạnh phúc. Khi bà ra về, tôi gọi lớn, “Chúc mừng Phục sinh”… và từ nụ cười
rạng rỡ trên khuôn mặt của người mẹ, tôi biết bà đã cảm nghiệm được ý nghĩa của
niềm vui Phục sinh nhiều hơn tôi. Đó chẳng phải là sự sống lại của con bà hay
sao?
17. Niềm tin
Có một cuốn phim, tựa đề là “Đức Giêsu Kitô”,
đây là một cuốn phim nhạc nổi tiếng về cuộc đời Chúa Giêsu. Bằng ngôn ngữ của
âm nhạc, tác giả cuốn phim đã cố gắng diễn tả cuộc đời Chúa Giêsu theo tâm thức
của con người thời nay, giúp cho người xem có thể học hỏi và hiểu biết thêm về
Chúa Giêsu. Nhưng có một thiếu sót lớn nhất của cuốn phim nhạc này là đã không
đề cập đến việc Chúa Giêsu sống lại. Cuốn phim kết thúc cuộc đời của Chúa bằng
cái chết treo trên thập giá.
Cuộc đời Chúa Giêsu chết là hết chăng? Những
người không có niềm tin Kitô giáo xem cuốn phim này sẽ kết luận như thế. Bởi vì
“chết là hết”, đó là ý nghĩa thông thường của con người. Đó cũng là tâm trạng của
các môn đệ Chúa Giêsu sau cái chết nhục nhã của Ngài: tất cả mọi hy vọng của họ
đều tan thành mây khói. Thế nhưng, một biến cố bất ngờ đã xảy ra: Ngày thứ ba
sau khi tử nạn, Chúa Giêsu đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện
vô tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử, một biến cố
đã làm phát sinh một tổ chức lan rộng khắp thế giới mà chúng ta gọi là Kitô
giáo.
Việc Chúa Giêsu Kitô sống lại là một biến cố
cực kỳ quan trọng, nhưng lại là sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi, vì nó
ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy và có kinh
nghiệm. Ngay các môn đệ đi theo Ngài và được Ngài báo trước cho biết việc đó,
thế mà khi Ngài sống lại họ cũng chưa tin, huống chi những người khác. Phục
sinh là một chân lý mà người ta chỉ có thể chấp nhận được nhờ đức tin.
Tuy nhiên, biến cố Phục sinh cũng có những dấu
hiệu bề ngoài chứng thực, như ngôi mộ trống, không có xác Chúa Giêsu ở đó. Ngài
hiện ra cho mấy phụ nữ đến thăm mộ và nhất là một số môn đệ, họ nhận ra Ngài
khi thấy những thương tích của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và trò chuyện ăn
uống với Ngài. Rồi Ngài đã làm cho các môn đệ sau khi gặp gỡ, truyện trò, ăn uống
với Ngài phải tin và xoay chuyển tầm nhìn của họ về Ngài: từ hồ nghi không tin
đến tuyên xưng Ngài chính là Đức Kitô, đồng thời xoay chuyển cả lối sống của họ:
từ thất vọng sợ hãi trở thành tin tưởng, can trường, rồi đồng loạt đi khắp nơi
loan báo và minh chứng Ngài đã Phục sinh. Minh chứng cách trung thành và can đảm,
không sợ bị đánh đòn, chế nhạo, cầm tù, mà còn sẵn sàng chịu tử hình nữa. Việc
ngôi mộ trống, việc Ngài hiện ra nhiều lần, việc các môn đệ có niềm tin và lối
sống mới sau khi gặp gỡ Chúa Phục sinh, tất cả đều có thật.
Quả thực, việc Chúa Giêsu sống lại là một biến
cố cực kỳ quan trọng đối với chính Ngài, với giáo huấn của Ngài, với các môn đệ
cũng như với tất cả mọi người, vì là nền tảng cho niềm tin và sự cứu độ của mọi
người. Đối với Chúa Giêsu, sự sống lại chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau
khổ và chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã sống lại và được tôn vinh) làm cho Ngài
trở thành siêu việt trên tất cả mọi nhân vật tôn giáo trên thế giới, vì Ngài là
hoa quả đầu mùa của nhân loại mở đường vào hạnh phúc thật vĩnh hằng. Sự sống lại
chứng tỏ giáo huấn của Ngài là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc
chắn đạt tới hạnh phúc ấy. Sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn
đệ về Ngài và xoay chuyển cả lối sống của các ông. Sau hết, sự sống lại là bảo
đảm cho mọi người được sống lại thật và có thể được hưởng hạnh phúc vĩnh hằng
như Ngài.
Trải qua hai ngàn năm, niềm tin của các tông
đồ và của các tín hữu tiên khởi vẫn còn được tiếp tục tuyên xưng. Mãi mãi vẫn
còn có người tuyên xưng Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu
Thế, là Chúa. Ngài đã chết để cứu chuộc chúng ta và Ngài đã sống lại để bảo đảm
chúng ta cũng sẽ sống lại. Và hiện Chúa Kitô Phục sinh vẫn đang đồng hành với
chúng ta trong cuộc sống trần gian. Chúng ta vẫn gặp Ngài trong Giáo Hội, trong
các bí tích, trong cầu nguyện, trong lời Chúa và trong khi thi hành điều răn mới
của Ngài.
18.
Niềm hy vọng sống lại
Trong những ngày này, chúng ta hớn hở mừng
vui. Tiếng Alleluia không ngừng vang lên trên môi miệng chúng ta. Tại sao chúng
ta hát đi hát lại điệp khúc hân hoan ấy? Phải chăng vì Đức Kitô đã chiến thắng
kẻ thù? Phải chăng vì Ngài đã thực hiện một phép lạ vĩ đại nhất: sống lại từ
trong kẻ chết? Tất cả những điều đó làm cho chúng ta vui mừng khi nghĩ về biến
cố Phục sinh. Tuy nhiên, niềm vui còn dạt dào hơn nữa, khi chúng ta ngắm nhìn
ngôi mộ rỗng của Ngài. Niềm vui dạt dào ấy đã được thánh Phaolô diễn tả như
sau: Thiên Chúa đã cho Đức Kitô sống lại thế nào thì Ngài cũng sẽ dùng quyền
năng để cho chúng ta được sống lại như vậy. Đó chính là một niềm an ủi tuyệt vời
nhất, một ý nghĩ cao sâu nhất xuất phát từ ngôi mộ phục sinh: Nếu Đức Kitô đã sống
lại, thì rồi đến lượt chúng ta, chúng ta cũng sẽ được sống lại.
Chúng ta thường nghe thấy lời phàn nàn và kết
án như sau: Đạo Công giáo là một đạo quá nghiêm khắc bởi vì Đức Kitô đã nói: Ta
đến không đem sự bình an, nhưng đem gươm giáo. Với lưỡi gươm lưỡi giáo này, phải
chăng Ngài đã cắt đứt xác thịt và cuộc đời chúng ta? Đọc kinh, đi lễ, bố thí mà
thôi chưa đủ, Ngài còn muốn chúng ta phải dâng hiến trọn cuộc sống cho Ngài, từ
tư tưởng, lời nói đến việc làm. Tôi không được phép hưởng thụ những điều bất
chính, dù chỉ trong tư tưởng mà thôi. Tôi muốn ăn uống no say, nhưng hôm nay lại
là ngày giữ chay, nên tôi không được phép. Tôi muốn nằm ngủ nướng cho đẫy con mắt,
nhưng hôm hay là Chúa nhật, tôi có bổn phận phải thức dậy để đi tham dự thánh lễ…Cho
dù tội lỗi có hấp dẫn và quyến dũ, luôn mời gọi và lôi kéo đến đâu chăng nữa,
thì chúng ta cũng không được phép chạy theo. Công giáo là một đạo nghiêm khắc,
đòi chúng ta phải làm chủ thân xác, chế ngự những thèm muốn và hy sinh đời sống
cho Đức Kitô. Thế nhưng, cái đạo nghiêm khắc ấy đã đem đến cho chúng ta một tin
mừng, đã hứa ban cho chúng ta một điều không ai có thể đem lại được, đó là: nếu
Đức Kitô đã sống lại, thì rồi chúng ta cũng sẽ được sống lại. Nghĩa là một ngày
kia, chúng ta sẽ tìm lại được cuộc sống vĩnh cửu đã mất đi vì tội lỗi.
Niềm tin vào sự sống lại trước hết đã được
chính Chúa Giêsu truyền dạy. Ngài đã nói nhiều lần để chứng tỏ tầm mức quan trọng
của nó. Thực vậy, Phúc âm thánh Gioan đã ghi lại: Giờ đến, khi mọi kẻ trong mồ
nghe tiếng Ngài và bứơc ra. Những người làm lành sẽ sống lại để được sống. Còn
những kẻ làm dữ sẽ sống lại để bị luận phạt…Thánh ý của Cha, Đấng đã sai Ta là:
bất kỳ ai thấy Con và tin ở Ngài, thì có sự sống vĩnh cửu. Và Ta, Ta sẽ cho họ
sống lại ngày sau hết…Ai ăn thịt Ta và uông máy Ta, thì sẽ có sự sống đời đời.
Trước khi làm phép lạ cho Lagiarô sống lại,
Ngài đã phán với Martha: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không chết,
nhưng sẽ có sự sống đời đời. Sau cùng, khi bọn Sađucêô, những kẻ không tin vào
sự sống lại dã nêu lên vấn nạn về một người đàn bà có bảy đời chồng và như vậy
khi sống lại, bà ấy sẽ thuộc về ai? Chúa Giêsu đã trả lời cho họ như sau: Lúc bấy
giờ, không còn vấn đề vợ chồng. Họ sẽ không chết nữa, nhưng sẽ trở nên như
thiên thần. Họ sẽ là con cái của Thiên Chúa và của sự sống lại.
Chúng ta có thể suy ngắm về chính sự sống lại
của Ngài để tìm thấy ở đó niềm hy vọng ủi an. Thực vậy, vào buổi sáng ngày thứ
nhất, các bà đạo đức đi ra mồ để xức thuốc thơm cho thi thể Chúa. Vừa đi, các
bà vừa thầm nghĩ: Ai sẽ lăn giùm tảng đá lấp cửa mồ? Phải, trước khi Đức Kitô
phục sinh, một tảng đá nặng cũng đã lấp kín phần mộ của chúng ta và của những
người thân yêu. Tảng đá của chết chóc, đau khổ và tuyệt vọng. Bởi vì ngôi mộ
chính là trạm chót, để rồi sau đó sẽ chấm dứt cuộc sống cũng như tình thương, sẽ
chấm dứt mọi ý nghĩ cũng như mọi ước mơ. Phải chăng đó là sự chấm dứt của chính
con người? Thế nhưng, Đức Kitô đã phục sinh. Tảng đá nặng đã bị lăn qua một
bên, bởi vì Ngài đa giải quyết được vấn đề từng làm cho chúng ta băn khoăn lo
nghĩ: Sau cái chết, sẽ còn lại gì? Sự phục sinh của Ngài chính là bảo chứng cho
lời Ngài đã phán: Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta sẽ không phải chết,
nhưng sẽ có sự sống đời đời.
Từ khi Đức Kitô nghỉ yên trong ngôi mộ, thì
ngôi mộ đã trở nên một cái gì thánh thiện đối với chúng ta. Và hơn thế nữa, kể
từ khi Đức Kitô sống lại, thì tất cả chúng ta, những con người phải chết, sẽ chờ
mong buổi sáng phục sinh huy hoàng. Trước Đức Kitô, con người phải chết và trên
bia mộ chúng ta ghi: Đây là nơi an nghỉ trong bóng tối và trong tuyệt vọng.
Nhưng từ khi Đức Kitô phục sinh, chúng ta có thể ghi trên bia mộ ấy như sau: Đậy
là nơi an nghỉ trong tin yêu và hy vọng.
Sau cùng, chúng ta có thể dùng suy luận để thấy
được rằng: sự sống lại là một cái gì thích hợp với chương trình của Thiên Chúa,
Đấng Tạo hóa. Thực vậy, chúng ta chỉ là người bao lâu hồn còn kết hiệp với xác.
Giữa hồn và xác luôn có một liên hệ mật thiết. Nếu hồn mà buồn thì nước mắt sẽ
tuôn trào. Nếu hồn mà vui thì khuôn mặt sẽ rạng rỡ. Bởi đó, sự phát triển toàn
vẹn của con người đòi buộc hồn xác phải kết hiệp với nhau sau một thời gian bị
cái chết tạm thời chia rẽ. Hơn thế nữa, việc sống lại còn là đều thích hợp với
sự công bằng của Thiên Chúa. Thân xác của chúng ta đã tham dự vào tất cả những
hành vi thánh thiện cũng như tội lỗi. Vì thế, sự công bằng đòi buộc: nếu thân
xác đã tham dự vào những hành động tội lỗi thì cũng phải có những hình phạt
dành cho thân xác. Trái lại, nếu thân xác đã tham dự vào những hành động thánh
thiện, thì cũng phải có những phần thưởng dành cho thân xác.
Tóm lại, chúng ta sống là để chuẩn bị cho cái
chết và chúng ta chết là để được sống đời đời.
19. Tin Chúa Phục Sinh
“Nếu Đức Kitô không sống lại thì lời rao giảng
của chúng tôi trở thành vô ích và niềm tin của anh em thật là hão huyền”
Quả thật, nếu Đức Kitô không sống lại thì tất
cả chúng ta, nhưng con người mang danh Kitô hữu chỉ là những kẻ điên khùng, bởi
vì chúng ta đánh đổi cả đời mình để tin và đi theo Đức Giêsu nhưng cuối cùng chẳng
được gì. Trong khi nhiều người ăn chơi xả láng, hưởng thụ thoải mái, trong khi
nhiều người xây dựng sự giàu có, xây dựng công danh sự nghiệp trên xương máu của
những người khác, trên những trò bóc lột, trên sự lường gạt bỉ ổi mà vẫn sống
phây phây, thì chúng ta, nhưng người Kitô hữu luôn bị bao quanh bởi một hệ thống
luật lệ dầy đặc. Ở đâu cũng thấy tội. Ở đâu cũng thấy cấm đoán, bắt buộc và đe
loi v.v…Cả cuộc đời chỉ thấy nói tới hy sinh, từ bỏ. Cả cuộc đời chỉ thấy toàn
là mất mát, thiệt thòi. Vì thế mà trước mặt người đời chúng ta chỉ là những tên
ngu xuẩn, điên rồ.
Một anh bạn trẻ đã chia sẻ rằng: Khi anh từ
chối một chức vụ khá quan trọng trong cơ quan, cấp trên của anh đã nói: “Mày
khùng quá, cái ghế mà tao dành cho mày đáng giá năm mười cây vàng đấy. Bao
nhiêu thằng ước mơ và lo lót, còn mày thì từ chối”. Và anh bạn trẻ ấy trả lời:
“Tôi biết khi ngồi vào chiếc ghế đó, tôi sẽ trở thành một ông hoàng. Nhưng tôi
cũng biết khi ngồi vào chiếc ghế đó, tôi sẽ uốn cong theo vòng quay của cả một
cơ chế có vô vàn điều tiêu cực, không thể khác được”. Thế là anh bạn trẻ đành
chấp nhận một cuộc sống thanh bần chỉ vì danh hiệu Kitô hữu của mình.
Vâng, nếu Đức Kitô không sống lại thì anh bạn
trẻ này và các Kitô hữu chỉ đáng sống trong những nhà thương điên. Nhưng Đức
Kitô đã sống lại. Đó là xác quyết của các anh bạn trẻ Phêrô, Giacôbê, Gioan…Họ
là những người đã từng đi theo, đã cùng sống, cùng ăn, cùng ở với Đức Giêsu. Họ
cũng là những người đã từng thất vọng và trốn chạy trước cái chết thê thảm của
Thầy Giêsu trên thập giá. Nhưng rồi họ đã là những người dám chấp nhận lao tù,
cùm gông, tra tấn và cả cái chết để làm chứng về sự Phục Sinh của Đức Kitô, bởi
chính họ đã thấy tận mắt Đức Kitô đang sống. Mà Đức Kitô sống lại có nghĩa là
những lời rao giảng của Người là sự thật. Và sự thật Đức Giêsu công bố chính là
những nẻo đường dẫn tới sự sống, tới hạnh phúc đích thực. Vì thế, ai bước đi
theo Người, ai sống theo Lời Người, chắc chắn sẽ được sống và được hạnh phúc.
Lời chứng của những người dám đem cả mạng sống
của mình ra mà đoan quyết chắc không phải là một sự lừa dối phải không thưa quí
ông bà và anh chị em?
20.
Ra khỏi mồ
Biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu đã xảy ra
cách đây hơn 2000 năm rồi, và ngày nay có lẽ chúng ta cũng không thể cảm nhận
được nỗi niềm vui sướng và hy vọng của các tông đồ ngày xưa khi nghe tin Chúa
Giêsu sống lại. Tuy vậy, trong ít phút ngắn ngủi này, chúng ta thử làm sống lại
một chút những tâm tình của các tông đồ trong ngày Chúa Phục Sinh, để thấy được
sự kiện Phục Sinh của Chúa Giêsu đã đem lại ý nghĩa nào cho cuộc đời của các
ông. Từ đó, chúng ta cũng hãy để cho Chúa Phục sinh tác động làm cho cuộc sống
của chúng ta có một ý nghĩa. Hòa chung niềm hy vọng với dân tộc mình, các tông
đồ cũng chờ mong một vị Cứu Tinh để giải phóng dân tộc ra khỏi cảnh nô lệ ngoại
bang. Trong niềm hy vọng ấy, Đức Giêsu đã xuất hiện như một con người có thể
đáp lại những khát vọng mãnh liệt của các ông. Chính vì thế mà các ông đã bỏ mọi
sự để theo Người, tin tưởng hoàn toàn nơi Người, phó thác trọn cuộc đời cho Người
và chấp nhận mọi đòi hỏi của Người. Thế nhưng, đáng buồn thay cho các ông biết
bao, khi mà vào một buổi tối ngày thứ 5, thần tượng Giêsu của các ông đã bị bắt,
bị tra tấn, bị đánh đòn, bị lăng mạ và cuốci cùng bị kết án tử hình, một cái chết
đớn đau và tủi nhục trên thập giá. Điều đó làm các ông thất vọng biết là dường
nào. Thế là hết. Thầy Giêsu đã chết, đã được chôn trong mồ đá. Điều đó có nghĩa
là những niềm hy vọng, những hoài bão, những tin tưởng của các ông cũng chết
theo và cuộc đời của các ông cũng bị chôn vùi trong những nấm mồ của tuyệt vọng
và sợ hãi. Hiểu ván đề như thế chúng ta mới hiệu được rằng: khi các phụ nữ báo
tin cho ông Phêrô và ông Gioan về việc Chúa sống lại thì quả thật đó là một nguồn
tin gân chấn động rất mạnh cho các ông. Thầy Giêsu đã sống lại cũng có nghĩa là
những ước mơ, những hy vọng của các ông cũng được sống lại. Chính vì vậy mà cả
ông Phêrô và ông Gioan đã vội vã chạy ra mộ Chúa Giêsu như để kiểm nghiệm nguồn
tin mà các phụ nữ vừa loan báo. Khi tới mồ, các ông thấy mồ trống, chỉ còn lại
khăn liệm và khăn phủ đầu Chúa Giêsu. Thánh Gioan đã viết về chính mình: “Ông
thấy và ông tin”. Rồi những ngày sau đó Chúa Giêsu đã hiện ra với các tông đồ
nhiều lần như để củng cố niềm tin chắc chắn rằng: Thầy Giêsu của mình đã sông lại
thật thì niềm tin ấy đã tạo nên một biến đổi triệt để nơi các ông.
-
Trước
đây các ông sợ hãi chạy trốn các nhà cầm quyền đạo đời, thì nay các ông hiên
ngang ra vào công đường để rao giảng về Đức Kitô Phục Sinh. Các ông can đảm chấp
nhận bắt bớ, chấp nhận đòn vọt và bao nhiêu thử thách khác để làm chứng rằng Đức
Giêsu đã Phục Sinh.
-
Trước
đây các ông là những người nhỏ nhen, ham danh ham lợi, ghen tị với nhau về chỗ
ngồi trên dưới, thì nay các ông quên bản thân mình để chỉ sống và chết cho Đấng
Phục Sinh, đồng thời cũng sống và chết cho anh chị em mình.
Thế hệ của chúng ta hôm nay không được diễm
phúc để thấy Chúa Phục Sinh như các tông đồ xưa, nhưng chúng ta tin lời rao giảng
của các Ngài vì các Ngài là những chứng nhân trung thực bởi các Ngài đã dám hy
sinh mạng sống để làm chứng cho sự thật ấy. Tuy nhiên, tin vào sự Phục Sinh
không phải chỉ là chấp nhận trong trí khôn một chân lý, một sự kiện đã xảy ra
trong lịch sử, nhưng còn là để cho Chúa Phục Sinh biến đổi cuộc đời mình, là để
Người đưa mình ra khỏi những nấm mồ ích kỷ, hận thù, gian tham, lọc lừa, kiêu
căng, tự mãn, ham mê sắc dục… Bao lâu chúng ta còn cố tình sống trong những nấm
mồ ấy thì bấy lâu chúng ta chưa thật sự tin vào Chúa Phục Sinh. Và nếu thế thì
lời tuyên xưng của chúng ta về việc Chúa Phục Sinh chỉ là những lời đâu môi
chót lưỡi và chẳng đem lại lợi ích nào cho đời sống của chúng ta.
Xin cho mầu nhiệm Chúa Phục Sinh mà chúng ta
kính nhớ hôm nay trở thành một động lực đổi mới cuộc đời chúng ta, để chúng ta
đám sống, dám chết cho Chúa và cho nhau.
21. Chúa đã sống lại
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta
vừa đọc trên đây, tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng
Nhất Lãm, chúng ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà.
Các bà đi đến mộ và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao
có chuyện kỳ cục như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng
chạy về báo tin cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả
chạy đến mộ, hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ
chẳng thấy xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến
biết rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi
đến các môn đệ sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản
ứng khác nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô
thì ngạc nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì
tin rằng Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời
chúng ta, đưa chúng ta ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến
cùng đức tin của mình vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng
nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã
nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn
khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi
về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống
đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng
ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng
sớm hôm ấy, chúng ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay
thế cho nhau. Giáo Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt
ra cho chính mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự
như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa
tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát
chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh
phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem
ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức
tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế
lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc
mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức
tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế
lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở
đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải
theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu
trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay
vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người
gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những biến cố
đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải mã những
tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ
Chúa Giêsu thương mến nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không
nhìn bằng đôi mắt nhưng đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan
đã kín đáo không nêu tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho
đó chính là tông đồ Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt
và ông cũng đáp lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này
mách bảo cho ông biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc
niềm tin và niềm tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải
giải mã các tín hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con
luôn trung kiên trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn
gởi đến cho con trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã
sống lại thật. Allêluia.
22.
Niềm hy vọng
Biết trước cái chết và cách thế phải chết, nhất
là cái chết mình không chấp nhận, quả là một tâm trạng khủng khiếp nhất đối với
con người. Đó là trường hợp những người bị kết án tử hình hay những người bị bức
tử, tức là bị bắt buộc phải tự kết thúc đời mình. Chúa Giêsu cũng trải qua những
giờ phút kinh hoàng ấy. Ngài biết trước cái chết của Ngài: Đã ba lần Ngài nói
trước với các môn đệ là Ngài sẽ bị tử hình. Và Ngài cũng nói rõ cách thế Ngài bị
giết chết:”Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo”, “Như Mô-sê treo con
rắn lên ở sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ phải bị treo lên như vậy”, “Khi
nào Ta bị treo lên, ta lôi kéo mọi sự lên với Ta”. Qua những lời đó, Chúa Giêsu
muốn nói đến một cực hình diễn tả cảnh tượng những phạm nhân phải kéo lê những
khúc gỗ sẽ được dùng làm thập giá để đóng họ vào và treo lên tại một nơi gọi là
núi Sọ. Nhưng có một điều khác, đây là cái chết Ngài biết trước, nhưng Ngài chấp
nhận:”Lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con, mà
theo ý Cha”. Hơn nữa, không những Ngài chấp nhận, mà Ngài còn mong chờ nữa, vì
không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.
Tất cả những điều trên đã xảy ra đúng theo từng
chi tiết như Chúa Giêsu đã nói trước: Ngài phải vác thập giá và bị đóng đinh chết
trên thập giá. Tuy nhiên, việc Chúa Giêsu chết chưa phải là mục tiêu cuối cùng
của sứ vụ cứu độ. Ngài còn phải vượt qua cõi chết để trở thành con người đầu
tiên trong nhân loại được phục sinh và tôn vinh. Và đây cũng là điều Ngài nói
trước luôn, mỗi khi nói về cái chết, Ngài đều nói thêm: Ngày thứ ba, Ngài sẽ sống
lại. Và điều này cũng xảy ra đúng như vậy vào ngày thứ ba sau khi chết, Ngài đã
sống lại.
Trước hết, chúng ta cần hiểu cho đúng thế nào
là phục sinh hay sống lại. Sống lại không phải là lại sống y như trước, giống
như mấy người được Chúa Giêsu làm phép lạ cho sống lại như trước rồi sau cũng
phải chết, như con trai bà góa ở Na im hay ông Ladarô. Chúa Giêsu phục sinh và
được tôn vinh nghĩa là Ngài đã chết thật, rồi được sống lại với một thân xác đã
được đổi mới, không còn lệ thuộc các luật vật lý hay sinh lý nữa, không chết
bao giờ nữa. Ngài được tôn vinh là được về trời, không phải là vào tầng mây
xanh mà là vào một tình trạng hoàn toàn mới, được ở bên hữu Chúa Cha, nghĩa là
hiệp thông trọn vẹn với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong hạnh phúc vĩnh hằng.
Việc Chúa Giêsu vượt qua cõi chết để phục
sinh và được tôn vinh là một biến cố cực kỳ quan trọng đối với chính Ngài, với
giáo huấn của Ngài, với các môn đệ, và với tất cả mọi người. Vì là nền tảng cho
đức tin và sự cứu chuộc của mọi người. Thực vậy, đối với Chúa Giêsu, sự sống lại
chứng tỏ Ngài vừa là người thật (đã đau khổ và chết) vừa là Thiên Chúa thật (đã
phục sinh và được tôn vinh) làm cho Ngài trở thành siêu việt trên tất cả mọi
nhân vật tôn giáo trên thế giới. Tiếp đến, sự sống lại chứng tỏ giáo huấn của
Ngài thật là do Thiên Chúa mạc khải và dẫn đưa con người chắc chắn đạt tới hạnh
phúc vĩnh cửu. Lại nữa, sự sống lại đã làm xoay chuyển tầm nhìn của các môn đệ
về Ngài, để lời loan báo đầu tiên và cả việc soạn thảo Tin mừng của các ông đều
được coi là diễn tả cái nhìn mới về con người Nagiarét, nhìn nhận Đức Giêsu
chính là Con Thiên Chúa, là Đấng cứu thế, là Đấng Kitô; đồng thời cũng làm xoay
chuyển cả sự lựa chọn và lối sống của các ông khiến các ông sẵn sàng sống chết
làm chứng cho niềm tin vào Đức Giêsu phục sinh.
Sau hết, sự sống lại của Đức Giêsu phục sinh
là nòng cốt cho niềm tin của chúng ta. Niềm tin này kéo theo nhiều niềm tin
khác: chúng ta tin Chúa sống lại là chúng ta tin chúng ta được cứu chuộc. Bởi
vì Chúa sống lại Chúa mới cứu chuộc được nhân loại. Nếu như Ngài chết luôn như
các giáo chủ khác, thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc được ai. Nhưng Ngài đã
sống lại, để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa và Ngài có quyền cứu chuộc được tất cả
chúng ta.
Đàng khác, Chúa sống lại còn là niềm hy vọng
cho chúng ta: tất cả chúng ta sẽ sống lại. Thực vậy, thân xác chúng ta sẽ sống
lại, đúng như chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin kính:”Tôi tin xác loài người
ngày sau sống lại”. Bởi vì thân xác sống lại là hiệu quả của mầu nhiệm phục
sinh của Chúa Giêsu, như Kinh thánh đã nói:”Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại
cũng sẽ làm cho chúng ta được sống lại với Ngài”. Như vậy, Chúa Giêsu đã chiến
thắng sự chết và Ngài cũng cho hết thảy chúng ta được chung hưởng chiến thắng
đó. Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ rằng: ai cũng sống lại, mọi người đều sống lại,
người tội lỗi hay người công chính, người có đạo hay không có đạo, người tin
Chúa Giêsu hay người không tin Chúa Giêsu… tất cả đều sống lại. Nhưng sống lại
để được thưởng hay chịu phạt, được lên thiên đàng hay xuống hỏa ngục lại là một
chuyện khác. Sự khác biệt đó đều do cuộc sống hôm nay. Vì thế, cuộc sống hiện tại,
tuy ngắn ngủi, nhưng lại là cái giá đảm bảo cho cuộc sống hạnh phúc mai sau. Vì
vậy, chúng ta cần sống cho thật tốt đẹp, sống đúng tư cách người Kitô hữu đã được
cứu chuộc, để được sống lại và sống mãi với Chúa Giêsu.
Tóm lại, việc Chúa Giêsu phục sinh là một biến
cố cực kỳ quan trọng, nhưng lại là một sự việc mà lý trí con người khó hiểu nổi,
vì nó ở ngoài và vượt trên lịch sử nhân loại, không một người nào đã thấy hoặc
có kinh nghiệm. Đối với chúng ta, đây là một vấn đề thuộc đức tin. Chúng ta
không thấy, nhưng chúng ta tin, không phải là tin nhảm nhí hay ảo tưởng, mà có
bằng chứng xác thực, đó là Kinh thánh đã nói về việc Chúa Giêsu phục sinh, đó
là lòng tin của Giáo Hội suốt hai mươi thế kỷ qua. Chính niềm tin này là động lực
giúp chúng ta sống tốt đẹp, thúc bách chúng ta sống tốt đẹp. Bởi vì chúng ta biết:
cuộc sống ở trần gian này chỉ là tạm gởi, trước sau gì chúng ta cũng sẽ chết.
Nhưng cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng, chết không phải là hết,
nhưng là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Giêsu và
cùng Đức Giêsu trong cõi vĩnh hằng.
23. Hy vọng
Chúng ta có thể đương đầu và chịu đựng được bất
cứ điều gì, miễn là chúng ta nhận biết hoặc tin tưởng rằng điều đó sẽ không kéo
dài mãi mãi, và có một điều gì đó tốt đẹp hơn sẽ xảy ra.
Chẳng hạn, người ta sẽ đương đầu được với một
cuộc giải phẫu lâu dài, đau đớn và nguy hiểm, nếu họ tin tưởng rằng cuộc giải
phẫu đó sẽ làm cho họ được mạnh khỏe trở lại. Các tù nhân có thể đương đầu với
một bản án lâu dài, miễn là họ tin tưởng rằng bản án đó rồi sẽ kết thúc, và họ
sẽ được vui hưởng tự do trở lại. Chúng ta có thể đương đầu được với sự khắc
nghiệt của một mùa đông kéo dài và khổ sở, bởi vì chúng ta biết rằng mùa xuân sẽ
trở lại. Tất cả điều này nhằm nhấn mạnh đến tầm quan trọng của niềm hy vọng. Hy
vọng cũng cần thiết đối với tinh thần, giống như cơm bánh đối với cơ thể. Thật
đáng ngạc nhiên khi tinh thần con người có thể chịu đựng và vượt qua được mọi sự,
miễn là nó được nuôi dưỡng bằng tấm bánh của hy vọng.
Biến cố Phục sinh cung cấp một niềm hy vọng
vĩ đại cho tinh thần con người. Niềm hy vọng này thật cần thiết biết bao. Trong
cuộc sống, có nhiều bi kịch, làm tiêu hủy mất những điều tốt đẹp. Một số người
tốt đã bị ngã quị: Thomas More, Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Oscar
Romero… và tất nhiên trong đó có cả Đức Giêsu. Người cũng đã bị ngã quị. Nhưng
Người đã sống lại.
Thế giới thời đó đã không để ý nhiều đến sự sống
lại của Đức Giêsu. Lý do vì đây là một sự kiện khiêm tốn, được giữ kín. Đức
Giêsu đã không xuất hiện trong tư thế chiến thắng tại đền thờ ở Giêrusalem, làm
cho những kẻ đã hạ gục Người bị ngỡ ngàng. Chỉ những ai được Người kêu gọi, ban
cho chiếc bánh, và những lời nói an bình, mới ý thức được sự kiện gì đã xảy ra,
và thậm chí họ còn khó mà tin tưởng được. Giống như chúng ta, họ chậm tin. Tuy
nhiên, chính sự kiện được giữ kín này đã giải phóng nhân loại khỏi xiềng xích của
sự chết.
Đức Giêsu đã đưa ra một dấu hiệu cho những ai
yêu mến và đi theo Người là tình yêu của Thiên Chúa còn mạnh mẽ hơn cả cái chết.
Sự sống lại của Đức Giêsu không hề tách biệt khỏi sự sống lại của nhân loại mà
Người đã cứu độ. Bằng cách hoàn toàn đi vào sự sống nhân loại, và bằng cách trải
qua nỗi cay đắng của cái chết, Đức Giêsu đã trở nên một người Anh và Đấng cứu độ
cho tất cả mọi người. Cái chết của Đức Giêsu là một phần trong kế hoạch của
Thiên Chúa, Đức Giêsu là đấng đi tiên phong và dẫn đường cho sự cứu độ của
chúng ta: Người đang chỉ đường và dẫn lối cho chúng ta, trên bước đường của sự
vâng phục và đau khổ.
Trong ngày Phục sinh, chúng ta vẫn cảm thấy nỗi
đau khổ của thế giới, của gia đình và bạn bè chúng ta. Nhưng một yếu tố mới mẻ
đã được đưa vào trong cuộc sống của chúng ta. Yếu tố này không tiêu hủy nỗi đau
khổ, nhưng đem lại cho nó một ý nghĩa, soi sáng nó bằng niềm hy vọng. Tất cả
nay đều được khác hẳn, bởi vì Đức Giêsu đang sống động, và nói với chúng ta những
lời bình an, giống như Người đã từng nói với các tông đồ của Người.
Lòng tin vào sự sống lại của Đức Giêsu là nền
tảng cho niềm hy vọng của chúng ta vào sự sống đời đời, một niềm hy vọng đem lại
cho chúng ta khả năng kiên nhẫn chịu đựng những thử thách của cuộc đời. Do đó,
có một niềm vui thầm lặng ở giữa chúng ta, và một ý nghĩa sâu xa về sự bình an,
bởi vì chúng ta biết rằng sự sống mạnh mẽ hơn cái chết, tình yêu mạnh mẽ hơn nỗi
sợ hãi, và niềm hy vọng mạnh mẽ hơn nỗi thất vọng.
24.
Ngôi mộ trống - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Việc
Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn không? Đã bao giờ làm
cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
2.
Muốn
được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là trở nên con người mới, con
người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể là ta phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức
Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai
táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của
chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng
của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr
15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền,
và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an
nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ
vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người»
(1Cr 15,17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của
tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh
hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế
bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay
nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã
hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần
Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống
lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở
thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với
con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài
sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây
2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho
tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tuỳ thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của
tôi đối với việc sống lại của Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta
sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như
thánh Phaolô nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho
Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi
chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác
của anh em được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống
mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống
lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống
mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại;
chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr
6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải
chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên
ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống
mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất
cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng, con
người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con
người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho
tội lỗi nữa» (Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người
cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh
em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là
con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính
và thánh thiện» (Ep 4,22-24).
5. Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt
khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình,
chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai,
không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là
phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới
có được sự sống mới: «Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của
con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại
đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự huỷ: «Nếu hạt lúa
gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi,
nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị
phá huỷ, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất
động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá huỷ,
nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn
lao. Cũng vậy, khi ta phá huỷ «cái tôi ích kỷ» của ta, thì
«cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hoá thành một thực
tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quý, và sức sống của
con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ»
của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và
hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của
nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói:
«Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời
này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy:
những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và
cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những
gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều
hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người
sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem
ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định:
«Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep
4,24); «con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh
Đấng dựng nên mình» (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn
nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thuỷ
khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản
ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới,
một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một
quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân
mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống
vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức,
Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta,
biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết
tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy
để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho
Thiên Chúa biến hoá anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm
12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ
quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới
thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống
Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu
phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời
sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm
nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu
thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét