VƯỜN CÂY DẦU XƯA VÀ NAY |
VƯỜN CÂY DẦU XƯA VÀ NAY |
MỘ THÁNH PHANXICÔ XAVIE |
CỔNG VÀO MỘ THÁNH PHANXICÔ XAVIE |
MỤC LỤCTHÁP ĐÔI 88 TẦNG CAO NHẤT THẾ GIỚI |
CHÚA
NHẬT LỄ LÁ – Năm B
Lời
Chúa: Mc 11, 1-10; Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
MỤC LỤC
1. Phêrô
2. Vua Bình An – Mc
11,1-10.
3. Ngã rẽ cuộc đời –
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Nhiệt thành của thập
giá
5. Lễ lá
6. Lừa con chưa ai cưỡi
bao giờ
7. Giờ chiến thắng vinh
quang – Lm. Ignatiô Trần Ngà
8. Bệnh "hùa theo
đám đông"
9. Vác đỡ Thánh Giá Chúa
– PM. Cao Huy Hoàng
10. Thập giá, tình yêu
cứu độ
11. Suy niệm của Lm.
Giuse Phạm Ngọc Khuê
12. Ông này là ai vậy?
13. Xin đừng theo ý con
(Mc 11, 1-10)
14. Cuộc khải hoàn của
Người Tôi Trung
15. Cô đơn – Lm. Giuse
Tạ Duy Tuyền
16. Vâng phục ngay cả
chấp nhận cái chết
17. Chúa Giêsu lên
Giêrusalem
18. Những im lặng sau
tiếng hoan hô
19. Tình Chúa Tình Người
– Lm. Giuse Trần Việt Hùng
20. Suy niệm của Lm. Giuse
Đỗ Đức Trí
21. Baraba và Đức Giêsu
22. Con đường thập giá –
Lm. Đam. Trần Quang Hiền
23. Suy niệm của Noel
Quesson
24. Lễ lá
25. Cuộc Thương Khó
26. Cuộc Thương Khó
27. Hoan hô- Đả đảo
28. Ơn cứu chuộc
29. Thánh giá
30. Cuộc khổ nạn
31. Tội lỗi của ta
32. Vụ án
33. Vào thành
34. Bóng tối và niềm tin
– Peter Feldmeier
1. Phêrô
Bài tường thuật sự
thương khó Chúa Giêsu, tự bản chất đã chứa đựng rất nhiều điều đáng cho chúng
ta suy gẫm. Bởi đó, phải đọc trong tinh thần cầu nguyện, để sống lại những
chặng đường Chúa Giêsu đã đi qua, để những khổ đau của Chúa thấm vào tâm hồn
chúng ta, cũng như hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận sứ điệp của Chúa. Trong một
vài phút ngắn ngủi này, chúng ta dừng lại ở kinh nghiệm khác thường của Phêrô,
vị tông đồ vừa tự phụ, vừa yếu đuối lại vừa sám hối ăn năn.
Qua những giờ phút cuối
cùng của Chúa Giêsu, chúng ta nhận thấy nơi Phêrô có những mâu thuẫn. Một đàng
ông nhất quyết trung thành với Chúa và tìm mọi cách để bảo vệ Ngài. Đàng khác
ông không nghĩ tới mưu chước cám dỗ bất ngờ ập xuống một cách dữ dội, vì quá
tin tưởng vào sức riêng, nên thay vì vâng lời Chúa, thì ông lại phản đối lại
lời Ngài. Thực vậy Chúa báo trước cho ông hay các môn đệ sẽ lìa bỏ Chúa, nhưng
ông lại cho đó là chuyện khó tin, không thể xảy ra được. Chúa còn nói thêm
rằng: Chính ông sẽ chối bỏ Ngài trước khi gà gáy. Lẽ ra ông phải lo sợ, phải
cầu xin cho khỏi sa ngã, thì ông lại phản ứng một cách mạnh mẽ và hết sức tự
tin. Ông cảm thấy như không có gì lay chuyển nổi tình yêu của ông đối với Chúa,
nên ông không thể nào chấp nhận lời tiên báo rằng ông sẽ sa ngã, ông sẽ phản
bội. Cuối cùng khi Chúa dặn ông phải tỉnh thức và cầu nguyện thì ông lại ngủ
vùi, cho dù tận đáy lòng, ông vẫn một mực tin tưởng vào mình.
Từ những vấp ngã ấy, ông
đã rút ra một kinh nghiệm đau thương, được phảng phất qua lời khuyên nhủ sau
đây: Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, kẻ thù của anh em, như sư
tử gầm thét rảo quanh tìm mồi cắn xé.
Kẻ thù ồn ào và gào thét
đã tấn công vào Phêrô, đó là đám đông đi bắt Chúa và tìm mọi cách để tỏ lộ sự
căm phẫn đối với Ngài. Phêrô lo sợ mà không biết mình lo sợ. Vì không biết mình
nên ông đã không thấy rõ sự yếu đuối của mình, do đó ông đã liều lĩnh theo Chúa
xa xa, đến dinh thầy cả thượng phẩm, ông cả dám mon men đến gần dịp tội. Ông tưởng
rằng sự việc rồi cũng kết thúc êm đẹp như bao lần Chúa đã chấm dứt những hành
vi gây hấn của bọn biệt phái. Ông chờ đợi mà không đề phòng, cho nên đã sa ngã
chỉ vì một câu hỏi của người đàn bà. Ông bối rối, ông sợ hãi và ông đã chối bỏ
Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, điều đáng cho
chúng ta suy nghĩ đó là Phêrô đã hối hận. Tiếng gà gáy làm cho ông nhớ lại lời
tiên báo của Chúa Giêsu. Ở đây, vẻ cao quý của Phêrô là lòng khiêm nhường,
thành thực và tin tưởng dù đã sa ngã.
Ông khiêm nhường vì nhận
ngay mình có tội mà không cần phân tích lỗi lầm để tìm cớ chữa mình. Ông thành
thực vì không quanh co trong việc nhìn nhận một lỗi lầm đã nghịch lại lời cam
kết với Chúa. Ông tin tướng vì cảm nhận rằng nhờ nhận lỗi mình một cách thành
thật, ông được Chúa khoan dung tha thứ. Ông khóc vì cảm động. Và đối với một
người khí phách như ông, thì đó có lẽ là cách duy nhất để xin lỗi.
Phêrô sám hối, đã được
Chúa tha thứ và hơn thế nữa còn được Chúa đặt làm đầu Giáo Hội. Chính vì thế,
chúng ta hãy tin tưởng chạy đến với Chúa, dù tội lỗi chúng ta có nặng nề tới
đâu, nếu chúng ta biết sám hối ăn năn, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa tha thứ.
2. Vua Bình An – Mc 11,1-10.
Đâu là mục đích của việc
Chúa vào thành Giêrusalem một cách long trọng trong ngày hôm nay?
Mục đích thứ nhất là để
ứng nghiệm lời tiên tri đã nói trước trong Cựu Ước. Thực vậy như nhiều lần
chúng ta đã tìm hiểu, Cựu Ước là hình bóng, còn Tân Ước là thực tại. Cựu Ước
thì chuẩn bị, còn Tân Ước thì thực hành. Tất cả dòng lịch sử của Cựu Ước đều
hướng tới cao điểm, đó là Đức Kitô. Tất cả mọi sự việc trong cuộc đời của Ngài
từ lúc sinh ra cho đến khi chết và sống lại đều đã được Cựu Ước tiên báo và đã
xảy ra rất phù hợp với lời Kinh Thánh. Điều đó chứng tỏ Ngài thực là Con Thiên
Chúa, là Đấng phải đến để cứu độ nhân loại. Hôm nay khi nhìn thấy Chúa long
trọng tiến vào thành, chúng ta không khỏi nhớ đến lời tiên tri Giacaria đã nói:
Hỡi thiếu nữ Sion hãyvui mừng vì này Vua ngươi đến với ngươi, Ngài hiền từ và
khiêm hạ, cỡi trên lưng lừa con.
Mục đích thứ hai là để
chúng ta thấy Ngài là Đấng Cứu thế. Thực vậy, việc Chúa đi vào thành là một
việc nguy hiểm vì đi vào chỗ chết. Ngài biết rõ giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái
đang căm thù Ngài, muốn hãm hại và tiêu diệt Ngài, nhưng Ngài vẫn cứ đi. Dân
chúng thì tung hô tán tụng Ngài. Thái độ này càng làm cho bọn biện phái phẫn
uất, họ đã thưa cùng Chúa Giêsu: Xin Thầy bảo dân chúng im đi. Nhưng Chúa chỉ
trả lời: Nếu họ im đi thì đất đá sẽ lên tiếng. Chúa công khai chấp nhận lời dân
chúng chúc tụng, và bằng lòng với những lời chúc tụng ấy.
Sau cùng, mục đích thứ
ba là để chúng ta nhận ra Ngài là một vị vua hoà bình. Trên đường vào thành
thánh, dân chúng trải áo, cầm lành lá trong tay và tung hô Chúa Giêsu là Con
Vua Đavít. Họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ.
Nhiều lần họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Hôm nay họ được dịp làm việc đó. Nhưng
trong thâm tâm, họ chỉ nghĩ đến một vị vua trong phạm vi xã hội và chính trị,
đến để giải phóng dân tộc Do Thái khỏi ách nô lệ của đế quốc Lamã.
Thế nhưng Chúa Giêsu cho
thấy điều quan trọng hơn hết, đó là Ngài làm vua trong cõi lòng của họ và muốn
chiếm hữu tâm hồn của họ. Hiệu quả mà Ngài đem đến, đó là sự bình an. Chúa cưỡi
trên lưng lừa, đó là dấu chỉ của vua hoà bình. Cả cuộc đời trần thế của Chúa đã
chứng minh điều ấy. Thay vì bạo động, Ngài đã dùng phương pháp tốt đẹp nhất đó
là tình yêu nhân từ của Ngài. Sức mạnh vũ khí của người Do Thái đã không quật
ngã được Lamã, trái lại đã khiến họ bị huỷ diệt và đền thờ Giêrusalem bị tàn
phá vào năm 70. Nhưng Chúa Giêsu đã đến với họ và chỉ sau mấy mươi năm đã cảm
hoá, để rồi Tin Mừng được rao giảng trên toàn lãnh thổ Lamã. Đế quốc Lamã bị
tan rã không phải vì sức mạnh của binh đội, nhưng chính vì đạo đức của họ đã bị
suy đồi, và không chòn nữa. Đúng như lời Napoléon đã nói: Alexandre, César và
cả ta nữa, đã dựng nên nhiều đế quốc bằng vũ lực. Nhưng những đế quốc đó ngày
nay không còn nữa. Còn Chúa Giêsu, Ngài đã thiết lập vương quốc Ngài trong tình
thương, và ngày nay, vương quốc đó vẫn lớn mạnh. Hằng triệu người vẫn sẵn sàng
chịu chết vì Ngài.
Đức Kitô là Đấng cứu
thế, là Vua hoà bình. Ngày hôm nay, Ngài muốn chúng ta tuyên xưng lại hai danh
hiệu ấy. Hãy mở rộng cửa tâm hồn để đón mừng Ngài ngự đến.
3. Ngã rẽ cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Thánh lễ hôm nay rất ý
nghĩa cho giới trẻ. Trong ngày Lễ Lá, biết bao thanh thiếu niên ra đón mừng
Chúa. Cả một bầu khí trẻ trung, hăng say, kính mến. Sự trẻ trung bột phát qua
việc cầm cành lá, qua lời tung hô đón chào Chúa. Thật là một bầu khí cuồng
nhiệt. Giới trẻ Do thái lúc ấy biểu lộ lòng kính mến thật hồn nhiên, thật dễ
thương. Không khác gì giới trẻ chúng ta hôm nay.
Nhưng thánh lễ hôm nay
cũng khiến ta phải suy nghĩ không ít vì những biến cố quá trái ngược. Chúa vừa
vinh hiển vào thành chưa được bao lâu đã phải tủi nhục chết trên thập giá. Tại
cổng thành có biết bao người ra chào đón tung hô, nhưng trên Núi Sọ chẳng còn
mấy người theo Chúa. Từ chúa nhật Lễ Lá đến thứ Sáu tuần thánh thời gian không
dài, nhưng biết bao người đã thay lòng đổi dạ. Từ cổng thành đến Núi Sọ đường
đất không xa, nhưng biết bao người đã rẽ đường, đi ngang, về tắt. Tại sao thế?
Ta hãy lần theo dấu vết của những người bỏ cuộc để nhận diện những ngã rẽ cuộc
đời. Có ba ngã rẽ tiêu biểu.
Ngã rẽ của Giuđa. Giuđa
là môn đệ trung tín theo Chúa trong suốt 3 năm Chúa đi rao giảng. Ông còn được
Chúa tin cẩn trao phó cho công việc quan trọng: nắm giữ tài chánh. Ngày Lễ Lá
chắc chắn ông có mặt. Nhưng khi Chúa chịu chết thì ông vắng mặt. Ông đã rẽ sang
lối khác. Lối rẽ đuổi theo tiền bạc vật chất. Theo tiếng gọi của tiền bạc, ông
đã đưa chân đi những bước xa lạ. Ông đi vào con đường khác. Ông trở thành con
người khác. Ông bỏ Chúa vì tiền. Tệ hơn nữa ông bán Chúa để lấy tiền.
Ngã rẽ của Phêrô. Phêrô
là môn đệ rất thân thiết của Chúa. Là người đứng đầu tông đồ đoàn. Ông thề rằng
dù mọi người có bỏ Chúa thì ông vẫn trung thành với Chúa. Ngày Lễ Lá chắc chắn
ông ở bên Chúa. Nhưng ngày thứ sáu tuần thánh, không thấy ông đâu. Ông đã rẽ
sang lối khác: lối rẽ lười biếng và hưởng thụ. Lười biếng vì khi vào vườn
Giêtsimani, Chúa kêu gọi ông hãy thức cầu nguyện với Chúa, vậy mà ông cứ ngủ.
Hưởng thụ vì trong sân tòa án, thay vì theo dõi cuộc xét xử Chúa thì ông lại
vào tìm hơi ấm nơi đống lửa giữa sân. An nhàn hưởng thụ đã kéo ông xa Chúa. An
nhàn hưởng thụ đã đẩy ông đến chỗ chối Chúa.
Ngã rẽ của đám đông.
Hàng vạn người đã theo Chúa, mê mệt nghe đến mấy ngày quên ăn, quên về. Biết
bao người reo mừng nghênh đón Chúa ngày long trọng vào thành. Thế mà trên Núi
Sọ chỉ thấy những người đến sỉ vả, chê bai, nhạo cười. Đám đông đã rẽ sang lối
nào? Thưa họ rẽ sang lối dư luận. Thiếu lập trường, chạy theo đám đông. Thấy
người ta đi nghe Chúa thì cũng đi. Thấy người ta nhạo cười Chúa thì cũng cười
nhạo. Thấy người ta kết án Chúa thì cũng kết án.
Để tự nhiên, chắc chắn
không ai nỡ nhẫn tâm bán Chúa, chối Chúa, lên án Chúa. Nhưng người ta thay lòng
đổi dạ do tác động của tiền bạc, của hưởng thụ, của dư luận. Đó là những ngã rẽ
nguy hiểm.
Những gì đã xảy ra cho
Giuđa, cho Phêrô và cho đám đông năm xưa vẫn có thể xảy ra cho ta hôm nay. Làm
sao để ta luôn đi trên đường theo Chúa và trung thành với Chúa? Thưa hãy Sống
Lời Chúa. Năm nay (2005), Hội đồng Giám mục Việt nam đề nghị chúng ta hãy lấy
Lời Chúa làm kim chỉ nam. Trong thư chung năm 2005, HĐGM đã nhắn nhủ riêng các
bạn trẻ:
"Các bạn trẻ sẽ là
chủ nhân của tương lai, là niềm hy vọng của Giáo Hội. Trước bao nhiêu khuynh
hướng, trào lưu và thần tượng của thời đại, các bạn không được phép sai lầm khi
lựa chọn tiêu chuẩn hướng dẫn hành động. Lời Chúa là Ánh Sáng duy nhất giúp các
bạn trong sự lựa chọn có tính quyết định này" (Thư chung 2005, 9).
Thật là trùng hợp. Ngay
lúc này đây, khi giới trẻ Hà nội đang họp nhau tại Nhà thờ Lớn này, thì tại
quảng trường thánh Phêrô, Rôma, Đức Thánh Cha Bênêđíchtô cũng đang gặp gỡ giới
trẻ Rôma, Italia. Và Đức Thánh Cha cũng khuyên nhủ các bạn trẻ hãy siêng năng
đọc, học hỏi, suy niệm Lời Chúa để thực hành trong đời sống. Lời Chúa sẽ hướng
dẫn các bạn biết sáng suốt trước những chọn lựa trong đời sống. Lời Chúa sẽ soi
sáng cho các bạn trong những lúc bóng tối vây phủ. Lời Chúa sẽ ban sức mạnh khi
các bạn cảm thấy yếu mệt. Lời Chúa sẽ hướng dẫn các bạn biết lối quay về nếu lỡ
lạc đường. Lời Chúa sẽ biến các bạn trở thành chứng nhân cho Chúa trong xã hội
hôm nay. Vì Lời Chúa sẽ ấp ủ, nuôi dưỡng để các bạn lớn lên trong tình thương yêu.
Cảm nghiệm được tình yêu thương của Chúa, các bạn sẽ biết đáp lại. Và sẽ trung
thành với Chúa cho đến cùng.
Lạy Chúa, xin gìn giữ
chúng con trong tình thương của Chúa. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý CHIA SẺ
1- Trong ba loại ngã rẽ,
bạn thấy ngã nào nguy hiểm nhất?
2- Bản thân bạn có kinh
nghiệm gì với những cám dỗ này? Bạn đã chống trả ra sao? Bạn đã thành công hay
thất bại trong cuộc chiến đấu chống những cơn cám dỗ kể trên?
3- Đối với bạn, Kinh
Thánh có quan trọng không?
4- Câu nào trong Kinh
Thánh đánh động bạn nhất?
5- Phải đọc Kinh Thánh
thế nào mới có kết quả?
4. Nhiệt thành của thập giá.
(Suy niệm của ĐGM. Phêrô
Nguyễn Văn Khảm)
Tuần Thánh bắt đầu với
Chúa nhật Lễ Lá và Phụng vụ Lễ Lá lại tiến hành với hai nhịp tương phản. Bắt
đầu là cử hành việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua,
được dân chúng đón tiếp trọng thể, ngập tràn tiếng reo vui. Rồi ngay sau đó
trong Thánh Lễ, thay cho bài Tin Mừng lại là bài tường thuật cuộc thương khó
của Chúa, cuộc thương khó đầy máu và nước mắt. Hội Thánh có ý gì khi liên kết
hai sự kiện tương phản này? Tại sao không đợi đến Thứ Sáu Tuần Thánh để công bố
bài thương khó mà phải đọc ngay từ Chúa nhật Lễ Lá? Đã hẳn có nhiều ý nghĩa
phong phú hàm chứa ở đây cần được khai triển. Một trong những nội dung đáng quan
tâm là Hội Thánh muốn làm nổi bật đường lối cứu thế của Chúa Giêsu và mời gọi
con cái mình bước theo Thầy.
Khi kể lại việc Chúa
Giêsu thanh tẩy Đền thờ Giê-ru-sa-lem, thánh Gioan ghi nhận: "Các môn đệ
của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt thành lo việc Nhà Chúa
mà tôi đây phải thiệt thân" (Ga 2,17). Một số Kitô hữu đã liên kết từ
"nhiệt thành" ở đây – cũng như việc Chúa Giêsu được đón rước trọng
thể vào thành Giêrusalem trong tư cách một vị vua – với phong trào chính trị
được gọi là "Nhiệt Thành-zelos" thời bấy giờ. Ngoài ra người ta còn
kết nối sự kiện này với lời các thượng tế tố cáo Chúa Giêsu trước tòa Philatô:
"Ai xưng mình là vua thì chống lại Cêsarê" (Ga 19,12). Tất cả để dẫn
đến kết luận Chúa Giêsu là nhà cách mạng chính trị.
Phong trào chính trị có
tên gọi "Nhiệt Thành" được khơi nguồn từ ông Mattathias, cha của anh
em nhà Macabê. Vào thời đó, vua Antiôkô cưỡng bức người Do Thái phải chối đạo
và tế thần trên bàn thờ, nhưng ông Mattathias tuyên bố: "Chúng tôi sẽ
không tuân theo lệnh vua mà bỏ việc thờ phượng của chúng tôi để xiêu bên phải,
vẹo bên trái" (1 Mac 2,22). Và khi có một người Do Thái tiến ra tế thần
trên bàn thờ theo chỉ dụ của nhà vua, thì sách Macabê kể lại: "Ông
Mattathias bừng lửa nhiệt thành... ông nhào tới hạ sát hắn ngay tại bàn thờ.
Ông cũng giết luôn viên chức của vua có nhiệm vụ cưỡng bức người Do Thái tế
thần, rồi ông phá đổ bàn thờ". Sau đó sách Macabê kết luận: "Ông bừng
lửa nhiệt thành đối với Lề Luật giống như ông Pinêát trong vụ Dimri, con của
Xalu" (2,23-26). Kể từ lúc đó, từ ngữ "nhiệt thành-zelos" trở
thành khẩu hiệu diễn tả quyết tâm dùng sức mạnh và bạo lực để bảo vệ đức tin,
bảo vệ Lề Luật.
Vào thời Chúa Giêsu,
không ít người Do Thái đi theo phong trào này, chủ trương dùng bạo lực để xua
đuổi đế quốc Rôma, giành lại chủ quyền và độc lập của dân tộc. Dựa vào một số
chi tiết trong các sách Tin Mừng, người ta cũng nhìn Chúa Giêsu như một nhà
cách mạng chủ trương dùng bạo lực để xây dựng một vương quốc chính trị. Đồng
thời, dọc dài lịch sử Giáo Hội, hình ảnh Chúa Giêsu như một nhà cách mạng cũng
được vận dụng để biện minh cho việc sử dụng bạo lực nhằm xây dựng một thế giới
tốt đẹp hơn.
Thế nhưng đây có thực sự
là ý hướng của Chúa Giêsu? Khi suy niệm về việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem
cách trọng thể, Đức Bênêđictô XVI trả lời: "Không. Làm cách mạng bằng bạo
lực, nhân danh Thiên Chúa để giết người, đó không phải là đường lối của Chúa.
Lòng nhiệt thành của Người đối với vương quốc Thiên Chúa được thể hiện bằng
cách thức hoàn toàn khác".
Trong ngày Lễ Lá, hình
ảnh Chúa Giêsu cỡi trên lưng lừa tiến vào Giêrusalem làm dội lại lời tiên tri
Zacaria: "Nào thiếu nữ Sion, hãy vui mừng hoan hỉ! Hỡi thiếu nữ
Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi.
Người là Đấng chính trực, Đấng toàn thắng; khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một
con lừa con vẫn còn theo mẹ" (9,9). Vào thời tiên tri Zacaria cũng như vào
thời Chúa Giêsu, con ngựa mới là biểu tượng của sức mạnh, còn lừa là phương
tiện của người nghèo. Vì thế hình ảnh Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một
vị vua hoàn toàn khác. Người là vua của hòa bình, vua của người nghèo, vị vua
đơn sơ và khiêm tốn.
Cũng lúc ấy, chúng ta
khám phá lý do tại sao Phụng vụ Lễ Lá được bắt đầu bằng việc tưởng niệm Chúa
Giêsu vào thành Giêrusalem trong vinh quang, rồi được tiếp nối bằng việc công
bố bài thương khó. Để thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình. Để thấy rõ hơn
ý nghĩa của "sự nhiệt thành", không phải thứ nhiệt thành của bạo lực
nhằm xây dựng một vương quốc trần thế, nhưng là sự nhiệt thành của Thập Giá,
nhiệt thành của tình yêu tự hiến trọn vẹn.
Sự nhiệt thành ấy cũng
chất vấn cách nhìn và cách sống của người môn đệ Chúa Giêsu ở mọi thời đại và
trong mọi hoàn cảnh. Có những lúc người môn đệ Chúa cũng bị cám dỗ sử dụng bạo
lực để gọi là phục vụ Nước Chúa. Nếu chưa phải là những hành động bạo lực thì
cũng là những lời nói và ứng xử bạo lực. Dù là hành động hay lời nói thì gốc rễ
vẫn là sự căm thù chất chứa trong tâm hồn, đôi khi được ẩn giấu dưới lớp áo
nhiệt thành, và sự căm thù ấy đã dẫn đến biết bao hậu quả tai hại cho chính Hội
Thánh của Chúa. "Chúng ta đã biết quá rõ những hậu quả tàn ác của thứ bạo
lực với động cơ tôn giáo. Bạo lực không xây dựng vương quốc Thiên Chúa, vương
quốc của nhân tính. Ngược lại, bạo lực là khí cụ ưa thích của tên phản-Kitô,
cho dù nó núp bóng tôn giáo. Nó không phục vụ nhân loại mà phục vụ sự phi
nhân" (Benedict XVI, Jesus of Nazareth, tome II, 15).
"Chúa Giêsu đã
thiết lập tiêu chuẩn đánh giá lòng nhiệt thành chân chính, đó là lòng nhiệt
thành của tình yêu tự hiến, và sự nhiệt thành này phải trở nên mục tiêu của đời
sống Kitô hữu". Suy tư này của Đức Bênêđictô XVI đáng cho mỗi người Kitô
hữu ghi nhớ để soi sáng lời nói và hành động của mình. Nhất là trong Tuần
Thánh, khi đi đàng Thánh Giá, khi ôn lại những chặng đường trong cuộc khổ nạn
của Chúa chúng ta.
5. Lễ lá.
Tại một ngôi nhà thờ nọ
ở Tây Ban Nha có một cây thập giá được rất nhiều người tôn sùng. Đó là tượng
chịu nạn tha tội: Chúa Giêsu bị đóng đinh tay trái, còn tay phải của Ngài thì
thõng xuống.
Truyền thuyết kể lại: Có
một người tội lỗi tìm đến với cha xứ. Tuy ông đã xưng thú mọi tội lỗi với lòng
sám hối, nhưng cha xứ lưỡng lự không biết có nên tha cho ông hay không, vì thấy
ông phạm quá nhiều tội. Sau cùng, cha nghiêm giọng nói:
- Tôi ban bí tích Giải
tội cho ông, nhưng trong tương lai ông phải cố gắng sửa mình.
Ông hứa với cha xứ,
nhưng vì yếu đuối ông lại sa ngã và một thời gian sau lại tìm đến tòa cáo giải.
Lần này thì cha xứ nói với ông bằng một giọng nghiêm khắc:
- Tôi ban bí tích Giải
tội cho ông lần này là lần cuối cùng đấy. Ông đã nghe thấy chưa.
Vài tháng trôi qua và
ông lại đến quỳ dưới chân cha xứ và năn nỉ:
- Con thực lòng ăn năn,
xin cha tha tội cho con một lần nữa.
Cha xứ đáp:
- Đừng đùa giỡn với
Chúa. Tôi không ban bí tích Giải tội cho ông nữa đâu.
Khi nói thế, cha bỗng
nghe thấy có tiếng nấc nghẹn ngào. Rồi từ trên thập giá, cánh tay phải của Chúa
từ từ hạ xuống và ban phép giải tội cho người tín hữu thành tâm sám hối. Và
Ngài nói với vị linh mục:
- Chính Ta đổ máu ra để
cứu chuộc ông ấy chứ không phải là con.
Và cũng từ ngày đó, cánh
tay phải của Chúa thõng xuống trong tư thế ban phép tha tội.
Chính Ta đã đổ máu ra để
cứu chuộc con. Lời ấy chính Chúa Giêsu muốn nói với mỗi người chúng ta trong
tuần thánh này. Thực vậy, Chúa Giêsu đã tự đồng hóa mình với người tôi tớ đau
khổ của Đức Giavê. Thập giá trước mắt người đời là dấu chỉ của tủi nhục và thất
bại, là hình phạt được dành cho bọn nô lệ và phản loạn. Thế nhưng, Thiên Chúa
đã biến đổi nó thành dấu chỉ của tình thương, của ơn cứu độ và của sự tha thứ.
Khi tuyệt đối trung thành với thánh ý Chúa Cha bằng cách chấp nhận thập giá,
như lời thánh Phaolô đã viết:
- Đức Kitô đã vâng phục
cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài đã dạy cho chúng ta
biết ý nghĩa và giá trị cứu độ của đau khổ. Con đường Đức Kitô đã đi qua là con
đường của đau khổ, của thập giá, của khiêm nhu, của thất bại, con đường ấy
không đưa chúng ta vào ngõ cụt, nhưng dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.
Là người môn đệ của
Chúa, chúng ta cũng không có một con đường nào khác ngoài con đường thập giá,
tức là chấp nhận những khổ đau trong cuộc sống như lời Ngài đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải
từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta.
Mỗi khổ đau, mỗi hy sinh
chúng ta vui lòng chịu vì lòng yêu mến Chúa sẽ là một góp phần nhỏ bé vào thập
giá Đức Kitô để đền bù tội lỗi, cũng như để thu tích công nghiệp cho chính bản
thân của mình. Và như thế, đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường
về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới vinh quang phục sinh.
6. Lừa con chưa ai cưỡi bao giờ.
(Suy niệm của Lm. Gioan
Nguyễn Văn Ty)
Trong trình thuật Đức
Giêsu vào Giê-ru-sa-lem với tư cách đấng Mê-si-a, cả bốn Phúc Âm đều ghi nhận
chi tiết mượn lừa và cỡi lừa; thậm chí có tác giả như Mác-cô và Luca còn xác
định chi tiết hơn: Người cỡi lên 'con lừa con chưa ai cỡi bao giờ'. Hình ảnh
Đức Giêsu khải hoàn tiến vào thành thánh ngồi trên lưng lừa thật ấn tượng; ấn
tượng không phải vì vẻ uy nghi bề ngoài (điển hình như bức tranh Na-pô-nê-ôn
oai phong trên lưng ngựa chiến vượt qua rặng núi Alpes của Jacques-Louis
David), nhưng vì một một nét gì đó êm đềm và sâu sắc đến khó tả.
Tác giả Mát-thêu đã hé
cho thấy ý nghĩa của cảnh tượng đó, khi trích dẫn lời ngôn sứ Da-ca-ri-a:
"Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ!... Vì kìa Đức Vua của ngươi
đang đến với ngươi; Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi
trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ" (Dcr 9:9). Các nhà chú
giải Kinh Thánh đưa ra những giải thích quen thuộc, như "Các ngôn sứ đã
loan báo một vị vua hiền hòa, đến viếng thăm dân, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa,
như người dân đơn sơ hiền hòa, thay vì ngồi trên lưng ngựa như vị tướng
quân" (Christian Community Bible). Thực ra nói như thế ta vẫn chưa giải
thích được gì, hoặc có nếu có thì cũng mới chỉ cho thấy hình tượng bên ngoài như
một lối trình bày trước quần chúng (theo kiểu thường thấy nơi các diễn viên).
Tra cứu Cựu Ước, tôi
được biết đối với người Do Thái, trong đời thường việc cỡi lừa chẳng có một ý
nghĩa gì lớn. Cho tới thời Sa-lô-mom, các tổ phụ, các vua, các quan án hay mọi
người giầu có, vị vọng cũng đều cỡi lừa cả (Tl 10,3; 1,14; 1Sm 25,23). Lừa đồng
thời cũng từng là phương tiện chuyên chở phổ thông của cả vùng Pa-lét-tin thời
đó. Phải đến thời hậu Sa-lô-môn sau khi ngựa chiến được du nhập, lừa mới trở
thành biểu tượng của thời bình, cũng như ngựa là biểu tượng của thời chiến.
"Kìa đức Vua đến với ngươi, hiền hòa trên lưng lừa!". Đức Giêsu tự
giới thiệu mình với đám quần chúng Do Thái như vị Con Người của đời thường, của
hòa bình, khác xa với quan niệm chính trị về một đấng Mê-si-a chinh chiến đánh
đuổi ngoại xâm được các thượng tế và luật sĩ truyền bá. Sau này, trước mặt tổng
trấn Phi-la-tô của chính quyền Rô-ma, Người cũng sẽ thẳng thừng tuyên bố cùng
một nội dung đó (Ga 18,36-38).
Đối với những ai am
tường Cựu Ước hơn, khi nhắc tới chi tiết 'Vua ngươi hiền hậu ngồi trên lưng
lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ' chắc hẳn sẽ gợi nhớ hai giai
thoại; A-bra-ham sát tế I-xa-ác, và con lừa cái của ông Bi-lơ-am. Câu chuyện
sách Sáng thế chương 22 thuật: "Ông Áp-ra-ham dậy sớm, thắng lừa, đem theo
hai đầy tớ và con ông là I-xa-ác. Ông bổ củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu...
rồi lên đường tới nơi Thiên Chúa bảo... Sang ngày thứ ba, ngước mắt lên,
Áp-ra-ham thấy nơi đó ở đàng xa, ông bảo đầy tớ: "Các anh ở lại đây với
con lừa, còn cha con tôi đi lên tận đàng kia làm việc thờ phượng, rồi sẽ trở
lại với các anh"... Ông Áp-ra-ham lấy củi dùng để đốt của lễ toàn thiêu
đặt lên vai I-xa-ác, con ông. Ông cầm lửa và dao trong tay, rồi cả hai cùng
đi..." I-xa-ác trước khi bị cha mình sát tế, đã vác củi thay con lừa mang
nặng. Còn sách Dân số chương 22 thì kể câu chuyện Bi-lơ-am, thầy sấm của dân
Ma-đi-an, cỡi con lừa cái của mình chạy trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Ba
lần con lừa 'thấy thần sứ của Đức Chúa đứng trên đường, gươm trần trong tay...'
và nó đã tìm cách tránh đường. Sau cùng thần sứ nói với Bi-lơ-am: "Con lừa
cái thấy Ta, thì nó đã tránh mặt ta tới ba lần. Giả thử nó không tránh mặt Ta,
thì chắc chắn Ta đã giết chết ngươi, còn nó thì Ta đã để cho sống..." Một
con lừa gợi nhớ hy tế vâng phục, con kia nhắc nhở tha thứ khỏi cơn thịnh nộ!
Như vậy cảnh tượng Đức
Giêsu khải hoàn tiến vào Giê-ru-sa-lem cỡi trên lưng lừa không đơn thuần chỉ là
một hình ảnh gây ấn tượng. Nếu Hy tế Thập giá là cả một mạc khải vĩ đại về
Thiên Chúa tình yêu và cứu độ, thì hình ảnh 'cỡi lừa' này chính là một phần của
mạc khải đó (cũng như hình ảnh con rắn đồng trong Ga 3,14-18). Nó nói lên một
Thiên Chúa hiền hòa, không kết án, không luận phạt; nó là hình ảnh rất Do Thái
về một đấng Mê-si-a hiền hòa và xót thương, cứu vớt và tha thứ; một đấng
Mê-si-a, 'Đấng ngự đến nhân danh Chúa' phải là như thế, không thể nào khác
được!
Lạy Đấng Mê-si-a hiền
hòa cỡi trên lưng lừa con, ai có thể mở miệng tung hô và đón nhận Người cách
nhiệt tình nhất nếu không phải là những người tội lỗi thấp hèn? Nếu con không
biết tung hô lòng từ bi nhân hậu Chúa, biểu lộ cách rực rỡ nơi mầu nhiệm Thập
Giá, thì y như Chúa nói: "sỏi đá cũng sẽ kêu lên!" Xin cho tâm hồn
con không bị trai cứng còn hơn cả sỏi đá tới độ không biết mở miệng lớn tiếng
ca tụng tình thương cứu độ Người đã thực hiện trên thập giá vì yêu con! Amen.
7. Giờ chiến thắng vinh quang – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Đức Giêsu gọi giờ tử nạn
là giờ Người được tôn vinh: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh" (Ga
13, 31).
Vinh quang ở đâu mà chỉ
thấy bị bắt bớ, xét xử, bị vu cáo đủ điều, rồi lại bị kết án, bị đòn vọt, bị
vác thập giá và cuối cùng là cái chết thảm thương ô nhục trên đồi Canvê!
Vậy vinh quang của Chúa
Giêsu ở đâu? Vì sao Chúa Giêsu gọi đây là giờ Người được tôn vinh?
Đối với người không am
hiểu, cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một thất bại não nề; nhưng suy
cho kỹ, cái chết đó là một chiến thắng rất oanh liệt và vinh quang.
Đây là nơi Chúa Giêsu
chiến thắng sự hận thù bằng lòng bao dung.
Đối diện với cuộc kết án
bất công, đứng trước những thượng tế, kỳ mục muốn huỷ diệt mình cho bằng được,
đối diện với đám đông cuồng nộ đòi đóng đinh kết liễu đời mình, trước những kẻ
chế giễu nhạo cười với bao lời thách thức, đứng trước đội quân hành quyết dã
man tàn bạo... Chúa Giêsu vẫn không may may oán hận! Người chiến thắng sự hận
thù bằng lòng bao dung vô bờ bến. Người nhìn họ với ánh mắt thương xót, vẫn yêu
họ bằng trái tim khoan nhân... Rồi vì sợ Chúa Cha đánh phạt họ vì tội lỗi ngất
trời của họ, Người tha thiết cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ gây đau khổ
và kết án tử cho Người: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ
làm" (Lc 23, 34). Đó là tâm tình đẹp nhất, cao thượng nhất trên cõi đời
nầy.
Đây là nơi Chúa Giêsu
chiến thắng tính khiếp nhược và lòng tham sinh uý tử bằng sự dũng cảm rất cao
cường.
Là người ai không sợ
chết. Chính Chúa Giêsu cũng đã trải qua những giờ phút kinh hoàng trước viễn
ảnh cái chết đau thương sắp đến khi cầu nguyện trong vườn Dầu, thế nhưng Người
không bị khuất phục bởi cái chết. Người đã chổi dậy để dũng cảm đương đầu với
nó. Người đã chấp nhận chết cách can trường và đã huỷ diệt sự chết để hồi sinh.
Đây là nơi Chúa Giêsu
chiến thắng đau đớn thể xác và đau khổ tinh thần.
Là người ai cũng sợ khổ
và tìm cách lánh thoát khổ đau. Nhưng Chúa Giêsu đã đón nhận những cực hình đau
thương khủng khiếp nhất cách can đảm phi thường. Qua thập giá, Ngài đã hoàn
toàn chiến thắng tính khiếp nhược của phận người.
* * *
Qua cách thức Chúa Giêsu
đương đầu với cuộc khổ nạn, ta thấy không một thách thức nào làm cho Người lùi
bước; không một đe doạ nào làm cho Người khiếp sợ; không một sỉ nhục nào làm
cho Người nổi giận hay mất bình an; không hận thù nào tiêu huỷ được lòng bao
dung vô bờ bến của Người...
Người thắng được bản
năng tham sinh úy tử; Người vượt lên trên nỗi sợ mọi thứ khổ đau; Người thắng
được lòng hận thù có thể bùng lên khi bản thân mình bị sỉ nhục và bị đối xử rất
dã man và tàn ác... Trong cuộc khổ nạn của mình, Đức Giêsu chiến thắng hoàn
toàn bản thân mình, vượt qua các thách thức từ mọi phía để hoàn thành mỹ mãn sứ
mạng Chúa Cha đã trao ban.
Chiến thắng cả thiên hạ
không bằng chiến thắng chính bản thân mình. Chúa Giêsu đã thực sự chiến thắng
bản thân mình, hoàn toàn làm chủ con người mình, bắt thân xác phải vâng phục
tinh thần như chiên ngoan. Oai hùng thay! Vinh quang thay!
Lạy Chúa Giêsu Kitô,
Chúa vô cùng dũng cảm và hùng mạnh nên đã chiến thắng tử thần và đẩy lùi mọi
cuộc tấn công của nó, xin nâng đỡ chúng con là những kẻ đớn hèn khiếp nhược,
đừng để chúng con chào thua trước tội lỗi cách dễ dàng nhưng giúp chúng con
kiên cường chiến đấu chống lại tội lỗi và thói hư, để mai ngày được khải hoàn
vinh quang như Chúa.
8. Bệnh "hùa theo đám đông"
(Suy niệm của Lm. Giuse
Tạ Duy Tuyền)
Khi làm sai một điều gì
đó, người ta thường biện minh rằng: "Người ta làm sao, tôi làm vậy. Người
ta làm bậy, tôi làm theo".
Câu nói này không hẳn là
lời nói cho vui mà dường như là căn bệnh của xã hội qua mọi thời đại. Một cách
đơn giản, mỗi khi dừng trước đèn đỏ mà có một người vượt lên trước, thì y như
rằng sẽ có rất nhiều người vượt lên theo. Lúc này người ta không để ý đến đèn
chỉ dẫn mà chạy theo đám đông. Đám đông làm bậy, tôi làm theo.
Người ta kể rằng: có một
cậu bé đang đi trên lề đường bỗng dừng lại, ngửa mặt lên trời. Có vị giáo sư đi
tới, thấy thế cũng ngạc nhiên dừng lại, ngước mắt nhìn theo. Rồi một bà đứng
tuổi đi ngang qua cũng làm y như vậy; một người, rồi một người nữa... Lúc cậu
bé cúi xuống, quay qua quay lại, ngạc nhiên khi thấy cả chục người đứng chung
quanh mình đều ngửa mặt nhìn trời. Cậu thành thực hỏi: "Ủa! Các ông các bà
cũng bị chảy máu cam như cháu sao?".
Đây là căn bệnh
"hùa theo đám đông". Đám đông làm mình cũng làm. Sự làm theo đám đông
đôi khi bất chấp lề luật, bất chấp tội lỗi. Dường như người ta nghĩ rằng nhờ
đám đông mà dảm bớt tội, hay giảm bớt trách nhiệm. Những bệnh "hùa theo
đám đông này", ta có thể thấy nhan nhản qua các tội: nam nữ sống "góp
gạo thổi cơm chung" nơi khá đông tầng lớp công nhân và sinh viên xa nhà;
chuyện phá thai nơi những bà mẹ mang con ngoài ý muốn; chuyện buôn gian bán lận
để có đồng lời trong thời buổi cạnh tranh mà nhiều người nói rằng "không
gian làm sao có lời"; chuyện hối lộ và tham nhũng để được việc và giữ được
ghế lâu dài ...; Lợi dụng đám đông để người ta phạm tội mà không e ngại, không
xấu hổ và nhất là không còn ý thức đâu là tội. Đám đông làm bậy đã khiến cho
tội trở thành điều bình thường như: nói tục, chửi bậy, nói dối, nói sai sự thật
của người Việt nam hôm nay. Đám đông làm bậy đã làm cho nhiều trẻ nhỏ và những
người kém hiểu biết mất ý thức về sự việc là tội hay không tội. Họ đã làm theo
đám đông mà không còn ý thức về căn tính sự việc.
Lần giở lại lịch sử cách
đây hơn hai ngàn năm, Chúa Giêsu được hoan nghênh và kết án, được tôn vinh, và
tẩy chảy cũng chỉ một đám đông. Đó chính là đám đông dân thành Giê-ru-sa-lem.
Họ đã từng tung hô Chúa Giêsu. Họ đã từng lấy áo lót đường cho Chúa Giêsu đi
qua. Họ cầm ngành lá vạn tuế để cùng nhau tung hô Chúa là Đấng nhân danh Thiên
Chúa mà đến. Thế nhưng, cũng đám đông đó, chỉ nghe nhóm biệt phái và thượng tế
định tội Chúa Giêsu, họ đã mau chóng quay lưng lại với người mà họ đã từng tung
hô. Những bàn tay cầm cành lá vạn tuế lại được giơ lên trong tư thế nắm đấm đòi
triệt hạ Chúa Giêsu. Những lời tung hô đầy niềm vui được thay bằng những lời
hằn học đầy căm phẫn. Có lẽ có rất nhiều người trong đám đông đó không hề thù
ghét Chúa Giêsu. Có lẽ trong đám đông đó còn có rất nhiều người đã từng nhận ân
nghĩa của Chúa Giêsu. Thế nhưng, họ đã bị đám đông lôi cuốn vào chuyện gian ác
để đòi đóng đinh người vô tội trên thập tự giá.
Dòng đời hôm nay vẫn còn
đó những người công chính bị hạ bệ, bị lấy mất thanh danh bởi đám đông đang rỉ
tai nhau bỏ vạ, cáo gian, nói hành, nói xấu ...
Dòng đòi hôm nay vẫn còn
đó những người bị tước mất tất cả danh dự, lẫn vật chất vì đám đông hãm hại mà
không biết thanh minh từ đâu.
Dòng đời hôm nay vẫn còn
đó những bất công khi đám đông cuồng tín bất chấp lề luật toa rập với nhau hãm
hại người công chính.
Dòng đời hôm nay vẫn còn
đó những người công chính dám bảo vệ chân lý lại bị đám đông tẩy chay theo chủ
nghĩa đồng cảm chứ không đồng thuận.
Dòng đời hôm nay tội lỗi
vẫn lan tràn, khi mà đám đông đã không đủ tỉnh thức để hồi tâm, để dừng lại.
Nhưng lại hùa theo nhau để làm bậy đến mức độ mất ý thức về tội.
Đám đông dân thành
Giê-ru-sa-lem đã toa rập với nhau giết hại người công chính. Có lẽ, họ đã hối
hận sau cái chết của Chúa Giêsu. Có lẽ, họ đã hoảng sợ khi nghe tin Ngài đã từ
cõi chết sống lại. Nhưng đã muộn. Giu-đa đã tự vẫn. Phê-rô xấu hổ. Viên đội
trưởng chỉ thở não nề mà nói "Người này thật là Con Thiên Chúa". Đám
đông xôn xao lo lắng. Tất cả đã muộn khi sự ác chiến thắng. Người công chính đã
bị kết án tử hình.
Là người ky-tô hữu chúng
ta phải sống yêu thương. Tình yêu thương đòi buộc chúng ta đừng làm điều gì có
lỗi với lương tâm. Tình yêu đòi buộc chúng ta vượt trên đám đông, trên dư luận
để đừng hùa theo đám đông mà phải can đảm bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải. Tình
yêu đòi buộc chúng ta phải sống trung thực với chính mình, biết tôn trọng sự
thật và can đảm bảo vệ sự thật. Đừng vì sợ hãi mà im lặng để bất công lan tràn,
sự dữ ngự trị.
Xin cho mỗi người chúng
ta luôn tỉnh thức trước sự dữ, luôn có lập trường vững chắc trong cuộc sống.
Xin đừng vì nhát đảm mà làm ngơ trước bất công nhưng luôn can trường bảo vệ
chân lý và sự thật. Amen.
9. Vác đỡ Thánh Giá Chúa – PM. Cao Huy Hoàng
Vào Tuần Thánh với Lễ
Lá, bài Thương khó đã kể lại cho chúng ta nghe về Con Một Thiên Chúa mang thân
phận con người với tên Giêsu. Ngài đã cô đơn đổ mồ hôi máu trong Vườn Cây Dầu
như bị bỏ rơi, chấp nhận hóa thân mình nên thần lương cho nhân loại, bị chính
môn đệ phản bội nộp thầy cho quân dữ, bị đứng trước vành móng ngựa, nghe bản
cáo trạng hàm oan, rồi lại nghe tuyên án tử hình, chịu vác thập giá, đánh đòn,
đội mão gai, té ngã trên đường lên Núi Sọ, và cuối cùng, chịu đóng đinh và chết
thật.
Đó là cái giá phải trả
để chuộc lại tội bội phản của tổ tông loài người. Cụ thể hơn, chỉ có hy tế thập
giá của Chúa Giêsu mới là lễ dâng đẹp ý Thiên Chúa Cha, để nhờ án tử hình của
Chúa Giêsu mà Thiên Chúa Cha xóa đi bản án tử hình đời đời cho con người.
Tham dự vào cuộc Thương
Khó của Chúa Giêsu với lòng biết ơn Người đã mang lại cho chúng ta niềm hy vọng
được tham dự vào cuộc sống vĩnh cửu của Thiên Chúa, nhờ lòng khoan dung tha thứ
của Thiên Chúa Cha.
Có người đặt vấn đề khá
thời sự rằng: Chúa Giêsu đã chịu thương khó, đã chết và sống lại hai ngàn năm
rồi. Chúng ta đang nghe việc thuật lại như một chuyện kể, một cổ tích. Làm sao
chúng ta có thể lại bước đi trên Đường Thương Khó với Chúa Giêsu nữa?!? Thật mơ
hồ.
Tôi đồng ý với bạn rằng:
chúng ta không tận mắt thấy Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu trong đêm Vườn Dầu. Nhưng
thiết tưởng, chúng ta có thể thấy rất cụ thể từng nếp nhăn cằn cỗi trên khuôn
mặt của những Chủ Chiên ngày qua ngày phải đối phó với bầy quân dữ của Satan
đang rình mò cắn xé Giáo Hội là Thân Thể Chúa Giêsu Kitô. Xin đừng nghĩ là các
Chủ Chiên đang vô tư, vô tình, vô cảm trước những bức bách mang tính chủ trương
và toàn diện đang xảy ra trong và cho Giáo Hội địa phương của mình. Nhưng nên
nghĩ là các Ngài đang đổ mồ hôi máu mà thưa với Chúa Cha rằng: "Lạy Cha
nếu có thể được, thì xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con,
một theo ý Cha mà thôi".
Những chủ chiên ấy,
không chỉ là những Giám Mục, Linh Mục, mà cụ thể hơn là bạn, là tôi, là tất cả
những người làm ông bà, cha mẹ, anh chị đang mang trong mình trọng trách bảo vệ
Đức Tin cho những thành viên non trẻ của mình trước những trận cuồng phong duy
vật, vô thần, vô cảm, vô nhân đạo, vô lương tâm, vô luân lý.
Một người bạn tôi, đã
từng là Đại Chủng Sinh Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt, từng Giáo Lý Viên dự tòng và
hôn nhân nhiều năm liền tại Giáo Xứ của mình, hôm nay, thầy lại đành bó tay,
đành cắn răng chờ xem người con rể tương lai vốn con nhà Cộng Sản kia định liệu
thế nào cho số phận con gái mình khi đã trót "ăn cơm trước kẻng": có
thể là nó chịu theo Đạo để cưới vợ, cũng có thể là nó bảo Đạo ai nấy giữ, rồi
cũng có thể là nó xúi dại con gái mình phá cái thai ấy đi. Thật là đau khổ! Thế
rồi, đúng là nhà ông sui của thầy đã ép thằng nhỏ phải bắt con gái thầy phá
thai. Hai vợ chồng thầy đau khổ lắm. Đêm đêm bên ngọn đèn dầu thầm thĩ kêu van
xin Chúa sáng soi cho con gái mình biết đường mà tuân giữ lề luật của Chúa.
Tôi vẫn nghĩ là sự chọn
lựa để bảo vệ Đức Tin, để trung thành với lề luật Chúa, để tuân hành thánh ý
Chúa cũng làm cho người yêu mến Chúa đến phải đổ mồ hôi máu như Chúa vậy.
Một cha giải tội cho một
hối nhân thường xuyên, lần nào xưng tội cũng bấy nhiêu tội tày trời ấy, có khi
còn nặng nề hơn. Cha vừa nghe tội vừa khẩn khoản tha thiết kêu xin lòng thương
xót Chúa đến độ vã cả mồ hôi, lạnh ớn người ngay trong Tòa Giải Tội.
Những người đau đầu
nhất, đang đổ mồ hôi máu nhất hiện nay có phải là những Giám Mục, Linh Mục,
những chủ chiên đang "lựa chiều bẻ lái" cho con chiên của mình một
cách ứng xử Công Giáo nhất trước tình trạng thế quyền quá lộng quyền đối với Sự
Sống con người hiện nay. Nếu con người thời bây giờ biết rằng: vài chục năm
trước đã có chủ trương phá thai cách toàn diện, cấp quốc gia như thế, thì hẳn
đã không thể còn có chính họ hiện diện trên đời ngày hôm nay để chủ trương phá
thai nữa. Là những người bảo vệ Đức Tin Công Giáo, làm chứng cho Chân Lý của
Thiên Chúa, nối tiếp công cuộc Sáng Tạo và Cứu Rỗi của Thiên Chúa, không đổ mồ
hôi máu được sao?
Cũng vậy, chúng ta không
thấy cảnh Chúa Giêsu bị bắt bớ, không tham dự phiên tòa xét xử Chúa Giêsu,
không thấy những vết bầm tím trên thân mình Chúa Giêsu khi bị quân dữ đánh đòn,
không thấy Chúa Giêsu vác thập giá, ngã lên ngã xuống trên đường lên đồi cao
chịu chết, hoặc nếu có thấy, thì thiết tưởng, cũng chỉ là thấy qua những bản vẽ
do các họa sĩ.
Thế nhưng chúng ta có
thể thấy được tận mắt các tín hữu của Chúa đang bị bắt bớ giam cầm tra tấn khắp
nơi nơi đấy chứ? Nhất là, trong thời đại truyền thông nầy, thì tin tức về những
chuyện bắt oan các tín hữu, bỏ tù gian, ném đá giấu tay, hay mượn tay người gây
thương tích cho các Linh Mục trên đường Mục Vụ đều có thể truyền đi nhanh như
chớp, làm sao mà lấy "thúng úp voi được"? Ấy vậy, những chuyện
"quả tang", "công khai" tra tấn những người theo Chúa Kitô
trong Giáo Hội Chúa Kitô đang diễn ra hàng ngày khắp nơi và cả trên đất nước
chúng ta, mà chúng ta nói rằng chúng ta không tham dự được với Thập Giá Chúa
Kitô sao?
Tại nơi chúng ta đang
sống, Chúa Giêsu vẫn đang bị bán đứng với giá 30 đồng bạc, có khi ít hơn chỉ
vài đồng, hoặc chỉ cần là sự đổi chác một chỗ ngồi, chỗ đứng cho vinh thân phì
gia. Chúa Giêsu vẫn đang chịu bao lời phỉ báng, bôi nhọ, hạ nhục. Chúa Giêsu
vẫn đang bị bắt bớ giam cầm, đánh đập tra tấn, đổ máu và cả mất mạng nữa. Vâng
cuộc Thương Khó Chúa Giêsu đang hiển hiện nơi các tín hữu Chúa.
Như vậy, tín hữu Công
Giáo Việt Nam vào cuộc Thương Khó với Chúa Giêsu không chỉ là những giờ ngắm
rằng, ngắm đứng, ngắm quì sốt sắng đến rơi lệ, không chỉ là những vành khăn
tang trắng xóa quấn trên đầu suốt Tuần Thánh, không chỉ là những cử hành Phụng
Vụ long trọng trong Thánh Đường, không chỉ là những việc chay tịnh sám hối chỉ
với Chúa, mà thiết tưởng còn phải cụ thể hơn là: khẩn cấp nhận ra và tham dự
vào nỗi lo, niềm đau của các chủ chiên, của các tín hữu khắp nơi trên đất nước.
Là con cái trong nhà,
xin dâng những hy sinh và vác đỡ Thánh Giá cho cha mẹ mình trong việc lo cái
ăn, cái mặc, cái học và nhất là trong việc bảo vệ đời sống Đức Tin trước những
nguy cơ. Là con chiên trong một đoàn chiên Giáo Hội, xin dâng những hy sinh và
vác đỡ Thánh Giá cho những Chủ Chiên, những tín hữu đang gặp bức bách, giam
cầm, tra tấn. Là tín hữu Công Giáo trong xã hội, xin dâng những hy sinh và chia
sẻ niềm đau thương của mọi người, niềm đau do gian ác, bất công, đàn áp, niềm
đau của bệnh hoạn tật nguyền, niềm đau của những mảnh đời nghiệt ngã không ai
giống ai...
Đang viết bài này, tôi
nhận được cú điện thoại của chị H, có người chồng 15 năm bại liệt, mọi sinh
hoạt tại chỗ, con trai lớn cột sống dính khớp 9 năm nay cũng nằm luôn một chỗ
cho chị H. lo lắng, con trai thứ có vợ tận Cà Mau, con gái út vừa đi học đi làm
ở Sàigòn, nhà mái tôn rách nát. Mùa mưa tới rồi, chẳng biết tính sao? Tôi có
thể trả lời rằng trong cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu đâu thấy có cảnh bại liệt
hay dính khớp cột sống để từ chối một cảm thông được không?
Tôi bỗng nghe tiếng lòng
nhắc bảo: xin đừng vừa sốt sắng tham dự Phụng Vụ cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu
lại vừa dửng dưng vô tâm trước cảnh thương khó của biết bao người.
Lạy Chúa, Thánh Phanxicô
đã thưa: "Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người".
Xin cho chúng con cũng nhận ra Chúa Giêsu đang đau buồn, thương tích, bị nhục
mạ, bắt bớ, giam cầm, đánh đập nơi những anh chị em chúng con, và cho chúng con
nhiệt tình vác đỡ Thánh Giá của anh em, như vác đỡ Thánh Giá Chúa Giêsu vậy.
Amen.
10. Thập giá, tình yêu cứu độ
(Suy niệm của Lm. Giuse
Nguyễn Văn Nam)
Phụng vụ Chúa nhật Lễ Lá
hôm nay được mở đầu với bầu khí hân hoan phấn khởi qua nghi thức rước lá nhằm
tưởng nhớ lại việc Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem. Đám đông dân chúng
tung hô Chúa Giêsu "Hosana, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến".
Nhưng liền sau đó, phụng vụ Lời Chúa lại trình bày cho chúng ta con đường thập
giá và cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua bài thương khó. Giáo hội muốn làm nổi bật
Mầu nhiệm Thập giá trong suốt Tuần thánh để người Kitô hữu xác tín: Thập giá,
tình yêu cứu độ. Thập giá, con đường vinh quang phục sinh.
Sau đây, chúng ta chiêm
ngắm cuộc tử nạn của Chúa Giêsu qua Tin mừng thánh Marcô vào dịp lễ Vượt Qua
năm 30; lễ vượt qua cuối cùng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Hôm đó, người ta
đổ về Giêrusalem để mừng lễ, nhiều người ngoại quốc cũng đến để chung vui với
người Do Thái vào dịp đại lễ này. Họ chứng kiến một vị ngôn sứ là Chúa Giêsu bị
kết án tử hình đóng đinh thập giá. Người ta tố cáo Ngài với hai tội danh là
phạm thượng "tự xưng mình là Thiên Chúa" và tội phản động chống lại
hoàng đế Rôma "Người này nói dân nổi loạn". Nhưng trước mắt toàn dân,
quan án Philatô xét xử và xác nhận: Ông Giêsu không có tội, ta truyền đánh đòn
và tha ông.
Các thượng tế, luật sĩ,
biệt phái nhất định giết Đức Giêsu. Họ sách động dân chúng lên án Chúa Giêsu
"đóng đinh nó vào thập giá". Sau cùng Philatô đã viết bản án
"đóng đinh ông Giêsu" và tha cho tên trộm cướp giết người là Baraba.
Để cứu độ nhân loại, Đức
Giêsu đã chấp nhận án tử hình thập giá, chấp nhận chết để cứu sống nhân loại
tội lỗi. Con đường Đức Giêsu đã đi là con đường thập giá, con đường tử nạn để
cứu nhân loại khỏi tội và đưa con người vào cõi sống muôn đời như lời thánh
Phêrô đã nói: "Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà
đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời
công chính" (1Pr 2, 24). Vì thế Giáo hội đã hướng nhìn thập giá với niềm
tin:
"Ôi Thập giá, phước
lành thế giới,
Nguồn cậy trông cứu rỗi
tràn lan"
(Thánh thi kinh trưa Thứ
sáu tuần thánh)
Thập giá là đỉnh cao của
con đường yêu thương mà Thiên Chúa đã dành cho nhân loại được thể hiện qua cái
chết của Đức Giêsu Kitô: "Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu
dám chết cho người mình thương. Đức Giêsu đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng
ta còn là tội nhân, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta" (Rm
5, 8).
Chúa Giêsu chết trên
thập giá: một cái chết yêu thương, tự nguyện, tha thứ để con người được cứu
sống: "Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng lầm không biết". Chỉ khi
Chúa chết mới giải quyết được mọi vấn đề liên quan tới sự kiện Đức Giêsu Kitô
"Ngài là ai"? Người Do Thái thời Chúa Giêsu không thể chấp nhận Ngài
là Đấng Messia, bởi người ta chỉ trông chờ một Đấng Messia có tính cách chính
trị để giải phóng dân Do Thái khỏi đế quốc Rôma. Họ không thể hiểu được
"Đấng Cứu Thế phải chết thay cho muôn người", "Đấng Messia cứu
độ". Qua cái chết của Chúa Giêsu, chúng ta tìm được lời giải đáp về căn
tính của Đức Giêsu.
Chính khi Đức Giêsu tắt
thở trên thập giá, là lúc Chúa Giêsu trở nên Đấng cứu độ duy nhất của nhân loại
như lời Ngài đã nói trước: "Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt
đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi". Chính lúc Chúa chết là lúc Chúa
Giêsu toàn thắng ma quỷ, tội lỗi và sự chết, vì Ngài đã chu toàn sứ mạng cứu độ
của Thiên Chúa Cha. Chính giờ phút Chúa chết là lúc Chúa được Thiên Chúa Cha
tôn vinh.
Chứng kiến Chúa chết
trên thập giá, viên sĩ quan Rôma đâm cạnh sườn Chúa đã phải thốt lên với niềm
tin vào Đức Giêsu: "Ông này quả thật là con Thiên Chúa". Người trộm
bên hữu cùng chịu đóng đinh đã tuyên xưng đức tin vào Chúa Giêsu: "Ông
Giêsu ơi! Khi Ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi... Tôi bảo thật anh, hôm
nay, anh sẽ được ở với Tôi trên thiên đàng" (Lc 23, 42-43).
Dưới chân thập giá nhiều
người đã đấm ngực và tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu "Ông này quả thật
là Con Thiên Chúa".
Cái chết đầy yêu thương
và tha thứ của Chúa Giêsu đã tìm ra lời giải đáp cho câu hỏi: Đức Giêsu là ai?
Đức Giêsu là Đấng cứu độ nhân loại và là Thiên Chúa thật.
Bước vào Tuần thánh là
bước vào cuộc khổ nạn của Đức Kitô và cũng là hành trình tiếp cận tình yêu
thương vô bờ bến của Thiên Chúa.
Bước vào Tuần thánh là
đi vào cuộc hành trình tiến lên đỉnh cao phục sinh với Đức Giêsu. Nhưng sẽ
chẳng có Đức Giêsu phục sinh nếu không có Đức Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết.
Sẽ chẳng có chiến thắng vinh quang, nếu không có chiến đấu gian nan và đau khổ
tột cùng trên thập giá. Thật đúng như tục ngữ Hoa Kỳ: "Không có thập giá,
không có triều thiên, không có đau khổ, không có thắng lợi. (No cross, no
crown, no pain, no gain).
Đón nhận khổ giá với sức
mạnh của tình yêu là đồng hành với Đức Kitô trên con đường cứu thoát chính mình
và tha nhân. Như thế, thập giá, tình yêu cứu độ; Thập giá, con đường vinh quang
phục sinh.
11. Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Chủ đề: Chúa Giêsu,
Người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, chịu chết vì sự sống trần gian.
Chết vì người khác là
một nghĩa cử anh hùng, cao quý luôn được người đời tán dương và ca ngợi.
Cha Maximilian Kolbe,
Linh mục dòng Thánh Phanxicô khó khăn, được cả thế giới biết đến vì một nghĩa
cử anh hùng. Bị bắt giam trong nhà tù Auschewitz. Tại đây người ta áp dụng một
đạo luật hết sức tàn nhẫn và bất công: nếu một người trốn trại thì người khác
phải chết thay. Mục đích là để các tù nhân tự coi nhau. Năm đó, một tù nhân
trốn trại, tất cả được gọi xếp hàng chờ tên cai ngục chỉ gọi tên. Gọi tên ai
thì người đó phải chết. Một tù nhân được gọi tên mình, anh khóc lóc kêu gào vì
còn cha mẹ già, vợ và bốn con. Đột nhiên một tù nhân bước ra khỏi hàng đến
trước mặt tên quản trại: "Tôi muốn chết thay cho người này". Hắn hết
sức kinh ngạc trước hành động anh hùng của người tù. Hắn gằn giọng: "Mày
là ai?" "Là linh mục công giáo". "Không cần biết danh tính
địa vị, ngu thì chết, vào hàng". Thế là mười người được dẫn đi, bị bỏ đói
cho đến chết. Cha Maximilian Kolbe là một trong số họ.
Ngày 10 tháng 10 năm
1982, Cha được Đức Giáo Hoàng J-P. II tôn phong lên hàng các thánh tử đạo. Một
người đã chết vì sự sống của anh chị em mình. Cha thật là hình ảnh của Đức
Kitô, Mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đoàn chiên: "Ta đến
để cho chiên được sống và được sống dồi dào" (Jn 10, 10).
Câu chuyện cha
Maximilian Kolbe mở lối cho chúng ta vào phụng vụ Lời Chúa hôm nay: Chúa Giêsu,
Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa, chịu nạn, chịu chết vì sự sống trần gian.
Bài đọc I, trích sách
Ngôn sứ Isaia, phác họa chân dung Người Tôi Tớ Chúa:
• Là Người được Chúa
huấn luyện để phục vụ lợi ích cộng đoàn, nhất là những người bé nhỏ, nghèo hèn,
bất hạnh: Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng
lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Chúa huấn luyện để ngài luôn sống trong tỉnh
thức, luôn sẵn sàng tìm kiếm và đáp trả thánh ý Chúa.
• Là Người ngoan ngoãn
dễ dạy, khiêm tốn, hiền lành như con chiên bị dẫn đi làm thịt, không mở miệng
than van, hiền lành nhẫn nại dạy đường lối Chúa cho kẻ bất lương với châm ngôn:
cây lau bị dập, Người không bẻ gãy, tim đèn còn khói, Người không dập tắt.
• Là Người can đảm cứ
đường lối Chúa mà đi, nghĩa là cương quyết sống trong và bảo vệ chân lý, chứ
không phải là hạng người cuồng tín và liều lĩnh.
Người Tôi Tớ mẫu mực này
chỉ có thể đậu lại nơi Chúa Giêsu, nơi Ngài hội tụ đến mức hoàn hảo các nhân
đức mà Ngôn sứ Isaia diễn tả.
Marcô, trong bài Tin
Mừng, ghi lại bản án tuyên đọc trên Chúa Giêsu. Chủ đích của ngài, không nhằm
kê khai những tội trạng người ta vu khống và gán cho Chúa, nhưng đề cập đến
những ân huệ dẫy tràn trên chúng ta trong cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa:
Ân huệ lớn lao nhất là
bí tích Thánh Thể. Trong khi cử hành lễ Vượt Qua theo truyền thống Do Thái,
Chúa Giêsu muốn sống lại biến cố được giải thoát khỏi kiếp nô lệ Ai-Cập, đồng
thời Ngài muốn thực hiện cho dân mới một lễ Vượt Qua mới mà chiên vượt qua là
chính bản thân Ngài được hiến tế vì chúng ta. Này là Mình Ta, này là Máu Ta,
máu giao ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được ơn tha
tội, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta. Ân huệ ấy được thực hiện trong thời
gian cho đến tận thế, vì lẽ, mỗi khi bí tích Thánh Thể được cử hành là mỗi lần
ơn cứu độ chúng ta được thực hiện.
Hồng ân sự sống được ban
tặng trong sự chết của Đức Giêsu, Người Tôi Tớ Thiên Chúa. Trên thập giá, Chúa
Giêsu đã thực hiện kế hoạch của Chúa Cha: "Nơi cạnh sườn của Đấng bị đâm
thâu qua, máu và nước chảy ra, từ đó phát sinh các bí tích của Hội Thánh, để
lôi kéo mọi người đến cùng trái tim rộng mở của Đấng Cứu Thế, thì muôn đời hân
hoan kín múc tận nguồn ơn cứu độ" (kinh tiền tụng lễ Thánh Tâm).
Người kitô hữu không coi
thập giá là phương tiện hành hình tội nhân, mà coi như dấu chỉ của sự bình an,
của tình yêu, ơn tha thứ và sự sống: "Phần tôi, khi nào được giương cao
lên khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi" (Ga 12, 32). Do vậy, trong
ngày thứ sáu tuần thánh, chúng ta tôn vinh thập giá của Đấng chịu đóng đinh:
"Vinh dự của chúng ta là thập giá Đức Kitô, nơi Người ơn cứu độ ta, sức
sống của ta và sự phục sinh của ta" (phụng vụ thứ sáu tuần thánh).
Đức Giêsu vì yêu thương
đã tự hiến, tự hủy mình ra không vì chúng ta và vì sự sống trần gian. Thánh
Phaolô, trong bài đọc II, nhìn thấy thập giá trong biến cố Ngôi Lời nhập thể:
"Đức Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải dành cho
được ngang hàng với Thiên Chúa ...". Trong sự tự hủy "trở nên
người", Ngài đã kéo chúng ta lên địa vị làm con Thiên Chúa.
Bạn thân mến,
Phụng vụ Lời Chúa hôm
nay nhắc nhở chúng ta điều này: Thiên Chúa rất mực yêu thương, rất khôn ngoan
lo liệu hết mọi phương thế để chúng ta được ơn cứu độ và được sống. Chúng ta có
thâm tín rằng: Chúa yêu tôi và Ngài đã chết vì tôi không? Đây là câu trả lời hệ
trọng, vì nó kéo theo cả cuộc đời vào trong tâm tình cảm mến tri ân Đấng đã yêu
thương và chết vì chúng ta là kẻ có tội. Khi anh em còn là tội nhân thì theo kỳ
hẹn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta là những kẻ có tội.
Để cảm tạ và đáp đền
lòng Chúa yêu thương, mỗi người chúng ta cần có lòng sám hối, ăn năn và nhất là
sinh hoa quả xứng với lòng sám hối. Một đời sống phù hợp với Tin Mừng: công
bằng, chính trực, bác ái, yêu thương, nhất là xây dựng tình hiệp thông từ trong
gia đình tới cộng xã hội nơi chung ta cùng chung sống.
Một khi đã được mặc lấy
Chúa Giêsu, anh em đừng theo lối sống xưa kia, con người cũ đã ra hư hốt buông
theo những đam mê lầm lạc. Nếu cuộc đời chúng ta sống tâm tư của Chúa, chắc
chắn sẽ có con người mới, gia đình mới, xã hội mới và một thế giới mới.
Xin Chúa thương chúc
lành cho chúng ta trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá hôm nay. Amen.
12. Ông này là ai vậy?
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Từ trước tới nay, chưa
một lần nào Đức Giêsu tìm cho mình chút vinh quang trần thế. Còn bây giờ, khi
cái chết đã gần kề, Ngài chấp nhận sự tán tụng của đám đông, và chính Ngài cũng
muốn ngồi trên lưng một con lừa để khiêm tốn tiến vào thành thánh.
Nhiều người trải áo hay
chặt cành cây rải trên lối đi. Tiếng hò reo vang dậy. Người
ta tung hô Ngài là Đấng Mêsia, là Con vua Đavít.
Quả thật Ngài là Vua Mêsia, nhưng rồi đây người ta sẽ biết cách làm vua của
Ngài: qua đau khổ và cái chết ô nhục trên thập giá.
Lễ Lá là một lễ vui, nhưng lại đượm buồn. Ta được nghe bài thương khó trong
thánh lễ.
Tuần thánh đã bắt đầu. Đức Giêsu bước vào những ngày cuối đời.
Rước lá đi theo Ngài trong vài giờ là điều dễ. Theo Ngài giữa lúc Ngài được
tung hô, chẳng khó gì.
Nhưng tiếp tục theo Ngài và ở lại khi Ngài bị mọi người bỏ rơi, điều đó khó
hơn nhiều.
Chúng ta thường cảm thấy mệt khi nghe đọc bài Thương Khó.
Nếu chúng ta dành thì giờ để suy niệm về cuộc khổ nạn, ta sẽ thấy lời nói
và thái độ của Đức Giêsu có sức nâng đỡ và biến đổi ta, giúp ta đón nhận mọi
gai góc của cuộc sống.
Cần cảm nghiệm những đau noun trên thân xác Chúa, nhưng đừng quên những nỗi
đau sâu kín của trái tim Ngài, và nhất là đừng quên nhận ra một Tình Yêu, Tình
Yêu vô cùng lớn đối với Cha và nhân loại. Chỉ Tình Yêu mới làm cho khổ đau sinh
trái.
Con Thiên Chúa không xa lạ với khổ đau của phận người. Ngài biết thế nào là
bị vu khống, bất công, phản bội, thế nào là bị nhục nhã, sợ hãi, cô đơn và giết
chết.
Ngài không phân tích mầu nhiệm đau khổ, nhưng Ngài đón lấy đau khổ với rất
nhiều tình yêu, và lập tức nó có ý nghĩa.
Bạn có thể thấy mình giống Giuđa, Phêrô hay Philatô.
Chẳng ai vô tội trước cái chết của Con Thiên Chúa.
Hãy đi với Đức Giêsu qua từng chặng đường, từ Vườn Dầu đến tận Núi Sọ.
Đừng theo Chúa như một người lạ quay video cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài
chịu là vì bạn và cho bạn.
Sau khi đã thấm nhuần cuộc Khổ Nạn, bạn sẽ thấy mình yêu thánh giá của Chúa
hơn, mến thánh giá của mình hơn, và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy đọc chương 26 và 27 của Tin Mừng thánh Matthêu. Điều gì đánh động
bạn hơn cả khi nhìn ngắm Đức Giêsu?
Theo ý bạn, Đức Giêsu có thể tránh né cái chết được không? Tại sao Ngài tự
nguyện đón nhận cái chết thập giá?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất
của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn
ngoan hơn con, Chúa ngàn lần quảng đại hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính
con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính
toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối
của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho con tim con rướm máu, con
cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
13. Xin đừng theo ý con (Mc 11, 1-10).
Suy Niệm
Chúa Nhật Lễ Lá là một
lễ vui, nhưng cũng là ngày tưởng niệm cuộc khổ nạn của Chúa. Chúng ta chứng
kiến hai đám rước trái ngược nhau.
Trong ngày Lễ Lá, Đức
Giêsu được đón rước vào thành, giữa tiếng hò reo vang dậy. Ngài như vị Vua
Mêsia lẫm liệt trên lưng lừa, đi trên con đường của những nhành cây xanh mới
chặt.
Sau đó ít ngày là đám
rước lên núi Sọ. Không có tiếng tung hô, chỉ có lời kết án. Không có những
nhành cây, chỉ có cây thập giá.
Ngày xưa, có ai tham dự
cả hai đám rước đó không?
Chúng ta thường mệt mỏi
khi nghe bài Thương Khó, và thấy mình dửng dưng, xa lạ, bàng quan. Thật ra nỗi
khổ đau và cái chết của Chúa là vì tôi, vì yêu mến tôi (x. Gl 2,20).
Cần nghe đọc bài Thương
Khó một cách chậm rãi, và bước theo Chúa qua từng chặng đường. Hãy ở lại với
Chúa trong lúc khó khăn này. Cần cảm nghiệm được nỗi cô đơn của Chúa.
Ba môn đệ thân tín đã bỏ
rơi Ngài. Họ ngủ say để mặc Ngài một mình khắc khoải. Giuđa chỉ điểm bắt Ngài
bằng một nụ hôn. Các môn đệ sợ hãi bỏ Ngài mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề
quen biết Ngài.
Đức Giêsu cô đơn trước
đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua
Baraba là tên phiến loạn. Không rõ đám đông Ngài đã nuôi ăn, nay ở đâu?
Đức Giêsu đã đi đến tột
cùng của nỗi cô đơn khi Ngài cảm thấy chính Cha cũng vắng bóng: Lạy Thiên Chúa
tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?
Cần cảm nghiệm nỗi đau
trên thân xác Chúa.
Khuôn mặt ngời sáng của
Con Thiên Chúa làm người nay bị khạc nhổ, bị tát, bị đánh túi bụi. Đôi mắt với
cái nhìn bao dung ấy nay bị bịt lại để làm một trò chơi trẻ con. Tấm thân đã
gánh lấy nỗi đau của bao người giờ đây được phơi ra cho những trận roi cầy nát.
Đôi bàn tay đã chữa bệnh và chúc lành, nay co quắp và bầm tím vì những mũi
đinh. Đôi bàn chân từng rong ruổi khắp nẻo đường truyền giáo, nay không đủ sức
nâng cả thân mình đang trĩu nặng.
Cần cảm nghiệm nỗi ô
nhục của Chúa.
Danh dự và phẩm giá vẫn
là điều đáng trọng. Đức Giêsu bị bắt làm hề, đóng vai Vua dân Do Thái, được mặc
cẩm bào, được đội triều thiên, được cầm vương trượng. Có vị vua nào được bái
lạy như vị vua này không? Đức Giêsu bị lột áo trước khi bị đóng đinh. Con Thiên
Chúa đỏ mặt trước cái nhìn của thế giới!
Cuộc thương khó của Chúa
vẫn kéo dài đến tận thế.
Thập giá của Chúa, của
tôi, của anh em tôi, là một.
Chúa mời tôi vác thập
giá của mình theo Chúa hàng ngày, và giúp tha nhân vác thập giá của họ.
Ước gì thế giới có thật
nhiều Simon Kyrênê.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Giêsu khổ đau như
bao người trên mặt đất: bị xét xử bất công, bị áp bức và hãm hại. Hôm nay, bạn
có thấy những người đang vác thập giá với Chúa trên khắp thế giới không? Họ là
ai?
Bạn có nhận ra thập giá
của một người trong gia đình, trong nhóm, trong môi trường sống của bạn không?
Bạn đã làm gì để giúp họ trong mùa Chay này?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Vì Chúa đã bẻ tấm bánh
trao cho chúng con, xin cho những người nghèo khổ được no đủ.
Vì Chúa đã xao xuyến
trong Vườn Dầu, xin cho các bạn trẻ đủ sức đối diện với những khó khăn gay gắt
của cuộc sống.
Vì Chúa bị kết án bất
công, xin cho chúng con can đảm bênh vực sự thật.
Vì Chúa bị làm nhục và
nhạo báng, xin cho phụ nữ và trẻ em được tôn trọng.
Vì Chúa chịu vác thập
giá nặng nề, xin cho những người bệnh tật được đỡ nâng.
Vì Chúa bị lột áo và
đóng đinh, xin cho sự hiền hoà thắng được bạo lực.
Vì Chúa dang tay chết
trên thập giá, xin cho đất nối lại với trời, con người nối lại mối dây liên đới
với nhau.
Vì Chúa đã phục sinh
trong niềm vui oà vỡ, xin cho chúng con biết đón lấy đời thường với tâm hồn
thanh thản bình an. Amen.
14. Cuộc khải hoàn của Người Tôi Trung
(Suy niệm của Đức ông
James M. Reinert – Đan Quang Tâm dịch)
"Chúc tụng Đấng ngự
đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đa-vít, tổ
phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!"
Cũng như Thánh Mátthêu
và Thánh Luca, Thánh Máccô sử dụng lời ngôn sứ của Dacaria mô tả việc Đức Giêsu
vào Giêrusalem. Điều lý thú về lời ngôn sứ này là sự tương phản: "Nào
thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng
reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực,
Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo
mẹ" (9,9).
Ta có thể hỏi liệu có
thể nào vừa khải hoàn và chiến thắng mà đồng thời vừa khiêm tốn. Bằng cách chọn
đi vào Giêrusalem theo phương cách Người đã làm, Đức Giêsu cho người ta thấy
Người thực sự thuộc loại vua nào. Người khải hoàn nhưng không đắc thắng. Người
đã giảng dạy như một mục tử, chứ không phải như một vị tướng quân. Những ai
nghe Người nói hoặc chứng kiến phép lạ Người làm thì bây giờ được gọi để làm
chứng về các kinh nghiệm của họ. Họ làm chứng bằng cách tuyên xưng Đức Giêsu là
"Con của Đavít", ca tụng Thiên Chúa Cha đã gửi đến đấng cứu thế mà
người ta mong đợi từ lâu.
Theo Thánh Máccô, Đức
Giêsu chắc chắn biết ý nghĩa của điều Người chuẩn bị làm. Người sai các môn đệ
đi tìm con lừa con, giải thích một cách chi tiết điều sẽ xảy ra. Khi ta đồng
hành với Đức Giêsu và các Tông đồ trong mấy ngày sắp tới, ta sẽ thấy một số
hình ảnh sẽ nhắc nhở ta về sự kiện Đức Giêsu, Con Đavít, đã đến cứu chúng ta và
giải thoát chúng ta.
Điều lý thú cần ghi nhận
là, theo các Phúc âm Nhất lãm, câu truyện thương khó không trực tiếp theo sau
việc đi vào thành Giêrusalem. Trong Phúc âm Máccô có hai chương tách việc vào
thành với trình thuật Bữa Tiệc Ly.
Chương khải hoàn vào
Giêrusalem dịu giọng một chút và lại tập trung vào Sách Ngôn sứ Isaia. Ta nghe
về "Người Tôi Trung của Chúa" – lời tiên tri thứ hai trong ba lời
tiên tri của Isaia nói về Đấng Mêsia. Trong những đoạn này, ta đi đến chỗ nhận
biết bản chất đích thực của Đấng Mêsia – Người xuất hiện không phải như một vị
vua vinh quang mà như người tôi tớ khiêm tốn.
Trong Thư gửi Tín hữu
Philípphê, Thánh Phaolô kiện toàn sự nhận biết đó. Trong "bài thánh ca
Philípphê", ông bảo ta rằng Đức Giêsu này thực sự là ai và Người đã làm gì
cho ta: "...Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu
chết, chết trên cây thập tự!" Tất cả điều này cho ta thấy rằng đây là một
phần trong kế hoạch của Thiên Chúa. Những lời hứa trong Cựu Ước được thành sự
và chúng ta trở thành các nhân chứng. Với tư cách là người làm chứng, ta được
kêu gọi hãy đáp ứng lại.
"Nơi Người, luôn
luôn có thể nhận ra dấu chỉ sống của tình yêu khôn lường và siêu việt đó của
Thiên-Chúa-ở-với-chúng-ta, Đấng mang lấy những thương tích tật bệnh của dân
mình, đồng hành với họ, cứu thoát họ và hợp nhất họ nên một. Trong Người và nhờ
Người, có thể tái khám phá cuộc sống trong xã hội, dù cuộc sống còn đầy mâu
thuẫn đối kháng và nhập nhằng tranh tối trang sánh, như một nơi chan chứa sự
sống và hy vọng: đó là dấu hiệu của ân sủng không ngừng được đề nghị ban tặng
cho mọi người, và đó cũng là lời mời gọi hãy vươn đến những hình thức chia sẻ
ngày càng cao hơn và tích cực hơn.
Đức Giêsu Nadarét đã làm
cho mối dây liên kết giữa liên đới vào bác ái sáng chói trước mặt mọi người,
chiếu sáng toàn bộ ý nghĩa của mối dây liên kết này: "Dưới ánh sáng đức
tin, liên đới tìm cách vượt qua chính nó, mang lấy các chiều kích Kitô giáo cụ
thể là trao ban một cách hoàn toàn vô điều kiện, tha thứ và hoà giải. Lúc ấy,
người gần bên chúng ta không những chỉ là một con người có những quyền lợi và
về cơ bản, bình đẳng với hết mọi người, mà còn là hình ảnh sống động của Thiên
Chúa Cha, đã được máu Đức Giêsu Kitô cứu chuộc và được đặt dưới tác động trường
kỳ của Thánh Thần. Thế nên, phải yêu thương tha nhân, cho dù đó là kẻ thù, bằng
cùng một tình yêu mà Thiên Chúa yêu thương họ; và chính vì ích lợi của người ấy
mà ta hãy sẵn sàng hy sinh, thậm chí hy sinh đến mức cuối cùng: hy sinh tính
mạng vì anh em (x. 1 Ga 3,16)" (Sách Tóm lược HTXHGH, 196).
Khi nghe trình thuật
Thương Khó theo Thánh Mátthêu, bắt đầu với việc thoả thuận phản bội Đức Giêsu
và chấm dứt với việc Philatô lệnh cho chính quyền canh gác ngôi mộ, ta nhìn các
lời tiên tri trong Cựu Ước dưới một ánh sáng mới. Ta cũng thấy diễn tiến của
các biến cố xoay quanh cuộc thương khó, bắt đầu với trình thuật Bữa Tiệc Ly và
việc thiết lập Bí tích Thánh Thể theo đúng sứ mạng mục vụ của Đức Giêsu. Người
đã đến với chúng ta và đã đề nghị tặng ban một món quà vĩ đại. Nếu ta chấp nhận
món quà đó, ta được mời gọi đáp trả lại Người trong cuộc thương khó, cái chết
và sự phục sinh của Người.
15. Cô đơn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có bao giờ bạn cảm thấy
cô đơn khi lạc vào chốn đông người, nhưng lại xa lạ, tìm một người quen để chào
hỏi, để bắt tay cũng chẳng thấy. Lúc đó có lẽ chúng ta sẽ cảm thấy trống vắng
tận cõi lòng. Đây cũng là ca từ của bài hát "Khi người lớn cô đơn".
Lời hát được viết như sau:
Thành phố bé thế thôi
Mà tìm hoài chẳng được
Tìm hoài sao chẳng thấy
nhau giữa chốn đông người
Nỗi cô đơn càng dâng cao
khi mà giữa phố xá đông người mà chẳng có ai đó của riêng mình để yêu thương,
để chăm sóc, quan tâm . . .
Thành phố bé đến thế
thôi
Mà tìm hoài không thấy
Chút ấm áp, chút yêu
thương riêng mình.
Nỗi cô đơn thật quạnh
hiu khi mà ngồi bên ai đó nhưng cũng xa lạ, không tìm được sự thông cảm, sự
chia sẻ giữa tình người với nhau.
Rồi có những đêm mưa
Nằm nghe câu ca rất xưa
Từ radio phát lên, nghe
thật buồn (buồn lắm)
Người lớn cô đơn, tự mình
trong bao nghĩ suy
Ngồi bên ai sao thấy
riêng tôi quạnh hiu!!!
Người ta nói cô đơn là
cho đi mà không có người nhận, là muốn nhận mà chẳng có ai cho. Tựa như hai bờ
sông liền nhau mà vẫn cách biệt. Thấy nhau mà vẫn ngăn sông cách trở nên chẳng
qua lại được với nhau. Cô đơn bị ngăn cách không phải bởi không gian mà ngăn
cách của cõi lòng. Khi con tim xa nhau thì ngồi bên nhau vẫn như xa lạ.
Thế nên, càng gần nhau
mà vẫn cách biệt thì nỗi cô đơn càng cay nghiệt. Càng gần nhau mà không tìm
được sự cảm thông thì nỗi cô đơn càng cay đắng hơn. Có thể nói nỗi cô đơn khi
bị chính người mình yêu thờ ơ trước sự thống khổ của ta có khi còn đau đớn hơn
tù đầy, có khi u ám hơn sự chết, vì đây là nỗi cô đơn của dửng dưng, của sự bỏ
rơi nơi những người ta yêu.
Cô đơn có thể đưa tới sợ
hãi và tuyệt vọng. Kinh nghiệm đau thương này có thể xẩy ra cho con người trong
mọi thời đại, nhất là thế giới hôm nay, một thế giới văn minh có đầy đủ mọi
phương tiện để hưởng thụ, nhưng tình con người lại xa cách nhau. Họ ít quan tâm
đến nhau. Họ sợ liên đới với nhau. Họ chủ trương "Makeno" cho yên
thân. Con người của thời đại văn minh vẫn có thể chết cô đơn trên đống nhung
lụa của mình. Đây là lý do mà con số người tự tử ngày một tăng, tỷ lệ nghịch
với sự phát triển của văn minh nhân loại. Nhân loại càng văn minh thì càng có
lắm kẻ cô đơn.
Chúa Giêsu cũng từng nếm
trải sự cô đơn giữa những người mình thương. Ngài ở cùng các môn đệ nhưng không
tìm được sự ủi an. Một mình vẫn cô đơn trong đêm tối đầy sao! Ngài đã từng ngao
ngán nói rằng: "Các con không thức với Ta một giờ sao!". Ngài cần các
môn đệ chia sẻ với Ngài trong đêm tối của sự dữ nhưng các ông vẫn tìm cho mình
một cõi đi về trong cơn say của ngủ mê. Nỗi cô đơn ấy đã dâng cao trong nhiều
giờ phút cuối đời Ngài khi bị treo lơ lửng giữa trời và đất, làm trò cười cho
những người xung quanh. Ngài lại còn cảm thấy như bị chính Chúa Cha bỏ rơi.
Ngài đã đi đến tận cùng sự cô đơn của con người.
Nhưng chính trong nỗi cô
đơn cùng cực ấy mà Ngài đã mạc khải cho chúng ta thấy một lối thoát giữa cô đơn
là sự tín thác vào Thiên Chúa. Ngài đã hoàn toàn phó thác nơi Cha: "Lạy
Cha, con xin phó thác nơi Cha". Chính niềm tín thác ấy đã giúp Ngài vượt
qua được nỗi cô đơn để bình thản đón nhận cái chết cô đơn.
Cuộc đời thật hạnh phúc
biết bao nếu cuộc sống mang đến cho ta những người bạn. Những người bạn để có
thể đi bên ta trong những khó khăn, cầm tay ta trong những lúc thất bại, và có
lẽ cuộc đời sẽ không cô đơn khi mà cuộc sống thật bận rộn nhưng vẫn có người
dành cho ta 3 giây chỉ để nói "xin chào" thật thân thương, hay chỉ
gửi một tin nhắn 3 chữ "chúc bình an" là đủ ấm lòng những con tim
đang lạnh giá!
Nhưng nếu cuộc đời có
những lúc cô đơn thì đừng bao giờ tuyệt vọng. Hãy theo gương Chúa Giêsu để tín
thác mọi sự cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta ngay cả
khi người mẹ có bỏ con thì Chúa vẫn ở bên ta. Ngài có đủ quyền năng để có thể
rút ra điều tốt từ điều xấu. Thiên Chúa chính là thành lũy vững chắc nhất cho
cuộc đời chúng ta.
Xin cho cuộc đời chúng
ta đừng bao giờ tuyệt vọng, nhưng luôn tin tưởng, phó thác cậy trông nơi Chúa
trong những gian nguy của cuộc đời. Amen.
16. Vâng phục ngay cả chấp nhận cái chết
(Suy niệm của Lm. Giuse
Phạm Thanh Liêm)
Biến cố chi phối toàn bộ
đời sống Kitô hữu, là biến cố Đức Giêsu chết và phục sinh. Qua biến cố này,
Kitô hữu nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, và Đức Giêsu trở thành gương
mẫu sống cho mọi Kitô hữu.
I. Người Tôi Tớ Đau Khổ
của Yavê
Bài ca thứ ba về người
tôi tớ Yavê trong sách tiên tri Isaya cho thấy hình ảnh người tôi tớ Yavê, luôn
lắng nghe và vâng phục Thiên Chúa; Ngài đã bị đánh, bị xỉ nhục; tuy nhiên,
người tôi tớ Yavê luôn tin tưởng và trông cậy Thiên Chúa. Hình ảnh người tôi tớ
Yavê được thấy nơi các tiên tri, chẳng hạn như tiên tri Yêrêmia, và hình ảnh
này được thấy thật rõ nét nơi Đức Giêsu.
Đức Giêsu không đi tìm
cái chết. Ngài không muốn chết, và Ngài sợ đau khổ như bất cứ ai khác:
"Ngài bắt đầu cảm thấy hãi hùng xao xuyến. Người nói với các tông đồ: tâm
hồn thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức" (Mc.14, 33-34).
Ngài cầu xin với Thiên Chúa Cha: "Áp-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin
cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm theo điều con muốn, mà làm theo điều
Cha muốn" (Mc.14, 36).
Đức Giêsu đã chia sẻ
thân phận con người cho đến cùng. Ngài chia sẻ sự sợ hãi, chia sẻ nỗi buồn, cả
nỗi buồn đến độ muốn chết được. Đức Giêsu sợ hãi cái chết, vì con người khi
đứng trước cái chết luôn run sợ. Đức Giêsu đã vượt thắng nhờ cầu nguyện và lòng
tin tưởng phó thác. Con người chỉ có thể an bình trước cái chết với một niềm tin
và phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa. Không phó thác cho Thiên Chúa, Đấng yêu
thương mình, con người không thể an bình đón nhận cái chết. Khi nói như vậy,
không có nghĩa những người không là Kitô hữu không thể có cái chết an bình,
trong trường hợp này, Thiên Chúa chính là Đấng Tuyệt Đối mà họ tin, hoặc ít là,
Đấng là chủ lương tâm họ.
II. Đức Giêsu vâng phục
cho đến chết
Đức Giêsu không chỉ là
người. Ngài là Thiên Chúa nhập thể. Khi Ngài còn đang sống, không ai dám tin và
nhờ đó mà biết thân phận của Ngài, tuy dù đã có những lần Ngài mặc khải:
"Ta và Cha Ta là một" (Ga.10, 30), "không ai biết Cha trừ Con và
những người Con muốn mặc khải cho" (Mt.11, 27), "ông này phạm thượng.
Ai có quyền tha tội ngoại trừ một Thiên Chúa" (Mc.2, 7), "trước khi
có Abraham, đã có Ta" (Ga.8, 58), "rồi các ông sẽ thấy Con Người ngự
bên hữu Đấng quyền năng và đến trên mây trời" (Mc.14, 62).
Không những không ai dám
tin, kể cả các tông đồ, vì làm sao các ngài có ý niệm "Thiên Chúa nhập
thể" hay "Thiên Chúa làm người." Tất cả những điều này hoàn toàn
xa lạ với con người. Chỉ sau khi Ngài phục sinh từ cõi chết, các tông đồ mới
dần dần hiểu trọn vẹn về Ngài: "Khi nào Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ dẫn các
con vào tất cả sự thật" (Ga.16, 13). Không có sự trợ giúp của Thiên Chúa,
con người không thể nhận biết về Ngài.
Đức Giêsu là người của
Thiên Chúa, là Đấng thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ Ngài và Cha là một
(Ga.10, 30). Ngài có quyền tha tội (Mc.2, 7), Ngài ngang hàng với Thiên Chúa
Cha (Mc.14, 62). Và sau đó tác giả tin mừng theo Yoan viết: "Từ nguyên
thủy đã có Lời, Lời vẫn ở nơi Thiên Chúa, và Lời là Thiên Chúa... Lời đã thành
xác phàm" (Ga.1, 1.14). Thánh Phaolô viết: "Đức Giêsu, tuy là thân
phận Thiên Chúa, nhưng không đòi cho được ngang bằng Thiên Chúa" (Pl.2,
6). Ngài thuộc về Thiên Chúa hoàn toàn đến độ nói Ngài là Thiên Chúa, nhưng
Ngài vẫn khác Cha. Ngài vẫn luôn quy hướng về Cha qua cầu nguyện (Mc.1, 35),
qua việc lấy Ý Thiên Chúa làm của ăn của uống cho Ngài (Ga.4, 34), đến độ Ngài
xịn cho Ý Cha được thể hiện nơi Ngài (Mc.14, 36; Mt.6, 9-10). Ngài vừa là Thiên
Chúa, vừa khác Thiên Chúa: Ngài là Lời Thiên Chúa, là Con Thiên Chúa, là Ngôi
Hai. Nói một cách nôm na, không thể tách Ngài khỏi Thiên Chúa. Ngài vừa khác
với Thiên Chúa, vừa là một với Thiên Chúa.
III. Vạn tuế Đức Vua,
Đấng nhân danh Chúa mà đến
Phụng vụ hôm nay cho
thấy Đức Giêsu vào thành Yêrusalem và được dân chúng long trọng đón rước như
một vị vua, vị vua được Thiên Chúa xếp đặt và sai gởi tới. Người ta trải áo lót
đường, chặt nhành cây trải lối để vị vua thiên sai đi qua. Dân chúng hôm nay
đón tiếp Ngài vì coi Ngài là Đấng Thiên Sai, nhưng chỉ mấy ngày sau những người
dân này đã xin Philatô đóng đinh Đức Giêsu, vì cho rằng Ngài lộng ngôn phạm
thượng: "dám cho mình là Con Thiên Chúa" (Ga.19,5), dám cho mình
ngang hàng với Thiên Chúa.
Người Do Thái không thể
hiểu tại sao một người lại có thể là Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa. Thế nên khi
phải xử tử Đức Giêsu, họ hoàn toàn ý thức và cho rằng họ làm đúng hoàn toàn:
"Máu hắn cứ đổ trên đầu chúng tôi và trên con cháu chúng tôi" (Mt.27,
25). Sự thật về Đức Giêsu vượt quá sức hiểu biết của con người. Chân tính của
Đức Giêsu không ai có thể ngờ được. Dân chúng Do Thái chỉ muốn giết một tên
phạm thượng, vì đối với họ, làm gì có chuyện Thiên Chúa nhập thể. Chính vì vậy,
họ không ngờ rằng họ giết Thiên Chúa.
Đức Giêsu cứ sống như
Ngài là. Ngài làm điều phải làm, nói điều phải nói. Số phận Ngài nằm trong tay
của Thiên Chúa tình yêu. Tuy dù lo lắng xao xuyến như bao người, nhưng cuối
cùng Ngài vẫn phó thác, tin tưởng trông cậy tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Đức Giêsu
trở thành gương và mẫu mực sống cho mọi Kitô hữu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao người công
chính phải đau khổ và phải chết?
2. Tại sao Đức Giêsu,
người công chính, bị hành hạ và phải chết ô nhục trên thập giá như vậy?
3. Xin bạn tìm ba chỗ
trong Tin Mừng Máccô Đức Giêsu loan báo Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba
Ngài sẽ sống lại. Theo bạn, tại sao Đức Giêsu lại thốt lên khi bị treo trên
thập giá "Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con" khi đã có lúc Ngài biết rõ ngày
thứ ba Ngài sẽ sống lại?
17. Chúa Giêsu lên Giêrusalem
(Fx. Phạm Đình Phước –
viết dựa theo Bênêđictô XVI, Gesù di Nazaret. Dall'ingresso in Gerusalem fino
alla risurrezione, LEV, Città del Vaticano 2011, pp.11-21)
Tin Mừng thuật lại cho
chúng ta rằng vào ngày lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Giêrusalem. Xét về phương
diện địa lý, có thể nói rằng chuyến đi này là một hành trình đi lên theo nghĩa
đen. Quả vậy, biển Galilê thấp hơn mặt nước biển 200 mét, Giêrusalem cao hơn
mực nước biển 460 mét nữa, như thế hành trình của Chúa Giêsu có độ cao gần 760
mét.
Đối với Chúa Giêsu, mục
đích tối hậu của hành trình lên Giêrusalem là "thánh giá", nghĩa là
trao ban chính bản thân mình cho nhân loại, "yêu mến cho đến tận
cùng" (Ga 13,1). Nhưng mục đích gần nhất của hành trình này là tiến lên
Đền Thánh Giêrusalem, và dự lễ Vượt Qua của người Do Thái (Ga 2,13). Chúa Giêsu
khởi hành cùng với nhóm Mười Hai, nhưng dần dần trở thành một đoàn người hành
hương đông đảo. Mátthêu và Máccô thuật lại cho chúng ta rằng có "đoàn lũ
đông đảo" theo Chúa Giêsu từ thành Giêricô.
Bên vệ đường của cuộc
hành trình có một người mù ăn xin tên là Bartimêô. Anh biết Chúa Giêsu trong
đoàn hành hương, nên anh xin Chúa thương xót và chữa lành anh: "Lạy Thầy,
xin cho con được thấy", và Chúa Giêsu đã chữa lành anh. Khi được chữa
lành, Bartimêô gia nhập đoàn hành hương tiến lên Giêrusalem (Mc 10, 48-52).
Từ làng Betphagiê và
Bêtania khi đến núi Cây Dầu nơi mọi người đang đón chờ Đấng Messia, Chúa Giêsu
sai hai môn đệ và bảo hai ông:"Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ
thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi
dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa
cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay" (Mt 21, 2-3). Thánh Máccô thêm một
chi tiết thú vị là "con lừa chưa ai từng cỡi" (Mc 11,2). Các môn đệ
ra đi và làm theo lời Đức Giêsu đã truyền. Sự việc này xảy ra để ứng nghiệm lời
tiên tri Da-ca-ri-a: "Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang
đến với ngươi, Ngài hiền hậu ngồi trên lưng lừa" (Dcr 12, 15). Việc Chúa
Giêsu tiến vào thành "trên lưng lừa" cho thấy Chúa Giêsu diễn tả
vương quyền của Ngài ở trong sự nghèo khó, trong khiêm tốn và trong bình an của
Thiên Chúa.
Việc "mặc áo
choàng" mang ý nghĩa vương đế trong truyền thống Israel (x. 2 V 9, 13). Các môn đệ
đã biểu lộ hành động tôn vinh Chúa Giêsu "lên ngôi". Đông đảo khách
hành hương thấy nhiệt tâm của các môn đệ cũng trải áo choàng xuống trải xuống
mặt đường, chặt nhành chặt lá mà rải trên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ
theo sau, reo hò vang dậy và tung hô: "Osanna, chúc tụng Đấng nhân danh
Chúa mà đến" (Mc 11, 9; Tv 118, 25).
"Osanna" có
nghĩa là "xin cứu giúp chúng con". Vào ngày thứ bảy của dịp Lễ Lều,
vị tư tế đi xung quanh xông hương bàn thờ 7 lần và lặng lẽ lập lại lời đó để
cầu xin mưa thuận gió hòa. Vào các dịp lễ, dân chúng hành hương lên đền thờ
Giê-ru-sa-lem, tay vừa phất các cành lá linh thánh vừa hát các câu tung hô. Khi
các dịp lễ như thế biến thành những lễ hội của niềm vui, thì lời cầu xin cũng
trở thành lời reo vui phấn khích. Trong bối cảnh ngày lễ, khách hành hương diễn
tả niềm vui, niềm hy vọng là Đấng Messia sẽ thiết lập vương quyền trên Israel .
"Chúc tụng Đấng
nhân danh Chúa mà đến" là lời đón chào khách hành hương ngay cửa thành
Thánh hay ngay cửa Đền Thờ. Nhưng câu này còn mang một ý nghĩa khác nữa như
trong thánh vịnh 118 "Từ nhà Chúa, chúng tôi chúc lành cho anh em",
là lời cầu chúc của các thượng tế dành cho khách hành hương lên đền thánh
Giê-ru-sa-lem. Ở đây, lời chúc lành cho khách hành hương trở thành lời ngợi khen
Chúa Giêsu, Đấng nhân danh Chúa mà đến: Chúa Giêsu được chào đón như Đấng dân
đang mong chờ và Đấng được loan báo qua mọi lời hứa. Tin Mừng Gioan và Tin Mừng
Nhất Lãm thuật lại việc Chúa Giêsu được tôn vinh ngay của vào thành Giêrusalem;
thánh Mát-thêu còn ghi lại rằng "khi Đức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành
náo động xôn xao". Các thánh sử cũng cho thấy rằng những kẻ tôn vinh Chúa
không phải là những người dân trong thành, mà là những người hành hương, những
người cùng đồng hành với Chúa Giêsu; họ cùng với Chúa bước vào thánh thánh
Giêrusalem.
Khi vào đền thánh, ngay
sau việc thanh tẩy đền thờ, thánh sử Mátthêu tường thuật thêm hai chi tiết
khác. Trước hết, Chúa Giêsu nói về đền thờ là ngôi nhà cầu nguyện cho mọi dân
tộc và "có những kẻ mù loà và què quặt đến với Ngài trong đền thờ. Ngài đã
chữa họ lành". Chúa Giêsu tỏ hiện như một Đấng yêu thương và quyền năng
của Ngài là quyền năng tình yêu. Như thế, Ngài dạy các kitô hữu về sự thờ
phượng Thiên Chúa đích thực: chữa lành, phục vụ và thiện tâm săn sóc. Hơn nữa,
Mat-thêu còn nói rằng các trẻ em reo hò trong đền thờ cùng với những lời tung
hô của những người hành hương trong đền thờ: "Hoan hô Con Vua Đavít"
(Mt 21, 15). Để vào Nước Thiên Chúa thì một trong những điều cốt yếu là phải
trở nên như trẻ nhỏ. Chính Chúa Giêsu, Đấng ôm lấy trọn vẹn thế giới, đã làm
cho mình trở nên bé nhỏ để đến giúp đỡ con người, đưa họ về với Thiên Chúa. Để
nhận biết Thiên Chúa, thì cần thiết phải từ bỏ sự kiêu hãnh và để gặp Thiên
Chúa thì cần phải nhìn bằng con tim, phải học để nhìn với một tâm hồn trẻ thơ
và với một tâm hồn tươi trẻ.
Thánh thi Benedictus
được đưa vào phụng vụ như muốn nói rằng đối với Giáo Hội, ngày Chúa Nhật Lễ Lá
không thuộc về quá khứ. Như ngày xưa Chúa Giêsu cỡi lừa bước vào thánh thánh,
Giáo Hội đón nhận Chúa Giêsu đang đến với chúng ta cách khiêm tốn trong bánh
rượu. Giáo Hội chào đón Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể đang đến và ngự giữa
cộng đoàn.
Mỗi Kitô hữu hãy đón
chào Chúa Giêsu ngự trong Thánh Thể như Đấng ngự đến trong lòng giáo hội, và
đón chào Đấng hiện diện luôn mãi và Đấng sẽ ngự đến trong vinh quang. Như khách
hành hương vào đến thánh Giê-ru-sa-lem, mỗi một kitô hữu được mời gọi gặp Chúa
trong Thánh Thể.
Với lễ Lá, các Kitô hữu
đang bước vào tuần thánh, với cao điểm của phụng vụ Kitô giáo là Tam Nhật
Thánh. Phụng vụ trong những ngày này thuật lại sự thương khó, khổ nạn và phục
sinh của Chúa Giêsu Kitô, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, kể cả những người,
cho dẫu không biết Thiên Chúa, sống với lòng ngay thẳng và chân thật.
Con người được dựng nên
để sống và sống để yêu mến: yêu mến Chúa và để yêu thương nhau. Thiên Chúa là
tình yêu, đã sáng tạo muôn loài, đã tạo dựng và cứu chuộc con người. Nhập Thể
và Cứu Chuộc là mầu nhiệm của tình yêu. Chúa Giêsu đã chấp nhận thánh ý Chúa
Cha để đem lại yêu thương cho con người. Thiên Chúa cho con người được thông
phần cuộc sống của Đấng "là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống", để cho
họ "được sống dồi dào" và sống viên mãn trong tình yêu.
18. Những im lặng sau tiếng hoan hô
(Lm Trịnh Ngọc Danh)
Lần thứ ba, Chúa Giêsu
tiên báo về sự chết và sự sống lại của Ngài: "Giờ đây chúng ta lên
Giêrusalem và Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế, các luật sĩ và các kỳ lão.
Họ sẽ kết án tử hình Người, và nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo cười Người,
phỉ nhổ vào Người, đánh đòn và giết Người và ngày thứ ba Người sẽ sống
lại". (Mc. 10,33)
Thế là Thầy trò lên
đường đi lên Giêrusalem. Chúa Giêsu dẫn đầu đi trước các môn đệ và các ông hết
sức bỡ ngỡ, những người theo sau thì sợ hãi. (Mc. 10,32)
Khi đến gần thành
Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphagê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ:
"Các con hãy đến làng trước mặt kia, vừa vào làng, các con sẽ gặp một con
lừa cột sẵn, trên lưng nó chưa hề có ai đã cỡi, các con hãy cởi dây mà dắt về
đây." Nếu có ai hỏi thì bảo Chúa cần dùng rồi Ngài sẽ trả lại ngay. Hai
môn đệ dẫn lừa con về, trải áo lên mình lừa và Ngài cỡi lên. Nhiều người trải
áo xuống đường, kẻ khác chặt cành cây trải lối đi: kẻ đi trước, người theo sau
tung hô: "Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến: chúc tụng nước
Đavít tổ phụ chúng ta đã đến. Hoan hô trên các tầng trời".
Chúa Giêsu đã long trọng
tiến vào thành Giêrusalem bất chấp những đối thủ đang hầm hực tìm cách bắt
Ngài. Đến thành Giêrusalem, Ngài tiến vào đền thờ và sau khi đã quan sát mọi
sự, thấy trời đã xế chiều, Ngài về Bêtania cùng với nhóm mười hai môn đệ.
Vinh quang trong ngày Lễ
Lá chỉ là một thoáng qua và sau đó là những gì sẽ xảy ra? Thưa, đó là những bội
phản, những trốn chạy, những a dua và những im lặng khó hiểu.
Chúa Giêsu im lặng
Chúa Giêsu bị bắt vào
đêm thứ năm.
Trước khi chính thức bị
đưa ra tòa xét xử, Ngài đã bị áp giải đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất
có uy tín vào thời đó, nhưng lại là người có ác cảm với Chúa Giêsu. Ông muốn
biết cặn kẽ về Ngài, nhưng ông cũng không khai thác được gì, vì Ngài vẫn một
mực giữ thái độ im lặng. Tức giận, ông truyền áp giải Chúa Giêsu sang cho
Caipha, con rể của ông đang làm thượng tế năm ấy.
Caipha cho triệu tập 72
thành viên của Thượng Hội Đồng, tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có
nhiều vị đã đứng lên tố cáo Chúa Giêsu là lộng ngôn, phạm thượng dám tự xưng
mình là Con Thiên Chúa, đã công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem và xây lại
trong ba ngày, đã nhiều lần vi phạm qui luật về ngày Sabbat...Trước những lời
tố cáo ấy, Chúa Giêsu vẫn im lặng không một lời phân bua, biện hộ. Và Ngài chỉ
trả lời cho Caipha những gì Ngài cần phải nói khi ông hỏi Ngài có phải là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa không, Ngài đã trả lời: "Đúng như lời ngài nói".
Và Caipha bực tức, xé áo và tuyên bố: "Chúng ta còn cần chi đến nhân chứng
nữa! Các ông đã nghe lời nói lộng ngôn, các ông nghĩ sao?" Ai nấy đều lên
án Ngài đáng chết. Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có
quyền kết án tử hình bất cứ ai, nếu không có sự ưng thuận của chính quyền Rôma.
Nên sáng hôm sau, họ lại áp giải Chúa Giêsu tới tòa tổng trấn Philatô, một viên
chức cao cấp nhất, đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn
nhận bản án tử hình.
Trước tòa Philatô, thay
vì tố cáo Chúa Giêsu về tội thuộc lãnh vục tôn giáo, họ lại chuyển những lời tố
cáo sang lãnh vực chính trị: tội tự xưng là vua dân Do thái. Philatô thấy không
có gì đáng kết tội, nhưng thấy họ lại càng hung hăng dữ tợn hơn đòi đóng đinh
Chúa vào thập giá; vì muốn tránh né trách nhiệm, ông đã chuyển vụ án qua cho
Hêrôđê, một người từ lâu đã muốn gặp Chúa Giêsu, nhưng gặp rồi, ông lại thất
vọng vì Ngài chẳng thỏa mãn được tính tò mò ham vui của ông. Ông đã hùa với
lính để chế diễu Chúa, rồi trao trả lại cho Philatô.
Tiến thoái lưỡng nan,
cuối cùng Philatô rửa tay thanh minh mình vô can trong việc đổ máu người vô tội
và sau cùng đã buông xuôi trao Chúa Giêsu cho họ để mặc cho họ hành động theo ý
họ. Họ đã bắt Chúa vác thập giá, đóng đinh vào thập giá và cuối cùng Ngài đã
chết trên thập giá.
Từ đầu vụ án cho đến lúc
kết thúc, Chúa Giêsu đã im lặng trước những gì người ta vu khống. Không một lời
kháng cáo, không một lời biện hộ.
Cái im lặng của Chúa
Giêsu là vâng phục, là chấp nhận trong tinh thần tự nguyện, không oán trách,
không kêu ca: "Lạy Cha, nếu có thể được thì cho con khỏi uống chén này,
nhưng không phải theo ý Con mà xin vâng theo ý Cha." Chính vì tinh thần
tuân phục theo ý Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã im lặng chấp nhận những gì sẽ xảy
đến.
Sự im lặng như thế phải
chăng là một hình thức im lặng như Euripide đã nói: "Im lặng là thú
nhận", là xác nhận những lời người ta tố cáo như: "phá đền thờ, ba
ngày sẽ xây dựng lại, tự xưng là Con Thiên Chúa, là vua dân Do thái". Tất
cả những lời tố cáo ấy là đúng như Chúa đã từng nói; nhưng khi bị người ta
xuyên tạc, bóp méo tố cáo là "xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho
Xêsarê..." thì Chúa Giêsu lại im lặng không một lời thanh minh, cải chính!
Với suy nghĩ của con người, thì đây là một sự im lặng khó hiểu!
Nếu những lời tố cáo là
chân lý, là đúng sự thật thì tại sao con người lại kết tội. Phải chăng tiếng
nói thiện tâm đã bị tà tâm bắt im tiếng!
Lương tâm im lặng.
Philatô biết rõ chỉ vì
ghen ghét mà người ta đã nộp Ngài (Mt. 27: 18), đã tuyên bố:" Ta vô can về
máu người công chính này, mặc kệ các ngươi" (Mt. 27: 24), " Ta không
thấy người này có tội gì" (Lc. 23: 4), " Ta không thấy nơi người này
có lý do để kết án" (Ga. 18: 38). Thế mà ông lại không dám quyết định, lại
sợ đụng chạm đến uy thế và quyền lợi của mình, và cuối cùng đã xếp Con Thiên
Chúa ngang hàng với một tên trộm cướp.
Các thầy thượng tế và
toàn thể công nghị cố tìm cho được một chứng cớ buộc tội Chúa Giêsu để giết
Ngài, song họ không tìm ra. Có nhiều kẻ cáo gian Ngài, nhiều kẻ làm chứng gian,
nhưng chứng cớ của họ không ăn khớp. Cáo gian, làm chứng gian để buộc tội một
người vô tội như thế là hợp tình, hợp lý ư? Thế mà họ cứ khăng khăng cho là sự
thật; vậy lương tâm ngay thẳng của họ ở đâu? Phải chăng nó đã chết, đã buộc
phải im hơi lặng tiếng để cho ác tâm, thù hận, ghen ghét lên tiếng!
Thỏa hiệp, đồng ý, đồng
lõa với những gì sai trái, những gì không đúng sự thật là im lặng với chân lý,
với lẽ phải. Một sự im lặng khó hiểu!
Lòng tin và lòng mến im
lặng
Hơn ai hết, các môn đệ
là những người theo Chúa, được Chúa yêu thương dạy dỗ để mai sau còn tiếp nối
công việc của Ngài, thế mà vào những giấy phút gay go nhất thì có người đã đang
tâm bán đứng Thầy mình với mấy chục đồng bạc như Giuđa Iscariốt; có người đã
nhiều lần thề thốt sống chết với Thầy, nhưng trước hiểm nguy lại ba lần chối bỏ
Thầy mình: Tôi không biết, tôi không quen..Dường như tất cả các môn đệ đã rút
vào bóng tối vì sợ liên lụy, sợ nguy hiểm đến tính mạng..
Về phía dân Do thái, họ
đã từng theo Chúa Giêsu để nghe Ngài giảng dạy giáo lý, đã được thấy Ngài làm
nhiều phép lạ, đã được cho ăn no nê. Hôm trước, người ta lớn tiếng: Hoan hô Con
vua Đavít, thì hôm sau lại gào thét: Đóng đinh! Đóng đinh nó vào thập gia! Và
nhục nhã hơn, họ xem người họ đã từng tin tưởng không bằng tên trộm khét tiếng
là Baraba!
Sợ liên lụy, tin hời
hợt, a dua, phản bội...phải chăng đó là bất trung, bất tín! Là những im lặng
khó hiểu nơi những người mang danh Kitô hữu!
Qua thái độ im lặng của
các môn đệ và của dân Do thái, có lẽ đây cũng là cơ hội để chúng ta xét đến
thái độ im lặng của chúng ta ngày nay.
Có những lúc chúng ta
phải bắt chước Chúa Giêsu im lặng để nghe theo thánh ý Thiên Chúa, để chấp nhận
những nghịch cảnh, những bất ưng vì Thiên Chúa và có những lúc chúng ta không
được im tiếng khi cần phải bảo vệ công lý và lẽ phải, khi cần phải loan báo Tin
mừng đến cho muôn người nhận biết.
Với một tâm tình đơn sơ,
chân thật, chất phát của trẻ em, chúng ta hãy bắt chước trẻ em Do thái reo vang
ca tụng: Hoan hô Con vua Đavít; chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Đừng như
dân Do thái: Hoan hô! Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, rồi lại nhất quyết
đòi đóng đinh Chúa vào thập giá, lại xin tha Baraba, một tên trộm cướp và giết
Giêsu, Đấng cứu chuộc nhân loại.
19. Tình Chúa Tình Người – Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Bước vào Tuần Thánh,
Giáo Hội bắt đầu cử hành Chúa Nhật Lễ Lá. Có nghi thức làm phép lá, phát lá và
kiệu lá. Chỉ những người trong đạo mới hiểu được ý nghĩa của ngày Lễ Lá. Khi
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem thì các trẻ Dothái cầm nhành ôliu đi đón Chúa,
lấy áo trải xuống đường và reo vang ca tụng rằng: Hoan hô con vua Đavít! Chúc
tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến! Lạy vua Israel ! Hoan hô trên các tầng trời!
Tiếp theo, chúng ta nghe bài Bài Thương Khó với những diễn tiến xảy ra mấy ngày
cuối đời của Chúa Giêsu trên trần gian. Dân chúng hùa theo với quân lính và
những kẻ thù ghét Chúa Giêsu với những lời phản bội sát phạt: Xin phóng thích
Baraba và giết đi, đóng đinh nó vào thập giá. Những cành lá tung hô đã cuốn
thành vòng gai nhọn đặt trên đầu của Chúa.
Chương trình cứu độ trải
dài suốt dọc lịch sử của dân Dothái, từng biến cố xảy ra đều mang dấu ấn tình
yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hiện diện sát cánh qua mọi biến cố thăng trầm
với dân riêng của Người. Tình yêu của Thiên Chúa đã thắng vượt sự dữ và tội
lỗi. Tình Chúa bền vững thiên thu không hề thay đổi trong khi lòng người đổi
thay. Biết bao lần chính Dân mà Chúa đã chọn, bỏ Chúa đi thờ các thần ngoại
bang được đúc bằng đất đá. Dân chúng quay lưng chạy theo những đam mê sắc dục,
tiền tài danh vọng và tìm thoả mãn mọi đòi hỏi của bản năng thấp hèn. Tiên tri
Daniel đã thân thưa cùng Chúa: "Tôi đã cầu xin Chúa là Thiên Chúa của tôi,
đã thú nhận và thưa Người rằng: Chúng con đã phạm tội, đã lỗi lầm, đã làm điều
gian ác, chúng con đã phản nghịch và lìa xa các mệnh lệnh, phán quyết của
Ngài" (Dn 9,4-5).
Tình yêu Chúa cứ dõi
theo những con người lạc bước và tạo cơ hội cho họ trở về như dụ ngôn 'Người
cha nhân hậu' hay còn được gọi là 'Người con hoang đàng' (Lc 15,11-32).
Thiên Chúa không bỏ rơi
con người trong lầm lạc, nhưng đã ban và phó thác chính Con của mình làm của lễ
cứu độ. Chúa Giêsu đã phán: "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân
lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên" (Ga 10,11).
Chúa Giêsu chính là Con
Một Thiên Chúa và là Đấng được Xức Dầu đã hoàn tất mọi lời tiên tri đã loan báo
về Người. Biến cố thương khó đã xảy ra và ứng nghiệm mọi lời đã tiên báo.
Biến cố Chúa Giêsu được
đón rước vào thành Giê-ru-sa-lem thì vắn gọn. Sự vinh quang trần thế tuỳ thuộc
vào con người chỉ có thế, luôn đổi thay. Từ những lời hoan hô ca ngợi mau chóng
biến thành những lời nguyền rủa, chế giễu và kết án. Cách đối xử của con người
thật là vô ơn bội bạc. Chúa dạy dỗ, chữa bệnh, xua trừ ma quỷ, cho ăn uống no
say và dẫn về đàng thật nhưng lòng người thì tráo trở, lật lừa và đổi trắng
thay đen. Chúa Giêsu đón nhận tất cả sự xỉ nhục này như của lễ dâng tiến lên
Chúa Cha. Chúa gom tóm tất cả tội lỗi xấu xa của con người để đóng gim vào
thánh giá. Của lễ châu báu trên thập giá là giá máu cứu chuộc.
Mỗi người nghe bài tường
thuật sự Thương Khó của Chúa Giêsu với những tâm tình khác nhau. Có người nghe
qua bài Thương Khó và nghĩ đây là một câu truyện đáng thương thuộc quá khứ. Đôi
người lại có thái độ như khách bàng quan coi sự sống chết của Chúa Giêsu chẳng
liên quan gì tới đời sống tâm linh của họ. Có người cảm thương sự đau đớn và
khổ nhục của Chúa, nhưng rồi lại có thái độ thù ghét, kết án dân Dothái, chính
quyền, trưởng tế, quân lính, người phản bội và các đồng bọn đã giết Chúa. Hôm
nay, chúng ta nên có một tâm tình tôn kính về sự thương khó của Chúa. Chúng ta
suy gẫm và chiêm niệm từng lời nói, từng hành động, từng giọt mồ hôi, giọt máu
rơi xuống và từng bước chân ngã quỵ trên đường tiến lên Núi Sọ. Tất cả mọi khổ
đau về tinh thần và cũng như thể xác của Chúa đều là sự trả giá cho tội lỗi và
bất trung của loài người.
Các lãnh đạo tôn giáo và
chính quyền đã toa rợp để tiêu diệt một người công chính. Vì yêu thương nhân
loại, Chúa đã chấp nhận tất cả mọi khổ đau. Hãy chiêm ngắm Chúa Giêsu đang mạnh
khoẻ, đã bị bán, bị bắt, bị chối bỏ, bị xét xử, bị xỉ nhục, bị đánh đập, bị đói
khát và bị hành hạ cho đến chết trên thập giá. Mỗi một hành vi lên án dù nhỏ
mọn cũng đã góp phần đưa đến sự chết của Chúa. Chúa không than van trách móc,
nhưng còn thương xin Chúa Cha tha thứ cho lỗi lầm của họ. Mầu nhiệm của tình
yêu gắn liền với mầu nhiệm của sự đau khổ. Sự đau khổ, sự chết và sống lại của
Chúa Giêsu là cao điểm của ơn cứu độ. Đây là Lễ Vượt Qua mà Giao Ước mới được
ký kết bằng Máu Châu Báu của Chúa.
Chúng ta có thể gọi các
hành vi xấu ấy là tội lỗi của thế gian. Tội bất trung, tội phản nghịch, tội làm
chứng dối, tội cáo gian, tội đoán xét, tội thù ghét, tội xỉ vả lăng nhục, tội
hại người, tội bất công, tội đồng loã, tội gian tà và tội giết người bằng môi
miệng, thái độ và hành động. Tất cả các tội đổ dồn trên đầu, trên vai, trên
những bước chân trần và trong trái tim đầy lòng thương xót của Chúa. Qua bài
Thương Khó của Chúa, chúng ta đừng gán ghép tất cả những tội lỗi giết Chúa cho
quân Giudêu xưa. Không phải thế đâu! Chúa chịu hy sinh đền tội chung cho cả
nhân loại. Khi chúng ta phạm tội là chúng ta lại tiếp tục quất những vết roi
hằn trên thân mình Chúa. Thánh Phaolô đã kể lại là trong khi đi ruồng bắt các
tín hữu, có một luồng sáng đánh ngã ông: Tôi ngã xuống đất và nghe có tiếng nói
với tôi: "Saun, Saun, tại sao ngươi bắt bớ Ta? Tôi đáp: "Thưa Ngài,
Ngài là ai?" Người nói với tôi: "Ta là Giêsu Nazareth mà ngươi đang
bắt bớ" (Cv 22,7-8).
Qua mọi thời, có một số
người cứ muốn loại Chúa ra khỏi cuộc sống. Chối bỏ Thiên Chúa để con người được
hoàn toàn tự do làm chủ đời mình. Đi tìm tự do để có thể thực hành điều mình
mong muốn. Những ước muốn của con người thường là để xuôi theo dòng lạc thú tạm
thời. Mọi thoả mãn vẫn không đáp ứng được những khao khát thầm kín thẳm sâu
trong tâm hồn. Một số người muốn có thêm quyền lực, thêm danh vọng và thêm
hưởng thụ. Họ tìm cách tiêu diệt mọi chướng ngại trên đường để tìm thỏa mãn
quyền lực và ý riêng mình. Cha ông chúng ta đã giết chết các sứ giả, các tiên
tri được sai đến và cả người Con Một Yêu Dấu của Thiên Chúa cũng bị loại trừ và
giết bỏ.
Các thứ tội lỗi của
chúng ta hôm nay cũng giống như các tội phản nghịch của người xưa, đều làm phật
lòng Chúa. Mỗi khi phạm tội, chúng ta lại đâm thấu trái tim và đóng thêm gai
nhọn vào thân mình Chúa. Thân mình Chúa chính là Giáo Hội của Ngài. Trong Nhiệm
Thể Chúa Kitô, Chúa Kitô là đầu và chúng ta là chi thể. Thánh Phaolô nói về sự
liên kết giữa Chúa Kito và Hội Thánh: "Mầu nhiệm này thật là cao cả. Tôi
muốn nói về Đức Kitô và Hội Thánh" (Ep 5,32). Khi chúng ta phạm tội là
chúng ta xúc phạm đến Chúa và chi thể của Chúa. Mùa Chay mời gọi chúng ta xét
mình và xin ơn tha thứ để sửa mình. Giáo Hội không ngừng kêu gọi con cái mình
hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm để được ơn cứu rỗi.
Trong Tuần Thánh, mỗi người chúng ta dành ít phút
thinh lặng và chiêm ngắm hình ảnh Chúa Giêsu bị treo trần trụi trên thập giá.
Chúng ta có thể hợp dâng lên Chúa tất cả những đau buồn, sầu khổ, chán nản, bị
đổ vạ cáo gian, bị hàm oan, những lời châm chọc chỉ trích, nỗi cô đơn và tất cả
những khổ đau của cuộc đời. Xin cho được ơn thông phần nhục nhã với Chúa trên
khổ giá để đền vì tội của chúng ta. Xin Chúa thương tha thứ và ban sức mạnh để
chúng ta tiếp tục vác thánh giá theo Chúa mỗi ngày. Chúa sẽ trao triều thiên
vinh thắng cho những ai bền đỗ đến cùng.
20. Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Kính thưa quý OBACE, bầu
khí phụng vụ của ngày lễ lá hôm nay gợi lên cho chúng ta nhiều sắc thái và tâm
trạng khác nhau, vừa hân hoan, vừa trầm buồn, lúc đầu lễ, với cuộc rước lá
tưởng niệm việc Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem trong tiếng reo vang của
người Do Thái: Hoan hô Con Vua Đavít, chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến, thì
liền sau đó bước vào thánh lễ, chúng ta lại được nghe thuật lại sự thương khó
của Chúa Giêsu. Chính sự tương phản này cũng đã phần nào nói lên sự thay lòng
đổi dạ của con người, sự tráo trở của những người Do Thái ngày ấy.
Tiếng reo mừng hoan hô
của những người Do Thái ngày Chúa vào thành Giêrusalem, là tiếng reo thể hiện
một sự mong đợi hoàn toàn có tính cách thế tục, họ chờ đợi không phải là một
Đấng Mesia cứu thế, mà là mội vị vua trần thế, họ nghĩ rằng đã đến lúc Chúa
Giêsu khởi nghĩa xưng vương quy tụ dân chúng nổi dậy chống lại đế quốc Roma.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã không làm vua trần thế, mà Ngài tiến vào Giêrusalem
hình ảnh thành đô của Thiên Chúa, không phải để làm chính trị, mà để xây dựng
một vương quốc tình yêu và thiết lập vương quyền của Thiên Chúa, vương quyền
của sự sống trên sự chết, sức mạnh của tình yêu tha thứ trên hận thù gian ác.
Tiên tri Isaia đã báo
trước về sứ mạng của đấng Mesia qua bài ca về Người Tôi Trung của Giavê Thiên
Chúa trong bài đọc một; Vị Tiên tri mô tả về một người tôi tớ trung thành của
Thiên Chúa, hoàn toàn vâng theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa, chấp nhận tất cả
đau khổ roi đòn, bị phỉ nhổ bị nhạo cười chế giễu, bị người đời khinh khi hành
hạ, nhưng người tôi tớ ấy vẫn một mực tín trung, chấp nhận tất cả sự nhục nhã
vì tin vào Đức Chúa là Đấng làm chủ và điểu khiển mọi sự và làm chủ đời mình.
Thánh Phaolô đã nhìn
thấy hình ảnh người tôi trung mà Isai tiên báo được ứng nghiệm nơi Chúa Giêsu
Kitô: Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ
trở nên giống phàm nhân, Người còn hạ mình vâng lời cho đến chết, và chết trên
thập giá. Tuy nhiên, người Do Thái đã không dễ dàng chấp nhận một Đấng Mesia
khiêm hạ, một Thiên Chúa hạ mình đến như thế, họ tìm kiếm và chờ đợi một Thiên
Chúa khác, do óc tưởng tượng của họ mang lại: một Thiên Chúa phải thẳng tay
trừng trị kẻ áp bức, một Thiên Chúa luôn sẵn sàng trừng phạt kẻ có tội chứ
không thể cúi xuống trên họ, một Thiên Chúa không thể đến quá gần con người, không
thể để cho một người phụ nữ tội lỗi xức dầu vào chân mình, không thể đồng bàn
với người thu thuế..., chính vì không được như ý họ mong muốn, nên người Do
Thái đã sẵn sàng đổi trắng thay đen, những người gào thét tại sân của quan tổng
trấn, đòi giết Giêsu và tha Baraba cũng chính là những người đã hoan hô con vua
Đavít, là những người đã được ăn bánh no nê, được chứng kiến phép lạ, được chữa
lành bệnh tật.
Nghe bài thương khó hôm
nay chúng ta nhận thấy lòng dạ của những người Do Thái đầy nham hiểm, họ khó chịu
khi thấy một người phụ nữ xức dầu thơm quý giá lên chân Chúa, họ lợi dụng mua
chuộc một Giuda ham tiền để lập mưu bắt Chúa Giêsu, những hành động ấy phát
xuất từ sự ghen tị thù hằn và họ câu kết với nhau để loại trừ Chúa Giêsu. Để
đạt được mục tiêu này, họ không loại trừ một thủ đoạn nào, từ vu vạ cáo gian
đến gây sức ép, các vị lãnh đạo Do Thái là những người chủ mưu trong vụ án này,
họ đã dàn dựng từ một vài những vấn đề tranh luận tôn giáo để đi đến một bản án
hoàn toàn chính trị bằng việc vu cáo Chúa Giêsu ngăn cản việc nộp thuế, có ý đồ
chống lại hoàng đế Cesare, để rồi mượn tay người La Mã lên án tử cho Chúa.
Còn Chúa Giêsu Ngài vẫn
sống đến cùng tình yêu thương và tha thứ, dù biết rằng Giuda là một trong các
môn đệ sẽ phản bội, nhưng Chúa cũng không trừng phạt anh, Ngài vẫn nhân từ trao
cho anh những cử chỉ yêu thương để đánh động lương tâm của anh; trong cuộc khổ
nạn này Chúa Giêsu không chỉ đau đớn vì roi đòn và sự hành hạ của những tên
lính, mà Ngài còn đau khổ hơn bởi sự phản bội của những người thân tín nhất của
Ngài. Đó là sự phản bội của Giuda, kẻ đã đi theo Chúa nhiều năm, vậy mà chỉ vì
một chút quyền lợi tiền bạc, anh đã bán đi tình nghĩa thày trò, và đau đớn hơn
nữa, anh đã dùng nụ hôn là dấu chỉ biểu lộ tình yêu thương để làm dấu chỉ của
sự phản bội. Cũng thế, Simon Phêrô, một trong số những môn đệ được Chúa Giêsu
yêu thương tin tưởng nhất, lại là người chối Chúa đến ba lần, mà lại chối trước
mặt một đứa đầy tớ gái. Sau cùng là sự bội bạc vô ơn của đám đông dân chúng,
trong số họ có biết bao người đã từng chứng kiến các phép lạ, được Chúa chữa
lành, vậy mà giờ đây, trước mặt một vị quan người La mã, họ đã chọn lựa Baraba
thay vì chọn Thiên Chúa, họ đã nhận hoàng đế Cesare làm vua của mình mà loại
trừ Thiên Chúa là vua của họ: Chúng tôi không có vua nào khác ngòai Cesa, họ đã
gào thét lên như thế.
Chúa Giêsu đã đón nhận
cây thập giá mà ngươi ta đặt lên vai Ngài như là cách thế mà Thiên Chúa Cha
muốn Ngài chấp nhận để đem ơn cứu độ cho trần gian, Chúa Giêsu đã đi đến tận
cùng của con đường cứu chuộc, và chặng cuối của con đường là cái chết giang tay
trên cây thập giá, chết trong đau đớn tất tưởi. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã
hoàn tất chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã chuẩn bị từ ngàn xưa, Ngài dùng
chính sự độc ác của con người để đem lại ơn cứu độ cho con người, dùng sự phản
bội để đem lại sự thứ tha, dùng cái chết của Ngài để đem lại sự sống đời đời.
Thưa quý OBACE, nghe lại
bài thương khó Chúa không để chúng ta đổ lỗi cho những người Do Thái, song qua
cuộc thương khó này chúng ta có thể thấy bóng dáng của mình trong cuộc hành
hình Chúa Giêsu năm xưa, có thể chúng ta là người đã gây tổn thương cho Chúa
khi chúng là những người mang danh là Kitô hữu, là mộn đệ Chúa, song chúng ta
đã phản bội lại Chúa như Giuda khi chúng ta cũng vì một chút vật chất, tiền bạc
mà chà đạp lên danh dự là một Kitô hữu, bán rẻ lương tâm của mình, có thể vì sợ
hãi hèn nhát hoặc vì bổng lộc của thế gian mà chúng ta đã từ chối Chúa như
Phêrô: Tôi không biết người ấy là ai! Và cũng có thể chúng ta là những người đã
từng nhận được biết bao ơn lành của Chúa, song chúng ta cũng giống như những
người Do Thái đòi tha Bararaba mà giết Giêsu, chúng ta không muốn để cho Chúa
Giêsu ảnh hưởng đến cuộc đời của mình, của gia đình, khi chúng ta từ chối đọc
kinh cầu nguyện, khi chúng ta không đến với Chúa qua việc thờ phượng và lãnh
nhận các Bí tích. Hoặc là chúng ta sẽ thấy mình giống như các thày thượng tế và
luật sĩ, mưu mô gian ác trong cuộc sống trong công việc, đối với anh em, cứng
lòng trước đau khổ thập giá của Chúa Giêsu khi chúng ta quay lưng lại với Chúa
hoặc chúng ta lên án Chúa và Giáo Hội của Ngài, cho mình quyền định đoạt số
phận và xét đoán anh em, nhắm mắt làm ngơ trước nỗi đau khổ bất hạnh của anh
em, và có khi còn nhạo cười trên đau khổ của họ và gào thét giơ tay đòi kết án
họ.
Chúa Giêsu vẫn đang bị
hành hình trong thời đại của chúng ta hôm nay qua những con người đang phải
chịu sự bất công đàn áp, những con người bị đẩy ra bên lề xã hội, bị chính
những người anh em ruột thịt của mình khinh bỉ từ chối; Chúa Giêsu cũng đang bị
hành hình qua những con người cùng cực bị bóc lột khai thác, lạm dụng, bạo
hành, kể cả qua những em bé, những thai nhi bị những Philatô là chính cha mẹ
của mình lên án tử, đó là những Giêsu của ngày hôm nay. Thương cảm cho cuộc khổ
nạn của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở những cảm xúc tự nhiên, mà hãy nhận
thật rằng chính vì tội lỗi của tôi, của ông bà, anh chị mà Chúa chịu chết như
thế, để từ nay chúng ta cố gắng sống tốt hơn, và sống ngoan thảo với Chúa hơn,
đồng thời biết quan tâm đến anh em để chia sẻ với sức nặng của thập giá của anh
em đó là cách chúng ta cất đi bớt sự đau khổ cho Chúa ngày hôm nay. Amen.
21. Baraba và Đức Giêsu.
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Văn sĩ Fabran Lagerkvist
của Thụy Điển đã đoạt giải Nobel văn chương năm 1966 nhờ quyển tiểu thuyết nổi
tiếng có tựa đề là "Baraba". Baraba là một tên cướp được nhắc đến
trong vụ án của Chúa Giêsu. Theo các sách Tin Mừng kể lại: Baraba là một tên
cướp khét tiếng đã phạm nhiều tội ác và sa lưới pháp luật. Hằng năm vào những
ngày lễ lớn, quan Tổng trấn đại diện cho Đế quốc Rôma tại Palestina có thói
quen ân xá cho một tội nhân. Năm đó, Tổng trấn Philatô đã đưa Chúa Giêsu và
Baraba ra trước mặt dân chúng và hỏi họ nên tha cho ai. Toàn dân đã la lớn: tha
cho Baraba và đóng đinh Chúa Giêsu.
Dựa vào sự kiện lịch sử
này, văn sĩ Lagerkvist đã tưởng tượng ra quãng đời còn lại của Baraba. Baraba
đã trở nên một con người quyền thế được mọi người biết đến. Baraba có được tất
cả, bởi vì chính Chúa Giêsu đã chết thay cho ông. Thế nhưng ông không hề muốn
nhắc đến Chúa Giêsu và cũng không muốn biết Ngài là ai.
Lý do khiến văn sĩ
Lagerkvist được trao giải Nobel văn chương là vì qua nhân vật Baraba, ông đã
họa được chân dung đích thực của con người. Baraba chính là con người được cứu
độ nhờ Chúa Giêsu, nhưng vẫn không hiểu lý do tại sao. Con người ngày nay không
tin vào Chúa Kitô và nhất là muốn loại bỏ Ngài ra khỏi con người thời đại. Với
những tiến bộ vượt bực trong khoa học kỹ thuật, con người chẳng khác nào một
thứ Baraba trong tác phẩm của Lagerkvist: con người tưởng mình là Đấng cứu độ
của chính mình, con người tưởng mình có thể loại bỏ mọi chiều kích siêu việt
của cuộc sống, con người tưởng mình có thể sống mà không cần một Đấng cứu độ
nào.
Thưa anh chị em,
Dưới cái nhìn lịch sử
thì quả thực cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là hành động tội ác của
những người Do Thái và La Mã cách đây hai ngàn năm. Những người Do Thái đã
cuồng tín kêu gào đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Các binh sĩ La Mã đã đánh
đập, hành hung Ngài và cuối cùng treo Ngài trên thập giá.
Nhưng dưới cái nhìn của
người có niềm tin, thì cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá là một mầu nhiệm.
Mầu nhiệm bởi vì một cách nào đó, người có niềm tin cũng cảm thấy mình đã thực
sự tham dự vào việc đóng đinh ấy. Chúng ta tuyên xưng rằng Ngài đã chịu đóng
đinh vì chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, nghĩa là do chính tội lỗi của chúng ta
ngày nay, cho dù cách xa hai ngàn năm, vẫn là một chối bỏ, một tiếng reo hò,
một sỉ vả hoặc chính là một cái đinh đóng vào thân thể Chúa Giêsu.
Thử hỏi nếu tôi là người
đương thời có liên quan đến vụ án Chúa Giêsu, tôi sẽ đứng trong nhóm người nào
và với thái độ nào? Phải thú nhận rằng tôi không dễ gì làm được như ông Simon
thành Syrênê đã vác thập giá đỡ Chúa Giêsu. Nhưng cũng đừng vội vã quả quyết
rằng tôi không thể đứng về phía đám quần chúng đả đảo Chúa, không thể là Phêrô
chối Chúa, hoặc là nhóm môn đệ trốn chạy, hay là Philatô lên án người vô tội,
hoặc là đám quân lính đánh đòn và đóng đinh Chúa. Trái lại, kinh nghiệm bản
thân tôi cho thấy rõ ràng tôi rất yếu đuối, dễ dàng về phe kẻ mạnh thế, không
dám can đảm bênh vực công lý và dễ dàng trung thành với Chúa trên môi miệng
cũng như khi mọi sự đều xuôi chảy, nhưng lại phản bội Chúa dễ dàng trong hành
động cụ thể và khi gặp nghịch cảnh.
Anh chị em thân mến,
Với Chúa Nhật hôm nay,
Tuần Thánh đã bắt đầu. Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm
Vượt Qua đem lại ơn cứu độ cho loài người. Bề ngoài, cuộc tiến vào thủ đô
Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông nô nức phất cao càch lá "Hoan
hô con Vua Đavít" có vẻ một cuộc toàn thắngvang dội. Thực ra đây là một
cuộc mở màn thương khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất
của cuộc thương khó. Bởi vì chúa biết rõ trong niềm phấn khởi chóng qua của dân
chúng đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ dội trước mặt Tổng trấn
Philatô, trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: "Đả đảo!
Đóng đinh nó đi! Đóng đinh nó vào thập giá!"
Rước là đi theo Chúa
Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn cho lắm. Đi theo Chuá giữa
lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài
khi Ngài đã bị mọi người bỏ rời và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng
không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà
chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. nếu kitô hữu được
định nghĩa là người đi theo Chúa kitô thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm
thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Con đường bước theo
Chúa có lúc vui, lúc buốn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa
khi vào thành và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh
này, chúng ta hãy tìm thời giờ đọc lại chậm rãi chương 14 và chương 15 của Tin
Mừng theo Thánh Marcô. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu
thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp
rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương,
bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên
hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Chúa Giêsu đối với
Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu
độ.
Đừng đọc vội vã, hãy
ngừng lại khi Chúa có điều muốn nói với chúng ta, đừng ngắt lời Ngài. Chúng ta
có thể thấy mình giống với Giuđa, Phêrô hay Philatô. Chúng ta không ai vô tội
trước cái chết của Con Thiên Chúa. Ngài vẫn còn hấp hối cho đến tận thế.
Đừng theo Chúa như một
người quay vidéo cho đám tang, bởi lẽ mọi sự Ngài chịu là vì chúng ta và cho
chúng ta. Sau khi đã suy niệm lâu dài về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình
yêu Thánh giá của Chúa hơn, yêu thánh giá của mình hơn và trân trọng thánh giá
của người khác hơn.
22. Con đường thập giá – Lm. Đam. Trần Quang Hiền
Đối với các Tông Đồ, việc
Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà
các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành
hiện thực.
Đối với Chúa Giêsu thì
đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là
việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ
đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào
trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ
nhận Người làm Chúa của họ.
Nhưng cuộc rước lá còn
nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến
vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy
Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của
Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua
làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế
hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.
Cũng vì lẽ đó mà dân
chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ
lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhát, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ
rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông
đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người
bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.
Chúa nhật Lễ Lá hôm nay
mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là
một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc
sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật
của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc,
xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình.
Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh
mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt
mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất,
tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất
tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là
giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.
Bước vào Tuần Thánh và
cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống
là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá
trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên
trên những bậc thang giá trị trần thế khác.
Chuẩn bị bước vào Tuần
Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên
con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công,
bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ,
thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc,
mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam
mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt
đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.
Đi theo Chúa Giêsu trên
con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo
sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực... để dám sống từ
bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời
gọi.
Đi theo Chúa Giêsu trên
con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay,
nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với
chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ
những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài.
Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta
sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.
23. Suy niệm của Noel Quesson.
CUỘC KHỔ NẠN CHÚA GIÊSU
Cái chết của Chúa đã làm đổi thay thế giới, làm xúc động bao tâm hồn và
cũng gây cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ. Bao kiệt tác đã lấy cái chết của Chúa
làm chủ đề. Một họa sĩ đã vẽ cảnh tháo đinh, đưa xác Chúa Giêsu xuống khỏi Thập
giá. Đặc điểm của bức họa là người trong cảnh đều có khuôn mặt quen thuộc của
những người cùng thời với họa sĩ. Và người đang tháo đinh ở Chúa ra chính là
họa sĩ. Người ta hỏi họa sĩ về chuyện này, ông cắt nghĩa: Tôi đã từng đóng đinh
Chúa vào Thập giá, đinh sắt là tội của tôi. Cần phải tháo gỡ những chiếc đinh
tội lỗi ra khỏi thân xác của Chúa.
Để tháo gỡ chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi, Chúa đón nhận tất cả một cách ý
thức và chủ động.
Chẳng những bằng lời nói, Chúa còn chuẩn bị đi vào khổ nạn bằng hành động.
Chúa lập phép Thánh Thể, dùng một lối khác diễn tả tình yêu vĩnh cửu Người dành
cho nhân thế. Chúa dùng chính thịt máu làm của nuôi chúng ta, đó cũng như nói
tình yêu và cái chết của Chúa đem lại sự sống muôn đời cho tâm hồn người ta.
Chúa Giêsu đi vào cuộc khổ nạn hoàn toàn đơn độc. Cái chết cũng đơn độc, và
khi Chúa Giêsu mang thân phận con người, Chúa không muốn thoát khỏi số phận đó.
Trong vườn Cây Dầu, Chúa không biết chia sẻ đau buồn với ai. Bao nhiêu âu lo
chồng chất mà không ai hiểu, hay an ủi một lời. Chúa để ba môn đệ thân tín gần
chỗ Người cầu nguyện, nhưng ba lần Chúa trở lại đều thấy họ ngủ say. Trên thập
giá nhìn xuống, Chúa thấy mình hoàn toàn trơ trọi, bên Người chỉ còn Gioan, Mẹ
Maria và vài phụ nữ. Chính Thiên Chúa Ngôi Cha như cũng như xa vắng, vì thế
Chúa thốt lên lời cầu nguyện như một tiếng than van: "Lạy Chúa, Lạy Chúa,
sao Chúa bỏ con!".
Chúa Giêsu bị kết tội trước tòa đạo cũng như trước tòa đời. Hội đồng công
nghị, cơ quan tối cao của Do Thái giáo kết án Chúa vì đã tự xưng là Con Thiên
Chúa. Trong khi Philatô, Tổng trấn đại diện Đế quốc La mã xử Chúa vì đã nhân
danh mình là Vua. Còn Chúa Giêsu, thay vì chối bỏ những lời cáo buộc, Người chỉ
bình thản quả quyết mình là Con Thiên Chúa và là Vua. Nhưng cả hai danh hiệu
này không phải có ý nghĩa như những người tố giác đã hiểu. Chúa là Con Thiên
Chúa toàn năng. Người đã từng làm nhiều phép lạ, nhưng không làm gì để tự bảo
vệ và thoát khỏi tay địch thù. Chúa không phải vị Vua như mọi người mong chờ.
Chúa là Con Thiên Chúa, là Tình yêu tột đỉnh, yêu đến mức sẵn sàng chết vì
người khác. Chúa là Vua, Người cai trị mọi tâm hồn bằng tình yêu mà xét xử nhân
loại cũng theo luật Tình yêu. Chỉ khi ta nhìn Chúa chết trên thập giá, ta mới
hiểu Người đã là Con Thiên Chúa và là Vua như thế nào.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra tội lỗi và thật lòng sám hối, chiến
thắng tội lỗi là tháo gỡ những mũi đinh chúng con đã đóng vào chân tay Chúa.
24. Lễ lá.
Lắng nghe và suy nghĩ về bài thương khó của Chúa Giêsu, chúng ta hiểu được
tình thương của Ngài thật bao la, cũng như hiểu được tội lỗi thật xấu xa, đến
nỗi Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng, để tẩy sạch dấu vết của nó trong
tâm hồn chúng ta.
Adong ngày xưa đã vấp phạm vì kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa. Còn
Đức Kitô hôm nay, để cứu chuộc chúng ta Ngài đã hạ mình xuống như lời thánh
Phaolô đã viết:
- Phận Ngài là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã không đòi cho mình được đồng hàng
với Thiên Chúa, Ngài đã hạ mình xuống, mang thân phận tôi đòi, trở nên giống
chúng ta, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá.
Chúa Giêsu không phải chỉ nên giống chúng ta ở dáng bộ bên ngoài, nhưng
Ngài đã mặc lấy bản tính nhân loại. Ngài không phải chỉ là một kẻ lạ mặt, đứng
bên lề cuộc đời chúng ta. Ngài cũng không phải là một ông cảnh sát lăm le biên
phạt những hành động sai trái của chúng ta.
Trái lại, Ngài đã nhập cuộc, Ngài đã tham dự vào kiếp người và cùng đi với
chúng ta qua vạn nẻo đường đời. Ngài cũng đã vất vả lao động, chịu đói chịu
khát, mệt mỏi vì đường xa, Ngài muốn chia sẻ với chúng ta mọi cảnh huống của
cuộc sống, và nhất là Ngài đã chết vì yêu thương chúng ta như lời Ngài đã nói:
- Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Kể từ nay, thập giá không còn là một hình phạt dành cho những kẻ nô lệ và
phản loạn, nhưng là một dấu chỉ hùng hồn nhất nói lên tình thương của Chúa.
Và từ đỉnh cao thập giá, chúng ta hãy nhìn vào những ước vọng thầm kín,
cũng như hãy nhìn vào chính con người chúng ta.
Thực vậy, chúng ta là những kẻ kiêu căng hợm hĩnh, chúng ta không muốn vâng
phục, trái lại luôn chống đối quyền bính. Hãy nhìn vào thái độ khiêm nhường của
Chúa Giêsu.
Chúng ta là những kẻ mải miết chạy theo những vui thú cho thân xác. Hãy
nhìn vào thân xác Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá giữa những đớn đau phải
chịu.
Nếu trái tim chúng ta thờ ơ nguội lạnh đối với Thiên Chúa, trong khi đó lại
qúa quyến luyến với tiền bạc, với địa vị, với danh vọng hay một tạo vật nào đó.
Hãy nhìn vào tình yêu Ngài đã dành cho chúng ta.
Chính Ngài đã nói với thánh nữ Angèle de Foligno như thế này:
- Cái chết của Cha, cùng với những khổ đau, không phải là một trò cười.
Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá và hãy thân thưa với Chúa như lời
thánh Phaolô:
- Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi, một kẻ tội lỗi
đáng thương.
Thực vậy, ngước nhìn thập giá và suy gẫm về tình thương của Chúa, chúng ta
sẽ cảm thấy ghê tởm tội lỗi, mong ước được tẩy rửa tâm hồn mình nên trong trắng
như tấm áo ngày chịu phép rửa tội.
Trong Tuần Thánh này, chúng ta hãy kết hiệp những hy sinh của chúng ta vào
với những khổ đau của Chúa Giêsu, hầu nhờ đó chúng ta sẽ được nếm thử niềm vui
Phục sinh, là niềm vui sẽ không bao giờ bị tàn úa.
25. Cuộc Thương Khó.
Winston Churchill, cố thủ tướng Anh Quốc, đã chia sẻ kinh nghiệm riêng của
ông và cho chúng ta biết rằng sự hoan hô ủng hộ của dân chúng không phải là
bằng chứng của sự thành công thực sự. Xưa kia, có một lần sau khi nói chuyện
với một cử tọa khoảng 10 ngàn người hiện diện hoan hô thủ tướng, một người bạn
đã hỏi: "Thưa thủ tướng, ngài không cảm thấy xúc động vì 10 ngàn người đã
đến nghe ngài nói chuyện sao?" Churchill trả lời: "Không hẳn thực sự
là như thế. Một trăm ngàn người sẽ đến nhìn khi tôi bị treo lên".
Hôm nay Chúa nhật lễ lá, chúng ta bắt đầu Tuần Thương Khó bằng việc cử hành
việc Chúa Giêsu tiến vào thành Giêrusalem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua của
Ngài. Sách Giáo lý Công giáo số 272 đã viết: "Thiên Chúa Cha đã mạc khải
sự Toàn năng của Ngài một cách hết sức mầu nhiệm trong sự tự nguyện chịu
nhục... nhờ đó Ngài đã chiến thắng sự ác". Chúa Kitô chịu đóng đinh vào thập
giá là "quyền năng của Thiên Chúa và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bởi
vì sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi
Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người".
Ngày xưa, có hai anh em nọ sống chung với nhau trong cùng một căn nhà.
Người anh tốt lành, siêng năng làm việc và kính sợ Thiên Chúa. Còn người em bất
lương, lừa lọc, gian manh, và phạm đủ thứ tội như cướp của, giết người. Người
anh khuyên răn mãi mà người em vẫn chẳng thay đổi tính nết. Một đêm nọ người em
chạy về nhà với quần áo dính đầy máu. Nó tự thú với người anh: "Tôi đã
giết người". Vài phút sau căn nhà bị cảnh sát bao vây và hai anh em đã
biết rằng không còn cách nào trốn thoát được. "Tôi không có ý giết
nó", người em sợ hãi nói, "Tôi cũng không muốn chết". Vào lúc ấy
cảnh sát đang gõ cửa. Người anh bèn nảy ra ý tưởng: anh thay đổi quần áo của
mình cho người em, và mặc lấy bộ quần áo còn đang dính đầy vết máu của người
em. Cảnh sát xông vào nhà bắt người anh, bỏ tù, và chờ ngày bị kết án tử hình.
Sau cùng, người anh đã hy sinh chết thế cho em mình.
Qua câu chuyện hình sự về cái chết hy sinh của người anh vì thương em,
chúng ta hiểu phần nào về sự đau khổ và cái chết của Chúa Giêsu được diễn tả
trong bài Thương Khó. Đây là câu chuyện của tình yêu, tình yêu Thiên Chúa dành
cho con người chúng ta.
Thánh Phaolô đã viết: "Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa,
đã không nghĩ phải dành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người hủy
bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người...
Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá".
26. Cuộc Thương Khó
Chúa Giêsu rất thương xót những người đau khổ. Ngài đã làm phép lạ để cứu
chữa họ, và dạy mọi người phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm khổ cho nhau.
Đối với Chúa Giêsu đau khổ là điều xấu. Khi nghĩ về cuộc thương khó trong vườn
Giệtsimani, Ngài đã bồi hồi, xao xuyến, sợ hãi đến đổ mồ hôi máu.
Thánh Kinh cho ta thấy căn nguyên của đau khổ là tội lỗi. Vì đau khổ là xấu
nên con người phải tránh gây đau khổ cho nhau bằng mọi hình thức. Đồng thời
phải tích cực xây dựng sự công bằng và bác ái. Rất nhiều đau khổ ở thế gian do
con người, tội lỗi và sự bất công gây ra. Khi chấp nhận đau khổ để cứu chuộc
nhân loại, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một số nguyên tắc luân lý:
1. Chỉ chấp nhận đau khổ và hy sinh vì hạnh phúc của người khác. Sự hy sinh
phải nhằm vào những mục đích tốt, và những mục đích đó phải có một giá trị cao
hơn sự thiệt thòi.
Chúa Giêsu đã tự ý chịu đau khổ để tiêu diệt tội lỗi theo đường lối của
Thiên Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu lên Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha trao
phó, Ngài đã phải đụng chạm với sức mạnh của chính quyền, xung khắc với sự tự
do của con người. Và sự đau khổ đã đến như một hậu quả tất yếu vì sứ mệnh của
Ngài. Ngài đã phải chọn lựa giữa việc chu toàn sứ mạng dù phải chấp nhận sự đau
khổ và cái chết trên thập giá hơn là sự đào ngũ, chạy trốn của người hèn nhát.
2. Để sự đau khổ trở nên một giá trị cho người khác, nó phải là tự nguyện
như chính Chúa Giêsu đã tự hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc nhân loại:
"Không ai đoạt được mạng sống tôi, nhưng tôi tự ý hiến mạng sống
mình".
Thiên Chúa ban cho con người tự do để cộng tác vào việc sáng tạo của Thiên
Chúa. "Con người thường là những hợp tác viên vô ý thức của thánh ý Chúa, nhưng
con người cũng có thể chủ ý hợp tác vào kế hoạch của Ngài bằng hành động, lời
cầu nguyện, và bằng cả những đau khổ của mình".
3. Đau khổ hy sinh sẽ trở nên sai trái khi nó hủy diệt chính con người của
mình. Chúa Giêsu đã không đánh mất bản tính Thiên Chúa của Ngài khi chết trên
thập giá. Ngài chết trên thập giá nhưng Ngài vẫn là Thiên Chúa, độ lượng, tha
thứ và nhân từ. Đau khổ không làm Ngài rơi vào hận thù và tuyệt vọng. Chính
tình yêu làm cho đau khổ trở thành giá trị. Con đường khổ giá từ Giêrusalem lên
núi sọ chịu đóng đinh của Chúa Giêsu chính là con đường của tình yêu.
Sách Giáo lý Công giáo số 609 viết rằng: "Khi gắn bó với tình thương
của Chúa Cha đối với mọi người, trong trái tim nhân tính của mình, Chúa Giêsu
"đã yêu thương họ đến cùng", "bởi vì không có tình yêu nào lớn
hơn là thí mạng sống mình vì những người mình yêu thương". Bởi vậy, trong
đau khổ và trong khi chết, nhân tính của Ngài đã trở thành dụng cụ tự do và
tuyệt hảo của tình thương thần linh của Ngài muốn cứu vớt mọi người".
Bắt đầu Tuần Thánh này, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta nhìn vào thánh giá để
thấy những ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm tình yêu đó:
Nhìn vào thánh giá ta thấy đau khổ bên ngoài và tình yêu Thiên Chúa bên
trong, sự chết của con người và sự sống lại của Thiên Chúa, bóng tối tội lỗi
của trần gian và ánh bình minh cứu độ, sự ích kỷ của ta và sự hy sinh của Thiên
Chúa, sự kiêu căng của ta và sự khiêm tốn của Thiên Chúa, sự bất lực của ta và
sức mạnh vô song của Thiên Chúa, sự thù hận của con người và sự tha thứ của
Thiên Chúa, sự hèn hạ của ta và sự cao cả của Thiên Chúa. Nhìn vào thánh giá ta
thấy nhân tính và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô.
Quả vậy, như lời thánh Phaolô đã dạy: "Lời rao giảng về thập giá là
một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là
những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa".
27. Hoan hô- Đả đảo.
Hôm nay toàn thể Giáo Hội tưởng niệm Chúa Kitô vào thành Giêrusalem để hoàn
tất mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài. Vì thế ngày lễ hôm nay gồm có hai phần: phần
đầu kính nhớ việc Chúa vào thành thánh bằng cuộc rước kiệu lá, phần hai là
thánh lễ tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa.
Trước hết, ngày Chúa nhật trước khi đi thụ nạn, Chúa Giêsu lên thủ đô
Giêrusalem lần cuối cùng. Dân chúng lũ lượt kéo nhau đi như cuộc biểu tình vĩ
đại, trên đường vào thành thánh, họ trải áo choàng trên đường và chặt những
nhánh lá cây rải trên đường để Chúa đi qua, tay cầm cành lá, miệng reo hò tung
hô Chúa, họ dành cho Chúa một nghi lễ đón rước như cho một vị vua của họ. Họ
vừa đi vừa tung hô: "Hoan hô con vua Đavid", "Vạn tuế Đấng nhân
danh Thiên Chúa mà đến". Người người nồng nhiệt hò la, Chúa Giêsu im lặng
chấp nhận để họ đón rước và tung hô như thế. Ngài là một vị vua vinh quang
nhưng khiêm hạ, Ngài không phải là vị vua như dân Do Thái mong đợi, nghĩa là
vua phần xác, đến để giải phóng dân tộc họ khỏi ách đô hộ ngoại bang Rôma, đem
cơm áo ấm no cho họ. Nhưng Ngài là vua trong lòng của họ, đem đến tình thương
và hòa bình.
Đàng khác, cũng trong ngày lễ hôm nay, chúng ta nghe đọc bài tường thuật về
cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Cuộc khổ nạn diễn ra vào ngày thứ sáu sau Chúa
nhật lễ lá, nghĩa là chỉ sau ít ngày nhiệt liệt tung hô Chúa Giêsu, dân Do Thái
lại biểu tình đả đảo, chống đối, hò la đòi giết Chúa. Ngài đã bị bắt, bị trói
và bị dẫn đến trước mặt thượng tế Caipha, rồi đến trước tổng trấn Philatô, bị
xét hỏi, bị đánh đập, bị kết án và cuối cùng bị hành quyết trên núi Sọ như một
tên trọng phạm của xã hội.
Ngày lễ hôm nay cho chúng ta thấy hai thái độ trái ngược nhau của dân Do
Thái: hoan hô Chúa và đả đảo Chúa, đưa Chúa lên ngai vua và hạ bệ Chúa trên
thập giá. Chắc chúng ta khó chịu, bực tức và lên án thái độ đổi thay, lòng dạ
tráo trở của những người đó phải không? Nhưng chúng ta hãy ý tứ, có người đã
viết như thế này: "Giữa Chúa nhật lễ lá và thứ Sáu Tuần Thánh có thể phản
chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu: Hôm nay chúng ta hoan hô, chúc tụng Chúa:
vạn tuế, vạn tuế, ngày mai chúng ta có thể sẽ gào thét: đả đảo, hãy đóng đinh,
hãy đóng đinh hắn vào thập giá. Hôm nay chúng ta yêu thương, ngày mai chúng ta
oán ghét. Hôm nay chúng ta hân hoan, ngày mai chúng ta buồn sầu. Hôm nay chúng
ta hiền hòa, ngày mai chúng ta hung dữ. Hôm nay chúng ta tin tưởng, ngày mai
chúng ta hoài nghi. Vâng, danh sách các mâu thuẫn giữa thiện và ác còn có thể
tiếp tục nối dài, và thực sự giữa Chúa nhật lễ lá và thứ sáu Tuần Thánh có thể
phản chiếu cả cuộc đời của các Kitô hữu".
Để làm sáng tỏ những tư tưởng trên, một diễn giả đã dùng một cành lá dừa.
Cành lá dừa xanh tươi tượng trưng cho những đặc tính tích cực của Chúa nhật lễ
lá như hoan hô, chúc tụng, yêu thương, hân hoan, hiền hòa, tin tưởng. Mỗi lần
nêu lên một khía cạnh tiêu cực của cuộc sống như khước từ, oán ghét, buồn
phiền, hung dữ, hoài nghi, diễn giả tuốt bỏ phần lá xanh, chỉ còn để lại cọng
của cành lá dừa. Cuối cùng, cành lá dừa xanh tươi đã biến thành một bó roi có
thể dùng để hành hạ nhau, biến thiên đàng thành địa ngục.
Chắc tất cả chúng ta đều hiểu và thấm thía những điều trên đây? Cuộc sống
của chúng ta có nhiều tiêu cực hơn tích cực, chúng ta làm khổ nhau nhiều hơn
làm đẹp lòng nhau. Có phải chúng ta xích mích, gây chia rẽ bất hòa nhiều hơn là
xây dựng, yêu thương, đoàn kết? Chúng ta tôn vinh Chúa ở trong nhà thờ nhưng
chúng ta có tôn vinh Chúa trong cuộc sống ở ngoài nhà thờ không? Mỗi khi chúng ta
không tôn trọng bất cứ người anh em nào là chúng ta không tôn vinh Chúa. Vì
thế, chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn trung thành với lời chúng ta hoan
hô "vạn tuế" để trong cuộc sống, chúng ta quyết đem ra thực hành
chương trình xây dựng hòa bình và tình thương của Chúa.
28. Ơn cứu chuộc.
Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết vào ngày Thứ Sáu, chúng ta quen gọi là
ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hay ngày Thứ Sáu chịu nạn. Xưa kia người ta cho ngày
thứ sáu chịu nạn là một ngày đáng ghét hơn bất cứ ngày nào khác trong năm, bởi
lẽ ngày hôm đó có một người vô tội đã bị kết án tử hình và đã bị giết chết một
cách rất tàn nhẫn, bất công. Vì sự kiện đó người ta đã định nghĩa ngày Thứ Sáu
chịu nạn là "Thêm một người vô tội được ghi tên vào trang sổ dài trong
lịch sử nhân loại, cuốn sổ của biết bao nhiêu người bị tố cáo một cách oan
uổng, bị đánh đập, bị hành hạ tàn nhẫn, và có khi bị giết chết". Theo ý
nghĩa này thì quả thật ngày Thứ Sáu chịu nạn là một ngày xấu xa, một ngày đen
đũi. Nhưng đối với chúng ta, ngày Thứ Sáu chịu nạn không phải là một ngày đáng
ghét, chúng ta phải nghĩ ngược lại, ngày đó là một ngày đáng ghi nhớ, một ngày
có ý nghĩa thật tốt đẹp và hoàn toàn cao cả, một ngày tốt đẹp hơn hết mọi ngày,
bởi vì ngày đó là ngày Chúa Giêsu đã chết để cứu chuộc chúng ta, là ngày mở ra
một trang sử mới của loài người.
Quả thực, không phải Chúa Giêsu đã chịu thua trước bạo lực, trước rủi ro
hay số phận, cái chết của Ngài không phải là một sự thất bại, thua cuộc, nhưng
là một sự nghiệp anh hùng và cao quý, vì chỉ có cái chết của Ngài mới có đủ khả
năng đền bù tội nguyên tổ và mọi tội lỗi của con người một cách cân xứng, bởi
vì tội phạm đến trời thì chỉ trời mới tha được. Hơn nữa, muốn cứu chuộc chúng
ta, thật ra Chúa Giêsu đâu có cần phải xuống thế, phải nghèo khổ, phải nhục
nhã, phải bị giết chết một cách tức tưởi như vậy, nhưng tất cả những sự ấy Ngài
đã lãnh nhận chỉ vì Ngài yêu thương chúng ta, yêu thương đến cùng, yêu thương
không bờ bến.
Như vậy, không gì chắc chắn bằng Chúa Giêsu đã đổ máu ra chết cho tất cả
chúng ta, nhưng cũng không gì chắc chắn bằng Chúa Giêsu đã chết một cách vô ích
cho chúng ta nếu chúng ta không muốn tham dự vào công lênh cứu chuộc của Ngài
bằng nỗ lực riêng của mỗi người chúng ta. Chúa Giêsu đã làm bật lên mạch nước,
nhưng chúng ta cần cúi xuống mà uống, nguồn mạch Chúa Giêsu sẽ vô ích nếu chúng
ta không muốn uống. Nói rõ hơn, ơn cứu chuộc đòi hỏi chúng ta một nghĩa vụ, đó
là chúng ta phải cộng tác với ơn Chúa, như thánh Âu tinh đã nói: "Thiên
Chúa dựng nên chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc
chúng ta, Ngài cần sự cộng tác của chúng ta".
Thực vậy, khi bị treo trên thập giá, trước khi thở hơi cuối cùng, Chúa
Giêsu đã kêu lớn tiếng: "Mọi sự đã hoàn tất". Như vậy, công việc cứu
chuộc của Chúa đã xong, nhưng công việc của chúng ta thì chưa xong, chúng ta
còn phải luôn luôn kiện toàn đời sống của mình, từ đó chúng ta mới hiểu câu nói
của thánh Phaolô: "Tôi bổ khuyết nơi tôi những gì còn thiếu trong cuộc khổ
nạn của Chúa Kitô". Vì thế, chúng ta hãy nhớ hai điều: Thứ nhất, người thế
gian thường xét đoán theo hiệu quả, còn Chúa thì đoán xét theo cách thức người
ta chu toàn và kiện toàn bổn phận Chúa trao. Nói cách văn hoa, ở đời này, tất
cả chúng ta đều là những diễn viên trên sân khấu trần gian, khi màn bi hài kịch
cuộc đời hạ xuống, Thiên Chúa không hỏi chúng ta đã giữ vai trò gì mà chỉ hỏi
chúng ta đã diễn xuất thế nào về vai trò được trao cho. Thứ hai, khi chấm dứt
cuộc sống ở trần gian, có hai câu hỏi được đặt ra: người đời sẽ hỏi:
"Người ấy để lại những gì?", Còn thiên thần thì hỏi: "Người ấy
đem đi được những gì?". Điều đó có nghĩa là trong cuộc hành trình trên
trần gian, chúng ta có thể đem theo mình nhiều thứ, nhưng khi đến trước tòa
Thiên Chúa, chỉ còn những việc thiện đi theo chúng ta mà thôi.
Tất cả những điều tìm hiểu trên nhắc nhở chúng ta: hãy ý thức hơn về ơn cứu
chuộc, hãy thấm nhập ơn cứu chuộc vào chính tâm hồn mình, và hãy sống ơn cứu
chuộc trong đời sống hằng ngày. Ước mong chúng ta hãy dành nhiều thời giờ trong
Tuần Thánh này để suy nghĩ về ơn cứu chuộc của Chúa và sự cộng tác của mỗi
người chúng ta để hoàn thành cuộc đời mình. Cụ thể, trong những ngày cuối cùng
của Mùa Chay này, ngoài việc cầu nguyện, suy ngắm sự thương khó Chúa, ăn chay
để tỏ lòng thống hối, chúng ta còn phải xưng thú tội lỗi để tháo những chiếc
đinh nhọn ra khỏi tay chân Chúa.
Đinh nhọn đây có thể là những thù hận và vu cáo bất công như những người
đầu mục Do Thái đã làm. Đinh nhọn cũng có thể là sự khiếp nhược chối bỏ Thầy
hay phản bội nộp Thầy như các môn đệ Chúa đã làm. Đinh nhọn cũng có thể là
những sự độc ác vô lương tâm như tên trộm bên trái Chúa đã chê trách Chúa trên
cây thập giá. Đinh nhọn cũng còn là những sự dửng dưng, thậm chí hùa theo kẻ
mạnh để làm khổ người thân yếu cô thế như đám đông dân chúng đã la to:
"Đóng đinh nó vào thập giá..."
Ngày nay chung quanh chúng ta không thiếu những người đau khổ là hiện thân
của Chúa Giêsu trên thập giá. Họ chính là những người mắc bệnh nan y mà không
tiền chữa trị, hoặc là những người đang chịu đựng những lời khích bác và vu
khống bất công của những kẻ thù giấu mặt mà không ai động viên an ủi. Họ cũng
chính là những người đang gặp đau khổ như què quặt, đui mù, đi xin ăn mà không
biết ngày mai sẽ ra sao...
Chúng ta có thể làm gì? Hãy cảm thông với họ như các phụ nữ gặp gỡ Chúa
trên đường thập giá, hãy giúp đỡ họ như ông Si-mon vác đỡ thập giá Chúa, như bà
Vêrônica trao khăn cho Chúa lau mặt, hãy bênh vực công lý như người trộm lành
bên hữu Chúa, hãy giải thoát họ khỏi những đau khổ ấy như hai môn đệ xưa đã
tháo đinh và cất xác Chúa xuống khỏi thập giá...
Tóm lại, chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ, vậy
chúng ta hãy cảm nếm thật sâu xa nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa
Giêsu, nhưng đừng quên nhận ra những khổ đau của anh em chung quanh. Càng suy
niệm về cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ thấy mình càng yêu thánh giá của Chúa hơn,
yêu thánh giá của mình hơn và kính trọng thánh giá của người khác hơn.
29. Thánh giá.
Chúa nhật vừa qua, chúng ta đã suy nghĩ về việc chết đi cho chính mình để
sinh nhiều hoa trái cho Nước Thiên Chúa. Một cách diễn tả khác cho sự thật này
là hình ảnh vác thập giá của chính chúng ta. Các bài đọc Kinh Thánh hôm nay mời
gọi chúng ta suy niệm về thực tại thập giá và đau khổ trong cuộc sống của Chúa
Giêsu. Việc suy niệm này chắc chắn làm chúng ta nghĩ đến những đau khổ mà chúng
ta gặp phải trong cuộc sống. Chúng ta đã ẵm lấy thập giá đau khổ và hy sinh
trong cuộc sống của chúng ta như thế nào?
Khi chúng ta đương đầu với đau khổ trong cuộc sống và ẵm lấy thập giá mà
Chúa Giêsu trao cho, thì chúng ta làm điều mà Chúa Giêsu đã làm trước chúng ta
và Người đã chuẩn bị con đường dẫn đến chiến thắng cuối cùng trong cuộc đời của
chúng ta. Dầu vậy, đôi khi con đường trước mắt có vẻ tối tăm và bấp bênh, những
lúc đó chúng ta cần xác tín Chúa Giêsu luôn ở với chúng ta mọi ngày cho đến tận
thế. Người sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta và Người cũng không bao giờ để
chúng ta phải chịu đau khổ quá sức mình. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu
Philipphê đã nhắc cho chúng ta, cuối cùng, Chúa Giêsu sẽ chiến thắng và Người
sẽ lãnh nhận vinh quang trọn vẹn mà Chúa Cha muốn ban cho Người. Đây cũng là
lời hứa cho chúng ta, nếu chúng ta chọn lựa trung thành chịu đựng đau khổ cùng
với Người.
Kinh Thánh cũng như giáo huấn của Giáo Hội không bao giờ khẳng định đau khổ
tự nó là một điều tốt, tuy nhiên, cả hai lại khẳng định giá trị cứu độ của đau
khổ. Khi chúng ta kết hiệp đau khổ của mình với đau khổ của Chúa Giêsu thì
chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Những gian nan thử thách Đức Kitô
còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức". Khi chúng ta gặp
phải bất kỳ một loại đau khổ nào thì đoạn Kinh Thánh này đem lại cho chúng ta
một niềm hy vọng lớn lao. Thiên Chúa cho phép chúng ta kết hiệp đau khổ của
chúng ta với đau khổ của Ngài, và vì thế trở nên những người cộng tác với Ngài
trong việc đem lại ơn cứu độ cho mọi người. Đây là dấu chỉ đích thật cho phẩm
giá cao cả của con người. Khi suy niệm về mầu nhiệm đau khổ của Chúa Kitô,
chúng ta kín múc được một sức mạnh từ việc nhận thức chúng ta được kết hiệp với
Ngài trong một cách thức mầu nhiệm.
Lạy Chúa Giêsu, chỉ có Chúa mới có thể đem lại sức sống và sự thiện hảo đến
cho con trong những tình huống đau thương nhất. Xin giúp con luôn biết tín thác
vào Chúa, trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
30. Cuộc khổ nạn.
Trong suốt ba năm, Đức Giêsu đã đi từ ngôi làng này đến ngôi làng khác, làm
việc lành, giảng dạy, và chữa bệnh cho dân chúng. Khi đi đến bất cứ nơi đâu,
Đức Giêsu cũng đều được đám đông vây quanh lắng nghe và tìm kiếm nhiều điều nơi
Người. Đây là ba năm mà Người đã hoạt động một cách trọn vẹn và tích cực ngoài
sức tưởng tượng. Tuy nhiên, trong suốt thời gian đó, Đức Giêsu vẫn ở thế chủ
động. Người đã đi đây đi đó ít nhiều theo ý của Người.
Nhưng khi Người giao nộp mình vào tay kẻ thù trong Giệtsimani (Người bị một
trong những môn đệ của Người giao nộp), thì tất cả thế chủ động của Người chấm
dứt. Điều này tượng trưng cho một điểm xoay chuyển trong sứ vụ của Người. Kể từ
đây, Người bắt đầu phải chịu đựng đau khổ. Và đó là lúc bắt đầu cuộc khổ nạn
của Người. Từ thời điểm đó, Người không còn làm chủ những điều đang diễn tiến
nữa. Bấy giờ, các sự việc được thực hiện nhắm vào Người, hơn là do người.
Từ đó, Người bị ngăn chặn, giam giữ và giải đến cho Hêrôđê, Cai pha,
Philatô thẩm vấn, đánh đập, đội mão gai, bắt vác thánh giá, lột quần áo, đóng
đinh, bị chế nhạo... và cuối cùng, Người đã chịu chết. Đức Giêsu đã hoàn tất sứ
vụ của Người, không chỉ bằng những hành động của Người, mà đặc biệt hơn, còn
bằng những điều người ta làm cho Người nữa – bằng cuộc khổ nạn của Người. Chúng
ta phải hiểu rõ một điều: Chúa Cha không ném Người vào tay những kẻ độc ác. Đức
Giêsu đã chịu chết một cách tự nguyện. Người đã hiến mạng sống của Người.
Nhiều lúc, cuộc sống của chúng ta được xác định bằng những điều xảy đến với
chúng ta, hơn là những việc chúng ta thực hiện: theo một ý nghĩa rất thật, thì
đâu chính là cuộc khổ nạn của chúng ta. Nếu chúng ta có thể thực sự chấp nhận
được cuộc khổ nạn này, cũng như những hành động của chúng ta, thì điều đó sẽ
dẫn đến sự cứu độ cho chúng ta.
Điều quan trọng là nhận ra phạm vi mà chúng ta hoạt động. Khi còn bé, chúng
ta chỉ biết trông cậy vào "lòng thương xót" của những người lớn.
Trong hành trình cuộc đời, chúng ta còn có số phận, sự phản bội, những rủi ro,
đủ mọi loại bệnh tật, mất mát tình bạn, thất bại trong các tương quan, thất
vọng đối với người bạn đời hoặc con cái, cái chết của những người thân yêu,
công việc làm ăn vất vả v.v...
Tất nhiên, chúng ta cũng có những lúc vui vẻ và những giai đoạn được sống
an bình. Nhưng sự thật là vẫn có nhiều điều vượt ra ngoài tầm kiểm soát của
chúng ta. Đó là những yếu tố làm nên kiếp người. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có sự
chọn lựa trong cách thức đáp trả lại những gì mà cuộc sống gửi đến chúng ta.
Cách đáp trả này có thể làm nên con người chúng ta, hoặc bẻ gãy chúng ta.
Đức Giêsu vẫn tồn tại với tư cách là chính bản thân Người, đầy sức mạnh,
trong sạch, và tốt đẹp. Chúng ta sẽ trở thành con người nào, nếu cảnh mất mát,
khủng hoảng, hoặc những sự tước đoạt thì giờ đã lấy đi của chúng ta vẻ bên
ngoài thành công, tầm quan trọng cá nhân, thậm chí ngay cả nhân cách nữa?
Câu chuyện Cuộc Khổ Nạn chứng tỏ cách thế Đức Giêsu đáp trả lại những điều
xảy đến với Người. Người đã chấp nhận tất cả cảnh bạo lực, biến đổi chúng, và
chuyển chúng thành tình yêu và ơn tha thứ. Đây là sự chiến thắng của tình yêu
vượt lên trên tất cả những sức mạnh tàn phá. Không có gì ngoài tình yêu nơi Đức
Giêsu. Ngay cả khi người ta đóng đinh vào tay chân Người. Người vẫn yêu thương.
Điều này giúp chúng ta suy nghĩ đến những lúc chúng ta trải qua cảnh khó khăn.
31. Tội lỗi của ta.
Đó là vào đầu tháng 11, lá cây phủ đầy các con đường, rải rác trên mặt đất.
Người ta kêu gọi mỗi gia đình thu gom những lá cây của nhà mình vào những giỏ
nhựa, và chuyển đến cho những người hốt rác. Bây giờ, khi sử dụng những lá cây
như một biểu tượng của tội lỗi, chúng ta hãy nhận xét xem sự việc diễn tiến ra
sao.
Một số người không hề cảm thấy phiền toái gì cả, khi nhìn thấy những lá cây
rơi xuống, phủ đầy trên bãi cỏ, bồn hoa và lối đi. Họ nhìn thấy chúng ta bắt
đầu mục nát và làm cho không khí bốc mùi hôi thối. Nhưng mỗi ngày, họ đều bước
lên trên những lá cây thối rữa đó, dường như thể chúng chưa bao giờ hiện diện.
Đây là những người mà đối với họ, tội lỗi không là gì cả. Hêrôđê là một trong
những người này.
Một người quét ra ngoài đường những lá cây trên bãi cỏ và lối đi cả nhà họ.
Tại đó, chúng trở thành một đống xấu xí khó coi, và tạo ra một mối nguy hại đối
với các tài xế. Nhưng người đó không hề bận tâm, họ cứ để mặc cho người khác
đến dọn sạch đống rác đó đi. Người này nhắc nhở chúng ta về những kẻ làm phiền
người khác vì tội lỗi của họ. Philatô, bọn quân lính và đám đông thuộc loại
người này.
Hầu hết người ta thường quan tâm đến việc dọn dẹp những lá cây của nhà họ,
nhưng họ không màng đến việc nhặt một chiếc lá trên bãi cỏ nhà hàng xóm. Đây là
phần đất và trách nhiệm của người đó. Loại người này đại diện cho những người
biết nhận trách nhiệm đối với tội lỗi của mình. Phêrô là một ví dụ.
Cuối cùng, có một người đang chú ý. Người này không chỉ thu gom những lá
cây trên bãi cỏ nhà mình, mà còn thu gom cả những lá cây ngoài đường nữa. Và
người đó làm công việc này một cách âm thầm, không hề phàn nàn gì cả. Người đó
nhắc nhở chúng ta đôi chút về Đức Kitô, Đấng đã chịu chết vì tất cả chúng ta.
Nhưng Đức Kitô là một người duy nhất không hề phạm tội.
Tuần Thánh không phải là một tuần lễ để chúng ta ẩn núp phía sau người
khác. Chúng ta phải nhận trách nhiệm đối với tội lỗi của mình. Nếu biết nhìn
nhận tội lỗi của mình, chúng ta không có gì phải sợ hãi, bởi vì Đức Kitô đã đến
gánh tất cả tội lỗi của chúng ta. Sau đó. ít nhất chúng ta có thể cố gắng cảm
thấy một số trách nhiệm đối với tội lỗi của đồng loại và của cả thế giới nói
chung.
Không ai là một hòn đảo. Mỗi người chúng ta đều là một phần tử ở trên mảnh
đất của nhân loại.
32. Vụ án.
Chúa Giêsu đã bị kết án tử hình hơn hai ngàn năm rồi. Thế mà hồ sơ vụ án kể
như chưa kết thúc. Một số người trong chúng ta vẫn chưa hiểu thấu hết nội dung
cũng như bối cảnh lịch sử của "vụ án" này. Bài tường thuật cuộc
thương khó của Chúa đã kể lại đầy đủ mọi chi tiết. Vì thế mỗi khi đọc lại bài
thương khó này là chúng ta lật lại hồ sơ của vụ án Chúa Giêsu. Đề nghị mỗi
người ngày hôm nay cũng như những ngày trong Tuần Thánh hãy tìm hiểu để hiểu rõ
hơn và xác tín hơn nữa ý nghĩa và giá trị cuộc thương khó và cái chết của Chúa
Giêsu.
Trước hết, chúng ta biết: Chúa Giêsu bị bắt vào đêm thứ năm. Ngài lần lượt
bị đưa ra xét xử trước tòa án Do thái, tòa án Philatô, tòa án Hêrôđê, rồi trở
lại tòa án Philatô. Chúng ta hãy theo Chúa đến các tòa án này để xem người ta
xét xử Chúa ra sao.
Trước khi chính thức bị đưa ra tòa án để xét xử, Chúa Giêsu đã bị áp giải
đến dinh cựu thượng tế Anna, là người rất có uy tín thời đó, nhưng lại có ác
cảm với Chúa Giêsu. Theo một số sử gia, chính Anna là người có trách nhiệm lớn
nhất trong vụ án này. Ông muốn điều tra Chúa Giêsu, nhưng ông không khai thác
được gì, vì Chúa Giêsu chỉ một mực giữ thái độ im lặng. Bực tức, ông truyền áp
giải Chúa sang Caipha, là con rể ông, đang làm thượng tế năm ấy. Caipha nổi
tiếng là một nhà chính trị có tài. Tức khắc ông cho triệu tập 72 thành viên của
Thượng hội đồng và cũng là tòa án tối cao của người Do thái. Trước tòa, có
nhiều người đứng lên tố cáo Chúa. Những lời tố cáo của họ đều xoay quanh những
vấn đề liên quan tới đạo Do thái. Họ cho rằng Chúa đã lộng ngôn phạm thượng khi
công khai tuyên bố phá đền thờ Giêrusalem; đã vi phạm nhiều lần luật ngày
Sabát; đã không giữ những tục lệ truyền thống tổ tiên để lại... Trước những lời
tố cáo đó, Chúa Giêsu chỉ im lặng, không hề biện hộ một lời nào. Cuối cùng, Caipha
đưa ra một câu hỏi có tính quyết định. Nhân danh Thiên Chúa, ông hỏi Chúa Giêsu
có phải là "Đấng Kitô, Con Thiên Chúa" không? Tôn trọng tư cách
thượng tế của quan tòa, Chúa trả lời: "Đúng như lời ngài nói", tức là
Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Con Thiên Chúa. Nghe vậy, lập tức Caipha xé áo bên
ngoài từ cổ tới bụng, chừng ba mươi phân, theo tục lệ Do thái, để phản ứng lại
lời nhận tội mà ông cho là lộng ngôn phạm thượng. Ông nói: "Hắn nói phạm
thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quí vị vừa nghe hắn nói phạm đến
Thiên Chúa". Theo luật Do thái: "Hễ ai nói phạm thượng thì người đó
đáng chết". Số phận của Chúa Giêsu đến đây coi như đã được quyết định:
Ngài bị kết án tử hình.
Nhưng kể từ khi bị người Rôma đô hộ, người Do thái không có quyền kết án tử
hình bất cứ ai, nếu không có sự đồng ý của chính quyền Rôma. Nên sáng sớm ngày
hôm sau, họ áp giải Chúa tới tổng trấn Philatô, là một viên chức cao cấp nhất,
đại diện cho chính quyền Rôma tại nước Do thái để xin chuẩn nhận bản án tử
hình.
Trước tòa Philatô, người Do thái đã phơi bày hết ác tâm của họ. Để Philatô
chuẩn nhận bản án tử hình, họ đã đổi những lời tố cáo từ lãnh vực tôn giáo sang
lãnh vực chính trị, nghĩa là họ dứt khoát muốn Philatô giết Chúa như một kẻ tội
phạm chính trị chống lại đế quốc Rôma. Chúng ta thấy rõ ràng: khi hỏi Chúa
Giêsu thì họ giải thích danh hiệu Mêsia bằng danh hiệu Con Thiên Chúa; còn khi
tố cáo trước tòa Philatô, thì họ lại giải thích bằng danh hiệu vua, để lôi kéo
Philatô vào trò chơi gian ác của họ. Nhưng Philatô trả lời họ rằng: ông không
thấy người này có gì đáng kết tội. Họ càng tố cáo mạnh hơn, nhai lại một luận
điệu chụp mũ, vu khống và quyết liệt đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.
Thấy tình hình có vẻ căng thẳng, Philatô muốn gỡ mình ra khỏi trò chơi nguy
hiểm này. Ông thảy trái banh cho Hêrôđê, tức là ông yêu cầu đưa Chúa Giêsu qua
cho Hêrôđê xét xử để tránh mọi phiền phức. Hêrôđê từ lâu đã mong gặp Chúa
Giêsu, nhưng ông chỉ mong gặp để thỏa mãn sự tò mò và tính ham vui mà thôi.
Thấy Chúa Giêsu ông mừng lắm. Nhưng rồi ông thất vọng vì Chúa Giêsu không đáp
ứng điều gì ông trông đợi. Để trả thù, ông nhập bọn với lính hầu của ông mà chế
diễu Chúa, rồi ông truyền trao trả Chúa Giêsu lại cho Philatô. Philatô lại phải
nát óc tìm cách thoát thân: làm sao một đàng vừa để trấn an, làm hài lòng những
người tố cáo quá khích; đàng khác lại vừa không kết án bất công người vô tội.
Nên ông tuyên bố rằng: ông chẳng thấy có điều gì để kết án người này. Vậy ông
cho đánh đòn Chúa một trận rồi tha về. Đánh đòn rồi dân Do thái vẫn khăng khăng
gào thét dữ dội hơn, đòi kết án tử hình Chúa. Thế là Philatô sợ hãi, hèn nhát
rửa tay thanh minh mình vô tội trong việc đổ máu Chúa và ông buông xuôi trao
Chúa cho họ hành động theo ý họ. Họ bắt Chúa vác thập giá, rồi đóng đinh vào
thập giá. Và Chúa đã chết trên thập giá.
Đọc lại hồ sơ vụ án, chúng ta thấy Philatô và Hêrôđê là những nhà cầm quyền
chính trị, không tìm thấy điều gì để kết án Chúa. Chỉ có giới lãnh đạo Do thái
muốn giết Chúa mà không cần tội trạng nào cả. Vì thế, trách nhiệm chính trong
vụ giết người này là giới lãnh đạo Do thái, đúng như Chúa đã báo trước.
Nói theo tôn giáo, đối với chúng ta hôm nay, rõ ràng vụ án Chúa Giêsu không
phải là một vụ án chính trị mà là một vụ án tôn giáo: Chúa Giêsu chết không
phải vì xưng mình là vua nhưng vì đã xưng mình là Con Thiên Chúa. Và đó chính
là ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa Giêsu. Ngài là Con Thiên Chúa, nên cái
chết của Ngài có ý nghĩa vô cùng, cái chết của Ngài có giá trị cứu chuộc mọi
người. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã nói: "Máu của Chúa đổ ra để muôn
người được cứu độ". Lẽ ra loài người phải chết vì đã phạm tội, nhưng Thiên
Chúa đã dủ lòng thương, sai Con Ngài đến để chết thay cho chúng ta.
33. Vào thành.
Trong một trung tâm cải tạo tại Hoa kỳ, người ta có thể đọc bài thơ vô danh
như sau:
Tôi đã kêu xin Thiên Chúa cho tôi sức mạnh để đạt thành công, Ngài đã khiến
tôi trở thành yếu đuối để tôi học vâng lời trong khiêm tốn. Tôi đã xin cho được
sức vóc để làm những việc trọng đại, Ngài đã cho tôi tật nguyền để tôi làm
những điều tốt lành hơn. Tôi đã xin Chúa cho tôi của cải giàu sang để được sung
sướng, Ngài đã cho tôi cái nghèo khó để tôi biết sống khôn ngoan. Tôi đã xin
được chức quyền để mọi người kiêng nể kính trọng và Ngài đã cho tôi sự yếu đuối
để tôi cảm thấy tôi cần đến Thiên Chúa.
Tôi đã xin có bạn đường để khỏi phải sống lẻ loi, Ngài đã cho tôi một con
tim để yêu thương hết mọi người. Tôi đã kêu xin những điều khiến cho cuộc đời
tôi vui sướng, Ngài đã cho tôi cuộc sống. Để tìm vui trong mọi sự, tôi đã không
nhận được gì trong số những điều tôi kêu xin cùng Thiên Chúa, nhưng tôi đã nhận
được những gì tôi hy vọng. Các lời nguyện không thành, lời của tôi đã được
khứng nhận và tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian.
Lời cầu nguyện của người vô danh trên đây cho chúng ta thấy một cái nhìn khác
về cuộc đời và các giá trị đích thực vượt xa nhãn quang chúng ta hiểu. Sứ điệp
Mẹ Giáo hội muốn nhắn gởi chúng ta qua Phụng vụ Chúa nhật lễ lá đó là biết nhận
ra các chiến thắng của Chúa Giêsu và của tình yêu trong những thất bại ê chề bề
ngoài của một người tử tội. Ngôn sứ Isaia và bài ca thứ ba trong bốn bài ca
trình bày gương mặt của người tôi tớ khổ đau, nó diễn tả kinh nghiệm bị bắt bớ
mà ngôn sứ phải gánh chịu là người loan báo Lời Chúa cho những kẻ thất vọng.
Ngôn sứ nêu gương sống tin yêu và hy vọng khi nhẫn nhục chịu đựng cảnh đối xử.
Qua đó, bài ca nêu bật các đặc thái sau đây của người tôi tớ Giavê:
Thứ nhất người tôi tớ được đưa vào trong khung trời mầu nhiệm của Thiên
Chúa và sẵn sàng chấp nhận thực hiện ơn cứu độ Thiên Chúa muốn ban cho dân
Ngài.
Thứ hai để thực hiện chương trình ấy theo ý muốn và nhãn quan của Thiên
Chúa, người tôi tớ sống đón nhận thánh ý của Ngài mà không phản đối cũng không
chần chừ tìm cách thoái thác và viện dẫn lý do.
Thứ ba tuy là người vô cùng khôn ngoan, người có Lời Chúa trong mình, người
tôi tớ chứng nhận mọi xỉ nhục, mọi khinh bỉ. Bị xỉ nhổ, bị đánh đòn như người
điên dại và không còn phẩm giá gì nữa và nhất là không chấp nhận dàn xếp lèo
lái để tránh né cái khó khăn và khổ đau xuất phát từ sứ mệnh đã lãnh nhận từ
Thiên Chúa Cha.
Thái độ sống đó của người tôi tớ khổ đau diễn tả cách hành xử siêu việt
khác hẳn cách hành xử kiêu căng hiếu chiến của loài người. Cách hành xử đấy đưa
nhân loại vào vòng bạo lực không có lối thoát.
Rồi trong bài đọc II Chúa nhật Lễ lá trong thơ gởi giáo đoàn Philipphê
thánh Phaolô đã mời gọi tín hữu hãy noi gương cách hành xử của Chúa Giêsu Kitô
và sống theo tinh thần của Ngài, tinh thần của người tôi tớ đau khổ. Thánh
Phaolô đã lấy lại bài ca diễn tả lại lòng tin của cộng đoàn tiên khởi vào Chúa
Kitô. Bài ca nêu bật bản tính Thiên Chúa và cuộc sống đời đời của Chúa Kitô
trong liên hệ với Thiên Chúa Cha và nhấn mạnh đến ý nghĩa cuộc đời dương thế và
bản tính nhân loại của Ngài. Đó là một bài khảo luận Kitô học súc tích. Từ ngữ
nòng cốt trình bày mấu điểm thần học căn bản trên đây là sự từ bỏ trọn vẹn, đổ
hết ra làm cho trống rỗng đi.
Tuy phận mình là Thiên Chúa, khi nhập thể làm người để hiện thực chương
trình cứu độ của Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã lột bỏ mọi vinh quang siêu việt
thần thiêng của Ngài. Chúa đã đổ hết bản tính Thiên Chúa của Ngài, đã trở thành
trống rỗng hoàn toàn để chia sẻ thân phận yếu hèn thấp kém và tội lỗi vong thân
của con người.
Chúa Giêsu đã ra khỏi chính mình để hoàn toàn sống vâng phục thánh ý Thiên
Chúa Cha là Đấng đã dùng chính cái chết và thập giá của con Ngài để trao ban ơn
cứu rỗi cho nhân loại. Chính thái độ khiêm hạ vô cùng và tự hủy bỏ mình đó đã
khiến Thiên Chúa Cha tôn vinh Chúa Kitô và trao ban trở lại cho Ngài mọi phẩm
giá cao trọng và một quyền bính trên trời dưới đất. Phẩm giá cao trọng và quyền
năng ấy trong cách hành xử của Thiên Chúa không phải là kết quả sức mạnh của
con người, mà là hoa trái của khổ đau và nhục nhã khiêm cung.
Chúa Giêsu Kitô được đặt làm Chúa và là Đấng Cứu thế. Người đã từ bỏ điều
kiện Thiên Chúa của mình để sống như người phàm, như người tôi tớ đau khổ. Từ
nay trở đi loài người chỉ có thể gặp gỡ Thiên Chúa qua chính cuộc đời của Chúa
Giêsu và thập giá. Thập giá giúp chúng ta tẩy rửa lòng tin của mình khỏi mọi
thần tượng do chính chúng ta đã tạo ra trong cuộc đời mình. Thiên Chúa của thập
giá là một người Thiên Chúa tự lột bỏ, tự đổ dốc hết phẩm giá cao vời của mình
đi để chia sẻ thân phận tội lỗi khốn cùng của con người.
Thiên Chúa của thập giá không phải là một vị Thiên Chúa luôn kéo chúng ta
ra khỏi lòng cuộc sống trần gian và thế giới này, nhưng Ngài là Đấng bước vào
trong lịch sử con người để yêu thương, hoán cải và trao ban cho lịch sử loài
người một ý nghĩa. Khi trở thành người anh em của chúng ta, Ngài cống hiến cho
chúng ta sự hiệp thông thần linh của Ngài và kêu mời chúng ta trở thành anh chị
em với nhau.
Trong tuần lễ đặc biệt sắp tới này, chúng ta hãy xin Chúa giúp cho chúng ta
được theo Chúa cho đến cùng trên con đường thập giá Chúa đã đi qua.
34. Bóng tối và niềm tin – Peter Feldmeier
(Lm. Gioan B. Văn Hào
chuyển ngữ)
"Ôi Thiên Chúa,
Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con" (Mc 15,34).
Bước vào tuần thánh,
chúng ta dấn bước theo Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem. Cùng với Ngài, Chúng ta
đi từ vinh quang sáng chói, khi được toàn dân đón chào và tung hô, đến cái chết
bi thương và nhục nhã trên núi sọ. Thoạt đầu, dân chúng tôn vinh Chúa như một
lãnh tụ oai hùng, nhưng bỗng chốc họ đã trở mặt. Tất cả đồng thanh đả đảo và
kết án Ngài như một tên tội phạm đốn mạt nhất.
Đỉnh điểm của mùa chay
là cuộc hành trình tiến vào Giêrusalem, một thành phố đầy những mâu thuẫn trái
ngược. Giêrusalem là nơi có đền thờ thánh thiêng để tôn kính Giavê, đồng thời
cũng là nơi sùng bái những ngẫu tượng. Đây là kinh thành biểu thị niềm tin tôn
giáo, nhưng cũng là nơi đầy gương mù khủng khiếp. Giêrusalem là nơi chốn của
ánh sáng, nhưng cũng là một thế giới ngập tràn bóng tối. Dân Do thái từ chỗ đặt
niềm tin trọn vẹn vào Đức Giêsu, nhưng sau đó nơi họ là cả một sự phẫn nộ đượm
tính căm thù. Giuđa bán đứng vị tôn sư đáng mến. Trò phản thầy. Các đầu mục tôn
giáo thì quá gian ác đã dàn dựng một phiên tòa rùng rợn. Các môn sinh thân
thiết nhất đã vội quên thầy của mình. Họ đã ngủ vùi trong mệt mỏi chán chường
và cuối cùng đã tháo chạy. Phêrô thẳng thừng chối bỏ người Thầy đáng kính. Còn
Philatô, giống như một kẻ đồng lõa, đã kết án Đức Giêsu, cho dù ông biết Ngài
hoàn toàn vô tội. Lính gác và đám đông thì tha hồ mỉa mai chửi bới, và không
tiếc lời lăng mạ. Điều trớ trêu nhất, là dân chúng lại xin tha Baraba và đòi
giết Đức Giêsu. Baraba, theo từ ngữ Aram , có nghĩa là " con của
Cha". Họ đã chọn một người "con" với một quá khứ đan kín tội ác,
và đòi kết án người "Con" duy nhất của Chúa Cha, Đấng hoàn toàn vô
tội đã gánh trên vai mọi tội lỗi khủng khiếp của cả trần gian. Giêrusalem quả
là nơi nhức nhối đầy những đối nghịch và mâu thuẫn.
Sự kiên định trong niềm
tin nơi Đức Giêsu giữa bóng tối của thập giá là một chứng tá và là khuôn mẫu
tuyệt hảo để chúng ta dõi theo. Trong thơ gửi giáo đoàn Philip mà giáo hội đọc
lên trong phụng vụ lễ lá hôm nay, Thánh Phaolô nêu bật cho chúng ta khuôn mẫu
này. Thánh nhân chiêm ngắm sự tự hạ và biến mình ra không nơi Chúa Giêsu, để
dẫn đến vinh quang. Các nhà chú giải cho rằng Phaolô đã trích dẫn một bài thánh
thi rất quen thuộc thời đó. Phần dẫn nhập do chính thánh nhân biên soạn. Ngài
đã viết những câu giới thiệu như sau " Nếu Đức Kitô đem lại cho chúng ta
một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông
trong thần khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau... anh em
hãy có những tâm tình như chính Đức Giêsu Kitô (Phil 2,1-5). Sau đó, vị tông đồ
đã viết trọn bài Thánh thi với lời mở " Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên
Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ". Bài Thánh Thi
đã mô tả Thập Gía như là cách diễn bày sự khiêm nhường và vâng phục sâu thẳm
của Chúa Giêsu. Và kết quả của hành vi tự biến mình ra không, là "Thiên
Chúa đã tôn vinh Người... mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Đức Giêsu Kitô
là Chúa".
Thông thường, người ta
vẫn hiểu rằng Thánh Phaolô đề cao chức phận làm con của Đức Giêsu, được hiện lộ
nơi dáng vẻ bi thương của Thập Gía. Đức Giêsu đã tự nguyện hạ mình, giấu bỏ
thần tính cao sang để mặc lấy kiếp người hèn hạ, cho đến chết và chết trên Thập
Gía. Tuy nhiên, ở đây chúng ta thấy có một hình ảnh song đối, nhưng khác nhau
hoàn toàn giữa Đức Giêsu và Ađam. Ađam được tạo thành, giống hình ảnh Thiên
Chúa (Sáng thế 1,26-28), nhưng lại muốn trở nên ngang bằng Thiên Chúa, vì kiêu
ngạo và bất tuân (3,5t). Hệ quả là sự sa ngã trong tội dẫn đến cái chết. Ngược
lại, Đức Giêsu- Ađam mới, đã sống khiêm tốn và vâng phục, trút bỏ vinh quang
của một vị Thiên Chúa. Kết quả là Ngài được siêu thăng và đã mở ra cho nhân
loại một chân trời mới của ơn cứu độ. Bản văn soi sáng để chúng ta thấu đạt cả
hai cách diễn nghĩa, liên kết với nhau. Chúa Giêsu như là Ađam mới, và cũng là
một người con thực sự của Chúa Cha. Ngài đã tự hư vô hoá chính mình, mang lấy tình
trạng tội lỗi của Ađam xưa, đó là tình trạng sống kiếp nô lệ và tiến nhận cái
chết, để cứu chúng ta, giải thoát chúng ta khỏi kiếp nô lệ và thân phận phải
chết.
Khi chúng ta gẫm suy
việc Đức Giêsu đi vào mầu nhiệm tự hủy, chứng tá cho niềm tin mạnh mẽ vào Thiên
Chúa và đã trải qua những giờ phút hãi hùng trên thập giá, có lẽ chúng ta vẫn
nghĩ tưởng rằng Ngài đã biết trước tất cả những gì sẽ xảy ra. Nếu quả thật Đức
Giêsu đã biết, và Ngài không thể có một chọn lựa nào khác, rồi sau đó Ngài biết
chắc chắn Chúa Cha sẽ cho Ngài phục sinh vinh quang, thì những giây phút hấp
hối kinh hoàng của Ngài trong vườn cây dầu chẳng còn ý nghĩa gì. Tại sao Chúa
lại phải khiếp sợ, phải căng thẳng, mồ hôi và máu tuôn đổ đến mức thảm thiết
như thế? Tại sao Chúa phải lớn tiếng rơi lệ khẩn xin với Đấng có thể cứu mình
khỏi chết (Dt 5,7) "Lạy Cha nếu có thể, xin hãy cất chén đắng này xa
con"? Và nếu như Ngài biết trước, và phải miễn cưỡng chấp nhận, thì tại
sao trên Thánh giá Ngài phải gào thét lên một cách não nuột "Cha ơi, sao
cha bỏ rơi con"? Thánh Phaolô đã viết: Vì Đức Kitô đã hư vô hóa mình, đã
tự nguyện đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy, nên Ngài đã hoàn toàn tín thác vào Chúa
Cha, tín thác tận căn, đặc biệt giữa bóng tối dầy đặc của mầu nhiệm thập giá và
cái chết. Nếu Đức Giêsu biết trước Ngài sẽ sớm được phục sinh trong vinh quang,
thì ngày thứ Sáu tuần thánh không còn là một ngày đen tối đầy u ám nữa. Nhưng,
khi mang thân phận con người giống hệt chúng ta, cho dù có thể Ngài biết, Ngài
vẫn phải trải qua những phút giây khủng khiếp nhất, kinh hoàng nhất và đã hoàn
toàn tín thác vào Cha Ngài.
Chúng ta phải nhìn vào
bóng tối phủ kín nơi Đức Giêsu, với tất cả vẻ bi thương trong kiếp người, mang
trên vai mọi tội lỗi loài người chúng ta, để có thể nhận ra nơi Ngài một niềm
tin sâu thẳm và một sự vâng phục tuyệt đối giữa những tăm tối nhất khi bị treo
thân trên Thập giá. Đây là nguyên mẫu đức tin cho chúng ta, khi chúng ta đối
diện trước những bầm dập và tan nát trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta đã kinh
qua những phút giây bi thương như thế không, khi chúng ta bị mất mát, chìm lặng
trong bóng tối của kinh khiếp? Khi gặp những thất bại cay đắng, bị bạn bè xa
tránh, bị rơi vào những chán chường và tuyệt vọng... chúng ta có cảm thấy như
đang bị Thiên Chúa bỏ rơi hay không? Đức Giêsu đã trải nghiệm như thế, ở
Giêrusalem và trên thập giá. Sự bi thương của Ngài còn gấp cả ngàn lần, triệu
lần so với những khổ đau mà chúng ta gặp phải. Trong tuần này, Giáo hội muốn
chúng ta cùng với Ngài đi vào lộ trình lên Giêrusalem, và thông dự vào những giờ
khắc đen tối nhất trong cuộc đời tại thế của Ngài.
CHÚA NHẬT LỄ LÁ – NĂM B
Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
NGƯỜI
TÔI TRUNG
“Cha ơi, Cha làm được mọi sự,
xin cất chén này xa con.
Nhưng xin đừng làm điều con muốn,
mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36)
xin cất chén này xa con.
Nhưng xin đừng làm điều con muốn,
mà làm điều Cha muốn” (Mc 14,36)
1- Bài đọc 1
Đoạn sách ngôn sứ Isaia trong bài đọc 1 trích từ bài ca thứ ba về người
Tôi Trung. Bài ca phác họa những phẩm chất cao quý của người Tôi Trung của
Thiên Chúa.
Trước hết, người Tôi Trung là người nhạy cảm nghe tiếng “đánh thức” mỗi
ngày của Thiên Chúa, để nghe lời giáo huấn của Ngài. Lời Chúa vẫn vang vọng mỗi
ngày, thầm thì đánh thức, mời gọi lắng nghe và đón nhận; và chỉ người Tôi Trung
trong tinh thần sẵn sàng, chờ đợi và nhạy bén để nhận ra và lắng nghe tiếng
Chúa. Tuy nhiên, không phải lúc nào tiếng Chúa cũng êm ái, dịu dàng, mà có lúc
sẽ đòi hỏi quyết liệt, triệt để, thách đố, nên người Tôi Trung là người “không
cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50,5). Người Tôi Trung thật sự là người
luôn sẵn sàng và vui lòng lắng nghe lời Chúa trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Hơn nữa, người Tôi Trung là người, sau khi lắng nghe và đón nhận, biết
cất tiếng nói lời Thiên Chúa, lời an ủi, nhằm “nâng đỡ những ai rã rời kiệt
sức” (Is 50,4). Lời Chúa là lời ủi an, nhưng người Tôi Trung là người biết “lựa
lời” để chuyển tải sứ điệp của lời Chúa cách xứng hợp, hầu mang lại niềm an ủi,
động viên và nâng đỡ cho những người đang mệt mỏi, chán nản, thất vọng. Bản
chất lời Chúa có sức mạnh đỡ nâng và an ủi, nhưng người Tôi Trung thật sự, bằng
tấm lòng và sự trung tín của mình, chuyển tải cách trung thành và trọn vẹn sứ
điệp ủi an của lời Chúa.
Sau cùng, dù mang sứ mạng cao cả là đón nhận và truyền rao lời Chúa,
người Tôi Trung không thể tránh khỏi những trở ngại, thách đố, khó khăn, có khi
nguy hiểm đến tính mạng. Vì thế, người Tôi Trung thật sự của Thiên Chúa là
người sẵn sàng chấp nhận “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta
giật râu,… và không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50,6). Tuy nhiên,
người Tôi Trung không đơn độc, không sợ hãi hay nao núng vì “có Thiên Chúa là
Đấng phù trợ”. Nhờ sức mạnh của Thiên Chúa luôn ở cùng mà người Tôi Trung không
sợ “hổ thẹn”, nhưng luôn hiên ngang, kiên vững (Is 50,7).
Người Tôi Trung trong đoạn Is 50,4-7 là người sẵn sàng và nhạy cảm nghe
lời Thiên Chúa đánh thức mỗi ngày, để sẵn sàng truyền rao lời Chúa, lời đem lại
niềm an ủi cho những người mệt mỏi rã rời. Dù gặp muôn vàn thách đố trong sứ
mạng phục vụ lời Chúa, người Tôi Trung không hề lo sợ vì xác tín rằng Thiên
Chúa luôn ở bên để phù trợ.
2- Bài đọc 2
Bài đọc 2 là một bài ca tuyệt đẹp về người Tôi Trung Giêsu, người sẵn
sàng tự hạ đến tận cùng để hoàn thành cách mỹ mãn kế hoạch của Thiên Chúa, nên
được Thiên Chúa tôn vinh.
Nửa đầu của bài ca (Pl 2,6-8) làm nổi bật hành động của Đức Giêsu Kitô.
Mầu nhiệm tự hạ cho thấy sự tự nguyện của người Tôi Trung Giêsu, Đấng chấp nhận
hạ mình đến tận cùng để thánh ý Chúa nên trọn. Từ vị thế của Thiên Chúa, Người
khước từ vinh quang thần linh và chấp nhận làm một con người, sống như bao
nhiêu người trên trần thế. Hơn nữa, không chỉ làm người, Người hạ mình để chấp
nhận thân phận của kẻ nô lệ, của người “đến để phục vụ, chứ không phải để được
phục vụ”. Và sự phục vụ của người Tôi Trung Giêsu đi đến tận cùng của sự tự hạ
khi “vâng lời” cho đến nỗi “sẵn lòng chịu chết” (Pl 2,8), mà “hiến dâng mạng
sống làm giá chuộc muôn người” (x. Mt 20,28; Mc 10,45).
Nửa sau của bài ca (Pl 2,9-11) tập trung vào hành động của Thiên Chúa. Vì
người Tôi Trung Giêsu tự hạ đến tận cùng, hiến trọn thân mình để thánh ý Chúa
nên trọn (đi xuống), nên Thiên Chúa tôn vinh Người (đi lên) và ban cho danh
hiệu trổi vượt hơn cả, danh hiệu “Giêsu”, Đấng Cứu Thế. Quả thế, sự tôn vinh
Thiên Chúa dành cho người Tôi Trung chính là sự thừa nhận và đề cao vai trò
“cứu thế” của Người, điều Người đã thực hiện khi tự hạ, hiến dâng mạng sống
“làm giá chuộc muôn người”. Danh hiệu “Giêsu” thật cao cả vì thể hiện trọn vẹn
sứ mạng của người Tôi Trung; Người chính là lý do mà mọi tạo vật, dù trên trời,
dưới đất hay trong âm phủ đều cung kính bái thờ. Và thái độ tôn thờ đích thực
là nhìn nhận công trình cứu độ và căn tính thần linh của Người, rằng Đức Giêsu
Kitô chính là Chúa.
Người Tôi Trung Giêsu thực hiện trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa khi khiêm hạ
hủy mình ra không, để rồi được Thiên Chúa tôn vinh, là mẫu mực cho đời sống
Kitô hữu.
3- Bài Tin Mừng
Hình ảnh người Tôi Trung chấp nhận “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ
má cho người ta giật râu,… và không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” trong
Isaia (Is 50,6) được Tin Mừng Máccô đẩy xa hơn, khắc họa rõ nét hơn nơi người
Tôi Trung Giêsu trong những giờ phút cuối cùng của Người trên trần gian để hoàn
tất kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa.
Để trung thành thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa, người Tôi Trung hoàn
toàn đơn độc trong những giờ phút cuối cùng. Trong số những kẻ thân tín nhất,
không ai hiểu được Người, không ai chia sẻ với Người nỗi cô đơn tột cùng khi
phải đối diện với án tử. Những kẻ tưởng gần gũi, thấu hiểu và chia sẻ với Người
lại bỏ Người mà chạy trốn hết (Mc 14,50). Mọi người đều lo cho sự an toàn của mình,
để lại một mình Đức Giêsu. Đức Giêsu không thốt ra một lời than vãn, biện hộ,
hay trách móc ai… mặc cho bị đối xử cách tàn tệ, bị nhạo báng, chê cười, bị kết
tội cùng với hai tên trộm, bị liệt vào hạng phạm pháp (Mc 15,29-32). Trong sự
cô đơn khủng khiếp, người Tôi Trung cảm thấy như thể Người đang bị chính Thiên
Chúa bỏ rơi (Mc 15,34). Dù cảm thấy vô cùng đơn độc, cảm giác như bị Chúa Cha
bỏ rơi, phải trải qua những giây phút lo lắng, xao xuyến, hãi hùng, người Tôi
Trung Giêsu vẫn chỉ muốn làm theo ý Cha (Mc 14,36). Đó đích thật là người Tôi
Trung, dù thế nào vẫn coi mình là tôi tớ trung thành của Thiên Chúa, trung
thành cho đến hơi thở cuối cùng.
Tuy nhiên, sự trung thành của người Tôi Trung đem lại ý nghĩa lớn lao,
hoàn tất chương trình nhiệm mầu của Thiên Chúa. Sự trung tín của người Tôi
Trung cuối cùng đã phá tan sự ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người. Bức màn
trướng trong Đền Thờ, ngăn cách Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh, ngăn cách Thiên
Chúa thánh thiện và con người tội lỗi, bị xé ra làm đôi ngay khi Chúa Giêsu tắt
thở trên thập giá (Mc 15,37-38). Máu của người Tôi Trung Giêsu đổ ra để thanh
tẩy tội lỗi và lương tâm con người (Hr 9,14), để con người được thánh hóa mà
tiến lại gần Thiên Chúa cực thánh. Quả vậy, qua cái chết của người Tôi Trung
Giêsu, Thiên Chúa đã chạm đến con người tội lụy và thánh hóa con người để họ
được trở nên con cái Thiên Chúa. Con người được giao hòa và trở nên con Thiên
Chúa nhờ sự trung thành cho đến chết của người Tôi Trung của Thiên Chúa, Đức
Giêsu, Con Thiên Chúa, như lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng: “Quả thật,
người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15,39).
Người Tôi Trung là người trung thành, đến nỗi chấp nhận cái chết, để thực
hiện kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Máu của Người đổ ra thanh tẩy lương tâm
con người để xứng đáng được lại gần Thiên Chúa và sống trong tình thương của
Ngài. Người Tôi Trung đó chính là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Ngôn sứ Isaia khắc họa hình ảnh người Tôi Trung là người nhạy cảm để lắng
nghe, đón nhận và rao truyền lời Thiên Chúa. Dù gặp khó khăn, thử thách, người
Tôi Trung vẫn kiên vững vì tin rằng luôn có Thiên Chúa ở cùng. Tôi có thể trở
nên người tôi trung của Thiên Chúa? Tôi có sẵn sàng lắng nghe, đón nhận và rao
truyền lời Thiên Chúa cách trung thành? Trong gian truân, thử thách, tôi có xác
tín Thiên Chúa luôn ở cùng tôi?
2/ Thư Philípphê ca tụng người Tôi Trung Giêsu, Đấng mang thân phận thần
linh, nhưng lại hạ mình đến tận cùng để chấp nhận cái chết, nên được Thiên Chúa
tôn vinh là Đấng Cứu Độ mà muôn loài phải bái thờ. Tôi có muốn mỗi ngày nên
giống người Tôi Trung Giêsu? Tôi có sẵn sàng hạ mình xuống, để thánh ý Thiên
Chúa được thể hiện, để Thiên Chúa được tôn vinh và kính thờ qua cuộc đời và
cách sống của tôi?
3/ Tin Mừng Máccô làm nổi bật sự trung thành cho đến chết của người Tôi
Trung Giêsu. Dù bị những người thân cận xa lánh, bị người đời nhục mạ, nhạo
báng, và cảm thấy như bị chính Thiên Chúa bỏ rơi, người Tôi Trung Giêsu vẫn
trung thành thực hiện ý Thiên Chúa Cha, để giao hòa con người với Thiên Chúa.
Tôi có trung thành với Chúa ngay cả khi phải chịu những khó khăn, thử thách, cô
đơn? Tôi có sẵn sàng trở thành cầu nối để đưa Chúa đến với những anh chị em
đang đau khổ, cô đơn, thất vọng?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Hôm nay phụng vụ tung hô Chúa Kitô khải hoàn vào
thành Giêrusalem, đồng thời mời gọi chúng ta tiến bước theo Người trên con
đường thập giá. Trong tâm tình thờ lạy, ngợi khen và tín thác, chúng ta cùng
tha thiết dâng lời nguyện xin.
1. Thiên Chúa đã biểu dương sức mạnh trong sự vâng phục và tự hạ của Đức
Giêsu. Chúng ta cùng cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh luôn biết làm
sáng danh Chúa bằng thái độ mau mắn chu toàn thánh ý Người, và khiêm tốn phục
vụ tha nhân.
2. Người Do Thái tung hô Đức Giêsu là Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến.
Chúng ta cầu xin cho nhiều người, nhiều quốc gia trên thế giới được ơn nhận
biết và qui phục vương quyền của Thiên Chúa, luôn hướng lên Người như lẽ sống
và cùng đích của cuộc đời.
3. Cuộc vượt qua của Chúa Kitô đem lại ơn giải thoát toàn diện cho con người.
Xin cho những ai đang đau khổ vì bệnh tật, thiên tai hay bất công xã hội ở khắp
nơi, tìm được niềm an ủi nơi cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa, luôn sống
trong hy vọng và bình an đích thực.
4. Thập giá là con đường duy nhất và chắc chắn đưa tới vinh quang. Xin Chúa
cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta, biết nỗ lực sống các giá trị Tin Mừng,
và can đảm đón nhận thập giá trong đời sống hằng ngày, để xứng đáng được dự
phần vinh quang với Chúa Kitô.
Chủ tế: Lạy Thiên Chúa là Cha rất nhân từ, cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô Con
Chúa đã đổ tràn hồng ân cứu độ cho nhân loại. Xin nhậm lời chúng con cầu
nguyện, và giúp chúng con luôn vững bước theo Người trên con đường thập giá, để
xứng đáng chia sẻ vinh quang phục sinh cùng với Người. Người hằng sống và hiển
trị muôn đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét