LỄ AN TÁNG
LM ĐAMINH NGUYỄN ĐỨC TRUNG
GX. BẾN SẮN, GP. PHÚ CƯỜNG
|
LỄ AN TÁNG
LM ĐAMINH NGUYỄN ĐỨC TRUNG
GX. BẾN SẮN, GP. PHÚ CƯỜNG
|
ĐOÀN BÁC ÁI CHIA SE QUÀ TẾT TẠI NẬM XÉ |
Thêm chú thích |
ĐOÀN BÁC ÁI CHIA SE QUÀ TẾT TẠI NẬM XÉ |
TƯƠNG LAI BẢO HÀ |
LỄ AN TÁNG
LM ĐAMINH NGUYỄN ĐỨC TRUNG
GX. BẾN SẮN, GP. PHÚ CƯỜNG
Vào lúc 9 giờ sáng ngày
24.02.2018, tại nhà thờ Thánh Tâm giáo xứ Bến Sắn, giáo phận Phú Cường, đã diễn
ra thánh lễ an táng cha Đa Minh Nguyễn Đức Trung. Đức cha Giuse Nguyễn Tấn Tước
- Giám mục giáo phận Phú Cường - đã chủ tế thánh lễ an táng.
Trong bài giảng lễ, Đức cha
Giuse cũng không khỏi xúc động trước sự ra đi vội vàng của cha Đa Minh; Đức cha
cũng xúc động trước một linh mục đạo đức, đầy trách nhiệm với công việc được
trao phó. Nhưng chính sự ra đi của ngài là một sự đổi mới để ngài trở nên người
mục tử như lòng Chúa ước mong, trở thành hiến lễ đẹp lòng Thiên Chúa. Cho nên
ngày hôm nay tất cả mọi người có quyền tin tưởng rằng khi ngài kết thúc cuộc
đời trần thế thì ngài cũng đủ lòng yêu mến để Thiên Chúa đón đưa, ân thưởng
ngài vào trong hạnh phúc đời đời, bởi vì cuộc đời ngài đã thật sự thuộc về
Thiên Chúa.
Phú Cường - đã chủ sự nghi thức phó dâng
và từ biệt cha Đa Minh.
CHÚA NHẬT 3 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Xh 20,1-17; 1Cr
1,22-25; Ga 2,13-25
1.
Đền thờ.
Những
người quản lý đền thờ, lúc ban đầu, có thể đã tổ chức bán chiên bò, chim bồ
câu, hay đổi tiền đổi bạc với tinh thần phục vụ, với ý hướng ngay lành là để
giúp cho người lên đền thờ có sẵn lễ vật, khỏi phải mang theo từ xa. Cũng là
một thứ dịch vụ, thế nhưng đồng tiền lại là một cái dốc, có thể nói được là êm
ả và người ta cũng có thể bị tuột trên cái dốc này một cách êm ả không hay
biết.
Có
biết bao nhiêu việc khởi đầu là phục vụ, là cứu trợ, là bác ái, là từ thiện, là
tôn vinh Chúa và mưu ích cho các linh hồn, cho xã hội. Nhưng rồi theo hơi men
của đồng tiền đã biến thành chuyện kinh tài thuần tuý, chạy theo lợi nhuận, mưu
cầu địa vị, thanh danh hay quyền lực riêng cho mình. Lợi nhuận sẽ kéo theo gian
dối, chèn ép, bất hoà và bất công.
Và
như chúng ta đã thấy, đền thờ, mặc dù vẫn được coi là nơi thiêng liêng, nơi để
con người hướng tâm hồn lên trên những cái quen được gọi là trần tục, chóng
qua, nơi giúp con người tìm gặp cái vô giá, cũng có thể biến thành chợ búa,
thành hang trộm cướp, nơi người ta cãi cọ nhau, giành giật nhau.
Trước
cảnh tượng như vậy, cùng với lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa, Ngài đã lấy dây
thừng làm roi để xua đuổi phường buôn bán và quân đổi tiền ra khỏi đền thờ.
Ngài đổ tung tiền của họ xuống đất và xô nhào bàn ghế của họ.
Với
chúng ta cũng thế, kể từ khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, tâm hồn chúng ta đã trở
nên như một đền thờ, một gian cung thánh sống động, một nơi cho Thiên Chúa ngự
trị. Thế nhưng, cùng với thời gian, lòng đam mê tiền bạc, của cải vật chất đã
xô đẩy chúng ta vấp phạm hết tội này đến tội khác. Bởi vì như chúng ta thường
nói: tiền bạc là một tên đầy tớ tốt nhưng nó lại là một ông chủ hà khắc, khả dĩ
bóp nghẹt những tình cảm cao đẹp nhất của chúng ta.
Đúng
thế, vì đam mê chạy theo tiền bạc mà chúng ta sao lãng những bổn phận đối với
Chúa. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta sẵn sàng gian tham, chèn ép và đối
xử bất công với những người chung quanh. Vì đam mê chạy theo tiền bạc, chúng ta
sẵn sàng ăn trộm, ăn cắp, ăn gian, ăn quỵt, cũng như ăn hối lộ. Tất cả những
tội lỗi phát sinh từ lòng đam mê chạy theo tiền bạc ấy, đã biến tâm hồn chúng
ta trở nên như một cái chợ, một hang ổ trộm cướp, chứ không còn phải là một
gian cung thánh, một ngôi đền thờ sống động cho Chúa nữa.
Nếu
như bây giờ Chúa bước vào trong tâm hồn chúng ta thì liệu, Ngài sẽ vui mừng hay
là sẽ nổi nóng vì tất cả những sai lỗi đã làm cho tâm hồn chúng ta trở thành ô
uế và nhơ nhớp?
2. Thanh tẩy Đền Thờ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Một trong những vấn đề lớn của thế
giới hiện nay là nạn ô nhiễm môi sinh. Các giòng sông đang bị ô nhiễm vì biết
bao chất thải dơ bẩn, độc hại. Không khí ta hít thở đang bị đe dọa vì bụi bặm,
vì khói xe, khói nhà máy. Nước biển bị ô nhiễm vì nạn dầu nhớt rò rỉ, vì chất
thải của những lò phản ứng nguyên tử. Tầng khí quyển bị những chất khí độc chọc
thủng đang làm thay đổi khí hậu và gây ra những căn bệnh nguy hiểm. Để con
người có thể sống và phát triển được, thế giới cần phải được thanh tẩy khỏi các
nguồn ô nhiễm.
Sự ô nhiễm không chỉ trong môi trường
vật lý. Nhiều môi trường khác như môi trường văn hóa, môi trường đạo đức cũng
đang bị ô nhiễm trầm trọng. Tôn giáo không tránh khỏi nạn ô nhiễm. Muốn cho bầu
khí đạo đức được trong sạch, muốn cho đời sống tâm linh tồn tại và phát triển,
tôn giáo cũng cần được thanh tẩy. Hôm nay Đức Giêsu vào Đền thờ và đã thanh tẩy
Đền thờ. Người đã làm 3 cuộc thanh tẩy
1) Người đã
thanh tẩy Đền thờ khỏi ô nhiễm vì súc vật. Trong nghi lễ của đạo Do Thái, cần
có súc vật để dâng cho Thiên Chúa. Khi dâng lễ hy sinh, người ta mổ một con
thú, đặt trên bàn thờ rồi đốt lửa thiêu con vật. Mùi mỡ cháy quyện khói xông
lên nghi ngút. Người giầu thì dâng một con bò hay một con chiên. Người nghèo có
thể dâng một cặp chim bồ câu hoặc một đôi chim gáy. Để đáp ứng nhu cầu của tín
đồ,dịch vụ cung cấp lễ vật mau chóng thành hình ngay trong khuôn viên Đền thờ.
Ta hãy tưởng tượng một chợ trâu bò ngay trong Đền thờ. Thật là dơ bẩn, ồn ào và
chướng tai gai mắt. Nhưng nhu cầu đã biện minh cho sự ô nhiễm. Và dân Do Thái
mặc nhiên chấp nhận để cho súc vật nghễu nghện ngự trị ngay trong khuôn viên
Đền thờ rất nguy nga, rất lộng lẫy, rất cao sang mà họ từng ca tụng là “đền
vàng”, là “nơi thánh”. Thấy nhà Chúa bị xúc phạm, Đức Giêsu không kiềm chế được
cơn giận, đã lấy roi xua đuổi hết súc vật và cả đám con buôn ra khỏi Đền thờ.
2) Khi xua
đuổi các con buôn ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu đã thanh tẩy thói tôn thờ ngẫu
tượng.
Theo Đức Giêsu, ngẫu tượng nguy hiểm
nhất là tiền bạc, tức là thần “Mammon”. Đã có lần Người lên tiếng cảnh báo:
“Các con không thể làm tôi Thiên Chúa lẫn tiền của”, và “Con lạc đà chui qua lỗ
kim còn dễ hơn người giầu có vào nước Thiên đàng”. Những con buôn đưa súc vật
vào Đền thờ không do lòng yêu mến Thiên Chúa, nhưng vì lợi nhuận. Đưa súc vật
vào nơi tôn nghiêm, họ đã coi trọng tiền bạc hơn Chúa. Để cho súc vật làm ô uế
Đền thờ cao trọng, họ đã dùng Đền thờ làm phương tiện phục vụ túi tiền của họ.
Các tư tế coi sóc Đền thờ có lẽ cũng được chia phần nên đã cho phép con buôn
được tự do họp chợ trong Đền thờ. Họ cũng như con buôn, coi tiền bạc trọng hơn
Thiên Chúa. Họ đã rơi vào thói tôn thờ ngẫu tượng: thờ tiền bạc, dùng Chúa và
Đền thờ để phục vụ tư lợi.
3) Khi đuổi
súc vật ra khỏi Đền thờ, Đức Giêsu muốn thanh tẩy cung cách thờ phượng của ta.
Trước kia người ta dâng súc vật làm
của lễ. Lòng đạo đức được đo lường bằng sức nặng của con vật. Dâng con vật to
sẽ được nhiều ơn phúc. Nay, Đức Giêsu cho thấy Chúa đã chán thịt bò, mỡ dê.
Chúa đã ghê sợ mùi khói mùi khét lẹt, mùi máu tanh tưởi (cf. Is 1,11). Thánh
vương Đavít đã hiểu: “Chúa chẳng ưa thích gì tế phẩm, con có thượng tiến lễ
toàn thiêu, Ngài cũng không chấp nhận” (Tv 50,16). Chúa muốn ta đến với Người
bằng chính bản thân ta. Lễ dâng đẹp lòng Chúa là thái độ khiêm nhường thống hối
như lời Thánh vịnh: “Lễ dâng Chúa là tâm hồn thống hối. Một tấm lòng tan nát
dày vò, Chúa sẽ chẳng khinh chê” (Tv 50). Lễ dâng đẹp lòng Chúa là phó thác
trót cả tâm hồn thân xác trong tay Chúa như Đức Giêsu đã làm trên Thánh giá:
“Lạy Cha, con dâng phó hồn con trong tay Cha”. Lễ dâng được Chúa vui lòng chấp
nhận là sát tế chính bản thân mình để làm theo ý Chúa: “Máu chiên bò Chúa không
ưng. Của lễ toàn thiêu Chúa không nhận. Thì này con đến để làm theo ý Chúa
(Tv). Ta sát tế chính bản thân mỗi khi ta từ bỏ ý riêng, chiến đấu chống lại
những cơn cám dỗ của dục vọng, tiền bạc, thói gian tham, tính tự ái kiêu căng,
sự chia rẽ bất hòa.
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ. Người
muốn ta hãy tiếp tục công việc của Người. Giữ gìn cho nhà thờ luôn sạch đẹp, có
bầu khí tôn nghiêm là điều cần thiết. Nhưng cần hơn vẫn là giữ gìn ngôi Đền thờ
thiêng liêng là chính bản thân ta. Tâm hồn chính là cung thánh nơi Chúa ngự. Ta
phải luôn luôn thanh tẩy tâm hồn để xứng đáng với Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn
khỏi thói tôn thờ tiền bạc, coi trọng tiền bạc hơn Chúa. hãy thanh tẩy tâm hồn
khỏi những dục vọng đam mê làm ô uế cung thánh của Chúa. Hãy thanh tẩy tâm hồn khỏi
thói gian tham, bất công. Hãy thanh tẩy tâm hồn ta khỏi những kiêu căng đố kỵ.
Thân xác ta là Đền thờ của Chúa. Hãy kính trọng thân xác của mình và của người
khác. Hãy tu bổ những Đền thờ thân xác đã xuống cấp, suy tàn, bị xúc phạm, bị
bán rẻ. Hãy sửa chữa những Đền thờ thân xác đang bị bào mòn vì bệnh tật, vì đói
khát, vì thương tích. Hãy kính trọng thân xác của người khác vì đó là Đền thờ
của Chúa.
Trong mùa Chay này, ta hãy cố gắng
thanh tẩy bản thân, để tâm hồn và thân xác ta trở thành một Đền thờ xứng đáng
cho Chúa ngự.
KIỂM ĐIỂM
ĐỜI SỐNG
1)
Khi tham dự thánh lễ, bạn có giữ cho nhà thờ có bầu khí trang nghiêm, lắng đọng
không?
2)
Đền thờ tâm hồn và thân xác bạn có những gì cần phải thanh tẩy không?
3)
Mùa Chay này, bạn sẽ làm gì để trở nên một Đền thờ xứng đáng cho Chúa ngự?
3. Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy
Niệm
Trong sách Tin Mừng, hiếm khi ta thấy
Đức Giêsu nổi giận. Ngài bình thản đón lấy nụ hôn phản bội của Giuđa. Ngài lặng
lẽ trước những lời cáo gian buộc tội. Chính Ngài đã mời ta học nơi Ngài bài học
hiền lành và khiêm nhượng. Vậy mà ở đây ta lại thấy Đức Giêsu dùng roi để đuổi
những người buôn bán bồ câu, chiên bò, Ngài còn lật nhào bàn ghế của những
người đổi bạc! Dù rằng những chuyện buôn bán này chỉ diễn ra ở ngoài phạm vi
Đền Thờ, nơi tiền đình dành cho dân ngoại, nhằm phục vụ cho nhu cầu tế tự của
những người đi hành hương vào dịp lễ Vượt qua, nhưng Đức Giêsu vẫn thấy đó là
một điều bất kính, vì chúng tạo ra một bầu khí ồn ào, hỗn độn.
Đức Giêsu vốn qúy trọng Đền Thờ
Giêrusalem. Ngài gọi đó là nhà Cha của tôi, nhà cầu nguyện. Ngài không muốn nơi
Thánh này trở thành cái chợ. Ngài không chấp nhận nhà của Cha Ngài bị xúc phạm.
Chính tình yêu đã khiến Đức Giêsu nổi giận. Ngài thấy cần phải thanh tẩy Đền Thờ,
dù điều đó sẽ đưa Ngài đến chỗ thiệt thân.
"Cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội
ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại."
Đức Giêsu ám chỉ đến cái chết và sự
phục sinh của Ngài. Đền thờ ở đây là chính thân thể Đức Giêsu. Thân thể được
phục sinh của Ngài sẽ là Đền Thờ mới, nơi nhân loại thờ phượng Thiên Chúa cách
đích thực
Đức Giêsu đã thanh tẩy Đền thờ
Giêrusalem. Ngài cũng muốn thanh tẩy các nhà thờ của chúng ta. Ngài muốn chúng
thực sự là nơi thờ phượng, nơi lắng đọng để con người gặp gỡ Thiên Chúa. Có khi
thánh lễ của chúng ta trở nên máy móc, buồn tẻ. Có khi lại ồn ào, nặng tính
trình diễn.
Dù sao thánh lễ vẫn cần một cái hồn,
một sức sống lan tỏa từ Chúa Giêsu phục sinh.
Để tâm đến việc sửa nhà thờ là cần,
nhưng không đủ. Mỗi Kitô hữu cần để tâm xây dựng con người mình, bởi lẽ đó là
đền thờ của Cha và Con (x. Ga 14,23).
Chính thân xác ta cũng là đền thở của
Thánh Thần (x. 1Cr 6,19). Có những đền thờ thánh thiêng đã trở nên phàm tục.
Đam mê vô độ của thân xác đã trục xuất Thánh Thần.
"Hãy đem tất cả những thứ này ra
khỏi đây!" Chúa Giêsu hôm nay cũng giận dữ như thế khi thấy con người của
chúng ta bị vấy bẩn, đền thờ của Ba Ngôi bị nhơ nhớp.
Tha nhân quanh ta
cũng là những đền thờ. Có nhiều đền thờ bị xuống cấp, tước đoạt và sụp đổ...
Mùa chay là mùa
tu sửa các đền thờ, để mọi đền thờ đều dẫn đến Đền Thờ Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Bạn nghĩ gì về bầu khí nơi nhà thờ của bạn?
Bạn nghĩ gì về bầu khí của Thánh Lễ? Bầu khí đó có giúp bạn lắng đọng để gặp
mình và gặp Chúa không?
·
Trong mùa Chay này, bạn thấy có đền thờ nào cần
sửa gấp không? Đền thờ lòng bạn có gì cần phải loại bỏ để có chỗ cho Chúa
không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm
qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì
không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu mà
vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần
ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh
hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người bị sống bên lề xã
hội, dù không phải là người phong...
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và
biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con
nhìn thấy chính bản thân chúng con.
4. Bắt đầu lại trong sự thật – Jean-Yves Garneau.
Khi sự việc hư đi
Đa số những của
cải trần thế này đều mau chóng biến chất. Chưa đầy hai năm mà chiếc xe lộng lẫy
đắt tiền của chúng ta đã bắt đầu trục trặc rồi. Ghế trường kỷ đẹp đẽ trong
phòng khách nhanh chóng bạc màu, nhất là nếu có trẻ con trong nhà. Nước sơn
trên tường nhà bếp, những cánh cửa bằng gỗ, những chỗ nối các viên gạch hoặc
các viên đá… Mọi
sự đều xuống cấp một cách mau chóng lạ lùng.
Cũng y như vậy trong nhiều lãnh vực
khác nữa. Một tình bạn nẩy sinh: mươi ngày sau, có lẽ người ta đã cãi nhau rồi.
Kết hôn: đó là tình yêu lớn. Sáu tháng sau người ta không còn như trước nữa.
Mọi sự không suôn sẻ nữa. Có những điều làm ta khó hiểu nhau. Có những hố sâu
bắt đầu xuất hiện. Cũng một hiện tượng đó về mặt tôn giáo. Với thời gian, tình
yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và anh em nguôi đi. Ta buông thả. Ta có
những thói quen nhỏ ít nhiều không đúng đắn. Cũng như mọi sự khác, đời sống
thiêng liêng cũng có thể xuống cấp… và trong thực tế rất thường xuống cấp.
Vào thời Chúa Giêsu, Đền Thờ phải là
nơi cầu nguyện và dâng của lễ, nhưng người ta đã biến nó thành một cửa tiệm và
một trung tâm buôn bán. Ở Công đồng Vatican II, người ta đã ý thức rằng phải
thanh tẩy Giáo hội về nhiều mặt. Phải đổi mới nhiều điều khác. Phải loại bỏ đi
nhiều điều khác nữa. Thật vậy, với thời gian mọi sự đều có thể xuống cấp.
Thẳng thắn
nhìn vấn đề.
Sự kiện có bao nhiêu thứ hư hỏng đi
theo thời gian xem ra không trầm trọng lắm. Nhưng không nhìn thấy điều đó hoặc
tệ hơn nữa không chịu nhìn thấy, không ý thức vấn đề, làm như thể không có
chuyện gì cả, đó mới là trầm trọng.
Chúa Giêsu đã thấy ngay những gì không
ổn tại cửa đền thờ. Ngôi nhà dùng cho việc phụng tự đã trở thành nơi buôn bán.
Chúng ta có sáng suốt như vậy để nhận thấy những gì đang xuống cấp trong cuộc
sống Kitô của chúng ta không? Hay là chúng ta cứ nhắm mắt làm ngơ?
Tìm biết sự thật về tình trạng hiện
thời của chúng ta. Đó là việc đầu tiên phải làm. Việc thiết yếu.
Cầm roi
trong tay.
Sau khi thấy những gì không ổn trong
Đền Thờ. Chúa Giêsu không mặc kệ bỏ đi, Ngài không làm ngơ. Cầm roi trong tay,
Ngài hành động. Một cách hành động nghiêm khắc mà Ngài ít khi dùng trong đời
Ngài.
Không cố gắng thì ta không đạt được gì
cả. Điều này đúng về mặt luân lý và đời sống Kitô hơn về mọi phương diện khác.
Chết đối với bản thân, móc mắt, chặt tay chân v.v… đó là kỹ thuật mà Chúa Kitô
dạy. Roi ư? Tức là mọi năng lực ta có thể có được để xa lánh những nẻo đường mà
trong đó chúng ta có nguy cơ sa lầy và để tiếp tục tăng trưởng.
Bắt đầu lại.
Cây không còn trổ lá nữa bởi vì đất đã
khô cằn. Người ta bón phân cho nó. Thế là
những chồi mới lại nhú ra. Lập gia đình đã hai năm rồi, đôi vợ chồng trẻ không
còn yêu nhau như trước kia nữa. Họ muốn dành một buổi tối để kiểm điểm lại, nói
với nhau vài sự thật. Cách bình thản. Và tình yêu của họ đã tìm lại được vẻ
tươi mát ban đầu. Họ yêu nhau hơn trước kia nữa.
Cũng giống như
vậy về mối tương quan giữa mỗi người chúng ta với Thiên Chúa. Đối với Ngài,
không bao giờ có điều gì hoặc có ai đó đã hoàn toàn mất đi. Lầm đường vẫn còn
có thể trở lui và đổi hướng. Những mối liên hệ bị cắt đứt có thể nối lại được.
Tình yêu đã nguội lạnh có thể trở thành lò lửa. Với Ngài bao giờ cũng có thể
bắt đầu lại và bao giờ cũng là lúc để bắt đầu lại. Và việc trước hết để bắt đầu
lại là có cái nhìn sáng suốt về mình, về chính mình, về con người mà ta đang
trở thành. Đó là Sự thật.
5. Đền thờ đích thật của
sự thờ phượng và tập hợp.
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Đoạn Phúc âm của thánh sử Gioan nói về
Chúa đuổi những kẻ buôn bán ra khỏi đền thờ có một mạch lạc và đầy đủ ý nghĩa
mà người ta khó lòng nhận ra được dễ dàng như vậy ở các thánh sử khác. Các
thánh sử này biên soạn Phúc âm từ những quan điểm khác và quy tụ một các khác
những tài liệu do đời sống Chúa cung cấp. Có những câu hỏi được đặt ra ở đây về
sự phù hợp giữa những gì mà Gioan nói và những gì mà các Phúc âm Nhất lãm nói.
Không đi sâu vào chi tiết, chúng ta chỉ đồng ý rằng: các khó khăn sẽ tan biến
một khi người ta nhớ lại là thánh Gioan ưa trình bày một cảnh trí chung từ một
sự kiện riêng rẽ. Cuộc đời Chúa Giêsu do thánh sử Gioan viết không có tính cách
giai thoại. Bằng cách dùng những chi tiết cụ thể, thánh sử Gioan trình bày ở
đây cho chúng ta thấy một bối cảnh qua đó, thánh sử muốn làm cho chúng ta nhận
ra Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai.
Giáo huấn rút ra từ cảnh tượng các kẻ
buôn bán trong Đền thờ bị đuổi, có tính cách song đôi. Nó chứng tỏ cho chúng
ta: 1. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai; 2. Chúa Giêsu, Đấng Thiên Sai đích thân kế
tiếp thực- tại tôn-giáo, được biểu thị qua Đền Thờ.
1) Chúa
Giêsu là Đấng Thiên Sai. Chúa xử sự trong Đền thờ với một uy quyền
mà chỉ có Đấng được Thiên Chúa sai đến và người Do Thái hằng mong đợi, mới dám
tự cho mình như vậy, Người xuất hiện như trưởng tử của ngôi nhà và Người xưng
hô Thiên Chúa là ‘Cha’ Người. Trước mắt người Do thái đương thời thì đó là đặc
quyền dành cho Đấng Thiên Sai. Họ quả không lầm nên liền đó, họ xin Chúa Giêsu
một dấu chỉ bảo đảm nguồn gốc Thiên Sai của Người. Nhưng Chúa Giêsu không cho
dấu chỉ mà họ đòi hỏi, vì Chúa biết họ không thể tin được. Người ta đã vạch lá
tìm sâu rất nhiều câu nói sau đây của Chúa: “Đừng biến nhà Cha Ta thành cửa
tiệm buôn bán”. Dĩ nhiên khi người ta buôn bán trong nhà thờ, người ta xúc phạm
đến Ngôi Nhà của Thiên Chúa. Thỉnh thoảng cũng cần phải lột mặt nạ sự buôn bán
thật sự này nọ. Ví dụ, khi người ta gay gắt đả kích thói tục đốt nến, thì từ
khi đó, người ta có quyền dùng toà giảng để đề cao những lợi ích có tính cách
thế tục, dầu là ở lãnh vực chính trị hay bất cứ lãnh vực nào không?
2) Hãy phá
Đền thờ này, trong 3 ngày Ta sẽ xây lại. Đó là câu trả lời của Chúa Giêsu cho
người Do thái khi họ đòi hỏi Người một dấu chỉ. Dấu chỉ đó là cái chết, và sự
phục sinh của Người. Quả thật, Chúa Giêsu đã đưa ra một câu trả lời che đậy mà
chính các môn đệ cũng không hiểu ngay. Họ sẽ hiểu sau này khi Chúa sống lại.
Sau này, họ sẽ hiểu là Đền thờ vật chất nơi tế lễ và tập hợp dân chúng, sẽ bị
phá huỷ, sẽ trở thành vô ích. Nó sẽ bị “giải nhiệm” theo ý nghĩa là, một Đền
thờ khác sẽ được dựng lên cho việc tế lế và tập hợp nhân loại. Đền thờ đó,
chính là bản thân Chúa Giêsu. Người đích thân chu toàn việc tế lễ trọn hảo của
sự ngợi khen và đền tạ. Người quy tụ nơi mình Người tất cả chúng sinh trong một
sự hiệp thông chặt chẽ và phổ quát. Chúng ta phải tìm gặp Thiên Chuá (cách đích
thật) và anh em ta (cách sâu sắc) ở đâu?
Ba ngày đây ám chỉ đến quãng thời gian
vắn vỏi giữa cuộc khổ nạn và sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Kiểu nói ‘Ba ngày’
này còn có cái lợi khác: nó dùng để chỉ ‘chẳng bao lâu nữa’. Ngày nay, chúng ta
quen nói: ‘Trong giăm phút nữa’ để diễn tả một thời gian ngắn nữa thôi. Chúa
Giêsu phán: ‘Trong ba ngày’ để chỉ rằng: Chúa làm chủ thời gian và khi nào
Người muốn, Thiên Chúa sẽ chi phối mọ chi tiết. Nhân dịp này, chúng ta có thể
nghĩ đến thân xác chúng ta mà thánh Phaolô gọi là ‘Đền thờ’ của Thiên Chúa. Nó
sẽ bị cái chết phá huỷ. Bao giờ nó sẽ được tái thiết, chừng nào nó sẽ phục
sinh? Chúng ta biết rằng mọi kỳ hạn nơi Thiên Chúa vắn vỏi, mặc dầu những tính
toán của con người đo lường thời gian bằng đơn vị nghìn vạn thế kỷ.
6. Thánh Đường, điểm hẹn.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Một giáo xứ
miền quê nọ đã được thành lập từ lâu, nhưng chưa có một ngôi nhà thờ xây cất
hẳn hoi. Giáo dân lại nằm rải rác trong hai ngôi làng sát cạnh nhau. Khát vọng
duy nhất của giáo dân là được có nơi thờ phượng đàng hoàng. Với sự hăng say bộc
phát của những người nông dân, mọi người đã quảng đại đáp lại lời kêu gọi của
cha chính xứ: kẻ góp công, người góp của. Thế nhưng vấn đề cơ bản vẫn là: đâu
là địa điểm xứng hợp nhất để xây cất ngôi nhà thờ mới. Người ở làng bên này thì
muốn ngôi nhà thờ toạ lạc trong làng của mình. Người ở làng bên kia thì lại
muốn nhà thờ được xây cất gần bên chỗ mình ở. Thế là hai bên cứ tranh luận,
không bên nào muốn nhường bên nào. Tiền của đã có sẵn, vật liệu cũng không
thiếu, nhưng không biết phải đặt viên đá đầu tiên ở đâu.
Giữa lúc vấn
đề địa điểm xây cất chưa ngã ngũ, một nạn hạn hán trầm trọng đang đe doạ dân
chúng trong cả hai làng. Thế là người ta chỉ còn nghĩ đến việc chống hạn hán
hơn là xây cất nhà thờ. Năm ấy toàn dân trong hai làng đều phải chịu cảnh đói
khát. Trong cảnh túng quẫn, lá lành đùm lá rách, dân làng hai bên mới nghĩ đến
nhau. Một đêm kia, dân làng bên này lặng lẽ phân chia lúa thóc rồi mang qua cứu
trợ dân làng bên kia. Trong khi đó, dân làng biên kia cũng có một ý nghĩ tương
tự, họ cũng mang lúa thóc qua cứu trợ dân làng bên này. Giữa đêm tối, không hẹn
mà hò, dân làng hai bên đã gặp nhau trong cùng một ý nghĩ và hành động. Không
cần một lời giải thích, không cần một lời chào hỏi, họ đã hiểu nhau: Họ đặt
những bao lúa xuống đất và ôm chầm lấy nhau… Điểm gặp gỡ của tình tương thân
tương ái, của tình liên đới chia sẻ ấy đã được giáo dân gọi là “đất thánh” và
họ đã nhất trí chọn địa điểm này làm nơi đặt viên đá đầu tiên xây cất ngôi nhà
thờ mới của giáo xứ.
Thưa anh chị em,
Nhà thờ đúng là nơi hẹn hò gặp gỡ: hẹn
hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng bào. Không ai đến nhà thờ mà không
tìm gặp được sức mạnh từ chính Chúa, sự an ủi nâng đỡ từ cộng đoàn anh em. Do
đó, nhà thờ phải là điểm hẹn của mọi nẻo đường, là nơi hội tụ của mọi xây dựng,
là giải đáp của mọi tranh luận, là nơi gặp gỡ của tình yêu thương.
Đền thờ Giêrusalem là nơi tập họp của
dân Do Thái trên mọi khắp mọi miền đất nước vào dịp lễ Vượt Qua hằng năm, mừng
kỷ niệm dân được Thiên Chúa giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ
về miền Đất Hứa. Năm ấy, Chúa Giêsu cũng hoà mình vào đoàn dân tiến bước về đền
thờ. Vừa bước vào đền thờ, Chúa Giêsu đã chứng kiến những cảnh chướng tai gai
mắt: buôn bán chiên bò, trao đổi tiền bạc, đám đông ồn ào náo nhiệt, vô trật
tự. Không cầm mình được trước cảnh tượng đền thờ linh thiêng bị biến thành thị
trường, sào huyệt của bọn đầu trộn đuôi cướp, Chúa Giêsu đã “nhào vô” thẳng tay
đánh đuổi những kẻ buôn thần bán thánh, thanh tẩy đền thờ, trả lại sự trong
sáng cho nơi cầu nguyện và gặp gỡ của Cha Ngài và của mọi người.
Nhưng không phải chỉ có thế. Dưới ngòi
bút của Thánh sử Gioan, hãnh động của Chúa Giêsu còn mang một ý nghĩa biểu
tượng sâu sắc hơn nhiều, khi Gioan nói: “Các ông cứ phá hủy Đền thờ này đi, nội
ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại”. Sau này, dưới anh sáng Phục Sinh, các môn đệ mới
hiểu đền thờ Chúa muốn nói ở đây chính là thân xác của Chúa Giêsu sẽ được Phục
Sinh sau ba ngày ở trong mồ.
Chúa Giêsu đã xua đuổi bọn con buôn,
xô đổ lật nhào bàn ghế những người đổi tiền. Ngài phá hủy không phải chỉ để phá
hủy. Phá hủy sẽ không có nghĩa gì cả, nếu không găn liền với xây dựng. Ngài chỉ
phá hủy những gì hủy hoại con người, hủy hoại mốt tương giao giữa con người với
Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Thực ra, chính việc buôn bán đổi chác,
ồn ào trong đền thờ mới phá hủy đền thờ, làm cho đền thờ không còn là đền thờ,
không còn là nơi gặp gỡ Thiên Chúa và anh em đồng bào, trái lại trở thành sào
huyệt trộm cướp, bóc lột, cắt cổ nhau. Chính vì thế, việc phá đổ, giết chết, đánh
mất ý nghĩa là “việc của các ông”: “Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi”. Còn
“việc của Thiên Chúa” là xây dựng lại đền thờ mới, là cứu sống và tái tạo tất
cả trong Đức Giêsu khi cho Ngài Phục Sinh sau ba ngày ở trong mồ, và đặt Ngài
làm Đức Chúa, để từ nay, Đức Giêsu Kitô trở thành trung tâm phụng tự duy nhất.
Trong Ngài toàn thể nhân loại sẽ “thờ phượng Thiên Chúa trong Thánh Thần và
chân lý”.
Anh chị em thân mến,
Thời Cựu Ước, dân Do Thái tôn thờ
Thiên Chúa một cách vụ hình thức, bôi bác, máy móc. Họ nghĩ rằng, cứ dâng cúng
vào đền thờ nhiều tiền của, nhiều lễ vật là Chúa hài lòng, Chúa sẽ xí xóa mọi
tội lỗi cho họ. Họ tưởng dùng tiền của, lễ vật, quà cáp là mua chuộc, hối lộ
được Thiên Chúa. Thành thử ra, dù có sống gian tà, xảo trá, độc ác, bất công, chỉ
cần đợi dịp đại lễ hành hương lên đền thờ, dâng cúng cho nhiều, thế là vừa bình
an trong lương tâm vừa được tiếng đạo đức. Chính ngôn sứ Giêrêmia đã thốt lên
lời sấm chống lại đền thờ, vì ở đó không còn nền thờ phượng đích thực nữa. Dân
chúng chỉ sống đạo bề ngoài mà không hoán cải đời sống, không tuân giữ Giao Ước
mười điều răn của Thiên Chúa (x.Bđ.1). ngôn sứ nói: “Chúa phán: Sao? trộm cướp,
giết người, ngoại tình, thề dối, thờ cúng Thần Baal, đi theo các tà thần, rồi
chạy vào đến trước mặt Ta trong đền thờ này, các ngươi cho thế là thoát nợ, để
rồi tiếp tục cái trò quái gở ấy ư? Các ngươi đã biến đền thờ này là nơi Danh Ta
được kêu cầu thành sào huyệt trộm cướp” (Gr 7,9-11). Điều Thiên Chúa muốn, rõ
ràng không chỉ là thái độ phải có trong đền thờ mà là thái độ phải có trong cả
cuộc sống.
Trong cuộc sống, chúng ta thường quan
niệm bổn phận đối với Thiên Chúa trong các nhà thờ tách rời khỏi bổn phận đối
với anh em ngoài xã hội. Thực ra, thờ phượng Thiên Chúa đâu chỉ là đến nhà thờ
đọc kinh, dự lễ và rồi người anh em bên cạnh có chết đói, chết rét, có gặp tai
ương hoạn nạn… cũng chỉ là việc riêng tư của họ, không cần biết đến. Người ta
không thể xây dựng những ngôi nhà thờ nguy nga đồ sộ mà lại làm ngơ trước những
người đang giẫy chết bên cạnh. Người ta không thể nhắm mắt đi đến nhà thờ trong
khi bên lề đường có bao nhiêu người lê lết trong đói khổ. Nhà thờ phải là nơi
hẹn hò gặp gỡ với Thiên Chúa và với anh em đồng loại. Nhà thờ chỉ có thể xây
dựng ngay chính trên “Đất Thánh” của tình yêu thương, chia sẻ, của tình liên
đới anh em mà thôi. Và việc đi đến nhà thờ cũng chỉ có ý nghĩa khi nó là điểm
hẹn, là biểu tượng của chính những viên đá sống động, những viên gạch bác ái mà
người ta không ngừng xây dựng trong cuộc sống hằng ngày. Vì chính các Kitô hữu
là đền thờ của Chúa Thánh Thần (x.Cv 7,49-51; 1Cr 3,16; 2Cr 6,16).
Chúng ta đang tham dự Thánh Lễ là lễ
tế của Chúa Giêsu trên thập giá. Chính Thánh Thể của Ngài giờ đây vĩnh viễn
thay thế mọi lễ tế chiên bò trong đền thờ Giêrusalem và khánh thành một đền thờ
mới với một phụng tự mới trong Thánh Thần và chân lý là yêu thương và phục vụ
anh em cũng là chi thể của thân xác Chúa Giêsu Phục Sinh và là Đền thờ của
Thiên Chúa Ba Ngôi.
7. Nhà của Cha Tôi – ĐGM. Arthur Tone.
Người mẹ có
4 người con. Bà khổ tâm biểu chúng dọn dẹp đồ chơi, nhất là vào lúc cha của
chúng đi làm sắp về. Dọa nạt, dụ ngọt đều vô ích. Đồ chơi ngổn ngang như thể
cơn lốc vừa thổi qua.
Một bữa nọ,
bà tìm ra một ý tưởng hiệu nghiệm, ít ra trong gia đình của các con bà: Bà chỉ
nói đơn giản: “Chúng con thử xem hết bao lâu để dọn nhà sạch sẽ để đón cha
chúng con về”. Không đầy năm phút mọi đồ chơi được cất trong hộp.
Người mẹ này gợi cho chúng ta cách
thực hành ít nhất một ý tưởng được nêu ra trong bài Tin Mừng hôm nay: Đức Giêsu
nói về “Nhà Cha Tôi”. Đức Giêsu yêu mến Đền thờ, nhà của Cha Người trên trần
gian. Thỉnh thoảng, đôi khi mỗi ngày, Người ở trong Đền thờ. Người khích lệ
những gì làm cho Đền thờ trở nên nơi cầu nguyện và phụng thờ. Người lên án
những gì làm cho nhà Cha Người mất vẻ thánh thiện. Đó là lý do Chúa đuổi những
người đổi tiền ra khỏi Đền thờ.
Cùng với Đức Giêsu, Người anh cả, mỗi
người chúng ta có thể nói: “Đây là nhà Cha tôi”. Ngôi nhà thờ này, nhà thờ của
chúng ta, dù nhỏ bé, nó rất thanh lịch. Nó thật là nhà của Cha chúng ta.
Như Chúa chúng ta, như các em nhỏ
trong câu chuyện. Chúng ta muốn làm hết sức cho nhà của Cha chúng ta xứng đáng,
đẹp và thánh thiện.
Khi chúng ta dâng cúng để bảo quản nhà
thờ, chúng ta phải coi đó như món quà dâng cho Cha chúng ta, không có gì là quá
đáng.
Quan trọng hơn bảo quản phương tiện
vật chất, là bảo quản giá trị và vẻ đẹp thiêng liêng: Ngôi nhà của Chúa. Nơi
đây, nhờ Bí tích Rửa Tội, chúng ta được nhận vào gia đình Chúa. Nơi đây với
việc Rước Lễ, chúng ta đoàn tụ quanh bàn tiệc của Cha chúng ta. Nơi đây, nhờ Bí
tích Thêm Sức, chúng ta được can đảm và sức mạnh để làm vui lòng Người. Nơi
đây, trong Bí tích Hôn Phối, Chúa đóng ấn sự kết hợp vợ chồng. Chúng ta tới đây
để hầu chuyện với Người và lắng nghe lời Người. Chúng ta đến đây để xin Người
trợ giúp và lời chỉ bảo.
Chúng ta tới đây để thổ lộ với Người
niềm vui, nỗi buồn của chúng ta, sự thành công, thất bại của chúng ta.
Chúng ta tới đây để làm lại điều mà
Đức Kitô đã làm trong bữa tối sau hết. Chúng ta sẽ làm điều đó trong chính giờ
này.
Hãy đến nhà Cha của bạn, chắc chắn
Người yêu bạn, bất kể mọi chuyện, hơn những người cha tuyệt hảo ở trên trời.
Chúa sẵn sàng tha thứ, phù giúp, an ủi và khích lệ. Bạn hãy nhớ trong kinh
nguyện Thánh Thể, chúng ta thường gọi Người là Cha. Bạn hãy biết tại sao chúng
ta gọi Người là Cha trong kinh Lạy Cha. Bạn chú ý tới những lời trong kinh Tiền
xướng rước lễ hôm nay: “Ngay cả con chim se sẻ còn tìm được cái nhà. Con chim
nhạn tìm ra tổ ấm để ấp con. Cạnh bàn thờ Chúa, lạy Chúa các đạo binh. Vua của
con, Chúa của con – Hạnh phúc thay những ai cư ngụ trong nhà Chúa”.
Bạn tự nhiên trong nhà của Cha bạn.
Như người mẹ trong câu chuyện. Mẹ Giáo Hội bảo chúng ta: “Chúng ta cố gắng hết
sức làm cho nhà của Cha chúng ta đẹp và ấm cúng.
Xin Chúa chúc lành bạn.
8. Giữ trong sạch nhà Cha – Noel Quesson
“Đừng biến nhà Cha Tôi, thành nơi chợ búa”
Trong tác
phẩm “Chim hót trong bụi gai” tác giả kể chuyện một linh mục, cha Rap (Ralph).
Cha Rap là một linh mục trẻ, có khả năng nhưng lại đầy tham vọng. Cha mong muốn
thành công, muốn nổi danh và cũng ham tiền. Một giáo dân đã nhận ra chân tướng
của vị linh mục. Bà phú hộ thương thầm cha nhưng không được đáp lại. Bà liền
trả thù bằng cách hiến toàn bộ tài sản của bà cho Giáo Hội, với điều kiện phải
cử cha Rap làm quản lý tài sản đó. Cách trả thù của bà phú hộ đã thành công.
Câu chuyện cốt phê bình chỉ trích Giáo
Hội, nhưng cũng nói lên một thực tại, Giáo Hội của Đức Kitô bản chất tinh
tuyền, nhưng lại gồm những con người bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh
hưởng xấu do tiền của. Là con người, thì ai cũng phải cẩn thận lắm, khi sử dụng
tiền của. Tiền của cần thiết cho mọi người, cho mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội.
Nhưng nó dễ chiếm địa vị độc tôn, khi ấy nó trở thành chủ nhân như Chúa cảnh
giác ta về tình trạng đó: “Các con không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi
tiền của” (Mt 6,24).
Tục ngữ có nói, đồng tiền liền khúc
ruột. Còn Chúa Giêsu bảo ta: “Kho tàng con nơi đâu thì lòng dạ con ở đó” (Mt
6,21). Cũng như khi ta đặt một đồng tiền trước mắt, thì nó che chắn hết mọi
cảnh vật, và trong thực tế nó có thể che chắn cả việc đạo đức, cả mọi ý hướng
tốt lành.
Và nhiều khi có tiền bạc xen vào các
việc thờ tự thì người ta dễ hiểu lầm. Phụng vụ xưa cũng như nay, cần có những
lễ vật. Lễ vật trong phụng vụ xưa là chiên bò, chim câu cũng như bây giờ có
hương hoa, đèn nến. Những thứ đó là tùy phụ, giúp con người biểu lộ tâm tình
thờ phượng. Nhưng một khi những thứ tùy phụ đó lại trở thành chính cốt thì con
người quên cả tâm tình bên trong. Và Chúa Giêsu đã phải tuyên bố: “Đừng biến
nhà Cha Ta thành nơi buôn bán” (Ga 2,16). Chúa không ưa kiểu tính toán của dân
buôn, không thích nghe tiếng sột soạt, leng keng của tiền bạc bên cạnh bàn thờ.
Chúa Giêsu nói tới Nhà Cha với một cảm
tình quen thuộc, thân thương. Chúng ta tới với Chúa như người con về nhà Cha
mình. Đó là cốt lõi của phụng tự, của nghi lễ của cầu nguyện, của cuộc đời Kitô
hữu. Vậy điều cần thiết là phải lo sao cho tinh thần mình xứng hợp với ý Chúa,
lo cho cuộc sống Kitô hữu của mình được trong sạch, hơn mọi mối lo khác, hơn
mọi dáng vẻ vật chất, và đẹp đẽ trong phụng vụ, trong tổ chức, trong việc tô
điểm Giáo đường, và mọi sinh hoạt tôn giáo khác.
Giá trị chính yếu của con người, và
việc giúp con người phụng sự Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết dâng
hiến chính bản thân mình chúng con làm lễ tế sống thánh thiện để tôn thờ Chúa!
9.
Đền thờ
Sau khi nghe đoạn Tin Mừng, chúng ta
không khỏi băn khoăn và tự hỏi: Tại sao Chúa Giêsu lại hành động như thế. Thực
vậy, công việc của những người buôn bán và đổi tiền là công việc đem lại lợi
ích cho đền thờ và thuận tiện cho khách hành hương.
Theo luật lệ qui định, thì vào những
dịp lễ lớn, người Do Thái phải lên đền thờ để chu toàn bổn phận thờ kính đối
với Đức Giavê. Họ từ khắp các miền trong nước cũng như ngoài nước hành hương
trở về Giêrusalem. Cũng trong những dịp này, họ phải dâng lễ vật và đóng thuế
cho đền thờ. Lễ vật có thể là chiên bò hay chim bồ câu, tùy khả năng tài chính
của mỗi người. Bởi đó, muốn dâng cúng tiền thì phải đổi ra tiền thông dụng tại
Giêrusalem. Muốn có những lễ vật thì phải có những nơi để mua sắm. Biết đâu,
chính Mẹ Maria và thánh Giuse cũng đã mua ở đấy cặp chim bồ câu khi dâng tiến
Chúa vào đền thờ.
Xem như thế thì những kẻ mua bán đổi
chác không những không có hại mà còn đem lại hoa lợi và bổng lộc cho đền thờ.
Hơn nữa, mặc dù Kinh Thánh có nói đến cơn giận của Thiên Chúa, nhưng cơn giận
ấy không phải sẽ được biểu lộ theo kiểu này và trong một hoàn cảnh cụ thể như
thế, vì Chúa Giêsu ở mọi nơi và trong mọi lúc vẫn là Thiên Chúa của lòng từ
nhân và bao dung, như lời Ngài đã từng phán: Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền
lành và khiêm nhường.
Vậy thì đâu là ý nghĩa, đâu là mục
đích mà Chúa Giêsu muốn nhằm tới? Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy khi đánh đuổi
phường buôn bán, Chúa Giêsu đã làm một hành động có tính cách tiên tri, một
biểu tượng nhằm đưa chúng ta đến một ý nghĩa khác thâm thúy và cao xa hơn. Các
nạn nhân của Ngài cũng đã hiểu được thâm ý ấy nên đã vặn hỏi Ngài: Ông có thể
đưa ra dấu hiệu nào để biện minh cho hành động của ông? Và Chúa Giêsu đã đưa ra
dấu hiệu để biện minh, dấu hiệu này mãi về sau các tông đồ mới hiểu được: thân
xác Ngài sẽ chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Và như vậy, Ngài muốn nói
lên rằng chính Ngài là Đấng Thiên sai, là Đấng sẽ đến để cứu chuộc dân Ngài.
Với tư cách là Thiên sai, Chúa Giêsu
đã bất bình với phường buôn bán và đổi chác, không phải vì hành động của họ, mà
chính vì quan niệm sai lạc của họ. Họ lên đền thờ với thái độ tự mãn.
Với tiền bạc, họ có thể mua được những
lễ vật. Và khi đã dâng lễ vật thì họ có cảm tưởng như là đã trả nợ cho Thiên
Chúa, họ thảnh thơi ra về vì đã chu toàn lề luật và có quyền ngồi chờ Thiên
Chúa thi ân đáp lễ. Họ đã cậy vào uy lực của tiền tài chứ đâu có cậy nhờ vào
Chúa.
Dấu hiệu Chúa Giêsu đưa ra: Ngài sẽ
phải chết nhưng sau ba ngày Ngài sẽ sống lại. Đó mới chính là cái uy lực thực
sự mà con người phải bấu víu, phải nương tựa vào.
Qua hành động của mình, Chúa Giêsu đã
đưa con người từ quan niệm về uy lực trần tục tới quan niệm về uy lực của Thiên
Chúa. Đó chính là một cuộc canh tân, đổi mới tận gốc rễ. Ước chi trong Mùa
Chay, chúng ta hãy nhìn lại đời sống xem chúng ta đã nghĩ gì và đã thực hiện
cuộc đổi mới này như thế nào.
10. Con người và Đền Thờ
Kể từ thời vua Salomon, dân Do Thái đã
có được một ngôi đền thờ, để làm nơi thờ phượng Thiên Chúa. Nhưng ngôi đền thờ
ấy đã sớm trở thành duyên cớ cho họ phạm tội, bởi vì họ đã biến nơi đó thành
một cái chợ, thành một hang ổ trộm cướp, khiến Chúa Giêsu đã phải giận dữ, ra
tay dọn dẹp và loan báo ngày tận cùng sắp tới của chính đền thờ.
Vẫn biết rằng Thiên Chúa coi trọng
lòng nhân từ hơn của lễ, nhưng người Do Thái, đứng đầu là hàng tư tế, lại nhấn
mạnh tới những nghi lễ rườm rà và tốn kém bên ngoài. Chính vì thế có lần bên bờ
giếng Giacóp Ngài đã xác định: Phải thờ phượng Thiên Chúa trong tinh thần và
trong chân lý. Vấn đề không còn là phải thờ phượng Thiên Chúa trên núi này hay
núi nọ, trong đền thờ này hay đền thờ kia, mà là thờ phượng trong tinh thần và
chân lý. Hay nói đúng hơn, kể từ nay, chính Chúa Giêsu sẽ trở thành đền thờ nơi
mà con người có thể gặp gỡ và thờ phượng Thiên Chúa và Ngài cũng muốn rằng tất
cả những ai tin theo Ngài cũng phải trở nên đền thờ thiêng liêng cho Thiên Chúa
ngự trị. Như thế, chúng ta thấy con người cao trọng hơn đền thờ. Cho nên nỗi ưu
tư số một là phải lo làm sao cho có những người thờ phượng Thiên Chúa đích
thực, chứ không phải là lo làm sao cho có những đền thờ lộng lẫy. Con người nếu
biết thờ phượng Thiên Chúa đích thực, thì có thể thờ phượng Ngài ở bất kỳ nơi
nào và bất kỳ lúc nào cũng được.
Trái lại, người ta có thể xây những
nhà thờ cao đẹp, mà trong đó lại chẳng có một ai thờ phượng Thiên Chúa, hay tệ
hơn nữa, có người hiện diện trong đó, nhưng lại chỉ thờ phượng Thiên Chúa bằng
môi bằng miệng mà thôi, còn cõi lòng họ thì lại xa cách Thiên Chúa.
Ngày xưa vua Đavid đã từng ước mơ xây
đền thờ cho Thiên Chúa, nhưng Ngài lại phán cùng vua: Ngươi mà lại xây nhà cho
Ta ở hay sao? Thật vậy, từ ngày Ta đưa con cái Israel ra khỏi Ai Cập cho tới
hôm nay, Ta đã không ở trong một ngôi nhà, nhưng Ta đã nay đây mai đó trong một
chiếc lều và trong một nhà tạm.
Thiên Chúa đâu cần nhà để ở, bởi vì
trời là ngai của Ngài và đất là bệ chân của Ngài. Chúa Giêsu trong cuộc sống,
tuy mang tiếng là một bác thợ mộc, có lẽ chỉ là thợ làm nhà cho người khác, còn
chính bản thân thì lại sinh ra trong chuồng bò, vất vưởng bên Ai Cập, lớn lên
trong căn nhà của thánh Giuse, cuối cùng trở thành một người lang thang không
cả chốn tựa đầu và chết ở trên cây thập giá, được an táng trong ngôi mộ của
người khác. Sống không cần nhà cửa, không cần địa chỉ, thì nay sau khi đã Phục
sinh liệu Ngài có cần những đền đài lộng lẫy hay không?
Trải qua dòng thời gian, Kitô giáo
cũng đã đi vào dấu vết của mọi tôn giáo khác, đó là xây thật nhiều đền thờ.
Thực ra đền thờ cũng rất cần thiết. Cần thiết cho chúng ta chứ không phải là
cần thiết cho Thiên Chúa. Đền thờ bằng gỗ đá sẽ bị mai một với thời gian nhưng
đền thờ thiêng liêng bằng chính con người thì sẽ tồn tại mãi mãi. Bởi đó, cùng
với công việc tu bổ kiến thiết ngôi thánh đường này, chúng ta còn phải ra sức
xây dựng, trang hoàng và tô điểm chính là cõi lòng con người để nó xứng đáng
trở nên một đền thờ của Thiên Chúa.
11. Đền thờ
Chúa Giêsu đã xác định rõ đền thờ là
nơi dành riêng cho việc thờ phượng và cầu nguyện. Đây không phải là chỗ để giao
dịch buôn bán. Tuy nhiên, ngày nay người ta dễ đánh mất cảm thức về việc tôn
kính Nhà của Thiên Chúa. Trong thời đại của điện thoại di động, chúng ta càng
phải cẩn trọng và có trách nhiệm gìn giữ sự tôn nghiêm của những nơi dành riêng
cho sự thờ phượng. Không có lý do nào có thể biện minh cho việc sử dụng di động
trong nhà thờ. Tôi nghĩ rằng việc đem điện thoại di động vào trong nhà thờ là
hoàn toàn không thích hợp, vì chúng ta cần phải hết sức tôn kính Chúa Giêsu
Thánh Thể đang ngự trong nhà tạm. Chúng ta hoặc là vào nhà thờ để cầu nguyện
hoặc đừng vào. Chúng ta dành thời giờ đến nhà thờ là để cầu nguyện, sống thân
tình với Thiên Chúa hoặc đừng đến nhà thờ. Nếu chúng ta đem điện thoại di động
vào nhà thờ nó sẽ trở thành tác nhân gây chia trí, ngăn cản việc cầu nguyện của
chúng ta.
Với tư cách là một linh mục, trong
thánh lễ, tôi đứng ở một vị trí thuận lợi trên cung thánh và nhìn xuống dân
chúng ở phía dưới, tôi thấy nhiều người không chú tâm đủ đến việc cử hành bí
tích Thánh thể. Theo tôi, họ chưa chu toàn đầy đủ bổn phận tham dự thánh lễ
ngày Chúa nhật.
Điều này liên quan đến vấn đề tôn kính
Thiên Chúa. Đã đến lúc chúng ta đừng để mình làm nô lệ cho các phương tiện kỹ
thuật và phải khẳng định khả năng kiểm soát việc sử dụng chúng. Chúng ta hãy
tôn kính nhà thờ là nơi dành riêng cho việc thờ phượng và cầu nguyện, chúng ta
hãy bỏ điện thoại di động ở nhàkhi đi tham dự thánh lễ. Tôi quả quyết với bạn,
trái đất này vẫn tiếp tục quay, cho dù bạn không để điện thoại di động trong
túi áo của bạn. Trái đất cũng chẳng dừng lại cho dù bạn không trả lời các tin
nhắn khi chúng được gửi đến cho bạn.
12. Thanh tẩy
Đền thờ
Giêrusalem đầu tiên được vua Salomon xây dựng rất đồ xộ, vĩ đại và cũng rất
nguy nga, tráng lệ, đây là một công trình quý giá vào bậc nhất thời bấy giờ,
phải huy động mỗi ngày cả trăm ngàn công nhân và bảy năm mới hoàn thành, đền
thờ này đứng vững được 400 năm thì bị Nabucô, vua nước Babylon phá hủy vào năm
587 trước Công nguyên. Sau thời gian lưu đầy Babylon, Giôrôbaben kiến thiết lại
đền thờ, nhưng thô sơ thôi. Đến thời Hêrôđê đại vương, ông cho trùng tu lại
toàn bộ đền thờ, rất vĩ đại và nguy nga lộng lẫy, mỗi ngày có 18.000 thợ làm
việc, không thể ước tính được số kinh phí, khởi công từ năm 20 trước Công
nguyên mãi đến năm 63 sau Công nguyên mới xong, đền thờ này cũng bị tàn phá
bình địa vào năm 70 do tướng Titô của Rôma tấn công.
Đền thờ rất
vĩ đại, chia ra từng khu cho từng loại người: ngoài cùng là khu dành cho người
ngoại giáo đến tham quan đền thờ, rồi đến khu dành cho phụ nữ, rồi đến khu dành
cho nam giới, khu thiêu sinh các của lễ, khu dành cho tư tế, rồi đến bàn thờ
dâng hương, trong cùng là nơi cực thánh, đặt hòm bia 10 điều răn, tượng trưng
sự hiện diện của Thiên Chúa ở đây.
Đối với
người Do Thái, đền thờ là trung tâm tôn giáo của dân tộc, vừa cụ thể hóa sự
hiện diện uy nghiêm của Thiên Chúa vừa chính thức hóa việc phụng tự của cả dân
tộc, bởi đó, đền thờ là nơi Thiên Chúa ngự, là nhà cầu nguyện cho muôn dân, và
không ngừng mang tính chất linh thiêng thánh thiện. Nhưng dần đà người ta đã
ngang nhiên biến một phần của nơi thánh thiện ấy thành nơi buôn bán và trao đổi
tiền bạc, dĩ nhiên với lý do tốt đẹp bên ngoài là để phục vụ việc tế tự. Quang
cảnh ấy đã làm Chúa Giêsu khó chịu, nổi giận, Ngài yêu cầu mọi người trả lại
cho đền thờ sự thánh thiêng phải có.
Bài Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu
xua đuổi những người buôn bán và trao đổi tiền bạc ở đền thờ Giêrusalem, hành
động này của Chúa được gọi là hành động thanh tẩy đền thờ, nhưng làm cho giới
lãnh đạo Do Thái giáo khó chịu và hạch hỏi Chúa, nhân cơ hội này Chúa dạy bảo
cho họ biết một điều rất quan trọng về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Từ khi lên 12 tuổi và suốt thời gian
ẩn dật, hàng năm Chúa Giêsu đều lên đền thờ Giêrusalem dự lễ, tại sao Ngài
không đuổi những người buôn bán trong đền thờ mà lại làm bây giờ, khi sắp kết
thúc cuộc đời trần gian của Ngài? Vì bây giờ Ngài vào nhà Thiên Chúa không phải
với tư cách một người hành hương nhưng với tư thế của một Đấng Thiên Sai, Con
Thiên Chúa, Ngài vào đó và chính thức can thiệp với tư cách quản lý và chủ
nhân. Dĩ nhiên trong những lần hành hương trước, chắc chắn Chúa Giêsu đã lấy
làm chướng tai gai mắt cái cảnh buôn bán, biến nơi cầu nguyện thành chợ búa, ồn
ào, thành hang trộm cướp, bây giờ chính thức lãnh lấy trách nhiệm chu toàn công
việc của Chúa Cha, Ngài phải chấm dứt ngay cảnh lộn xộn đó. Lòng nhiệt thành vì
Cha đã khiến Ngài dùng mọi phương thế hữu hiệu nhất để thanh tẩy đền thờ, Ngài
không sợ nguy hiểm khi phải ra tay dẹp loạn hầu thể hiện thánh ý Chúa Cha là
đền thờ phải là nơi tôn nghiêm, thánh thiện.
Hành động thanh tẩy đền thờ của Chúa
Giêsu chắc chắn làm cho các trưởng tế khó chịu, bực tức, họ cho Ngài là một kẻ
phản động, vì Ngài không có chức tư tế, cũng chẳng có nhiệm vụ nào trong đền
thờ. Chúa Giêsu đã kết án cách tổ chức của các trưởng tế và gán cho mình một uy
quyền trên họ, Ngài đã bãi bỏ việc phụng tự do Thiên Chúa thiết lập, và còn gán
cho mình có quyền bằng Thiên Chúa, Đấng mà Ngài gọi là Cha, nếu vậy thì phải
làm một phép lạ từ trời, nghĩa là từ Thiên Chúa để làm bằng chứng, vậy Chúa
Giêsu đã làm phép lạ nào?
Chúa trả lời: “Cứ phá hủy đền thờ này
đi, trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Các người Do Thái đã nghĩ ngay đến đền
thờ bằng gạch đá, nhưng Chúa Giêsu không có ý nói đến đền thờ bằng gạch đá mà
là đền thờ thân thể Ngài. Nghe Chúa nói thế, các trưởng tế tỏ vẻ khó chịu ra
mặt, họ biết đền thờ đã được vua Hêrôđê sửa sang, xây dựng mất 46 năm mới xong,
thế mà bây giờ Chúa bảo phá hủy đi và xây dựng lại chỉ trong ba ngày, họ không
tin lời Chúa nói mà còn cho là Chúa phạm thượng, nên khi Chúa bị đưa ra tòa xét
xử, họ đã đưa điều này ra để tố cáo Chúa. Thật ra ở đây Chúa muốn báo trước cho
mọi người biết: Ngài sẽ bị giết chết nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại, Ngài
dùng đền thờ làm hình ảnh để nói về thân thể Ngài là đền thờ đích thực của
Thiên Chúa, lời tiên báo của Chúa đã xảy ra đúng như vậy.
Mỗi người chúng ta đều là đền thờ của
Thiên Chúa ngự trị, nhưng có thể Thiên Chúa đã mất chỗ, nghĩa là tội lỗi đã
chiếm mất chỗ của Chúa, vậy chúng ta phải trả lại chỗ cho Chúa bằng việc tẩy
trừ tội lỗi. Chúa muốn chúng ta sống hiên ngang như đền thờ Giêrusalem, Chúa
muốn chúng ta sống tự do độc lập hoàn toàn với tội lỗi, bởi vì phạm bất cứ tội
gì, có tính hư tật xấu nào, mắc một đam mê nào là chúng ta làm nô lệ cho những
thứ đó, như Chúa Giêsu đã nói: “Ai phạm tội là nô lệ cho tội”. Muốn độc lập với
tội lỗi chúng ta phải đến với Chúa Giêsu, ăn năn sám hối, xin Chúa tha thứ, để
được sống trong tự do của con cái Chúa.
13. Đền thờ
Dân Do thái
vào thời các tổ phụ đã không biết tới đền thờ, cho dù họ vẫn có các nơi thánh
để cầu khẩn Đức Giavê, chẳng hạn như Bêtel, Sikem, Sinai.
Rồi sau đó,
trong cuộc xuất hành, họ dùng một thứ đền thờ lưu động, đó là nhà tạm với hai
hòm bia giao ước, nhờ đó Thiên Chúa có thể ngự trị thường xuyên giữa dân Ngài.
Sau khi đã
định cư tại miền đất hứa, Đavid muốn thiết lập một đền thờ tại thủ đô
Giêrusalem, thế nhưng Thiên Chúa đã chống lại ý định ấy, bởi vì không phải
Đavid sẽ xây nhà cho Đức Giavê, nhưng chính Đức Giavê sẽ xây nhà cho Đavid.
Thế nhưng,
bước sang triều đại của Salomon, ý định của Đavid đã được thực hiện mà không
gặp một sự chống đối nào của các tiên tri.
Công cuộc
dựng xây này đã kéo dài suốt 40 năm, để rồi từ nay đền thờ Giêrusalem sẽ trở
nên trung tâm phụng thờ Thiên Chúa. Người ta từ khắp nơi trong nước hành hương
về đó để tôn kính Thiên Chúa. Người Do thái đã dành cho đền thờ một tình cảm
hết sức trìu mến.
Trong những năm tháng bị lưu đày bên
Babilon, họ luôn hướng tới đền thờ Chúa, và khi được trở về, thì việc đầu tiên
họ đã làm ngay, đó là bắt tay vào việc tái thiết đền thờ Chúa.
Như trên chúng ta vừa nói, đền thờ là
trung tâm của việc thờ kính Thiên Chúa. Hàng năm người Do thái phải lên đền thờ
vào những dịp lễ lớn. Và cũng trong những dịp lễ lớn này, họ thường phải dâng
tiến lễ vật như chiên bò hay chim bồ câu, tùy theo như khả năng tài chính, đồng
thời đóng thuế cho đền thờ.
Vì thế, người ta đã tổ chức tại khuôn
viên đền thờ một cái chợ, để buôn bán và đổi chác tiền nong. Trước cảnh tượng
ồn ào và huyên náo ấy, Chúa Giêsu đã tức giận, Ngài lật đổ bàn của những người
đổi tiền và xua đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ và Ngài đã nói với họ:
-
Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi
đã biến nó thành hang trộm cướp.
Ngoài ra, Ngài còn hướng tâm hồn tới ý
nghĩa thiêng liêng của đền thờ.
Thực vậy, đền thờ là nơi Thiên Chúa ở
với chúng ta, đồng thời cũng là nơi chúng ta dâng lên Ngài những tâm tình cầu
nguyện.
Nếu hiểu như vậy, thì đền thờ thiêng
liêng trước hết phải là chính Chúa Giêsu, vì qua Ngài Thiên Chúa đã trở thành
Emmanuel, đã trở thành Thiên Chúa ở cùng chúng ta, đồng thời nhờ Ngài, chúng ta
sẽ dâng lên cho Thiên Chúa của lễ tuyệt hảo nhất.
Tiếp đến, đền thờ thiêng liêng còn là
Giáo hội, bởi vì nhờ Giáo hội, Thiên Chúa đến với chúng ta qua những hoạt động
của bí tích và lời giảng dạy, cũng như qua Giáo hội mà chúng ta không ngừng tôn
vinh và thờ phượng Chúa.
Sau cùng, đền thờ thiêng liêng là
chính tâm hồn chúng ta, bởi vì nhờ công cuộc cứu độ với giòng nước Rửa tội, tâm
hồn chúng ta trở nên như một gian cung thánh sống động cho Thiên Chúa ngự trị,
đồng thời cũng chính tại thẳm sâu cõi lòng, chúng ta dâng lên Thiên Chúa những
tâm tình cầu nguyện tha thiết và kết hợp chặt chẽ với Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, để tâm hồn chúng ta luôn
xứng đáng là nơi cho Chúa ngự trị, thì có một việc chúng ta cần phải làm ngay,
đó là khử trừ tội lỗi, vì tội lỗi sẽ làm cho tâm hồn chúng ta trở nên nhơ nhớp.
Nếu Thiên Chúa viếng thăm vào giữa lúc
chúng ta đang lặn ngụp trong tội lỗi, thì có lẽ Ngài sẽ tức giận mà nói với
chúng ta như xưa Ngài đã nói với phường buôn bán tại đền thờ.
Đúng thế, vì tội lỗi, tâm hồn chúng ta
không còn phải là nhà cầu nguyện nữa, nhưng nó đã trở thành hang trộm cướp.
14. Thanh tẩy Đền Thờ
Vào thời Chúa Giêsu, dân Do thái vẫn
có những hội đường để mỗi ngày sabat, ngày thứ bảy, họ đến đây để nghe lời Chúa
và cầu nguyện. Đây không phải là nhà thờ hay đền thờ như chúng ta ngày nay. Họ
chỉ có một đền thờ duy nhất tại Giêrusalem để tế lễ Thiên Chúa, là một nơi linh
thiêng thánh thiện. Vậy tại sao lại có chuyện buôn bán, đổi chác tiền bạc ở đền
thờ, đến nỗi Chúa Giêsu phải nổi giận, xua đuổi?
Trước hết,
về việc buôn bán ở đền thờ.
Mỗi năm, vào những dịp đại lễ, như lễ
Vượt qua, lễ Ngũ Tuần… theo tập tục và thói quen đã trở thành như một luật lệ,
bắt buộc các tín hữu khi đến đền thờ dự lễ đều phải dâng vào đền thờ một lễ vật
nào đó làm của lễ dâng Thiên Chúa. Người giàu có thì dâng chiên bò, người nghèo
thì dâng bánh rượu, dầu hương, chim câu… Nhưng vì gần đền thờ không có chợ, nên
các tư tế đã lợi dụng cơ hội để làm ăn: hoặc là chính họ hoặc họ cho phép các
con buôn đã nộp thuế cho họ, được buôn bán các thứ lễ vật đó cho những người
đến dự lễ. Và đã là chuyện buôn bán thì có người mua kẻ bán, người trả người
thách, lại với số đông người, không thể nào không ồn ào, om xòm, lộn xộn… làm
cho khu vực đền thờ có vẻ là một chợ phiên hơn là nơi yên tĩnh để cầu nguyện và
tế lễ.
Về chuyện đổi chác tiền bạc. Theo luật
buộc: mỗi năm mỗi người trưởng phải nộp ½ đồng Xêken, tức là một nửa đồng tiền
Do thái. Đây là một thứ thuế nghĩa vụ, ai cũng phải nộp và chỉ được nộp tiền Do
thái, chứ không nộp thứ tiền nào khác, mặc dầu thời ấy tiền Rôma và tiền Hy lạp
rất thông dụng, vì những thứ tiền ấy in hình vua ngoại đạo, nên cấm lưu hành
trong khu vực đền thờ. Vì thế, để có tiền Do thái nộp thuế cho đền thờ, những
người đến dự lễ phải đổi tiền. Đó là lý do sinh ra cái nạn đổi tiền và có những
quầy đổi tiền trong đền thờ.
Trước sự bất kính đối với đền thờ như
thế, Chúa Giêsu đau xót và nổi giận. Ngài xua đuổi họ. Việc này làm cho các tín
hữu hài lòng, duy có nhóm tư tế bực mình, hạch hỏi Chúa: “Ông lấy dấu lạ nào
chứng tỏ cho chúng ta thấy là ông có quyền làm như thế?”. Chúa bảo họ: “Các ông
cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”.
Hành động của Chúa Giêsu không chỉ đơn
thuần là xua đuổi các con buôn, là đụng chạm đến quyền lực và lợi nhuận của
hàng tư tế, nhưng sâu xa hơn, đó là cử chỉ tượng trưng, nhằm phủ nhận một cung
cách thờ phượng đã bị làm cho biến chất. Và không những phủ nhận nghi thức
phụng tự, Chúa Giêsu còn phủ nhận luôn đền thờ bằng gỗ đá, một đền thờ lộng
lẫy, huy hoàng, tráng lệ đã được vua Hêrôđê cả ra lệnh xây dựng từ năm 19 trước
công nguyên và mãi đến năm 63 sau công nguyên mới hoàn thành. Sự kiện Chúa
Giêsu thanh tẩy đền thờ Tin Mừng kể lại hôm nay xảy ra vào năm 28 sau công
nguyên. Như vậy đã ròng rã 46 năm trời xây cất vẫn chưa xong.
Khi phủ nhận các nghi thức phụng vụ
cũ, phủ nhận cả đền thờ gỗ đá, Chúa Giêsu giới thiệu một đền thờ mới, đền thờ
đích thực, đó là thân xác Phục sinh của Ngài, khi Chúa nói: “Các ông cứ phá hủy
đền thờ này đi, nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, Chúa có ý nói đến thân xác
của Ngài. Ngài sẽ bị giết chết, nhưng trong ba ngày Ngài sẽ sống lại.
Chúng ta đang sống trong mùa chay,
đoạn Tin Mừng này nhắc nhở chúng ta hai điều: Thứ nhất, mỗi người tín hữu được
coi là một đền thờ của Thiên Chúa. Nhưng hiện giờ đền thờ ấy có xứng đáng để
Thiên Chúa ngự không hay là một cái chợ trưng bày đủ thứ, nhất là những thứ cấm
kỵ: tham vọng, ích kỷ, hận thù, bất trung, ghen ghét, gian dối…? Không nhiều
thì ít, có lẽ đền thờ nơi chúng ta còn đang bất xứng, chúng ta cần thanh tẩy,
sửa chữa.
Thứ hai, gia
đình Kitô hữu cũng được mời gọi trở nên đền thờ của Thiên Chúa.
Liệu trong ngôi đền thờ ấy, các thành
viên có biết lấy yêu thương, sự khoan dung tha thứ mà đối xử với nhau, hay ngôi
đền thờ đã trở thành quán trọ mạnh ai nấy sống? Liệu trong ngôi đền thờ ấy có
Thiên Chúa ngự trị hay đang bị đủ thứ ngẫu tượng chi phối, những ngẫu tượng có
tên là tiền bạc, tham vọng, ích kỷ, hận thù, gian dối?
Tóm lại, mỗi người chúng ta, mỗi gia
đình chúng ta là đền thờ của Thiên Chúa ngự trị. Nhưng có thể Thiên Chúa đã mất
chỗ, nghĩa là tội lỗi, những cái xấu, những cái tiêu cực… đã chiếm chỗ của
Chúa. Vì thế, chúng ta phải loại bỏ tất cả những cái đó để trả lại chỗ cho
Thiên Chúa bằng sự ăn năn sám hối và cải thiện đời sống.
Xin Chúa cho Mùa chay thánh này là mùa
hồng ân cho chúng ta: cho mỗi người chúng ta trở thành một đền thờ xứng đáng,
và cho gia đình chúng ta cũng là một đền thờ tốt đẹp để Thiên Chúa ngự trị,
chúc lành và ban ơn cho chúng ta.
15. Cơn tức giận
Bối cảnh Tin Mừng mô tả về một Đức
Giêsu đang nóng giận, với cây roi trong tay. Hình ảnh này của Đức Giêsu không
phù hợp với hình ảnh quen thuộc một Đức Giêsu hiền lành và tươi cười. Dường như
điều này vượt xa tính cách mà chúng ta biết về Đức Giêsu trong những bài Tin
Mừng còn lại, đến nỗi khiến chúng ta xua đuổi hình ảnh đó. Điều này chứng tỏ
cho chúng ta rằng tính cách của Đức Giêsu có một khía cạnh khác. Tất nhiên, Đức
Giêsu là một người hiền dịu. Nhưng điều đó không có nghĩa là Người yếu đuối.
Khi cơ hội đòi hỏi, Người có thể rất mạnh mẽ và rất quyết đoán.
Lại nữa, chúng ta bị sốc khi nhận thấy
Đức Giêsu không chỉ tức giận, mà còn hung dữ nữa. Và Người còn sử dụng một hình
thức như thể là bạo lực. Chúng ta đã từng được dạy dỗ rằng tất cả mọi cơn nóng
giận đều xấu xa cả. Nhưng tự thân sự tức giận chỉ là một cảm giác, vì thế, nó
không tốt và cũng chẳng xấu về mặt luân lý.
Quả thật cơn nóng giận là một điều
nguy hiểm, có thể khiến cho chúng ta có những lời nói hoặc hành động mà chúng
ta sẽ phải hối tiếc sau này. Nhưng tức giận cũng có thể là một điều tốt đẹp. Nó
có thể thúc đẩy chúng ta chấn chỉnh lại ngay tức khắc những điều sai trái tỏ
tường. Có những lúc chúng ta cần phải tức giận. Chúng ta nên tức giận trước một
tình huống bất công. Tức giận có thể là một cách diễn tả tình yêu thương.
Chúng ta phải nhìn vào những điều
khiến cho chúng ta tức giận. Người ta nói rằng bạn có thể đo lường được mức độ
tâm hồn của một con người, qua mức độ các sự việc làm cho người đó tức giận.
Hầu hết cơn nóng giận của chúng ta đều do động cơ là quyền lợi cá nhân, và
chúng ta thường tức giận về những điều vặt vãnh.
Một người
đàn ông sống tại vùng ngoại ô của một ngôi làng. Cách nhà ông ta khoảng độ hơn
10 mét, có trồng một cây chanh lớn. Cây chanh này là ranh giới của ngôi làng.
Tuy nhiên, nó đang bắt đầu già cỗi. Rõ ràng chỉ còn là vấn đề thời gian trước
khi nó gãy đổ. Mỗi khi có bão táp, người đàn ông đó đều sợ hãi cho ngôi nhà và
mạng sống của mình. Ngày kia, không thể chịu đựng sự căng thẳng lâu hơn nữa,
ông ta đốn hạ cây chanh xuống. Ông tin chắc rằng dân làng sẽ hiểu cho ông.
Nhưng ông đã lầm: Một người nói “Ông thật xấu hổ, khi đã cắt bỏ một thân cây
tuyệt đẹp như vậy”.
Một người
khác nói “Ông đã tước đoạt của dân làng một phần gia sản”. Tuy là một cách
ngoài lề, nhưng cách thế dân làng nổi nóng khi ý riêng của họ bị đe dọa thật
đáng ngạc nhiên. Nhưng khi sở thích của những người hàng xóm bị đe dọa, thì rất
ít khi họ nổi nóng.
Đức Giêsu không tức giận vì lý do cá
nhân. Cơn nóng giận của Người xuất phát từ tình yêu của Người đối với Thiên
Chúa và đối với mọi người. Hành động của Người tại đền thờ phải được coi như
một sự phản đối lại việc thương mại hóa tôn giáo và báng bổ thần thánh của đền
thờ. Nhưng điều này còn sâu xa hơn.
Trước hết, Người chống
đối việc người Do thái không hoàn tất sứ vụ quốc tế đối với nhân loại. Tôn giáo
đã trở nên chật hẹp, theo chủ nghĩa dân tộc và mang tính cách độc quyền. Thiên
Chúa có ý muốn cho đền thờ trở thành một ngôi nhà cầu nguyện “cho tất cả mọi quốc
gia”, nhưng lại trở thành một nơi được bảo vệ một cách ích kỷ, dành riêng cho
dân Do thái. Đức Giêsu muốn hủy bỏ khái niệm độc quyền. Ơn Cứu Độ không chỉ
dành riêng cho người Do thái, mà còn dành cho tất cả mọi dân tộc.
Thứ hai, Người tấn
công vào chính bản chất thờ phượng của người Do thái. Với các lễ nghi và hiến
tế súc vật, toàn bộ cách thờ phượng của đền thờ không còn phù hợp nữa, và không
thể làm được gì để đưa con người đến với Thiên Chúa. Người đã thay thế lối thờ
phượng với hiến tế hy sinh bằng lối thờ phượng trong tinh thần. Việc thờ phượng
đòi hỏi nơi chúng ta rất nhiều điều, hơn là chỉ biết dâng lên Thiên Chúa các đồ
vật, và biểu diễn một số lễ nghi. Điều mà Thiên Chúa muốn hơn hết, đó là thái
độ thờ phượng trong cuộc sống của chúng ta.
Xin Chúa giúp chúng ta biến ngôi nhà
này thành một ngôi nhà cầu nguyện, vui tươi và hợp nhất. Và xin cho những việc
chúng ta thực hiện ở đây giúp chúng ta biết thờ phượng Thiên Chúa trong cuộc
sống của chúng ta.
16. Đức Giêsu tại Samari- JKN
Câu
hỏi gợi ý:
1.
Các cụm từ “đã đến giờ” và “giờ đã đến - và
chính là lúc này đây” trong bài Tin Mừng có ý nghĩa gì? Giờ đó là giờ nào?
2.
Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần
khí”? Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật”? Trái ngược với hai kiểu
thờ phượng ấy là thờ phượng thế nào? Chúng ta đang thờ phượng Thiên Chúa theo
kiểu nào: kiểu lỗi thời của các kinh sư Do Thái hay kiểu “mới” của Đức Giêsu?
3.
Có cần thiết phải sửa đổi cung cách thờ
phượng của chúng ta không? Nếu không thì sao? Việc thờ phượng kiểu lỗi thời có
còn giá trị không?
Suy tư gợi ý:
1. Việc thờ phượng Thiên Chúa trong
Cựu Ước và Tân Ước
Vào thời Cựu Ước, trình độ tâm linh
của con người còn non kém, đầu óc con người thường chỉ hướng về những gì cụ
thể, hữu hình, dễ thấy, nghĩa là họ hướng ra ngoài hơn là vào nội tâm. Vì thế,
việc thờ phượng Thiên Chúa chủ yếu gồm những việc cụ thể, thấy được, được thực
hiện trong thời gian và không gian rõ rệt. Từ bản chất, thờ phượng Thiên Chúa
chính là nhìn nhận Thiên Chúa là chủ tể vũ trụ, có toàn quyền trên tất cả mọi
sự, trong đó, con người coi mạng sống và của cải của mình là quí giá nhất. Để
biểu lộ sự nhìn nhận quyền chủ tể đó của Thiên Chúa, đúng ra con người phải sát
tế chính mạng sống mình; nhưng làm như thế, con người sẽ dần dần chết hết, là
điều mà Thiên Chúa không muốn. Vì thế, con người bèn sát tế những con vật như
chiên bò làm của lễ hy sinh dâng lên Thiên Chúa thay cho mạng sống của mình (x.
St 4,3; 8,20; Xh 20,24; 29,18; Lv 1,14; v.v...). Có lần, để thử thách niềm tin
và tinh thần hy sinh hiến dâng ấy, Thiên Chúa yêu cầu Abraham sát tế đứa con
trai duy nhất của mình là Isaác làm lễ vật toàn thiêu: khi thấy Abraham không
tiếc với mình đứa con duy nhất, Thiên Chúa đã ra tay cứu Isaác (x. St 22,1-14).
Đó là cách thờ phượng Thiên Chúa thời Cựu Ước.
Đến thời Đức Giêsu, Ngài đã khai mở
một kỷ nguyên mới, thích hợp với trình độ tâm linh con người vốn đã lên cao
hơn. Vì càng về sau, con người càng có khả năng tư duy trừu tượng hơn, biết
hướng vào nội tâm hơn. Vì thế, việc thờ phượng Thiên Chúa phải mặc lấy một hình
thức mới hợp với trình độ mới: tức cao hơn, mang tính nội tâm hơn. Trong bài
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu chủ trương một cách thờ phượng Thiên Chúa mới mẻ
hơn, cao cấp hơn. Ngài nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không
phải trên núi này hay tại Giêrusalem (...) Giờ đã đến - và chính là lúc này đây
- những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự
thật. (...) Thiên Chúa là thần khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ
phượng trong thần khí và sự thật “.
2. Thời Tân Ước: thờ phượng trong thần
khí và sự thật
Đức Giêsu nói khi Ngài còn sống: “Đã
đến giờ”, “Giờ đã đến - và chính là lúc này đây”. Như vậy, Đức Giêsu yêu cầu
con người thay đổi cách thờ phượng Thiên Chúa cho xứng hợp với trình độ mới của
con người đã được 2000 năm, một thời gian rất dài! Nhưng ta thử xét lại xem,
cách thờ phượng của chúng ta trong thế kỷ 21 này đã thay đổi và tiến bộ đúng
như yêu cầu của Đức Giêsu cách đây 2000 năm chưa? Sau 20 thế kỷ tiến bộ về vật
chất đến mức chóng mặt, con người đã tiến bộ về tâm linh thế nào, đặc biệt
trong cách thờ phượng Thiên Chúa? Chúng ta đã nội tâm hóa việc thờ phượng ấy
chưa, hay vẫn còn mang nặng tính bề ngoài, tính vật chất, tính câu nệ hình
thức, và vẫn còn lệ thuộc nặng nề về thời gian lẫn không gian? Việc thờ phượng
Thiên Chúa của chúng ta hiện nay đã đúng với tinh thần Tân Ước của Đức Giêsu
chưa, hay vẫn theo tinh thần Cựu Ước của đám kinh sĩ và biệt phái Do Thái xưa,
vốn đã bị Đức Giêsu coi là lỗi thời từ 2000 năm nay?
Thiết tưởng chúng ta nên đặt lại vấn
đề này một cách nghiêm chỉnh, và sửa đổi lại những gì chưa đúng. Điều quan
trọng chúng ta cần tìm hiểu là: Thế nào là “thờ phượng Thiên Chúa trong thần
khí và sự thật”?
* Thờ phượng trong thần khí
Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa là thần
khí, nên những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí”. Thần khí
(pneuma - esprit - spirit) là tinh thần, tâm linh, thuộc thế giới nội tâm,
không thấy được. Thần khí thì ngược với vật chất, thể lý, thuộc thế giới bên
ngoài, cụ thể, thấy được. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa
hữu hình, nên việc thờ phượng Thiên Chúa không nhất thiết phải xảy ra ở bên
ngoài, trong không gian và thời gian. Theo Đức Giêsu, Ngài là thần khí, là tinh
thần, là thiêng liêng, nên việc thờ phượng Ngài cũng phải thực hiện trong thần
khí, trên bình diện tinh thần, nghĩa là một cách thiêng liêng, trong nội tâm
con người. Hành vi thờ phượng phải là hành vi của tâm hồn, là thái độ của nội
tâm, hơn là hành vi của thể xác. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một Thiên
Chúa cứ phải nghe ta nói, nhìn ta biểu lộ ra ngoài mới hiểu được ta; trái lại,
Ngài biết hết, thấu hiểu hết những gì ta nghĩ, ta cần, ta muốn nói: “Cha trên
trời thừa biết anh em cần những gì rồi” (Mt 6,32; Lc 12,30). Vì thế, xét về
phía Thiên Chúa, việc thờ phượng Ngài không cần thiết phải biểu lộ ra bên ngoài
bằng lời nói, bằng lễ nghi, bằng những biểu hiện bên ngoài: “Khi cầu nguyện,
anh em đừng nhiều lời như dân ngoại; họ tưởng cứ nói cho nhiều là được nhận lời”
(Mt 6,7). Điều Ngài mong muốn nằm trong thái độ nội tâm của chúng ta: tinh thần
từ bỏ, tự hủy, lòng quảng đại, biết ơn, khâm phục, nhất là tình yêu dành cho
Ngài. Nếu Giáo Hội chủ trương phải biểu lộ việc thờ phượng ra bên ngoài thì
không phải là vì Thiên Chúa mà vì con người: để việc thờ phượng mang tính cộng
đoàn, tính Giáo Hội, hay để biểu lộ vinh quang Thiên Chúa cho con người, v.v...
Ngày nay, cần phải thay thế việc thờ
phượng Thiên Chúa qua những hình thức bên ngoài bằng việc thờ phượng Thiên Chúa
trong thần khí. Lễ vật dùng để sát tế, để toàn thiêu không còn là chiên, bò,
hay bất kỳ một vật nào khác, mà phải là “cái tôi” ích kỷ và kiêu căng của ta,
là ý riêng của chúng ta, là những dự định dù tốt hay xấu nhưng không phù hợp
với ý muốn của Thiên Chúa. Bàn thờ hay đền thờ - nơi sát tế - là chính tâm hồn
ta. Thời điểm sát tế không còn là một thời điểm cố định nào do con người qui
định, mà phải là thời gian liên tục. Vì sát tế không còn là một hành động xảy
ra vào những thời điểm nhất định nào đó, cho bằng một thái độ nội tâm thường
hằng trong đời sống ta, thậm chí trở thành một yếu tố cố định trong bản tính
của ta. Cầu nguyện cũng không còn là một hành động cho bằng một trạng thái
thường hằng của nội tâm. Một biểu hiện lý tưởng của việc thờ phượng trong thần
khí đã được Đức Giêsu nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay: “Lương thực của Thầy
là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”.
Việc quan tâm thi hành thánh ý Thiên Chúa phải thay thế cho việc quan tâm thực
hiện ý riêng mình, phải trở thành lương thực nuôi sống đời sống tâm linh của
ta.
* Thờ phượng trong sự thật
Thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật
khác với thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối. Thờ phượng Thiên Chúa trong sự
thật đòi hỏi những gì mình nói với Thiên Chúa phải phản ảnh đúng những tâm
tình, ý nghĩ trong đầu óc mình, và đúng với thực tế của đời sống mình. Còn thờ
phượng Thiên Chúa trong giả dối là có sự khác biệt giữa điều mình cầu nguyện
với tâm tư, tình cảm và đời sống thực tế của mình. Cầu nguyện như thế chẳng
những hoàn toàn vô ích mà còn xúc phạm và tỏ ra coi thường Thiên Chúa nữa. Nếu
không thể thờ phượng Thiên Chúa trong sự thật, thì thà rằng đừng thờ phượng còn
hơn là thờ phượng Ngài trong giả dối.
Ngày xưa, người ta có thể giết chết
một con vật làm lễ toàn thiêu, để tượng trưng cho việc họ nhìn nhận quyền Chủ
Tể trên mọi sự của Thiên Chúa. Hành động tế tự đó hoàn toàn xảy ra ở bên ngoài.
Nhưng bên trong, người ta vẫn có thể tiếc với Thiên Chúa những chuyện rất nhỏ:
chẳng hạn họ không thể từ bỏ một ý riêng, một sở thích, một vật đang muốn chiếm
hữu, hoặc hoãn thi hành một dự định, hy sinh một cơ hội, v.v... để làm đẹp lòng
Thiên Chúa. Như vậy, hành động thờ phượng bên ngoài chẳng phù hợp chút nào với
tâm trạng bên trong. Chính vì thế, có lần Đức Giêsu nói về việc thờ phượng của
họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng trí chúng thì lại xa Ta.
Việc chúng thờ phượng Ta thật là vô ích” (Mt 15,8-9; Mc 7,6-7; x, Is 29,13).
Ngày nay, có biết bao người khi cầu
nguyện thì nói rằng mình yêu mến Chúa, sẵn sàng hy sinh mọi sự vì Chúa; nhưng
trong đời sống thì chẳng thấy họ yêu mến Ngài ở chỗ nào. Họ thường nói với
Chúa: “Xin tha cho con như con vẫn tha kẻ có nợ với con”, nhưng trong thực tế,
họ chấp nhất và bắt bẻ lỗi người khác từng chút một! Điều tệ hại là người ta
vẫn cảm thấy an tâm, họ tưởng rằng làm như thế là đã chu toàn bổn phận thờ
phượng đối với Thiên Chúa! Thiên Chúa rõ ràng không ưa lối thờ phượng đó. Ngôn
sứ Isaia diễn tả sự ngao ngán và dị ứng của Thiên Chúa đối với kiểu thờ phượng
bên ngoài ấy: “Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, Ta đã ngấy. Máu bò, máu
chiên dê, Ta chẳng thèm! Thôi, đừng đem những lễ vật vô ích đến nữa. Ta ghê tởm
khói hương; Ta không chịu nổi ngày đầu tháng, ngày sa-bát, ngày đại hội, không
chịu nổi những người cứ phạm tội ác rồi lại cứ lễ lạc linh đình. Ta chán ghét
những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi. Những thứ đó đã trở thành
gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta
bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe.
Vì tay các ngươi đầy những máu” (Is 1,11b.13b-15). Thử đặt mình vào địa vị của
Ngài xem ta có thể chấp nhận một cung cách thờ phượng như thế không? Tại sao ta
lại có thể đang tâm tiếp tục thờ phượng Ngài theo kiểu ấy?
Cầu nguyện
Tôi nghe Chúa nói với tôi: “Ta đã chán
những lễ nghi rỗng tuếch, ghét những những nghi thức trang trọng mà người cử
hành chẳng tỏ ra có chút tình thương nào trong lòng. Ta cần tình thương của con
người, nhưng họ lại chỉ dâng lên Ta toàn những nghi thức, lời kinh trống rỗng!”
17. Suy niệm của Đan Vinh.
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
1) Ý chính: Đức Giêsu thanh tẩy đền
thờ.
Với
lòng nhiệt thành yêu mến Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chấp nhận được cảnh
tượng bát nháo diễn ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người đã biểu lộ uy quyền của
Con Thiên Chúa bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con buôn với tiền bạc, chiên bò,
chim câu... ra khỏi Đền Thờ. Người tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và khẳng định
rằng: Từ nay việc thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa sẽ phải được cử hành trong Đền
Thờ Mới là thân xác Phục Sinh của Người và sẽ tồn tại mãi mãi, thay cho sự thờ
phượng tại Đền Thờ Giêrusalem bằng gỗ đá chỉ có tính tạm thời và sẽ bị phá hủy
sau này.
2) Chú thích:
*
Gần đến Lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem. Người
thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi
đổi tiền. Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên
bò r a khỏi Đền Thờ. Còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật
nhào bàn ghế của họ (Ga 2, 13-15):
]
Lễ Vượt Qua của dân Do Thái, Đức Giêsu lên thành Giêrusalem: Vào thời Đức
Giêsu, lễ Vượt Qua là một trong ba đại lễ, buộc người Do Thái ở khắp nơi phải
hành hương về đền thánh Giêrusalem để sát tế và ăn bữa tiệc chiên vượt qua, kỷ
niệm biến cố Xuất Hành, trong đó Đức Chúa dùng Môsê, giải phóng con cháu Giacóp
là dân Do Thái khỏi ách làm nô lệ cho dân Ai cập.
]
Người thấy trong Đền Thờ: Đền Thờ là dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa dân Người.
Câu
hỏi: Theo lịch sử dân Ítraen thì đã có bao nhiêu Đền Thờ được xây dựng tại
Giêrusalem và cấu trúc của các Đền Thờ ấy thế nào?
Đáp:
Không kể đền thờ tạm là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái đi qua sa
mạc, còn có ba Đền Thờ được xây dựng tại Giêrusalem là Đền Thờ Salômon, Đền Thờ
Sau Lưu Đầy và Đền Thờ Hêrôđê như sau:
Đền
thờ Salômon: Dưới triều vua Đavít, tuy Hòm Bia đã được đem về Giêrusalem, nhưng
vẫn còn được để giữa Mái Lều Vải Nhà Tạm (x.2 Sm 6,17). Vua Đavít muốn xây một
Đền Thờ để kính Đức Chúa. Nhưng ngôn sứ Nathan tuyên sấm lời Đức Chúa là sẽ
dành việc xây dựng ấy cho con của ông (x.2 Sm 7,2.13). Sau đó, vua Salômon đã
thực hiện ý định của vua cha Đavít vào năm 970 và Đền Thờ đã được hoàn tất sau
7 năm thi công (1 V 6,37-38). Đền Thờ này nằm giữa một khu đất rộng là Sân
Trước. Tại đây có Bàn Thờ Toàn Thiêu bằng đồng (x. 1 V 8,64). Đền Thờ có chiều
dài ba mươi thước, chiều rộng mười thước và chiều cao mười lăm thước, gồm Gian
Tiền Đình, Gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh. Tại Gian Cung Thánh có Bàn Thờ
Hương, Bàn Bánh Tiến và Mười Chân Đèn bằng vàng (x. 1 V 6,20-21; 7,48-49). Nơi
Cực Thánh nằm giữa Đền Thờ có một Bàn Thờ bằng gỗ bá hương và được dát bằng
vàng ròng (x.1 V 6,2. 16-22). Tại Nơi Cực Thánh, Hòm Bia Giao Ước được đặt ngay
dưới đôi cánh của hai bức tượng Thần sứ Kêrubim. Vào năm 586 trước Công Nguyên,
quân Babylon xăm lăng tàn phá thành Giêrusalem và Đền Thờ Salômon này cũng bị
phá hủy. Các báu vật trong Đền Thờ đã bị chiếm đoạt mang về Babylon.
Đền
thờ sau lưu đày: Được xây trên nền của Đền Thờ cũ và kích thước cũng như trước.
Đền Thờ này kém bề thế hơn và Nơi Cực Thánh để trống không. Trong Gian Cung
Thánh có đặt một Chân Đèn 7 Ngọn thay cho 10 ngọn đèn như trong Đền Thờ Salômon
trước đó. Dân hồi cư trước hết đã tái lập Đền Thờ Toàn Thiêu. Việc xây dựng Đền
Thờ Kéo dài trong 5 năm và được thánh hiến vào năm 515 trước Công Nguyên. Năm
169 Đền Thờ này lại bị vua Antiôcô IV chiếm đoạt và xúc phạm. Đến năm 164,
Giuđa Máccabê đã thanh tẩy Đền Thờ, lập một Bàn Thờ Toàn Thiêu mới và trang
hoàng lại Gian Cung Thánh.
Đền
thờ Hêrôđê: Để tranh thủ sự ủng hộ của dân chúng, Hêrôđê đã mở rộng chu vi và
trang trí lại bên trong Đền Thờ. Công việc trùng tu Đền Thờ bắt đầu từ năm 20
trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công Nguyên mới tạm xong và được tổ chức
khánh thành các công trình chính (x.Ga 2,20). Sau đó việc trùng tu Đền Thờ lại
tiếp tục đến năm 63 sau Công Nguyên mới chấm dứt. Về mặt cấu trúc: Đền Thờ có
bốn hàng cột nằm ở ba mặt của Đền Thờ: Về phía Đông có hành lang Salômon (x. Cv
3,11; 5,12); Phía Tây Bắc có pháo đài Antônia thông ra sân ngoài. Nơi đây
thường xuyên có một tiểu đoàn quân lính Rôma trú đóng, mục đích giữ gìn an ninh
trật tự trong các dịp lễ lớn của dân Do Thái và sẵn sàng trấn áp bạo loạn (x.
Cv 21,31-37). Đền Thờ có bốn cổng lớn. Một bức tường bằng đá được dùng làm ranh
giới cấm lương dân vượt qua. Nội vi Đền Thờ có nhiều sân: Bên ngoài bức tường
đá là sân lương dân, là nơi các luật sĩ thường lui tới bàn luận với nhau (x. Cv
3,11). Sân nữ giới nằm giữa nơi có dân chúng ra vào và ăn thông với Cửa Đẹp (x.
Cv 3,2). Tiếp theo là sân Ítraen dành cho nam giới. Cuối cùng là sân Tư Tế. Tại
đây có đặt một Bàn Thờ Toàn Thiêu. Cách đó 10 thước, toàn bộ thánh điện được
thiết kế giống như Đền Thờ ngày xưa gồm Tiền đường, Nơi Thánh và Nơi Cực Thánh.
Về số phận của Đền Thờ Hêrôđê: Đức Giêsu đã tiên báo sự sụp đổ của Đền Thờ này
(x. Lc 21, 5-7). Người cũng báo cho các tín hữu biết trước về ngày thành
Giêrusalem bị quân thù kéo đến bao vây và sẽ bị tiêu diệt. Sự kiện này được coi
như hình bóng của Ngày Tận Thế (x. Lc 21,20-28). Quả thật, lời tiên báo của Đức
Giêsu đã trở thành hiện thực: Dân Do Thái đã nổi loạn và quân Rôma do tướng
Titô chỉ huy đã đến bao vây Giêrusalem. Đến ngày mùng 06 tháng 8 năm 70, thành
đã bị thất thủ. Trong lúc hỗn loạn, một tên lính Rôma đã ném một bó đuốc vào
trong Đền Thờ, lửa bốc cháy tấm màn che giữa Gian Cung Thánh và Nơi Cực Thánh
và toàn bộ Đền Thờ đã bị thiêu hủy. Chỉ một ít đồ thánh như chân đèn 7 ngọn và
Bàn Thờ Dâng Bánh còn sót lại và được mang về Rôma như chiến lợi phẩm (x. Dcr
14,1).
] Có những kẻ bán chiên bò bồ câu và
những người đang ngồi đổi tiền: Tại sân lương dân, các Tư Tế cho một số người
bán chiên, bò và chim câu... để dân chúng mua mà dâng làm lễ vật cúng tế trong
Đền Thờ (x. Ga 2,14; Lc 2,24). Cũng có cả những người ngồi đổi tiền từ đồng
tiền của Rôma lưu hành ngoài xã hội, trên đồng tiền có hình và ký hiệu của
hoàng đế Xêda (x. Lc 20,24-25), nên bị cấm lưu hành trong Đền Thờ. Dân Do Thái
muốn đóng thuế Đền Thờ hay góp tiền trùng tu Đền Thờ (x. Lc 21,1-2) thì trước
hết phải đổi từ tiền của Rôma thành tiền của Đền Thờ tại bàn đổi tiền rồi mới
được đóng góp (x. Ga 2,14).
] Người liền lấy dây làm roi mà xua
đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ: Sự bất kính do bọn con
buôn gây ra như thế khiến Đức Giêsu rất đau lòng. Người nổi cơn thịnh nộ và đã
dùng giây thừng cột thú vật được ném bừa bãi ở nơi đó, chấp lại thành roi rồi
dùng roi ấy đánh đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ.
*
Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây,
đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán". Các môn đệ của Người nhớ lại
lời đã chép trong Kinh Thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây
sẽ phải thiệt thân". Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào
chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" Đức Giêsu đáp:
"Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng
lại" (Ga 2,16-19):
]
"Đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán": Nói câu này, Đức Giêsu tự
xưng là Con Thiên Chúa. "Nơi buôn bán" hay "hang trộm cướp"
là kiểu nói diễn tả tình trạng bất kính ở trong Đền Thờ, một nơi tôn nghiêm thờ
phượng Đức Chúa! Thế là ứng nghiệm lời các ngôn sứ đã tuyên sấm quở trách dân
Do Thái xưa (x. Gr 7,11).
]
"Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân":
"Sẽ phải thiệt thân" nghĩa là "sẽ phải chết". Như vậy ý
nghĩa lời Thánh Vịnh 69,10 như sau: lòng nhiệt thành với Đền Thờ sẽ dẫn Đức
Giêsu đến chỗ bị người đời bách hại (x.Ga 15,5).
]
Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi
thấy là ông có quyền làm như thế?": "Người Do Thái" trong câu
này ám chỉ các chức sắc Đền Thờ như các Tư Tế và Lêvi. Họ bực tức khi thấy Đức
Giêsu đuổi bọn con buôn ra khỏi Đền Thờ. Do đó họ hạch hỏi Đức Giêsu dựavào dấu
lạ nào để chứng minh mình được Thiên Chúa sai đến thực sự và có quyền xua đuổi
con buôn như thế. Trước đây họ cũng nhiều lần đòi Đức Giêsu chứng minh Người
được Thiên Chúa sai đến, bằng cách phải làm phép cho họ thấy mà tin Người (x.
Mt 12,38; Mc 8,11; Lc 11,16).
]
"Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng
lại": Ở đây, Đức Giêsu cho họ một phép lạ làm chứng Người được Thiên Chúa
sai đến, là phép lạ Người sẽ sống lại nội trong ba ngày. Tuy nhiên Đức Giêsu xử
dụng kiểu nói dụ ngôn mà các ngôn sứ hay dùng là đã gọi thân thể của mình là
Đền Thờ. Câu này có nghĩa là: Dù họ có giết chết Người thì cũng chỉ trong ba
ngày Người sẽ sống lại.
*
Người Do Thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong,
thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu
muốn nói ở đây là chính thân thể Người. Vậy, khi Người từ cõi chết chổi dậy,
các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó. Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu
đã nói (Ga 2,20-22):
]
Phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong: Các đầu mục Do Thái đã hiểu sai ý của
Đức Giêsu. Họ hiểu lời Người theo nghĩa đen nên mới nói về thời gian xây dựng
Đền Thờ mất 46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên và đến năm 26 sau Công
Nguyên mới tạm hoàn thành những công trình chính), đang khi ý Đức Giêsu ám chỉ
Đền Thờ là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng Hội Đồng Do Thái xét xử Đức
Giêsu do Caipha chủ tọa có hai kẻ đứng ra cáo gian rằng: "Tên này đã nói:
Tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa, và nội trong ba ngày sẽ xây cất lại" (Mt
26,61). Họ cũng nhắc lại điều tố cáo này khi lăng nhục Người trên thập gía (x.
Mt 27,40).
]
Nhưng Đền Thờ Đức Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người: Thân Thể Đức
Giêsu phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện và tỏ mình ra cho loài người (x. Ga
1,14). Thân Thể ấy là Đền Thờ Mới, là nơi thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí
và sự thật (x. Ga 4,23-24).
]
Khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó: Chỉ
dưới ánh sáng Phục Sinh và được ơn Thánh Thần tác động, các môn đệ mới hiểu
chính xác về lời nói và việc làm của Đức Giêsu (x. Ga 12,16; 14,26).
]
Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói: Lời Thiên Chúa trong Kinh Thánh
và Lời Đức Giêsu tiên báo đều đã được ứng nghiệm (x. Ga 18,9.32). Do đó cả hai
đều được các môn đệ tôn trọng.
*
Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh
Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. Nhưng chính Đức Giêsu không tin
họ, vì Người biết họ hết thảy, và không cần ai làm chứng về con người. Quả
thật, chính Người biết có gì trong lòng con người (Ga 2,23-25):
]
Nhiều kẻ tin vào danh Người. Nhưng chính Đức Giêsu lại không tin họ: Phép lạ
chỉ kích thích trí tò mò làm cho người ta đến xem để biết thực hư ra sao. Nhưng
đức Tin là bởi nghe (x. Rm 10,17) chứ không bởi thấy, như lời Đức Giêsu Phục
Sinh nói với Tôma: "Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người
không thấy mà tin!"(Ga 20,29). Một số khá đông dân chúng tin Đức Giêsu vì
đã thấy các phép lạ Người làm (x. Ga 12,17-18). Nhưng đức tin dựa trên mắt thấy
như vậy là đức tin bất toàn và không bền vững. Do đó Đức Giêsu không mấy tin
các tín hữu này. Thực vậy, khi bị xét xử trước tòa quan Philatô, trong số đám
đông dân chúng đòi kết án tử hình thập gía cho Đức Giêsu, chắc không thiếu
những kẻ đã từng tin và hoan hô Người là "Con Vua Đavít", "Đấng
nhân Danh Chúa mà đến!" lúc Người khải hoàn vào thành Giêrusalem (x. Lc
19,37-38; Ga 12,12-15). Đàng khác, không phải cứ trông thấy phép lạ là người ta
sẽ tin. Các kẻ thù của Đức Giêsu đã từng chứng kiến bao phép lạ người làm, thế mà
họ đâu có tin. Ngược lại còn quyết tâm tiêu diệt Người nữa (x. Ga 11,45-53). Họ
xuyên tạc để lôi kéo dân chúng đừng tin theo Người, như nói rằng: "Ông ta
nhờ tướng quỉ mà trừ quỉ" (Mc 3,22).
]
Người biết họ hết thảy: Thánh gioan đã ghi lại nhận xét này khi thấy dân chúng
nô nức đi theo Đức Giêsu. Người biết rõ ý của họ và đã nói thẳng với họ rằng:
" Thật, tôi bảo thật các ông: Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã
thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê!" (Ga 6,26). Trong phép
lạ chữa bệnh nhân bại liệt, Mátthêu cũng viết: "Đức Giêsu biết ý nghĩa của
họ liền nói: Sao các ông lại nghĩ xấu trong bụng như vậy?..." (Mt 9,4).
II. HỌC SỐNG LỜI CHÚA
1)
"Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây. Đừng biến Nhà Cha tôi thành nơi
buôn bán" (Ga 2,16):
Câu
chuyện: Tiếng chim hót trong bụi mận gai.
Thỉnh
thoảng đài truyền hình VN lại cho chiếu bộ phim "Tiếng chim hót trong bụi
mận gai" mà tác gỉa là một nữ văn sĩ người Úc theo đạo Tin Lành. Khi viết
cuốn tiểu thuyết này, bà đã đứng trên quang điểm của đạo Tin Lành để phê phán
luật độc thân của hàng giáo sĩ Công Giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là cơ
hội để chúng ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng tiền ảnh hưởng thế nào trong cuộc
sống cá nhân và cộng đoàn Giáo Hội.
Câu
chuyện về một linh mục là Cha Ráp (Ralph). Ráp là một linh mục trẻ nhiều tài
năng nhưng cũng đầy tham vọng. Vị linh mục này có khá nhiều ưu điểm, có sức
cuốn hút nhiều người đến với mình. Nhưng đồng thời ông ta cũng muốn được nổi
danh và ham mê tiền bạc. Trong số các người mến mộ Cha Ráp, có một bà già quí
phái giàu có. Bà quí mến Cha cách đặc biệt nhưng không được đáp lại, nên tình
yêu đã biến thành thù hận. Thay vì trả thù theo kiểu thường tình, thì người đàn
bà này có sáng kiến gài bẫy để bôi đen cuộc đời vị linh mục trẻ: Trước khi chết,
bà đã làm tờ di chúc dâng cúng toàn bộ tài sản kếch sù của bà cho Giáo Hội Công
Giáo, với điều kiện duy nhất là Giáo Hội phải cử Cha Ráp làm quản lý số tài sản
đó. Cách trả thù của bà quí phái giàu có đã thành công: Cha Ráp dần dần được
cất nhắc lên địa vị khá cao trong Giáo Hội. Nhưng đồng thời chính đồng tiền mà
Cha quản lý đã làm cho đời sống tinh thần của Cha ngày một xuống cấp và cuối
cùng Cha đã sa ngã vào các đam mê tội lỗi, trái với sự tình nguyện "sống
độc thân vì Nước Trời" mà Cha đã khấn hứa.
Suy
nghĩ và thảo luận:
] Suy nghĩ: Câu chuyện trên dầu sao
cũng nói lên một thực tại: Hễ là người thì dù ở trong bất cứ hoàn cảnh hay bậc
sống nào, nếu không biết khôn ngoan phòng tránh, thì đều có nguy cơ bị ngã gục
trước sức mạnh của đồng tiền! Thực ra: Tiền của là một nhu cầu không thể thiếu
trong cuộc sống: "Đồng tiền liền khúc ruột!", hay như lời Chúa dạy:
"Kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó" (Mt 6,21). Tiền bạc giúp
người ta sống xứng với nhân phẩm: "Phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh
đạo tặc!". Tiền bạc cần để duy trì các hoạt động của mọi tổ chức từ trên
xuống dưới, mà còn làm được rất nhiều việc hữu ích về phụng vụ, truyền giáo,
bác ái xã hội, phục vụ những người nghèo khổ, bệnh tật và bất hạnh... Tuy
nhiên, "Tiền của sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu".
Bao lâu ta coi đồng tiền là phương tiện thì nó giúp ta làm được rất nhiều việc
tốt đẹp hữu ích cho Chúa và tha nhân. Vì "có tiền mua tiên cũng
được!". Nhưng nếu ta quá coi trọng đồng tiền, biến nó trở thành mục đích
cuộc đời mình. Nếu lúc nào ta cũng lo kiếm tiền bằng bất cứ giá nào, thì bấy
giờ đồng tiền sẽ trở thành ông chủ và sẽ sai khiến ta ăn ở bất công với người
dưới, bất nhân độc ác khi cố tình làm ngơ trước nỗi đau của đồng loại, hoặc khi
tranh chấp quyền lợi với đối phương, gian dối và lừa đảo trong các quan hệ kinh
doanh làm ăn, vô lương tâm và không còn nghĩ tới tội phúc, thưởng phạt đời
sau...
] Thảo luận: Theo bạn thì việc thờ
phượng Thiên Chúa tại nhà thờ và làm chứng cho Đức Kitô ngoài xã hội, Giáo Hội
có cần tiền bạc không và cần tiền làm gì? Bạn sẽ làm gì để giúp Giáo Hội có
tiền bạc để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân cách tốt đẹp hơn? Giả như Đức
Giêsu sắp đến viếng thăm bạn, vậy cần phải cấp thời thanh tẩy những gì trong
tâm hồn của bạn để tránh bị Người nổi giận?
2)
Tránh trở nên chướng ngại vật cản trở tha nhân tìm đến với Chúa:
Câu
chuyện: Niềm tin của Thánh Găngđi nước Ấn độ:
Khi
còn là một sinh viên, Găngđi (Mahatma Gandhi) được du học tại Nam Phi một thuộc
địa của nước Anh. Tại đây nổi tiếng về tệ nạn phân biệt chủng tộc. Trong thời
gian này, Găngđi có dịp đọc Kinh Thánh của Kitô giáo và lập tức ông bị giáo
thuyết của Đức Giêsu cuốn hút, nhất là kinh Tám Mối Phúc thật trong phần Bài
Giảng Trên Núi. Ong rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình yêu phổ quát và
bình đẳng giữa mọi người, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn, địa vị cao
thấp, là Do Thái hay lương dân...Găngđi nghĩ rằng: Có lẽ Kitô giáo chính là
giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết tận gốc sự phân biệt giai cấp trong
xã hội An Độ quê hương của ông. Găngđi nghĩ mình nên tìm hiểu và sớm gia nhập
vào Kitô giáo.
Ngày
nọ, Găngđi có ý định đi bộ đến một nhà thờ để mong được chứng kiến lễ nghi
trong đạo và cũng để tìm hiểu thêm về giáo lý Công Giáo. Tuy nhiên, khi ông
bước đến cửa nhà thờ thì bị người giữ cửa chặn lại và không cho ông bước vào
nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng thật là bất
ngờ khi người giữ cửa lại nói như sau: "Đây là Nhà thờ dành riêng cho
người da trắng. Nếu mi muốn tìm hiểu đạo, thì hãy tìm đến Nhà thờ khác dành
riêng cho dân da màu mà xin!". Găngđi rất tức giận và bỏ về nhà, ông ghi
lại cảm tưởng trong nhật ký của ông như sau: "Tôi rất thán phục Đức Giêsu
và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Người. Thế nhưng tôi rất bất mãn
mỗi khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Người! Nếu trong đạo Kitô mà
cũng còn phân biệt chủng tộc như vậy, thì Kitô giáo đâu có hơn gì Ấn Giáo có
phân biệt giai cấp của tôi? Thôi, tôi cần chi phải gia nhập đạo này. Tốt nhất
là tôi cứ chấp nhận có bất toàn trong Ấn Giáo và cố gắng sống theo giáo lý
truyền thống của cha ông là đủ!".
Suy
niệm: Vô tình hay hữu ý, ai trong chúng ta chắc cũng có lần trở thành một
chướng ngại vật, ngăn cản anh chị em lương dân tìm đến gặp Chúa. Chỉ cần một
lời nói sẵng giọng và thiếu tế nhị, một thái độ lạnh nhạt thiếu nhã nhặn hay
một cử chỉ khinh dễ coi thường tha nhân, một hành động hẹp hòi ích kỷ trái với
tinh thần quảng đại vị tha của Tin Mừng hoặc một gương mù gương xấu nơi vị chủ
chăn...là có thể chúng ta đã xua đuổi anh chị em lương dân ra khỏi nhà thờ và
sau này họ khó còn cơ hội nào khác để trở lại.
3)
Cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại (Ga 2,19):
Câu
chuyện: Tiền vào nhà, Chúa đi ra:
Ở
bên Pháp, có đôi vợ chồng bác nông dân kia làm tá điền cho một ông bá tước giàu
có. Đội vợ chồng này tuy nghèo nhưng lại có lòng đạo đức. Mỗi buổi sáng, khi
vừa nghe tiếng chuông nhà thờ là hai vợ chồng đã lập tức thức dậy và mau mắn
đến nhà thờ tham dự Thánh Lễ và Rước lễ sốt sắng. Sau lễ, họ trở về nhà, vội ăn
sáng rồi vác cuốc ra đồng làm việc và mãi đến chiều tối mới trở về nhà. Ngày
nào hai vợ chồng cũng đều đọc kinh tối chung với nhau trước khi ngủ. Họ luôn
sốngvui vẻ hòa thuận và chưa hề nghe họ cãi vã to tiếng với nhau bao giờ. Họ
được mọi người trong làng khen ngợi bình chọn là một gia đình đạo đức tiêu biểu
và họ trở thành gương sáng cho các đôi vợ chồng khác học tập noi theo. Ông chủ
đất này muốn thử xem lòng đạo đức của đôi vợ chồng tá điền kia có thật hay
không. Một hôm, ông sai gia nhân mang một túi đựng 100 đồng tiền vàng đến bí
mật để ngay trước cửa nhà của đôi vợ chồng bác tá điền. Sáng hôm ấy, khi mở cửa
đi lễ như thường lệ thì phát hiện ra một túi tiền vàng được ai đó để trước cửa
nhà. Thế là đôi vợ chồng thôi không đi lễ nữa và vội đóng cửa lại để đếm tiền.
Đếm đi đếm lại mãi, đến nỗi họ chẳng thiết gì đến ăn uống và không ra đồng làm
việc. Sau khi đã nắm vững số tiền đang giữ, hai vợ chồng bàn định tìm chỗ để
cất giấu cho an toàn. Mỗi người một ý không ai chịu ai cả, và lần đầu tiên họ
đã cãi vã nhau. Cuối cùng họ nhất trí sẽ để túi tiền ngay dưới gối và nằm đè
lên cho chắc ăn. Tuy vậy, họ vẫn khống yên tâm, nên cả hai đều không dám rời xa
chiếc giường. Thực đúng như lời Chúa đã phán: "Kho tàng của ngươi ở đâu
thì lòng ngươi cũng ở đó" (Mt 6,21). Lúc nào tâm trí họ cũng nghĩ tới số
tiền kia đến dộo ăn uống ngủ nghĩ thất thường. Cũng từ hôm ấy, hai vợ chồng
chẳng còn tha thiết cùng đi dâng lễ mỗi sáng và đọc kinh tối chung với nhau
nữa! Lòng họ lúc nào cũng lo sợ sẽ có ngày chủ nhân túi tiền đến đòi lại số
tiền ấy. Sau một tuần căng thẳng, cả hai vợ chồng đều suy nhược và bị cảm ho
đau nhức phải nằm liệt giường. Khi biết rõ tình trạng của đôi vợ chồng này, một
hôm ông bá tước đã đến thăm hỏi. Trong cuộc nói chuyện, ông đã ôn tồn giải
thích cho đôi vợ chồng biết nguyên nhân gây ra bệnh của họ. Ông cũng tường
thuật cặn kẽ các việc ông đã làm cách đó một tuần để chứng minh lời Đức Giêsu
nói: "Không ai có thể làm tôi hai chủ!...Anh em không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Mt 6,24), và lời thánh Phaolô:
"Lòng yêu mến tiền của là căn nguyên của mọi sự dữ" (1 Tm 6,10). Ông
bá tước đã thuyết phục được đôi vợ chồng tá điền sẵn lòng trả lại túi vàng cho
ông không thiếu đồng nào. Cũng từ lúc đó, đôi vợ chồng tá điền đã tìm lại được
sự bình an trong tâm hồn. Họ lại vui tươi yêu đời, sớm hôm đọc kinh dự lễ để
thờ phượng Chúa, phó thác cuộc sống trong tay Chúa Quan Phòng, và thực thi giới
răn yêu thương như Đức Giêsu đã dạy.
III. HIỆP SỐNG NGUYỆN CẦU
1.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ ra uy nghiêm và quyết liệt khi dùng roi xua đuổi bọn
con buôn ra khỏi Đền Thờ, không ngại bị họ thù ghét làm hại. Nếu Chúa sống
trong thời đại của chúng con hôm nay, chắn hẳn Chúa đã phải mạnh tay hơn để tẩy
uế, khi nhiều ngôi Thánh Đường đã bị coi thường. Một số nhà thờ vì không có
khuôn viên và chung quanh là đường đi, nên bị một số nười thiếu ý thức đem rác
đến đổ bừa bãi, biến sân nhà thờ thành một bãi rác lộ thiên. Rồi chó mèo tự do
phóng uế làm mất vệ sinh chung sân Nhà Chúa. Rồi cả những phần tử bất hảo cũng
kéo đến tổ chức ăn nhậu, bài bạc, hút chích và đàng điếm... gây cảnh ồn ào náo
loạn làm mất sự trang nghiêm trật tự lẽ ra phải có ở nơi dành riêng cho việc
thờ phượng.
Lạy
Chúa, nhất là thân xác của chúng con là Đền Thờ Chúa Thánh Thần, thế mà nhiều
lần đã trở nên nhơ uế khi chúng con suy nghĩ, nói năng và hành động theo thói
thế gian, chiều theo tính xác thịt của mình thay vì theo ý Chúa, khi chúng con
chiều theo các đam mê lạc thú bất chính mà phạm tội mất lòng Chúa. Trong những
ngày Mùa Chay này, xin Chúa giúp chúng con thanh tẩy tâm hồn và thể xác nhờ
siêng năng đến nhà thờ cầu nguyện dâng lễ, tích cực tham dự các buổi tĩnh tâm,
làm các việc hãm mình để biểu lộ tâm tình sám hối, quyết tâm đổi mới đời sống
để mỗi ngày trở nên con ngoan hiếu thảo của Chúa Cha, và sống hòa thuận yêu
thương để trở thành anh chị em thực sự của mọi người.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời
chúng con.
2.
Lạy Thánh Mẫu Maria, trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã trả lời cho các
đầu mục Do Thái về dấu lạ chứng minh Người có quyền xua đuổi con buôn ra khỏi
Đền Thờ. Đó là: " Cứ phá hủy Đền Thờ do tay người phàm xây dựng, và chỉ
trong ba ngày tôi sẽ xây dựng một Đền Thờ khác không phải do tay người
phàm!" (Mc 14,58; Ga 2,19).
Lạy
Mẹ, chúng con hiểu rằng Chúa muốn dạy chúng con: cần phải phá hủy con người cũ
với những đam mê tội lỗi, để từ đó phát sinh ra một con người mới thánh thiện
đẹp lòng Thiên Chúa. Những việc thờ phượng có tính hẹp hòi, nặng hình thức phải
được thay bằng một tâm tình yêu mến tha thiết. Cần phải thờ phượng Chúa trong
thần khí và sự thật (x. Ga 4,23). Vậy trong những ngày Mùa Chay này, xin Mẹ
giúp chúng con thanh luyện và đổi mới cách thờ phượng theo thánh ý Chúa.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria. - Đ) Xin Chúa nhậm lời
chúng con.
18.
Chú giải của Lm Vũ Phan Long
ĐỨC GIÊSU TẨY UẾ ĐỀN THỜ
1.- Ngữ cảnh
Lần đầu tiên, tác giả Gioan có một bản
văn song song với các Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 11,15-19; Mt 21,12-17; Lc
19,45-48). Tuy nhiên, có những khác biệt:
-
Trong khi Tin Mừng IV đặt biến cố này vào đầu
sứ vụ của Đức Giêsu, các Tin Mừng Nhất Lãm lại đặt ở đầu tuần Khổ Nạn.
-
Lý do đã thúc đẩy Đức Giêsu can thiệp được
gợi hứng bởi các bản văn ngôn sứ, cũng không giống nhau: “một nơi buôn bán” (Ga
2,16) thì nhắm đến chuyện mua qua bán lại, còn “sào huyệt của bọn cướp” (Mc
11,17 và //) thì hàm chứa một cáo giác về sự trộm cắp.
-
Cuối cùng, cuộc cãi vã giữa Đức Giêsu và các
đối thủ xảy ra ngay sau đó (theo Ga), hoặc lại vào ngày hôm sau (theo các Tin
Mừng Nhất Lãm: Mc 11,28 và //).
Trong quá khứ, người ta thường đề nghị
một giả thuyết, theo chiều hướng tương phù (concordism): Đức Giêsu đã đuổi
những người buôn bán khỏi Đền Thờ 2 lần, vào đầu sứ vụ (Ga) và cuối sứ vụ (Tin
Mừng Nhất Lãm). Nhưng dường như khó tin được rằng Đức Giêsu có thể lặp lại được
một thách đố như thế đối với giới lãnh đạo Do Thái giáo. Đàng khác, giữa bản
văn của Ga và của các Tin Mừng Nhất Lãm có những nét tương đồng, khiến người ta
phải nghĩ rằng hầu chắc các bản văn ấy đều đề cập tới một biến cố duy nhất: nơi
cả hai bên, ta đều thấy cùng một cơ hội đã khiến Đức Giêsu làm cử chỉ ấy (sự
hiện diện của những người buôn bán và đổi tiền trong Đền Thờ), có một lời Đức
Giêsu trách mắng những người bán hàng, sự can thiệp của các thủ lãnh Do Thái,
và nhất là dây liên hệ chặt chẽ giữa hành động này và cái chết của Đức Giêsu (Ga
2,17.19; Mc 11,18; Lc 19,47).
Vậy phải chọn giữa bài của Gioan và
bài của Tin Mừng Nhất Lãm: bài nào đã đặt biến cố này vào đúng thời điểm?
1. Đa số các nhà chú giải Công Giáo và
nhiều nhà chú giải Tin Lành ủng hộ bài của Gioan. Luận điểm chính nằm trong chi
tiết về thời gian do 2,20 cung cấp: Công việc xây dựng Đền Thờ bắt đầu từ năm
20/19 tr CG (Fl. Josèphe, Ant XV, 380); vào lúc này là năm 28/27 CN: thời điểm
này phù hợp với khởi đầu sứ vụ của Đức Giêsu hơn. Khi đó, người ta hiểu các Tin
Mừng Nhất Lãm đã đặt biến cố này vào cuối sứ vụ của Đức Giêsu, bởi vì các Tin
Mừng Nhất Lãm chỉ nói đến một chuyến đi lên Giêrusalem duy nhất và một lễ Vượt
Qua duy nhất.
2. Những người nghiêng về các Tin Mừng
Nhất Lãm thì ghi nhận trước tiên rằng dây liên kết giữa thách đố này của Đức
Giêsu và cái chết của Người không mấy phù hợp với thời gian khởi đầu sứ vụ của
Người. Tại cuộc xử án Đức Giêsu, lời của các nhân chứng nhắc lại câu tuyên bố
của Người về việc phá Đền Thờ giả thiết là sự việc mới xảy ra, nên người ta còn
nhớ rõ. Nhưng luận điểm mạnh nhất, là tác giả Gioan đã đưa bài tường thuật này
ra đầu sứ vụ của Đức Giêsu, vì ông trung thành với quan điểm ông đã biểu lộ
trong bài tường thuật Dấu lạ Cana (Ga 2,4.11): ông muốn quy hướng toàn thể sứ
vụ của Đức Giêsu ngay từ đầu về “giờ” Khổ Nạn của Người; hơn nữa, Gioan muốn
rằng Do Thái giáo chính thức được chứng kiến Đức Giêsu biểu lộ tư cách Mêsia
của Người ngay từ đầu, để những người Do Thái phải ở trong một tư thế bị phán
xét.
Nói cho cùng, thật khó chọn bài nào,
bởi vì cả hai luận đề đều có những lập luận vững chắc.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1)
Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (2,13-17);
2)
Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại Đền Thờ (2,18-22);
3)
Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô (2,23-25).
3.- Vài điểm
chú giải
- Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái (13): Thời gian
của dấu lạ này dĩ nhiên gợi nhớ tới lễ Vượt Qua trong đó Đức Giêsu sẽ bị xử tử.
Tương quan giữa việc tẩy uế Đền Thờ và cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu đã được ám
chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47t sẽ ghi nhận rằng sự can thiệp của Đức Giêsu, vì kết
án cả giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ khiến các thượng tế và các kinh sư quyết
định “giết Người”.
- trong Đền Thờ (en tôi
hiêrôi, 14): Đây là tiền đường của Đền Thờ (đối lại với naos là Đền Thờ đúng
nghĩa, gần gian Thánh và gian Cực Thánh).
- Các môn đệ của Người nhớ lại (17): Sau
khi Đức Giêsu sống lại, khi Thánh Thần đã ban cho các ông hiểu các dấu chỉ Thầy
đã làm, các môn đệ đã hiểu biến cố hôm nay:
-
Người Do Thái (18): Trong thực tế, đây là giới lãnh đạo Đền Thờ
(các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), những người chịu trách nhiệm về tình
trạng vừa bị Đức Giêsu kết án. Như ở khắp nơi trong Tin Mừng, tác giả Gioan
không phân biệt giữa các nhà lãnh đạo và dân Do Thái đã từ chối tin vào Đức Kitô.
Vậy phải nói là toàn thể hệ thống phượng tự của dân này đang được đề cập đến.
- Các ông cứ phá hủy (làm tan rã) Đền Thờ này
đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức dậy) (19): Câu
này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”, hoặc như một câu ở
thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả thiết: “Cứ giả sử
là các ông phá hủy...”. Thật ra, các động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức
dậy” (egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả.
- bốn mươi sáu năm (20): Đền Thờ,
với phần cung thánh và tiền đường, đã được vua Hêrôđê rộng tay chi tiền sửa
sang lại thật huy hoàng. Khởi công vào năm 16 triều đại ông (x. Fl. Josèphe,
Ant. jud., 15, 11, 1) vào năm 734-735 thành Rôma, là năm 20-19 tCN, các công
việc đã kéo dài cho tới thời Tổng đốc Anbinô, năm 62-64 (Ant. jud., 20, 9, 7).
Vào thời điểm của bài tường thuật này, chúng ta ở vào năm xây dựng thứ 46. Lấy
khởi điểm là năm 20 hoặc 19, sự cố tẩy uế Đền Thờ đã xảy ra vào lễ Vượt Qua năm
27 hoặc 28. Điều này phù hợp với Lc 3,2, vì bản văn này đã xác định phép rửa
của Đức Giêsu xảy ra vào năm 15 triều đại Tibêriô, tức giữa ngày 1-10-27 và
30-9-28.
- ... là chính thân thể Người (21): Đền Thờ mới
sẽ thay thế Đền Thờ cũ đã bị tục hóa chính là thân thể phục sinh của Đức Kitô.
Với lời giải thích của thánh Phaolô (x. 1 Cr 3,16 và 12,27; Ep 2,21 và 4,12),
Đền Thờ mới là Giáo Hội, thân thể vinh hiển của Đức Kitô phục sinh, và tất cả
các tín hữu được kết hợp với Người.
- Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các
môn đệ nhớ lại... Họ tin (22): Tác giả Máccô cứ đều đặn ghi nhận
rằng các môn đệ không hiểu. Gioan thì nói cách tích cực rằng các môn đệ hiểu
sau khi Đức Kitô đã sống lại (12,16). Chỉ khi Đức Giêsu được tôn vinh, các ông
mới được nhận Thánh Thần (7,39), và Thánh Thần mới cho các ông hiểu tất cả
những dấu lạ Đức Giêsu đã thực hiện (14,26; 15,26t). Vậy, đức tin của các môn
đệ không được liên kết với cuộc Phục Sinh như với một bằng cớ về tính xác thực
của những gì Đức Giêsu đã nói, nhưng như với nguyên do (= nguồn) ban Thánh
Thần, là Đấng duy nhất cho phép hiểu.
- Họ tin vào Kinh Thánh (22): Không thể
xác định rõ tác giả Gioan ám chỉ tới đoạn Cựu Ước nào. Có thể so sánh Cv 2,24t;
13,34tt, trong đó có những bản văn thường được Giáo Hội tiên khởi nhắc đến
trong quan hệ với sự Phục Sinh của Đức Giêsu (đặc biệt Tv 16/15,10). Chúng ta
ghi nhận rằng Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa) và lời Đức Giêsu được đặt trên cùng
một bình diện (so sánh 18,9.32) để làm nên đối tượng đức tin của các môn đệ.
- nhiều kẻ tin (23): Nhiều người
tin rằng Đức Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu
nhiệm bản thân Người. Lòng tin của họ chỉ dựa trên các phép lạ, nên không phải
là không có giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
4.- Ý nghĩa
của bản văn
Đức Giêsu cũng tham dự vào một đại lễ
khác. Đây không phải là một lễ của một đôi vợ chồng được cử hành bởi gia đình
và mọi người thân thuộc trong khung cảnh một thôn làng như Cana ở Galilê, nhưng
là lễ Vượt Qua, lễ trọng nhất của Israel, khi đó toàn dân quy tụ lại
Giêrusalem. Israel tưởng niệm cuộc giải phóng khỏi Ai Cập và tạ ơn Thiên Chúa,
vì Người đã làm cho họ thành một dân độc lập và thành Dân Người.
* Đức Giêsu tẩy uế Đền Thờ (13-17)
Tại Đền Thờ, Đức Giêsu đã không góp
phần cứu lấy và gia tăng niềm vui của ngày đại lễ, nhưng đã hòa vào cảnh sống
náo nhiệt trên sân Đền Thờ. Con người đã rảo qua xứ sở cách an hòa (1,29.36) và
đã ra tay cứu lễ mừng Cana cách hiệu quả, nay lại tỏ mình ra dưới một phương
diện hoàn toàn khác. Là một người khách hành hương vô danh đến từ miền Galilê,
Người đã gây ra một sự cố “động trời” tại Đền Thờ Giêrusalem. Theo TM IV, vào
chuyến hành hương đầu tiên thuộc đời sống công khai của Người, Đức Giêsu đã bắt
đầu hoạt động tại Giêrusalem như thế đó, bắt đầu từ sân dành cho Lương dân,
phần ít cao quí nhất của tiền đường, phần duy nhất mà người ngoại quốc được đặt
chân đến.
Truyền thống vẫn yêu cầu người ta tỏ
ra trang nghiêm kính cẩn tại vùng sân này, chẳng hạn, phải tránh đi qua đó chỉ
để đi tắt. Nhưng các quy định này, đặc biệt vào dịp lễ Vượt Qua, không được tuân
giữ: do khách hành hương phải chuẩn bị các của lễ đúng quy định (một con bò
hoặc một con chiên cho trường hợp những người giàu, một con bồ câu cho trường
hợp những người nghèo), và một nửa đồng bạc Do Thái (một siklos, hoặc shéqèl
bằng 4 ngày công) đóng thuế Đền Thờ, họ đã mua bán đổi chác gây huyên náo hỗn
độn ngay tại đây. Các cửa hàng của những người bán bò và chiên được bố trí dưới
các cổng, bàn của những người đổi bạc được đặt ngay ngoài trời, đã biến vùng
sân này thành một cửa hàng tạp hóa vĩ đại. Tất cả tùy thuộc cách người ta quan
niệm việc thờ phượng Thiên Chúa trong Đền Thờ. Hẳn là dân chúng nghĩ rằng có
thú vật và tiền lẻ ngay tầm tay và đặt mọi sự dưới quyền kiểm soát của giới hữu
trách Đền Thờ là tiện nhất. Nhưng điều này lại không phù hợp với quan niệm của
Đức Giêsu về nhà của Cha Người. Người gọi Thiên Chúa là Cha và xác định cách cư
xử dựa trên ý tưởng Người có về nhà Thiên Chúa. Không phải là mọi chuyện đều có
thể chấp nhận. Không phải là cứ chuyện nào tiện lợi hoặc đưa lại tiền bạc là đúng
đắn. Buôn bán thú vật được dùng làm lễ hy sinh là một sinh hoạt đáng trọng,
nhưng phải cách xa nơi có sự hiện diện của Thiên Chúa và nơi người ta tôn kính
Ngài. Đức Giêsu thấy có những lạm dụng.
Nay đã được đặt để trong chức năng
Mêsia-Con Thiên Chúa, Đức Giêsu không chỉ vào Nhà Thiên Chúa như một khách hành
hương, mà còn là người quản lý và chủ nhân. Nếu Người đã làm hành vi chứng tỏ
uy quyền này ngay tại Đền Thờ có lẽ là để tự mạc khải ngay giữa lòng Do Thái
giáo, trước mặt các nhà lãnh đạo và đám đông đa tạp các khách hành hương, nhờ
thực hiện sấm ngôn Malakhi: “Và bỗng nhiên Chúa Thượng mà các ngươi tìm kiếm,
đi vào Thánh Điện của Người. Kìa, vị sứ giả của giao ước mới mà các ngươi đợi
trông đang đến... Ai chịu nổi ngày Người đến? Ai đứng được khi Người xuất hiện?
Quả thật, Người như lửa của thợ luyện kim... Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi
(các thừa tác viên Đền Thờ)...” (Ml 3,1-3).
Không màng tới các rủi ro, Đức Giêsu
không ngần ngại nối kết sức lực của cánh tay vào sức mạnh của lời nói để thực
hiện nguyện vọng của Cha Người, được diễn tả qua miệng ngôn sứ Dacaria: “Ngày
ấy, sẽ không còn lái buôn trong Nhà Đức Chúa các đạo binh nữa” (Dcr 14,21).
“Nhà của Ta sẽ được gọi là nhà cầu nguyện cho muôn dân” (Is 56,7), nhưng “Phải
chăng các ngươi coi nhà này, nơi danh Ta được kêu khấn, là hang trộm cướp sao?”
(Gr 7,11). Đức Giêsu đã can thiệp với biện pháp rõ ràng và dứt khoát: “Người
xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những
người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với
những kẻ bán bồ câu: ‘Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây’” (2,15-16). Trong
nhà Chúa Cha, Chúa Cha đang hiện diện; người ta phải suy nghĩ và hành động
tương ứng với chân lý này.
Cử chỉ này, trực tiếp nhắm đưa Đền Thờ
trở lại với sự thanh sạch vẫn có, dường như có một tầm mức biểu tượng. Bằng cử
chỉ này, Đức Kitô muốn nói rằng Người sẽ truất các tư tế mất quyền điều hành
Đền Thờ Thiên Chúa và sẽ loại bỏ tất cả các lễ hy sinh thú vật để thay thế bằng
lễ dâng tinh tuyền mà Thiên Chúa cũng đã loan báo qua miệng ngôn sứ Malakhi:
“Ta chẳng ưng nhận lễ phẩm từ tay các ngươi dâng... Và ở khắp nơi, người ta
dâng lễ hy sinh và lễ vật tinh tuyền kính Danh Ta” (Ml 1,10-11). Đúng là đã tới
giờ rồi.
Vào lúc ấy, hẳn là sự can thiệp cương
quyết của Thầy đã khiến các môn đệ thắc mắc, nhưng nhất là khiến các ông lo sợ
rằng Người sẽ phải gánh chịu những hậu quả tệ hại, từ phía những lái buôn và
những thừa tác viên Đền Thờ. Khi đó, các môn đệ đã nghĩ tới tiếng kêu của tác
giả Tv 69/68: “Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân...”,
thiệt thân vì sự nhiệt thành của mình và vì những đối thủ. Vào lúc chịu Khổ
Nạn, khi tuyên bố rằng Thánh vịnh này được ứng nghiệm nơi Người (Tv 69/68,5; x.
Ga 15,15), Đức Giêsu công nhận rằng các ông đã linh cảm đúng: sự nhiệt thành đã
thiêu đốt Người bên trong vào lễ Vượt Qua đầu tiên, sẽ thiêu đốt Người hoàn
toàn vào lễ Vượt Qua cuối cùng, để biến Người thành một lễ hy sinh “đẹp lòng
Chúa hơn bò bê đủ móng đủ sừng” (Tv 69/68,32). Người chính là Đấng công chính
chịu đau khổ để thanh tẩy Đền Thờ và nền phượng tự cũ hầu xây dựng một Đền Thờ
mới và thiết lập một nền phượng tự mới (cc.19-21). Việc chuyển đi từ cái cũ
sang cái mới sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Đức Giêsu.
* Đức Giêsu nói về phá hủy và xây dựng lại
Đền Thờ (18-22)
“Người Do Thái” đây là giới lãnh đạo
Đền Thờ (các tư tế, các thầy Lêvi và vệ binh), nhưng cũng là dân Do Thái, đã
hỏi: “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như
thế?” (c. 18). Đây là đề tài căn bản của tất cả những xung đột sau đó giữa Đức
Giêsu và giới lãnh đạo Do Thái giáo. Người đã yêu cầu trả lại phẩm cách trang
nghiêm cho nhà Chúa Cha; điều này không thỏa mãn người Do Thái, cũng như tất cả
những gì Đức Giêsu sẽ nói và sẽ làm cũng chẳng thỏa mãn họ (x. 5,16; 6,30;
9,16; 11,45-53). Hẳn là các nhà chức trách Do Thái cảm thấy khó chịu gai chướng
bởi một sáng kiến vừa lạ lùng vừa cách mạng như thế: dù không có chức tư tế và
không có nhiệm vụ gì ở Đền Thờ, Đức Giêsu vừa kết án một hệ thống được các nhà
chức trách chuẩn nhận, mà như thế là tự cho mình có một uy quyền cao hơn uy
quyền của họ. Thậm chí Người còn muốn nói là Người triệt tiêu nền phượng tự đã
từng được Thiên Chúa thiết lập ở đấy, và như thế là tự gán cho mình có một uy
quyền ngang bằng với uy quyền của Thiên Chúa mà Người gọi là “Cha Người”! Bởi
vì Người cho rằng Người có một uy quyền thần linh, thì Người phải chứng minh
điều ấy bằng cách làm một dấu lạ: một hành động phi thường cho thấy dấu ấn của
Thiên Chúa trên sứ mạng cứu thế của Người (x. Mt 11,38; 16,1; Mc 8,11; Lc
11,16; 1 Cr 1,22).
Đức Giêsu đáp: “Các ông cứ phá hủy
(làm tan rã) Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại (sẽ đánh thức
dậy)” (c. 19). Câu này có thể hiểu là một mệnh lệnh: “Các ông hãy phá hủy...”,
hoặc như một câu ở thì tương lai: “Các ông sẽ phá hủy...”, hoặc như một câu giả
thiết: “Cứ giả sử là các ông phá hủy...”. Với bối cảnh của cuộc tranh luận, Đức
Giêsu dường như ám chỉ việc phá hủy và xây lại ngôi Đền Thờ bằng đá tọa lạc
ngay gần bên. Người Do Thái nghĩ ngay đến Đền Thờ ấy, và cho rằng không thể
được. Quả thật, phải là điên thì mới nghĩ có thể xây lại trong ba ngày; cũng
phải là điên thì mới nghĩ rằng có thể đụng chạm được tới Đền Thờ này! Cứ lấy
lương tri mà xét, lẽ ra người Do Thái không nên gán những ý tưởng ấy cho một
người có đầu óc sáng suốt: là những người Đông phương, đã quen với giọng văn
bóng bảy cũng như những câu nói hiểm hóc, hẳn là họ phải ngờ rằng ở đây có một
ý hướng biểu tượng, nhất là những động từ “làm tan rã” (lyô) và “đánh thức dậy”
(egeirô) không phù hợp chút nào với một tòa nhà vật chất cả. Nhưng họ cố ý xoáy
vào ý nghĩa vật chất, cũng như người phụ nữ Samari khi đề cập tới nước ban sự
sống (4,11-15), như những người Do Thái khi đề cập tới bánh ban sự sống (6,34)
[xem lời các nhân chứng tạo tòa án (Mt 26,61; Mc 14,58) và những người qua
đường (Mt 27,40; Mc 15,29)]. Dấu lạ Đức Giêsu loan báo ở đây tương ứng với câu
trả lời cho người Pharisêu trong Mt 12,39t và 16,4.
Người Do Thái quy các lời Đức Giêsu
nói vào ngôi Đền Thờ bằng gạch đá nên đã hiểu sai ý Người (x. 3,4). Đức Giêsu
đang nói với họ: Các ông có thể giết chết tôi. Các ông có thể đẩy tôi đến thử
thách lớn lao cùng cực nhất. Nhưng rồi tôi sẽ hoàn tất công trình của tôi và sẽ
tự mạc khải ra vĩnh viễn.
Phần các môn đệ, sau khi Đức Giêsu
sống lại, các ông mới hiểu được ý nghĩa của câu nói huyền bí ấy, và “đã tin vào
lời Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói” (c. 22). Nhưng ở đây tác giả Gioan cho
chúng ta được hiểu trước biến cố ấy: Đức Giêsu nói, không phải về Đền Thờ bằng
gạch đá, nhưng hoàn toàn về Đền Thờ là thân thể của Người, nhân tính của Người.
Các từ ngữ Người dùng phù hợp với ý nghĩa đó hơn: “Cứ làm tan rã Đền Thờ là
thân thể của tôi đi (Các ông sẽ gây ra sự tan rã, cái chết, cho thân thể tôi),
và trong ba ngày, tôi sẽ dựng lại (sẽ đánh thức dậy khỏi giấc ngủ ấy)”. Đàng
khác, ý nghĩa hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh. Nếu các môn đệ đã linh cảm rằng
lòng nhiệt thành của Đức Giêsu đối với ngôi nhà vật chất của Thiên Chúa sẽ
khiến Người bị các đối thủ hãm hại (c. 17), Đức Giêsu còn biết rõ hơn các ông
rằng cử chỉ này sẽ đưa Người tới cái chết. Như vậy, cái chết đối với Đức Giêsu
không phải là một tai nạn bất ngờ hoặc một thất bại không thể tránh được, nhưng
là một thử thách Người tự do chấp nhận, để rồi tiếp theo là một Sự Sống dồi dào
phong phú hơn. Đã được báo trước như vậy, người Do Thái sẽ không thể coi đó là
một chiến thắng, còn các môn đệ không thể coi đó là một cớ vấp phạm được.
Ở đây, ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên
này, ta đã thấy rõ các hậu quả của cuộc xung đột sẽ là thế nào và mục tiêu của
con đường Đức Giêsu theo là gì: chết và sống lại. Cuộc Phục Sinh sẽ chuẩn nhận
cho tư cách của Đấng đã bị đẩy đến một cái chết khốc liệt do việc làm và yêu
sách của Người. Do cái chết này, Đền Thờ mới sẽ được xây lên. Đức Giêsu Phục
Sinh là “nơi” vĩnh viễn có Thiên Chúa hiện diện với Dân Người và có Dân Người
thờ phượng Thiên Chúa: đây là “ngôi nhà Cha” hoàn hảo. Lời tiên báo của Đức
Giêsu một phần cảm hứng từ một sấm ngôn của ngôn sứ Hôsê (Hs 6,2). Theo lời hứa
của Đức Giêsu cho ông Nathanaen, các môn đệ khi ấy sẽ thấy Thầy họ là “Bết-Ên”
thật, là Nhà Thiên Chúa và Cửa thiên đàng (1,51). Một cách gián tiếp, Đức Giêsu
mạc khải cho các thính giả rằng Chúa Cha cư ngụ nơi Người một cách viên mãn và
vĩnh viễn (8,16; 10,38; 14,10;16,32) và chỉ nơi Người, các tín hữu mới có thể
gặp được Chúa Cha vô hình (14,6-10).
* Chuyển tiếp và dẫn nhập vào truyện Nicôđêmô
(23-25)
TM IV nổi bật với sự đối kháng giữa
Đức Giêsu và các đối thủ. Ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên, đã lộ rõ các yếu tố
tiêu biểu của cuộc chiến đấu này: các người tranh chấp, đối tượng của cuộc
tranh chấp và kết luận. Cuộc xung đột liên hệ đến quan niệm đúng đắn về Thiên
Chúa: Đức Giêsu nhận biết Thiên Chúa như là Cha Người; tất cả những gì Người
làm đều do Thiên Chúa gợi hứng và Người làm chứng về những điều đó; còn các đối
thủ của Người lại cảm thấy bị Người gây chuyện, nên yêu cầu Người trưng ra
những bằng chứng khác, và họ loại trừ Người. Phần các môn đệ, do đã để cho
Người dẫn dắt, các ông đạt tới đức tin và sự hiểu biết đầy đủ. Còn đám đông bị
đánh động bởi những gì Đức Giêsu thực hiện; nhưng Đức Giêsu không tin họ, nên
Người giữ khoảng cách với họ. Tình trạng xung đột này sẽ đưa Đức Giêsu đến cái
chết dữ dội, nhưng Người sẽ được xác nhận trọn vẹn bằng cuộc Phục Sinh.
] Kết
luận
Hôm ấy, Đức Giêsu đã vào Đền Thờ như
vào “nhà Cha Người”; hôm ấy, vì yêu thương Chúa Cha, Người đã đuổi những con
buôn khỏi Đền Thờ. Vì nhiệt thành lo cho nhà của Cha, vì muốn hoàn toàn dành
ngôi nhà này cho Cha, Đức Giêsu đã nổi cơn nghĩa nộ mà bảo vệ quyền lợi của Cha,
trong khi vẫn làm chủ chính mình. Như thế, Đấng “có lòng hiền hậu và khiêm
nhường”, là bạn của kẻ tội lỗi, cũng biết nổi giận khi cần, vì vinh quang của
Thiên Chúa Cha.
Sau này, đàng sau tấm màn bị xé rách
của Đền Thờ và xuyên qua thân thể bầm dập của Đức Giêsu hấp hối, Thiên Chúa
xuất hiện, bằng một tấm thân con người thật sự, đầy vinh quang thần linh. Giấc
mơ của Cựu Ước, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, nay được thực hiện mãi mãi trong
Đức Giêsu Phục Sinh.
5.- Gợi ý
suy niệm
1. Theo Đức Giêsu, người ta không thể
chấp nhận hay nhượng bộ mọi sự. Người ta có thể thông cảm cho việc trục trặc
này, chuyện không xuôi chảy kia. Nhưng khi sự việc liên hệ đến việc thờ phượng
Thiên Chúa, thì không được phép có lối suy nghĩ tương-đối-hóa. Khi sự việc liên
hệ đến làm chứng cho mầu nhiệm Thiên Chúa, thì không được phép nửa vời. Phần
chúng ta, chúng ta có thể tự hỏi: chúng ta đang có quan niệm nào về “nhà của
Cha”, hoặc về nhiệm vụ và mục tiêu mà Ngài đã ban cho con người? Chúng ta có
vận dụng trọn bản thân mình cho điều đó không?
2. Các đối thủ của Đức Giêsu cứ đòi
Đức Giêsu phải trưng ra thêm các bằng chứng. Lý do không phải là để họ đạt được
niềm tin tròn đầy, nhưng nói có vẻ nghịch lý, họ đòi các bằng chứng là để phủ
nhận đức tin, để họ có cớ mà nói rằng họ không tin là phải. Toàn bọ TM IV là
một bài học với nhiều minh họa về niềm tin như một sự phó thác vào Đấng được
Thiên Chúa sai phái tới, là Đức Kitô. Trong những trường hợp nào, cả chúng ta
nữa, chúng ta cũng đề những ranh giới dè dặt cho niềm tin tưởng của chúng ta
vào Đức Giêsu, chúng ta nêu ra những điều kiện, và chúng ta đòi những đảm bảo?
3. Chứng từ của các môn đệ còn đấy:
lời của Đức Giêsu có một trọng lượng như chính lời Kinh Thánh. Nhờ được Kinh
Thánh thôi thúc, các ông hiểu lý do khiến Đức Giêsu phải chết; nhờ được lời Đức
Giêsu soi sáng, các ông hiểu Đấng Phục Sinh chính là “nơi” vĩnh viễn có sự hiện
diện và chăm sóc ân cần của Thiên Chúa. Đấy là một kinh nghiệm quan trọng được
chia sẻ cho chúng ta, để hôm nay chúng ta biết tiếp tục dựa vào ánh sáng của
Kinh Thánh mà khám phá thêm nữa mầu nhiệm Đức Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thể,
đã chết và đã sống lại.
4. Để thực hiện được điều này, cần
nhận lấy bài học khác của các môn đệ. Các ông đã rảo qua một đoạn đường dài
cùng với Đức Giêsu và đã được Người liên tục dạy dỗ, rèn luyện. Chúng ta có thể
chờ đợi để được dẫn đến chỗ hiểu biết đầy đủ về con đường của Đức Giêsu và con
đường của chúng ta chăng?
19. Chú giải mục vụ của Alain
Marchabour
DẤU LẠ CỦA
VIỆC THANH TẨY ĐỀN THỜ (2,13-22)
Cả bốn Tin Mừng đều trình thuật về Đền
thờ (Mc 11,15-17 và tương đương). Thế nhưng giữa ba Tin Mừng khác, có nhiều
điểm khác biệt quan trọng, đặc biệt nhất là vấn đề xác định thời gian: đối với
Gioan, đó là vào lúc Chúa mới bắt đầu cuộc đời công khai, đối với các sách Tin
Mừng Nhất Lãm thì lại vào cuối đời sống công khai. Hơn nữa Gioan là tác giả duy
nhất tường thuật dài về việc xua đuổi con buôn ra khỏi Đền thờ bằng việc người
Do Thái yêu cầu một dấu lạ và Chúa Giêsu trả lời về việc phá hủy Đền thờ và xây
dựng lại trong ba ngày. Chính Gioan phải chịu trách nhiệm về việc di dịch biến
cố. Ông chỉ tỏ sự đoạn tuyệt với Do Thái giáo ngay từ lúc Chúa khởi đầu đời
sống công khai của Chúa Giêsu (phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Giáo Hội của
mình). Từ ngữ được sử dụng xác quyết điều đó: đó là lễ Vượt Qua của người Do
Thái; dung ngữ này còn lặp lại trong 6,4 và 11,55 (cũng như trong 7,2 nhân dịp
lễ Lều) và làm lệch đi sự xa cách và ngay cả sự đoạn tuyệt giữa các tín hữu
tiên khởi và cộng đoàn Do Thái.
DẪN NHẬP (cc. 13-14)
Phần dẫn nhập xác định quang cảnh và
địa điểm. Chúa Giêsu lên Giêrusalem lần này là lần đầu tiên và Người lên đây
đúng vào “lúc gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái”. Dụng ngữ này, lặp lại ba
lần trong Tin Mừng (6,4; 11,555) xác định sự chính xác về nguồn tin của Gioan. Ba
lần lễ Vượt Qua phù hợp với hai năm rưỡi đời sống công khai của Chúa Giêsu. Đem
so chiếu với những đại lễ Do Thái với những đại lễ Do Thái này có một ý nghĩa
khác nơi con người của Chúa Giêsu.
Con buôn bày bán dưới các hành lang
trên sân Dân ngoại (tiếng Hy Lạp hieron, dịch ra ở đây là “đền”) chứ không phải
bên trong Đền thờ. Ngoài ra điều đó rất khó mà tránh khỏi khi người ta muốn cho
khách hành hương, nhân dịp về Giêrusalem, có thể đổi bạc để có được chiên bò
dâng làm của lễ hiến tế. Chúa, vị ngôn sứ đầy nhiệt tâm trước những quyền của
Thiên Chúa, xem điều đó như làm ô uế Đền thờ.
HÀNH ĐỘNG NGÔN SỨ (cc. 15-16)
Việc can thiệp của Chúa Giêsu liên kết
với những hành động mà các ngôn sứ thường làm để thông truyền sứ điệp cho có
hiệu quả hơn. Nó gồm một hành động và hai lời giải thích. Hành động ở đây dồi
dào hơn ở trong bài trần thuật Nhất Lãm: lấy dây làm roi, có nhiều chiên bò
trong Đền thờ. Thời bấy giờ dọc theo Cédron hay trên núi Olivêtê có một chợ súc
vật dùng làm của lễ dâng cúng, do nhóm Sanhédrin tổ chức. Trước cảnh tục hóa
như thế, Chúa Giêsu chống đối theo đường hướng của các ngôn sứ như Giêrêmia
(7,14), Malakhi (3,1) hoặc Israel (65,7) đã làm trước Người. Người chứng tỏ
việc tẩy uế Đền thờ được tiên liệu vào thời cánh chung hiện đang tiến hành.
Lời Người nói có hai phần: Trước hết
Người yêu cầu chính đáng một tập tục bất xứng với Thiên Chúa. Lời này không hẳn
là một trích dẫn Kinh Thánh, dù rằng điều đó được nói đến trong Zacaria 14,21:
“Vả trong ngày đó sẽ không còn kẻ buôn bán nơi Đền thờ Chúa quân lực nữa”. Ở
đây Chúa Giêsu hành xử như Người bênh vực quyền lợi của Thiên Chúa. Người vén
lên bức màn về mối liên hệ duy nhất giữa Người với Chúa Cha. Sau đó, Chúa Giêsu
đáp ứng yêu cầu dấu lạ bằng một lời huyền nhiệm về Đền thờ. (không phải hieron
nữa, mà là naos, nghĩa là chính cung thánh).
Việc so chiếu với các sách Tin Mừng
Nhất Lãm về vấn đề này sẽ làm cho dễ hiểu hơn. Ở trong Nhất Lãm có một câu gần
gũi với câu trên nhưng với những điều khác biệt quan trọng: trong Nhất Lãm, lời
tuyên bố về việc phá hủy Đền thờ được những kẻ làm chứng gian hiểm độc nói lại;
còn trong Gioan, lời này được đặt vào trong môi miệng Chúa Giêsu. Trong Tin
Mừng Maccô, việc phá hủy Đền thờ được quy cho Chúa Giêsu: “Tôi sẽ phá” (14,58);
trong Tin Mừng Gioan, lời nói đó đối đáp với những người đối thoại: “Các ông cứ
phá hủy Đền thờ này đi”. Ngoài ra Gioan cố ý dùng cụm từ “Tôi sẽ xây dựng lại
Đền thờ này” để chỉ công việc xây dựng cũng như để chỉ sự sống lại.
GIẢI THÍCH (cc 17-22)
Như vậy không dễ gì hiểu được nền tảng
lịch sử rõ ràng về bài trần thuật này. Ta có thể nghĩ đến một hành động tượng
trưng chống lại các lạm dụng trong Đền thờ. Sự hiện diện của các người đổi bạc
là cần thiết để khách hành hương có thể đổi những đồng bạc mang dấu ấn triều
đình để lấy đồng tiền trong sạch. Cũng vậy việc buôn bán gia súc dùng làm của
lễ dâng cúng là một nhu cầu. Trừ khi nghĩ đến sự phản kháng triệt để về việc
thờ phượng do Chúa Giêsu… còn thì toàn thể Tin Mừng không đi theo chiều hướng
đó. Chỉ cần lưu ý đến sự băng hoại nổi tiếng của gia đình Anna, thượng tế tiền
nhiệm của Caipha. Bù lại, một sự công kích triệt để như thế về của lễ dâng cúng
đã được cộng đoàn của Gioan nhấn mạnh, sau khi Đền thờ bị phá hủy, đánh dấu sự
kết thúc việc hiến tế.
Tác giả thận trọng về các vấn đề trên:
ông để tâm đến việc khác. Ông chứng tỏ điều đó bằng cách đưa vào trong bài trần
thuật của mình nhiều chú thích. Chúng ta hãy ghi lại:
a. Sự liên
quan mật thiết với phép lạ ở Cana. Quả vậy cả hai cảnh tượng có nhiều
điểm tương đồng. Cả hai đều kể đến một sự chuyển tiếp: những chum đá rỗng
không, đền thờ trống vắng. Mối liên hệ với lễ Vượt Qua được chú ý trong bài
trần thuật thứ nhất: “ngày thứ ba, vinh quang”, và trong bài thứ hai: “vào dịp
lễ Vượt Qua”, “nội trong ba ngày tôi sẽ xây dựng lại” (2,19), “khi Người từ cõi
chết chỗi dậy”(2,22).
b. Các lời
chú giải của thánh sử. Tác giả trong khi đưa vào trong bài trần
thuật những suy tư của riêng mình hướng dẫn chúng ta xem xét: “Các môn đệ của
Người nhớ lại…” (2,17). Thánh vịnh 69,9-10 soi dẫn cộng đoàn tiên khởi của
Gioan, có đoạn sau:
“Anh
em nhà kể con như người dưng nước lã
Hàng
máu mủ xem con bằng khách lạ mà thôi.
Vì
nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà con phải thiệt thân.
Lời
kẻ thoá mạ Ngài, này chính con hứng chịu”.
Vậy nên, Gioan hiểu được sự cô đơn của
Chúa Giêsu đối với anh em của Người (và rộng hơn đối với dân tộc của Người)
cũng như hiểu được số phận bị thảm của Người: nhiệt tâm lo việc nhà Chúa của
Chúa Giêsu đưa Người đi đến cái chết. Thế nhưng suy tư tiếp theo của thánh sử
tiến dẫn nguyên nhân của sự phục sinh. “Các môn đệ nhớ lại…và tin”.
Trong bài trần thuật này, Đền thờ mới,
Chúa Kitô, chiếm vị trí của Đền thờ cũ (biến mất vào thời biên soạn Tin Mừng),
ta sẽ không khỏi khâm phục tác giả đã khéo léo liên kết Kinh Thánh, các sự kiện
liên quan đến Chúa Giêsu và sự suy niệm Phục Sinh.
CHUYỂN TIẾP
(2,23-25)
Cảnh tiếp theo tạo nên một sự chuyển
tiếp khéo léo giữa hai cảnh Cana và cảnh tẩy uế Đền thờ và cuộc đối thoại với
ông Nicôđêmô. Ta có thể nhận thấy ở đó một kết luận đã tỉnh ngộ với sự cương
quyết dứt khoát với Do Thái giáo được thể hiện trong bài trần thuật về Cana và
hành động ngôn sứ từ việc xua đuổi những người mua bán trong Đến thờ. Đồng thời
sự cảm nghiệm thất bại này chuẩn bị cuộc gặp gỡ với một nhân vật tiêu biểu của
Do Thái giáo: ông Nicôđêmô, dù có thiện chí phấn đấu, vẫn được xem như không
thể tiếp bước theo Chúa Giêsu với những đòi buộc của Người. Sự nghi ngờ này xảy
ra ở giữa sự từ khước có hệ thống cho nhóm Do Thái chính cống và đức tin của
các môn đệ. Gioan không xác định bản chất các dấu lạ Chúa Giêsu đã làm tại
Giêrusalem (xem thêm 4,45)
20. Chú giải của Noel Quesson
Gần đến Lễ Vượt qua của người Do Thái, Đức
Giêsu lên thành Giêrusalem.
Đức Giêsu là một người Do Thái nhiệt
thành sống đạo. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan đã bảy lần ghi lại Đức
Giêsu tham dự những buổi lễ trọng phải hành hương (Ga 5,1; 6,4; 7,2; 10,22;
11,55; 12,1; 13,1), đặc biệt là Lễ Vượt qua vào Mùa Xuân và Lễ Lều trại vào Mùa
Thu. Trước hết tôi chiêm ngưỡng Đức Giêsu, với tư thế là một người trần hòa lẫn
trong đám đông, đang cầu nguyện ca hát trên bước đường hành hương, rồi trên sân
trước của Đền thờ. Cho dù trên thực tế, Đức Giêsu đã sửa đổi rất kỹ những nghi
thức phụng tự Do Thái, nhưng về mặt giáo lý Người không chủ trương bài xích.
Cuốn phim “Lễ vật toàn thiêu” nhắc lại cho ta thấy sự đau khổ của dân tộc này
mà Đức Giêsu là thành phần; một dân tộc luôn mang một định mệnh đặc biệt cách
nhiệm mầu. Trang Tin Mừng trên đây của thánh Gioan bắt đầu bằng "Lễ Vượt
Qua của người Do Thái" (câu 13), và kết thúc với "Lễ Vượt Qua của Đức
Giêsu (câu 2) nhằm nhắc lại những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu đều là người Do
Thái, là những kẻ “tin vào danh Người trong dịp lễ Vượt Qua" (câu 23). Từ
‘lễ Vượt qua của người Do Thái’ đến ‘Lễ Vượt qua Kitô giáo’, luôn thể hiện cùng
một mầu nhiệm khôn dò: Mầu nhiệm phá hủy một đền thờ, rồi nhờ đó lại mọc lên
một đền thờ khác.
Người thấy trong Đền thờ có những kẻ bán
chiên bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền. Người bèn lấy dây làm roi
mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi đền thờ, còn tiền của những
người đổi bạc, Người đổ tung ra và lật nhào bàn ghế của họ. Người nói với những
kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây”.
Tranh ảnh Kitô giáo đã không bỏ sót
diễn tả những cảnh này với màu sắc và hành động thật là phong phú. Đức Giêsu
đang nổi giận, cầm roi trong tay, xua đuổi "phường buôn bán ra khỏi Đền
thờ". Chúng ta cần phải vượt qua giới hạn của "biến cố" trên, để
tìm hiểu ý nghĩa thần học sâu xa của pha cảnh. Trong câu này, ta nhận thấy, hình
như Đức Giêsu đối xử với những kẻ bán bồ câu với thái độ khác thường, tử tế hơn
so với những kẻ khác: Vì bồ câu thuộc "lễ vật của người nghèo", lễ
vật của những người như Đức Maria xưa kia, đã không đủ tiền để mua những con
vật lớn. Ở đây, Đức Giêsu chứng tỏ thái độ ưu ái đối với những người nghèo mà
Người không ngừng biểu lộ.
Đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi chợ búa.
Những con buôn và phường đổi tiền
không nhất thiết là những người xấu. Thực ra, họ đã phục vụ đáng kể đối với các
tín hữu từ xa đến, đang cần sắm sửa tại chỗ những lễ vật cần thiết để tiến
dâng: Như trướng hợp Maria và Giuse, đến đền thờ trong ngày hiến dâng con mình,
hẳn là rất hài lòng gặp được những người buôn bán như thế, để mua sắrn một cặp
bồ câu non (Lc 2,24). Vì thế, chúng ta dễ sai lầm nếu chúng ta chỉ đọc trang
Tin Mừng trên cách hời hợt, nhất là chúng ta chỉ áp dụng trang sách đó cho kẻ
khác. Chúng ta rất dễ nổi giận, dễ dùng lời nói mà không sợ bị liên lụy để
chống lại tiền bạc, sự mua bán trái phép, những "ồn ào của bạc tiền"
chung quanh bàn thờ, xã hội tiêu thụ, đề cao lợi nhuận trong các nền kinh tế
phương Tây. Đức Giêsu quả đã là một người nghèo thực sự. Người đã nổi giận
trước vị trí quá lớn của tiền bạc đang ngự trị trong Đền thờ. Chắc chắn là thế!
Như vậy, chính chúng ta cũng phải hoán cải về vấn đề này. Lạy Chúa, xin cứu
chữa chúng con khỏi lòng dính bén với tiền bạc.
Nhưng điểm cốt yếu của trang Tin Mừng
hôm nay không nằm ở đó.
Chúng ta hãy lắng nghe kỹ kiểu nói lạ
thường mà Đức Giêsu sử dụng để nói về đền thờ: "Nhà của Cha Tôi".
Chúng ta quá chán với kiểu nói đó. Tuy nhiên chúng làm cho ta càng phải tìm
hiểu sâu xa hơn căn tính của "con người" này, Giêsu thành Nagiarét?
Trong con người đó đang ẩn chứa một bí nhiệm to lớn biết bao! Giữa Người và
Thiên Chúa, có một mối tình yêu thương mật thiết biết bao! Người đang hiện diện
nơi nhà mình, trong đền thánh của Giavê. Nơi thánh này, chính diện bất khả xâm
phạm này, không ai được phép vào trừ vị Thượng tế, mỗi năm một lần (Dt 9,7). Đó
là nơi "chí thánh", nó "tách biệt" với tất cả "không
ai được đụng chạm" đến, không ai bước vào mà không phải chết. Thế mà nói
một cách hết sức tự nhiên, đó là "nhà của Cha Người", là nhà của
Người, vì Người là con. Vào lúc 12 tuổi, Người cũng nói như thế, nhưng không ai
hiểu cả, ngay cả mẹ Người là Đức Maria: Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở
nhà của Cha con sao?" (Lc 2,49).
Vâng! yếu tố trước nhất trong việc
phụng tự mà ta thể hiện với Thiên Chúa, không phải là việc làm bề ngoài (như
bò, chiên, bồ câu) mà là tấm lòng con thảo ta đặt vào đó. Lạy Chúa, xin giải
thoát chúng con khỏi mối bận tâm quá đề cao những nghi lễ, những hình thức bên
ngoài.
Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép
trong Kinh thánh: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây đã phải thiệt
vào thân" (Tv 69,10).
Đối với Đức Giêsu "tình yêu Chúa
Cha" luôn thiêu đốt Người, nói cách văn vẻ, như ngọn lửa ngốn trọn những
nhánh củi khô. Lễ vật dâng lên Chúa Cha của Đức Giêsu không theo "nghi
thức", nghĩa là những gì ở bên ngoài Người. Người sẽ dâng hiến chính bản
thân mình làm lễ vật và trọn cuộc sống Người luôn là một của lễ như thế. Còn
đối với tôi, việc phụng tự ra sao? Nó mang hình thức nào? Tôi ‘dự lễ’ hay tôi
‘chung phần’ vào thánh lễ? Cùng với Đức Giêsu, tôi có được Thiên Chúa khơi lửa
nhiệt tình, nung đốt tình yêu và làm cho say đắm không? Ôi! lạy Cha, con cũng
muốn rằng, từ giờ trở đi, nhà của Cha sẽ làm cho con phải thiệt vào thân vì yêu
mến, Nếu Đức Giêsu đã phản ứng mạnh mẽ như thế, chính là vì danh dự và vinh
quang của Cha Người đã bị xúc phạm trong việc "buôn bán trái phép"
đó. Đức Giêsu quả là một con người say mê Thiên Chúa, sống cho quyền lợi của
Thiên Chúa.
Các ông cứ phá hủy đền thờ này đi, nội ba
ngày tôi sẽ xây dựng lại. Người Do Thái nói: Đền thờ này phải mất bốn mươi sáu
năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây dựng lại được sao?”
Ở đây bản văn Hy Lạp không dùng từ
"đền thờ" (iéron) mà là từ "thánh điện" (naos). Và đó không
phải là điều ngẫu nhiên, bởi vì trước đó, cùng trong cùng bản văn, Gioan đã sử
dụng chính xác từ "đền thờ". Người thấy trong đền (iéron) có những kẻ
buôn bán; và Người xua đuổi họ ra khỏi đền thờ (iéron). Theo nghĩa này, đền thờ
là toàn bộ những công trình kiến trúc, kể cả đường dạo chơi, công trường, các
sân phía trước. Nhưng giờ đây Đức Giêsu đi xa hơn nhiều, khi Người nói:
"Các ông cứ phá hủy thánh điện (naos) này đi”, tai hại biết bao, nếu những
người dịch không tôn trọng bản văn! Thánh điện chỉ là phần kiến trúc hoàn toàn
bé nhỏ, những quý giá nhất của toàn bộ đền thờ; là trung tâm điểm, nơi Thiên
Chúa hiện diện (shékinah). Chúng ta đừng quên rằng, Đức Giêsu sẽ bị kết án tử
hình do lời tố cáo sai lầm vì Người đã tuyên bố: “Tôi sẽ phá thánh điện này và
sẽ xây cất lại" (Mt 26,6). Thực sự đó là một lời phạm thượng. Thánh điện
này vẫn hoàn toàn mới mẻ, được Hêrôdê cho phép khởi công xây cất 50 năm trước
đó. Đó là niềm tự hào của quốc gia, là nơi tôn kính để cầu nguyện và hành
hương, mà mỗi năm hàng triệu người tới viếng thăm. Đó cũng là nơi phụng tự duy
nhất" của Israel. Quả thực, con người này bạo gan mới dám nói như thế!
Phát triển như thế, cũng như người nào đó tuyên bố: "Cứ phá Đền thờ thánh
Phêrô ở Rôma đi hay cứ phá đền thánh Lộ Đức, nhà thờ Đức bà ở Paris hay vương
cung thánh đường ở Angers...". Thế mà, Đức Giêsu nói năng tự nhiên, không
có vẻ gì của một kẻ khiêu khích cả.
Nhưng đền thờ (naos) Đức Giêsu muốn
nói ở đây là chính mình Người.
Đền thờ ở đây, bản văn Hy Lạp dùng từ
"thánh điện" (naos). Hiển nhiên, ta đang ở vào trung tâm của trang
Tin Mừng trên. Ta thử tìm hiểu thêm, Đức Giêsu đã ý thức về mình thế nào. Người
biết Người là ai. Người nói: Người là một thánh điện. Đức Giêsu tự tạo cho mình
thành "nơi Thiên Chúa hiện diện". Chính thân xác Người là "đền
thờ mới", là nơi "phụng tự mới". Gioan Tẩy giả đã chỉ Người như
Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (Ga 1,29). Phải, Đức Giêsu đã phịu
sát tế trên ngọn đồi ngoài cửa thành, hy sinh vào đúng giờ mà trong Đền thờ
người ta đang sát tế nhiều chiên Vượt Qua, ngày áp lễ "Vượt Qua trọng
đại" (Ga 19,31). Bằng chính thân xác mình chịu hy sinh, Đức Giêsu đến thay
thế cho mọi lễ vật và làm cho Đền thờ Giêrusalem trở nên vô tích sự và màn
trong Đền lúc đó có thể bị xé bỏ (Mt 27,51). Từ thân xác đó sẽ tuôn ra
"con sông với dòng nước mạnh" (Ga 19,84): Nước và máu đã được ngôn sứ
Edêkien báo trước, sẽ từ thánh điện chảy ra (Ed 41,l-12).
Vậy khi người từ cõi chết trỗi dậy, các môn
đệ nhớ lại Người đã nói điều đó.
Do đó, Lễ Vượt qua của Đức Giêsu và
của các Kitô hữu đã kết thúc "Lễ Vượt qua của người Do Thái", như đã
đề cập đến đầu trang Tin Mừng trên. Đây là cuộc giải phóng phi thường và triệt
để, mà cuộc giải phóng khỏi ách nô lệ Ai Cập chỉ là sự báo trước và là hình ảnh
tiêu biểu. Đây là Đền thờ mới, làm vô hiệu mọi nơi thờ tự khác. Như vậy, nơi
Thiên Chúa hiện diện không còn là một lâu đài nữa, mà là một Đấng nào đó: Đó là
Thân mình Đức Kitô. Tất cả phụng vụ Kitô giáo chỉ được thể hiện chung quanh
thân thể này. Nhưng chúng ta cần hiểu thêm, mầu nhiệm này còn đi xa biết bao?
Sau này, thánh Phaolô sẽ nói với các Kitô hữu, các kẻ bốc dỡ hàng tại cảng
Côrintô: “Anh ern là Thân mình Đức Kitô” (1Cr 12,27). Đó là cơ sở để xây dựng
phẩm giá cao cả của con người: "Nào anh em chẳng biết rằng anh em là đền
thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? (1Cr
3,16-l7).
Như thế, không phải chỉ có "thân
xác Phục sinh" của Đức Giêsu mới là Đền thờ mới, mà cả "thân xác của
mỗi người đã chịu phép rửa": "Anh em không biết rằng thân xác của anh
em là Đền thờ của Thánh Thần, và Thánh Thần đang ngự trong anh em sao?"
(1Cr 6,19-20). Thánh Âu Tinh cũng nói với các tín hữu của mình: "Khi linh
mục nói với anh em "Mình Thánh Chúa Kitô", anh em đáp lại:
“Amen" với niềm xác tín anh em đang "hiện diện trong Đức Kitô".
Có một bản thánh ca ngợi khen mầu nhiệm này như sau: "Chớ gì chúng con trở
nên mình thánh biết sung sướng tạ ơn; chớ gì chúng con trở nên mình thánh, giữ
gìn Giao ước của Chúa...".
Chúng ta tuôn có huynh hướng "ấn
định chỗ ở cho Thiên Chúa", xây dựng cho Người những "nhà tù sơn son
thiếp vàng", những "thánh điện" để cô lập Người, gạt Người ra
khỏi thế giới, khỏi cuộc sống của ta. Nhưng không có nhà thờ nào, vương cung
thánh đường hay đền thánh nào có thể giam giữ Thân mình Đức Kitô được? Anh em
là Thân mình Đức Kitô! Tôi là Thân mình Đức Kitô! Khi nhận mình thánh Đức
Giêsu, tôi "trở nên" Thân mình của Người, trở nên thánh điện.
Trong lúc Đức Giêsu ở Giêrusalem vào
dịp Lễ Vượt qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người.
21. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
TẨY UẾ ĐỀN THỜ
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Lễ vượt qua của người Do thái gần đến”. Thời gian
xảy ra dấu chỉ đây tự nhiên làm ta nghĩ tới lễ Vượt qua trong đó Chúa Giêsu sẽ
bị lên án tử hình; tương quan giữa việc tẩy uế Đền thờ và cuộc Tử nạn của Chúa
Kitô như thế là đã được ám chỉ. Mc 11,18 và Lc 19,47 ghi chú rằng việc can
thiệp này của Chúa Giêsu nhằm lên án giới lãnh đạo Do Thái giáo, sẽ thúc đẩy
các tư tế và ký lục "tìm cách hại Người".
"Người gặp thấy trong Đền thờ": Đền thờ gợi
lên tất cả hệ thống phụng tự cổ xưa vốn tập trung hoàn toàn tại đó. Cũng tại
đó, các lái buôn bán súc vật để làm lễ hy tế riêng và những người đổi tiền đổi
cho bạn tiền Do thái (tiền cũ của vùng Tyrô) là thứ tiền duy nhất được chấp
nhận để trả thuế Đền thờ.
"Một cái chợ": thành ngữ
này cảm hứng từ Dcr 14,21, trong khi Tin mừng Nhất Lãm, vì muốn đối chọi hoàn
cảnh hiện tại (‘một hang trộm cướp’) với lý tưởng Thiên Chúa muốn (‘một nhà cầu
nguyện’), nên dã trích dẫn Gr 7,11 và Is 56,7.
"Môn đồ nhớ lại": Các môn đồ
chỉ hiểu được câu chuyện này sau khi Chúa Giêsu sống lại, lúc Thần khí đã cho
họ ơn thông hiểu các dấu chỉ Thầy đã làm.
"Lòng nhiệt thành đối với nhà Chúa sẽ
nghiến cả mình tôi”: Thánh vịnh 69 trình bày người Công chính
trị thiêu đốt bởi lòng nhiệt thành đối với sự thánh thiện của nhà Thiên Chúa,
nhưng lòng nhiệt thành này khiến ông phải bị bách hại. Ga 15,25 và 19,29 cũng
sẽ còn trích dẫn thánh vịnh 69, luôn luôn trong tương quan với cuộc Khổ nạn
chia Chúa Kitô. Thành thử ý nghĩa của câu trích dẫn này trong văn mạch hiện tại
là như sau: cũng như người Công chính đau khổ đã phải trả giá cho lòng nhiệt
thành đối với Đền thờ thì Chúa Kitô, khi tẩy uế Đền thờ cũng gây nên đau khổ và
cái chết cho bản thân.
Chúa Giêsu thanh tẩy Đền thờ và phụng
tự cũ hầu xây dựng một Đền thờ mới cùng thiết lập một phụng tự mới (cc.19-20);
việc đi từ cũ sang mới này sẽ được thực hiện nhờ cái chết của Người.
"Người Do thái": Trong thực
tế, đây là các chức sắc trong Đền thờ (tư tế, Lêvi và vệ binh) có trách nhiệm
về những chuyện Chúa Giêsu kết án. Tuy nhiên, như hết mọi nơi trong Tin Mừng
của ông, Gioan không phân biệt giới lãnh đạo với toàn thể dân Do thái đã từ
chối tin vào Chúa Kitô. Thành thử đây là vấn đề hệ thống phụng tự của toàn dân
Do thái.
"Dấu nào ông tỏ ra được cho chúng
tôi?": Qua câu này, người Do thái muốn nói tới một hành động
phi thường vốn sẽ biểu lộ dấu ấn Thiên Chúa trên sứ mệnh Chúa Giêsu. Mt 12,38;
16,1; Mc 8,11 và Lc 11,16 cũng ghi lại một lời yêu cầu tương tự của Biệt phái.
Dcr 1,22 bảo người Do thái hay đòi hỏi như vậy.
"Hãy phá hủy Đền thờ này đi": Vì không
tin, người Do thái sẽ trở thành dụng cụ gây nên dấu chỉ họ đòi hỏi. Về sau câu
nói này của Chúa Giêsu sẽ bị nhắc lại bởi các chứng nhân trong vụ án xử Người
(Mt 26,61; Mc 14,58) và bởi khách bộ hành lăng nhục Người dưới chân thập giá
(Mt 27,40; Mc 15,29) Dấu chỉ Chúa Giêsu loan báo đây tương ứng với câu Người
trả lời cho Biệt phái trong Mt 12,29t và 16,4: "Con Người, Người đã nói về
Đền thờ thân thể Người'': Đền thờ mới thay thế Đền thờ cũ đã bị tục hóa chính
là thân thể phục sinh của Chúa Kitô.Tín hữu thành Ephêsô, độc giả trực tiếp của
Gioan, rất quen thuộc với một sự đồng hóa như vậy vì Dcr 3,16 và 12,27 (được
viết tại Ephêsô) cũng như Ep 2,21 và 4,12 đều nói Kitô hữu vừa là Đền thờ của
Thiên Chúa, vừa là thân thể Chúa Kitô, với lối giải thích này của Phaolô, Đền
thờ mới chính là Giáo hội, Thân thể vinh hiển của Chúa Kitô phục sinh mà mọi
tín hữu đều kết hợp vào.
"Vậy khi Người phục sinh từ cõi chết,
môn đồ người nhớ lại... họ đã tin": Maccô thường ghi nhận là các môn đồ
không hiểu gì hết. Gioan thì nói cách tích cực là họ hiểu rõ sau ngày Chúa Kitô
phục sinh (12,16). Bởi vì chỉ sau khi Chúa Giêsu được tôn vinh, họ mới nhận
lãnh Thần khí (7,39), Đấng sẽ soi sáng cho họ hiểu các dấu chỉ Chúa Giêsu đã
làm (14,26; 15,26tt). Thành thử ở đây đức tin của các môn đồ được liên kết với
sự Phục Sinh không như với một bằng chứng về sự xác thực của những gì Chúa
Giêsu đã bảo, song như với nguyên nhân ban ơn Thần khí, Đấng duy nhất giúp cho
họ hiểu.
"Họ đã tin vào Kinh thánh": Ta không
rõ Gioan muốn ám chỉ đoạn nào trong Cựu Ước. Có thể so sánh với Cv 2,24t;
13,34tt, nơi có những bản văn thường được Giáo hội sơ khai trích dẫn đối chiếu với
sự Phục sinh của Chúa Giêsu (đặc biệt là Tv 16,10). Xin lưu ý là Kinh Thánh
(lời Thiên Chúa) và Lời Chúa Giêsu đều được đặt trên cùng bình diện (so sánh Ga
18,9.32) và đều là đối tượng niềm tin của các môn đồ.
Các câu 23-25 là những câu chuyển mạch
nhằm chuẩn bị cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô; chúng giải thích
việc Nicôđêmô đến (3,2), niềm tin bất toàn của ông và những lời Chúa Giêsu
khiển trách ông (3,11t). Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với Nicôđêmô như thế được
đặt trong một khung cảnh cụ thể. Thói quen của Gioan là vậy: để ra một vài câu
để đặt các trình thuật biểu tượng và thần học của ông trong một khung cảnh lịch
sử: so sánh 4,43-45; 7,1-13; 10,19-21.40-42; 11,55-57; 12,17-19.41-43.
"Lắm kẻ tin vào Danh Người": Nhiều kẻ
tin rằng Chúa Giêsu đến từ Thiên Chúa (3,2), nhưng không tin vào tất cả mầu
nhiệm con người của Người. Niềm tin của họ chỉ dựa trên phép lạ mà thôi: nó
không phải là vô giá trị, nhưng bất toàn (4,48; 20,29).
KẾT LUẬN
Sau bức màn bị xé toang của Đền thờ và
qua thân thể bầm dập tắt thở của Chúa Giêsu Thiên Chúa đã xuất hiện trong một
thân xác người đích thực, phủ đầy vinh quang thần linh. Giấc mơ của Cựu ước
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, giờ đây được thực hiện trong Chúa Giêsu Phục Sinh
mãi mãi.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Vì yêu Chúa Cha, Chúa Giêsu đã chắp
dây thừng làm roi đánh đuổi quân buôn bán ra khỏi Đền thờ, nơi mà 20 năm về
trước, Người đã vào như vào nhà thân phụ khi làm cử chỉ đầu tiên của một người
Israel khôn lớn. Người đã dùng võ lực bênh vực quyền lợi của Cha, vì bị nung
nấu bởi lòng nhiệt thành đối với nhà Cha, vì muốn nhà Cha được sử dụng cách
xứng đáng, vì bị thúc đẩy bởi một cơn thịnh nộ. Thành thử, dù là Đấng
"hiền lành và lòng đầy khiêm nhượng", bạn bè của các trẻ nhỏ và tội
nhân, Chúa Giêsu cũng là người biết nổi giận và phẫn uất. Người chẳng phải là
một thượng thánh im lìm song là một con người bằng xương bằng thịt, biết phản
ứng và tỏ ra kinh khủng khi phải bênh vực vinh quang Cha Người.
2. Chúa Giêsu cũng muốn dùng phương
pháp trên để giải phóng tâm hồn nhân loại, biến nó thành Đền thờ đích thực của
Thiên Chúa hằng sống. Người biết rõ mọi cái có nơi con người ta hơn cả những
nhà tâm phân học; biết những uẩn khúc của ý thức, tiềm thức, vô thức của chúng
ta, biết các con vật đang thu mình và gầm gừ trong đó. Người hết sức muốn giải
phóng ra khỏi cảnh nô lệ này, khỏi sự tục hóa này cái con người đã được dựng
nên giống hình ảnh Thiên Chúa, cái con người đã được mời gọi sống sự sống thần
linh. "Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài hầu những ai
tin vào Người sẽ được sống vĩnh cửu” (Ga 3,16).
3. Trong dịp lễ Vượt qua đầu tiên của
đời sống công khai này, Chúa Giêsu tỏ mình như một nhà giải phóng khác với
Môsê: Người thiết lập một ngày sabbat mới và một lễ Vượt Qua mới. Vì danh Cha,
Người muốn có một phụng tự khác trong Thần Khí và sự thật, trong tình yêu và tự
do, một phụng tự tôn thờ đích thực trong đó giới răn thứ nhất được thi hành một
cách tuyệt hảo: "Ngươi hãy thờ lạy một mình Thiên Chúa và mến yêu Ngài
trên hết mọi sự ".
4. "Hãy phá hủy Đền thờ này đi,
và nội trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại". Nghĩa là thân xác Chúa Giêsu sẽ
bị đánh dập nhừ tử, sẽ bị giết chết nhưng rồi sẽ phục sinh. Trong thực tế, vào
ngày thứ sáu Tuần thánh, hai nhân chứng sẽ đến lặp lại những lời này: Tên này
đã nói: Ta có thể triệt hạ Đền thờ Thiên Chúa và trong ba ngày sẽ xây cất lại
(Mt 26,61). Tại đồi Canvê, dân chúng sẽ lắc đầu nhạo báng Người mà rằng:
"Mày định triệt hạ Đền thờ và trong ba ngày sẽ xây lại, hãy tự cứu mình
đi" (Mt 27,41). Nhưng rồi cuộc Phục sinh đã khôi phục cái Đền thờ, trong
đó, Chúa Giêsu đã dâng hy tế hoàn hảo, đã dâng của lễ giải phóng nhân loại.
Trên thập giá, Người đã vừa dâng lễ vừa tự hiến, là tư tế và hy lễ cùng một
lúc; thành thử đối với chúng ta, Đền thờ mến yêu và thờ lạy chính là thân thể Chúa
Kitô, trái tim Chúa Kitô. Trong thân thể của Người, chúng ta có thể kết hợp với
Chúa Kitô tư tế và hy lễ. Trong thân thể phục sinh của Người là tạo vật được
giải phóng tuyệt hảo nhất, thuần tính (nguồn tự do toàn vẹn) đã chiến thắng
trong thân thể phục sinh của người, Giao ước mới đã được ký kết và củng cố mãi
mãi.
5. Người Kitô hữu là Đền thờ Thiên
Chúa. Phạm tội là biến Đền thờ Thiên Chúa là hang trộm cắp, và như thế xua đuổi
Thiên Chúa ra khỏi lòng mình. Mùa chay là lúc trùng tu, kiến thiết đền thờ tâm
hồn chúng ta để xứng đáng làm nơi Thiên Chúa ngự trị.
22. Chú giải của
Fiches Dominicales
ĐỨC GIÊSU XUA ĐUỔI NGƯỜI BUÔN BÁN
RA KHỎI ĐỀN THỜ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Từ đền
thờ bằng đá, nơi Đức Giêsu đuổi quân buôn bán.
Nếu Tin mừng của hai Chúa nhật trước trích
từ Maccô, thì Tin Mừng của ba Chúa nhật cuối cùng Mùa Chay này trích từ Gioan.
Các thánh sử khác đã đặt câu chuyện
này vào cuối thời gian rao giảng của Chúa (Mt 21,12-17; Mc 11,15-17; Lc
19,45-46). Còn Gioan chủ ý đặt biến cố này vào đầu đời công khai của Chúa. Để
như vậy, nêu rõ sự đoạn tuyệt với đạo Do Thái chính thống, lúc đó đang là hoàn
cảnh lịch sử của Giáo Hội, đồng thời khôn khéo nối kết Kinh Thánh, các sự kiện
và cử chỉ của Đức Giêsu bằng cái nhìn sau Phục Sinh.
Câu chuyện này xảy ra trong hoàn cảnh
Đức Giêsu lên Giêrusalem "bởi vì lễ Vượt Qua đã đến gần Gioan nhắc lại
công thức này 4 lần trong Tin Mừng (Ga 6,4; 11,55) để chuẩn bị cho độc giả thấy
lễ Phục Sinh của Kitô giáo trùng hợp với lễ Vượt Qua của Israel (X.Léon-dufour,
"Lecture de L'evangile selon Jean" cuốn 1, Seuil, trang 253).
Đức Giêsu thấy "trong đền thờ có
những kẻ bán chim, bò, bồ câu và những người đang ngồi đổi tiền”? Danh từ
"Đền thờ” nhắc đến ở đây không phải khu vực thánh của ngôi đền, cung
thánh, nơi Thiên Chúa hiện diện giữa dân Người. Những người đổi tiền ở đó, là
cần thiết, bởi vì đồng tiền chính thức mang hình và ký hiệu hoàng đế Rôma không
được dùng trong phụng tự, và buộc phải đổi sang một đồng tiền không dơ. Còn bọn
bán chiên, bò, chim bồ câu ở đó để bán những vật cần cho việc hy tế.
Chính trong khung cảnh này mà Gioan
đặt cuộc can thiệp của Đức Giêsu, một cuộc can thiệp gồm hành động và lời quở
trách.
] Cử chỉ của Đức Giêsu giống với cử chỉ
của các ngôn sứ thời xưa, khi thông báo sứ điệp của các ông. Gioan đã tả hết
sức tỉ mỉ với những chi tiết mà không thấy nơi các tác giả Nhất Lãm: "Đức
Giêsu cầm lấy một dây thừng dùng làm roi, Người đuổi những lái buôn chiên, bò,
người lật đổ bàn của người đổi tiền bạc; người xua đuổi bọn bán chim bồ câu”.
] Lời giải thích rất ý nghĩa: "Đem
tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán” -
Lời này gợi nhớ ngôn sứ Giacaria 14,21 loan báo việc tẩy uế Đền thờ được tiên
báo vào cuối đời, lúc này đã khởi sự rồi (A. Marchadour, "L'evangile de
Jean", Centurion, trang 60). Lời này tỏ cho thấy mối liên hệ đặc biệt giữa
Đức Giêsu và Thiên Chúa. Khi nói về Đền thờ, Người đã không dùng từ "nhà
của Chúa”, mà Người nói "nhà của Cha tôi”.
Những người chứng kiến liền phản ứng
tức khắc. Mọi người đều biết lời tiên báo về việc tẩy uế đền thờ. Họ hiểu ngay
rằng: Đức Giêsu không những đến như một người cải tổ, chỉ tố cáo những lạm dụng
nơi Đền thờ, mà còn như một vị đến để làm cho lời tiên tri thực hiện.
Người Do Thái hỏi Đức Giêsu: "Ông
lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?”. Bởi
vì dưới con mắt họ, quyền thiên sai mà Đức Giêsu tự nhận, cũng như những gì
thuộc Đền Thờ phải được chuẩn nhận bằng một dấu lạ.
2. Đến đền
Thờ mới là Thân Thể của Chúa.
Bấy giờ Đức Giêsu đáp: "Các ông
cứ phá Đền Thờ này đi Đền Thờ này "nos”); nội trong ba ngày tôi sẽ xây
dựng lại" (từ ‘dựng lại’ là từ mà thánh ký sau này, câu 22 dùng để chỉ
"sống lại) X. Léon-dufour quảng giải: "Trong câu nói long trọng mà
chúng ta đang được Đức Giêsu đối chiếu đền thờ sẽ bị phá huỷ với đền thờ mà
Người sẽ là kẻ xây dựng lại, (Lecture de L'evangile selon Jean", cuốn 1,
Seuil, trang 261).
Những kẻ đối thoại với Chúa càng tỏ ra
bực bội và ngạc nhiên. Sự không hiểu nhau về vấn đề Đền Thờ - đây là lần đầu
trong một loạt những không hiểu dẫn Người đến núi Canvê – như vậy là hết cứu
chữa.
Và cuối cùng, cộng đoàn Kitô hữu đã
làm gì khi đọc lại những lời này dưới ánh sáng của Đức Giêsu Phục sinh: “Khi
Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại người đã nói điều đó. Họ tin vào
Kinh Thánh và lời Đức Giêsu đã nói".
] Nhớ lại cử chỉ của Chúa, cộng đoàn
Kitô hữu khám phá ra rằng lời Thánh Vịnh 69 đã thực hiện, lời mà họ đặt ở tương
lai: "Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân".
Họ hiểu ra rằng, câu chuyện Đền Thờ này, mọi tiến trình đã bắt đầu để dẫn Đức
Giêsu đến cái chết; rằng Đức Giêsu đã trả giá bằng chính mạng sống Người, để
thực hiện lời tiên tri về việc tẩy uế Đền Thờ mà Giacaria đã loan báo.
] Nhớ lại những lời của Chúa về Cung
Thánh Đền Thờ:
“Các ông cứ phá huỷ đền thờ này đi,
nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”, họ hiểu rằng người nói về thân thể Người, là
dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa loài người; nơi mở cửa cho hết thảy
mọi người, nơi gặp gỡ giữa Thiên Chúa với con người; là Đền thờ của Giao ước mới.
Và X. Léon-Dufour kết luận: "Có
thể nghĩ rằng, đoạn văn đã được biên tập sau năm 70, tức là sau khi đền thờ
Giêrusalem thực sự bị phá huỷ, đền thờ mà Israel coi là nơi có sự hiện diện
Thiên Chúa. Bởi đó, sau khi đền thờ bị phá huỷ, câu hỏi hóc búa được đặt ra là:
cung thánh đã tan tành, vậy từ nay Thiên Chúa hiện diện ở đâu? Theo thúc đẩy
của đức tin, người Do Thái thời đó tin rằng: nơi mà họ gặp Thiên Chúa là Lề
Luật. Còn đối với những Kitô hữu, những người còn chăm chỉ lên đền thờ cầu
nguyện, câu trả lời sẽ là: Chúa Kitô sống lại hiện diện ở giữa họ khi họ tụ họp
để cử hành lễ tưởng niệm Người" (Sđd, trang 266-267).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Ơn gọi
của chúng ta: làm dấu chỉ sự hiện hiện của Thiên Chúa giữa loài người
(Đức cha Daloz, trong
cuốn "Nous avons vu Sa gloire", Desclée de Brouwer, trang 38-39).
"Ngay từ những chương đầu của Tin
Mừng, thánh Gioan đã nói cho chúng ta biết về cuộc hành trình lên Giêrusalem
của Đức Giêsu nhân dịp lễ Vượt Qua của người Do Thái. Chính trong dịp này, ngài
đề cập đến việc tẩy uế Đền thờ, trong khi những thánh sử khác thuật lại việc
này sau khi Đức Giêsu long trọng vào thành Giêrusalem lần cuối. Cử chỉ của Đức
Giêsu là cử chỉ của một tiên tri. Người xua đuổi những kẻ mua bán chiên bò để
cúng tế và những kẻ đổi tiền ra khỏi đền thờ.
Ở đây hành vi đầy bạo lực của Đức
Giêsu là hành vi của một tiên tri, chính các môn đệ của Người cũng hiểu như
vậy. Họ nhớ tới lời Thánh Vịnh: “Nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải
thiệt thân”. Người Do thái cũng hiểu rõ ý nghĩa của cử chỉ này. Họ đòi Đức
Giêsu phải làm một đấu lạ để biện minh cho hành động của mình: "Ông lấy
dấu lạ nào để chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?"
Đức Giêsu trả lời họ bằng rnột câu bí ẩn, mầu nhiệm: "Các ông cứ phá huỷ
Đền Thờ này đi; nội ba ngày tôi sẽ xây dựng lại”. Chúa có ý nói đến tính cách
tạm thời của những hy lễ trong đền thờ của giao ước cũ. Chúa nói về một đền thờ
khác, đền thờ mà ở đó sẽ ký kết giao ước mới. Những đền thờ Đức Giêsu muốn nói
ở đây là chính thân thể Người. Chính nơi Đức Giêsu mà từ nay Thiên Chúa bày tỏ
sự hiện diện của Người. Cần chờ đến biến cố phục sinh, các môn đệ mới nhớ lại
và tin vào Kinh Thánh và những lời Chúa đã nói. Chính đền thờ mới, thân thể Đức
Kitô và nhà của Chúa Cha, mà tạ ngày nay cần phải gìn giữ, đừng biến nó thành
nơi buôn bán. Ta cần phải hết sức cung kính đối với lễ vật của giao ước mới, đã
thay thế cho lễ vật hy sinh của đền thờ ngày xưa. Ta cần phát hết lòng tôn
trọng đốt với thân thể mầu nhiệm, mà Đức Giêsu là đầu, thân thể có ơn gọi làm
dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa giữa nhân loại".
2. Một đền
thờ mới xây dựng những viên đá sống
(H. Denis, trong cuốn
"100 mots pour dire la foi", Desclée de Brouwer, trang 39-40).
Đức Giêsu làm một cuộc cách mạng, lật
đổ cấu trúc tôn giáo. Không những người muốn cho người ta hiểu rằng những ngôi
đền thờ vật chất trở nên vô dụng, mà Người còn muốn tỏ cho biết một ngôi đền
thờ mới, đích thực là thân thể Người, đã chết đi và sống lại.
Đền thờ mới là chính Người, trong
Người tình yêu của Thiên Chúa và của con người chuyển thông nhau trong một cuộc
hiệp thông duy nhất.
Thật là một giao hoán lạ lùng. Nhưng
chưa hết, Tân Ước còn thêm rằng ngôi đền thờ này mà Đức Giêsu là viên đá góc,
được xây dựng bằng những viên đá sống là các Kitô hữu, và nói rộng ra là toàn
thể nhân loại. Là đền thánh, bởi vì nó không được làm bằng đá, gạch hay bất cứ
vật liệu cao quí nào, nhưng bằng những con người, con người được kêu gọi để
thương yêu nhau, để hiến mạng sống cho nhau, nhờ đó lưu thông tình yêu vô hạn
của Đức Giêsu.
3. Thánh lễ
Chúa nhật: lúc dân mới kết hợp nên một thân thể hữu hình.
(Thơ mục vụ của Hội
Đồng Giám Mục Pháp “Lettre aux catholiques de France", Cerf, 93-94).
Trong tiệc Thánh Thể, các cộng đoàn ý
thức hơn về tầm quan trọng của mình trong đời sống của Giáo Hội. Nhưng điều
tuyệt đối cần thiết là phải canh tân rộng khắp ý nghĩa của việc cử hành ngày
Chúa nhật, hiểu như thời điểm mà dân mới, gồm những người đã được rửa tội, làm
nên thân thể hữu hình, để đáp lại lời Đức Kitô mời gọi các môn đệ, kêu gọi họ
dâng hiến sự sống kết hiệp với của lễ Đức Giêsu Kitô để thế giới được sống.
Chúng ta hết thảy đều có lần cảm nghiệm những lần cử hành cởi mở, đầm ấm, khiến
ta dường như cảm nhận được ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng, nhờ đó, ta được
bồi dưỡng sức lực để tiếp tục lên đường. Điều đó không chỉ là một lý tưởng viễn
vông đối với các cộng đoàn, nhất là nếu những cảm nhận và những truyền thống tu
đức biết hoà hợp những đòi hỏi mà đôi khi người ta lầm tưởng là đối nghịch
nhau, như tôn trọng truyền thống phụng vụ, kêu gọi mọi thành phần tham gia tích
cực, và sự góp phần của thẩm mỹ và mỹ thuật vào phụng vụ.
Như vậy, việc thực hiện lễ tạ ơn không
thể tách rời khỏi ý thức về thừa tác vụ được uỷ thác để ban sự sống và xây dựng
cộng đoàn Giáo Hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét