Cáo
phó:
Đức Tổng Giám Mục
Phaolô Bùi Văn Đọc
T5, 08/03/2018 - 15:59
Sứ điệp Mùa Chay 2018 của Đức Thánh Cha Phanxicô |
HỘI ĐỒNG GMVN
AD DIMINA TẠI ROMA
CÁO PHÓ ĐỨC CHA PHAOLÔ BÙI VĂN
ĐỌC
LM HẠT LÀO CAI TĨ NH TÂM TẠI HẦU THÀO |
CÁO PHÓ
TRONG NIỀM TIN VÀ HY VỌNG
NƠI CHÚA KITÔ PHỤC SINH
TỔNG GIÁO PHẬN TP. HCM TRÂN TRỌNG KÍNH BÁO:
ĐỨC CHA PHAOLÔ BÙI VĂN ĐỌC
TỔNG GIÁM MỤC TỔNG GIÁO PHẬN
TP. HCM
đã trở về Nhà Cha lúc 04 giờ 15, ngày 07.03.2018
tại bệnh viện San Camillo (Roma)
hoàn tất hành trình đức tin 74 năm,
với 48 năm Linh mục và 19 năm Giám mục.
Xin quý Hồng Y, quý Đức Cha cùng các thành phần Dân Chúa
hiệp thông cầu nguyện cho Đức Tổng Giám Mục Phaolô.
TIỂU SỬ ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC PHAOLÔ BÙI VĂN
ĐỌC
11/11/1944: Sinh tại Đà Lạt
1956-1963: Học tại Tiểu chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn
1963-1964: Học tại Đại chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn
1964-1970: Học tại Đại học Truyền giáo Urbaniana, Rôma
17/12/1970: Thụ phong linh mục tại Nhà thờ Chính toà Đà Lạt
1971-1975: Giáo sư Tiểu chủng viện Simon Hoà, Đại chủng viện
Minh Hoà, Đại học Đà Lạt
1975-1995: Giám đốc Đại chủng viện Minh Hoà, Đại học Đà Lạt
1996-2008: Giáo sư Thần học Tín lý tại Đại chủng viện Sài Gòn,
Hà Nội, Huế
1995-1999: Tổng đại diện Giáo Phận Đà Lạt
26/03/1999: Được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám
mục Chính Toà Giáo Phận Mỹ Tho
20/05/1999: Thụ phong Giám mục tại Nhà Thờ Chính Tòa Đà Lạt, do
Đức Tổng Giám Mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn chủ phong;
Châm ngôn Giám mục: “Chúa là niềm vui của con”
Châm ngôn Giám mục: “Chúa là niềm vui của con”
27/05/1999: Nhận chức tại Giáo Phận Mỹ Tho
28/09/2013: Được Đức Thánh Cha Phanxicô bổ nhiệm làm Tổng Giám
Mục Phó Tổng Giáo Phận TP. HCM
2013-2016: Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
22/03/2014: Tổng Giám Mục Chính Toà Tổng Giáo Phận TP. HCM
07/03/2018: Về nhà Cha lúc 04 giờ 15, hưởng thọ 74 tuổi.
File gửi kèm:
·
Mục Vụ
CÁO PHO CỦA
TGP SÀI GÒN
Kính thưa
quý cha, quý tu sĩ và toàn thể cộng đoàn Dân Chúa trong Tổng Giáo Phận.
Đức Tổng
Giám Mục Phaolô đã an nghỉ trong Chúa tại Roma vào sáng sớm nay sau khi bị đột
quỵ và được cấp cứu tại bệnh viện San Camillo từ lúc 22g15 ngày 6 tháng 3
giờ Roma, tức 4g15 sáng ngày 7 tháng 3 giờ Việt Nam.
Xin quý
cha và các cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện cho Đức cố TGM Phaolô. Từ hôm nay, trong
phần chuyển cầu của Kinh Nguyện Thánh Thể, xin quý cha chỉ nêu tên các giám mục
phụ tá.
Việc tổ chức
tang lễ và chương trinh chi tiết sẽ được thông báo sau.
Vài nét
tiểu sử của Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc:
- Sinh
ngày 11.11.1944 tại Đà Lạt
- Thụ
phong Linh mục: 17.12.1970 tại Đà Lạt
- Tấn
phong Giám mục: 20.05.1999 tại Đà Lạt
- Tổng
Giám Mục Phó: 28.09.2013
- Tổng
Giám Mục Sàigòn: 22.03.2014
Kính báo
Phêrô Kiều Công Tùng
Chưởng Ấn Tổng Giáo phận Sài Gòn
Theo nguồn: http://tgpsaigon.net
Cái chết
của Đức cố TGM Phaolô
là một bức
tâm thư Chúa gửi cho tôi!
1. Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc đã qua đời
tại Rôma. Tôi rất ngỡ ngàng. Chỉ biết cầu nguyện cho ngài.
Khi cầu nguyện cho Đức Tổng, tôi xót xa
nghẹn ngào. Tôi nhớ lại những tâm sự giữa hai chúng tôi, ngay trước khi ngài đi
Rôma.
2. Giờ đây, ngài vẫn tâm sự với tôi. Ngài
khuyên tôi hãy coi cái chết của ngài như một bức tâm thư Chúa gửi cho
Hội Thánh Việt Nam nói chung, và cho tôi nói riêng.
Ý chung của bức tâm thư đó là: “Hãy tỉnh
thức và cầu nguyện”.
3. Đức cố TGM Phaolô khẩn khoản nhắc cho
tôi nhớ lại Lời Chúa Giêsu đã báo trước: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu
nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt
Con Người” (Lc 21, 36).
4. Có nghĩa là những điều sắp xảy đến sẽ
tang tóc. Để thoát khỏi, tôi cần cầu nguyện nhiều, và cần lắng nghe ý Chúa,
để mà biết chọn lựa những gì nên làm, những gì nên thôi làm.
5. Và có nghĩa là Chúa Giêsu Kitô sẽ bất
ngờ đến. Ngài sẽ hỏi tôi có luôn tìm gặp Ngài là Đấng cứu độ không, có luôn
coi Ngài là nền tảng cho cộng đoàn đức tin của tôi không(x.1Cr 3,
11).
6. Và có nghĩa là: Chúa Giêsu Kitô sẽ bất
ngờ đến. Ngài sẽ hỏi tôi có thực sự đang thuộc về Chúa không(x Gl
2, 20).
7. Và có nghĩa là: Chúa Giêsu Kitô sẽ bất
ngờ đến. Ngài sẽ hỏi tôi có thực sự “Hiến dâng mình làm của lễ sống động,
thánh thiện và đẹp lòng Chúa không? (Rm 12, 1).
8. Mấy ngày trước khi Đức Tổng đi Rôma, tôi
gọi điện thăm ngài. Tôi nói với ngài một lời thân mật: “Đức Tổng Bùi nên nhớ
mình đứng đầu Giáo Tỉnh. Vì thế nên đi thăm anh em, trong đó có tôi là kẻ già
yếu sắp chết rồi”. Ngài trả lời: “Chưa chết đâu, chúng ta còn gặp nhau”.
Ai ngờ bây giờ tôi còn sống, mà chính ngài đã chết. Tuy sao, chúng tôi vẫn còn
gặp nhau một cách thiêng liêng.
9. Bằng cách thiêng liêng, mà rất thân
tình, Đức Cố TGM Phaolô mới nhắn nhủ tôi là: Tình hình đang chuyển biến
mau lẹ, như cái chết mau lẹ của ngài. Hãy tỉnh thức và cầu nguyện thực nhiều,
kẻo sẽ quá muộn.
Tôi hiểu phần nào điều ngài nhắn nhủ. Tôi
băn khoăn và cầu nguyện thêm, thì tôi được hiểu thêm nhờ đoạn thơ sau đây của
Thánh Phaolô gởi cho tín hữu Êphêsô:
10. “Bẩm sinh chúng ta là những kẻ
đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác. Nhưng Thiên Chúa
giầu lòng thương xót và rất mực yêu thương chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết
vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ẩn
sủng mà anh em được cứu độ” (Ep 2, 4-5).
Kẻo sẽ quá muộn, tôi lập tức tin vào Chúa
Giêsu Kitô. Nhờ ân sủng của Ngài, tôi yêu thương mọi người khác, như
Chúa đã thương tôi. (x.Ga 13, 34).
Từ đó, Đức cố TGM Phaolô nhắn nhủ tôi là. Dù
tình hình sẽ chuyển biến xấu đi và mau lẹ, trở thành nguy hiểm, thì tinh
thần tỉnh thức và cầu nguyện luôn phải vững vàng bám chặt vào Chúa Giêsu Kitô,
vâng lời Ngài, mà sống yêu thương như Ngài đã yêu thương.
11. Đức Cố TGM Phaolô đã sống và đã
chết trong ân sủng và lòng thương xót Chúa. Ngài không tự hào vì những gì
khác.
Đó chính là chứng nhân của tỉnh thức và cầu
nguyện.
12. Tôi có cảm tưởng là sẽ có một lúc, tình
hình trở nên tang tóc, đến nỗi tôi cũng sẽ thốt lên như Chúa Giêsu xưa: “Cha
ơi, sao Cha nỡ bỏ rơi con” (Mc 15, 34). Nhưng chính lúc đó, tôi rất cần
có một đức tin khiêm nhường phó thác, để nói như Chúa Giêsu: “Cha ơi, con
xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46).
Nghĩa là tôi chỉ trông cậy vào ân
sủng và lòng thương xót Chúa mà thôi.
13. Tâm thư mà Chúa gửi cho tôi qua cái
chết của Đức Cố TGM Phaolô Bùi Văn Đọc là như thế. Ít là lúc này, tôi đọc qua,
thì thấy vậy. Có thể khi đọc kỹ, sẽ thấy thêm.
14. Những năm tháng gần đây, tôi hay gọi
điện thoại cho Đức Cố TGM. Khi trả lời, bao giờ Đức Cố TGM cũng bắt đầu bằng
câu: “Thưa Đức cha, con đây”. Giờ đây, tôi cũng đang gọi ngài. Ngài cũng
đang trả lời, nhưng bằng cách khác. Rồi đây tôi còn sẽ gọi ngài. Mong ngài cũng
sẽ trả lời, bằng cách nào mà Chúa cho phép.
Tôi coi tất cả đều là do ân sủng và
lòng thương xót Chúa.
15. Đức Cố TGM Phaolô Bùi Văn Đọc đã chết
như một người yếu đuối, tại nhà thờ Thánh Phaolô. Tự nhiên, tôi nhớ lại lời
Thánh Phaolô xưa: “Tôi rất vui mừng và tự hào vì những yếu đuối của tôi,
để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi. Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi
mình yếu đuối…Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh (2Cr 12, 9-
10).
Gm. Gioan Baotixita Bùi Tuần
Long Xuyên, ngày 7.3.2018
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY B
Lời Chúa: 2Sb 36,14-16.19-23; Ep 2,4-10; Ga
3,14-21
MỤC LỤC
1. Cựu Ước và Tân Ước
2. Tình yêu của Thiên Chúa
3. Hãy đến cùng ánh sáng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
4. Tình yêu cứu độ của Thiên Chúa
5. Như hoa hướng dương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
6. Thiên Chúa yêu thế gian
7. Đón
nhận ánh sáng – Peter Feldmeier
8. Suy
niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
9. Tình
thương Thiên Chúa cứu chuộc con người
10.
Thiên Chúa yêu thương
11.
Nhìn lên ánh sáng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
12.
Chuộng tối hơn sáng
13. Sự
thật đổi mới chúng ta
14.
Tình yêu lớn nhất
15.
Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu
16.
Người thợ săn
17.
Thích gì
18. Yêu
Chúa
19. Con
rắn
20.
Thiên Chúa yêu
21.
Nhìn lên Thập giá
22. Suy
Niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng
23. Đức
Giêsu nói chuyện với ông Nicôđêmô – JKN
24. Một
tình yêu không thể tin được
25. Chú
giải của Noel Quesson
1. Cựu
Ước và Tân Ước
Đọc lại
Kinh Thánh, chúng ta thấy Cựu Ước và Tân Ước có một sợi dây liên hệ mật thiết
với nhau. Thực vậy, nếu Cựu Ước là lời hứa, là hình ảnh, là biểu tượng, thì Tân
Ước chính là sự thật được chính Thiên Chúa thực hiện.
Tôi xin
đưa ra một vài thí dụ cụ thể, chẳng hạn như Adong là một hình ảnh tượng trưng
cho Đức Kitô. Thực vậy, chính thánh Phaolô đã diễn tả trong bức thư thứ nhất
gởi giáo dân Côrintô như sau: Adong thứ nhất được dựng nên bằng đất, còn Adong
thứ hai là Đức Kitô thì từ trời mà sinh ra. Người thuộc về đất thế nào, thì
những kẻ thuộc về đất cũng thể ấy. Còn người thuộc về trời thế nào thì những kẻ
thuộc về trời cũng thể ấy... Bởi một người mà nhân loại phải chết, thì nay bởi
một người mà nhân loại được sống.
Tiếp
đến, Isaác, cũng là một biểu tượng cho Đức Kitô, bởi vì giữa Isaác và Đức Kitô
có nhiều điểm rất tương đồng. Nếu Isaác được cha mình là Abraham rất mực yêu
thương, thì Đức Kitô cũng được Cha mình là Thiên Chúa rất mực yêu thương. Nếu
Isaác được dâng làm hy lễ, thì Đức Kitô cũng được dâng làm hy lễ. Nếu Isaác vác
củi lên núi để dùng vào việc hy tế, thì Đức Kitô cũng đã vác thập giá lên đỉnh
Canvê, để rồi hiến dâng mình cho Thiên Chúa.
Và hơn
thế nữa, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã đưa ra một hình
ảnh để so sánh, đó là hình ảnh con rắn đồng trong hoang địa. Ngài nói: Maisen
đã treo con rắn đồng trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng sẽ bị treo lên
như vậy, để tất cả những ai tin vào Ngài thì sẽ được sống.
Chắc
hẳn khi gợi lên hình ảnh này, Chúa Giêsu đã nhớ tới một biến cố đã xảy ra trong
Cựu Ước được sách Dân Số ghi lại như sau: Bấy giờ dân Do Thái kêu trách Thiên
Chúa và Maisen về những khó khăn gặp phải trên đường tìm về miền đất hứa. Thiên
Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết nhiều người. Trước
thảm hoạ này, họ đã ăn năn hối lỗi và nói với Maisen: Chúng tôi đã phạm tội
phản nghịch với Chúa và với ngài. Xin ngài hãy cầu Chúa xua đuổi lũ rắn nay đi.
Và Maisen đã cầu nguyện cho dân chúng. Chúa truyền Maisen đúc một con rắn bằng
đồng, treo nó lên một chiếc cột, để bất cứ ai bị rắn độc cắn, chỉ việc nhìn lên
con rắn ấy là được chữa lành. Chúa Giêsu đã so sánh việc con rắn đồng bị treo
lên với việc Ngài bị đóng đinh trên thập giá.
Và cũng
như dân Do Thái, bất kỳ ai trong chúng ta, nếu biết nhìn lên thập giá, với niềm
tin tưởng và sám hối, sẽ được chữa lành mọi vết thương do tội lỗi gây ra, sẽ
được tẩy trừ nọc độc của tội lỗi. Bởi đó hãy ngước nhìn thập giá và hãy suy
nghĩ đến tình thương mà Ngài đã dành cho chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ mà chúng
ta sắp sửa mừng kính.
2. Tình
yêu của Thiên Chúa
Trong
sinh hoạt thường ngày, chúng ta thường phân chia thành hai lãnh vực, đạo và
đời. Thiêng liêng và trần tục. Phàm những gì thuộc về thế gian, thuộc về trần
tục, nếu chưa phải là tội lỗi, thì tự bản chất vốn dĩ đã là thấp kém. Từ đó
chúng ta dễ đi tới một quan niệm đồng hoá thế gian với tất cả những gì là xấu
xa và tội lỗi. Cuối cùng thì thế gian bị coi là một trong ba kẻ thù chính của
con người. Trong ba kẻ thù ấy, thì ma quỷ đứng hàng đầu, nhưng có lẽ không trực
diện bằng chính kẻ nội thù là xác thịt của chúng ta và kẻ thù gần cận nữa là
thế gian.
Với một
quan niệm như thế, hẳn người ta sẽ ngạc nhiên nếu không phải là lúng túng trước
lời khẳng định của Chúa Giêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban
Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết nhưng được
sống đời đời. Phúc âm không nói: Thiên Chúa yêu thương dân Ngài, yêu thương Hội
Thánh của Ngài hay yêu thương những người Ngài đã tuyển chọn, nhưng lại nói:
Ngài yêu thương thế gian. Tại sao lại như thế?
Tôi xin
thưa: Sở dĩ Thiên Chúa yêu thương thế gian là bởi vì chính Ngài đã tạo dựng nên
nó chứ không phải là một ai khác. Thực ra nếu có cái thế gian nào tội lỗi thì
phải hiểu đó là một giới nào đó, một người nào đó, một loại người nào đó sống
trong thế giới loài người hay trong chính Giáo Hội mà thôi. Ngôn ngữ thông
thường vốn chia xã hội thành những giới khác nhau, chẳng hạn giới thanh niên,
giới nghệ sĩ, giới tu sĩ. Đồng thời người ta cũng nói đến những giới bê bối như
giới xì ke, giới đầu trộm đuôi cướp. Nhưng ngay cả những giới tội lỗi này cũng
chưa hẳn đã bị kết án hay bị loại trừ bởi vì Đức Kitô đã đến chỉ vì họ và cho
họ: Thiên Chúa đã sai Con Một Ngài xuống thế gian không phải để kết án, nhưng
để nhờ Ngài mà thế gian được cứu độ.
Như vậy
thì xét cho cùng chỉ có ma quỷ mới thực sự và vĩnh viễn bị lên án là kẻ thù,
còn tất cả vẫn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa và có được niềm hy vọng
cứu độ. Đức Kitô là ánh sáng và ánh sáng thì không bao giờ kỳ thị, phân biệt
người lành kẻ dữ, chỗ cao ráo sạch sẽ, ánh sáng soi vào và làm cho vẻ cao đẹp
thêm rực rỡ hơn. Nhưng ánh sáng cũng rọi vào chỗ sình lầy nhơ bẩn ấy để mà dọn
dẹp, để mà tẩy uế. Chỉ có những ai từ chối ánh sáng, khép kín lòng mình, trốn
tránh ánh sáng, che đậy sự thật mới không được cứu độ.
Noi
gương Chúa Giêsu chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng cho trần gian, hay nói một
cách khác, chúng ta cũng phải yêu mến thế gian bằng một tình thương cứu độ,
nghĩa là yêu thương và sẵn sàng dâng hiến đời mình để làm cho thế gian được
sáng hơn, được đẹp hơn, nhờ đó mà được tham dự vào vinh quang phục sinh của Đức
Kitô.
3. Hãy
đến cùng ánh sáng – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Hôm ấy,
Chúa Giêsu ngỏ lời với Ni-cô-đê-mô:
"Ánh
sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các
việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không
đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự
thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được
thực hiện trong Thiên Chúa."
Bóng
tối che chở, yểm trợ cho kẻ bất lương
Nhờ
bóng tối, phường đạo tặc có cơ hội làm ăn. Trời càng tối trộm cướp càng vui
thích vì càng dễ tung hoành.
Nhờ
bóng tối, nhờ đèn mờ, nhiều tay ăn chơi có thêm cơ hội làm điều tội lỗi trong
các rạp chiếu phim, trong các phòng karaoke mờ ám.
Nhờ
bóng tối ở các góc phố, các đoạn đường vắng, các tay cướp của giết người mới có
thời cơ hành động.
Đêm đen
và bóng tối là bạn đồng minh của phường trộm cướp, là chốn nương tựa của kẻ bất
lương, của những tay chơi bời truỵ lạc.
Thế nên
Chúa Giêsu nói: "Người đời (người ác) chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các
việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không
đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách" (Ga 3,19-20)
Trong
khi bóng tối bao bọc che chở kẻ bất lương, đồng loã với phường tội lỗi, thì ánh
sáng lại có khả năng bảo vệ, che chở cho những kẻ ngay lành.
Ánh
sáng bảo vệ người ngay lành
Trong
đêm tối giữa rừng sâu, người ta cần đốt lên một đống lửa thật to. Anh lửa bừng
lên giữa đêm đen sẽ xua đi những ác thú lăm le vồ xé con người.
Trên
những con đường tối tăm thường có trộm cướp rình rập, người ta thắp thêm nhiều
ngọn đèn đường. Ánh đèn sáng có khả năng bảo vệ khách bộ hành trong đêm tối.
Chung
quanh các cơ quan trọng yếu, những kho chứa hàng quan trọng, người ta bố trí
nhiều đèn điện toả sáng suốt đêm để phòng quân gian đột nhập.
Ánh
sáng soi đường cho người công chính
Người
Việt chúng ta thường nói: "gần mực thì đen, gần đèn thì sáng." Khi
phải ở gần "mực", tức ở trong môi trường thiếu văn hoá, thiếu đạo đức
thì sớm muộn người ta cũng bị tiêm nhiễm những thói xấu tật hư.
Trái
lại, nếu được ở gần "đèn", tức ở trong môi trường lành mạnh, môi
trường đạo đức, người ta sẽ được thấm nhuần điều hay lẽ phải và được cảm hoá
nên xứng danh con người.
Giai
thoại về cuộc đời Thầy Mạnh Tử (372-289 trước Công Nguyên) cho thấy rõ hơn nội
dung nầy.
Lúc còn
nhỏ, Mạnh Tử ở gần nghĩa trang. Ngày ngày thấy người ta chôn cất người chết với
những lời than khóc ai oán thì cậu bé cũng bắt chước chôn các con vật chết,
cũng giả vờ kêu than khóc lóc.
Thân
mẫu của Mạnh Tử không muốn con mình bị tiêm nhiễm lối sống buồn thảm ở bãi tha
ma, nên mới dời nhà đến gần phố chợ. Sống nơi đây, tuy nhộn nhịp vui vẻ hơn,
nhưng Mạnh Tử lại học theo thói côn đồ của một số trẻ ranh ma đầu đường xó chợ,
ưa trộm cắp, chửi tục và đấm đá nhau. Người mẹ một lần nữa quyết định phải dời
nhà đến gần trường để xa tránh môi trường xấu.
Từ ngày
sống cạnh nhà trường, ngày ngày thấy bạn bè cùng trang lứa cắp sách đến trường,
Mạnh Tử cũng xin mẹ cho đi học.
Học tập
chưa được bao lâu, cậu lại bị bạn xấu rủ rê bỏ học đi chơi.
Hôm nọ,
khi người mẹ đang dệt vải nửa chừng chợt thấy Mạnh Tử cắp sách về nhà không
muốn học nữa, bà lặng lẽ cầm kéo cắt nát tấm lụa đang còn dở dang trên khung
cửi.
Quá
tiếc xót tấm lụa quý, Mạnh Tử hỏi lý do, người mẹ trả lời: "Con đang đi
học mà bỏ nửa chừng thì có khác chi mẹ dệt tấm lụa chưa xong mà cắt bỏ đi
vậy."
Thế là
từ đó, Mạnh Tử giác ngộ, ngày đêm miệt mài đèn sách và sau nầy trở thành bậc
thánh hiền của người Trung Quốc.
* * *
Qua Tin
Mừng Gioan được trích đọc hôm nay, Chúa Giêsu tỏ ra buồn phiền vì người đời yêu
chuộng tối tăm và xa lìa ánh sáng: "Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người
ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai
làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm
khỏi bị chê trách" (Ga 3,19)
Và
Người mời gọi mọi người xa lánh "bóng tối" để đến cùng "ánh
sáng."
Xa lánh
bóng tối là giã từ môi trường xấu, bạn bè xấu, xa lánh những cơ hội và hoàn
cảnh khiến chúng ta phạm tội và đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình.
Đến
cùng ánh sáng là đến cùng Đức Kitô, đón nhận giáo huấn của Người, để cho Lời
Chúa trở thành ngọn đèn dọi bước ta đi; giúp chúng ta nhận ra và tẩy xoá những
vết đen trong cuộc đời và giúp ta sống quang minh chính đại.
Lạy
Chúa Giêsu, dù chúng con rất ước ao đến cùng ánh sáng nhưng xác thịt yếu hèn
vẫn lôi kéo chúng con về với bóng tối.
Xin cho
chúng con có đủ bản lãnh và quyết tâm để lìa xa "mực" và sống gần
"đèn".
4. Tình
yêu cứu độ của Thiên Chúa.
(Trích
trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Xưa kia
có một vị hoàng đế rất giàu sang và cũng rất đại lượng. Vua rộng ban vàng bạc
châu báu cho tất cả những ai làm đẹp lòng vua. Thế là nịnh thần mọc lên như nấm
khắp triều đình.
Các
hoàng tử thì xu nịnh để được vua cha ban cho ngai vàng. Các quan trong triều
đình thì xu nịnh để được thăng quan tiến chức. Ai cũng huênh hoang cho rằng
mình hết lòng trung nghĩa với vua, sẵn sàng hiến mạng mình để bảo vệ nhà vua,
để chết thay cho vua.
Nhà vua
rất đơn sơ nên dễ tin vào những lời nịnh hót của họ và ban phát cho họ ân lộc
dư dầy khiến ngân khố của triều đình cạn kiệt.
Cả
triều đình chỉ có quan ngự y là người trung thành. Ông đã nhiều lần can gián
vua, thuyết phục vua đừng tin bè lũ xu nịnh, nhưng vua chẳng chịu nghe.
Ngày
nọ, vua lâm trọng bệnh thập tử nhất sinh, tính mạng nhà vua chỉ còn được đếm
từng giờ. Quan ngự y trình với vua là bệnh vua chỉ có thể chữa lành nếu một vị
hoàng tử nào đó hiến tặng trái tim mình làm thuốc cho vua.
Nghe
tin nầy loan ra, các hoàng tử trong cung trốn biệt!
Khi
không thể tìm được trái tim của hoàng tử làm thuốc, nhà vua hỏi quan ngự y xem
có thể sử dụng tim của một người khác làm thuốc được không. Quan ngự y trả lời
nếu không có trái tim của hoàng tử thì ít ra phải dùng trái tim của các vị quan
lớn trong triều.
Nghe
tin đó, các quan lớn rồi các quan nhỏ trong triều đều trốn biệt tăm.
Túng
quá, thôi thì dùng tạm trái tim của lính hầu, của công chúa cũng được. Nghe tin
đó, cả công chúa, cả lính hầu, cả hàng trăm thê thiếp cũng không còn ai lai
vãng trong cung điện nữa. Cung điện thường ngày huyên náo, giờ nầy vắng lặng như
bãi tha ma!
Bấy giờ
vua chỗi dậy, tỉnh ngộ rồi cười ra nước mắt cho nhân tình thế thái.
Duyên
do là quan ngự y và cũng là người trung nghĩa với vua, đã khéo dựng lên kịch
bản nầy, đề nghị với vua giả vờ đau nặng, bỏ cơm bỏ cháo, để thử thách lòng
người!
* * *
Cuộc
đời là thế! Ai có đủ yêu thương để dám hy sinh tính mạng, dám chết thay cho
người thân thiết của mình, nói chi đến việc chết thay cho kẻ thù nghịch?
Vậy mà
có một Đấng đã hy sinh tính mạng cho kẻ phản bội mình. Để hiểu Đấng ấy đã hy
sinh như thế nào, chúng ta hãy trở lại với câu chuyện rắn đồng thời Mô-sê.
Thời
ấy, trong hành trình bốn mươi năm trong hoang địa, có lần dân Do-Thái phải lâm
cảnh đói khát dày vò nên kêu trách Thiên Chúa và Mô-sê. Thế rồi dân chúng bị
rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người. Người ta lại chạy đến kêu cứu Mô-sê. Bấy
giờ Thiên Chúa truyền cho ông Mô-sê đúc con rắn đồng, treo lên trụ cờ cao, để
làm phương thuốc chữa rắn cắn. Ai bị rắn cắn mà nhìn lên rắn đồng thì được cứu
sống.
Ngày
nay, để cứu nhân loại tội lỗi lâm cảnh điêu linh và phải chết, Thiên Chúa không
thể dùng rắn đồng làm phương trị liệu mà phải dùng đến một phương thuốc khác,
đó là bằng chính Thân Thể Chúa Giêsu chết treo trên thập giá.
"Như
ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được
giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời."
Thiên
Chúa Cha đã lấy mạng đổi mạng. Lấy sinh mạng vô cùng cao quý của Người Con Một
yêu quý để đổi lấy sinh mạng khốn hèn của loài người tội lỗi. Thật là điều
không thể tưởng tượng được.
Nhưng
tình yêu của Thiên Chúa chưa dừng lại ở đó. Tình yêu cứu độ của Ngài còn vươn
lên cao hơn. Không những chỉ trao ban Con Một chết thay cho chúng ta mà thôi,
không những chỉ ban cho chúng ta được cùng sống lại với Chúa Giêsu mà thôi,
Thiên Chúa Cha còn thương cho chúng ta được cùng lên trời, cùng ngự trị với Đức
Giêsu trên cõi trời. Bài đọc thứ hai, bài thư thánh Phao-lô gửi tín hữu
Ê-phê-sô hôm nay nhắc chúng ta điều đó: "Thiên Chúa giàu lòng thương xót
và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã
cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Người đã cho chúng ta được cùng sống
lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời." (Ep 2, 4-6)
Thế là
từ thân phận của tên tử tội đáng phải chết đời đời vì tội lỗi của mình, chúng
ta được Chúa Giêsu lấy mạng Ngài đổi mạng cho chúng ta, thứ tha cho chúng ta
muôn vàn tội lỗi, ban cho chúng ta được sống lại trong đời sống mới, rồi lại
được đưa lên trời để "cùng ngự trị với Đức Giêsu trên cõi trời".
Thật là
một tình yêu không còn biên giới.
Nguyện
xin Chúa Thánh Thần giúp chúng ta cảm nhận thật sâu sắc tình yêu cao vời và sâu
thẳm của Thiên Chúa, để sống xứng đáng hơn với tình yêu đó và đừng để công
trình cứu chuộc của Ngài hoá ra vô hiệu nơi chúng ta.
5. Như
hoa hướng dương – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một
thời người ta đề nghị loại bỏ bài hát "Tình yêu Thiên Chúa" của nhạc
sĩ Thể Thông ra khỏi danh mục những bài được phép hát trong phụng vụ. Họ cho
rằng: không thể ví tình yêu Thiên Chúa như tình yêu của đôi nam nữ hẹn hò nhau
giữa đêm trăng sao được. Tình yêu trăng sao là tình yêu mờ ảo, là những quan hệ
không rõ ràng và bất chính. Một tình yêu đích thực phải quang minh chính đại,
phải rõ như ban ngày mới đích thực là tình yêu. Bao lâu tình yêu đang còn che
dấu, chưa công khai hoá tình yêu, bấy lâu vẫn còn là những quan hệ bất chính và
tội lỗi.
Thường
tình là thế! Ai cũng mong có được những tình yêu trong sáng, đơn sơ, chân
thành. Ai cũng mong cuộc đời không còn mảng tối cần che đậy hay lấp liếm. Ai
cũng muốn đến với nhau trong tình bạn trong sáng, trong tình người chân thành.
Thế nhưng, "lực bất tòng tâm". Con người đến với nhau vẫn còn đó bóng
tối của lợi dụng, của ích kỷ. Tình yêu con người sao vẫn còn đó những mảng tối
của giả dối, thiếu chân thành. Vẫn còn đó những người thích đi đêm với nhau
trong những cuộc tình vụng trộm, trong những phi vụ làm ăn bất chính. Một người
con gái bình thường không thể đón nhận lời tỏ tình đại loại như: "anh yêu
em, nhưng đừng cho ai biết". Thế nhưng, thực tế vẫn còn đó những cô gái
tham tiền nên chấp nhận sống trong bóng tối làm vợ nhỏ, vợ bé của các đại gia.
Ở đời vẫn còn đó những mối tình vụng trộm của "chồng chung vợ chạ",
của vô luân thất đức. Xem ra thế lực của bóng tối quá mạnh đến nỗi đã bao trùm
khắp mọi nơi và phủ kín nhiều tâm hồn con người. Nhiều người đã mất ý thức về
tội. Nhiều người đã chai lỳ trước tiếng nói lương tâm. Bóng tối đã làm cho con
người mất đi sự trong sáng, đơn sơ và chân thật của tâm hồn
Lời
Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta: "ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và
không đến cùng ánh sáng". Đó là những tâm hồn đang chết dần, chết mòn vì
thiếu ánh sáng, thiếu sức sống của chân thiện mỹ. Họ tự nguyện đi vào bóng tối
cũng đồng nghĩa với việc khước từ sự sống để đi vào cõi chết. Adam - Eva đã rời
áng sáng để lẩn trốn trong bóng tối khiến họ mất bình an, tìm lá che thân, và
bản án đau khổ và sự chết đã lận vào kiếp người.
Muôn
loài luôn hướng tìm về ánh sáng. Quy hướng về ánh sáng vạn vật sẽ xanh tươi.
Sống dưới ánh sáng vạn vật sẽ phát triển đúng theo chủng loại của chúng. Con
người được tạo dựng để trở thành ánh sáng cho trần gian, nhưng con người lại
tìm về bóng tối sẽ trở thành vong thân. Con người sẽ đánh mất tính bổn thiện
của thuở ban đầu tạo dựng. Con người tự nguyện nghiêng chiều và chạy theo bóng
tối tội lỗi để thoả mãn dục vọng đê hèn, thoả mãn tính xác thịt yếu đuối, con
người đang đánh mất dần căn tính của mình.
Mùa
chay mời gọi chúng ta nhìn lại mình đang ở trong ánh sáng hay trong bóng tối u
mê? Tâm hồn tôi có thực sự được mở rộng cho ánh sáng của Chúa chan hoà khắp tâm
hồn, hay đang bị che kín bởi những thói hư tật xấu?
Chúng
ta hãy thử đến bệnh viện của Chúa, để kiểm điểm lại mình, để được Chúa chữa
lành và sửa đổi cho tốt hơn. Chúng ta có mang những bệnh tật tâm hồn cần sửa
đổi trong mùa chay thánh này hay không? Như một tác giả vô danh đã kể lại một
lần đến bệnh viện của Chúa để kiểm tra sức khỏe và phát hiện rằng mình đang bị
bệnh. Ông kể rằng:
Khi đo
huyết áp cho tôi, Chúa cho biết tôi đang thiếu Lòng Nhân Ái. Và khi lấy nhiệt
độ, nhiệt kế đã nhảy vọt đến 400 độ Ích Kỷ.
Điện
tâm đồ cho biết trái tim thiếu những rung động Yêu Thương, một số mạch máu bị
tắc nghẽn, vì lớp cholesterone Ghen Ghét.
Tới
khoa chỉnh hình, tôi khám phá mình đi lại khó khăn.
Tôi
không thể tiến lại ôm người anh em vì lòng Kiêu Hãnh cản ngăn, cánh tay của tôi
bại xuội.
Chứng
Cận Thị làm mắt tôi không thể nhìn xa hơn cái vẻ bên ngoài của người khác.
Quen
những tiếng ồn ào thường ngày, tai tôi bị Điếc Đặc, không còn nhạy bén với
những tiếng thì thầm yêu thương.
Con xin
cảm ơn Ngài, Bác Sĩ Giêsu, vị Lương Y nhân hậu! Chúa đã chữa trị cho con miễn
phí hoàn toàn vì lòng thương xót.
Con cam
kết khi xuất viện sẽ tiếp tục dùng toa thuốc của Chúa, một cách trung thành và
đều đặn, nhờ những dược liệu tự nhiên, Chúa hướng dẫn cho con, trong sách thuốc
Tin Mừng của Chúa.
Mỗi
buổi sáng, khi thức dậy, con sẽ dùng ngay một chén trà Tạ Ơn. Trước khi làm
việc, con sẽ nhớ uống một thìa súp Nụ Cười Thân Ái!
Và mỗi
giờ, con sẽ uống thêm một viên Nhẫn Nại, với một ly nước Nhân Bản, và lạy Chúa,
khi về lại nhà, con sẽ chích một mũi thuốc Tình Thương trợ lực, rồi trước khi
đi ngủ, con sẽ uống thêm 2 viên Lương Tâm Bình An.
Ước gì
mỗi người chúng ta hãy để cho ánh sáng của Chúa chan hoà trong tâm hồn để đẩy
lùi, xua tan những ký sinh trùng đang làm băng hoại tâm hồn chúng ta. Nguyện
xin Chúa là Đấng đã tạo dựng chúng ta giống hình ảnh Ngài luôn gìn giữ, che chở
chúng ta trong ân thánh của Ngài. Amen.
6.
Thiên Chúa yêu thế gian
(Suy
niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Thiên
Chúa yêu con người ngay lúc con người đang còn trong tình trạng tội, nghĩa là,
Ngài yêu con người ngay cả khi họ còn đang chống cưỡng Thiên Chúa. Thiên Chúa
đã cho Lời Ngài nhập thể làm người, Ngài đã ban Thánh Thần thúc đẩy và mời gọi
con người trở lại với Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu con người vô cùng.
I. Thiên
Chúa vẫn yêu thương dân Do Thái cho dù họ phản loạn bất trung
Dân Do
Thái là một gương điển hình cho thấy tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tuyển
chọn Abraham, đã mời ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho; Ngài hứa
sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, sẽ ban cho ông có đất sở hữu, sẽ làm cho
ông trở thành mối chúc lành. Abraham đã quảng đại đáp trả lời mời của Thiên
Chúa, và trở thành ông tổ của dân tộc Do Thái.
Dân Do
Thái đã được Thiên Chúa thương yêu đặc biệt. Ngài đã dùng Môsê để giải phóng
dân khỏi ách nô lệ bên Aicập, ban cho họ đất Canaan ,
cho họ những vị thẩm phán, các vua, và các tiên tri để hướng dẫn chăm sóc dân
nhân danh Ngài. Thế nhưng theo sách Ký Sự (Sử Biên Niên), mọi tầng lớp dân đều
phạm tội chống đối Thiên Chúa, kể cả các đầu mục, tư tế, và các tầng lớp lãnh
đạo. Thiên Chúa đã sai các tiên tri như những sứ giả đặc biệt đến với dân,
nhưng họ cũng chẳng nghe, nên Chúa đã để họ phải lưu đày ở Babylon .
Tuy để
dân Do Thái phải lưu đày, nhưng Thiên Chúa vẫn thương dân Ngài; Ngài đã dùng
vua nước Ba-Tư là Kyrô cho dân Do Thái lưu đày được trở về quê cha đất tổ của
mình. Những tai họa hay đau khổ xảy đến giúp dân Do Thái nhận ra những sai trái
trong hành vi tư tưởng của mình, để rồi họ trở về với Thiên Chúa. Thiên Chúa là
Đấng đã để dân Do Thái phải lưu đày, nhưng cũng là Đấng dẫn dân trở về quê
hương.
II.
Thiên Chúa yêu ta ngay khi ta còn là tội nhân
Thường
người ta chỉ yêu người đẹp, chỉ mến người tốt. Nếu ai làm điều dữ mà bị nạn,
người ta nói "đáng đời nó;" hơn nữa, người ta còn đòi Thiên Chúa trả
oán khi bị oan nghiệt. Tuy nhiên, tư tưởng của Thiên Chúa không giống tư tưởng
và suy nghĩ của loài người. Thiên Chúa là Đấng giầu lòng từ bi; Ngài yêu thương
con người vô cùng nên ngay khi con người còn là tội nhân, thì Ngài vẫn yêu thương
và tìm cách cứu độ con người. Thiên Chúa luôn tìm cách giúp ta trở lại với
Ngài, để ta thành người đẹp và dễ thương thật sự. Thiên Chúa là Đấng tạo dựng,
và cũng là Đấng giúp ta nên đẹp và tuyệt hơn.
Thực
vậy, từ khi Thiên Chúa dẫn dân ra khỏi Aicập qua Môsê, dân Do Thái nhiều lần
không tin tưởng, bất tuân, và làm trái ý Thiên Chúa; chẳng hạn họ đòi nước và
muốn ném đá Môsê, đòi ăn thịt giữa nơi hoang địa, thờ bò vàng khi Môsê đang cầu
nguyện gặp gỡ Thiên Chúa trên núi, v.v.; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương
tha thứ cho dân. Mỗi người chúng ta cũng đã phạm tội phản nghịch cùng Thiên
Chúa, không chỉ một lần nhưng nhiều lần; tuy nhiên Thiên Chúa vẫn yêu thương,
Ngài vẫn mời gọi chúng ta trở lại với Ngài, Ngài ban cho chúng ta bao nhiêu dịp
để nhận ra tình yêu vô bờ bến, để chúng ta ăn năn hối lỗi trở về với Ngài.
Thiên
Chúa không chấp nhất chúng ta xúc phạm đến Ngài bao nhiêu lần, và nặng nhẹ thế
nào. Điều quan trọng là chúng ta trở về với Thiên Chúa. Như người Cha trong dụ
ngôn người con hoang trở về, Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả những gì
chúng ta đã mất. Thiên Chúa hạnh phúc khi chúng ta trở lại với Ngài. Cả trời
đất đều hân hoan khi một người tội lỗi ăn năm sám hối (Lc.15, 10.7).
III.
Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi...
Tình
yêu Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng. Không gì có thể sánh với tình
yêu của Thiên Chúa đối với con người. Qua những thụ tạo hữu hình, con người
nhận ra tình yêu của Thiên Chúa; nhưng với biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể làm
người, con người nhận ra tình yêu vô cùng của Thiên Chúa một cách đặc biệt và
có sức thuyết phục hơn.
"Thiên
Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì
khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga.3, 16). Đức Yêsu là bằng
chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Có thể nói, không bao giờ
Thiên Chúa kết án con người. Thiên Chúa tạo dựng con người vì tình yêu, để con
người được chia sẻ sự sống và hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Ngài muốn con
người trở lại với Ngài và được sống. Ngài không muốn con người phải trầm luân
vĩnh cửu.
Thiên
Chúa yêu con người, Thiên Chúa đã đang và sẽ làm tất cả để được con người. Nói
theo ngôn ngữ nhân loại, Thiên Chúa đang cố gắng làm "hết sức và hết khả
năng" để con người yêu Ngài. Trong tình yêu không có võ lực, không có áp
bức. Chỉ có tình yêu chân thực khi sống trong sự thật và tự do. Võ lực, áp bức,
gian dối không đi chung với tình yêu. Tình yêu đòi tự do và sự thật. Thiên Chúa
yêu thương con người vô cùng, và chắc chắn con người sẽ rung động trước tình
yêu vô biên của Thiên Chúa. Ai đáp trả tình yêu, thì sống và hạnh phúc trong
tình yêu. Ai từ chối tình yêu, thì không hạnh phúc và không có sự sống đích
thực. Chính hành vi từ chối tình yêu, làm người ta bất hạnh. Hành vi làm điều
dữ, làm người đó đau khổ, và làm người khác bị ảnh hưởng.
Câu hỏi
gợi ý chia sẻ
1. Theo
bạn, đâu là hành vi xấu thật sự? Khi nào người ta phạm tội?
2. Bạn
có nghĩ rằng đau khổ là hậu quả của tội không? Tại sao?
3. Tại
sao Đức Yêsu lại là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người?
7. Đón
nhận ánh sáng – Peter Feldmeier
(Lm.
GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ)
"Thiên
Chúa yêu trần gian đến độ trao ban chính con một yêu dấu của Ngài" (Ga
3,16)
Có một
đội bóng rổ khá nổi tiếng ở Denver Hoa Kỳ đã chọn câu Kinh thánh Ga 3,16 để
quảng bá thương hiệu cho mình. Cầu thủ Tim Tebow còn cho xăm câu Kinh thánh đó
trên khuôn mặt, sát dưới đôi mắt của anh ta. Đây là câu Kinh thánh được trích
dẫn trong bài Tin mừng hôm nay: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban
con một, để ai tin vào con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn
đời". Đó là lời huấn dụ Đức Giêsu ngỏ trao cho Nicôđêmô, khi Ngài khải thị
về ánh sáng: "Ánh sáng đã đến trong thế gian" (3,19).
Ngài
còn chỉ dẫn cho ông biết, là người ta phải được sinh ra từ trên cao. Nicôđêmô
lắc đầu không hiểu. Ngài hướng dẫn tiếp, là con người phải được tái sinh bởi
nước và Thần khí. Lại một lần nữa, Nicôđêmô ngơ ngác chẳng hiểu tý nào.
Làm sao
Nicôđêmô, và ngay cả chúng ta, có thể hiểu và thoát ra khỏi bóng tối? Trong đáp
án cuối cùng, Đức Giêsu đã nói cho Nicôđêmô: " Như Môsê đã giương cao con
rắn đồng trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải bị treo thân như vậy, để những ai
tin vào Ngài sẽ có được sự sống đời đời". Sau này, như được nhắc đến trong
Tin mừng Gioan, Đức Giêsu tiếp tục giải trình: "Khi các ông treo Con Người
lên, các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu (8,28)", và Ngài tiếp tục vén mở sứ mạng
cứu thế của Ngài: " Khi tôi được giương cao khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi
người lên với tôi" (12,32). Ở đây, Đức Giêsu nói về Thập giá của Ngài như
là dấu chỉ tình yêu Thiên Chúa và là biểu tượng ơn cứu rỗi cho mọi người.
Nhưng
điều gì khiến Thập giá minh thị sự hiện diện thần linh của Thiên Chúa và lôi
cuốn chúng ta? Nguyên do nào để khi chúng ta nhìn lên Thập giá, chúng ta được
cứu chữa? Đối với Đức Giêsu, Thập giá chính là "Giờ" và "Vinh
quang" của Ngài" (Ga 13,23; 17,1). Thập giá là sự diễn bày sâu sa
nhất tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. "Thiên Chúa yêu thế gian
đến độ trao ban chính con một của Ngài". Đức Giêsu đã tự hiến thân, đã
dâng trao cho chúng ta trọn vẹn, và trên Thập giá Ngài biểu tỏ ánh sáng của
tình yêu linh thánh Thiên Chúa ban trao cho con người. Ánh sáng và vinh quang ở
đây chính là hành vi tự hiến, tự biến mình ra hư không. Ngài trở nên quà tặng
vô giá để ban trao cho ta. Đấng Cứu thế trên Thập giá đã bày tỏtình yêu thâm
sâu tuyệt vời nhất, và lôi kéo chúng ta đến với Ngài. Nhưng chúng ta phải làm
gì để đáp lại tình yêu đó?
Tin
mừng hôm nay vạch dẫn cho chúng ta một phương thức: Đó là Tin vào Ngài. Tin vào
Thiên Chúa và Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là câu trả lời duy nhất. Nhưng
tin ở đây không phải là một hành động suy lý. Những lý lẽ thần học khiến đầu óc
chúng ta dễ chấp nhận và khẳng quyết "Đức Giêsu là Chúa". Nhưng đây
không phải là thái độ của Đức tin. Ngay cả ma quỷ cũng chấp nhận sự thật về uy
quyền của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và chúng run sợ trước uy quyền đó (Giacôbê
2,19). Đức tin mà Chúa Giêsu mời gọi, thách đố chúng ta một cách thẳng thắn, đó
là "Tin Vào" (Pisteu) Ngài. Đây là một tư thế nội tâm, một hành trình
tiến sâu vào trong qũy đạo tình yêu của Thiên Chúa và phó thác trọn vẹn cho
Ngài: "Thầy ở đâu, kẻ phục vụ thầy cũng sẽ ở đó (Ga 12,26)".
Trong
Tin mừng Gioan, Thánh sử nêu bật hai chủ đề chính "Tin" và "
Yêu". Hai phạm trù này không thể tách rời nhau. "Tin" là đi vào
quỹ đạo của Đức Giêsu, đón nhận quà tặng vô giá nơi Ngài, hiểu biết Ngài và
sống sung mãn tình yêu trong Ngài. "Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu
mến anh em. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy(15,9)". Ngài còn dặn dò các
môn sinh: " Như Thầy yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau
(13,34)".
Bạn đã
từng trao tặng ai một món quà gì hay chưa, không phải chỉ là món quà vật chất,
nhưng quý giá hơn, là chính món quà tinh thần? Ví dụ, có ai xúc pham đến bạn,
bạn tha thứ cho họ, tha thứ vô điều kiện và tha thứ hoàn toàn,tận sâu từ trong
đáy lòng? Có bao giờ bạn đã cho đi, cho đi chính con người của bạn, đến độ quên
đi chính mình? Có bao giờ bạn để cho tình yêu linh thánh chiếm ngự tâm
hồn,khiến bạn không còn nghĩ gì tới mình nữa, và hoàn toàn để tình yêu ấy chiếm
đoạt? Bạn đã từng làm như thế chưa? Khi bạn đã trải nghiệm việc thực hành như
vậy, thì quả thật, bạn đang chạm đến mầu nhiệm Thập giá.
Thập
giá là biểu tượng tình yêu sâu thẳm của Thiên Chúa. Ai nhìn lên Thập giá và tin
vào Ngài sẽ có sự sống đời đời. Chúng ta hãy học nơi thái độ đức tin của
Nicôđêmô. Sau khi được Chúa khải thị về vinh quang Thập giá, ông đã tin. Từ một
người biệt phái, ông đã trở nên môn đệ, và ông đã liều lĩnh giang rộng vòng tay
để ôm đón xác Chúa từ trên cao Thập giá, đem đi chôn cất. Dưới chân Thập giá,
Nicôđêmô đã diễn bày đức tin của mình.
8. Suy
niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Trong
cái rủi lại có cái may. Từ một thực tại xấu, Thiên Chúa có thể rút ra một thực
tại tốt. Từ cuộc đổ vỡ trong công cuộc tạo dựng nhân loại, Thiên Chúa lại tái
tạo nó đẹp đẽ hơn theo hình ảnh Con Một Người là Chúa Kitô. Tái tạo hay phục
hồi là một đề tài lớn của Phụng vụ Lời Chúa mùa Chay và Phục Sinh. Nhưng động
lực tình yêu khiến Thiên Chúa thực hiện việc tái tạo này mới là cao điểm suy
niệm. Tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện qua biến cố lịch sử Người giải
phóng dân Israel khỏi ách nô lệ, nhưng đó chỉ là hình bóng tiên báo tuyệt đỉnh
tình yêu qua hành động Thiên Chúa "sai Con của Người đến thế gian, để thế
gian nhờ Con của Người mà được cứu độ" (Ga 3,17).
1. Lịch
sử Israel :
yêu cho roi cho vọt (bài đọc Cựu Ước – 2 Sb 36:14-16.19-23)
Một
đoạn sách Sử biên niên tiêu biểu như bài đọc Cựu Ước hôm nay cũng đủ để phác
họa tất cả lịch sử dân Chúa với ba nét chính: Israel bất trung với Thiên Chúa
và không chịu hối cải – Thiên Chúa trừng phạt họ, thường là họ bị phát lưu hoặc
bị lân bang đánh phá – Thiên Chúa thương xót tha thứ và tái thiết Israel. Lịch
sử dân Chúa không chủ yếu xây dựng trên những cột mốc năm tháng, nhưng trên mối
quan hệ yêu thương thăng trầm và đổi thay giữa Thiên Chúa và dân Israel . Lịch sử
khởi đầu bằng một sự tuyển chọn từ phía Thiên Chúa. Người đã kêu gọi Áp-ra-ham
làm tổ phụ của một dân riêng với hy vọng dân này sẽ luôn luôn nhìn nhận Người
là Đức Chúa của họ và phụng thờ Người, đồng thời tuân giữ luật pháp Người ban
cho họ là Mười điều răn. Mà đã tuyển chọn và kêu gọi thì cần phải có sự đáp lại
của Israel .
Do đó, mỗi khi dân Chúa quay mặt về phía các tà thần và không đáp lời gọi sống
theo luật Chúa là họ đã lỗi phạm sự trung thành đối với Người. Với thân phận
làm Cha, Thiên Chúa muốn con cái Người luôn luôn ngoan ngoãn nên mới sửa dạy,
sửa dạy bằng những hình phạt nhằm đánh thức lương tâm và giúp họ sống theo
đường lối của Người. Việc sửa dạy này đòi hỏi kiên nhẫn và đầy lòng bao dung khoan
thứ. Ta có cảm tưởng Thiên Chúa chạy đua với lỗi phạm của loài người. Tội lỗi
loài người càng nhiều thì lòng nhân từ thứ tha của Chúa càng tăng gấp bội. Điều
này thánh Phao-lô đã phát biểu trong thư gửi tín hữu Rô-ma: "Ở đâu tội lỗi
đã lan tràn, ở đó ân sủng càng chứa chan gấp bội" (5:20).
Tuy
nhiên ta cũng đọc thấy trong lịch sử dân Chúa không biết bao lần Người đã trừng
phạt Israel .
Phải chăng Thiên Chúa ghét bỏ Israel ?
Không bao giờ. Trái lại những trừng phạt ấy luôn luôn nhằm hai mục đích. Về
phía Thiên Chúa, chúng là dấu chỉ biểu lộ lòng thương xót của người Cha nhân từ
không bao giờ nỡ hủy diệt hay loại bỏ những gì Người đã tuyển chọn. Về phía
loài người, trừng phạt của Chúa nhắm mục đích nhắc nhở kêu gọi họ hãy bỏ đường
tà mà trở về sống theo luật pháp Chúa. Cha mẹ nuông chiều con cái, chúng sẽ dễ
hư mất. Trái lại, răn bảo, la mắng hoặc đôi khi đánh đòn sẽ là những phương
tiện nhắc nhở chúng sống cho đúng theo ý tốt của cha mẹ. Cũng vậy, những lần
dân Chúa bị ngoại bang xâm chiếm và bắt đi làm nô lệ là những lần giúp họ nhìn
lại lỗi lầm bất trung của họ và lối sống đi ngược với Lề Luật. Những khổ đau
nhục nhằn của kiếp sống lưu đày là những ngọn roi tuy làm cho người ta đau đớn
nhưng lại đầy yêu thương và nhân từ của vòng tay người Cha hoang đàng về tình
thương yêu con cái.
Để hiểu
rõ hơn mục đích của những trừng phạt này, ta cứ đọc kỹ ba đoạn Kinh Thánh trong
bài đọc Cựu Ước hôm nay. Đoạn thứ nhất (2 Sb 36:14-16) cho thấy lỗi lầm to lớn
của dân Israel
làm cho Thiên Chúa "bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô
phương cứu chữa". Đoạn tiếp theo (2 Sb 36:19-21) cho thấy mức độ vô phương
cứu chữa. Làm sao có thể tái thiết Giê-ru-sa-lem và nhất là thoát ách nô lệ của
vương quốc Ba-tư! Đoạn thứ ba (2 Sb 36:22-23) ghi lại sự kỳ diệu của việc Thiên
Chúa can thiệp. Ai có thể ngờ được Thiên Chúa dùng chính bàn tay của kẻ thù Israel để tạo điều kiện và hô hào dân Israel xây dựng
Nhà Chúa tại Giê-ru-sa-lem? Nhất là lời động viên dân Chúa trong sắc chỉ của
vua Ky-rô càng khiến ta suy nghĩ: "Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của
Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến
lên...!" Rõ ràng là Thiên Chúa không "quá giận mất khôn" như ta
nghĩ. Nhưng Đấng thấu suốt lòng dạ con người biết con cái mình sẽ hối lỗi ở mức
độ nào của sự trừng phạt. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã nói đến cái biết này của Thiên
Chúa: "Cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó
bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn" (2 Sb 36:21). Đất có
được nghỉ một thời gian thì sau đó mới có thể trồng trọt phì nhiêu. Cũng vậy,
những năm tháng lưu đày sẽ là thời gian để Israel tăng triển lòng tin và trung
thành với Thiên Chúa. Đó cũng chính là điều thường xảy ra trong cuộc đời tín
hữu. Gian nan cuộc đời thường là những nhắc nhở hoặc chuẩn bị ta thêm lòng tín
thác nơi tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
2.
Thiên Chúa định nghĩa tình yêu là gì (bài Tin Mừng – Ga 3:14-21)
Con
người tốn bao nhiêu giấy mực để định nghĩa tình yêu mà cũng chẳng nói hết được
ý nghĩa của nó. Còn Thiên Chúa có lối định nghĩa tình yêu hoàn toàn khác, nhưng
lại vô cùng sâu sắc và thực tế. Tình yêu chỉ có thể định nghĩa đầy đủ bằng hành
động, chứ không thể diễn tả bằng lời nói suông. Cho nên đối với Thiên Chúa, yêu
là ban tặng. "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời" (Ga 3:16).
Thiên
Chúa yêu thương Israel
nên đã cứu họ thoát khỏi cái chết đời này, cái chết trong nô lệ cho ngoại bang,
như bài đọc I hôm nay đã nhắc tới. Đó là hình bóng nói đến tình yêu của Thiên
Chúa dành cho toàn thể nhân loại đang bị kiềm tỏa do cái chết đời đời bởi tội
lỗi. Thiên Chúa yêu nhân loại nên tìm đủ mọi cách để cứu vớt nhân loại khỏi cái
chết đời đời ấy. Với dân Israel ,
Người dùng vị thủ lãnh của nước Ba-tư để giải phóng dân Người và tái thiết
Giê-ru-sa-lem. Còn với toàn thể nhân loại, Thiên Chúa đã trao nộp Con Một là
Chúa Kitô cho họ, để Ngài phải hy sinh mạng sống mà cứu họ khỏi cái chết vĩnh
cửu. Trên thế gian, người ta yêu thương và tặng quà, có thể là những món quà thật
đắt tiền, nhưng chẳng ai dám lấy mạng sống con ruột mình để làm quà tặng cả.
Vậy mà Thiên Chúa đã làm như thế. Với Người, Con Một thật đáng quý giá chừng
nào, nhưng Người lại đánh đổi để lấy lại nhân loại, như thế đủ biết Người yêu
thương nhân loại đến mức ta không thể lấy gì mà đo lường được. Món quà càng
trân quý đối với người tặng bao nhiêu thì tình yêu của người tặng dành cho
người được tặng càng lớn lao bấy nhiêu.
"Trong
Đức Kitô, Thiên Chúa đã phục hồi mọi sự", đó là một luận đề chính trong
giáo lý của thánh Phao-lô. Không những Chúa Kitô đã khởi đầu công cuộc phục hồi
cho ta danh nghĩa làm con Thiên Chúa nhờ cuộc Thương khó và Phục sinh của
Người, Người còn trở nên gương mẫu và nguyên lý phục hồi quyền dưỡng tử của ta.
Nói khác đi, chẳng những ta được làm con Thiên Chúa nhờ Bí tích Rửa tội, mà ta
còn được cùng đồng hành với Chúa Kitô để sống tình con cái với Thiên Chúa là
Cha của Chúa Kitô và của ta nữa. Chúa Kitô là sự thật và ánh sáng. Sự thật ấy
cho ta biết Thiên Chúa yêu thương ta đến độ hy sinh Con Một vì ta. Ánh sáng ấy
là gương mẫu và dẫn dắt ta sống như con cái Thiên Chúa. Do đó để kết thúc cuộc
đàm đạo với ông Ni-cô-đê-mô, Chúa Giê-su đã khẳng định: "Kẻ sống theo sự
thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được
thực hiện trong Thiên Chúa" (Ga 3:21). Nghĩa là nếu ta muốn sống đúng với
Sự Thật là Thiên Chúa yêu thương ta, thì ta hãy đến với Ánh Sáng là Chúa
Giê-su, để tất cả đời ta, lời nói, việc làm, tư tưởng đều được diễn tiến trong
Thiên Chúa.
3. Qua
Chúa Kitô, Thiên Chúa biểu lộ tình yêu của Người dành cho ta (bài đọc Tân Ước –
Ep 2:4-10)
Thánh
Gio-an diễn tả tình yêu của Thiên Chúa là việc trao ban Con Một, còn thánh
Phao-lô lại muốn nói cách thức Thiên Chúa yêu thương ta qua cuộc đời và sứ mệnh
của Chúa Kitô. Hai nhà thần học tiên khởi của Kitô giáo cùng nhìn một vấn đề,
nhưng dưới khía cạnh khác nhau. Nhưng cả hai đều muốn nói lên một điểm chung:
Thiên Chúa rất mực yêu thương và giàu lòng thương xót. Tuy nhiên thánh Phao-lô
muốn khai triển về phía con người được lãnh nhận tình yêu và lòng thương xót
của Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa đã cho ta là những kẻ đã chết vì sa ngã của
tổ tông lại "được cùng sống với Đức Kitô". Đây chính là điều ta cần
phải suy nghĩ để biết cách đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Vì yêu ta nên Thiên
Chúa mới tạo điều kiện cho ta "được cùng sống với Đức Kitô", nghĩa là
cùng với Chúa Kitô làm một cuộc biến đổi, một cuộc sống mới. Chúa Kitô đã khai
mào cho một cuộc Tạo dựng Mới. Trong cuộc Tạo dựng Mới này, "chúng ta là
tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giê-su, để sống
mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta" (Ep
2:10). Như vậy là thánh Phao-lô đã cho ta thấy rõ ra phải làm gì rồi, nghĩa là
ta phải "sống mà thực hiện công trình tốt đẹp" của Thiên Chúa, tức
công trình cứu độ của Người. Mỗi ngày sống của ta là một ngày ta thực hiện một
chút công trình cứu độ của Chúa nơi ta. Cứ thế, sau khi ta đi hết những ngày
trên trần gian này, ta sẽ đạt tới đích là "được cùng sống lại và cùng ngự
trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời" (Ep 2:6).
4. Sống
Lời Chúa
Càng
gần lễ Phục Sinh, Phụng vụ Lời Chúa càng cho ta thấy rõ hơn vai trò cứu độ của
Chúa Giê-su Kitô. Người đã lấy tất cả cuộc đời Người để nói cho ta biết Thiên
Chúa yêu mến và muốn cứu độ ta. Người mời gọi ta đến với Người để bắt đầu một
hành trình sức sống mới, sống như "tác phẩm Thiên Chúa đã dựng nên trong
Đức Kitô". Mời gọi này quả thực là một thách đố cho ta nếu ta muốn thành
tâm đáp lại. Tuy nhiên ta cũng phải ý thức rằng được mời gọi làm cuộc hành
trình sức sống mới này còn là một "ân sủng" Thiên Chúa ban cho ta vì
Người yêu thương ta. Ân sủng là do Thiên Chúa, nhưng lòng tin là đáp lại từ
phía chúng ta vậy.
Suy
nghĩ: Chúa Giê-su lập đi lập lại nhiều lần: "Ai tin vào Người thì được
sống muôn đời". Điều này có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi đã sống niềm tin
này như thế nào?
Cầu
nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một giáng trần để thực hiện công trình kỳ
diệu là cho loài người được hòa giải với Chúa. Xin ban cho toàn thể dân Chúa
khắp hoàn cầu được lòng tin sống động, để hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới.
Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. A-men. (Lời nguyện Nhập lễ,
Chúa Nhật IV mùa Chay).
9. Tình
thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
(Suy
niệm của Lm. Anthony Đinh Minh Tiên)
GIỚI
THIỆU CHỦ ĐỀ:
Tình
thương Thiên Chúa cứu chuộc con người.
Con
người thường đặt câu hỏi khi phải đối diện những tai ương tàn khốc: "Tại
sao một Thiên Chúa tốt lành lại để con người phải chịu những hậu quả thảm khốc
như thế?" Nếu không tìm được câu trả lời thích đáng, họ sẽ từ chối tin vào
Thiên Chúa vì hai lý do: hoặc không có Thiên Chúa hoặc Thiên Chúa không có lòng
thương xót.
Các Bài
Đọc hôm nay cung cấp cho chúng ta câu trả lời thích đáng. Trong Bài Đọc I, tác
giả Sách Sử Biên Niên II tường trình cách vắn gọn tiến trình giáo dục con người
của Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách cuối cùng để con người nhận ra lầm lỗi
của mình và để ngăn ngừa con người khỏi hư mất đời đời. Trong Bài Đọc II, Thánh
Phaolô xác quyết Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu với con người qua biến cố Đức
Kitô. Ngài sẵn sàng hy sinh Người Con Một để chúng ta có thể đạt được Ơn Cứu Độ
là sự sống muôn đời. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nói rõ: Thiên Chúa đã quá yêu
thế gian đến nỗi đã ban Con Một Mình. Mục đích của Ngài không là để kết án thế
gian, nhưng để thế gian nhờ Người Con mà được Ơn Cứu Độ.
KHAI
TRIỂN BÀI ĐỌC:
1/ Bài
đọc I: Tiến trình giáo dục của Thiên Chúa.
1.1/
Ngài dạy dỗ và cảnh cáo con người:
- Con
người phạm nhiều tội và nhiều lần. Sách Sử Biên Niên chỉ nói cách tổng quát các
tội: "Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất
trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa
đã được thánh hiến ở Jerusalem
ra ô uế."
- Sai
nhiều ngôn sứ đến cảnh cáo: Con người đã được Thiên Chúa dạy dỗ qua Lề Luật, họ
đã biết những gì họ phải làm và hậu quả họ phải chịu nếu không giữ cẩn thận các
Lề Luật. Tuy nhiên, vì tình thương, "Thiên Chúa vẫn không ngừng sai sứ giả
của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người.
Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế
giễu các ngôn sứ của Người."
1.2/
Ngài sửa phạt dân như lời Ngài đã cảnh cáo:
- Sau
khi Thiên Chúa kiên nhẫn dạy dỗ dân qua Lề Luật và các Ngôn-sứ, và họ cố chấp
không chịu nghe lời, Thiên Chúa dùng Vua Canđê như chiếc roi để sửa phạt dân:
"Đức Chúa để cho vua Canđê tiến lên đánh họ; vua này dùng gươm giết các
thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương bất kể thanh
niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc. Đức Chúa trao tất cả họ vào
tay vua Canđê. Quân Canđê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Jerusalem , phóng hoả đốt
các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại
không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon ;
họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba-tư ngự
trị."
- Mục
đích của việc sửa phạt là để cho dân nhận ra tội lỗi và hậu quả của nó, chứ
không phải để thỏa mãn tính nóng giận mà để cho chết. Nếu Thiên Chúa không sửa
phạt, dân chúng sẽ chết hết trong tội của họ. Khi Thiên Chúa sửa phạt, một số
sẽ nhận ra tội lỗi, và bắt đầu cuộc hành trình trở lại với Ngài, để được Ngài
xót thương. Như vậy, hình phạt cần thiết để tạo nên sự thống hối ăn năn, và để
ngăn ngừa dân khỏi các hình phạt nặng nề hơn, nhất là cái chết.
1.3/
Thiên Chúa sửa phạt rồi lại xót thương:
- Thiên
Chúa xót thương vì Ngài là Cha: Khi dân biết nhận ra tội của họ và thực lòng ăn
năn thống hối, Thiên Chúa tha thứ và cứu dân khỏi hình phạt họ đang chịu. Ngài
xót thương vì Ngài là Cha, và không một người cha nào muốn con mình phải hư
mất. Ngài hoàn lại tất cả những gì con cái Israel đã mất: quê hương, Đền Thờ,
và Lời Hứa với các Tổ-phụ.
- Thiên
Chúa có toàn quyền trên tất cả quyền lực của thế gian: Điều này chứng tỏ qua
các sự kiện: Ngài dùng Vua Babylon như chiếc roi để sửa phạt dân; khi dùng
xong, Ngài bẻ gãy chiếc roi bằng việc trao đế quốc Babylon vào tay Cyrus, Vua Ba-tư. Chính Vua
này lại trở thành khí cụ Chúa dùng để phóng thích dân Do-thái, cho về để tái
thiết lại quốc gia và Đền Thờ. Điều này đã được Thiên Chúa báo trước qua lời
ngôn sứ Jeremiah; để khi xảy ra, dân chúng biết đó không phải là chuyện tình
cờ, nhưng đã được xếp đặt trước bởi Thiên Chúa, để họ tin vào Ngài.
2/ Bài
đọc II: Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu.
2.1/
Thiên Chúa tỏ tình yêu cho con người qua Đức Kitô:
- Đức
Kitô đến để lấp đầy khỏang cách xa lạ giữa con người và Thiên Chúa: Tội lỗi làm
con người mặc cảm và xa lánh Thiên Chúa; Đức Kitô đến để mời gọi con người quay
về với tình yêu Thiên Chúa.
- Ngài
nâng cao địa vị và phẩm giá con người: "Họ là con Thiên Chúa và Ngài yêu
thương họ." Tội lỗi làm mất đi các đặc quyền con người được hưởng như một
người con của Thiên Chúa. Đức Kitô đến để phục hồi cho con người quyền làm con.
Dụ ngôn Người Cha nhân hậu dẫn chứng rõ ràng điều này.
- Ngài
hướng lòng con người lên những điều tốt lành thánh thiện và giải thóat con
người khỏi xiềng xích của tội, Ngài cho con người cảm nghiệm được tình thương
Thiên Chúa.
- Ngài
cứu con người khỏi chết và cho con người được cùng sống lại với Đức Kitô. Chính
do Đức Kitô mà con người đạt được đích điểm Thiên Chúa đã phác họa cho con
người.
2.2/
Chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng của Thiên Chúa:
- Hoàn
toàn là do bởi ân sủng của Thiên Chúa: Con người không thể làm gì để đạt Ơn Cứu
Độ, vì tất cả đều phạm tội, và như một hậu quả, tất cả đều đáng phải chết.
Nhưng tại sao con người không phải chết là hoàn toàn do lòng thương xót của
Thiên Chúa: Ngài cho Người Con Một của mình để chết thay cho nhân lọai. Điều
Thiên Chúa mong muốn là con người hãy tin vào Người Con; và qua niềm tin này,
con người sẽ nhận được Ơn Cứu Độ: "Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng
tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của
Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh
diện."
- Chúng
ta là tác phẩm của Thiên Chúa: "Chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô
Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng
ta." Như nguyện ước của các cha mẹ khi sinh con ra đời, họ muốn con nên
người và đạt được mọi kỳ vọng họ đặt nơi con. Để giúp con đạt được những kỳ
vọng này, họ sẵn sàng hy sinh tất cả. Thiên Chúa cũng thế, Ngài cho con người
ra đời là muốn tất cả đạt tới Ơn Cứu Độ. Để giúp con người đạt đích, Ngài sẵn
sàng hy sinh tất cả, ngay cả việc cho đi chính Ngài qua Mầu Nhiệm Thập Giá.
3/ Phúc
Âm: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người.
3.1/
Nhờ Đức Kitô chịu khổ hình, con người được hưởng ơn Cứu Độ: Chúa Giêsu dùng
biến cố "rắn lửa cắn dân chết" trong Sách Dân Số, để loan báo trước
về Cuộc Khổ Nạn của Người:
- Như
nọc độc của rắn làm dân phải chết, nọc độc của tội cũng làm dân phải chết (Num
21:4-9). Như ông Moses đã giương cao con rắn trong sa mạc, Chúa Kitô cũng sẽ
phải được giương cao như vậy, để cứu chuộc con người.
- Điều
kiện để được chữa khỏi nọc độc của rắn là phải nhìn lên con rắn đồng trong sa
mạc; điều kiện để được sống muôn đời là nhìn lên Cây Thập Giá và phải tin vào
Đức Kitô. Khi nhìn lên Thập Giá, con người phải hiểu được tình thương Thiên
Chúa dành cho con người; khi Ngài cho Người Con Một là Ngài cho chính Ngài:
"Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của
Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời."
3.2/
Thiên Chúa không kết án thế gian, con người lên án chính mình:
- Tình
thương không có chỗ cho buộc tội, kết án: Mục đích của việc Chúa Cha sai Người
Con tới là để gánh tội và chết cho con người: "Quả vậy, Thiên Chúa sai Con
của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian,
nhờ Con của Người, mà được cứu độ."
- Con
người kết án chính mình khi từ chối tình yêu Thiên Chúa, và không tin vào Đức
Kitô: "Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin,
thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa."
3.3/
Bản án của con người: "Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng
người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa."
- Ánh
sáng và bóng tối: Ánh sáng là chính Đức Kitô, là Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa. Khi
Đức Kitô đến, Ngài buộc con người phải làm quyết định: tin hay không tin vào
Ngài. Bóng tối là tội lỗi, là những cám dỗ bất chính của Satan.
- Con
người có tự do lựa chọn: Họ có thể chọn ra ngòai ánh sáng hay ở trong bóng tối,
chọn Thiên Chúa hay chọn ma quỉ. Khi con người chọn đàng nào, con người phải
chấp nhận hậu quả của nó. Chọn ánh sáng sẽ dẫn con người tới Ơn Cứu Độ; chọn
bóng tối sẽ làm cho con người phải chết muôn đời. Con người lên án chính mình
bằng ngoan cố ở trong bóng tối.
- Theo
Gioan, Thiên Chúa chẳng cần phán xét con người, họ phán xét chính mình. Con
người cũng chẳng cần phải đợi Ngày Phán Xét; chính lúc con người lựa chọn ở
trong bóng tối là con người tuyên án cho chính mình (Realized eschatology,
"phán xét ngay hiện tại" là thế). Phán xét tương lại hoàn toàn tùy
thuộc vào phán xét hiện tại.
- Kẻ
làm điều gian ác thích ở trong bóng tối, vì sợ nếu ra ngòai ánh sáng, các tội
lỗi của mình sẽ bị lật tẩy. Điều này chúng ta dễ nhận ra vì đa số các tội ác
xảy ra ban đêm và những chỗ vắng vẻ không người, như lời Tin Mừng hôm nay:
"Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng,
để các việc họ làm khỏi bị chê trách."
- Ngược
lại, người làm điều chân thật lại thích ở trong ánh sáng để tránh mọi nguy hiểm
do bóng tối mang lại: "Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng,
để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên
Chúa."
ÁP DỤNG
TRONG CUỘC SỐNG:
- Tiến
trình giáo dục của con người giúp chúng ta nhận ra tiến trình giáo dục của
Thiên Chúa. Hình phạt chỉ là cách thế sau cùng Thiên Chúa dùng trong tiến trình
giáo dục.
- Ngay
cả khi xử dụng hình phạt, tình thương của Thiên Chúa vẫn chiếu sáng. Nếu không
có hình phạt, con người sẽ không nhận ra lỗi lầm của mình.
- Cần
nhìn toàn thể Kế Họach Cứu Độ của Thiên Chúa trước khi con người có thể phê
bình cách thức của Ngài dùng. Nếu chỉ nhìn vào một biến cố, con người dễ mất
niềm tin nơi Ngài.
10.
Thiên Chúa yêu thương
Qua
đoạn Tin Mừng vừa nghe chúng ta cùng nhau chia sẻ về tình thương mà Thiên Chúa
đã dành cho nhân loại. Các du khách có dịp viếng thăm nhà thờ chính tòa Gengiba
bên Phi Châu, sẽ nhìn thấy lời chào đón này được viết ngay trên tường ngôi
thánh đường: Bạn đang đứng trong nhà thờ của Đức Kitô.
Ngôi
nhà thờ này đã được xây dựng ngay trên phần đất trước kia được dùng để tập
trung buôn bán, trao đổi những nô lệ da đen như những súc vật. Đặc biệt là bàn
thờ được đặt trên một tảng đá nơi những nô lệ bị đánh đòn. Lý do bị đánh đòn
trước khi đem bán là để kiểm tra sức khỏe của họ.
Cây
thánh giá bằng vàng được treo trên một chiếc cột trụ có khắc tên bác sĩ Livdy
Stone, một người Anh đã từng mạnh mẽ và can đảm lên tiếng chống lại tệ nạn buôn
bán nô lệ. Cột trụ này là nơi bác sĩ vẫn thường đứng để thuyết trình, để hô hào
cổ vũ cho việc giải phóng nô lệ. Mãi đến ngày 16.6.1873 việc buôn bán nô lệ tại
Phi châu mới bị ngăn cấm bởi một đạo luật được ban hành. Kể từ đó, phẩm giá
đích thực của người da đen mới được nhìn nhận.
Chiếc
cột trụ đã trở nên như một dấu chỉ, gợi nhớ đến những hy sinh gian khổ và ngay
cả cái chết để giải phóng cho những nô lệ da đen và xây dựng một cuộc sống tốt
đẹp hơn. Đối lại với thù hận là yêu thương chân thật, đối lại với bóc lột là tự
do và công bằng, đối lại với chiến tranh là hòa giải và tha thứ.
Câu
chuyện trên gợi lên cho chúng ta những ý nghĩ về tình thương của Thiên Chúa.
Thực vậy, trong Cựu ước, Thiên Chúa đã truyền cho Maisen đúc một con rắn đồng,
treo lên nơi hoang địa, để những ai bị rắn độc cắn cứ việc nhìn lên con rắn
đồng ấy là được chữa lành. Và như thế, dân Do Thái đã được cứu khỏi hiểm họa
rắn độc trong cuộc xuất hành tìm về miền đất hứa. Sự việc trên cũng chỉ là một
biểu tượng, một hình ảnh tượng trưng cho những gì Chúa Giêsu đã làm để cứu
chuộc chúng ta.
Đúng
thế, để cứu chuộc chúng ta, Ngài chỉ cần phán một lời, nhưng Ngài đã không làm
thế, trái lại, Ngài đã đi cho tới tận cùng những nỗi khổ đau của thân phận con
người. Ngài đã chấp nhận mọi hy sinh, mọi đắng cay và sau cùng đã chấp nhận
chính cái chết ê chề trên thập giá, để giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ của
tội lỗi, để cứu chúng ta khỏi nọc độc của thế gian.
Đây là
điều mà Chúa Giêsu đã nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong Phúc âm. Chẳng hạn
qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Ngài đã nói với Nicôđêmô: Thiên Chúa yêu thương
thế gian đến nỗi đã trao ban chính Con Một của mình để những ai tin vào Người
Con ấy thì không phải chết nhưng sẽ được sống muôn đời. Nơi khác Ngài bảo: Con
Người đến hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người.
Trong bữa Tiệc Ly, Ngài phán với các môn đệ: Này là mình Ta sẽ bị nộp vì các
con, này là máu Ta sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Rồi thì Ngài cũng đã
xác quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự lên cùng Ta...
Tất cả
phải chăng để chứng tỏ một tình yêu bao la mà Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì
không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Bởi đó,
trong Mùa Chay này chúng ta hãy dành lấy một vài phút để suy nghĩ và cảm tạ
tình thương của Chúa, đồng thời chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem, chúng ta đã
làm được những gì để đáp trả tình yêu thương ấy.
11.
Nhìn lên ánh sáng – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong
sa mạc, dân Israel
kêu trách Thiên Chúa và ông Môsê. Thiên Chúa cho rắn độc ra cắn họ, khiến nhiều
người phải chết. Dân chúng xin ông Môsê khẩn cầu Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền
cho ông làm một con rắn bằng đồng và treo lên để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con
rắn đồng, thì được sống (Ds 21, 4b-9).
Hôm
nay, khi nói Người sẽ bị treo lên như con rắn đồng của Môsê, Đức Giêsu mời gọi
ta cũng hãy biết nhìn lên Thánh giá để được sống. Việc nhìn lên Đức Giêsu bị
treo trên Thánh giá mở ra cho ta những nhận thức sau:
1) Nhận
thức về tội lỗi của ta. Dân Do thái phản nghịch với Chúa, nên họ đã bị rắn lửa
cắn chết. Chính tội lỗi làm người ta phải đau khổ. Chính tội lỗi đã gây ra tai
hoạ cho toàn dân. Chính tội lỗi đã gây ra chết chóc. Nhìn lên con rắn đồng là
nhận biết mình tội lỗi. Cũng vậy, vì tội lỗi của ta mà Đức Giêsu đã chịu treo
trên Thánh giá. Người nào có tội tình gì mà phải chết đau đớn, tủi nhục như
thế. Không một mảnh vải che thân. Chết lúc tuổi thanh xuân. Chết như một tội
nhân. Chết như một người nô lệ. Trước khi chết đã bị sỉ nhục, bị hành hạ đến
tan nát hình hài, đến chẳng còn hình tượng con người. Tất cả chỉ vì tội lỗi của
ta. Tội lỗi đã làm ta phải chết. Tội lỗi làm linh hồn ta bị biến dạng, méo mó,
xấu xa. Tội lỗi khiến ta tủi nhục chẳng dám ngẩng mặt nhìn lên. Đức Giêsu đã
gánh lấy tất cả tội lỗi của ta. Người chịu nhục nhã cho ta được vinh quang.
Người chịu thương tích để chữa lành vết thương của ta. Người chịu chết như nô
lệ để ta được tự do. Người chịu chết cho ta được sống. Người chịu treo lên để
kéo ta khỏi vũng bùn nhơ tội lỗi. Nhìn ngắm Người chính là nhìn ngắm tội lỗi
của ta. Hiểu được cái chết đau đớn tủi nhục của Người là ý thức được tội lỗi
nặng nề của ta.
2) Nhận
thức về tình yêu thương của Chúa. Nhận thức về tội lỗi đưa ta đến nhận thức về
tình yêu thương của Chúa. Ta tội lỗi đáng phải chết. Nhưng Chúa thương yêu
không bỏ rơi ta. Người tìm hết cách cứu ta. Tình yêu Chúa dành cho ta thật bao
la tha thiết. Tình yêu đã khiến Chúa ra như điên dại. Còn ai điên dại hơn người
dám hy sinh con một mình để cứu người khác. Thế mà Chúa Cha đã "yêu ta đến
nỗi đã ban Con Một" của Người cho ta. Còn ai điên dại hơn kẻ dám liều mạng
chết vì người yêu. Thế mà Đức Giêsu đã tự nguyện chết cho ta. Người đã dậy ta:
"Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng
sống cho bạn hữu" (Ga 15,13). Chính Người đã hy sinh mạng sống để làm
chứng tình yêu Người dành cho ta. Ta có xứng đáng gì đâu? Ta chỉ là một hạt
bụi. Ta ngập trong yếu đuối tội lỗi. Thế mà Người yêu thương đến điên dại, đến
chết vì ta. Càng nhìn lên Thánh giá, ta càng thấy mình tội lỗi. Càng thấy mình
tội lỗi, ta lại càng thấy tình yêu thương của Chúa dành cho ta thật là bao la,
tha thiết, mênh mông khôn tả.
3) Nhận
thức về ơn cứu độ của Chúa. Trong sa mạc họ chẳng tìm ra người có thể cứu chữa
họ. Chẳng có thuốc nào cứu họ khỏi chết. Chỉ mình Thiên Chúa có thể cứu họ. Thế
nên họ phải nhìn lên con rắn đồng để được Chúa cứu. Ta cũng thế. Biết thân phận
mình tội lỗi yếu hèn, ta càng cảm nghiệm được ơn cứu độ của Chúa. Ta ngập chìm
trong tội lỗi, chẳng thể nào vươn lên được nếu không có ơn cứu độ của Chúa. Ta
yếu đuối, chẳng thể nào tự sức mình đứng lên nếu không có ơn Chúa nâng đỡ. Ta
bị giam cầm trong ngục tù sự chết, chỉ có Chúa mới có thể tháo bỏ xiềng xích,
đưa ta tới miền sự sống. Linh hồn ta ngập ngụa nhơ uế, chỉ có Chúa mới có thể
rửa sạch tội tình. Linh hồn ta bị bóng tối tội lỗi phủ vây, chỉ có ánh sáng của
Chúa mới soi chiếu cho ta biết đường ngay lẽ phải.
Nhìn
lên Thánh giá chính là từ nơi tối tăm nhìn lên ánh sáng. Ánh sáng tình yêu
thương từ Thánh giá chiếu toả sẽ giúp ta an tâm trở về với Chúa là Cha, người
Cha nhân hiền lúc nào cũng chờ đón đứa con hoang đàng trở về, lúc nào cũng sẵn
sàng tha thứ tội lỗi cho ta. Ánh sáng cứu độ từ Thánh giá chiếu toả sẽ giải
thoát ta khỏi bóng tối tội lỗi, đưa ta trở về làm con cái Thiên Chúa Sự Sáng.
Ánh sáng tình yêu và ánh sáng cứu độ sẽ nâng ta lên, để từ nay ta vượt thoát
lên khỏi bóng tối tội lỗi, sống thanh sạch công chính, luôn mơ ước những điều
cao thượng, xứng đáng là con cái sự sáng. Trong mùa Chay, đặc biệt trong những
ngày Tuần Thánh, ta hãy năng chiêm ngắm Thánh giá, để Chúa nâng tâm hồn ta lên
với Chúa.
Lạy
Chúa, xưa Chúa đã phán: "Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi
người lên với Ta" (Ga 12,32), xin hãy lôi kéo hồn con lên với Chúa.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn
có cảm thấy mình được Chúa yêu thương không? Hãy kể lại một kinh nghiệm trong
đó bạn cảm nhận được tình yêu thương của Chúa.
2) Bạn
có thấy mình yếu đuối, cần ơn Chúa cứu độ không?
3) Bạn
đã chiêm ngắm Thánh giá lâu giờ chưa? Bạn có muốn chiêm ngắm Thánh giá trong
mùa Chay này không?
12.
Chuộng tối hơn sáng
(Trích
trong 'Manna')
Suy
Niệm
Cúp
điện bất ngờ là điều gây khó chịu.
Trong
bóng tối, người ta đi tìm hộp quẹt, tìm ánh sáng để thắp lên một ngọn nến, một
cái đèn dầu. Nói chung chẳng ai thích bóng tối, vì bóng tối là dấu hiệu của lạc
hậu, thiếu văn minh.
Ấy thế
mà cũng có những người mê bóng tối. Bóng tối của quán bia ôm, của Karaokê, của
sàn nhảy... Phải bỏ tiền ra để mua được bóng tối. Bóng tối đồng lõa, che đậy,
lấp liếm, làm mặt nạ. Bóng tối trong tâm hồn cần có bóng tối ở ngoài. Nó sợ ánh
sáng làm lộ chân tướng.
"Ánh
sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các
việc họ làm đều xấu xa."
Ghét
ánh sáng, chuộng bóng tối: đó là thảm kịch nơi lòng con người, bởi lẽ con người
được sinh ra để sống cho ánh sáng.
Lắm khi
người ta từ chối tin vào Đức Kitô, từ chối đến với ánh sáng và sự thật, chỉ vì
đời họ chìm trong bóng tối và giả trá. Những lý do biện minh cho sự từ chối này
thường đến sau khi đã chọn lựa.
Cần
thay đổi cuộc sống để tin hơn vào Thiên Chúa, nhưng cũng cần can đảm đến với
ánh sáng dù biết mình đang chìm trong bóng tối; hay đúng hơn, vì biết mình nô
lệ cho bóng tối mà ta khao khát vươn tới ánh sáng.
Đừng
trốn chạy ánh sáng như Ađam, Evà. Hãy để cho ánh sáng vén mở chính mình, bắt ta
đối diện với sự thật trần trụi về mình, để rồi ta được rực rỡ trong niềm vui.
Chỉ có
một cách ra khỏi bóng tối đó là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn
lên...
Dân Do
Thái xưa trong sa mạc đã được chữa lành nhờ tin tưởng nhìn lên con rắn đồng
treo trên cây gỗ.
Ngày
nay, chúng ta được cứu độ, được sự sống đời đời nhờ tin tưởng nhìn lên Đức
Giêsu bị treo trên thập giá.
Thập
giá là tột cùng của nhục nhã đớn đau, nhưng cũng là biểu hiện tuyệt vời của một
tình yêu.
Kitô
hữu không phải là người tôn thờ đau khổ, nhưng là người say mê tình yêu: tình
yêu của Cha khi trao ban người Con yêu dấu, tình yêu của Con khi hiến tặng mạng
sống mình.
Nhiều
nơi đã đặt tượng Chúa phục sinh trên thập giá, nhờ đó bầu khí nhà thờ tươi vui
hơn. Nhưng ta vẫn không được quên nhìn lên thân xác bầm tím nát tan của Đức
Giêsu trên Núi Sọ.
Ước gì
tôi biết nhìn lên tình yêu bị treo và trở lại với ánh sáng để ánh sáng đưa tôi
vào sâu hơn trong tình yêu.
Gợi Ý
Chia Sẻ
Trong
tôi có ánh sáng và bóng tối; ngoài ra còn có nhiều bóng mờ, nơi khôn g sáng hẳn
hay tối hẳn. Bóng mờ dễ chuyển thành bóng tối. Bạn có thấy một số bóng mờ trong
đời bạn không? Chúng nguy hiểm đến mức nào?
Thế
giới hôm nay tràn ngập ánh sáng của đèn điện. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối đang
rình rập các bạn trẻ. Bạn có gặp bóng tối nào không?
Cầu
Nguyện
Lạy
Chúa Giêsu,
Tạ ơn
Chúa đã cho chúng con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn
năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn
Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách
nhiệm nặng nề.
Xin cho
chúng con có khả năng đẩy lui bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền
và thất vọng.
Xin cho
chúng con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và
biết vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng giây phút của cuộc sống.
Lạy
Chúa Giêsu,
cuộc
chiến giữa ánh sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng
chúng con.
Ước gì
chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn
lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
13. Sự
thật đổi mới chúng ta
Trong
cái tranh tối tranh sáng của cuộc đời. Thiên Chúa đổi mới chúng ta. Ngài ban
Con Một Ngài cho chúng ta để mặc khải chân lý cho chúng ta và mở đường cho
chúng ta đi vào cuộc sống vĩnh cửu. Bài Tin Mừng hôm nay khó hiểu. Nó không kể
lại một giai đoạn trong đời Chúa Giêsu hoặc một dụ ngôn. Đây là một suy tư về
đời sống vĩnh cửu và về việc Thiên Chúa sai Con Một Ngài đến với chúng ta để
cứu độ chúng ta, để đổi mới chúng ta.
Ánh
sáng về con người của chúng ta.
Thật
khó nói về đời sống vĩnh cửu: Chúng ta biết rất ít về cuộc sống này. Tuy nhiên
một số kinh nghiệm trong cuộc đời trần gian có thể giúp chúng ta tưởng tượng ra
cuộc sống ấy như thế nào.
Có
những lúc trong đời chúng ta có cảm giác như đã khám phá ra một điều gì quan
trọng làm cho mọi sự được sáng tỏ trước mắt chúng ta. "Đúng rồi, tôi là
như vậy, và tôi muốn trở thành như vậy đó". Lúc ấy chúng ta có cảm tưởng
đã tìm thấy được sự thật về con người của mình như các triết gia hoặc như các
nhà tâm lý học nói. Có lẽ đây là một kinh nghiệm hiếm có, nên khi điều này xảy
ra, khi chúng ta được nối kết vào con người sâu thẳm của chúng ta, chúng ta có
cảm tưởng như tìm được con đường mà ta phải đi. Lúc đó ta dễ hoạt động hơn bởi
vì ta đã khám phá được mình là ai. Lúc đó ta có thể hành động theo sự thật mà
ta có về mình. Nếu điều này xảy ra, và thường là trong một giai đoạn u tối của
cuộc đời khi chúng ta không còn biết "bám víu" vào đâu nữa, hoặc
chúng ta không còn biết cuộc đời mình có giá trị gì, thì chúng ta lại được cứu.
"Mà thật, đúng thế, trước đây tôi đã không thấy điều này. Ô, nhưng mà nó
làm thay đổi mọi sự!". Lúc đó ta cảm thấy mình được đổi mới, đầy sức lực,
đầy những khả năng mới, sẵn sàng sống theo sự thật mà ta vừa khám phá ra.
Cũng
gần giống như vậy về sự sống vĩnh cửu là ánh sáng và sự thật. Sự sống ấy đến
với chúng ta như một ân huệ của Thiên Chúa, Đấng muốn chúng ta sống thực sự.
Nhưng chúng ta biết rằng sự thật đôi khi quấy rầy những thói quen sống của
chúng ta và chúng ta từ chối ánh sáng và những thách thức của nó. Vì thế mà Tin
Mừng khắt khe với những kẻ từ chối Chúa Giêsu Kitô. Cũng như những sự thật mà
đôi khi chúng ta phát hiện được trong cuộc đời chúng ta, sự sống vĩnh cửu không
tự áp đặt cho ai cả. Nó chỉ tự giới thiệu mình để chúng ta lựa chọn mà thôi.
Đây vừa là một lời mời gọi vừa là một hồng ân.
Một lời
mời gọi sống.
Vậy
Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Con Một Ngài để giúp chúng ta sống sự thật nơi
con người chúng ta và chính vì thế mà Chúa Giêsu mặc khải cho chúng ta sự thật
về con người chúng ta và về mối quan hệ giữa chúng ta với tha nhân và với Thiên
Chúa. Tin vào Chúa Giêsu là tin vào đời sống vĩnh cửu và mời gọi chúng ta sống
theo sự thật này: Thiên Chúa là Cha, và chúng ta là anh em với nhau.
Có lẽ
thường thường chúng ta sống trong sự mập mờ của cuộc đời và những kinh nghiệm
của chúng ta về sự thật sâu xa vẫn là điều hiếm có. Nhưng kẻ đã tìm được sự
thật của Chúa Giêsu Kitô, kẻ tin vào Chúa Giêsu vì đã thực sự khám phá ra Ngài
vào một ngày nào đó trong đời mình, người ấy đã tìm thấy được ánh sáng trong
thâm cung của lòng mình. Ánh sáng này đôi khi có thể leo lét, nhưng kỷ niệm về
việc tìm thấy nó vẫn tiếp tục soi sáng cuộc đời của họ, cho cuộc đời ấy một ý
nghĩa, và dẫn đưa họ đến với tha nhân để sống theo sự thật.
Tin
Mừng nói với chúng ta rằng Thiên Chúa đã sai Chúa Giêsu đến không phải để kết
án nhưng để cứu độ chúng ta, để cho cuộc đời chúng ta được đổi mới nhờ sự thật.
Và chúng ta được đổi mới khi chúng ta nhìn thấy rõ hơn, khi chúng ta cảm thấy
mình sống động hơn, khi những năng lực mới giúp chúng ta vạch ra những dự án
mới hoặc cho chúng ta can đảm và sức mạnh để tiếp tục những gì mình đã bắt đầu.
Chính nhờ thế, mà cuộc sống vĩnh cửu đã mở ra cho chúng ta: một con đường mới
để sống với bản thân, với Thiên Chúa và với tha nhân, nhờ ánh sáng mà Chúa
Giêsu mang đến cho thế giới và cho cuộc đời chúng ta.
Sống
vĩnh cửu là chiêm ngắm mầu nhiệm lớn lao nơi thâm tâm chúng ta và trong lòng kẻ
khác, chiêm ngắm Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã đến mặc khải cho chúng ta. Sống
vĩnh cửu là hành động theo sự thật. Vậy nên như Tin Mừng nói, công việc của
chúng ta "sẽ được nhìn nhận như là công việc của Thiên Chúa", công
việc của những con người được tháp vào sự thật và không sợ ánh sáng bởi vì họ
biết rằng ánh sáng của Chúa Giêsu Kitô nhằm cứu độ mọi người chúng ta và cả thế
giới.
14.
Tình yêu lớn nhất
(Trích
trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Có rất
nhiều giai thoại kể về những tượng thánh giá cổ xưa... Tại một nhà thờ bên Tây
Ban Nha, có một tượng thánh giá cổ rất đặc biệt. Cánh tay trái của Chúa Giêsu
vẫn còn đóng vào gỗ giá, nhưng cánh tay mặt thì rời ra và đưa lên phía trước
trong tư thế ban phép lành.
Người
Tây Ban Nha kể về nguồn gốc của tượng thánh giá này như sau: Một hôm có một hôm
có một tội nhân đến xưng tội với vị linh mục chính xứ ngay dưới cây thánh giá
này. Như thường lệ, mỗi khi giải tội cho một tội nhân có quá nhiều tội nặng, vị
linh mục này thường tỏ ra rất nghiêm khắc. Ngài ra việc đền tội thật nặng cũng
như ngăm đe nhiều điều. Tội nhân ra về lòng cảm thấy nhẹ nhàng. Nhưng tính nào
tật nấy, không bao lâu, người đó lại sa ngã. Lần này, sau khi tội nhân xưng thú
tội lỗi, vị linh mục lại đe doạ: "Đây là lần cuối cùng tôi giải tội cho
anh!"
Nhiều
tháng trôi qua, tội nhân lại đến quỳ dưới chân linh mục cũng bên cây thánh giá
và lại xin ơn tha thứ một lần nữa. Nhưng lần này, vị linh mục đã dứt khoát.
Ngài lên giọng: "Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không thể ban phép giải tội
cho anh nữa!". Nhưng lạ lùng thay, khi vị linh mục vừa khước từ tội nhân
sám hối, thì Ngài bỗng nghe một tiếng thì thầm từ bên thánh giá. Bàn tay phải
của Chúa Giêsu bỗng được rút ra khỏi thánh giá và ban phép lành cho hối nhân.
Và vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói: "Chính Ta là người đã đổ
máu ra cho người này chứ không phải ngươi".
Từ đó,
bàn tay của Chúa Giêsu cứ ở mãi trong tư thế ban phép lành, như không ngừng mời
gọi con người đến để ban ơn tha thứ. Du khách đến viếng, nhìn lên thánh giá đều
có cảm tưởng như ánh mắt của Chúa Giêsu nhìn mình và nghe như có tiếng thì
thầm: "Ta không hề kết án con".
Anh chị
em thân mến, Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lên thập giá của Đức Kitô.
Nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Ngài luôn tha thứ chứ
không kết án. "Ta không muốn tội nhân phải chết, nhưng muốn nó bỏ đường
tội lỗi, quay trở lại để được sống" (Ed 33,11). "Quả vậy, Thiên Chúa
sai Con của Ngài đến thế gian không phải để lên án thế gian, nhưng để thế gian
nhờ Con của Ngài mà được cứu độ". "Cũng như Môsê treo con rắn đồng
trong sa mạc thế nào, thì Con Người cũng bị treo lên như vậy, để tất cả những
ai tin ở Ngài sẽkhông phải chết, nhưng được sống đời đời". Thập giá đã trở
thành dấu chỉ ơn cứu độ cho những ai tin vào Ngài, tương tự như con rắn đồng đã
được Môsê giương cao trong sa mạc thuở xưa, để những ai bị rắn lửa cắn, nhìn
lên con rắn đồng ấy đều được cứu sống.
Thánh
Gioan còn nói tiếp: "Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con
Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn
đời". Thiên Chúa một lần nữa lại biểu lộ tất cả tình thương của Ngài đối
với chúng ta trong Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Tất cả bắt nguồn từ
Thiên Chúa Tình Yêu. Tình yêu của Ngài không ở trên mây trên gió, nhưng được
thể hiện qua hành vi "trao ban". Điều quí nhất của Người Cha là Người
Con. Thế mà Thiên Chúa đã muốn trao ban cho nhân loại chính Con Một dâú yêu của
Ngài. Ngài đã cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu chính là quà tặng lớn nhất Thiên
Chúa Cha đã trao ban cho nhân loại. Việc trao ban này trước tiên được biểu lộ
qua việc Ngài sai Con Người và cuối cùng qua việc nộp Con Một cho loài người
treo lên thập giá. Đó là lúc Thiên Chúa trao ban Con Một của Ngài cho loài
người một cách trọn vẹn nhất, dứt khoát nhất. Bởi vậy, chính lúc đó là lúc
Thiên Chúa đã đặt Con của Ngài làm Đấng ban sự sống cho loài người,đểai tin vào
Người Con ấy thì được sống đời đời. Vì con của Ngài đến không phải để kết án
luận phạt, nhưng để cứu loài người khỏi chết và cho thông phần vào cuộc Phục
Sinh vinh quang của Ngài.
Thưa
anh chị em, đứng trước thập giá Đức Kitô, chúng ta phải có thái độ nào? Tin vào
tình yêu Thiên Chúa hay chối từ tình yêu của Ngài? Chính thái độ đó sẽ định
đoạt số phận của chúng ta. Vì thế, tin hay không tin là một chọn lựa sống chết.
Mỗi người có đủ tự do tiếp nhận hay từ chối ánh sáng. Ai tin là đón nhận ánh
sáng, là bước vào cõi sống. Ai không tin là từ chối ánh sáng và tự đầy đọa mình
trong tăm tối, trong cõi chết. Thiên Chúa không cần kết án luận phạt nữa.
"Thiên
Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài", đó là chân lý
cơ bản nhất của Kitô giáo. Tất cả cuộc đời cuả Chúa Giêsu, cái chết của Ngài
trên thập giá, là ngôn ngữ Chúa muốn sử dụng để nói với chúng ta rằng Ngài yêu
thương chúng ta, yêu thương đến nỗi sẵn sàng để cho Ngươì Con Một yêu quí của
Ngài chết thay cho chúng ta.
Hãy
nhìn lên thập giá để thấy được tình yêu bao la của Chúa. Phải, bên kia sự ác
độc của tội lỗi, Chúa Giêsu chỉ muốn chúng ta nhìn thấy được tình yêu của Thiên
Chúa: một tình yêu không ngừng tha thứ, một tình yêu vượt lên trên mọi tư
tưởng, mọi tiêu chuẩn phán đoán, mọi khát vọng của chúng ta.
Nhìn
lên thập giá Chúa Kitô không phải để thất vọng vì gánh nặng của tội lỗi, trái
lại để cảm nghiệm được hồng ân bao la của Chúa, để cho tâm hồn được phấn khởi,
tin yêu hơn.
Nhìn
lên thập giá Chúa Kitô để cảm nghiệm được ơn tha thứ của Ngài, để chúng ta cũng
biết cảm thông và tha thứ cho anh em chúng ta. Càng nhận ra được tình yêu tha
thứ của Chúa, chúng ta càng được mời gọi yêu thương tha thứ cho anh em nhiều
hơn. Thiên Chúa không kết án luận phạt chúng ta, sao ta lại kết án luận phạt
anh em mình? "Hãy tha thứ để được Chúa tha thứ. Đừng xét đoán để khỏi bị
Chúa xét đoán" (Lc 6, 36-37). Hãy yêu thương như Chúa đã yêu thương ta.
Một lần
nữa, hãy ngước nhìn lên thập giá Chúa Kitô:
Hãy xem
đó thì biết phép công thẳng của Chúa là thế nào! Hãy xem đó thì biết tội nặng
nề gớm ghiếc là chừng nào! Hãy xem đó thì rõ biết lòng Chúa quá yêu thương ta
là dường nào! (Đàng Thánh Giá, chặng 13).
15.
Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu.
(Suy niệm của Noel Quesson)
"Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con
Một"
Huyền thoại của một nước vùng Ấn Độ có câu chuyện này:
Thời xưa, đất nước còn hoang sơ, có một con thỏ tên là Pôlixa. Thỏ Pôlixa rất
thương người, ai xin gì cũng cho, không từ chối bao giờ. Một hôm có một cụ già
lom khom chống gậy đi tới và nói:
- Già đói lắm, suốt mùa nước lũ già không có gì ăn. Chắc
già sắp chết rồi, giờ đây già chỉ thèm một miếng thịt thỏ, Pôlixa có cho già
được không?
Thỏ Pôlixa nhìn ông già hom hem yếu đuối, tội nghiệp quá.
Thỏ Pôlixa bảo ông:
- Được rồi, ông chờ một lát.
Pôlixa đi kiếm củi xếp thành đống rồi nổi lửa, và nói:
- Ông chờ thịt cháu chín, ông lấy mà ăn.
Rồi thỏ chụm chân nhảy vào lửa. Bỗng nhiên lửa tắt, ông
già biến mất. Thì ra đó là một vị thần được Thượng đế cho phép tới thử lòng
thỏ. Về sau để thưởng công, Thượng đế đã cho thỏ Pôlixa về vui đùa mãi mãi bên
mặt trăng.
Đó chỉ là một chuyện huyền thoại, nhưng có ý nói tới điểm
cao nhất của lòng bác ái, là sẵn sàng chết vì người khác. Đó cũng chính là ý
tưởng của Đức Giêsu mà thánh Gioan đã ghi lại: "Không có tình yêu nào lớn
bằng chết vì bạn hữu".
Chúa Giêsu đã nói và Ngài đã thực hiện như thế. Chúa chết
trên thập giá vì yêu ta. Chính cái chết của Chúa, hay nói khác đi, chính Tình
yêu của Chúa đã đem sự sống tới cho chúng ta. Thiên Chúa yêu thương trần gian
đến mức trao ban Con Một của Người. Người Con Một đó chính là Tình yêu của
Thiên Chúa, đã dùng cái chết để biểu lộ tình yêu tột đỉnh đối với gian trần. Và
Tình yêu đó đã đem đến cho trần gian nguồn sống.
Nhiều người thời nay tỏ ra rất bi quan: "Thế trần hư
hỏng, vô phương cứu chữa..." thiếu gì lý do để buồn rầu chán nản. Một
lương tâm tương đối sáng suốt nào cũng thấy vô số tệ đoan đang diễn ra khắp nơi
khắp chốn: bạo lực, bất công, ích kỷ tập thể hay cá nhân, đê tiện đủ thứ, sa
đọa, mất lương tâm nghề nghiệp... Người ta lợi dụng nhau, hành hạ nhau, dối trá
công khai trên diễn đàn, trong ý thức hệ v,v... Chắc chắn Thiên Chúa thấy rõ
những điều này. Tuy nhiên Người vẫn yêu thương trần gian. Người không chịu nổi
sự tồi tệ của trần gian. Người muốn cứu vớt trần gian. Thiên Chúa tới chung
sống với nhân trần. Người vẫn thấy những gì Người dựng nên là tốt đẹp.
Thiên Chúa muốn con người được sống vĩnh cửu... đó là
cuộc sống từ trên ban xuống (Ga 3,3). Thiên Chúa không kết tội trần gian. Nếu
trần gian bị kết tội là do tự mình mà ra. Thiên Chúa muốn giải thoát nhân loại,
muốn mọi người được cứu rỗi (1Tm 2,4).
Khi con người cương quyết chối từ Thiên Chúa, họ vẫn bó
buộc phải sống gần kề Thiên Chúa mà họ chối từ, đó chính là "hỏa
ngục". Và Thiên Chúa luôn tôn trọng tự do của con người. "Thiên Chúa
sai Con Người giáng trần không phải để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian
nhờ Ngài mà được Cứu độ. Ai tin vào Ngài thì không bị luận phạt. Còn ai không
tin thì đã bị luận phạt rồi". (Ga 3,17-19).
Lạy Chúa, xin giúp chúng con thêm lòng yêu mến Chúa bằng
cách thương mến phục vụ mọi người như Chúa đã yêu thương phục vụ và hy sinh Cứu
chuộc chúng con.
16. Người thợ săn.
Có một thi sĩ, khi còn là một cậu con trai, đã ước mơ làm
linh mục, nhưng rồi vì lười biếng, ước mơ ấy đã không bao giờ trở thành sự
thật. Lớn lên, ông làm quen với ma túy, và chính ma túy đã hủy hoại tinh thần
và thể xác ông. Ông kiếm sống bằng nghề đánh giày, bán diêm quẹt và giữ ngựa.
Sau cùng đã phải ngửa tay đi xin ăn và chui rúc ở gầm cầu xó chợ.
Giữa lúc ấy, nhờ lòng tốt của một cô gái nghèo, ông gặp
được ông bà chủ. Họ thấy ông có tài, nên giúp ông gặp được tình thương của
Chúa. Và ông đã diễn tả kinh nghiệm đời mình trong một bài thơ mang tựa đề là
"Người thợ săn trên trời".
Ông cho biết ông đã trốn chạy Chúa thế nào và Chúa đã
chộp bắt được ông ra làm sao? Ông so sánh mình là như một con thỏ nhỏ, còn Chúa
là như người thợ săn. Khác với người thợ săn, Chúa chộp bắt từng linh hồn,
không phải để giết chết, mà là để cứu sống.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm
nay, trong đó thánh Gioan đã xác quyết:
- Thiên Chúa đã yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban tặng
Con Một Ngài, để những ai tin vào Ngài thì sẽ không bị tiêu diệt, nhưng sẽ được
sống đời đời.
Làm sao chúng ta hiểu được tình thương bao la mà Thiên
Chúa đã dành cho chúng ta. Thánh Phaolô đã gợi ý cho chúng ta nghĩ đến chiều
rộng, chiều dài, chiều cao và chiều sâu của tình yêu ấy trong bức thư gửi tín
hữu Rôma.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì bao la như đại
dương không bờ không bến. Thực vậy, tình yêu ấy đã được trải rộng trên mọi
người, không kỳ thị, không phân biệt màu da và tiếng nói. Tình yêu ấy cũng trải
rộng trên cả những kẻ tội lỗi và phản bội Ngài, bởi vì Thiên Chúa muốn chia sẻ
sự tốt lành của Ngài cho tất cả chúng ta.
Tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thì dài lâu như
chính bản tính của Ngài, bởi vì Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu
vĩnh cửu. Thực vậy, trước khi có thế gian, Ngài đã yêu thương chúng ta và Ngài
sẽ còn yêu thương chúng ta mãi mãi, từ đời này sang đời kia.
Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa dánh cho chúng ta còn thật
cao vời. Đặc tính cao vời này được biểu lộ qua những tặng vật mà Ngài đã trao
ban cho chúng ta. Còn gì cao vời hơn khi được chia sẻ chính sự sống của Ngài
qua các bí tích. Còn gì tuyệt diệu hơn cho bằng việc Ngài ban chính Con Một
Ngài cho chúng ta, để cứu độ chúng ta và ngày nay việc trao ban ấy vẫn còn được
tiếp nối qua việc chúng ta lên rước lễ.
Và sau cùng tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta thật là
thẳm sâu, bởi vì là một Thiên Chúa quyền năng, Ngài đã hạ mình xuống mang thân
phận con người. Sinh ra là một hài nhi bé bỏng nơi máng cỏ Bêlem. Chết đi như
một tội nhân bị bêu xấu trên thập giá.
Từ tình yêu ấy chúng ta thấy được rằng: Thiên Chúa luôn
săn đuổi chúng ta để rồi dẫn chúng ta vào trong tình yêu của Ngài. Bổn phận của
chúng ta trong Mùa Chay này đó là hãy đáp trả tiếng gọi của tình yêu bằng cách
chổi dậy, lên đường và trở về với Ngài.
17. Thích gì.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rất rõ ràng về
bản chất của tội lỗi. Tội chính là chọn lựa bóng tối thay vì chọn ánh sáng là
đời sống của Chúa Giêsu. Đây là một sự thật rất kinh khủng về tội. Tội là một
cớ vấp phạm, không một suy tư nào có thể biện minh cho tội lỗi. Vì Chúa Giêsu
nói với chúng ta rằng những hành vi tội lỗi đều là sự dữ.
Điều chúng ta nên làm là thường xuyên phản tỉnh về những
chọn lựa mà chúng ta đang làm, và phân biệt đó là sự chọn lựa bóng tối của tội
lỗi hay chọn lựa ánh sáng sự thật của Chúa Giêsu Kitô.
Khi phản tỉnh về những điều sai trái của tôi, tôi cảm
thấy bị vỡ mộng và khó chịu về sự bất lực không làm được những chọn lựa đúng
của tôi. Cuộc sống của tôi dường như phản ánh cuộc chiến đấu của thánh Phaolô
trong thư gửi tín hữu Rôma đoạn 7. Trong đoạn này, thánh nhân nói điều mà mình
biết là cần phải làm thì lại không làm được.
Trong thực tế, Giáo Hội khuyến khích chúng ta thực hành
việc xét mình hàng ngày, vào ban tối trước khi đi ngủ. Vào lúc xét mình, chúng
ta nhớ lại các sự việc đã xảy ra trong ngày và tạ ơn Chúa vì những phúc lành mà
Người đã ban cho chúng ta. Chúng ta cũng nhớ lại các tội đã phạm và những điều
chúng ta cần phải làm mà đã không làm và ăn năn thống hối tất cả các tội lỗi đã
phạm. Nhờ ơn Chúa, qua việc xét mình này, chúng ta thấy rõ tâm hồn của mình,
nhận biết các tội đã phạm, giúp chúng ta tỉnh thức hơn để canh phòng tâm trí
của mình và sẵn sàng đón nhận những ơn soi sáng của Chúa.
Chúng ta cần nhận thức cuộc sống của chúng ta là một
chiến trường giữa hai lực lượng thiện và ác. Tin Mừng cho chúng ta biết Chúa
Giêsu Kitô đã chiến thắng trong cuộc chiến đấu vì chúng ta. Chúng ta chỉ chiến
thắng khi khắc phục được tội lỗi và các cơn cám dỗ. Thiên Chúa sẽ không bao giờ
để chúng ta chịu thử thách quá sức chịu đựng của chúng ta. Nhưng chúng ta phải
cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa, để nhờ đó, chúng ta luôn sống như con cái
của ánh sáng và không trượt ngã vào trong vương quốc của tối tăm và tội lỗi.
Lạy Chúa, xin ban cho con sức mạnh và can đảm để con
chiến đấu với các đam mê tội lỗi và nết xấu của con.
18. Yêu Chúa.
Chúa Giêsu dùng hình ảnh con rắn đồng để ám chỉ về cái
chết cứu chuộc của Ngài. Con rắn đồng là gì? Đây là một câu chuyện thời xưa
được Chúa nhắc lại, khi dân Do Thái lang thang trong sa mạc trên đường về Đất
Hứa, họ đã nhiều lần kêu trách Chúa, họ nói rằng: tại sao lại đưa họ vào sa mạc
để họ phải khổ như thế này? Số người Do Thái lúc đầu ra khỏi Ai Cập khoảng hơn
hai triệu người, con số không phải nhỏ bé, họ được Chúa ban manna ăn mỗi ngày,
nhưng rồi họ cũng chán ngán, họ phàn nàn: chẳng có gì vui, chẳng có gì ngon,
chỉ có mỗi manna chán ngắt. Khi họ kêu trách Chúa như vậy tức là họ bày tỏ một
tấm lòng hết tin tưởng, họ muốn quay trở về với kiếp nô lệ để được ăn củ hành
củ tỏi, họ đã mất niềm tin vào Chúa. Có lần Chúa đã cho rắn lửa xuất hiện khắp
nơi và cắn chết nhiều người, khi đó họ mới nhớ ra tội mình bội tín, bất trung
với Chúa, họ ăn năn và cầu cứu với ông Môsê xin Chúa tha thứ. Chúa động lòng
thương bảo ông Môsê làm một con rắn bằng đồng treo lên cây cao, để bất cứ ai bị
rắn lửa cắn, nhìn lên con rắn đồng này thì được cứu sống.
Thật ra con rắn đồng kia chỉ là một thứ kim loại vô tri
vô giác, tự nó không có khả năng hay quyền hành gì để cứu giúp người ta lúc ấy,
yếu tố cứu giúp người ta chính là đức tin. Việc nhìn vào con rắn đồng kia là
biểu hiệu một lòng tin vào Thiên Chúa, niềm tin từ bên trong phát ra bên ngoài
bằng cái nhìn, nhờ đức tin mà Chúa đã cứu họ. Và đó là ý nghĩa của câu Chúa
Giêsu nói với ông Nicôđêmô: "Ngày xưa, Môsê treo con rắn đồng thế nào thì
Con Người sẽ bị treo lên như thế, để nhờ đó những ai tin nhận sẽ được cứu
rỗi". Nói vậy là Chúa có ý ám chỉ cái chết của Ngài, Ngài sẽ chết cách
nào, Ngài sẽ bị treo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại.
Nói rõ hơn, ngày xưa, dân Do Thái muốn được khỏi bệnh rắn
cắn thì nhìn lên rắn đồng, còn ngày nay, chúng ta muốn khỏi bị trầm luân, hư
mất đời đời thì chúng ta cần tin vào Chúa Giêsu, nhận cái chết chuộc tội của
Ngài, để Ngài đem hạnh phúc trường sinh cho. Nói như vậy là để chúng ta ý thức
tình trạng tội lỗi của mình, nếu chúng ta không biết mình là người có tội, là
người phải cần tới Chúa, thì cái chết của Chúa cũng giống như bao nhiêu cái
chết khác, không liên quan gì đến mình, hay cùng lắm chúng ta coi cái chết của
Ngài cũng như cái chết của một vị anh hùng, nếu như vậy thì cái chết của Chúa
sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến chúng ta, thái độ đó cũng chẳng khác gì thái độ của
những người Do Thái xưa kia nhìn lên rắn đồng với cặp mắt nghệ thuật, nên vẫn
bị chết. Chúng ta phải ý thức rằng tất cả chúng ta đều là những tội nhân, bị
rớt xuống vực thẳm, không thể tự cứu nổi mình, chứ đừng nói cứu người khác, vậy
cần phải có một người ở trên, ở ngoài cứu vớt chúng ta, đó là Chúa Giêsu, Chúa
cứu chúng ta bằng cách chết thay cho chúng ta, nếu chúng ta tin nhận như thế là
chúng ta đã bắt đầu đi vào con đường cứu độ của Chúa.
Như vậy bài học Chúa Giêsu dạy đã quá rõ ràng, đó là
chúng ta phải tin vào Chúa thì mới được cứu rỗi. Nói tới niềm tin chúng ta thấy
sống trên trần gian này bất cứ ai cũng có niềm tin, lòng tin hay đức tin. Con
người ta sống không thể nào thiếu vắng điều này, chúng ta không tin điều này
thì tin điều khác, không tin người này thì tin người khác, chúng ta tin nhau,
cha mẹ tin con cái, con cái tin cha mẹ, vợ chồng, bạn bè, trường học, trao đổi
xã hội... đều lấy lòng tin làm căn bản. Từ một em bé đến trường, em có tin cô
giáo dạy học được, em mới đi học, cuộc sống chúng ta trao đổi hàng quà, đồng
tiền, công thợ... đều đặt vào lòng tin tưởng nhau, nếu không tin tưởng nhau
chúng ta không thể nào gặp gỡ và nói chuyện với nhau được. Nói khác đi, chúng
ta có gần gũi nhau hay không, thương yêu nhau hay không, điều đó cũng tùy thuộc
vào lòng tin, chính lòng tin tạo nên hy vọng, tình yêu, một gia đình cùng một
lòng tin "tát bể đông cũng cạn". Như vậy, tin là chuyện bình thường
trong cuộc sống, từ đó chúng ta dễ hiểu lòng tin trong lãnh vực tôn giáo, đối
với chúng ta, đó là đức tin.
Cũng thế và hơn thế, Thiên Chúa chỉ đòi hỏi chúng ta phải
có một đức tin sắt son vào Ngài, có bấy nhiêu thôi, nếu chúng ta không tin Ngài
thì tin ai? Tin vào mình chăng? Tin vào tài trí, hy vọng vào chính mình, vào
đời mình chăng? Làm như vậy là gánh vàng đem đổ sông Ngô, là xây nhà trên cát.
Chúng ta tin Chúa, chắc chắn rồi, chúng ta tin lời Chúa, cũng chắc chắn rồi,
nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải tin Chúa thương yêu chúng ta. Chúng
ta tin Chúa là Cha rất gần gũi con cái, đùm bọc, che chở, quan phòng, rất toàn
năng, đó là bấy nhiêu của lòng tin. Từ lòng tin đó chúng ta bắt đầu yêu Chúa.
Chúng ta tin nên chúng ta yêu, hay yêu rồi tin cũng thế, chỉ biết rằng lòng tin
nâng đỡ tình yêu, và tình yêu nâng đỡ lòng tin, có tin mới yêu, cũng như có yêu
mới tin.
Chúng ta đang sống trong Mùa Chay, chúng ta đã đi được
một nửa đường của Mùa Chay. Mùa Chay kêu gọi chúng ta ăn năn sám hối, sửa đổi
đời sống. Chúng ta là những người tội lỗi, chúng ta tin Chúa yêu chúng ta hơn
những người trần gian yêu chúng ta nhất, nên chắc chắn Ngài sẽ tha thứ cho
chúng ta khi chúng ta xin lỗi Ngài. Vậy để biểu lộ lòng chúng ta tin yêu Chúa,
chúng ta hãy ăn năn sám hối.
19. Con rắn
Khi đi ngang qua các tiệm thuốc tây hay nhà thương, chúng
ta thấy vẽ hình một con rắn, quấn quanh cây cột. Đó là biểu tượng của ngành y,
một nghề cứu nhân độ thế. Biểu tượng này bắt nguồn từ một biến cố xảy ra cho
dân Do thái trên đường về miền đất hứa.
Bấy giờ họ phàn nàn kêu trách Chúa và Môsê vì đã không
cho họ bánh ăn và nước uống như hồi ở bên Ai Cập. Họ đã quá chán ngán thứ manna
này rồi. Và thế là Chúa đã trừng phạt họ bằng cách cho rắn độc bò ra cắn chết
nhiều người.
Tuy nhiên, khi họ biết ăn năn hối cải, Ngài đã ra lệnh
cho Maisen đúc một con rắn đồng, treo nó lên một cây cột và hễ ai bị rắn độc
cắn, chỉ cần nhìn lên rắn đồng là được bảo đảm an toàn tính mạng.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi
con rắn đồng một hình ảnh về bản thân mình.
Thực vậy, như con rắn ngày xưa, Ngài cũng bị treo lên để
những ai nhìn lên Ngài với ánh mắt tin tưởng và sám hối, thì sẽ được tha thứ và
được sống đời đời.
Trong Phúc Âm, thánh Gioan đã nói đến ba lần việc Con
Người phải được giương cao, ám chỉ cái chết của Ngài trên thập giá, nhưng đồng
thời cũng mang ý nghĩa về sự Phục sinh và lên trời của Ngài.
Trong cái nhìn của thánh Gioan, thập giá chính là đỉnh
cao trong tiến trình trở về với Chúa Cha. Đây là một tiến trình đi lên, trái
ngược với tiến trình đi xuống của Ngôi Lời lúc nhập thể:
- Khi nào các ngươi giương cao Con Người lên, các ngươi
sẽ biết rằng Ta là ai... Khi nào Ta được giương cao lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi
người đến cùng Ta.
Đức Kitô, Đấng đã chịu treo trên thập giá, đã được Phục
sinh và lên trời. Chính Ngài không ngừng cuốn hút vũ trụ này về với Ngài, để
dâng lại cho Chúa Cha.
Chúng ta đang ở trong Mùa chay, đây là thời gian thích
hợp để chúng ta nhìn lên Đức Kitô trên thập giá.
Những người bị rắn độc cắn nơi hoang địa đã nhìn lên rắn
đồng như biểu tượng của lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa. Họ nhìn lên
với thái độ tin tưởng và đã được thoát chết.
Chúa Giêsu không cứu chúng ta khỏi cái chết phần xác,
nhưng Ngài còn làm một điều lớn lao hơn nhiều, đó là cho cả hồn lẫn xác của
chúng ta được sống đời đời.
Chúng ta quen hiểu sự sống đời đời là sự sống vĩnh cửu
vào ngày tận thế. Tuy nhiên, theo thánh Gioan thì sự sống đời đời đã được bắt
đầu ngay từ bây giờ, ngay từ lúc chúng ta còn sống trên trần gian.
Chỉ cần tin vào Đức Kitô là nguồn mạch ơn cứu độ, là quà
tặng cao cả nhất của Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm thấy sự sống của Ngài tràn vào
cuộc đời chúng ta.
Chỉ cần nhìn lên những dấu đinh và trái tim bị đâm thâu
qua của Ngài là chúng ta sẽ nhận ra dấu chỉ của một tình yêu và chúng ta được
mời gọi để sống một cuộc đời hoàn toàn khác, như thánh Phaolô đã viết:
- Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính Đức
Kitô sống trong tôi. Tôi sống cuộc sống hiện tại của tôi trong niềm tin vào Con
Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi.
Hãy nhìn lên thập giá với tâm tình sám hối, để nhờ đó
chúng ta được Chúa tha thứ và được chữa lành khỏi nọc độc của tội lỗi.
20. Thiên Chúa yêu.
Thiên Chúa quá yêu thế gian, đến nỗi đã ban Con một của
Người, để ai tin vào Con của Người thì không phải chết, nhưng được sống muôn
đời.
Chúng ta được nghe những lời tuyệt vời này trong bài Phúc
âm hôm nay. Đây là một bản tóm tắt thật hay của Tin Mừng.
Điều đầu tiên chúng ta cần ghi nhận, đó là chính Thiên
Chúa đi bước đầu trong việc cứu độ.
Đôi khi, chúng ta có cảm giác rằng: trước hết Thiên Chúa
phải nguôi cơn giận, sau đó Ngài mới tha thứ cho chúng ta. Chúng ta đã mường
tượng ra hình ảnh Thiên Chúa như là một Đấng nghiêm khắc, nóng giận, và không
biết tha thứ.
Nhưng trái lại, Đức Giêsu lại giới thiệu Thiên Chúa như
là một Đấng đầy khoan dung, giàu lòng và luôn tha thứ. Nhờ sự chết của mình,
Đức Giêsu đã thay đổi thái độ của Thiên Chúa đối với chúng ta.
Nhưng Tin Mừng hôm nay còn cho thấy chính Thiên Chúa đã
sai Con của Ngài đến với chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng đi bước trước.
Thiên Chúa chọn phương pháp của tình yêu, chứ không phải
của sức mạnh. Thiên Chúa hành động không vì mục đích của riêng Người, nhưng vì
chúng ta. Thiên Chúa không phải là nhà độc tài tuyệt đối, một người không cảm
thấy hài lòng, cho đến khi bắt buộc các tạo vật của Người phải vâng phục một
cách hèn hạ. Nói đúng hơn, Thiên Chúa là một người Cha, Người không cảm thấy
hài lòng, cho đến khi tất cả những con cái đang tản mác của Người được trở về.
Đoạn này cũng cho thấy rằng tình yêu của Thiên Chúa bao
hàm tất cả như thế nào. Tình yêu của Người không chỉ hướng đến một quốc gia duy
nhất, mà cũng không chỉ dành riêng cho người tốt. Tình yêu của Người hướng đến
tất cả các quốc gia, dành cho những con cái của ánh sáng, và cả những con cái
của bóng tối nữa.
Nhưng đoạn này cũng nói về sự phán xét và kết án. Nếu
Thiên Chúa chọn phương pháp đầy yêu thương, thì làm thế nào mà phương pháp đó
lại có thể bao hàm cả việc phán xét và kết án? Làm thế nào mà việc kết án lại
có thể hòa giải với tình yêu được? Hành động của Thiên Chúa không lôi kéo theo
sự kết án ai cả. Con người đã tự kết án chính mình, bằng cách sống theo thái độ
tiêu cực. Thiên Chúa đã gửi cho chúng ta một nguồn sáng. Nếu con người bị hư
mất, chính bởi vì họ đã không chấp nhận ánh sáng. Lỗi không phải do Thiên Chúa,
nhưng là lỗi của chúng ta.
Lần kia, một khách tham quan được hướng dẫn đi khắp chung
quanh một phòng trưng bày nghệ thuật. Phòng trưng bày đó chứa đựng một số bức
tranh đẹp, đã được thừa nhận là những kiệt tác thế giới. Sau khi tham quan một
vòng, người du khách nói "Tôi không cho là những bức tranh cũ kỹ này có
nhiều giá trị". Hướng dẫn viên trả lời "Thưa ông, không cần phải xem
xét về những bức tranh này nữa. Nhưng cần phải xét lại về những người nhìn vào
chúng".
Phản ứng của người đàn ông không phải là một lời phê phán
đối với bức tranh, mà là cách đánh giá thấp kém của ông ta về nghệ thuật. Tương
tự như vậy, những ai ưa thích bóng tối hơn là ánh sáng, thì đã tự kết án chính
mình.
Những người xấu ghét ánh sáng bộc lộ cho họ nhìn thấy bản
thân họ. Họ ghét lòng tốt, bởi vì lòng tốt bộc lộ tâm địa xấu xa của họ. Họ sẽ
phá hủy ánh sáng, lòng tốt, tình yêu, để tránh bị nỗi đau của sự tự phát hiện
ra bản thân mình.
Thật khủng khiếp khi người ta khước từ ánh sáng, khước từ
sự ban tặng tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng thật ngọt ngào khi được bước đi
trong ánh sáng tình yêu của Người. Trong quá trình cứu độ, phần đóng góp của
chúng ta chính là biết chấp nhận quà tặng của Thiên Chúa, trong tất cả bản tính
nhân loại của mình, và cố gắng đáp trả lại bằng sự tận tụy. Chúng ta có khả năng
yêu mến Thiên Chúa, bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta trước.
21. Nhìn lên Thập giá
Bất cứ ai đã đọc sách Xuất hành trong Cựu ước, kể lại
cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu chuyện con rắn đồng. Đó
là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Môsê. Chúa
liền cho rắn lửa bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại
ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Môsê cứu giúp. Ông Môsê cầu xin Chúa. Chúa bảo
ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn
lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu
dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng
phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó,
thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để
so sánh, Chúa quả quyết: "Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một,
để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời".
Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự
sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để
bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh
vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng
bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đích-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi
ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe
tiếng tên trộm Ghét-ta chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống
khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đích-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa
chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa
Giêsu, anh tha thiết thưa: "Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của ông, xin
nhớ đến tôi". Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: "Tôi bảo
thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng".
Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã
nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh
với anh. Anh nói: "Mày đáng chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên
Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng
với việc đã làm". Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng
đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có
lẽ tệ hơn cả Baraba, vì Baraba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh
xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin
nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin
phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực
sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập
giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài
về nơi vương quốc của Ngài.
Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống
khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa
thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm
tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa
khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?
Kể từ khi thập hình của người Rôma được áp đặt cho Chúa
Giêsu, thì thập giá đã trở thành thánh giá và bóng thánh giá của Ngài đã bao
trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của thánh giá. Không ai
có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại
bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.
Thánh giá không chỉ được dựng lên trước nóc nhà thờ,
trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa
phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh
đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp.
Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy.
Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người.
Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để
chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.
Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục sinh, chúng ta
không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương
cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã
phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm
lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.
Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi,
đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm
đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu thế.
Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người
tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối
cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn
là điều kiện để chữa trị.
Trong Mùa chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình
xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào
lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn
được Chúa thương yêu tha thứ.
22. Suy Niệm của Lm. Nguyễn Minh Hùng
Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa
Tại một nhà thờ bên Tây Ban Nha có một tượng thánh giá
rất đặc biệt: Chúa Giêsu chỉ chịu đóng đinh có một tay trái và hai chân, tay
phải rời khỏi lỗ đinh và đưa ra phía trước trong tư thế như đang ban phép lành.
Chuyện kể rằng, một lần, tại nhà thờ này có một tội nhân
đến xưng tội. Đối với một tội nhân có quá nhiều tội nặng như anh ta, vị linh
mục rất nghiêm khắc và ngăm đe nhiều điều. Nhưng chứng nào vẫn tật đó, ra khỏi
tòa giải tội ít lâu, hối nhân lại tiếp tục sa ngã. Rất nhiều lần như thế. Cuối
cùng, vị linh mục đành răn đe: "Tôi không muốn anh vấp lại những tội như
thế nữa. Đây là lần cuối cùng tôi tha tội cho anh. Hối nhân ra khỏi tòa giải
tội mà lòng trĩu nặng và đau khổ. Được vài tháng sau, anh ta lại đến xưng tội,
và xưng cũng cùng những tội nặng y như những lần trước. Vị linh mục dứt khoát:
"Anh đừng có đùa với Chúa. Tôi không tha!". Thật lạ lùng. Ngay lập
tức, vị linh mục cùng hối nhân đều nghe có tiếng thì thầm phía bên trên. Từ cây
thánh giá, bàn tay phải của Chúa Giêsu được rút ra khỏi lổ đinh và ban phép
lành cho hối nhân. Vị linh mục nghe được tiếng thì thầm ấy nói với chính mình:
"Ta là người đổ máu ra cho người này chứ không phải con".
Kể từ đó, bàn tay phải của Chúa Giêsu không gắn vào thánh
giá nữa, nhưng vẫn giữ tư thế đang ban phép lành, như không ngừng mời gọi:
"Hãy trở về với Ta, các ngươi sẽ được tha thứ".
Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa lớn lắm, mạnh lắm.
Có lẽ, nếu có so sánh với trời cao biển rộng vẫn cứ còn khập khiễng. Lòng tha
thứ của Thiên Chúa lớn cho đến mức, tội lỗi đã quá sức chịu đựng của lòng
người, Thiên Chúa vẫn một lòng tha thứ. Dẫu cho mọi người rất kinh nghiệm về
nỗi yếu đuối của bản thân mình, nhưng vẫn khó tha thứ cho anh chị em, thì Thiên
Chúa không mảy may vướng một lỗi lầm nào, lại rất dễ dàng thứ tha.
Đọc bài Tin Mừng Chúa nhật thứ IV mùa Chay, ngay câu đầu
tiên, câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môsê đã giương cao con rắn ở sa mạc thế
nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", tôi bỗng nhớ tới câu chuyện
cảm động bên trên, để càng cảm nhận rất nhiều lần rằng: Thiên Chúa là Chúa của
tình yêu. Tha thứ là gương mặt chói ngời của tình yêu Thiên Chúa. Bởi tôi nhận
ra trong câu nói của Chúa Giêsu bộc lộ cả một nỗi lòng khoan dung tha thứ của
Thiên Chúa.
Vậy câu nói của Chúa Giêsu: "Như Môsê đã giương cao
con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như vậy", có liên
quan thế nào với tình yêu tha thứ của Thiên Chúa?
Chắc anh chị em còn nhớ câu chuyện con rắn đồng trong sa
mạc? Sau khi xuất Ai Cập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp
mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Một lần cơn thịnh nộ của
Chúa đã để cho rắn độc cắn chết nhiều người. Dân Chúa quá sức khiếp sợ. Họ nhìn
nhận tội lỗi của mình, và Chúa đã đoái thương nỗi khốn khổ của họ. Ngài dạy ông
Môsê hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu
nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu. Như vậy, khi con rắn đồng được giương lên,
thì ngay chính lúc đó, lòng tha thứ của Thiên Chúa lại tỏa sáng và trao ban. Từ
nay Thiên Chúa sẽ cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách Ngài.
Hình ảnh con rắn đồng đó, là biểu trưng của Đấng Cứu
Chuộc. Cũng như con rắn đồng được giương cao, Chúa Kitô sẽ giương cao như vậy.
Nếu con rắn đồng nói lên lòng tha thứ, thì Chúa Kitô được giương cao, chính là
lòng tha thứ của Thiên Chúa đạt đến tuyệt đối, chiếu sáng ngời ngời và lan tỏa
đến bất cứ người nào đã từng được sinh làm người trong cuộc trần. Chúa giương
cao, nghĩa là lòng tha thứ của Thiên Chúa được gương cao cho cả nhân loại nhìn
vào mà học lấy, mà tha thứ cho nhau.
Lòng tha thứ của Thiên Chúa mạnh lắm, mạnh đến nỗi, Thiên
Chúa như ném chính Người Con duy nhất và yêu quí nhất của mình cho trần gian để
thực hiện hiện lòng tha thứ đối với chính trần gian vô vàn lần xúc phạm Thiên
Chúa.
Trong mạch văn của bài Tin Mừng, thánh Gioan còn ghi thêm
chính lời Chúa Giêsu: "Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến luận phạt
trần gian, nhưng để trần gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ". Thiên Chúa
luôn ở về phía chúng ta để ra tay cứu chứ không phải phạt.
Mùa Chay là mùa của lòng yêu thương tha thứ. Bởi thế,
việc ăn chay trong mùa Chay, trước hết phải là xóa bỏ hận thù và tha thứ. Nhưng
để có tha thứ, cần đến sự hòa giải. Anh chị em mất lòng nhau, anh chị em có hố
sâu ngăn cách bởi hận thù, tinh thần chay tịnh đòi anh chị em phải lấy lại lòng
nhau, phải lấp đầy những ngăn cách để những gì thuộc về thù hận bị chôn xuống,
những gì là trao ban, là yêu thương sẽ bùng lên, vương mạnh. Anh chị em và tôi
hãy nhớ rõ một điều: Làm sao có thể tha thứ nếu không bao giờ muốn hòa giải;
làm sao có thể nhận được ơn tha thứ nếu không biết tha thứ.
Không biết câu chuyện về cánh tay Chúa Giêsu trên thánh
giá ban phép lành để tuôn đổ ơn tha thứ cho tội nhân, thực hư thế nào, nhưng
lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa đời đời vẫn thế: bền vững và cao ngất.
Câu chuyện có thể không có thật, nhưng lòng tha thứ của Thiên Chúa mãi mãi vẫn
thật. Vì thế dẫu cho không có thật, nó vẫn đáng quí, vì nó phản ánh một sự thật
rất thật: Lòng Thiên Chúa yêu thương tha thứ. Câu chuyện càng đáng quí khi nó
giúp ta ghi lòng để học lấy lòng tha thứ của Thiên Chúa mà tha thứ cho anh chị
em.
Thiên Chúa đã không dạy bài học tha thứ suông, nhưng đã
dạy bài học tha thứ bằng chính mạng sống của Chúa Giêsu. Nếu ngày xưa, con rắn
đồng trong sa mạc được giương lên, thì hôm nay chính Chúa Giêsu được giương
lên. Mãi mãi chúng ta biết ơn Chúa Giêsu và khắc sâu lời Người: "Như Môsê
đã giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, con người cũng sẽ giương cao như
vậy".
23. Đức Giêsu nói chuyện với ông Nicôđêmô – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1. Con người tội lỗi và rất yếu đuối, nhưng Thiên Chúa có
hy vọng biến đổi con người trở nên tốt, nên thánh thiện hơn không? Ngài kết án
hay tìm cách giáo hóa con người? Ngài đã làm gì để giáo hóa?
2. Những nỗ lực của các nhà giáo dục có khả năng hữu hiệu
biến người thụ giáo nên tốt lành thánh thiện không? Các nhà giáo dục có ban
được sức mạnh cho những người thụ giáo với mình không? Còn Đức Giêsu, Ngài có
làm được điều đó không? Với điều kiện gì về phía ta?
3. Chúng ta vẫn tự hào rằng mình tin vào Đức Giêsu, nhưng
tại sao chúng ta xem ra vẫn còn rất là yếu đuối trước tội lỗi? Có điều gì không
ổn trong đức tin của ta không?
Chia sẻ
1. Con người có thể thay đổi: người xấu thành người tốt
Sống trên đời, ta thấy ở bất cứ môi trường nào (đạo,
đời), trong bất kỳ lãnh vực nào (chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội), trong
bất kỳ cấp độ địa vị nào (cao, thấp), tuổi tác nào (già, trẻ)... cũng đều có
người tốt kẻ xấu, người nhiều thiện chí kẻ lắm ác ý, người trung kẻ nịnh,
v.v... Tình trạng khác biệt đó không luôn luôn cố định mà có thể biến đổi:
người tốt có thể biến thành người xấu, hay ngược lại. Thật vậy, có người rất ác
rất xấu, nhưng sau một biến cố nào đó, gặp một ai đó, đọc một cuốn sách nào đó,
hoặc sống trong một môi trường mới nào đó, người đó thay đổi hoàn toàn, trở
thành một người rất hiền rất tốt. Chẳng hạn, trong Kinh Thánh có những người
như Maria Mađalêna (x. Mt 26,6-13), người trộm lành (Lc 23,39-43); trong lịch
sử Giáo Hội có những người như Augustinô...
2. Vai trò của giáo dục
Chúng ta cần phải nắm lấy chân lý này: con người có thể
biến đổi, từ xấu thành tốt, cũng như từ tốt thành xấu. Chính vì thế, vấn đề
giáo dục rất quan trọng và cần thiết, nó đem lại hy vọng cho Giáo Hội và xã
hội. Con người - mà tự do đã bị tội lỗi làm tổn thương - nếu không được giáo
dục, sẽ rất yếu đuối, dễ bị lôi cuốn vào vòng tội lỗi: điều thiện mình muốn làm
thì lại không làm, mà điều ác mình không muốn làm thì lại cứ làm (x. Rm
7,15-20). Được giáo dục, con người có thêm sức mạnh để làm điều thiện và tránh
điều ác hơn. Tuy nhiên, khả năng này rất giới hạn.
Chính dựa trên khả năng thay đổi này mà có những nỗ lực
giáo dục, chuyển hóa con người: nhiều nỗ lực đã thành công vẻ vang, nhưng cũng
có nhiều nỗ lực không đi đến kết quả. Để giáo hóa, các nhà giáo dục thường dùng
những phương tiện tự nhiên của con người: dạy lý thuyết, khích lệ, dỗ dành, đe
dọa, thưởng phạt...
3. Đức Giêsu đến để cải hóa, cứu độ con người bằng đức
tin
Thiên Chúa cũng quan niệm con người có thể thay đổi và
nhờ đó được cứu rỗi. Khi thế gian bị tội lỗi làm hư hỏng, Thiên Chúa đã không
lên án và hủy diệt thế gian, nhưng đã "sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được
cứu độ". Thiên Chúa vẫn hy vọng và chờ đợi con người thay đổi. Vì cho dù
tự do của con người đã bị tội lỗi hủy hoại phần nào, khiến con người sẵn sàng
làm nô lệ cho điều ác, nhưng con người vẫn còn phần nào tự do. Con người vẫn có
thể chọn lựa giữa điều thiện và điều ác, giữa Thiên Chúa và những gì khác với
Ngài. Ngài đã đi bước trước để làm cho hy vọng biến đổi con người thành hiện
thực, bằng cách sai Đức Giêsu, Con của Ngài, đến trần gian. Sứ mạng của Đức
Giêsu cũng là giáo hóa con người: Ngài đến để cải hóa người tội lỗi (x. Mt
9,13; Lc 5,32), biến họ nên thánh thiện (x. Rm 6,22), và hơn thế nữa, giải
thoát con người khỏi ách thống trị của tội lỗi (x. Mt 1,21; Mc 2,17; Rm 6,6.18;
Dt 9,26b; 1Ga 1,7b). Ngài còn có quyền tha tội (Mt 9,5-6; Mt 26,28; Cv 10,43;
Cl 1,14), và ban ơn cứu rỗi (x. Lc 19,9; Ga 4,42; Cv 4,12; 13,23). Nhưng Ngài
cải hóa và cứu độ con người bằng đức tin: "Ai tin thì sẽ được cứu độ"
(Mc 16,16; x. Cv 16,31).
Đức Giêsu đến không phải để đem đến một lý thuyết giáo
dục, một triết lý mới để con người theo. Ngài đến để cứu con người khỏi xiềng
xích của tội lỗi, khỏi ách thống trị của tội lỗi và sự chết, là những thứ khiến
con người đâm ra bạc nhược, ý chí yếu đuối. Ngài đến để đem lại sức mạnh cho
con người, nhờ đó con người có thể đủ sức mạnh để thực hiện những điều thiện
mình muốn làm, và nói "không" với những điều ác mình không muốn làm
(x. Rm 7,15-20). Để có được sức mạnh đó, con người không cần phải học hỏi lý
này thuyết nọ. Điều duy nhất và hết sức quan trọng con người phải làm để có
được sức mạnh ấy là hoàn toàn tin tưởng vào Ngài, như bài Tin Mừng hôm nay xác
quyết: "Ai tin vào Người thì được sống muôn đời", "Ai tin vào
Con của Người thì không bị lên án". Như vậy, sức mạnh đến từ đức tin, tin
vào Đức Giêsu Kitô.
4. Giới hạn của giáo dục
Bất kỳ nhà giáo dục nào trên thế giới cũng đều nhận thấy
khả năng giáo hóa của giáo dục rất giới hạn. Giáo dục có thể rất thành công
trong việc dạy cho con người biết tất cả điều nào tốt, điều nào xấu, điều nào
phải làm, điều nào nên tránh. Nhưng có thể một người biết rất rõ những điều ấy,
và thành thật mong muốn làm theo sự hiểu biết ấy, vẫn cảm thấy không đủ năng
lực để thực hiện. Người ấy vẫn cảm thấy có một lực nào đó ở ngay bên trong mình
khiến mình làm ngược lại. Nghĩa là lực ấy cản trở mình làm điều tốt, và thúc đẩy
mình làm điều xấu. Khốn thay, cái lực xấu ác ấy nhiều khi lại thắng và làm tê
liệt được sức mạnh của ý chí. Đó chính là điều mà thánh Phaolô cảm nghiệm rất
rõ nơi bản thân ông, và ông gọi cái lực xấu ác ấy là "tội":
"Điều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ
làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì (...) không còn phải là chính tôi
làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. (...) Muốn sự thiện thì tôi có thể
muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi
không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn
phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi" (Rm 7,15-20).
Đây chính là nguyên nhân của mọi bi thảm trên trái đất: kẻ tội lỗi nhất thế
giới vẫn luôn luôn phân biệt điều tốt điều xấu, vẫn luôn ao ước làm điều tốt,
vẫn mong trở nên trở nên người tốt, nhưng không làm nổi. Vì lực xấu ác kia quá
mạnh, đã lôi kéo, thúc đẩy người ấy làm những điều hắn không muốn. Lực ấy mạnh
đến nỗi hắn dường như chỉ biết tuân theo, ý chí yếu đuối của hắn không cưỡng
lại được.
5. Sức mạnh và sự cứu rỗi đến từ đức tin vào Đức Giêsu
Trước tình trạng bi thảm ấy, thánh Phaolô đã phải kêu
cứu: "Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác
phải chết này?" (Rm 7,24). Và may mắn thay, ông đã nhận ra người có khả
năng cứu ông: "Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta!"
(7,25). Điều này đã được Đức Giêsu xác định với Nicôđêmô trong bài Tin Mừng hôm
nay: "Ai tin vào Con Người thì được sống muôn đời", "Ai tin vào
Con của Người thì không bị lên án". Trong bài đọc hai, thánh Phaolô cũng
xác nhận điều ấy: "Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ:
đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa". Như vậy,
muốn được cứu khỏi tình trạng yếu đuối, nô lệ tội lỗi, điều quan trọng là tin
vào Đức Giêsu Kitô.
Đức tin tạo nên sức mạnh: "Mọi sự đều có thể đối với
người tin" (Mc 9,23), vì "nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải,
thì dù anh em có bảo cây dâu này: "Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà
mọc", nó cũng sẽ vâng lời anh em" (Lc 17,6). Khả năng làm được tất cả
mọi sự ấy không phải là khả năng của bản thân ta, vì như Đức Giêsu nói:
"Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5), mà là quyền năng
của Thiên Chúa, "vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm
được" (Lc 1,27). Vì thế, khi tin thật sự vào Đức Giêsu, Đấng ban sức mạnh,
ta có thể nói như thánh Phaolô: "Với Đấng ban sức mạnh cho tôi, tôi có thể
làm được tất cả mọi sự" (Pl 4,13).
Tin vững vàng vào Đức Giêsu, ta sẽ thật sự trở nên mạnh
mẽ. Nhưng hãy xem, biết bao người mang danh là tin Đức Giêsu, vẫn cảm thấy mình
còn yếu đuối, còn nô lệ cho tội lỗi. Vậy, vấn đề mà ta cần phải nghiêm túc đặt
lại, là ta đã thật sự tin vào Đức Giêsu chưa, hay ta chỉ mang danh là tin Ngài
thôi? Đức tin của ta vào Ngài là thứ đức tin nào: đức tin rẻ tiền (tin hờ, tin
ngoài miệng) hay đức tin đắt giá (tin thật, bằng hành động, bằng đời sống dấn
thân thật sự)? Rất nhiều Kitô hữu cảm thấy an tâm vì tưởng rằng khi tuyên xưng
ngoài miệng rằng mình tin thì có nghĩa là mình đã tin. Thật ra, tin là một việc
quan trọng, nhưng tin thế nào còn quan trọng hơn rất nhiều. Tin mà vẫn nghi nan
trong lòng thì chẳng có tác dụng. Hãy xem gương của Phêrô, khi thấy Đức Giêsu
đi trên mặt nước đến với thuyền của mình, nhờ tin vững chắc vào Thầy mình, ông
đi được trên mặt nước đến với Ngài. Nhưng khi thấy gió thổi, ông đâm sợ và nghi
nan trong lòng. Lập tức ông bị chìm xuống (x. Mt 14,25-31).
Cầu Nguyện
Lạy Cha, con đã mang danh là tin vào Cha, vào Đức Giêsu
biết bao nhiêu năm nay. Nhưng thử hỏi đức tin của con đã biến đổi con thế nào?
Con đã thật sự tốt hơn, mạnh mẽ hơn những người không tin chưa? Đáng lẽ có đức
tin, con phải vượt hơn họ xa lắm! Phải chăng, con mới chỉ mang danh là tin, chứ
chưa thật sự tin? Xin Cha hãy ban cho con đức tin đích thật, một đức tin được
minh chứng bằng hành động thật sự.
24. Một tình yêu không thể tin được
(Chú giải của Lm. Phanxicô X. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh và Bố cục
Sách các Dấu lạ của TM IV (2,1–12,50) nói về các dấu lạ
lồng vào một cái khung thời gian nhằm giới thiệu chân tính của Đức Giêsu, là
Đấng Kitô, Con Thiên Chúa. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu với Nicôđêmô (3,1-21)
nằm trong phần đầu (2,1–4,54), phần này có bố cục như sau:
A (2,1-11.12): Khởi đầu các dấu lạ tại Cana miền Galilê:
biến nước thành rượu (c. 12 là câu chuyển tiếp [nói về thời gian và không
gian]sang đoạn sau).
B (2,13-22.23-25 +): Thanh tẩy Đền Thờ Giêrusalem và đối
thoại với người Do-thái về Đền Thờ mới (cc. 23-25 là những câu "làm
cầu" nối 2,13-22 với 3,1-21).
C (2,23-25; 3,1-21): Đối thoại với Nicôđêmô về việc sinh
bởi trên cao và diễn từ về việc có sự sống vĩnh cửu.
C'(3,22-36; 4,1-3 +): Đối thoại của Gioan Tẩy Giả với các
môn đệ ông về chú rể đến từ trên cao và diễn từ về sự sống (Đoạn 3,22-24 là dẫn
nhập chuyển tiếp. Đoạn 4,1-3 là những câu "làm cầu" nối [vì kết]
3,22-36 với [vì chuẩn bị cho] 4,4-42; đoạn này minh nhiên quy chiếu về 3,22-23
và hướng tới 4,43-45).
B'(4,1-3.4-42): Đối thoại với người phụ nữ Samari về việc
có nước hằng sống và việc phụng tự đích thật.
A'(4,43-45.46-54): Dấu lạ thứ hai tại Cana miền Galilê:
chữa con trai một quan chức nhà vua (cc. 43-45 là đoạn chuyển tiếp [nói về thời
gian và không gian] từ 4,4-42 sang 4,46-54).
Chúng ta thử xác định cấu trúc của phân đoạn 3,1-21 (nhờ
đó, có thể biết vị trí của cc. 14-21). Về hình thức bản văn, chúng ta ghi nhận
rằng Nicôđêmô có nói ba lần ở cc. 2, 4 và 9. Đáp lại ba câu nói của ông, Đức
Giêsu trả lời bằng công thức long trọng, "Thật, tôi bảo thật ông"
(cc. 3, 5 và 11; đi trước c. 11 là một nhận xét đối-thủ-luận [ad hominem]). Ba
câu trả lời của Đức Giêsu cứ mỗi lần mỗi dài hơn. Về phương diện tư tưởng, có
những liên hệ đến Ba Ngôi: các lời Đức Giêsu nói ở cc. 3-8 liên hệ đến vai trò
của Thần Khí; những lời ở cc. 11-15 liên hệ đến Con Người; những lời ở cc.
16-21 liên hệ đến Thiên Chúa Cha. Nếu tổng hợp hai phương diện hình thức và tư
tưởng, chúng ta có thể xác định bố cục của 3,1-21 như sau:
* Câu 3,1: Dẫn nhập cho toàn bài (nối 2,23-25 với ch. 3).
1. Phân đoạn 1 (cc. 2-8): Sinh ra bởi trên cao nhờ bởi
Thần Khí là điều cần thiết để được đi vào trong Nước Thiên Chúa; sinh ra bởi tự
nhiên thì không đủ.
(a) cc. 2-3: Câu hỏi và câu trả lời đầu tiên: sự kiện
sinh ra bởi trên cao.
(b) cc. 4-8: Câu hỏi và câu trả lời thứ hai: cách thức
sinh ra – nhờ bởi Thần Khí.
2. Phân đoạn 2 (cc. 9-21): Tất cả những điều này chỉ có
thể có được khi Con đã lên cùng Cha, và điều này chỉ được ban cho những ai tin
vào Đức Giêsu.
- cc. 9-10: Câu hỏi và câu trả lời thứ ba dẫn nhập vào
toàn phân đoạn.
(a) cc.
11-15: Con phải lên cùng Cha (để ban Thần Khí).
(b) cc.
16-21: Tin vào Đức Giêsu là điều cần thiết để được hưởng nhờ ân huệ này.
Theo
R.E. Brown, tác giả TM IV đã để lại một vài dấu chỉ giúp khám phá ra lược đồ
ngài theo để tổ chức bản văn.
Phân
đoạn 1 bắt đầu với lời khẳng định của Nicôđêmô: "Chúng tôi biết Thầy là
một vị tôn sư" (c. 2); câu này được đặt trong thế cân bằng với mở đầu của
Phân đoạn 2 với lời Đức Giêsu, "Ông là bậc thầy (tôn sư) trong dân Israel , ...
chúng tôi nói những điều chúng tôi biết" (cc. 10-11).
Ngoài
cách bố cục thành hai phân đoạn, dường như toàn bài được viết theo kỹ thuật
đóng khung (bằng các ý tưởng cùng một trường ngữ nghĩa):
(a) Bản
văn bắt đầu với việc Nicôđêmô đến với Đức Giêsu ban đêm; bản văn kết thúc với
đề tài người ta phải bỏ bóng tối để đến với ánh sáng.
(b)
Nicôđêmô mở đầu cuộc đối thoại bằng cách chào Đức Giêsu là vị tôn sư từ Thiên
Chúa mà đến; phần cuối của bản văn cho thấy rằng Đức Giêsu là Con Một Thiên
Chúa (c. 16) mà Thiên Chúa đã sai đi vào trong thế gian (c. 17) như là ánh sáng
cho thế gian (c. 19).
(c) Nếu
chúng ta coi 2,23-25 như là phần mở đưa vào "xen" Nicôđêmô, chúng ta
lại có một bản văn đóng khung khác: ở 2,23, chúng ta đã nghe nói đến những
người "đã tin vào danh Người", nhưng niềm tin của họ không thỏa đáng
vì họ không đến để thấy Người là ai; ở 3,18, chúng ta thấy lời Đức Giêsu nhấn
mạnh rằng ơn cứu độ chỉ được ban cho những ai "tin vào danh của Con Một
Thiên Chúa".
2.- Vài
điểm chú giải
- Như
ông Môsê đã giương cao con rắn (14): Câu này nhắc đến Ds 21,9tt.
- ai
tin vào Người thì được sống muôn đời (15): Câu này tương ứng với Ds 21,8:
"Ai nhìn lên con rắn đó, sẽ được sống".
- Thiên
Chúa yêu thế gian (16): Động từ agapaô ở thì quá khứ aorist (êgapêsen) nhắm
diễn tả hành vi yêu thương tuyệt đỉnh của Thiên Chúa. Có thể nói ở đây chúng ta
có một ví dụ tuyệt hảo về động từ agapaô được diễn tả ra thành hành động, bởi
vì c. 16 nói đến tình yêu Thiên Chúa được bày tỏ ra trong cuộc Nhập Thể và cái
chết của Chúa Con.
- đã
ban (16): Đông từ didomi không chỉ nhắm đến cuộc Nhập thể (Thiên Chúa gửi Con
vào trần gian; c. 17), nhưng nhắm đến cả cuộc đóng đinh (trao nộp cho chết:
"giương cao" trong cc. 14-15). Như thế, động từ này tương tự với
paradidomi, "trao nộp", ở Rm 8,32; Gl 2,20; và didomi ở Gl 1,4.
- Thiên
Chúa sai Con (17): Động từ apostellô này song song với "ban" (didomi)
ở c. 16. Khi nói về Đấng Bảo Trợ, cũng có cặp động từ này, "sai" và
"ban" ở 14,16.26. Gioan dùng hai động từ có nghĩa là "sai
phái" có vẻ không phân biệt: pempô (26 lần) và apostelô (18 lần).
- Con
(17): Từ "Con" ở dạng tuyệt đối (không có túc từ đi theo) trong Ga
thì hầu như song song với cụm từ "Con Người" theo truyền thống Nhất
Lãm.
- không
phải để lên án thế gian (17): Câu này xác định mục tiêu của sứ mạng Chúa Con
đảm nhận khi được gửi vào trần gian: không phải để lên án, nhưng để cứu độ (x.
Ga 4,42; 1 Ga 4,14). Thế nhưng ở 9,39, Đức Giêsu lại khẳng định: "Tôi đến
thế gian này chính là để xét xử". Điều duy nhất Thiên Chúa muốn, đó là cứu
độ thế gian; nhưng biến cố Con của Ngài đến cũng nhất thiết đưa loài người đến
chỗ phải lấy quyết định; quyết định trọng yếu nhất của đời người, là gắn bó với
Con Một Thiên Chúa (c. 18) bằng đức tin, hoặc ngược lại, từ chối tin vào Người.
- được
cứu độ (17): So sánh với c. 16, ta hiểu "được cứu độ" ở đây có nghĩa
là "được sống muôn đời" (x. 1 Ga 4,14; Ga 12,47).
- vì đã
không tin (18): Mê pepisteuken ở thì hoàn thành (perfect) có nghĩa là "đã
và vẫn không tin", một thái độ cứng lòng tin kéo dài.
- tin
vào danh (18): "Danh" chính là bản thân Đức Giêsu.
- làm
điều ác (20): Kiểu dùng động từ "làm" với "điều tốt",
"sự thật", hoặc "điều xấu" (xem cc. 20.21) là một kiểu nói
Sê-mít.
3.- Ý
nghĩa của bản văn
* Con
phải lên cùng Cha (11-15)
Qua
những lời đối thoại giữa Đức Giêsu và Nicôđêmô, ta biết rằng để được tham dự
vào Nước Thiên Chúa, phải có một khởi đầu hoàn toàn mới, do Thiên Chúa ban
trong bí tích Rửa Tội, nhờ quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa. Ở trong khởi đầu
mới này, chúng ta không được thụ động, trái lại phải tin vào Con Thiên Chúa (x.
1 Ga 5,1). Thế nhưng đức tin chẳng phải là chuyện của con người. Đức Giêsu cho
thấy rằng đức tin phải dựa trên bằng chứng tình yêu mà Thiên Chúa đã ban cho
chúng ta khi sai phái Con của Ngài đến. Cuộc tái sinh bởi Thiên Chúa và lòng
tin vào Con Thiên Chúa đưa chúng ta đạt tới ý nghĩa và sự viên mãn của cuộc
sống chúng ta, đưa đến sự sống đích thực không qua đi. Không có hai điều này,
chúng ta sẽ sai lầm về ý nghĩa của chính bản thân chúng ta.
Làm thế
nào để tránh khỏi cái chết thảm thương và bảo đảm cho cuộc sống chúng ta? Israel đã đứng
trước những câu hỏi này khi mà trên đường băng qua sa mạc, họ bị rắn độc đe dọa
(x. Ds 21,4-9). Thiên Chúa đã ra tay cứu trợ Dân Ngài. Ngài đã bảo Môsê đúc một
con rắn đồng và treo vào cán cờ; ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đồng ấy thì
được sống. Thiên Chúa vẫn trợ giúp chúng ta. Khi con người phạm tội, Thiên Chúa
đã đặt định rằng Đấng Chịu Đóng Đinh là biểu tượng của ơn cứu độ, là nguồn mạch
đưa tới sự sống. Đàng sau Đấng Chịu Đóng Đinh là chính Thiên Chúa. Ngài đã ban
và sai Con của Ngài đến vì yêu thương toàn thể nhân loại, để họ được cứu độ.
Tình yêu của Thiên Chúa có một cường độ và một chiều kích to lớn đến nỗi, nếu
có thể, hẳn ta phải nói: Thiên Chúa yêu thương thế gian, yêu thương chúng ta,
hơn chính Con của Ngài. Ngài không bỏ mặc thế gian, mà lại còn ban cho chúng ta
món quà là Người Con vẫn sống trong một tương quan duy nhất với Ngài.
* Tin
vào Đức Giêsu là điều cần thiết (16-21)
Thiên
Chúa bày tỏ một sự ân cần lạ lùng đối với loài người chúng ta, Ngài quan tâm
giúp chúng ta thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên, chúng ta vẫn ở trong tình
trạng bấp bênh: Thiên Chúa không cung cấp ơn cứu độ không cần chúng ta, hoặc là
ngược lại với ý muốn của chúng ta. Chúng ta phải mở ra với sự ân cần của Thiên
Chúa, phải trân trọng tình yêu lạ lùng ấy, phải tin vào Con Thiên Chúa chịu
đóng đinh. Chỉ khi chúng ta xác tín rằng Đấng chịu đóng đinh là Con Một, Con
yêu dấu của Thiên Chúa, thì quyền năng của tình yêu này của Thiên Chúa mới có
thể thực sự đến với chúng ta và chúng ta mới có thể hoàn toàn mở ra với ánh sáng
và sức nóng của Người. Đời sống chúng ta tùy thuộc đức tin của chúng ta.
Điều
cần thiết này có vẻ hiển nhiên. Tuy thế, có một hiện tượng lạ lùng, đó là loài
người lại ưa thích bóng tối hơn ánh sáng (c. 19). Có những lý do để trốn tránh
ánh sáng và tìm lá chắn là bóng tối; những lý do này nằm nơi lối sống của con
người. Ai làm điều ác thì tự nhiên tránh ánh sáng; ai làm điều thiện thì mới
dám ra trước ánh sáng, người ấy không có gì phải che giấu. Chúng ta không thể
coi nhẹ tầm quan trọng của hành động để bày tỏ đức tin. "Điều thiện",
đó là những gì chúng ta làm theo ý Thiên Chúa (c. 21), bằng cách lắng nghe
Ngài, chân thành tìm cách thi hành ý muốn của Ngài. "Điều ác" là
những gì chúng ta làm không theo các tiêu chí đó, khi chúng ta không tìm Thiên
Chúa, nhưng ích kỷ tìm cách thực hiện các chương trình và ý muốn của riêng
mình, thậm chí ngược lại với ý Thiên Chúa. Ai chỉ tìm chính mình, thì khép lại
với Thiên Chúa và gặp nguy cơ là cũng cứ khép lại không nhận được mạc khải xán
lạn về tình yêu của Ngài. Không nghiêm túc quan tâm đến ý muốn của Thiên Chúa,
làm sao có thể tin vào tình yêu của Ngài? Chính tình yêu ấy lại càng đưa người
ấy xa rời khuynh hướng ích kỷ và làm cho người ấy càng cảm nhận rằng mình hoàn
toàn lệ thuộc Thiên Chúa! Ai luôn duy trì một dây liên kết với Thiên Chúa, thì
mở ra với ánh sáng của tình yêu Ngài.
+ Kết
luận
Chỉ
trong mấy câu Ga 3,14-21, tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người
được khẳng định với sự tha thiết lạ lùng và điều kiện phải theo để được hưởng
nhờ tình yêu đó cũng được xác nhận hết sức rõ ràng. Đứng trước mạc khải vĩ đại
và trực tiếp này về Thiên Chúa, chúng ta không còn có thể tránh né mà nói rằng
Thiên Chúa chỉ là một sức mạnh mơ hồ và xa cách với chúng ta. Đức Giêsu, Đấng
Chịu Đóng Đinh, cũng không phải chỉ là một tư tưởng hay một lý thuyết, một giả
thuyết hoặc một chuyện hão huyền trên mây trên gió, mà là một thực tại lịch sử
đích thực. Do đó, tình yêu của Thiên Chúa rất thực hữu!
4.- Gợi
ý suy niệm
1. Nói
đến tình yêu là nói đến sự quan tâm, sự thông dự, sự ân cần, chăm sóc, nỗ lực,
vận dụng mọi sự. Tình yêu muốn điều hay điều tốt cho người mình thương. Người
ấy không dửng dưng với con đường và định mệnh của người yêu, nhưng ra sức làm
cho người kia được sống trong niềm vui và sự viên mãn. Đối với Thiên Chúa thì sao?
Phải chăng Ngài đã tạo thành thế giới rồi bỏ mặc nó? Ngài có quan tâm đến chúng
ta và đến định mệnh chúng ta không, Ngài có để ý xem chúng ta thế nào và chúng
ta đi đến đâu không? Thiên Chúa đã tạo thành chúng ta, đã quan tâm đến số phận
của chúng ta, đã ban Người Con Một để chúng ta được sống viên mãn ngay từ bây
giờ. Chúng ta có giá đối với Thiên Chúa đến mức Ngài sẵn sàng hy sinh Con vì
chúng ta (x. Rm 8,32).
2. Sau
cuộc tạo dựng, sau Lề Luật, các Ngôn sứ và tất cả những hình thái ân cần săn
sóc khác, Chúa Con là tiếng nói cuối cùng và ân huệ có giá trị tối cao được
Thiên Chúa ban cho chúng ta. Người Con sẽ quan tâm đến chúng ta riêng tư từng
người, sẽ chỉ cho từng người biết con đường đưa tới ơn cứu độ, sẽ đưa ta đến
chỗ hiệp thông với Người và đi đến cuộc sống muôn đời. Đức Giêsu, Đấng Chịu
Đóng Đinh, không phải là một tư tưởng hay là một lý thuyết, một giả thuyết hay
một chuyện tưởng tượng, nhưng là một thực tại lịch sử đích thực. Từ đó, chúng
ta cũng phải nhìn nhận rằng tình yêu của Thiên Chúa cũng hết sức hiện thực.
3.
Thiên Chúa, "một" (độc thần) mà cũng là "ba" (ngôi), là một
mầu nhiệm rất lớn lao, mà chúng ta chẳng bao giờ ngờ tới, nếu chính Thiên Chúa
không mạc khải cho chúng ta nhờ trung gian Đức Kitô. Chúng ta phải tuyên xưng
các dữ kiện của mầu nhiệm này, và tiếp cận bằng những bước rất giới hạn và
phiến diện, đồng thời tin tưởng tuyệt đối vào giáo huấn của Đức Giêsu Kitô.
4. Bản
văn không nói trực tiếp đến Chúa Thánh Thần, nhưng chúng ta đã được mạc khải
rằng Thiên Chúa và Đức Giêsu cứu độ chúng ta bằng cách ban Thánh Thần cho chúng
ta (Ga 7,37-39; x. Gl 4,4-7). Dù sao mẩu đối thoại với Nicôđêmô cũng đã cho
thấy những cái mốc: não trạng thiêng liêng do Thánh Thần ban cho. Thánh Thần
đối nghịch lại với xác thịt (Ga 3,6), với những cái nhìn trần tục (3,12). Thiên
Chúa Cha gửi Con Một của Ngài đến với chúng ta, để Người Con cứu chúng ta bằng
cách thông ban Thần Khí. Và chính Thần Khí giúp ta đi lên với Chúa Cha nhờ
trung gian Đức Kitô (x. Gl 4,4-7; Rm 8,15-17).
25. Chú
giải của Noel Quesson
Như ông
Môsê đã gương cao con rắn trong sa mạc
Tin
Mừng hôm nay bắt đầu bằng một lời mời gọi ta "nhìn ngắm", "đưa
mắt" hướng lên một hình ảnh. Thánh Gioan sử dụng một hồi tưởng Kinh thánh
trong suốt "bốn mươi" năm hành trình trong sa mạc, ngời Do Thái đã bị
một kẻ thù đáng sợ tấn công, đó là loài rắn lửa (Ds 21,6-9). Môsê đã phải làm
"một dấu hiệu chữa trị", một con rắn đồng cứu chữa được treo lên một
cây gậy. Đó là hình ảnh có tính thần thoại mà các y sĩ ngày nay vẫn tiếp tục sử
dụng như là biểu tượng. Kẻ nào quay lại nhìn thì được cứu không phải nhờ điều
nó thấy nương nhờ Người, là Đấng cứu chữa mọi người" (Kn 16,7).
Qua sự
giải thích trên của sách khôn ngoan, ta đã có thể ghi nhận rằng, đó không phải
là một cử chỉ ma thuật, có tính tụ động. Cái "nhìn" tự nó không chữa.
lành được ai, như một thứ bùa hộ mạng, một vật mang lại may mắn, một cử chỉ dị
đoan. Nhưng đó là dấu chỉ "Đức tin", nghĩa là nhờ một cử chỉ bên
ngoài, nó cho ta thấy rõ rằng, con người đang "quay về" với Thiên
Chúa.
Con
người cũng sẽ phải được gương cao như vậy để ai tin vào Người, thì được sống
muôn đời.
Vâng,
thánh Gioan đang mời gọi ta nhìn lên thập giá.
Cần
phải dám ngắm nhìn "Đấng chịu đóng đinh" đó, Đấng được "giương
cao" trước mắt chúng ta, Gioan đã sử dụng từ được giường cao"
("upsothènai" trong tiếng Hy Lạp) để nói lên, Đức Giêsu vừa được
"giương cao) trên thập giá, vừa được "đưa lên" ngự bên hữu Chúa
Cha nhờ cuộc phục sinh và lên trời (Ga 3,14; 8,28; 12,32-34).
Vâng,
thánh Gioan không bao giờ có thể quên được ngày đó, cũng như cảnh tượng đó, mà
chúng ta như đã quá quen thuộc. Vả lại, Gioan là người duy nhất trong số mười
hai Tông đồ đã hiện diện tại đó, vào chiều thứ sáu, dưới chân thập giá. Kể từ
lúc đó, trong suốt hơn 70 năm, ông đã suy gẫm "hình ảnh" này, và đây
là kết quả của cuộc suy tư lâu dài và sâu sắc mà ông cống hiến cho ta. Đối với
Gioan, "Thập giá" và "Phục sinh" thuộc cùng một mầu nhiệm
mà ông đã diễn tả bằng một từ mang hai ý nghĩa: "Đức Giêsu được đưa lên
cao khỏi đất". Bị đóng kinh: Cũng có nghĩa là được tôn dương. Đối với
Gioan, Thăng thiên đã bắt đầu ngay từ ngày thứ sáu tuần thánh. Còn chúng ta,
chúng ta vẫn tiếp tục mong chờ Thiên Chúa biểu lộ "vinh quang" của
Người cho ta trong cử chỉ hiển thắng rạng ngời nào đó. Còn Gioan, ông đã chứng
kiến cảnh tượng, thì thập giá chính là Vinh quang Thiên Chúa
Ngay
khi Giu-đa vừa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giêsu đã nói: "Giờ đây, Con
Người được tôn vinh" (Ga 13,31). Bốn ngày trước đó, vào buổi chiều ngày
dân chúng rước lá tôn vinh Người, Đức Giêsu đã nói: "'Đã đến giờ Con Người
được tôn vinh... Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất chết đi, nó mới sinh được nhiều
hạt khác... phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi
người lên với tôi" (Ga 12,23-32).
Vậy khi
đến lượt mình, chúng ta cũng phải nhìn lên Đấng đã được "gương cao"
giữa trời và đất, để cầu nguyện. Cái chết tự nguyện này sẽ mãi mãi là
"đỉnh cao của tình yêu": Đỉnh cao của tình yêu Người Con đối với
Người Cha và đỉnh cao của tình yêu của Người Anh hoàn vũ đối với những đứa em
tội lỗi. Cây thập giá to lớn bằng gỗ đó, đang đeo mang một thân xác con người
bị tra tấn đến ứa máu, chính là một "chóp đỉnh của đau đớn" và chết
chóc", nhưng cũng là một đỉnh cao của mạc khải Thiên Chúa. Về chưng diện
thể lý, ta cần phải mở to đôi mắt để chiêm ngắm hình ảnh này. Nhưng cũng cần
phải nhắm mắt lại để "thấy" những gì chưa có thể thấy được, mà cảnh
tượng trên mới chỉ là "dấu chỉ": Tình yêu tuyệt đối đang thiêu đốt
tâm hồn con người đó, Đức Giêsu "không ai có tình thương lên hơn tình
thương của người hy sinh mạng sống mình cho hạn hữu (Ga 15,13). Nhưng tình yêu
tuyệt đối đã thiêu đốt con người Giêsu, cũng chính là "dấu chỉ" của
một tình yêu tuyệt đối khác, tình yêu của Chúa Cha: "Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một Người" (Ga 3,16).
Vì thế,
các nghệ sĩ thường muốn trình bày Đức Giêsu trên thập giá với một thứ
"vinh quang" nào đó. Hai cánh tay và thân xác của Người, thay vì bị
co quắp trong đau đớn khổ hình, lại được trình bày trong tư thế hết sức mềm mại
và thoải mái: Tư thế của người cầu nguyện, tư thế của linh mục cầu nguyện và
dâng lễ vật nới bàn thờ, tư thế của đôi bàn tay nâng lên để đọc kinh "Lạy
Cha".
Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một mình.
Thời
đại chúng ta, nhiều người bị thử thách trước một nhận xét đầy bi quan: 'Thế
gian thật là thối nát, không thể làm gì để cứu vãn được' chúng ta cũng dễ hiểu
sự chán nản, vẻ khó chịu của những người thức thời đứng trước bao cảnh trớ
trêu: Bạo lực, bắt cóc các con tin, ích kỷ có tính tập thể và cá nhân, đê tiện
đủ loại, cảnh người bóc lột người, sa đọa luân lý, mất lương tâm nghề nghiệp,
lạm đụng việc dối trá trong việc phổ biến ý thức hệ hay quảng cáo, đàn áp dư
luận quần chúng, tình trạng vỡ mộng... Chính Thiên Chúa cũng biết tất cả những
sự việc đó? Tuy thế, Người vẫn yêu mến thế gian này. Người không chịu để sự xấu
ác của nó lộng hành. Người muốn cứu độ nó. Thiên Chúa thương đi ngược lại chúng
ta. Đối với chúng ta, thế gian này xem ra rất tồi tệ và xấu ác, thế mà Thiên
Chúa vẫn yêu thương nó. Thiên Chúa như say mê trước công cuộc tạo dựng chưa
hoàn tất của mình, mà Người đang hướng đến nó sự hoàn hảo. Thế gian không thể
phi lý. Nếu chúng ta chấp nhận cách nhìn của Thiên Chúa, một 'cái nhìn yêu
thương', thì lúc đó, thay vì tiếp tục rên rỉ kêu than, chúng ta sẽ hiến mạng
sống cho anh em.
Người
đã ban cho Con Một mình
Hai
động từ diễn tả thái độ của Thiên Chúa: "Yêu và cho"! Ta hãy cầu
nguyện dựa vào những tác động mà hai từ đó gợi lên.
Ta cũng
nên lưu ý tĩnh từ được áp dụng cho Đức Giêsu: "Một" hay "độc
nhất" (tiếng Hy Lạp là 'Monogénes'). Từ này chỉ có thánh Gioan sử dụng. Nó
được đưa vào trong kinh Tin kính: "Tôi tin Chúa Giêsu Kitô, con một Thiên
Chúa". Tiếng này làm cho chúng ta vượt qua khỏi những vẻ bề ngoài tràng
giang, tiến sâu vào các thế giới bên kia: Đức Giêsu là đối tượng tử hệ tuyệt
đối độc nhất của Thiên Chúa. Đàng khác, tiếng này cũng nhắc lại một hồi tưởng
Kinh thánh. Trong ký ức của Israel người ta luôn nhớ đến một người con độc nhất
khác, được cha hết sức yêu quý thế mà người cha đầy tình yêu thương này lại
chấp nhận một cách kỳ diệu 'hy sinh', 'ban tặng' đứa con đó: thánh Gioan nhớ
rất rõ câu chuyện Abraham và đứa con trai của ông Isaac (St 22,2-16).
Tình
yêu của Thiên Chúa đối với thế gian, khiến Người ban tặng "Con Một"
Người, Gioan sẽ diễn tả tình yêu đó bằng năm kiểu nói, để không ai còn có thể
nghĩ ngược lại được: "Thiên Chúa không muốn con người phải hư mất",
Người đã tạo dựng mọi sự để tất cả được tồn tại (Kn 1,13).
- Thiên
Chúa muốn cho con người được sống đời đời: đó là một "sự sống từ
trời" được ban tặng (Ga 3,3).
- Thiên
Chúa không muốn kết án thế gian: nghĩa là toàn thể nhân loại.
- Thiên
Chúa muốn cứu độ thế gian; thánh ý của Thiên Chúa là mọi người đều được cứu độ.
- Công
trình của Con Người cũng là "công trình của Thiên Chúa" (1Tm 2,4).
Ai tin
vào con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Thiên
Chúa là "Đấng hằng sống" tuyệt vời, sự sống là của quý giá nhất mà
con người có thể chiếm hữu. Thiên Chúa đã quyết định thông truyền sự sống của
Người, cho người con sự sống thần thiêng và vĩnh cửu ý định "cứu độ phổ
quát" của Thiên Chúa thật rõ ràng: Nhưng để công cuộc cứu độ được thành
tựu, con người còn phải chấp nhận "ân huệ" đó. Hiển nhiên không thể
tương tượng được rằng, một người nhất định khước từ Thiên Chúa, lại bị cưỡng
chế và áp lực phải sống bên cạnh Người, bất chấp ý muốn của họ. Làm như thế,
thì thật sự là tạo một thứ "hỏa ngục". Thiên Chúa luôn luôn tôn trọng
tự do của con người: Kẻ nào không muốn "sự sống" mà Thiên Chúa tặng
ban cho mọi người, kẻ đó sẽ ở trong sự chết? Liệu có một người nào đó khăng khăng
chối từ như thế? Đó là bí mật đáng sợ của cái chết, vào giây phút mà con người
được giải thoát khỏi cảnh u tối trần gian, thực sự "đối diện với Thiên
Chúa".
Vì
Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian. Nhưng
là để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì
không bị lên án; những kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào
Danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng
người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.
Trích
đoạn trên làm cho chúng ta khá choáng váng.
Đoạn
văn quả quyết hai điều:
- Một
là: Thiên Chúa không lên án ai. Người muốn cứu độ tất cả vì Người yêu thương
hết mọi người.
- Hai
là: Chính con người tự xét xử và lên án mình, khi nó cố chấp khước từ Thiên
Chúa.
Như
thế, việc "lên án" không phải là một hành vi ở bên ngoài con người.
Nhưng trớ trêu thay, nó lại là sự việc của chính con người đó, khi họ có thái
độ khước từ tình yêu Thiên Chúa, được biểu lộ trong việc "Con Một của
Người hiến thân" cho đến hy sinh thập giá. Chính Thiên Chúa làm mọi sự.
Người đã đi đến cùng sự cứu độ. Mọi sự diễn tiến như thể việc "lên
án" không thuộc về thế giới Thiên Chúa, nhưng đó là một thực tại ở bên
ngoài Vương Quốc: Những kẻ khước từ ánh sáng "diện kiến" tự kết án
mình trở thành một thế giới "ở bên ngoài" Thiên Chúa; một thế giới
chết chóc, một thế giới không có sự sống đời đời.
Chúng
ta cần ghi nhận rằng, "bi kịch của thái độ vô tín" không chỉ là một
vấn đề hiện tại. Nó xuất hiện ngay giữa Tin Mừng. Nếu ta muốn kéo dài sứ vụ của
Đức Giêsu, thì chúng ta không được phép lên án ai, mà phải ước muốn cứu giúp
mọi anh em mình, phải làm tất cả để đạt được điều đó. Ai xét xử anh em mình,
thì làm điều trái ngược Thiên Chúa; kẻ đó tự đặt mình ra ngoài thế giới của
Thiên Chúa "Đấng không đến để xét xử".
Nhưng
kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: "Mọi
việc họ làm đều hợp ý Thiên Chúa"
Sau
hết, niềm vui của tín hữu là hưởng trước những gì sẽ là niềm vui vĩnh cửu được
diện kiến với Thiên Chúa. Đối với họ, sự sống đời đời đã khởi sự. Họ đã nhận
biết tình yêu Thiên Chúa đối với mọi người. Họ sống tình yêu đó mỗi ngày. Họ
không ngừng tạ ơn tình yêu đó và 'sự sống vĩnh cửu' này đã khởi sự, đó là một
sự sống đầy sinh động. Các Kitô hữu từ lâu đã thường nói đến sự sống vĩnh cửu
nhờ một thứ ngôn ngữ và những hình ảnh gần với Niết bàn (nirvầna) của Phật giáo
hơn là quan niệm của thánh Gioan: Đó là một 'sự nghỉ ngơi đời đời'. Đối với Tin
Mừng thứ tư, đó là một 'sự sống vĩnh cửu', tràn đầy sinh động và niềm vui, chớ
không phải là một sự nghỉ ngơi tẻ nhạt. Ở đấy, theo văn bản Hy Lạp, Gioan đã
nói: "Kẻ nào hành động theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng". Sống là
"hành động"! Đó là những "hành động", những "việc làm";
những "công trình". Và đây là điều làm ta ngỡ ngàng: lúc đó, những
"việc làm của con người" cũng được công nhận như những "việc làm
của Thiên Chúa". Đó là cuộc sống vĩnh cửu.
TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ CỦA THIÊN CHÚA
“Thiên Chúa giàu lòng xót thương
và rất mực yêu mến chúng ta …
Người tỏ lòng nhân hậu đối với chúng ta
trong Đức Giêsu Kitô…”
(Ep 2,4.7)
và rất mực yêu mến chúng ta …
Người tỏ lòng nhân hậu đối với chúng ta
trong Đức Giêsu Kitô…”
(Ep 2,4.7)
1. Bài đọc 1: 2Sb 36,14-16.19-23
2Sb 36,14-16.19-23 thuộc chương cuối
của Sách Sử Biên Niên 2. Đoạn sách thánh này có thể được xem như bản
tóm lược lịch sử dân Israel vào cuối thời quân chủ ở vương quốc Judah (thuộc nhà David), vốn được tiếp nối bằng
thời lưu đày tại Babylon , và kết thúc bằng viễn
tượng dân Israel
được khôi phục.
Vào cuối thời quân chủ, vương quốc Judah chứng
kiến sự bất trung bất tín ngày càng tăng của dân đối với Thiên Chúa. Sự bất
trung bất tín này lan đến mọi thành phần dân Chúa: các thủ lãnh, các tư tế, và
dân chúng (x. c14). Giới lãnh đạo chính trị, giới lãnh đạo tôn giáo, và dân
chúng nói chung, đã học theo thói ghê tởm của chư dân, và làm cho Đền Thờ kính
Đức Chúa ra ô uế (x. c14). Đứng trước sự bất trung này của dân Israel , Thiên
Chúa vẫn tỏ lòng thành tín với dân Người. Thiên Chúa không bỏ mặc họ, nhưng
luôn gửi các sứ giả của mình đến cảnh tỉnh họ, vì Người hằng
thương xót dân và
thánh điện của Người (x. c15).
Nhưng dân Chúa không biết hoán cải tự tâm mà trở về
với Người. Họ đã đối xử bất công và bất xứng với các sứ giả của Thiên Chúa. Đối
với các sứ giả, dân Israel
nhạo cười và chế giễu. Đối với lời Chúa được các sứ giả công bố, họ tỏ sự khinh
thường (x. c16). Như một liều thuốc mạnh để chữa trị căn bệnh “bất trung” trầm
kha, Thiên Chúa đã để họ rơi vào tay quân Canđê. Quân ngoại bang này đã tận
diệt tất cả những gì tạo nên một phần căn tính của dân Israel : Đền
Thờ, thành Giêrusalem, các lâu đài dinh thự (x. c19). Nhiều người sống sót nay
trở thành những kẻ phải sống cảnh lưu đày (x. 20).
Thiên Chúa chỉ dùng một liều thuốc cực mạnh để chữa
trị căn bệnh trầm kha của dân Israel ,
chứ Người không muốn tiêu diệt họ hết thảy. Thật vậy, Thiên Chúa đã tỏ lòng xót
thương dân Người, khi Người tác động trên tâm trí vua Cyrô (nước Ba-tư) để vua
này ra sắc chỉ cho phép dân Israel được hồi hương. Nếu như Thiên Chúa đã để
quân Canđê phá hủy Đền Thờ, thì nay chính Người sẽ trao cho vua Cyrô trách
nhiệm tái thiết Đền Thờ tại Giêrusalem cho Người (x. c23).
2. Bài đọc 2: Ep 2,4-10
Thư gửi tín hữu Êphêxô có lẽ được thánh Phaolô viết
khi ngài bị cầm tù tại Roma (x. Cv 28). Qua Ep 2,4-10 chúng ta được thánh nhân
dạy cho biết những điểm chính sau đây:
1/ Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót
thương. Vì yêu thương chúng ta nên Người đã cho chúng ta được cùng
sống với Đức Kitô (x. c5), cùng được sống lại và ngự trị với Đức Kitô (x. c6).
2/ Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Giêsu Kitô
(x. c7).
3/ Chúng
ta được cứu độ nhờ ân sủng của Người và do lòng tin của chúng ta (x. c8, ss. Rm
3,19-20.27-31; 9,30-32; Gl 2,15-16); thế nên, chúng ta chớ khoe khoang về những
điều lành phúc đức chúng ta đã làm, mặc dù cuộc sống của người tín hữu phải
được thấm đượm bởi những việc làm tốt đẹp này (x. c10).
3. Bài Tin Mừng: Ga 3,14-21
Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật IV Mùa Chay thuộc về phần
cuối của cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô (x. Ga 3,1-21). Trong
lúc đối thoại, ông Nicôđêmô đã nêu ra vấn nạn: “Làm sao những chuyện ấy có thể
xảy ra được” (c9), như thể chất vấn hai phát biểu của Chúa Giêsu trước đó:
“Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi
ơn trên” (c4) và “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi
nước và Thần Khí” (c5).
Trong phần diễn giải của Chúa Giêsu cho vấn nạn mà
ông Nicôđêmô nêu ra, Chúa Giêsu đã nêu bật những điểm thần học quan trọng sau
đây:
1/ Thiên
Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người, để ai tin vào Con của Người
sẽ không phải hư mất, nhưng được sống muôn đời (c16).
2/ Người
Con ấy sẽ được giương cao lên như con rắn đồng xưa trong sa mạc, để ai tin vào
Người thì được sống muôn đời (cc14-15).
3/ Người
Con ấy là ánh sáng đến trong thế gian (c19), ánh sáng này làm lộ rõ những việc
tốt xấu từng người chúng ta đang làm. Những người sống theo sự thật thì đến với
ánh sáng này, để những việc tốt đẹp họ thực hiện trong Thiên Chúa được tỏ bày.
Còn những kẻ làm điều ác thì ghét ánh sáng này và không đến cùng ánh sáng này
để các việc họ làm khỏi bị chê trách (x. cc20-21).
II. GỢI Ý SUY TƯ
1/ Đức
Giêsu Kitô là quà tặng đặc biệt nhất mà Thiên Chúa có thể tặng ban cho nhân
loại. Quà tặng này phát xuất từ chính tình yêu và lòng xót thương Thiên Chúa
dành cho nhân loại. Người không muốn nhân loại phải hư mất trong tình trạng tội
lỗi của mình, nhưng muốn họ được cứu độ và được sống muôn đời, nhờ đức tin của
họ vào Đức Giêsu Kitô. Trong cuộc sống của bạn, bạn cảm
nghiệm thế nào về “quà tặng đặc biệt” này của Thiên Chúa?
2/ Xưa
kia trong hành trình tiến về Đất Hứa, dân Israel đã kêu trách Thiên Chúa,
Người đã cho rắn độc đến hại họ. Họ đã ăn năn, nài xin Môsê khẩn cầu cùng Thiên
Chúa cho họ. Thiên Chúa đã truyền cho ông Môsê làm một con rắn đồng và treo nó
lên, để ai bị rắn cắn mà nhìn vào con rắn đồng ấy thì được chữa lành (x. Ds
21,4-9). Con rắn đồng là biểu tượng của lòng xót thương và sự chữa lành của
Thiên Chúa cho dân. Chỉ là biểu tượng thôi, chứ tự con rắn đồng không thể cứu
chữa dân bị rắn cắn. Chính Thiên Chúa cứu chữa họ qua biểu tượng đó. Còn Chúa
Giêsu Kitô khác xa con rắn đồng xưa. Ngài là Con Một của Thiên Chúa, và là
Thiên Chúa, chính Ngài qua mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh sẽ cứu những ai biết
nhìn lên Ngài với lòng sám hối ăn năn và tin tưởng vào Ngài. Đức
Giêsu Kitô là ai trong cuộc sống của bạn?
3/ Đức
Giêsu Kitô là ánh sáng đến trong thế gian. Ngài chiếu rọi vào mọi ngóc ngách
của cuộc sống từng người chúng ta, vào không gian gia đình, vào nơi làm việc,
vào xứ đạo, vào các cộng đoàn tu trì, vào xã hội… Bạn
cảm thấy, đâu là những chỗ bóng tối đang hoành hành? Đâu là những nơi cần ánh
sáng của Chúa Giêsu chiếu đến nhất? Bạn cần làm gì để ánh sáng ấy dễ dàng đến
những nơi cần ánh sáng này nhất?
4/ Thiên
Chúa là Đấng giàu lòng xót thương. Người không bỏ rơi dân Người, dù họ đã sống
bất tín bất trung với Người. Người luôn tìm cách đến với dân Người và tìm mọi
phương cách để phẩm giá làm người và làm con Chúa của họ. Thiên Chúa gây ngạc
nhiên cho nhiều người dân Israel
khi tiên báo Người dùng chính một vị vua dân ngoại để tái thiết Đền Thờ tại
Giêrusalem. Có bao giờ bạn nghiệm thấy Thiên Chúa
cũng đang dùng nhiều người không phải là Kitô hữu để mưu ích cho Giáo Hội của
Người hay mưu ích cho xã hội? Đó là những trường hợp cụ thể nào? Bạn học được
điều gì qua những trường hợp này?
5/ Chúng
ta được cứu độ do ân sủng hải hà của Thiên Chúa và lòng tin của chúng ta vào
Đức Giêsu Kitô. Nhưng như thánh Giacôbê minh định: “Đức tin không có hành động
thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Theo bạn, làm thế nào đức tin và hành
động (tốt) song hành với nhau trong cuộc sống của bạn, nhất là trong Mùa Chay
thánh này?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh
chị em thân mến! Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô đến
trần gian để giao hòa nhân loại với Thiên Chúa và ban cho chúng ta sự sống đời
đời. Trong tâm tình cảm tạ và tin tưởng, chúng ta cùng dâng lời nguyện xin:
1. Hội
Thánh có sứ mạng gìn giữ, bảo vệ và phát triển kho tàng đức tin chân thật.
Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh biết ý thức chu toàn
sứ mạng cao cả của mình, luôn trung thành với đức tin tinh tuyền khi đối thoại
với những người không tin vào Thiên Chúa.
2. Thiên
Chúa đã sai Con của Người giáng trần không phải để luận phạt nhưng để cứu độ
thế gian. Chúng ta cùng cầu xin cho con người thời đại biết tin nhận Đức Giêsu
Kitô “là đường, là sự thật và là sự sống”, để khi hết lòng thờ phượng và bước
đi trong ánh sáng của Người, họ sẽ thực sự được biến đổi.
3. Thánh
Phaolô khẳng định: “Chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ.”
Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho mọi kitô hữu, cách riêng những ai đang lầm đường
lạc lối, biết nhận ra lòng bao dung nhân hậu của Thiên Chúa mà hoán cải trở về
với Người trong mùa chay thánh này.
4. “Ai
hành động theo sự thật thì đến cùng ánh sáng.” Chúng ta cùng cầu xin Chúa cho
mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết tôn trọng và bênh vực sự thật, để qua
đời sống quảng đại tha thứ và nhiệt tình phục vụ, mỗi người trở nên gương sáng
trong môi trường và hoàn cảnh sống của mình.
Chủ tế: Lạy
Chúa là Cha rất nhân từ! Xin nhậm lời chúng con cầu nguyện và thương ban muôn
ơn lành cùng một niềm tin kiên vững, để chúng con luôn can đảm dõi theo ánh
sáng và làm chứng cho tình yêu của Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Chúng con
cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ IV Mùa Chay – năm B
(Ga
3,14-21)
Bước
vào Chúa nhật IV Mùa Chay (Lætare), Phụng Vụ của Giáo hội đang từ màu tím
chuyển sang màu hồng, màu của bình minh, đánh dấu nửa chặng đường sám hối, nay
tạm dừng để chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh, nghỉ để nhìn lại những gì đã
làm trong ba tuần đầu của Mùa Chay, lấy thêm can đảm bước tiếp những chặng
đường tới.
"Mừng vui lên, Giê-ru-sa-lem ! Tề tựu cả về đây, hỡi
những ai hằng mến yêu Thành ! Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng và hân
hoan tận hưởng, nguồn an ủi chứa chan." (Ca nhập lễ) Hay lời của Thánh
vịnh gia : "Tôi vui mừng khi người ta nói với tôi : Chúng ta sẽ tiến vào
nhà Chúa. Vui lên nào...... ".
Những lời trên diễn tả niềm vui ngập tràn và thiêng
thánh. Giáo hội chúc mừng con cái mình đã hăng hái đi được nửa hành trình của
Mùa Chay. Làm sao không thể vui mừng được. Mừng vui lên, hỡi những người trước
kia ở trong sầu khổ vì coi thường lời Chúa, bất trung, tội lỗi và nhạo báng các
tiên tri nên mất nước, lâm vào cảnh nhà tan cửa nát phải đi lưu đầy, nay được
trở về tái thiết quê hương. Mừng vui lên vì Chúa dừng cơn thịnh nộ đổ xuống
trên dân nay được thay bằng lòng từ bi và tha thứ, " Chúa thúc đẩy tâm hồn
hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư, nhà vua ra lệnh truyền rao khắp đất nước, và ban
chiếu chỉ rằng: Đây hoàng đế Cyrô, vua xứ Ba-tư tuyên bố : Ai trong các ngươi
thuộc về dân Chúa? Thiên Chúa sẽ ở với nó, và nó hãy tiến lên " (x. 2 Sb
36, 14-16. 19-23).
Vậy đâu là
lý do sâu xa để vui mừng ?
Vì tội lỗi của dân mà đền thờ Chúa bị quân thù đốt cháy,
tường thành Giêrusalem bị phá huỷ, các lâu đài và mọi đồ vật quý giá bị hỏa
thiêu. Nay họ "được kêu gọi tái thiết đền thờ Giêrusalem, được mời gọi đón
nhận lại Thiên Chúa đến ở giữa họ, đón nhận sức mạnh của tình yêu và tha
thứ" (x. 2 Sb 36, 14-16. 19-23). Đoạn Tin Mừng Gioan ghi lại hôm nay cho chúng
ta câu trả lời cụ thể : "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một
mình, để tất cả những ai tin Con Ngài ... để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu
độ" (Ga 3,16-17).
Thiên Chúa đã dựng nên con người, ban bố những giới răn,
không phải như những ách trói buộc, nhưng là như nguồn tự do, để con người cư
xử khôn ngoan, sống theo công lý và hoà bình, biết đặt tin tưởng nơi tha nhân
và cùng nhau thực hành các việc công chính dựa theo ý của Chúa để được hạnh
phúc.
Vui vì được
yêu thương và được cứu
Chúng ta đang ở tuần thứ IV trên hành trình tiến về lễ
Phục Sinh, hành trình cùng với Chúa Giêsu bước trong "hoang địa". Ðây
là quãng thời gian chúng ta lắng nghe tiếng Chúa và cũng là để vạch trần mặt nạ
của những cám dỗ trong lòng chúng ta. Ở phía chân trời của hoang địa này chúng
ta thấy nổi lên cây thập giá. Thập giá Chúa Kitô là đỉnh điểm của tình yêu đem
lại ơn cứu độ cho chúng ta. Chính Chúa Giêsu khẳng định : "Như ông Môsê đã
giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy,
để ai tin vào Người thì được sống muôn đời" (Ga 3,14-15). Lời trên nhắc
lại cuộc xuất hành của người Do thái từ đất Ai Cập. Trong hành trình, một số
người bị rắn độc cắn và bị chết. Khi ấy, Thiên Chúa ra lệnh cho ông Môisê làm
một con rắn bằng đồng và treo lên một cây sào : ai bị rắn cắn mà nhìn lên con
rắn đồng thì được chữa lành (x. Ds 21,4-9). Ám chỉ Ðức Giêsu sẽ được giương cao
trên thập giá để bất cứ ai đang ở trong hiểm nguy của tội lỗi, nhìn lên Người
với lòng tin thì sẽ được cứu độ, đúng như Gioan nói: "Quả vậy, Thiên Chúa
sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế
gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Theo thánh Âugustinô thì : "Người thầy thuốc là
người đến để chữa bệnh. Nếu người bệnh không tuân theo đơn thuốc và chỉ dẫn của
thầy thuốc, anh ta tự làm hại mình. Ðấng Cứu Thế đến thế gian...nếu anh không
muốn được Ngài cứu chuộc, anh tự phán xét chính mình" (Sul Vangelo di
Giovanni, 12,12: PL 35, 1190). Tình yêu Thiên Chúa là vô biên và Người đã ban
Con Một để chuộc tội cho con người. Phần chúng ta, mỗi người cũng phải chịu
trách nhiệm về mình. Thực vậy, mỗi người phải nhận biết tình trạng bệnh tật của
mình để được cứu chữa; từng người phải nhìn nhận chính tội của mình để ơn tha
thứ của Thiên Chúa, đã thể hiện trên Thập giá, hiện thực trong tâm hồn và cuộc
sống mỗi người. Thánh Âugustinô viết tiếp: "Thiên Chúa lên án tội lỗi và
nếu anh cũng làm tương tự, anh được hiệp thông với Thiên Chúa. Khi anh bắt đầu
tách mình khỏi những gì đã làm, khi đó anh khởi sự nhưng việc tốt lành bởi đã
từ bỏ những việc bất chính. Nên hoàn thiện bắt đầu từ việc nhận ra những sai
sót của mình."
Chúa Giêsu
là sự sáng thế gian
Ánh Sáng đã đến thế gian, nhưng nhiều người ưa thích đêm
tối hơn là ánh sáng. Có biết bao nhiêu đen tối ở trên thế giới hiện nay, những
đám mây của sự dữ vẫn còn bao phủ trên mặt đất này. Những vụ thảm sát tàn bạo
tại Irắc và Siria, những cuộc tranh chấp giữa các bộ lạc, lòng tham lam làm
hoen ố con tim, đưa đến cảnh bóc lột người nghèo, lòng tham vơ vét khai thác
các tài nguyện không nghĩ gì đến các thế hệ tương lai; bên cạnh đó là tính ích
kỷ khiến con người khép kín, trở nên vô cảm đối với Thiên Chúa và tha nhân,
thay vì những lý tưởng cao thượng của quảng đại và từ bỏ, thì người ta đi tìm
khoái lạc, hưởng thụ, tìm hạnh phúc qua xì ke, dâm đãng, đưa đến cảnh huỷ hoại
gia đình, tàn sát các bào thai, gạt bỏ người già và em nhỏ.
Để chống lại não trạng trên, Sứ điệp Mùa Chay năm nay có
chủ đề là xóa bỏ sự "thờ ơ toàn cầu hóa". Đức Thánh Cha Phanxicô mong
ước : " Nơi nào có sự hiện diện của Giáo hội, đặc biệt là nơi những giáo
xứ và cộng đoàn, sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót giữa biển cả thờ
ơ" (Sứ điệp MC 2015). Dửng dưng với Thiên Chúa và đồng loại là điều cần
phải loại bỏ trong xã hội hiện đại hôm nay. Chúng ta cần tạo ra một não trạng
mới coi tha nhân như là anh chị em đáng được yêu thương tôn trọng và giúp đỡ
trên cuộc hành trình tiến đến tự do, sự sống và hy vọng.
Thánh Phaolô nói: "Đây là lúc thuận tiện, đây là
ngày cứu độ" (2 Cr 6,2). Đây là thời gian thuận tiện để mỗi người quyết
tâm hoán cải, tăng cường việc lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện, thống hối, mở
rộng tâm hồn đón nhận thánh ý Chúa, quảng đại giúp đỡ tha nhân.
Mùa Chay là lúc thuận tiện để khích lệ mọi thành phần Dân
Chúa gia tăng sức lực thực hiện công việc bác ái nhiều hơn nữa. Giữa biển cả
thờ ơ của xã hội hôm nay, mỗi người, mỗi giáo xứ và cộng đoàn thực thi đức ái,
nhất định Giáo hội sẽ trở nên những hòn đảo lòng thương xót.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét