ĐOÀN TỪ THIỆN TẠI BẢO HÀ VÀ LĂNG THÍP |
ĐOÀN TỪ THIỆN TẠI BẢO HÀ VÀ LĂNG THÍP |
ĐOÀN TỪ THIỆN TẠI BẢO HÀ VÀ LĂNG THÍP |
ĐOÀN TỪ THIỆN TẠI BẢO HÀ VÀ LĂNG THÍP |
ĐOÀN TỪ THIỆN TẠI BẢO HÀ VÀ LĂNG THÍP |
Ủ |
ĐOÀN TỪ THIỆN TẠI BẢO HÀ VÀ LĂNG THÍP BÀ TRƯỞNG ĐOÀN PHÁT BIÊU |
ĐOÀN TỪ THIỆN TẠI BẢO HÀ VÀ LĂNG THÍP |
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY B
Lời Chúa: St 22,1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,2-10
MỤC LỤC
1. Vinh quang
2. Đau khổ
3. Biến hình – ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Sống thân mật với
Chúa
5. Nhìn vào mặt tốt –
Lm. Ignatiô Trần Ngà
6. Hãy tỏ mình là hình
ảnh Chúa
7. Đức Giêsu- bảo chứng
tình yêu
8. Cuối đường hầm hay
trên đỉnh núi?
9. Đức Giêsu hiển dung –
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
10. Lên núi cầu nguyện
11. Suy niệm của Đức Ông
James M. Reinert
12. Hãy lắng nghe –
Rolland Dionne
13. Được biến đổi hình
dạng
14. Hai khuôn mặt một
tình yêu
15. Suy niệm của Noel
Quesson
16. Vinh quang thập giá
17. Đức tin và đau khổ
18. Chúa biến hình
19. Biến hình
20. Giây phút tột đỉnh
21. Trên đỉnh Taborê
22. Từ Tabor đến Golgotha – Thiên Phúc
23. Biến hình
24. Suy niệm của Lm. Đaminh
Trần Đình Nhi
25. Suy Niệm của Lm.
Nguyễn Văn Phan
26. Chú giải của Noel
Quesson
27. Đức Giêsu biến đổi
hình dạng
1. Vinh
quang
Cả ba Tin Mừng nhất lãm
đều đặt biến cố Chúa Giêsu biến hình vào giữa hai lần loan báo trước về cuộc
khổ nạn. Điều này rất quan trọng, bởi vì nó cho chúng ta hiểu rằng: Cuộc biến
hình này có liên quan trực tiếp tới biến cố vượt qua và như vậy có nghĩa là
vinh quang mà ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan được chứng kiến trên đỉnh
Taborê hôm nay, báo trước vinh quang phục sinh của Ngài mai sau.
Tuy nhiên, cuộc biến
hình này, mới chỉ là sự thay đổi hình dạng bên ngoài, đặc biệt là sự thay đổi
màu áo, mà theo thánh Macrô, trở nên trắng tinh, không có thợ giặt nào ở trần
gian giặt trắng được như vậy. Còn trong mầu nhiệm phục sinh, Đức Kitô không
phải chỉ thay hình đổi dạng, mà Ngài hoàn toàn đổi mới. Thân xác phục sinh của
Ngài là thân xác "có thần khí". Bởi đó mà Ngài có thể đi qua mọi cửa
nhà đóng kín, hay có thể bất thần xuất hiện trên đường Emmau, rồi ngay sau đó
lại xuất hiện tại Giêrusalem. Chính với thần khí đó, mà hôm nay Đức Kitô hiện
diện trong Giáo Hội, trong thế giới và trong tâm hồn mỗi người tín hữu của
Ngài.
Nhưng điều đáng cho
chúng ta suy niệm, đó là không một sự biến hình nào mà lại không đòi hỏi một sự
trả giá. Trong Tin Mừng theo thánh Luca, Ngài đã hai lần nhắc đến quy luật này:
Đức Kitô phải chịu khổ hình rồi mới vào trong vinh quang của Ngài. Ở đây, với
sự kiện biến hình, Ngài cũng nói với các môn đệ: Có lời chép về Con Người rằng
Ngài phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê. Vậy thì đã rõ, mục đích của cuộc
biến hình này chính là giáo dục đức tin cho các môn đệ. Cũng như Chúa đã báo
trước cho các ông biết Ngài sẽ phải chịu đau khổ và chịu chết, thì bây giờ Ngài
cũng cho các ông thấy trước vinh quang phục sinh của Ngài.
Thật vậy, khác với sự
mong đợi của nhiều người và của chính các môn đệ, là Đức Kitô sẽ thiết lập một
vương quốc trần gian, nối nghiệp vương đế của nhà Đavít, Ngài khẳng định rằng
Nước của Ngài không thuộc về thế gian này và Ngài đến không phải để được hầu
hạ, nhưng đến để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều
người. Cái chết của Ngài là một sự dâng hiến, chứ không phải là một thất bại,
đó là một sự hy sinh tự nguyện, để rồi chính Ngài có quyền phục hồi lại được.
Đó là lý do tại sao Ngài đã ba lần báo trước về cuộc khổ nạn và phục sinh của
Ngài.
Từ đó chúng ta đi đến
kết luật đó là đừng bao giờ chờ đợi một cuộc chiến thắng mà không phải trả giá,
chờ đợi một sự thành công mà không đòi đổ mồ hôi, nước mắt và gian khổ. Nhưng
trái lại, cũng đừng bao giờ bi quan thất vọng mỗi khi gặp phải gian nan thử
thách. Chúa mời gọi chúng ta hãy vác thánh giá mình mà đi theo Ngài, nhưng
không phải với bộ mặt đưa đám hay với những rên xiết thở than, nhưng với bộ mặt
cương quyết rắn rỏi, với thái độ hiên ngang vì tin tưởng vào lời Ngài đã nói:
Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khổ, nhưng hãy can đảm lên, Thầy
đã thắng thế gian.
2. Đau
khổ.
Việc Chúa Giêsu chịu đau
khổ và chịu chết, hay nói một cách khác, mầu nhiệm thập giá của Ngài mãi mãi vẫn
là một điều khó chấp nhận, một cớ vấp phạm cho người Do Thái, một sự điên rồi
đối với dân ngoại. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã chuẩn bị tâm hồn mọi người để
có thể hiểu được phần nào mầu nhiệm ấy.
Cuộc chuẩn bị xa xôi
nhất, đó là việc Thiên Chúa đòi tổ phụ Abraham sát tế người con duy nhất của
mình là Isaac, để làm của lễ toàn thiêu dâng kính Ngài. Việc đòi hỏi này thật
là mâu thuẫn với lời Chúa đã phán hứa với ông. Nhưng Abraham đã không thắc mắc,
đã không phản đối, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng, và thi hành đúng theo lệnh
truyền của Chúa và kết quả: Ông được gọi là kẻ công chính, còn Isaac con ông
thì được cứu sống, chứ chẳng bị sát tế.
Hình ảnh của Abraham là
biểu tượng cho tình thương của Chúa đối với chúng ta. Thực vậy sự công bình và
lòng thương yêu của Chúa đối với chúng ta đã đòi Chúa làm một việc tương tự như
Abraham, đó là không dung tha con mình, nhưng phó thác con mình cho tất cả
chúng ta. Ngày xưa, Isaac không bị giết, mà Abraham vẫn được kể là kẻ công
chính. Còn bây giờ, Đức Kitô đã bị giết. Ngài đã chết thực sự, nhưng sau đó
Ngài sống lại, ngự bên hữu Chúa Cha, hoàn tất công trình cứu độ nhân loại và đã
trở thành Đấng công chính hoá loài người.
Tiếp đến là cuộc chuẩn
bị gần, như chúng ta thấy qua đoạn Tin Mừng vừa nghe chính vì muốn để cho các
môn đệ thân yêu giữ vững niềm tin khi thấy mình bị đau khổ và chịu chết một
cách nhục nhã trên thập giá, mà Chúa Giêsu đã tỏ lộ phần nào vinh quang của
Ngài trên đỉnh Tabor. Nếu lưu ý một chút, chúng ta sẽ thấy ba môn đệ được Chúa
đưa lên đỉnh Tabor hôm nay cũng chính là những môn đệ mà Ngài sẽ đưa vào vườn
cây dầu trong cơn hấp hối. Qua đó chúng ta thấy, mọi biến cố, dù vui hay buồn,
cũng đều là những dịp Chúa gửi đến để kêu mời chúng ta tiến sâu trong tình thân
với Ngài.
Do đó, hãy biết đọc các
dấu chỉ thời đại, hãy biết nhìn những sự kiện xảy ra dưới ánh sáng đức tin và
trong yêu mến Chúa nồng nàn. Các môn đệ lúc đầu đã không thể hiểu ngay mọi ý
nghĩa của việc Chúa biến hình. Trong đời sống thường ngày cũng vậy, đứng trước
những khó khăn hay dễ dàng, gian khổ hay vui mừng, được an ủi hay bị bỏ rơi,
chúng ta khó mà thấu hiểu được ý nghĩa của nó, khó mà khám phá ra được tình
thương và sự công bình của Chúa. Thế nhưng, chúng ta hãy kiên tâm bền chí,
trong kinh nguyện và trong suy niệm Lời Chúa, trong đời sống và trong hành
động, chúng ta sẽ thấy Thiên Chúa lớn hơn con tim của chúng ta. Hãy biết tìm ra
thánh ý Chúa được gởi gắm qua những sự kiện hằng ngày, nhất là nơi những đau
thương, gian khổ và thập giá vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường
về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục sinh.
3. Biến
hình – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Trong đời, có những giây
phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió
thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã
được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ
thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người
diễn tiến qua ba giai đoạn.
Giai đoạn thứ nhất: lên
núi.
Theo quan niệm của người
Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là
một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống
thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành
thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ
cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái.
Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân
tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực
hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng
tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi
cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày
tỏ với Người tình yêu của ta.
Giai đoạn thứ hai: biến
hình.
Trên núi cao, Đức Giêsu
gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng
như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến
hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc
thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân
chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần
ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta.
Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu
dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của
Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm
hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch
mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi
mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết
hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.
Giai đoạn ba: xuống núi.
Khi đã hưởng nếm hạnh
phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô,
trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh
viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn
đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng
nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết
rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu
đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao
giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái
chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.
Trong cuộc sống người
tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc
thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những
giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến
với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải
phấn đấu rất nhiều.
Trong thân mật, Chúa sẽ
dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ
biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi
khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình,
ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.
Kỷ niệm ngọt ngào trong
những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó
khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn
ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng
thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu
toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong
ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.
Lạy Trái Tim Chúa Giêsu
hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa.
Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Một số bạn trẻ tiêu
tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan
giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?
2- Cầu nguyện có thể làm
con người 'biến hình'. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu
xa nhờ cầu nguyện không?
3- Bạn đã có kinh nghiệm
về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?
4- Mùa Chay này bạn có
thực sự muốn 'biến hình' không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?
4. Sống
thân mật với Chúa
(Suy niệm của ĐTGM.
Giuse Ngô Quang Kiệt)
Thiên Chúa là tình yêu.
Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn
từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là
một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón
nhận những đứa con hoang đàng trở về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi.
Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình yêu của Người, đền đáp tình yêu của
Người, đến sống thân mật với Người.
Niềm khao khát sống thân
mật được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ
chọn riêng ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ
có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao giữa tâm hồn với tâm
hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với
từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao. Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân
mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân mật được phát triển ngoài thiên
nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần
tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu
Ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa là đến gặp Chúa. Trong gặp
gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều về Chúa và về bản thân ta.
Trước hết Chúa cho ta
hiểu biết về Người. Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống
của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình yêu không
ngừng trao tặng và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và
là nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai
đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn
không thể tách rởi Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi ngắm nhìn dung
nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: "Đây là Con Ta yêu
dấu", thánh Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại
mãi mãi trên núi, không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan
và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ
của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói:
"Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là
gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Không, không
có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô
Giêsu, Chúa chúng ta" (Rm 8,35-39).
Sau khi cho ta hiểu biết
người, Chúa cho ta hiểu biết chương trình của Người. Chương trình của Chúa là
chương trình của tình yêu. Tình yêu được minh chứng qua sự hy sinh quên mình.
Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Tình yêu
ấy được diễn tả qua hành động của Abraham mà ta nghe đọc trong bài đọc thứ
nhất. Chúa Con, vì yêu thương ta, đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người
nói: "Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu người dám hy sinh mạng
sống mình cho bạn hữu". Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta
được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Đức Giêsu.
Sau cùng, trong thân mật
với Chúa, Chúa cho ta hiểu biết về bản thân mình. Gần bên Chúa quyền năng, ta
thấy mình chỉ là cát bụi. Sống trong trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình
quá độc ác dữ tợn. Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường
bội nghĩa vong ân. Uống vào suối nguồn sự sống của Chúa, ta khám phá ra những
mầm mống chết chóc mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh
tuyền của Chúa, ta thấy mình chỉ là bóng tối nhơ uế.
Hiểu biết những sự thực
về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta
sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó
đã được biến hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi
người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn
thấy con đường mình phải đi là con đường Thánh giá. Chính những đau khổ sẽ
thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa
hơn.
Lạy Chúa, xin thanh tẩy
tâm hồn con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý
1) Bạn đã có kinh nghiệm
về sống thân mật với Chúa chưa?
2) Sống thân mật với
Chúa ta sẽ hiểu biết gì?
3) Trong mùa Chay này,
bạn có dành thời giờ để sống thân mật với Chúa không?
5. Nhìn
vào mặt tốt – Lm. Ignatiô Trần Ngà
Đời người có mặt tối và
mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui
tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu...
Khi Chúa Giê-su tỏ cho
các môn đệ biết Người phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các
môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn!
Không lẽ cuộc đời của
Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?
Đã bao lần họ mơ tưởng
đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong
vương quốc vinh hiển của Người; lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây
khói? Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận
các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?
Không chấp nhận viễn ảnh
đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm
cách can gián để Người đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).
Để củng cố tinh thần các
môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, "sáu ngày sau, Đức
Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Người đưa các ông
... tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y
phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng
được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với
Đức Giê-su."
Bấy giờ tinh thần ba môn
đệ hết sức phấn chấn. "Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: "Thưa
Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho
Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a."
"Bỗng có một đám
mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu
dấu, hãy vâng nghe lời Người."
Thế là nhờ chứng kiến sự
vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Người trên núi cao, ít
nữa có môn đệ Gioan vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn.
* * *
Đời người có mặt tối và
mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui
tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.
Cuộc đời Chúa Giê-su
cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng
là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen
tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính hèn yếu của
mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ
hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc
22, 41-44)... mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ
ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các vị đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho
biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?
Vì thế, Chúa Giê-su cho
các ông thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo
sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho họ thấy Người là "Con yêu dấu của
Thiên Chúa Cha" để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng
trong đêm vườn Dầu sắp đến.
***
Ngôi nhà nào cũng có mặt
trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn
mặt tiền hoành tráng của nó, người ta sẽ thất vọng vì nó.
Tấm huy chương nào cũng
có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không
để mắt đến mặt phải vinh hạnh của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.
Hoa hồng rất đẹp và kiêu
sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa
hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp
dẫn.
Đối với người anh em
chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu.
Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt
đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà
quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó.
Sự kiện Chúa Giê-su tỏ
cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để
chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm
vườn Dầu và đêm khổ nạn, là bài học cho chúng ta trong tương quan với người
khác.
Nhờ ngắm nhìn cụm hoa
hồng rực rỡ kiêu sa và thưởng thức hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi
những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.
Ước gì chúng ta cũng
biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm
thông với những mặt trái, mặt xấu của họ.
Nhờ đó, chúng ta cảm
thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của ta với người khác được cải
thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.
6. Hãy
tỏ mình là hình ảnh Chúa
(Suy niệm của Lm. Giuse
Tạ Duy Tuyền)
Người xưa có câu:
"chọn mặt gửi vàng". Nghĩa là để tin tưởng một ai cũng cần xem mặt,
xem hoàn cảnh, gia cảnh người đó để đánh giá về họ có đáng tin hay không? Thế
mà, vẫn sai lầm. Vẫn chọn sai người. Vì "Sông sâu còn có kẻ dò - Lòng
người nham hiểm ai đo cho cùng".
Vâng, lòng người nham
hiểm hơn núi sông, biết người còn khó hơn dự đoán thời tiết. Thời tiết còn có
xuân hạ thu đông và sáng - trưa - chiều - tối, còn con người, giữa mảng tối và
sáng thật khó phân biệt. Thời tiết còn có hiện tượng bên ngoài để suy đoán
những điều sẽ xảy ra, còn lòng người vẫn cò thể đóng kịch đến mức độ "nói
vậy mà không phải vậy". Có ai đó nói không ngoa rằng: con người là một
diễn viên tài ba nhất, vì họ có thể đóng kịch để lừa dối nhau suốt cả đời mà
vẫn không bại lộ. Thực vậy, có người bên ngoài ôn hậu hiền lành, trong lòng lại
kiêu căng ngạo mạn, không có việc gì lợi mà không dám làm; có người bộ dạng như
quân tử, thực ra là tiểu nhân; Có người bên ngoài nhu mì, nhưng nội tâm cương
trực; Có người xem có vẻ kiên trinh, thực tế lại nhút nhát. Điều này cho thấy
con người thật phức tạp, khó mà biệt được thực hư một người.
Có lẽ mỗi người trong
chúng ta đều nghe biết về Chí Phèo trong truyện của Nam Cao. Chí Phèo là đứa
con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên
rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ
Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo
đem lòng yêu Thị Nở. Thị Nở là một cô gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi
đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người
ta tránh thị như tránh một con vật rất ghê tởm.
Ấy vậy mà cả hai con
người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một
người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho Thị xin lửa và có lần con cho Thị
xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo cũng thấy Thị Nở là một người có
duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo
tỉnh cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức về sự lương thiện của bản thân
mình.
Cuộc sống con người luôn
phức tạp. Phức tạp đến nỗi khó lòng đánh giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có
những người thân phận chẳng ra gì như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và
thậm chí là quái thai của xã hội. Thế nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản
chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra
những điều tốt đẹp nơi người khác của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có
thể khiến chúng ta tuyệt vọng về con người. Con người vốn là hình ảnh của Thiên
Chúa. Là tinh hoa của trời đất. Là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo vũ trụ và
vạn vật. Con người dù tội lỗi mấy đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình
ảnh của Thiên Chúa nơi mình. Con người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không
thể huỷ hoại bản chất tốt đẹp của mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị
mấy đi chăng nữa, cũng vẫn không ngừng toả sáng bản chất của mình là "nhân
linh ư vạn vật".
Vâng, con ngừơi chúng ta
được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Không ai xấu, vì khi tạo dựng, Thiên
Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Bản tính giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn nơi
con người đó. Họ làm việc xấu chứ con người họ vẫn cao qúy, vẫn mang phẩm giá
làm người, thế nên ta vẫn phải yêu thương và tôn trọng. Hãy yêu thương để giúp
họ phục hồi phẩm gia cao đẹp của con người mà bấy lâu nay họ bị phủ lấp bằng
tội lỗi và đam mê. Bên cạnh đó, có những người có thể rất xấu về diện mạo nhưng
tâm hồn họ lại thanh cao. Họ có thể là những con người có "duyện lặn vào
trong" dầu rằng bên ngoài chẳng có gì hay ho.
Như thế điều quan yếu là
hãy biết nhận ra điều tốt nơi nhau. Cho dù họ có xấu đến đâu, mình vẫn có thể
tìm ra điều tốt nơi họ. Hơn nữa, nhân vô thập toàn. Ai trong chúng ta mà không
bị tội lỗi, tật xấu, đam mê mù quáng làm mất đi hình ảnh đẹp trong lòng anh em
hay trước mắt mọi người. Mỗi người chúng ta đều cần người khác đánh giá tốt về
mình thì chính chúng ta cũng hãy nói tốt và nghĩ tốt với tha nhân.
Khi Chúa hiển dung trong
bản tính Thiên Chúa để củng cố niềm tin nơi các tông đồ. Ngài cũng nhắc nhở
chúng ta cũng phải biết tỏ ra phẩm giá cao quý nơi mỗi người chúng ta là hình
ảnh Thiên Chúa qua cách đối như con cái sự sáng để tạo niềm tin nơi nhau. Đồng
thời cũng phải biết tôn trọng nhau vì đều được tạo dựng giống hình ảnh Người.
Chúa Giêsu Ngài hoà nhập vào đời nhưng Ngài không đồng hoá mình như bao tội
nhân. Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Con người chúng ta
không thể đồng hoá mình với con vật như thuyết Duy Vật đã nói, để rồi sống theo
bản năng, chiều theo tính xác thịt nhưng luôn biết chế ngự tính xác thịt nơi
bản năng con người. Chúa hiển dung là lời mời gọi chúng ta hãy toả sáng hình
ảnh của Chúa trong đời sống của mình khi thống trị tật xấu và đam mê. Hãy chế
ngự tính hư nết xấu trong con người cùa mình. Hãy để hình ảnh Chúa tỏ hiện nơi
chúng ta qua đời sống thanh sạch, công bằng, bác ái và yêu thương. Con người
không thể là con vật thuần tuý vì con người không chỉ có thể xác mà còn có hồn
thiêng bất tử, nên không thể chiều theo thể xác mà đánh mất linh hồn, hay tự
huỷ trong những đam mê tội lỗi. Con người phải hơn con vật khi biết chế ngự
tính hư nết xấu, làm theo lẽ phải và hướng về sự thiện.
Ước gì hình ảnh Chúa
đừng đánh mất nơi chúng ta. Ước gì hình ảnh Chúa luôn tỏ hiện qua đời sống
thanh cao, luôn biết sống theo công lý và tình thương. Xin cho mỗi người chúng
ta luôn biết gìn giữ phẩm giá cao đẹp của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Xin đừng
để những đam mê mù quáng làm hoen ố hình ảnh tốt đẹp ấy nơi mỗi người chúng ta.
7. Đức
Giêsu- bảo chứng tình yêu
(Suy niệm của Lm. Giuse
Phạm Thanh Liêm)
Có nhiều tôn giáo tin
nhận Thiên Chúa hiện hữu, nhưng Kitô giáo là tôn giáo đặc biệt nhận ra Thiên
Chúa là Đấng yêu thương. Chính khi nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì
Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, đến độ dám cho Con
Yêu Dấu của Ngài nhập thể làm người ở giữa con người.
I. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
Đức Giêsu đã cùng với ba môn đệ lên núi. Ngài đã biến
hình, áo Ngài trở nên trắng như tuyết. Tin Mừng Mác-cô không nói gương mặt Đức
Giêsu biến đổi như thế nào, chỉ dùng chữ "biến hình;" tuy nhiên,
người ta nghĩ rằng nếu áo của Ngài như vậy, thì gương mặt và thân xác của Ngài
cũng phải "ra khác" một cách rất đặc biệt. Cựu Ước cũng đề cập đến
gương mặt của Môsê trở nên sáng láng sau khi ông gặp gỡ Thiên Chúa, nên ông
phải che mặt khi gặp gỡ dân Do Thái (Xh.34, 29-35). Thánh Phaolô đã giải thích
gương mặt của Môsê được biến đổi vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Vậy khi Đức
Giêsu biến hình, hàm chứa Ngài là người phản ánh Thiên Chúa một cách rất đặc
biệt.
Tiếng từ trong đám mây nói với ba môn đệ: "Đây là
Con Ta, Đấng rất được yêu. Hãy nghe Ngài." Như vậy, Thiên Chúa nhận Đức
Giêsu là Con của Ngài, và là Đấng được yêu đặc biệt. Thực ra, tước vị "con
Thiên Chúa" cũng được dùng để chỉ nhiều người (G.38,7), dân Israel
(Hos.11, 1), vị vua thiên sai (Tv.2, 7). Với Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa
gọi là người Con, được yêu đặc biệt; tuy nhiên, ngay lúc trên núi này, chắc ba
môn đệ chưa thể nào nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa như các ngài đã nhận
ra sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra cho các ông, tuy nhiên lúc này Đức
Giêsu vẫn là một người rất đặc biệt.
Đức Giêsu nhận mình là Con Người. Đức Giêsu thật sự là
người như tất cả mọi người. Một người cảm thấy gì thì Đức Giêsu cũng cảm thấy
như vậy. Ngài cũng bị cám dỗ như bao người, dù là cám dỗ về miếng ăn, về danh
vọng và về quyền hành (Mt.4, 1-11); và không chỉ vậy, Ngài còn bị cám dỗ về đức
tin nữa: "Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con" (Mc.15, 34). Đức Giêsu, nếu có
điều gì khác chúng ta, thì đó là Ngài không phạm tội (Dt.4, 15). Ngài đã dùng
tự do để vâng phục Thiên Chúa, còn chúng ta lại dùng tự do Thiên Chúa ban để
phản lại Ngài.
II. Abraham đã sẵn sàng hiến tế con mình cho Thiên Chúa
Abram, tổ phụ dân Do Thái, là một con người rất đặc biệt.
Thiên Chúa đã mời gọi ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho. Thiên
Chúa hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, có đất làm cơ nghiệp, và trở
thành một mối chúc lành cho nhiều người. Abram đã tin và đã đi theo lời mời của
Thiên Chúa. Đặt mình vào hoàn cảnh của người thời đó, ta nhận ra Abram đã tin
vào Thiên Chúa một cách rất đặc biệt. Thời đó người ta chưa có luật lệ như hiện
tại, người ta phải dựa vào gia đình họ hàng để bảo vệ mình và tài sản khỏi bị
người khác đánh cướp. Thế mà Abram dám rời bỏ gia đình, ra đi với tài sản và vợ
là Saray. Nếu không tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì không
ai dám làm điều đó vì rất nguy hiểm, người ta không chỉ mất tài sản nhưng còn
mất cả mạng sống mình. Abram đã dám làm.
Thiên Chúa đã đổi tên Abram thành Abraham, Saray thành
Sara; và đã cho ông bà có một người con tên là Isaac. Thiên Chúa cũng nói với
Abraham rằng dòng giống ông sẽ nhờ Isaac mà có; thế mà giờ đây Thiên Chúa lại
bảo ông đem người con duy nhất của mình đi hiến tế làm của lễ dâng Thiên Chúa.
Tại sao Thiên Chúa lại "đổi ý" như vậy? Tại sao Thiên Chúa không
"nhất quán" với chính Ngài: đã hứa cho dòng dõi của ông nhờ Isaac mà
có, mà bây giờ lại đòi ông phải hiến tế Isaac? Làm sao có thể vâng lời Thiên
Chúa được?
Một lần nữa, Abraham đã tin và phó thác tuyệt đối nơi
Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn sao Abraham cũng làm, vì ông tin rằng Thiên Chúa
quyền năng, Ngài có thể làm tất cả, ngay cả phục sinh Isaac. Chắc chắn Abraham
đã có những suy nghĩ cám dỗ bất tuân, nhưng ông đã chiến thắng chính mình bằng
niềm tin phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Qua hành vi này, ông trở thành cha
tất cả những người tin (Rm.4, 18tt). Cả cuộc đời của Abrahm là một chuỗi những
hành vi tin. Ngay cả khi vợ ông là bà Sara chết, ông vẫn chưa có đất để chôn
(St.23), tuy vậy ông vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ông điều Ngài đã hứa.
III. Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Ngài
Khi Đức Giêsu còn tại thế, chẳng ai biết Ngài là Thiên
Chúa nhập thể, kể cả các tông đồ. Chỉ sau khi Ngài sống lại, và với ơn Thánh
Thần soi sáng, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm, nên mới
nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa thật đặc biệt. Một khi nhận ra
Đức Giêsu là Đấng thật đặc biệt, là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu lại hiểu biết
về Thiên Chúa và về con người một cách thâm sâu hơn.
Con người là ai mà được Thiên Chúa yêu thương đến như
vậy! Sao Thiên Chúa lại trao phó Con của Ngài cho con người như thể "trao
trứng cho ác" như vậy? Một người ít hiểu biết nhất cũng nhận ra con người
gian ác sẽ giết Con của Ngài, như vậy tại sao Ngài vẫn trao gởi Người Con của
Ngài cho con người? Tại sao Thiên Chúa tin con người đến độ như vậy? Cho đến
cùng, Kitô hữu nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng:
Thiên Chúa tin vào con người dù thật sự không thể tin được.
"Thiên Chúa không dung tha chính Con Ngài nhưng phó
thác Con của Ngài vì tất cả chúng ta." Nhìn Đức Giêsu chết trần trụi ô
nhục thê thảm trên thập giá, người ta có cảm tưởng như thể Thiên Chúa yêu
thương con người hơn cả Đức Giêsu. Thật ra không phải Thiên Chúa yêu thương con
người hơn Con của Ngài; nhưng điều đó lại cho thấy Thiên Chúa yêu thương con
người vô cùng. Theo thánh Phaolô, một khi Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho ta,
thì Ngài không còn tiếc gì với ta nữa. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả.
Đức Giêsu là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng!
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Nơi Abraham có điều gì bạn kính phục?
2. Bạn có nhận thấy Thiên Chúa tin và phó thác vào con
người khi cho Con Ngài nhập thể không? Tại sao?
3. Đức Giêsu có bị nghi ngờ về đức tin không? (chẳng hạn,
không biết mình có sống lại thật không? nếu bạn nghĩ có, tại sao bạn nghĩ như
vậy? xin đưa bằng chứng hoặc lý luận bảo vệ ý kiến của bạn.)
8. Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)
Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh sáng có thể bay
nhanh tới những miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có thể di chuyển
nhanh như thế. Nhờ ánh sáng Chúa biến hình hôm nay, ba môn đệ cũng phóng tầm
nhìn rất xa, xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì thế, các ông đã xác định
được hướng sống và tìm được nền tảng của niềm hi vọng cho cuộc đời. Trong ánh
sáng thần kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Người. Sứ mệnh Người hiện
rõ từng nét. Chúng ta tìm về ánh sáng đó để cùng các môn đệ ngất ngây chiêm ngưỡng
dung nhan tuyệt vời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ muôn dân.
ÁNH SÁNG THẦN KỲ
Nếu không được chứng kiến ánh sáng thần kỳ trên núi, các
môn đệ mãi mãi sống trong giằng co bất tận giữa thực tế và mộng tưởng. Giấc mơ
Thiên sai vẫn đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh hùng cái thế thực
hiện tất cả những giấc mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực tế Thày lại tiên
báo về một Thiên sai đau khổ và bị những nhà lãnh đạo dân chúng tiêu diệt khỏi
mặt đất (Mt 16:21; Lc 9:22; Mc 8:31). Lời Thày như dẫn các môn đệ vào con đường
hầm dầy đặc bóng tối.
Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm. Đức
Giêsu muốn lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang đó. Người phải củng cố niềm
tin các môn đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn chiếc phao và sẽ trôi dạt đến một
chân trời vô định. Cả sự nghiệp Thày trò sẽ tan tành ra mây khói. Bởi vậy Thày
quyết định dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm một điểm mốc cho tương
lai.
Núi là nơi lý tưởng để Thày trò cầu nguyện. Nhưng lần này
khác hẳn. "Núi là nơi thường chứng kiến những mạc khải siêu nhiên và những
cuộc thần hiển" (The New Jerome Biblical Commentary 1990:615). Sau khi đã
leo tới đỉnh núi, "Người biến đổi hình dạng trươc mắt các ông. Y phục
Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được
như vậy." (Mc 9:3) Đức Giêsu đã xuất hiện nguyên hình. Thân xác không cản
nổi luồng sáng từ thiên tính Người. Niềm tin các môn đệ bừng dậy. Có lẽ trong
niềm tin Phật tử, Đức Phật cũng tỏa ra một thứ hào quang tương tự khi chứng ngộ,
thành đạo dưới gốc cây bồ đề (?). Bởi vậy nói theo kinh nhà Phật, trong cuộc
biến hình hôm nay, Đức Giêsu cũng đã thành con đường dẫn các môn đệ thoát khỏi
bến mê và trở về nhà Cha an toàn.
Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ sẽ hiểu được lời Đức
Giêsu hứa về "Triều Đại Thiên Chúa đầy uy lực" (Mc 9:1) và xác tín
"Thày là Đức Kitô" (Mc 8:30). Nói cách khác, Thày tự mạc khải là Đấng
quyền năng có sứ mạng cứu nhân độ thế. Trong địa vị và vai trò lớn lao đó, Thày
xứng đáng là vị lãnh đạo muôn dân vào Đất Hứa. Thày xuất hiện để lời các tiên
tri trở thành hiện thực. Chính vì thế hai ông Môsê và Eâlia đã xuất hiện để
củng cố và chiếu sáng niềm tin các môn đệ vào sứ mạng của Thày. Đúng hơn, hai
ông là cái nền đánh bóng dung nhan Đức Giêsu.
CHÂN TƯỚNG VỊ THIÊN SAI
Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây ngất về dung nhan
Thày trổi vượt hơn các ông Môsê và Eâlia, thì "có một đám mây bao phủ các
ông" (Mc 9:7). Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện. Phải được nhắc lên
đám mây, các ông mới nghe được tiếng Chúa Cha: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy
vâng nghe lời Người" (Mc 9:7). Lời trìu mến chừng nào! Tất cả cơ nghiệp
Chúa Cha là Đức Giêsu! Nhưng cơ nghiệp ấy Chúa Cha đã không ngần ngại hi sinh
cho hạnh phúc nhân loại. Hình ảnh Abraham sẵn sàng sát tế Isaac chỉ diễn tả
phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của Thiên Chúa đối với con người. Abraham chỉ
bị thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí. Trái lại, "đến như chính
Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng
ta" (Rm 8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha tới mức nào. Vậy
mà Người đã hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta (Disciples in Mission [Homily
Guide, Lent Cycle B] 1999:10). "Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh
em" (1 Cr 6:20).
"Tiếng trong đám mây làm liên tưởng tới vị tiên tri
trong Đệ Nhị Luật (18:15) sẽ được lắng nghe vào những ngày sau hết" (Faley
1994:231). Đám mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng tự bản tính Đức Giêsu là
Con Thiên Chúa. Còn ai xứng đáng cho các môn đệ nghe lời hơn không? Vậy mà từ
xưa tới nay, các ông vẫn hoang mang vì dư luận! Bởi vậy từ nay, dù Thày có nói
những điều trái tai gai mắt, các môn đệ cũng phải chấp nhận. Sự thật vẫn là sự
thật. Thày không sợ sự thật. Thày muốn môn đệ cũng phải đối diện với sự thật.
Vì "sự thật sẽ giải phóng các ông" (Ga 8:32).
Thấy cảnh Đức Giêsu biến hình, Phêrô cảm thấy lúng túng.
"Ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng" (Mc 9:6). Một
kinh nghiệm khó quên. Một cảm nghiệm thần bí tuyệt vời. Tuyệt vời đến nỗi ông
muốn kéo dài mãi cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba lều chỉ là một cách nói lên
điều ông không biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng ngây ngất. Nhưng Đức Giêsu
không muốn các môn đệ "ngủ quên trên chiến thắng". Ngay trên núi, sau
khi chứng kiến cảnh Thày biến hình, các ông đã bị trả về thực tế. "Các ông
chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà
thôi" (Mc 9:8). Thực tế trơ ra đó. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế.
Các ông lại phải tiếp tục nghe những điều nhức nhối tâm can phát ra từ miệng
Thày. Thày trò rủ nhau xuống núi. Thày tiếp tục quả quyết về số phận không thể
tránh: "Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê." (Mc 9:12) Lúc
này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức Giêsu hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh
Thày biến hình khỏi tâm trí các ông? Làm sao các ông quên được lời phán từ đám
mây: "Hãy vâng nghe lời Người". Nghe lời Người để tìm đến sự sống,
chứ không phải cái chết. Đúng hơn, niềm hi vọng sẽ bừng dậy khi "Con Người
từ cõi chết sống lại." (Mc 9:9) Đó mới là điều ám ảnh tâm trí các ông suốt
đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả lời đích xác, dẹp yên mọi xôn xao trong
lòng các ông từ trước tới nay. Từ đây giấc mộng Thiên sai bá chủ sẽ nhường bước
cho niềm hi vọng Phục sinh lớn lao đó. Ánh sáng biến hình chỉ là bóng mờ so với
ánh sáng Phục sinh. Nhưng không chứng kiến hay cảm nghiệm được ánh sáng biến
hình, người ta có thể ngộ nhận về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Đó là lý do
tại sao "Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những
điều vừa thấy, trừ khi Con Người từ cõi chết sống lại." (Mc 9:9) Trong ánh
sáng Phục sinh, các môn đệ mới nhận thấy rõ ràng "nơi Đức Giêsu Kitô,
chính Thiên Chúa đã can thiệp để cứu độ dân Người." (Fisichella 1995:669)
Người chính là vị Thiên sai đến thực hiện tất cả những lời Thiên Chúa hứa giải
thoát nhân loại.
Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhân loại vẫn còn sống
trong những đường hầm chật chội, tăm tối. Sự dữ và bất công còn hiện diện khắp
nơi. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn chưa thể nghỉ yên. "Sứ mệnh Thiên sai
vẫn còn đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện cuộc giải thoát toàn vẹn và sau
cùng. Biến cố huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã mang lại ơn cứu độ. Biến cố đó
không chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng ta phải trở nên khí cụ thực
hiện công bình và từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn hoành hành"(Fisichella
1995:669). Nhờ đó, hòa bình sẽ là dấu chỉ rõ nhất của Thiên Chúa tình yêu giữa
một xã hội đầy bạo động và sa đọa này.
Hi vọng không phải lóe lên ở cuối đường hầm, nhưng chiếu
toả mãnh liệt trên đỉnh núi. Hôm nay sau khi chiêm ngưỡng dung nhan Đức Giêsu,
các môn đệ đã nhận thấy "sức mạnh duy nhất của Thiên Chúa là sức mạnh tình
yêu, tình yêu toàn năng" (TGM Angelo Comastri: Zenit 12/3/2003) đang hoạt
động mãnh liệt trong tâm hồn con người và toàn thể vũ trụ.
9. Đức Giêsu hiển dung – Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
"Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cũng
chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời Đức Giêsu, hiểu sai
những thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi chỉ mang tư tưởng
nhân loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa..."
Có một mối liên hệ sâu xa giữa biến cố được kể lại trong
bài Tin Mừng hôm nay (Mc 9,2-10) với lời tiên báo về số phận của Con Người
trong Mc 8,31. Trước phản ứng rất mạnh mẽ của ông Phêrô (đại diện cho nhóm các
đồ đệ) đối với lời tiên báo đó (8,32), Đức Giêsu, vốn đầy tình thương yêu nhân
lành đối với các đồ đệ, đã muốn giúp các ông hiểu và đón nhận chương trình cứu
độ của Thiên Chúa, bằng cách cho các ông được trải nghiệm một thực tại ngoại
thường: biến cố hiển dung.
"Khi ấy, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và
Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông
thôi, tới một ngọn núi cao" (c.2). Tác giả Tin Mừng không nói rõ đó là
ngọn núi nào. Có lẽ ông muốn ám chỉ núi Sinai, là ngọn núi mà ở đó, ông Môsê và
ông Êlia (các nhân vật sẽ xuất hiện trong c.4) đã được chứng kiến các cuộc thần
hiện của Thiên Chúa (x. Xh 34,1-8; 1V 19,8-18). Trước đây, các đồ đệ đã từng
được biết rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (8,30), nhưng các ông lại hiểu sai về tư
cách và sứ mạng Mêsia của Người. Đức Giêsu đã cố gắng giúp họ không hiểu sai,
bằng cách nói cho họ biết về số phận đang được dành sẵn cho Con Người (8,31),
nhưng Người đã thất bại trong nỗ lực đó (8,32). Bây giờ Người đưa các ông
Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng ra một nơi, để một lần nữa, giúp các ông điều
chỉnh cái ý tưởng sai lầm của các ông về Đấng Mêsia và giúp các ông đón nhận
những hệ luận của việc gắn bó với Người. Những gì các ông sắp trải nghiệm sẽ là
một cuộc thần hiện, cho các ông thấy tình trạng vinh quang của Đức Giêsu sau khi
Người chiến thắng sự chết. Người muốn cho các ông cảm nghiệm trước ánh vinh
quang của Đấng sắp đi vào cuộc khổ nạn kinh hoàng.
"Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục
Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được
như vậy" (cc.2c-3). Vinh quang của Đức Giêsu được trình bày qua các chi
tiết về vẻ huy hoàng của y phục của Người. Theo quan niệm đương thời, y phục là
cách diễn tả con người, và trong trình thuật này, nó có giá trị ám chỉ nhân
tính của Đức Giêsu. Y phục đó bây giờ "trở nên rực rỡ, trắng tinh".
Sự rực rỡ và trắng tinh thuần khiết đó biểu tượng cho vinh quang thần linh thấm
đẫm nhân tính của Người. Đó là vinh quang thực của Đấng bị trao nộp vào tay
người đời vì sự sống thật của nhân loại. Sự chết mà Người sắp trải qua sẽ thất
bại tận căn trước vinh quang thần linh này. Và vẻ huy hoàng thuần khiết đang
được tỏ lộ nơi Đức Giêsu này có nguồn gốc thiên thai, chứ không phải là kết quả
của nỗ lực nhân loại: "Không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như
vậy".
"Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra
đàm đạo với Đức Giêsu" (c.4). Sự xuất hiện của hai nhân vật vĩ đại của Cựu
Ước là các ông Môsê và Êlia, đã đem vào trong những thực tại mà các đồ đệ đang
trải nghiệm một đường nét và ý nghĩa mới: mối liên hệ của Cựu Ước với Đức
Giêsu. Tác giả Mc đã không nói rằng ông Môsê và ông Êlia đến, mà là các ông
"hiện ra", như thể một thực tại đang còn ẩn giấu bây giờ được tỏ lộ
ra. Đàng khác, ông Môsê và ông Êlia hiện ra là để cho các đồ đệ của Đức Giêsu
thấy, và tác giả không hề nói gì về vẻ vinh quang của các vị ấy. Hai vị là đại
diện của Cựu Ước (Lề Luật và các ngôn sứ) như đã được ban truyền cho dân. Và
tuy hiện ra cho các đồ đệ thấy, nhưng ông Môsê và ông Êlia không nói gì với các
ông mà chỉ đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này có nghĩa là Cựu Ước chẳng truyền đạt
cho các đồ đệ của Đức Giêsu sứ điệp nào nếu không qua Đức Giêsu. Ông Môsê và
ông Êlia xuất hiện trong sự quy hướng về Đức Giêsu mà thôi. Chính Đức Giêsu mới
là Đấng xác định giá trị của Cựu Ước. Môsê và Êlia, tức là Lề Luật và các ngôn
sứ, không phải là những giá trị tuyệt đối, mà là những thực tại tùy thuộc vào
thực tại Giêsu. Đức Giêsu và sứ điệp của Người siêu vượt hơn hẳn mọi thực tại
cao quý nhất của mặc khải Cựu Ước. Những gì Đức Giêsu nói và thực hiện thì quan
trọng hơn hẳn những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã dạy.
"Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng:
"Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều,
một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia" (c.5). Sự tiến triển
của biến cố hiển dung bị đoạn tục bởi sự kiện ông Phêrô lên tiếng. Được trực
tiếp chứng kiến những gì đang diễn ra, ông Phêrô hướng về Đức Giêsu (chứ không
phải về ông Môsê hay ông Êlia) và thưa chuyện với Người.
Ông Phêrô đưa ra một đề nghị, nhân danh các bạn
("chúng con") và hy vọng sẽ được Đức Giêsu đồng ý. Điểm chính yếu
trong đề nghị là việc làm ba cái lều, một cho Đức Giêsu, một cho ông Môsê và
một cho ông Êlia. Có hai khía cạnh đáng chú ý, được diễn tả bằng danh từ
"lều" và số từ "ba". Hạn từ "lều" gợi ý về lễ
Lều: ông Phêrô nối kết cuộc hiển dung của Đức Giêsu với sứ mạng Mêsia của
Người, và ông hiểu đó là sứ mạng Mêsia theo hướng dân tộc chủ nghĩa. Với số từ
"ba" và được phân chia rõ ràng là "một cho Thầy, một cho ông
Môsê, và một cho ông Êlia", ông Phêrô đang đặt cả ba vị trên cùng một bình
diện, xóa mờ sự tùy thuộc của các ông Môsê và Êlia đối với Đức Giêsu và đặt các
ông ấy trong tư thế độc lập. Thực tại đang xảy ra, như chúng ta đã nói trên
kia, là ông Môsê và ông Êlia xuất hiện chung với nhau trong sự quy hướng về Đức
Giêsu. Nhưng trong đề nghị của ông Phêrô, thì Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia
đồng hàng với nhau, và mỗi vị có vai trò riêng của mình, mỗi vị có
"lều" riêng của mình. Đức Giêsu là Đấng Mêsia; ông Môsê: Lề Luật và
các thiết chế; ông Êlia: nhà cải cách tôn giáo vĩ đại. Bằng cách đó, ông Phêrô
cho thấy ý tưởng của ông về Đấng Mêsia (x. 8,29.33). Một cách gián tiếp, ông
Phêrô phủ nhận sự mới mẻ của sứ điệp và vai trò của Đức Giêsu và Nước Thiên
Chúa.
Rõ ràng ông Phêrô đã được nhìn thấy vinh quang của Đức
Giêsu, nhưng chưa hiểu. Đúng ra, cần phải nối kết vinh quang đang được hé lộ
trong biến cố hiển dung này với thực tại phục sinh của Con Người sau cuộc khổ
nạn và cái chết của Ngài, như Đức Giêsu đã từng nói trước (8,31), nhưng ông
Phêrô chưa thực hiện được sự nối kết đó. Ông vẫn đang còn mang tư tưởng của
loài người chứ chưa phải là tư tưởng của Thiên Chúa (8,33).
"Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông
kinh hoàng" (c.6). Tại sao các ông lại kinh hoàng đến độ không biết nói
gì? Có yếu tố nào đe dọa các ông ở đây? Trong sự sợ hãi và cảm thấy bị đe dọa
đó, ông Phêrô lại chỉ ngỏ lời với Đức Giêsu thôi, chứ không nói gì với các ông
Môsê và Êlia, chứng tỏ ông cảm thấy kinh hoàng là vì một điều gì đó nơi Đức
Giêsu. Quả thực, ông và các bạn đang được chứng kiến vinh quang thần linh tỏ lộ
nơi Đức Giêsu. Các ông hiểu rằng nơi Người đang có mãnh lực thần linh của chính
Thiên Chúa, vốn là mãnh lực có thể gây chết chóc cho người phàm một khi họ được
chứng kiến. Và điều đó gây ra nỗi kinh hoàng tột độ cho các ông.
"Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây,
có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người"
(c.7). Xuất hiện yếu tố thứ ba của cuộc thần hiện. Yếu tố thứ nhất là sự biến
đổi hình dạng của Đức Giêsu, cho thấy tư cách và vị thế thần linh của Người.
Yếu tố thứ hai là sự xuất hiện của các ông Môsê và Êlia, chứng tỏ Đức Giêsu là
điểm đến, là đỉnh điểm, là điểm quy chiếu của tất cả Cựu Ước. Bây giờ xuất hiện
yếu tố thứ ba: Đức Giêsu được công bố là Con Thiên Chúa, Đấng hiến dâng chính
mạng sống mình, Đấng là Lời tối hậu của Thiên Chúa cho nhân loại.
Có thể nói sự xuất hiện của đám mây và tiếng phán từ đám
mây chính là đỉnh điểm của cuộc thần hiện. Đám mây vừa mạc khải vừa che giấu sự
hiện diện của Thiên Chúa. Và trong thực tế, đám mây đã thế chỗ của những chiếc
lều mà ông Phêrô muốn làm. Nói chính xác hơn, sự xuất hiện của đám mây bao trùm
đồng một trật Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia, chính là sự từ chối, hoặc chí ít
cũng là sự điều chỉnh, cái đề nghị vừa được phát biểu của ông Phêrô. Khi đề
nghị làm ba cái lều "ở đây" là ông Phêrô đang muốn cầm giữ cả ba vị
trong cõi đất này, với hy vọng rằng vương quốc Mêsia, nhờ các Ngài, sẽ được
khai mở như là một thực tại thế tạm. Trái lại, Thiên Chúa cho thấy rằng vinh
quang của Đức Giêsu và thực tại Người mang đến, tự bản chất, thuộc về cảnh vực
thần linh chứ không phải là những thực tại thế tạm.
Cùng với đám mây và từ đám mây, có tiếng phán. Tiếng ấy
không nói với Đức Giêsu nhưng là nói với các môn đệ và cung cấp cho các ông lời
giải thích về những gì đang diễn ra. Phần thứ nhất của lời giải thích là một
khẳng định: "Đây là Con Ta yêu dấu". Đại từ "đây" rõ ràng
loại trừ ông Môsê và ông Êlia khỏi điều được công bố và đồng thời nhấn mạnh
tính cách hơn hẳn của Đức Giêsu so với hai vị đó. Ngữ đoạn "là Con của
Ta" cho thấy một cách tường minh rằng thực hữu của Đức Giêsu xuất phát từ
chính Thiên Chúa, rằng hành động của Người là hành động của chính Thiên Chúa,
rằng lời của Người là lời của chính Thiên Chúa. Định ngữ "yêu dấu"
nhấn mạnh mối tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu.
Phần thứ hai là một lời kêu gọi: "Hãy vâng nghe lời
Người". Đức Giêsu là Tôn Sư độc nhất, là Đấng công bố lời tối hậu của
Thiên Chúa. Các môn đệ chỉ phải vâng nghe lời Người mà thôi. Cựu Ước (mà đại
diện ở đây là các ông Môsê và Êlia) không có gì để nói trực tiếp với các môn đệ
nữa nếu không phải là qua Đức Giêsu. Như thế, không hề có hai mặc khải song
song hay tiếp nối (Cựu Ước và Đức Giêsu), mà chỉ có một mặc khải duy nhất nơi
Đức Giêsu, Đấng thực hiện và hoàn tất những gì được nói trong Cựu Ước, Đấng
quyết định giá trị và đem lại sự trường tồn cho những thực tại Cựu Ước.
Tác giả Tin Mừng không nói gì về phản ứng của các môn đệ
đối với những gì vừa được công bố từ đám mây. Trong Kinh Thánh, một khi được ý
thức, lời của Thiên Chúa sẽ gây nên nơi người nghe sự sợ hãi. Nhưng các môn đệ
ở đây không phản ứng gì. Hình như tác giả Tin Mừng có ý ngầm cho biết rằng các
ông đã chẳng hiểu đúng ý nghĩa của những thực tại đang diễn ra, y như trước đây
các ông đã không hiểu đúng ý nghĩa lời tiên báo của Đức Giêsu (x. 8,31tt).
"Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ
còn Đức Giêsu với các ông mà thôi" (c.8). Trái với đề nghị của ông Phêrô,
các ông Môsê và Êlia đã biến đi. Từ nay, họ không còn vai trò gì trong lịch sử
nữa, chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, Đấng duy nhất mà các môn đệ phải vâng nghe
lời, Đấng duy nhất là tôn sư và ngôn sứ. "Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà
thôi".
Sau đó, các Ngài rời cảnh vực thần linh và trở về với
lịch sử trần trụi. Cho đến lúc này, như chúng ta đã hơn một lần nói ở trên, các
môn đệ chưa hiểu đúng những thực tại mà các ông vừa được trải nghiệm. Vì thế,
"ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai
nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại" (c.9).
Chỉ khi vinh quang của Người được liên kết chặt chẽ với sự từ chối và cái chết
mà Người đã từng nói cho các ông biết, thì các ông mới có thể nói lại cho người
khác những gì các ông vừa được trải nghiệm trên núi. "Các ông tuân lệnh đó,
nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là
gì" (c.10).
Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cũng chẳng
khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời Đức Giêsu, hiểu sai những
thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi chỉ mang tư tưởng nhân
loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa... Nhưng đồng thời, ngay trong Mùa
Chay thánh này, biết đâu Chúa vẫn đang hiển dung cho chúng ta một cách nhiệm
mầu... Từng chi tiết của cuộc hiển dung trong bài Tin Mừng hôm nay đều đáng
được suy niệm một cách nghiêm túc và đều có ý nghĩa sâu xa đối với đời sống đức
tin của chúng ta....
10. Lên núi cầu nguyện
(Suy niệm của Tôma Nguyễn Xuân Hiệp)
Chuyện kể rằng: Có hai anh em ruột kia rất thương nhau,
rất hợp tính và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức
thánh thiện. Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng
không quên những bổn phận đạo đức hằng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một
thầy dòng, ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo. Mười
năm sau, người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói
chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá
ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hợp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau
quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa
nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng
thánh thiện ngày xưa nữa. Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên
do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên
nhiên để giải thích cho anh ta. * Trước tiên là đám mây trên trời: thường
thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào
giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm
qua. * Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng
năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ
lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và
có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá
khác. * Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con
người luôn luôn thay đổi, có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính
rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào
của 7 năm trước đây nữa. Sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn
không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước. Vị
ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế. Muốn lớn lên, muốn tươi trẻ
mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải biết từ bỏ những thói quen
xấu, những cám dỗ đam mê và đồng thời biết nổ lực luyện tập những nhân đức tốt.
Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây
chết đứng, chứ không còn là một thân cây tươi tốt sống động vươn mỗi ngày. Sở
dĩ người anh trở nên tầm thường, khô cằn vì suốt 10 năm qua anh ta luôn tự mãn
với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái xấu nào và cũng không nổ lực
tập một nhân đức nào. Tức anh ta không chịu "lên núi" trong đời sống
hằng ngày để cầu nguyện, để gặp Chúa, để được biến đổi.
Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta theo Chúa
Giêsu "lên núi cầu nguyện". Bài đọc 1, sách Sáng Thế tường thuật lại biến
cố "lên núi" của Tổ phụ Abraham đầy giân truân vất vả, cả sự dâng
hiến mạng sống người con một yêu dấu theo thánh ý Thiên Chúa. Chính bởi đức tin
mạnh mẽ và quả cảm vượt thắng tất cả mà ông được gặp gỡ Thiên Chúa và được chúc
phúc. Bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi giáo đoàn Rôma: hãy tín thác vào Thiên
Chúa Tình Yêu, cho dẫu hành trình đức tin như một cuộc "leo núi" đầy
khó nguy. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước và thể hiện tình yêu qua Người Con
Một: "Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp
vì hết thảy chúng ta". Bài Tin Mừng, thánh sử Maccô đã tường thuật lại
biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt các môn đệ thân tín là: Phêrô,
Giacôbê và Gioan. Qua biến cố ấy, Chúa Giêsu muốn để lại cho các tông đồ và mỗi
chúng ta bài học hữu ích trong hành trình đức tin của người kitô hữu là phải
"lên núi" "Đức Giêsu lên núi cầu nguyện" (Mc 9, 28). Đây là
bài học căn bản và nền tảng mà Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người chúng ta: Phải cầu
nguyện, kết hiệp và tìm thánh ý Chúa sau và trước những công việc làm. Để thực
hiện điều ấy, "Đức Giêsu lên núi", tức phải vứt bỏ những vướng bận lo
toan thành công thất bại, phải dành thời giờ cho việc leo núi, vượt thắng những
cám dỗ đam mê, phải nổ lực phấn đấu không ngừng với thân xác nặng nề để leo lên
độ cao khó khăn vất vả trong đời sống tâm linh mới có thể sống tương giao với
Thiên Chúa và để lắng nghe thánh ý của Người. Nếu thiếu vắng đời sống tương
giao kết hiệp với Thiên Chúa trong thinh lặng, trong thẳm sâu tâm hồn để kín
múc sức sống thần linh từ Thiên Chúa, thì xem chừng cách cầu nguyện ấy đã đi
vào vết xe đổ của kiểu cầu nguyện đầy hình thức bên ngoài mà Chúa Giêsu đã từng
lên án những người Biệt Phái. Đó là kiểu cầu nguyện kể lể, huênh hoang báo cáo
kết quả cho cấp trên là Thiên Chúa. Hay kiểu cầu nguyện xem Thiên Chúa chỉ là
chỗ dựa tinh thần tạm thời. Khi gặp thất bại, gian truân thì sốt sắng đến với
Thiên Chúa như chiếc phao cứu sinh của đời sống tâm lý để giải tỏa những xung
đột, những bế tắc, để vượt qua những bĩ cực thương đau. Sự sốt sắng cầu nguyện
hy sinh ấy là vì con người, chỉ dừng lại ở nhu cầu ích lợi cá nhân chứ chưa đi
vào mối tương giao kết hiệp với Thiên Chúa để tìm thánh ý Người. Nhà thần học
Bonneffeur bảo: Đó là kiểu cầu nguyện ngoại giáo; một kiểu cầu cạnh tư lợi. Người
không biết Chúa và cả những người vô thần cũng làm như thế. Một kiểu cầu an!
Còn Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải vượt thoát những vướng bận lo toan của đời
thường để kết hiệp với Chúa, để tìm thánh ý Chúa trong từng biến cố, từng phút
giây. Phải kết hiệp với Thiên Chúa cách liên lỉ mọi lúc mọi nơi, mọi công việc.
(x. Mc 18,1-8. 9-14) Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn mỗi người chúng ta biết
"lên núi" mỗi ngày, biết từ bỏ những cám dỗ đam mê, những vướng bận
đời thường, mà sống kết hiệp với Thiên Chúa qua Thánh lễ, kinh nguyện, xét
mình, tĩnh tâm, lãnh bí tích Giao hòa .... Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor
hôm nay là hình ảnh tiên trưng hành trình vác thập giá lên núi Canvê và phục
sinh của Chúa Giêsu. Và đó cũng là hành trình đức tin của mỗi người tín hữu
chúng ta. Mỗi người chúng ta phải "lên núi" mỗi ngày mới có thể
"biến hình", mới có thể phục sinh sáng láng như Đức Giêsu Kitô. Amen.
11. Suy niệm của Đức Ông James M. Reinert
(Đan Quang Tâm dịch)
MÙA CHAY, NHỚ LẠI VAI TRÒ VÀ SỨ MẠNG
CỦA TA TRONG GIÁO HỘI
Câu truyện Ápraham sẵn sàng hiến tế con trai mình là
Ixaác đặt toàn bộ việc cử hành Mùa Chay vào trong một ánh sáng tuyệt hảo. Thánh
Phaolô ám chỉ về câu truyện này trong Thư gửi tín hữu Rôma. Tuy nhiên, ông nhắc
cộng đồng rằng Thiên Chúa không những chỉ sẵn sàng hiến tế Con của Người nhưng
Người còn "đã trao nộp vì hết thảy chúng ta".
Bởi vì hy tế đó, ta có can đảm và sự tự tin để biết rằng
nếu ta trung thành, ta không có gì phải sợ. Thiên Chúa đã làm tất cả việc này
cho chúng ta, Phaolô viết. Làm sao Người lại lên án chứ?
Tất cả điều này được tái củng cố trong câu truyện Hiển
Dung khi Đức Giêsu khích lệ các tông đồ đừng mất đức tin trong ngày sắp đến.
Trình thuật Hiển Dung trong Phúc âm Thánh Máccô thực tế chỉ là sự chép lại từng
từ trong Phúc âm của Thánh Mátthêu và Thánh Luca. Ngay cả các biến cố dẫn đến
sự kiện cũng y hệt.
Điều quan trọng là đặt bài Phúc âm ngày hôm nay vào trong
ngữ cảnh. Theo Thánh Máccô, sự kiện xảy ra sáu ngày sau khi Đức Giêsu hỏi các
môn đệ: "Người ta nói Thày là ai?" Câu trả lời mà Thánh Phêrô đưa ra
cho Người, quen gọi là lời tuyên tín của Phêrô, "Thầy là Đức Kitô!",
đã đưa Đức Giêsu đến chỗ báo trước lần thứ nhất về cuộc thương khó, cái chết và
sự phục sinh của Người và vạch ra các đòi hỏi cho các môn đệ. Một lần nữa, Đức
Giêsu sắp nhắc nhở các môn đệ và tất cả chúng ta rằng đây là một bộ phận trong
kế hoạch của Thiên Chúa và từ lúc này trở đi, trong khi tiếp tục cuộc hành
trình lên Giêrusalem, Người sẽ nói về thập giá rất nhiều lần.
Nay, sáu ngày sau, Đức Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan
lên đỉnh núi và Người hiển dung. Chắc chắn đây là một sự nếm trước về cuộc phục
sinh. Hầu như chắc chắn là các môn đệ vẫn còn tìm cách để hiểu biết đầy đủ điều
Đức Giêsu muốn nói khi bảo họ: "Người sẽ bị giết và sau ba ngày sẽ sống lại".
Nay họ được giải thích rõ về lời nói đó. Họ xem thấy vinh quang của trời; họ
thấy mối liên quan giữa "lề luật" trong Môsê và các "ngôn
sứ" trong Êlia và sứ điệp mà Đức Giêsu đã và đang rao giảng.
Trong Chủ nhật thứ hai này của Mùa Chay, ta được nhắc đến
các vai trò và trách nhiệm của ta trong Giáo hội. Tất cả điều này đến với ta
bằng sự đoan chắc rằng đây là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa, ta có các
nghĩa vụ với tư cách là môn đệ và ta có sự đoan chắc về Nước Thiên Chúa – mà ta
vừa mới nhìn qua – trước hết trong câu truyện Hiển Dung và rồi trong sự phục
sinh của Đức Giêsu vào sáng Chúa nhật Phục sinh.
"Toàn thể dân Chúa đều có một vai trò để thực hiện
trong khi Giáo Hội hoàn thành sứ mạng của mình. Bằng các cách thức khác nhau và
thông qua mỗi thành viên theo các năng khiếu và cách hành động thích hợp với ơn
gọi của mỗi người, dân Chúa đáp lại bổn phận công bố và làm chứng cho Tin Mừng
(x. 1 Cr 9,16), trong sự nhận thức rằng "hoạt động truyền giáo là một công
việc của mọi Kitô hữu" (Thông điệp Redemptoris Missio, 2) (Sách Tóm lược
Học thuyết Xã hội Giáo hội Công giáo, 538).
"Đời sống cá nhân và xã hội, cũng như hành động con
người trong thế giới, luôn luôn bị tội lỗi đe doạ. Tuy nhiên, "bằng cách
chịu khổ vì chúng ta..., Đức Giêsu Kitô không những làm gương cho chúng ta để
chúng ta bước theo Người, mà Người còn mở ra cho chúng ta một con đường. Nếu đi
theo con đường ấy, cuộc sống và cái chết của chúng ta sẽ được thánh hoá và mặc
một ý nghĩa mới" (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22). Trong đức tin và
thông qua các bí tích, người môn đệ Đức Kitô gắn bó mật thiết với mầu nhiệm
Vượt Qua của Đức Giêsu để con người cũ của mình, cùng với những khuynh hướng
xấu, chịu đóng đinh với Đức Kitô. Rồi khi trở thành thụ tạo mới, họ được ân
sủng tăng sức để có thể "bước đi trong đời sống mới" (Rm 6,4). Điều
này "không chỉ đúng với các Kitô hữu, mà còn đúng đối với mọi người thiện
chí, vì ân sủng vẫn đang hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn những người
ấy. Vì Đức Kitô đã chết cho mọi người và vì ai ai cũng được mời gọi hưởng chung
một định mệnh duy nhất, là định mệnh thần linh, ta phải tin rằng Đức Chúa Thánh
Thần ban cho mọi người khả năng trở thành những người thông phần vào Mầu nhiệm
Vượt Qua, bằng phương cách chỉ có Thiên Chúa biết" (Hiến chế Mục vụ
Gaudium et Spes, 22) (sđd, 41).
12. Hãy
lắng nghe – Rolland Dionne.
Tha hồ lựa chọn.
"Hãy hoán cải, hãy
tin vào Tin Mừng". Lời mời gọi này, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta hôm
nay như Ngài đã nói với thính giả xứ Galilê vào lúc khai mạc công trình rao
giảng. Phải chăng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc? Chúng ta còn tin vào Tin
Mừng của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta không?
Sự lựa chọn mà đức tin
đòi hỏi không phải là điều dễ dàng. Sự lựa chọn này khó khăn bởi vì nó sẽ mang
đến nhiều điều hệ lụy và đưa chúng ta vào những tình huống không thể thoái lui
được. Có vô số những vị "giảng đạo" xuất hiện trước cửa nhà chúng ta
và lui tới trong các khu xóm của chúng ta. Các giáo phái phát triển mỗi ngày
một nhiều. Những kẻ tuyên truyền nói hay đến nỗi họ có thể hoán cải cả quỉ dữ
nữa và nhất là khéo léo gieo nghi ngờ vào lòng những người xác tín nhất. Ta tự
hỏi: Phải tin gì đây? Phải nghĩ gì đây? Ai là ngôn sứ thật? Ai có thể nói cho
chúng ta biết điều này?
Tầm quan trọng của việc
lắng nghe.
Một trong những nỗi bất
ổn lớn nhất của thế giới chúng ta, đó là thiếu sự lắng nghe. Lắng nghe, hiện
nay là cách điều trị tốt nhất đối với nhiều người. Trong mùa chay này, chúng ta
được mời gọi lắng nghe: "Đây là Con chí ái của Ta, hãy lắng nghe lời
Ngài". Theo Thánh Kinh, lắng nghe không phải chỉ là nghe bằng tai nhưng là
để cho mình được uốn nắn, giáo dục, hoán cải. Thiên Chúa nói về những người
chống lại luật của Ngài: "Chúng không nghe lời Ta".
Cũng như những kẻ được
chứng kiến cuộc biến hình, chúng ta được mời gọi lắng nghe, được mời gọi đi vào
sự biến hình của Chúa Kitô. Lắng nghe Chúa Kitô phải dẫn đưa chúng ta đến chỗ
thay đổi sâu xa. Chúng ta được mời gọi chấp nhận cả một chương trình sống.
Những đòi hỏi triệt để của phép rửa phải được thực hiện không thể còn chỗ cho
sự tầm thường hoặc nguội lạnh nữa.
Kẻ lòng Ta ưu ái.
Một khẳng định không chút do dự, không chút giảm thiểu:
"Đây là Con Một Ta ưu ái. Hãy lắng nghe lời Ngài". Trong tất cả các
ngôn sứ đây là vị ngôn sứ thật. Có lẽ đây không phải là Đấng mà các ngươi đã mơ
ước, nhưng đó là ngôn sứ của Ta. Đó là ngôn sứ của Ta bởi vì Ngài đến để giải
thoát và cứu độ. Chính Ngài mặc khải tư tưởng của Ta và có thể thông truyền sức
sống của Ta. Chỉ mình Ngài đáng tin cậy, bởi vì Ngài là người duy nhất đã thể
hiện dự tính của Ta về thế giới. Các ngươi hãy chọn Ngài.
Việc lựa chọn bao giờ cũng kéo theo những đòi hỏi. Trong
mùa chay này chúng ta được mời gọi chiến đấu với sự dữ nơi chúng ta và xung
quanh chúng ta. Con đường mà chúng ta phải theo là con đường giúp chúng ta tái
sinh. Làm điều lành, thực thi bác ái huynh đệ và đặc biệt hơn nữa thương yêu
những kẻ bé mọn, đó phải là những ưu tiên và phải dẫn đưa chúng ta vào đường
hoán cải để làm cho chúng ta trở nên những kẻ "được ưu ái".
Tin tưởng.
Chương trình dẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu là chương
trình đòi hỏi nhất. Vài tuần lễ thật quá ngắn đối với chương trình của cả một
đời người. Thiên Chúa của chúng ta có vẻ như là một Thiên Chúa khắt khe và nhỏ
nhen. Thực ra nếu Ngài đòi hỏi, là bởi vì Ngài thương yêu chúng ta. Ngài đòi
hỏi nhiều, nhưng Ngài cũng hứa cho chúng ta những điều tuyệt vời nữa.
Về phía Ngài, Ngài ban cho chúng ta mọi sự cả đến sự sống
của Ngài nữa. Không những Ngài sẽ ban sự sống ấy cho chúng ta sau khi chúng ta
chết đâu, nhưng ngay ở trần thế này. Việc tuyên xưng đức tin vào đêm vọng Phục
Sinh giúp chúng ta tìm lại được sự sống ấy.
Chúng ta có sẵn sàng chết một cách nào đó để sống lại tốt
hơn không? Chúng ta có sẵn sàng "lắng nghe" không? Có sẵn sàng để cho
lời Chúa uốn nắn chúng ta và sống theo lời Ngài dù lời ấy có vẻ vô lý không?
Hãy để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài nơi mỗi người chúng ta và chúng ta
sẽ có quyền được gọi là "Con yêu dấu".
13. Được biến đổi hình dạng
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ, đó là nơi Ngài gặp
gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.
Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Đức Giêsu: núi của Bài
Giảng về các mối phúc, núi Tabo nơi Ngài biến hình, núi Sọ và núi Ô-liu nơi
Chúa thăng thiên.
Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.
Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.
Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo, để củng
cố niềm tin của họ, trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi và bị mọi
người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.
Nhưng vinh quang của núi Tabo chỉ là một loé sáng bất ngờ
và tạm thời, báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.
Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.
Sau khi gặp Cha, Đức Giêsu được Cha biến hình. Sự biến
đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt, và đến cả y phục của Ngài.
Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất,
nay được Cha hé mở cho các môn đệ.
Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Đức Chúa cũng đã
phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.
Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.
Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa làm cho người
Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.
Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình, như
Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.
Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình: tôi
là con yêu dấu của Thiên Chúa.
Từ khi chịu phép Thánh Tẩy, chúng ta đã bước vào một cuộc
biến hình, từ từ và liên tục.
Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu
chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa
(x. 2Cr 3,18). Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.
Đời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi và xuống núi với
Chúa Kitô mỗi ngày. Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc khi được chiêm
ngắm Chúa Giêsu trên núi cao. Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa để đi đến nơi
hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi
Sọ.
Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường và
nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.
Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa để rồi được sai xuống núi
hành đạo. Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và
chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên
trong tâm hồn con người?
Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình".
Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện
không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào, xin cho con tìm được
những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc, xin cho con quý
chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo, xin cho con
biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin cho con thoát
được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa,
ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được con người thật của con và khuôn mặt thật
của Chúa.
14. Hai khuôn mặt một tình yêu.
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Tại nước Mêhicô, người
ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên
các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu
võ.
Một linh mục tên là
Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có
thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự
các trận đấu.
Với một thân mình to
lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô
mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu
với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha
đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng
trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.
Thưa anh chị em,
Hai khuôn mặt, một tình
yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô
nhi của cha, cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình
yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không
sợ thương tích.
Hai khuôn mặt, một tình
yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên
Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như
chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa
nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn
đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt
đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh
sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu
lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.
Ở bài đọc 1 hôm nay,
sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế
Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính
Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: "Thiên Chúa đã không dung
tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng
ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã
ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta
nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thật
giá trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng
để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập
giá rồi tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.
Trong cuộc biến hình huy
hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần
nữa: "Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa". Người
con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang
đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa
nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh. Cảnh
tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng
trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta
phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh
quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, "người Cha
của mọi kẻ có lòng tin" đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật
căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất
yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.
Chúng ta cũng được biến
hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để
cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến
hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu
có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn
mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của
Cha đối với các em nghèo và mồ côi.
Thưa anh chị em,
Chúa Giêsu, "Người
Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha", đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu
kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu
rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý
Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi
cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.
Mầu nhiệm này đã được
thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh
lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể,
dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến
Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta,góp phần
làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày
Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.
15. Suy
niệm của Noel Quesson
CHÚA TỎ VINH QUANG NGÀI.
"Đừng kể lại cho ai
nghe... cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại".
Đức giám mục Curtis một
lần tới thăm Đức hồng y Newman. Hai người đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức
hồng y Newman cho Đức giám mục Curtis biết: Tòa Thánh đã cho ngài đặc ân được
đặt Mình Thánh trong phòng. Không ngờ tin này làm Đức giám mục Curtis xúc động
mạnh, đến nỗi khi Đức hồng y mời Đức giám mục Curtis ở lại ban đêm, ông trả
lời: "Tôi không thể nào ngủ được khi biết Chúa của tôi đang ở với tôi
chung một mái nhà".
Đã hẳn bao giờ Thiên
Chúa cũng ở bên ta vì Người là Thiên Chúa toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng
một khi chúng ta ý thức điều đó, một khi có bằng chứng nhắc nhớ tới sự kiện đó,
thì thường làm ta xúc động mãnh liệt. Ta biết điều này khi đọc thấy thái độ của
các Tông đồ được chứng kiến Chúa tỏ vinh quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là
an ủi tràn đầy cho các tâm hồn. Và có thể định nghĩa thiên đàng là sự ý thức rõ
ràng mình được sống bên sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức
niềm hân hoan đó, niềm hân hoan làm các Tông đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta
phải có một số điều kiện.
Trước hết ta cần bắt
chước các Tông đồ lên một đồi cao. Khi lên cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát
hơn. Vì vậy hầu hết các cuộc xuất hiện quan trọng của Thiên Chúa trong Kinh
Thánh đều xảy ra trên núi cao. Không nhất thiết phải là một đỉnh núi, nhưng
chắc chắn phải là sự vươn lên của tâm hồn, tránh được sự ám ảnh, vương vấn của
cuộc đời trần tục. Cần có một đỉnh cao nội tâm, gắng đạt tới những chân trời xa
rộng. Muốn vậy phải rời bỏ thung lũng thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ,
ngột ngạt của độ cao... và tránh đám đông ồn ào gây nhiễu.
Chúa cho ba Tông đồ
chứng kiến Chúa biến hình: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đây không phải tình cờ. Khi
làm phép lạ cho bé gái 12 tuổi đã chết được sống lại, Chúa cũng đưa ba Tông đồ
này theo để các ông được chứng kiến (Mc 5,37). Cũng chính ba ông là những người
gần gũi Chúa khi Chúa cầu nguyện và hấp hối trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Chúa
cho ba ông chứng kiến quyền uy Thiên Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ
đau của nhân tính Chúa, để các ông thành chứng nhân cho niềm tin của mình và
của anh em.
Một điều kiện nữa để
thành môn đệ gần gũi của Chúa đã được chính Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo:
"Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài". Đây là lần thứ hai có
tiếng từ trời phán xuống, nhưng lần này rõ ràng tiếng đó nói với chúng ta. Là
môn đệ Chúa, thì phải nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa trong Kinh Thánh, trong tìm
tòi suy luận, nhưng nhất là trong Kinh Nguyện một mình riêng rẽ đối diện với
Chúa nơi thanh vắng. Môn đệ của Chúa cần thiết phải được Chúa đích thân dạy dỗ,
mặc khải cho.
Sự biến hình, bộc lộ đôi
chút vinh quang Thiên Chúa, làm vui thỏa tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi,
Chúa dặn các ông đừng kể lại với ai 'cho tới khi Con Người từ cõi chết sống
lại'. Vì Chúa biết rằng chỉ sau cái chết và Phục Sinh của Chúa, các ông mới
hiểu rõ về Chúa. Khuôn mặt đích thực của Chúa Cứu Thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã
chết trên thập tự chứng tỏ tình yêu đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do
quyền lực Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin mở mắt
lòng tin chúng con, cho chúng con được nhìn thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc
sống chúng con.
16.
Vinh quang thập giá
Qua đoạn Tin mừng vừa
nghe chúng ta nhận thấy: những gì xảy ra trên đỉnh Taborê hoàn toàn trái ngược
hẳn với những gì đã xảy ra trong sa mạc khi Ngài bị cám dỗ.
Cuộc dạo chơi của bốn
thày trò hôm nay thật là thú vị, đến nỗi Phêrô đã phài thốt lên: Thưa Thày,
chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin dựng ba lều, một cho Thày, một
cho Maisen và một cho Êlia. Từ đó chúng ta khám phá ra rằng: điều mà Satan nhọc
hơi cám dỗ Ngài mà không được, thì hôm nay chính Ngài lại tỏ lộ cho ba môn đệ,
đó là vinh quang của Con Thiên Chúa. Vinh quang ấy còn được làm chứng bởi hai
nhân vật lịch sử của Cựu ước: Maisen và Êlia. Tại sao Ngài từ chối Satan nhưng
lại bật mí cho các môn đệ. Tôi xin thưa, chìa khóa của vấn đề được tìm thấy
trong chỉ thị của Ngài ngăn cấm các môn đệ không được tiết lộ điều mắt thấy tai
nghe cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Satan cám dỗ Ngài tỏ mình là
Con Thiên Chúa bằng cách phô trương thanh thế, biểu dương quyền lực. Và Ngài đã
từ chối, để rồi Ngài sẽ tỏ lộ ra trong mầu nhiệm khổ nạn và Phục sinh. Bởi vì
chính thập giá mới là nơi Ngài tỏ cho nhân loại biết Ngài là Con Thiên Chúa.
Biến đá trở thành bánh
hay nhảy từ trên cao xuống một cách an toàn thì rồi con người cũng có thể làm
được. Nhưng sống lại từ cõi chết thì chỉ mình Thiên Chúa mới thực hiện được mà
thôi. Bởi vì cho đến ngày hôm nay chưa một ai đã thoát khỏi cái chết, thế nhưng
chỉ có cái chết của Con Thiên Chúa mới thắng nổi sự chết và đó mới là cuộc biểu
dương đích thật quyền năng tuyệt đối của Con Thiên Chúa.
Đức Kitô không những đã
chẳng màng đến của cải, danh vọng thậm chí cả đến quyền năng có sẵn Ngài cũng
chẳng sử dụng và hơn thế nữa Ngài lại còn chấp nhận cho thiên hạ cười chê: là
bạn với quân thu thuế và phường tội lỗi, là kẻ phạm thượng, điên khùng. Do đó
mà Ngài đã bị kết án và chết như một phạm nhân giữa những tên trộm cướp. Chỉ
nhờ hạ mình thẳm sâu như thế và quên mình tới mức thánh Phaolô đã coi như là
một sự tự hủy, mà Ngài đã đạt được danh hiệu trổi vượt trên muôn vàn danh hiệu,
đó là Đức Kitô, Đấng Thánh của Thiên Chúa. Chính cái vinh quang mà Ngài sẽ chỉ
đạt được trong mầu nhiệm thập giá thì hôm nay Ngài tỏ ra cho ba môn đệ được
thấy với mục đích là để các ông đừng có ảo tưởng về một vinh quang trần thế,
nghĩa là ước mơ rằng Ngài sẽ làm vua cai trị Israel và các ông sẽ được chia
nhau mỗi người một địa vị. Đồng thời Ngài cũng chuẩn bị cho các ông khỏi chán
nản và tuyệt vọng khi thấy Ngài bị bắt bị kết án và bị giết chết trên thập giá.
Vì thế, biến cố Taborê gắn liền với biến cố Canvê. Sự biến hình gắn liền với
thập giá. Cùng với cuộc khổ nạn và Phục sinh, thì sự biến hình hôm nay sẽ là
một điềm báo trước cho vinh quang của Ngài, một khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Với chúng ta cũng vậy,
nếu hôm nay chúng ta dám chấp nhận khổ đau, dám vác thập giá mà bước theo Ngài
thì trong ngày sau hết chúng ta cũng sẽ được tham dự vào vinh quang Phục sinh
với Ngài.
17. Đức
tin và đau khổ
Đức tin như một con mắt
thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái
chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn
nhắn nhủ chúng ta.
Chúng ta hãy lấy một thí
dụ như trường hợp Abraham trong bài đọc 1. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên
Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất
của Abraham với vợ chính là Sara, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một
sự lạ lùng đối với Abraham và Sara, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó,
Thiên Chúa muốn thử đức tin nơi Abraham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất
ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Abraham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt
trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con.
Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận "lòng tôn kính và tin yêu" của Abraham,
vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con
và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức
sống mãnh liệt biết bao.
Hơn thế, đức tin còn
giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo
khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Abraham,
chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của một người cha phải
cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.
Như vậy, đức tin giúp
con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng
đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi
thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên
Chúa đã hé mở vinh quang của nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm
tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn
dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang
là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ
đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong
đời sống hàng ngày.
Có một câu nói diễn đạt
kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là "Khi
Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ". Thiên Chúa đóng cửa
chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh
sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra
như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần
nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp,
một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.
Chẳng hạn, Thiên Chúa
đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh
nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi
để chữa lành. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua
thiệt, nhưng ngài lại mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn
quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa
chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ
là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau...
Thiên Chúa đóng kín cửa
chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những
cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không
ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời,
đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một
hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng
ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được
những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở
ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì
thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng,
nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường,
để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa
đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.
Chúng ta vẫn thường nói:
"Chạy trời không khỏi nắng", nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những
khổ lụy của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó
là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị gì không?
Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công
phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng
ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân
trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau,
nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì
Chúa đã nói: "Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ
nâng đỡ bổ sức cho".
18.
Chúa biến hình
Tại sao ba môn đệ thân
tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lại được diễm phúc chứng kiến cảnh tượng Chúa
biến hình trên đỉnh Taborê. Nhiều nhà chú giải cho rằng vì Chúa muốn củng cố
niềm tin còn non yếu nơi các ông.
Thực vậy, mới mấy ngày
trước đây khi Ngài loan báo về những đau khổ và cái chết Ngài phải chịu, thì
Phêrô đã lên tiếng can ngăn: Lạy Thầy, không thể như thế được. Và Chúa Giêsu đã
quở trách Phêrô: Hỡi Satan, hãy cút đi, con chỉ làm cản trở đường đi nước bước
của Thầy, vì những tư tưởng của con không xuất phát từ Thiên Chúa, mà chỉ xuất
phát từ con người.
Sau lời quở trách ấy,
thì có lẽ giờ đây các ông đang cần một liều thuốc bồi bổ tinh thần. Từ đó chúng
ta đi vào phạm vi đức tin và chúng ta có thể xác quyết: hành trình của đức tin
giống như hành trình của một chiếc tàu đi biển. Có lúc được nâng lên cao, có
lúc lại bị hạ xuống. Thường nó có những điểm cao và những điểm thấp của nó. Có
lúc lên núi thì cũng phải có lúc xuống đồi. Có những lúc bùng sáng, thì cũng có
lúc như muốn tàn lụi. Hãy nhìn vào ba vị tông đồ thân tín nhất của Đức Kitô và
chúng ta sẽ thấy được như vậy.
Thực thế, đức tin của
các ông hôm nay rực sáng như một ánh đuốc trong đêm tối, nhưng có những lúc
ngọn lửa ấy như muốn tàn lụi. Đúng thế, chỉ một vài tháng sau, tại vườn cây dầu
tại dinh thượng tế, tại đỉnh cao đồi Canvê, các ông người thì chối Chúa, kẻ thì
bỏ Chúa mà chạy trốn. Đức tin của chúng ta cũng vậy, có những lúc lên cao và có
những lúc xuống thấp... Khi lên cao, chúng ta cảm thấy gần gũi Chúa đến độ
chúng ta tưởng rằng mình có thể đụng chạm tới Ngài, chúng ta thấy rằng ơn thánh
của Ngài luôn ấp ủ bao bọc và nâng đỡ chúng ta. Trái lại khi xuống thấp, chúng
ta cảm thấy như Chúa xa lìa chúng ta, không còn đón nhận những lời chúng ta kêu
xin. Chúa không còn gần gũi chúng ta, mà chỉ là một nhân vật xa lạ, một ý niệm
trừu tượng, chẳng ăn nhập gì với cuộc sống chúng ta. Vậy thì trong những lúc bị
xuống thấp như thế chúng ta phải làm gì?
Tôi xin thưa, hãy noi
gương bắt chước tổ phụ Abraham. Niềm tin của ông có phần yếu ớt và bị lu mờ khi
Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy sinh đứa con duy nhất là Isaac, đem nó lên núi
mà sát tế để dâng kính Ngài. Điều đó làm cho ông đau khổ và bối rối. Thế nhưng
ông vẫn một lòng cậy trông và phó thác vào Chúa. Cuối cùng, Chúa đã không để
cho ông phải thất vọng. Ngài đã chúc phúc và ban cho ông nhiều hồng ân hơn cả
lòng ông mơ ước. Đôi khi Thiên Chúa cũng thử thách đức tin của chúng ta. Tâm
hồn chúng ta thì chất đầy những đắng cay, bản thân chúng ta thì khổ đau buồn
phiền, thế nhưng hãy tin tưởng và cậy trông vào Chúa như Abraham ngày xưa, bởi
vì Ngài sẽ nâng đỡ và phù trợ chúng ta.
Để kết thúc, chúng ta
hãy ghi nhớ tư tưởng sau đây của thánh Giacôbê tông đồ: Phúc cho ai bị thử
thách mà vẫn trung thành, bởi vì người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự
sống mà Ngài đã hứa ban cho những kẻ yêu mến Ngài.
19.
Biến hình
Trong Mùa Chay, Giáo Hội
đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là
Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục
sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác
không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu
thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ
hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý
hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ bằng
việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta gọi
là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có
phải là một chuyện thần thoại không? Cách đây ít lâu, trên đài truyền hình
thành phố, chúng ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không,
một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể
biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí... đó là những chuyện
thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện
thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa
thông thường người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng
bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa
chỉ là một người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã
được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được
chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực
của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng
"con người" cho các ông thấy hình dạng "Thiên Chúa" của
Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu
biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài
chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là
Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên
khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo
Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế
nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ,
bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một
mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững
lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài
sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây
thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước
mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các
ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì
vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ
các ông.
Có một câu chuyện kể
rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư
để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài
của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ
bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng
thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự
nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà
không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo
thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và
kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ
thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng
tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng
gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự
sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng
tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ
cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng
ta đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất
cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước
trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho
con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được
câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng
không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác
lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con
đường dẫn đến sự sống. "Hãy vác lấy thập giá và theo Ta", đó là lệnh
truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta
sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy
tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận
thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng
chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như
ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng
đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên
kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc
nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc
đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ,
và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa
sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
20.
Giây phút tột đỉnh
Nhà tâm lý học Abraham
Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ tuổi như sau: "Vào một buổi sáng
nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình của cô. Nhà bếp tràn đầy những ánh sáng,
những đứa con của cô đang cười đùa và nói năng vui vẻ, và chồng cô đang đùa
giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh mì và rót nước cam,
ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình
của cô. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nào nói
được."
Maslow gọi lúc đó là
giây phút tột đỉnh. Nó là những giây phút ngắn ngủi quí báu chúng ta nhìn thấy
những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên
Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho
chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác.
Ý tưởng về giây phút tột
đỉnh giúp chúng ta thấu hiểu những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm
mà bài Phúc Âm hôm nay tả lại. Họ đã cảm nghiệm được những giây phút tột đỉnh.
Chỉ trong một vài phút
quí báu, họ đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt.
Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề
ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã nhìn thấy một thế giới
vượt trên thế giới này. Chỉ trong vài phút quí báu, họ đã thấy từ ngoại diện
của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa vinh hiển và
tuyệt mỹ.
Điều đó đưa đến một câu
hỏi. Tại sao câu truyện Phúc Âm về cuộc biến hình của Chúa Giêsu lại đặt giữa
những bài đọc buồn tẻ ủ rũ của Mùa Chay? Tại sao nó không được đặt giữa những
bài đọc vui mừng của Mùa Phục Sinh?
Câu trả lời nằm trong ý
nghĩa việc biến hình xảy ra. Nó xảy ra ngay sau khi Chúa Giêsu nói cho các môn
đệ biết Ngài phải đi lên Giêsusalem chịu đau khổ và chịu chết.
Khi Phêrô nghe Chúa
Giêsu nói về việc này, ông đã kêu lên: "Xin Thiên Chúa thương! Những sự đó
sẽ không xảy ra cho Ngài."
Chúa Giêsu liền nói với
Phêrô: "Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng
của ngươi không phải ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người."
Phêrô, Giacôbê, và Gioan
cần có mũi chích tinh thần sau khi cuộc mạc khải khiếp sợ của Chúa Giêsu.
Có thể đấy cũng chính là
lý do mà Giáo Hội đặt bài đọc biến hình giữa những bài sầu buồn của Mùa Chay.
Giáo Hội cũng muốn cho chúng ta mũi chính tinh thần này trước khi xoay sự chú ý
của ta đến cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong ngày Thứ Sáu Tuần Thánh.
Giáo Hội muốn cho chúng
ta một sự gì đó để nhìn vào trong những giờ đau khổ của cuộc khổ nạn của Chúa
Giêsu và cái chết trên thập tự.
Trong mỗi một người
chúng ta, cũng có một phần của Adong và một phần của Thiên Chúa.
Như Chúa Giêsu trên Núi
Tabor, chúng ta cũng cảm nghiệm được những giây phút ngây ngất, khi Thiên Chúa
chiếu sáng qua chúng ta gần như làm cho ta bị loà luôn. Trong những giây phút
này, chúng ta cảm thấy thật là gần gũi với Thiên Chúa y như là chúng ta cảm
thấy chúng ta có thể với tay chạm đến Thiên Chúa.
Và chúng ta cũng cảm
nghiệm được những giây phút lo buồn, khi phần của Adong vùng vẫy mãnh liệt, đến
nỗi phần của Thiên Chúa trong ta bị lung lay và gần chết đi. Chúng ta cảm thấy
xa lìa Thiên Chúa, đến nỗi ta hỏi rằng không biết Thiên Chúa có hiện hữu hay
không.
Trong những giây phút
ngây ngất chúng ta sung sướng trong lời Thiên Chúa Cha phán với chúng ta những
gì mà Thiên Chúa Cha đã phán với Chúa Giêsu: "Đây là Con Ta tuyển
chọn." Những lúc lo buồn, chúng ta cũng sẽ cảm nghiệm những gì Chúa Giêsu
đã cảm nghiệm trong vườn cây dầu: cánh tay Thiên Chúa Cha sẽ nâng đỡ chúng ta.
21.
Trên đỉnh Taborê
Sau khi nghe đọc đoạn
Tin Mừng, chúng ta không khỏi băn khoăn tự hỏi:
- Tại sao Chúa Giêsu lại
tỏ lộ sự việc lạ lùng ấy cho ba môn đệ thân tín nhất.
Tôi xin trả lời:
- Đó là để soi sáng và
củng cố đức tin cho các ông.
Đúng thế, các tông đồ,
những người bạn nghĩa thiết của Chúa đã không muốn hiểu và không muốn chấp nhận
những lời tiên báo của Chúa về cuộc tử nạn và cái chết của Ngài.
Cách đây mấy hôm, Chúa
Giêsu cũng đã nói với các ông:
- Con Người sẽ phải lên
Giêrusalem ở đó sẽ bị bắt bớ, bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại.
Phêrô đã kéo Ngài ra một
chỗ và can ngăn, nhưng Chúa Giêsu đã khiển trách ông nặng lời:
- Hãy cút đi hỡi Satan,
ngươi chẳng hiểu gì về những việc của Thiên Chúa, mà chỉ hiểu những công việc
của người đời mà thôi.
Có thể những lời nói xa
nói gần, nói bóng nói gió của Chúa về cuộc tử nạn đã làm cho niềm tin tưởng của
các ông bị chao đảo và mối cậy trông của các ông bị tắt ngấm, để rồi sau cùng
đứng trước nỗi thống khổ của thập giá, các ông sẽ trở nên những kẻ bị phá sản,
không còn hy vọng, không còn can đảm, không còn nghị lực.
Bởi đó, khi tỏ lộ vinh
quang của mình trên đỉnh Taborê, Chúa Giêsu muốn củng cố niềm tin tưởng và giúp
các ông chiến thắng trong những giờ phút tăm tối. Cũng như chuẩn bị các ông sẵn
sàng đón nhận những bắt bớ, những cấm cách sẽ xảy đến sau này.
Đúng thế, nếu đọc tiếp
Phúc Am chúng ta sẽ thấy: liền sau đó trong cuộc tử nạn các ông, người thì chối
bỏ, người thì chạy trốn. Sở dĩ như vậy là vì các ông chưa hiểu. Một mai, khi đã
nghĩ lại và nhất là nhớ đến vinh quang Taborê, các ông sẽ can đảm trong mọi cơn
gian nguy thử thách và sẽ hy sinh cho đến giọt máu cuối cùng vì tình yêu của
Đấng đã bị đóng đinh vào thập giá.
Sự việc Chúa Giêsu biến
hình đã tạo được một tiếng vang cho đến tận cùng bờ cõi trái đất, nó sẽ đem lại
cho chúng ta một bài học, một niềm an ủi trong những giờ phút đen tối.
Thực vậy, khi gặp phải
những khổ cực đớn đau, những đắng cay chua xót, chúng ta hãy nghĩ rằng: Nếu chúng
ta trung thành với Chúa, chúng ta sẽ được nhìn thấy vinh quang Ngài trong cõi
sống ngàn thu. Vinh quang ấy không phải chỉ kéo dài trong thoáng chốc của một
kiếp phù du, nhưng sẽ kéo dài mãi mãi, kéo dài đời đời.
Sống trên trần gian,
chúng ta giống như những kẻ bị lưu lạc nơi đất khách quê người, chúng ta không
bao giờ nhìn thấy Thiên Chúa, hay như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Hiện tại
chúng ta chỉ nhìn thấy một cách mơ hồ như trên một tấm gương, nhưng rồi chúng
ta sẽ hiểu biết Ngài một cách trọn vẹn, sẽ yêu mến Ngài mãi mãi và trái tim nhỏ
bé của chúng ta sẽ ngập tràn hạnh phúc. Một thứ hạnh phúc vượt trên những điều
chúng ta có thể nghĩ tưởng được.
Vì thế mà thánh Phaolô
cũng bảo:
- Những đau khổ đời này
thì nhỏ nhoi không thể nào sánh ví được với vinh quang mai hậu.
Nếu chúng ta trung thành
yêu mến và phụng sự Chúa, thì phần thưởng bội hậu sẽ được dành để cho chúng ta.
Lúc bấy giờ, thân xác của chúng ta, người bạn tâm phúc của linh hồn, cũng sẽ
được dự phần vinh quang, cũng sẽ được chia sẻ niềm vui bất tận.
Vì đau thương là đường
lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới phục
sinh.
22. Từ
Tabor đến Golgotha – Thiên Phúc
Một linh mục qua nhiều
năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau:
Có một đôi vợ chồng trẻ
rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp "trai tài gái
sắc".Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa
xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.
Một ngày nọ, người vợ ăn
một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:
- Ôi nửa trái táo ân
tình, công chúa của lòng anh!
Hai mươi năm sau. Cũng
đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo,
vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:
- Sao lại cho nửa trái
táo ăn thừa?
Tất cả nguyện trạng chỉ
khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ
tay "người đẹp" là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay
"nàng già" là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ
mất hết tất cả với thời gian.
Cuộc biến hình trên núi
Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn
những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải
tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa
giải chứ không gây mê.
Nhưng có lẽ cuộc biến
hình đã phản tác dụng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng
con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia" (Mc
9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi
Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn
đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời
Chúa.
Các ông đâu biết rằng
Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập
giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống
thấp và leo lên thập giá với Thầy.
Cũng như ba môn đệ, đôi
vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu
tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc "tấm áo trắng như tuyết" trong chốc lát vì
niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là
một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.
Giá trị đích thực chính
là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy,
chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của
Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản
ánh vinh quang ngời sáng của Người.
Đức Kitô vinh quang của
Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép
lạ.
Đức Kitô sáng láng của
Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.
Đức Kitô rực rỡ của
Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha .
Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn
lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa
thành Lisieux: "Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà
là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê". Thánh Bernadette cầu
nguyện:"Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng
bỏ con trong khổ đau".
Lạy Chúa, xin cho chúng
con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng
biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.
23.
Biến hình
(Trích trong
Tinmung.net)
Trong Mùa Chay, Giáo Hội
đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là
Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục
sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác
không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu
thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ
hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý
hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ
bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta
gọi là Chúa biến hình.
Biến hình là thế nào? Có
phải là một chuyện thần thoại không? Cách đây khá lâu, trên nhiều đài truyền
hình, chúng ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một
kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến
thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí... đó là những chuyện thần
thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện
thần thoại mà là một chuyện có thực.
Biến hình, theo nghĩa
thông thường người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng
bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa
chỉ là một người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã
được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được
chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực
của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng
"con người" cho các ông thấy hình dạng "Thiên Chúa" của
Ngài.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu
biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài
chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là
Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên
khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo
Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế
nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.
Ngoài mục đích bày tỏ,
bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một
mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững
lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài
sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây
thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước
mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các
ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì
vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ
các ông.
Có một câu chuyện kể
rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư
để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài
của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ
bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng
thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự
nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà
không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo
thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa,
trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch
cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt
của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi
đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần
sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt
của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho
chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta
đến hạnh phúc cao cả hơn.
Quả thực, ở đâu và bất
cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước
trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho
con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được
câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng
không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác
lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con
đường dẫn đến sự sống. "Hãy vác lấy thập giá và theo Ta", đó là lệnh
truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta
sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy
tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận
thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng
chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như
ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng
đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên
kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.
Đây cũng là điều nhắc
nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc
đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ,
và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa
sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.
24. Suy
niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Có hai thuyết về ngọn
núi nơi Chúa Giê-su biến đổi hình dạng: có thể là núi Các-men ở miền bắc
Ga-li-lê và gần Xê-da-rê Phi-líp-phê, nơi ông Phê-rô tuyên xưng Chúa Giê-su là
Đấng Ki-tô; còn truyền thống quen thuộc thì cho đó là núi Ta-bô-rê ở phía nam
Ga-li-lê giáp ranh với Sa-ma-ri và nằm trên đường xuống Giu-đê-a. Nếu ta coi
hành trình của Chúa Giê-su lên Giê-ru-sa-lem như tột đỉnh sứ mệnh cứu thế của
Đấng Ki-tô, thì Ta-bô-rê quả thực là bước quyết định để Chúa xác tín sứ mệnh ấy
và nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem để chịu đau khổ và chịu chết. Tuy nhiên, biến cố
biến đổi hình dạng không chỉ có ý nghĩa đối với Chúa Giê-su, mà còn có ý nghĩa
đối với các môn đệ, những kẻ muốn theo Chúa cũng phải "từ bỏ chính mình,
vác thập giá mình mà theo".
a) Để Chúa Giê-su xác
tín sứ mệnh và quyết định đi Giê-ru-sa-lem
Sứ mệnh cứu thế của Chúa
Giê-su mỗi ngày cần phải được củng cố thêm, sao cho đúng với kế hoạch Chúa Cha
đã phác họa. Sau những ngày tháng thành công và nổi danh tại Ga-li-lê, Chúa
Giê-su chắc chắn bị cám dỗ không muốn rời Ga-li-lê. Tại sao lại rời bỏ môi
trường mình đang gặt hái được những kết quả tốt đẹp? Nhưng Chúa Giê-su đặt
thánh ý Chúa Cha lên trên hết. Người cần phải quyết định rõ ràng, theo "tư
tưởng của Thiên Chúa" hay theo "tư tưởng của loài người", lên
Giê-ru-sa-lem hay ở lại Ga-li-lê. Việc biến đổi hình dạng trên núi có thể coi
như một tiến trình quyết định lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Vậy quyết định đi
Giê-ru-sa-lem được củng cố như thế nào qua những gì xảy ra trên núi Ta-bô-rê?
Trước hết là qua sự xuất
hiện của ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a bên cạnh Chúa Giê-su. Ông Mô-sê là người
đem Lề Luật của Thiên Chúa cho Ít-ra-en. Còn Ê-li-a là vị ngôn sứ vĩ đại nhất.
Chúa Giê-su đến để thực hiện tất cả những gì Lề Luật và các ngôn sứ nói. Do đó,
sự hiện diện của hai vị bên cạnh Chúa Giê-su đã nói lên đầy đủ ý nghĩa sứ mệnh
của Người, đồng thời là một khích lệ to lớn. Ta có cảm tưởng câu chuyện giữa
Chúa Giê-su với Mô-sê và Ê-li-a xoay quanh đề tài về sứ mệnh của Chúa Giê-su mà
thôi. Các ông nói với Chúa: "Ngài đã thi hành sứ mệnh cứu thế một cách tốt
đẹp, xin Ngài cứ tiếp tục sứ mệnh ấy!" Các ông nhìn thấy nơi Chúa Giê-su
thể hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã dạy các ông nói trước đây.
Tiếp đến là qua lời xác
nhận của chính Chúa Cha: "Đây là Con Ta yêu dấu". Khi nói những lời
này, Chúa Cha xác nhận tất cả những gì Chúa Giê-su đã làm trong quá khứ đều làm
đẹp lòng Người. Đồng thời những lời đó cũng ngầm hiểu: Con đã quyết định đi
Giê-ru-sa-lem là đúng, vậy Con cứ tiếp tục làm như đã quyết định. Chúa Giê-su
không chỉ thấy việc chấp nhận thập giá như một điều không thể tránh né, nhưng
tích cực hơn như một lẽ sống của Người và của toàn thể nhân loại. Người mong
Chúa Cha sẽ nói qua Người với nhân loại những lời "đây là con Ta yêu
dấu".
b) Biến cố Chúa Giê-su
biến đổi hình dạng mang ý nghĩa đối với môn đệ Người
Các môn đệ nản lòng sau
khi Chúa Giê-su loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Ông Phê-rô thì phổi bò
nên "bắt đầu trách Người". Ông đóng vai trò của Xa-tan cám dỗ Chúa
Giê-su đừng làm theo những gì Người đã loan báo. Ông đã rời chỗ đứng của ông,
thay vì bước đi theo sau Chúa thì ông lại bước lên trước làm chướng ngại con
đường thập giá của Người. Mới đây ông đã thay mặt anh em môn đệ để tuyên xưng
đức tin Chúa Giê-su là Đấng Ki-tô thì bây giờ ông cũng thay mặt anh em để cản
đường Chúa lên Giê-ru-sa-lem. Do đó, việc Chúa biến đổi hình dạng trên núi thật
là cần thiết để ông và các bạn trở về chỗ đứng môn đệ của họ và lấy lại đức tin
đã bị lung lạc do hình ảnh Thương Khó và cái chết của Chúa tại Giê-ru-sa-lem.
Dù hiểu hay không hiểu sứ mệnh của Chúa Giê-su, thì ít ra lúc này các ông cũng
được phục hồi niềm tin vào Người sau khi nghe những lời Chúa Cha nói với Người:
"Đây là Con Ta yêu dấu". Ngoài ra biến cố trên núi hiển dung cũng
chuẩn bị các ông trong sứ mệnh làm chứng cho Chúa Giê-su. Vinh hiển các ông
được chứng kiến trên núi là những gì tiên báo cho vinh hiển của Chúa Ki-tô Phục
Sinh mà các ông sẽ rao giảng cho muôn dân.
c) Chúa Giê-su biến đổi
hình dạng trong cuộc sống Ki-tô hữu
Có khi nào ta nghĩ rằng
cả cuộc đời Ki-tô hữu của ta là tiếp diễn cuộc biến đổi hình dạng của Chúa
Giê-su theo một nghĩa nào đó không? Dĩ nhiên ta không dám hiểu đó là một cuộc
biến đổi chiếu tỏa vinh quang, nhưng là một sự thay đổi con người của ta trở
nên giống Chúa Ki-tô mỗi ngày một hơn. Thánh Lê-ô Cả Giáo hoàng đã nói trong
bài giảng của ngài: "Thiên Chúa đã khôn ngoan dự liệu cho niềm hy vọng của
Hội Thánh có nền tảng vững vàng: Người cho Hội Thánh biết toàn thân thể mầu
nhiệm của Đức Ki-tô sẽ được biến đổi ra sao. Người cũng dự liệu cho các chi thể
tin chắc mình sẽ được thông phần vinh quang rực rỡ của Đầu là Đức Ki-tô"
(Bài đọc 2, giờ Kinh Sách CN 2 mùa Chay).
Có lẽ thánh Phao-lô đã
diễn tả cuộc biến đổi hình dạng của đời sống Ki-tô hữu một cách cụ thể nhất qua
những lời ngài gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê: "Vấn đề là được biết chính
Đức Ki-tô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được
thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong
cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi
chết" (Pl 3:10-11). Việc ta biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Chúa
Ki-tô quả thực tiếp tục cuộc hiển dung của Người trên núi Ta-bô-rê.
d) Suy nghĩ và cầu
nguyện
Thập giá nào trong cuộc
sống có thể làm cho tôi mất đi đức tin vào Chúa Ki-tô? Tôi có nhận ra được ý
nghĩa đích thực của thập giá đó không?
Phụng vụ Lời Chúa lấy
câu truyện Chúa Giê-su biến đổi hình dạng làm chủ đề cho Chúa Nhật 2 mùa Chay
có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi có nhận ra sứ điệp nào đặc biệt không? Và tôi đã
đáp lại thế nào?
Ông Phê-rô xin dựng cho
Chúa một cái lều trên núi để ông được tiếp tục cảm nghiệm những giây phút đầy
an ủi khích lệ. Tôi có muốn dựng một cái lều ngay trong đời sống của tôi để
Chúa cư ngụ và biến đổi con người tôi không? Dựng lều như thế nào?
Cầu nguyện
"Xin ở lại với con,
lạy Chúa,
vì con cần có Chúa hiện
diện
để con khỏi quên Chúa.
Chúa thấy con dễ bỏ Chúa
biết chừng nào.
Xin ở lại với con, lạy
Chúa,
vì con yếu đuối,
con cần Chúa đỡ nâng để con
khỏi ngã quỵ.
Không có Chúa,
con đâu còn nồng nhiệt
hăng say.
Xin ở lại với con, lạy
Chúa,
vì trời đã xế chiều và
ngày sắp tan,
cuộc đời qua đi, vĩnh
cửu gần đến.
Con cần được thêm sức
mạnh
để khỏi ngừng lại dọc
đường.
Xin ở lại với con, lạy
Chúa,
vì con cần Chúa trong
đêm tối cuộc đời.
Con không dám xin những
ơn siêu phàm,
chỉ xin ơn được Ngài
hiện diện.
Xin ở lại với con
vì con chỉ tìm Chúa, yêu
Chúa
và không đòi phần thưởng
nào khác
ngoài việc được yêu Chúa
hơn".
- Cha Pi-ô
(Trích RABBOUNI, lời
nguyện 16)
25. Suy
Niệm của Lm. Nguyễn Văn Phan.
Phụng vụ Lời Chúa hôm
nay cho chúng ta một dịp nhìn lại cá tính và đức tin của Abraham. Lệnh truyền
sát tế Isaac, người con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già, thì thật là vượt
quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao
đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không có
người con Isaac này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn
cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu
cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào
Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa
bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên
Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại.
Đức tin và lòng vâng
phục của Abraham trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo. Ông luôn đón
nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin
của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn. Như Abraham ngày xưa, chúng ta được
Thiên Chúa kêu gọi lên đường đi đến một vùng đất chưa hề biết, đặc biệt nhiều
khi hoàn cảnh chung quanh làm cho đức tin chúng ta trở nên không thể hiểu được,
hầu như là vượt khỏi khả năng suy nghĩ của con người. Những lúc khủng hoảng,
như cái chết của người thân yêu làm cho cuộc đời trở nên u ám, thì chúng ta lại
càng cần tín thác vào Lời Chúa. Chúng ta đang đi nhờ ánh sáng đức tin chứ không
phải bằng đôi mắt trần (2Cr 5,7). Một khi chúng ta tin tất cả những gì Chúa nói
và Chúa làm, không phải vì chúng ta đã thấy, nhưng chỉ vì Lời Chúa và sức mạnh
của Thiên Chúa đang hiện diện trong lòng chúng ta.
Bài Tin Mừng hôm nay mô
tả một biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc đời Đức Chúa Giêsu: Biến Hình trên
Núi. Các tông đồ đã hoàn toàn bị 'hớp hồn' khi được nhìn thấy vinh quang Đức
Kitô trong phút giây, và nhất là khi được mạc khải cho biết Thầy của mình là
ai: "Này là Con Ta yêu dấu. Hãy lắng nghe Lời Người."
Biến cố hồng phúc hôm
nay sẽ giúp các ông chịu đựng đêm tối trong vườn Giệtsêmani, khi phải chứng
kiến cơn hấp hối của Chúa Giêsu. Những giây phút vui vẻ khi mọi sự đều hòa hợp
"đâu vào đấy" thì rất hiếm hoi và họa hoằn "năm thì mười
họa". Không ai có ý bảo chúng ta phải ngồi đó mà trông chờ Chúa Biến Hình,
nhưng chúng ta được kêu mời theo chân các tông đồ leo lên núi, tiếp tục suy tư
sứ điệp ẩn tàng trong Lời Chúa và thực tâm sống sứ điệp ấy với lòng xác tín sâu
xa. Chỉ qua khổ nạn và cái chết, Đức Kitô mới đi vào trong vinh quang phục
sinh. Nếu Người biến đổi thân xác đầy thương tích của chúng ta và làm cho chúng
ta rập khuông với thân xác vinh hiển của Người, thì con đường chúng ta đi chính
là con đường thương khó của riêng Chúa thôi.
Biến cố Biến Hình hôm
nay nói với chúng ta không chỉ về những giai đoạn thử thách và khổ đau của
chúng ta mà còn về vinh quang tiềm tàng dành sẵn cho chúng ta, với điều kiện là
chúnt ta luôn luôn đi theo con đường của Chúa với một niềm tin tưởng cậy trông,
không bao giờ ngã lòng thất vọng.
Mùa Chay cho chúng ta
một cơ hội quý báu để nhìn lại chính mình với những an toàn giả tạo mà chúng ta
cứ khư khư ôm lấy không chịu vất bỏ trên con đường lữ hành. Mùa Chay nhắc nhở
chúng ta rằng một cuộc sống mà không duyệt xét lại thì không đáng sống. Để cho
Mùa Chay này tràn đầy ơn phúc, giúp chúng ta trở thành những người dễ thương,
quảng đại và chân thực, chúng ta phải chết đi cho những lối sống của thế gian
bằng cách hy sinh và từ bỏ chính mình. Có lẽ không ai trong chúng ta sẽ được
kêu gọi hiến tế đứa con duy nhất như Abraham xưakia, nhưng phần đông chúng ta
được kêu gọi quay lưng lại với tính ích kỷ của mình và tránh xa những lời nói
việc làm gây bất an trong gia đình hay đầu độc cuộc sống cộng đồng. Để thắng
vượt những yếu hèn tội lỗi và trở nên con người trưởng thành chín chắn, chúng
ta cần kiên nhẫn và nỗ lực suốt đời người, vì không có gì đáng giá mà lại đơn
giản và dễ chiếm đoạt.
26. Chú
giải của Noel Quesson
Sáu ngày sau, Đức Giêsu
đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình
Maccô không nói phải dựa
vào sự kiện nào để tính "sáu ngày" trên. Một lần nữa, sự thiếu chính
xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo cách thông thường. Đối với
người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen với Kinh thánh, thì "sáu
ngày" trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó là thời gian cần thiết để con
người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa: "Sáu ngày sau, từ giữa đám
mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi Môsê" (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu
ý những từ: "sáu ngày"... "Môsê"... "đám mây"...
"núi "... Trình thuật của Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh
Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà
"Lễ lều tạm" (Yom Sukkôt) tại Israel lại xảy ra sáu ngày sau
"Lễ xá tội" (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ lều tạm là lễ người ta
dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh trong thời gian lang
thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con người trên bước hành
trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một nhà trú, một lều tạm.
Phêrô, Giacôbê và Gioan
Đức Giêsu không mời gọi
tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi tiết đó cũng không phải là một
ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể không để ý đến. Chính ba" môn đệ này
đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm bồi sinh bé gái 12 tuổi (Mc 5,37), và chính ba
ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Người tại Ghét-sê-ma-ni (Mc 14,83).
Họ có phải là những con
người được đặc ân không? Không phải vậy. Họ chỉ là ba con người sống những cảm
nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay
so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều nhận được một ân riêng, độc nhất;
ơn đó không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để thông truyền cho kẻ khác.
Chỉ có ba ông, đi riêng
với Người, lên một ngọn núi cao...
Đó là những điều kiện
theo truyền thống Kinh thánh, để "gặp gỡ Thiên Chúa". Một đầu óc hiện
đại có thể phản ứng lại. Thiên Chúa ở khắp nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra
như thế? Đúng vậy! Nhưng chúng ta là loài có thân xác nên không thể tránh bỏ
một số những biểu tượng. Riêng tôi; tôi thấy hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng
hồn: Nào ta hãy tiến lên với "Thiên Chúa" (Xh 24,1-34,2; 1V
18,20-19,8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một núi trong i.âm
hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa. Hãy biết tận dụng những chân
trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu không chấp
nhận rời bỏ thung lũng, nương theo nhưng con đường mòn mà leo cao, nếu không
chịu khổ nhọc lâu dài, thả dốc trên những đỉnh cao trước không khí loãng nhạt
và gay gắt nếu không chịu tách xa đám động dân chúng.
Và Người biến đồi hình
dạng trrớc mắt các ông
Khi con người cố diễn tả
những tương quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ luôn bị dao động giữa hai do
dự, hai quan niệm:
Một quan niệm "bi
quan": Cần phải tiêu diệt thế gian để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi
quan niệm đó là quan niệm của Thánh Au tinh, Luther và phái Tin lành phục hưng
cách mạnh mẽ.
- Một quan niệm
"lạc quan": Chính "thế gian này" là Nước Thiên Chúa. Người
ta đề cao giá trị của con người và thế giới và làm giảm nhẹ ảnh hướng của Thiên
Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người Công giáo, thường biến Giáo Hội trở
nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã đến.
- Nhưng cũng có một
"quan niệm thứ ba biến dạng" Vâng, xác thịt là tốt và thân xác là do
Thiên Chúa muốn tạo ra. Vâng, thế gian là tạo vật của Chúa, nhưng đó chỉ là
"hình ảnh", là "họa ảnh" tương tự của Thiên Chúa. Để thực
sự tốt hẳn, thế gian không cần bị "tiêu diệt", nhưng cần được
"biến dạng". Trên núi, Đức Giêsu không để một ánh sáng từ ngoài rọi
chiếu vào, nhưng chính Người, trong thân xác Người, đã là ánh sáng. Và tất cả
những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh sáng, trong suốt, tinh
thần. Bên Phương Đông thuộc Chính thống giáo, lễ Biến Hình là đại
"Lễ", Lễ tôn kính Hình tượng, Con người được Thiên Chúa xuyên qua.
Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một "kỹ thuật", người họa sĩ
hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức Giêsu biến hình, để chứng tỏ anh ta có
khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh - của Thiên Chúa hay không. Đó
là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ
mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu. Nếu những cách nhìn này
có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa
đích thực của Phép rửa, bí tích đã "dìm" ta trong Đức Kitô, đã làm
cho ta được "tham dự vào bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1,4). Đúng
ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến
hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu
vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên
giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác động
của Chúa là Thần khí" (2 Cr 3,18).
Chắc chắn, ở dưới trần
gian này, mầu nhiệm phi thường đó - nghĩa là sự biến đổi thực sự con người
trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy đọc. Tuy nhiên, sự biến hình của ta đã đạt
được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng tỏa ra: "Sự sống mới của
anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn
sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người
hưởng phúc vinh quang" (Cl 3,3-4).
Y phục Người trở nên rực
rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.
Đừng coi thánh Phêrô và
thánh Maccô, thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta. Đó là những con người rất
thực tế những kẻ bình dân, không phải là các nhà trí thức. Các ông mới biết mở
miệng, nhưng chưa biết phải nói thế nào về cảm nghiệm phi thường đã "xảy
đến" cho mình. Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức
độ sơ đẳng là "giặt sạch nhất", "trắng nhất". Vấn đề không
nằm ở yếu tố đó.
Một lần nữa, chúng ta
đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh Thánh biểu tượng: Màu trắng là màu của
thế giới trên trời và không gì ở trần thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ
hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là màu của
những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20). Ao trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng
đức tín, áo trắng của cô dâu, áo trắng của linh mục lúc dâng lễ đều lấy lại
hình ảnh biểu tượng này. "Anh em được mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3,27).
"Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất tử" (l Cr 15,53). "Anh
em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới" (Cl 3,10).
Ông Êlia cùng Môsê hiện
ra đàm đạo với Đức Giêsu.
Môsê và Elia tượng trưng
cho sự mong đợi của Israel
được ghi trong "lề luật" và các "ngôn sứ". Chúng ta cũng!
cần ghi nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra "làm vì". Đó là
khuôn mặt tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời
với Đức Giêsu và đang nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa.
Đó là thứ ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa
trên những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là
một "cửa ngõ" dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?
Trong Cựu ước Môsê và
Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc khái cho "trên
núi". Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở lại vào lúc kết thúc
thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-24). Vả lại theo thánh Maccô,
thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi
diễn ra quang cảnh trên (Mc 9,11-13).
Cùng với Đức Giêsu, thời
cánh chung đã khởi sự.
Bấy giờ ông Phêrô thưa
với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin
dựng ba cái lều". Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông sợ quá.
Một lần nữa, Phêrô lại
đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước đó vài hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh
cả nhóm 'tuyên xứng đức tin" (Mc 8,27-33). Chính ông đã đóng vai satan cám
dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (Mc 8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó
là một "người chứng" không vẽ vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến
cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông. Sau này, ông sẽ viết: Đó không
phải là những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo; chính chúng tôi đã được
thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người, khi chúng tôi ở trên núi thánh với
Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại đời ông: Phêrô không phải là
con người chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh chàng làm nghề biển! Chúng ta có
thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó
là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông phải chấp nhận. Ông không
biết phải nói gì.
Bỗng có một đám mây bay
đến bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu
dấu, hãy vâng nghe lời Người".
Theo kiểu nói biểu tượng
đám mây là "Sự hiện diện của Thiên Chúa" (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds
14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa
(Mc 1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay,
tiếng phán này gửi cho các môn đệ.
Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi cơ bản này, ta
không thể vận dụng "những suy luận" cá nhân, cũng không nhờ vào
"những nghiên cứu Kinh Thánh", nhưng qua cách cầu nguyện "riêng
một mình trên núi"; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính đích thực của Đức
Giêsu mà ta biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều vượt khỏi khả năng
nắm bắt của con người.
Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông không được kể lại
cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các
ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống
lại" nghĩ a là gì?
Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá
ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu.
27. Đức Giêsu biến đổi hình dạng
(Chú giải của Lm PX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Cuộc đời của Đức Giêsu là một hành trình, một chuyến đi
đường. Điều này, tác giả Mc đã cho thấy dọc theo tác phẩm của ngài với từ ngữ
"con đường" (hodos), đặc biệt trong phân đoạn 8,27–10,45: ở đây chúng
ta thấy Đức Giêsu thường xuyên ở trên đường cùng với các môn đệ (8,27; 9,33.34;
10,32). Trên đường đi, Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại cách Người sống. Người tìm
cách giải thích cho các môn đệ rằng, một bên, do chương trình mà Người sẽ thực
hiện theo lệnh của Thiên Chúa, bên kia do kế hoạch của các đối thủ muốn khử trừ
Người, Người phải chọn lựa giữa đánh liều mạng sống và phản bội sứ mạng. Vì đã
chọn vâng lời Thiên Chúa, Người đi lên Giêrusalem.
Biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng là cốt lõi của đoạn
trung tâm 8,27–10,45 và được trực tiếp liên kết với phân đoạn Phêrô tuyên xưng
đức tin và lời loan báo đầu tiên về Thương Khó (8,27–9,1).
Chúng ta có lý khi coi bài tường thuật về Hiển Dung như
là cái trục của TM Mc. Điều này càng rõ khi người ta nhận thấy bài này có thể
dễ dàng tách khỏi ngữ cảnh: chỉ việc nối câu nói của Đức Giêsu về Quang Lâm gần
kề (9,1) với cuộc tranh luận về Êlia phải đến trước (9,11-13) thì thấy tư tưởng
cũng như thể văn không bị cắt đứt gì cả (Với lại các yếu tố của các bài tường thuật
chỉ được nối với nhau bằng các liên từ kai: 9,1: "Và Người nói"; 9,2:
"Và Người lên núi..."; 9,11: "Và các ông hỏi ...").
Sau khi đã nói đến những gian khổ mà các môn đệ phải chấp
nhận nếu muốn đi theo Người, Đức Giêsu thêm: "Tôi bảo thật các người: trong
số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm cái chết trước khi
thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực" (9,1). Theo tác giả, biến cố
Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đến là đối tượng của Tin Mừng (1,14-15). Còn
"uy lực" của Thiên Chúa thì sẽ được biểu lộ vào ngày Quang Lâm. Đức
Giêsu đã khẳng định như thế nhiều lần (x. 12,18-27; 13,24-27; 14,61-62).
Nếu tạm bỏ bài Hiển Dung sang một bên, ta thấy cuộc tranh
luận sau đó bàn về việc Êlia trở lại (9,11-13). Đồng hoá Gioan Tẩy Giả và Đức
Giêsu với Êlia và các ngôn sứ Israel ngày xưa là một đề tài được Mc thường
xuyên đề cập đến, ở đây, cũng như ở trong 6,14-16 và 8,27-29. Cuộc tranh luận
ấy trước tiên có tầm mức cánh chung, bởi vì ngôn sứ Malakhi đã loan báo Êlia sẽ
trở lại làm vị tiền hô của Đấng Mêsia (x. Ml 3,23-24). Đức Giêsu đã nhìn nhận
Gioan Tẩy Giả đóng vai trò này (Mc 1,2-8; x. Lc 1,17). Nói tóm, cuộc tranh luận
về việc ngôn sứ Êlia trở lại, cho dù được coi là đã được thể hiện nơi Gioan Tẩy
Giả, được ghép rất tự nhiên vào một lời của Đức Giêsu liên hệ đến biến cố Nước
Thiên Chúa đến.
Vậy, bài tường thuật Hiển Dung đã được tháp vào đây là do
nền thần học của tác giả và do cấu trúc ngài cung cấp cho tác phẩm của ngài,
nhưng cũng là để làm một đoạn giải thích sự chậm trễ của Quang Lâm. Nếu như vậy,
tác giả đã thực hiện được một sự hài hoà đáng phục bởi vì câu nói về Quang Lâm
của Đức Giêsu được minh hoạ và báo trước trong biến cố Hiển Dung. Sự xuất hiện
của Êlia được nhắc đến trong biến cố này, gợi ra câu hỏi về vai trò của Êlia
sau đó. Khi đó, viễn cảnh Quang Lâm được lặp lại, càng thêm long trọng.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (9,2a-b);
2) Đức Giêsu biến đổi hình dạng (9,2c-8);
3) Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết
(9,9-10).
Một số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự "đóng
khung" vừa chính xác vừa tinh tế, ở cc. 2 và 8. Một đàng, Mc viết rằng
"Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các
ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao".
Đàng khác, ông nói rằng "Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai
nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi": kiểu đóng khung này đã bỏ ra
bên ngoài cc. 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của TM Mc, là bí mật
thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải riêng cho ba
môn đệ thân tín: Tác giả Mc cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng
Mêsia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường thuật Hiển Dung này như muốn
là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Mêsia: thị kiến
được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi; lệnh truyền từ
trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải
này.
3.- Vài điểm chú giải
- sáu ngày sau (2): Toàn bài gợi tới Xh 24. Cũng như
Môsê, Đức Giêsu lên núi với ba bạn đồng hành nêu rõ tên (Xh 24,1.9). Tới ngày
thứ bảy, Thiên Chúa nói với Môsê; qua sáu ngày, Đức Giêsu lên núi và có tiếng
Thiên Chúa phán. Tác giả Riesenfield nhấn mạnh tới chi tiết "sáu ngày
sau" mà cho rằng đấy là biến cố Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng Mêsia (truyền
thống dành ngày thứ bảy để tưởng niệm Thiên Chúa đăng quang làm vua). Đám mây,
cũng giống như trong Xh 24,16t, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.
- một ngọn núi cao: Ta không thể xác định đây là ngọn núi
nào, nhưng nó có thể gợi tới núi Sinai (theo Xh 24). Ngọn núi là nơi có các
cuộc thần hiển: Thiên Chúa nói với Môsê trên núi (Xh 24,15tt); Ngài tỏ mình ra
với Êlia trên núi (1 V 19,8).
- Người biến đổi hình dạng: Không có kinh nghiệm nào
trong quá khứ, dù là kinh nghiệm của Môsê ở trên núi Sinai, có thể giúp hình
dung sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu ở đây. Điều đặc biệt là khi Người ở
trong vinh quang thiên quốc, các môn đệ vẫn nhận ra Người. Đức Giêsu có "y
phục rực rỡ, trắng tinh không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như
vậy" (c. 3). Thật ra đây là một "ánh sáng chói lọi", là màu sắc
của những thực tại thiên quốc và cánh chung. Cuộc Hiển Dung không phải là kết
quả của một nỗ lực con người, nhưng là một biến cố được mô tả theo dạng thái bị
động (c. 2: metemorphôthê, aorist passive) để cho thấy rằng Thiên Chúa là Đấng
hành động một mình trong biến cố này.
- thấy ông Êlia cùng ông Môsê (4): Theo truyền thống,
Môsê có vai trò rất quan trọng trong lịch sử dân Chúa. Thứ tự Êlia–Môsê của
riêng tác giả Mc tương ứng với vị trí quan trọng hơn mà Êlia có trong TM II.
Ngoài ra, ông còn là một dung mạo mang tính khải huyền và thiên sai hơn Môsê.
Tuy nhiên, c. 5, với tên Môsê ở trước, ta nhận ra dấu vết của truyền thống mà
Mc chưa xóa đi. Dù sao, sự xuất hiện của hai ông chứng tỏ "Nước Thiên Chúa
đã đến gần". Hai ông xuất hiện vừa cho thấy Đức Giêsu hiệp thông với thiên
giới, vừa giới thiệu với tư cách và số phận của Người.
- đàm đạo với Đức Giêsu: Mc không cho biết đề tài cuộc
trao đổi giữa Đức Giêsu với Êlia và Môsê.
- chúng con xin dựng ba cái lều (5): Khi ba nhân vật
thiên giới đàm đạo với nhau, ba tông đồ, những con người "phàm phu tục
tử", ở cách xa. Do đó, khi ngỏ lời với Đức Giêsu mà chỉ thưa Người là
"Thầy" (rabbi) và đề nghị được dựng ba lều, Phêrô đã chứng tỏ sự ngỡ
ngàng hụt hẫng của mình. Đề nghị của Phêrô là nhắm duy trì hoàn cảnh các ông
đang trải nghiệm. Tuy nhiên, ta chỉ hiểu được đề nghị này nếu ta đặt nó vào
trong khung cảnh lịch sử của Lễ Lều. Lễ này kéo dài kỷ niệm 40 năm dân Israel
đã sống trong sa mạc, dưới lều, để phụng sự Đức Chúa (Yhwh), và được Ngài che
chở (đám mây sáng). Nhân danh dân tộc mình, Môsê đã yêu cầu vua Pharaô để cho
dân đi vào sa mạc để có thể cử hành lễ mừng Đức Chúa. Lễ này có thể trùng hợp
với cuộc thần hiển tại núi Sinai, nhưng thật ra, nó bao trùm những năm dài
trước khi vào Đất Hứa. Người Do-thái đã ghi giữ rồi nhớ nhung đời sống du mục
này và đã kết tinh nó vào Lễ Lều, kéo dài một tuần, để kết thúc chu kỳ Lễ Vượt
Qua và lễ Ngũ Tuần. Trong Do-thái giáo hậu lưu đày, Lễ này có chứa nỗi niềm chờ
mong Đấng Mêsia.
Thật ra, vì mối bận tâm của Mc là cho thấy hành trình đức
tin của các môn đệ, nên đề nghị này của Phêrô chứng tỏ ông không hiểu gì (tương
tự ở 8,32t): Do muốn duy trì niềm hạnh phúc thiên giới, ông lại đang muốn tránh
những đau khổ chắc chắn phải đi vào.
- kinh hoàng (6): Tác giả đã nhận định: "Thật ra,
ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng" (9,6; xem 14,40: tình
trạng ngây dại ở vườn Ghếtsêmani). Sự kinh hoàng này (tương tự sự kinh hoàng
của các phụ nữ khi sứ thần hiện ra tại mộ, x. 16,5-8) chứng tỏ các ông khó mà
hiểu, thậm chí không thể hiểu, tầm mức thiên sai của những lời nói và hành vi
của Đức Giêsu. Phêrô đã minh giải sai cuộc tỏ mình của Đấng Mêsia trên núi; tất
cả những gì ông có thể nói ra đều mang vẻ ngờ nghệch vì ông kinh hãi trước sự
đột nhập của thế giới thần thiêng. Và khi Mc ghi nhận ở c. 8 rằng "các ông
chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà
thôi", ta lại không nghe ra như một lời trách nhắm đến đến các tông đồ là
đã không biết tiếp tục dựa vào lòng tin mà nhìn ra Đức Giêsu vẫn không ngừng
sống cùng các thánh của Cựu Ước và sống trong tình thân thiết với Cha Người đó
sao? Khi cũng những vị tông đồ này tự hỏi câu "từ cõi chết sống lại"
nghĩa là gì, thì đây không phải hỏi về một vấn đề tín điều (bởi vì đây là một
tín điều được mọi người, trừ phái Sađốc, chấp nhận), nhưng là băn khoăn về Đức
Giêsu: Các ông đang vấp phạm vì cái chết mà Đức Giêsu sẽ phải đi qua. Chẳng
phải là Đấng Mêsia sẽ được cất lên trời như Êlia, như Môsê sao? Chẳng lẽ Người
lại phải xuống cõi chết trước khi sống lại? Mc đã nêu bật sự tăm tối của các
tông đồ dọc theo tác phẩm của Người (x. 4,13.40-41; 6,50-52; 8,17-21; 9,32;
10,24.26.32.38).
- Từ đám mây (7): Đám mây là tấm phông trên đó Đức Giêsu
biến đổi hình dạng, từ đó Êlia và Môsê đi ra để nói chuyện với Đức Giêsu và từ
đó tiếng Chúa Cha phát ra; Êlia và Môsê lại biến mất vào đó, và cùng với đám
mây, cũng biến mất vinh quang của Đức Giêsu. Như trong cuộc Xuất hành, đám mây
tượng trưng sự hiện diện gần kề của Thiên Chúa. Đám mây này là tấm màn ngăn
cách một thời gian nữa những thực tại trần thế với những thực tại biên giới.
Đám mây này đã xé ra khi Đức Giêsu đến thế gian và nhận phép rửa. Đám mây này
là nơi Đấng Phục Sinh biến mất vào hôm sau ngày sống lại và theo lời sấm
Đanien; trên đám mây này, Đức Giêsu sẽ tái hiện vào thời tận thế để quy tụ
những kẻ được tuyển chọn.
- Đây là con Ta yêu dấu (7): Sự xuất hiện của đám mây và
tiếng nói của Thiên Chúa vừa giải nghĩa cuộc Hiển Dung vừa trả lời cho phản ứng
của Phêrô.
So với Lời nói tại Phép Rửa (1,11), lời công bố này không
thêm gì mới về Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và Đấng Mêsia, nhưng lời này đưa lại
một điều chỉnh quan trọng cho lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (8,29). Vị tông
đồ chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia; Trời Cao chứng thực Người là Con yêu
dấu của Thiên Chúa. Nếu thị kiến về Đức Giêsu hiển dung giới thiệu trước vinh
quang của Đức Giêsu vào ngày Phục Sinh và ngày Quang Lâm, Tiếng Nói lại chứng
thực Đức Giêsu là Con luôn sống thân thiết với Chúa Cha và gợi ý rằng Người đã
có từ muôn đời (tiền hữu). Lời gửi gắm cuối cùng đã đẩy cuộc truyện trò của
Êlia và Môsê vào hàng thứ yếu; kể từ nay chính Đức Giêsu là Đấng duy nhất mà
các tín hữu phải lắng nghe; Người là Đấng trung gian duy nhất của Giao Ước Mới
trong đó Êlia, Môsê và tất cả các ngôn sứ được tham dự vào.
- truyền cho các ông không được kể lại (9): Đây là lệnh
im lặng cuối cùng trong Mc, lệnh này có một ý nghĩa căn bản cho cả các lệnh
khác với cùng một giới hạn về thời gian. Bằng c. 9 này, tác giả hướng bài tường
thuật Hiển Dung về Phục Sinh: bài tường thuật như thế nối kết số phận của Đức
Kitô và lời loan báo về Triều Đại Thiên Chúa. Những gì ba môn đệ đã thấy trên
núi làm cho các ông thành những người được nhận trước sự hoàn tất của lời hứa
9,1. Sau lệnh của Đức Giêsu, tác giả dừng lại với môn đệ. Các ông tuân giữ lệnh
truyền (ton logon ekratêsan cũng có thể có nghĩa là là "ghi nhớ ký
ức", theo kiểu nói La-tinh [memoria] tenere), nhưng tranh luận xem
"từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì, chắc chắn theo nghĩa là
"cuộc sống lại của Đức Giêsu".
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (2a-b)
Cuộc Hiển Dung lại là một truyện nữa trong đó Đức Giêsu
đưa riêng ba môn đệ chọn lọc là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái
Gia-ia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi
với Thiên Chúa; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi
xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một
điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác
mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra
một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi
một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào
nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi
mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu.
* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8)
Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những
gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các
ông hiểu rằng phương diện quan thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không
diễn tả hết thực tại của Người; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm
trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần
thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây
không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh
giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và
Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho
sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân
(Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của
hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa
hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu cho ba môn đệ một bằng chứng nữa
để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới của Thiên Chúa.
Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn.
Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng Nói từ trời
với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận
Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ
thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này
đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người.
Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên
Chúa.
Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng
Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình
đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Người. Đây là bí
mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức
Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng
biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi
vì chúng ta không thể trực tiếp có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa hơn và
cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa, Đức Giêsu Đấng
giúp chúng ta có sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên Chúa (x. Ga 1,18;
Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, bây giờ họ phải nghe
lời Đức Giêsu.
Cuộc Hiển Dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức
Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của
Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người
với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất
về Đức Giêsu. Ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức
độ ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này ta mới có thể hiểu nội dung của những
điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức
Giêsu; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa; trong lời nói và hành động của
Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết
tất cả những điều đó trong cuộc Hiển Dung.
* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10)
Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các môn đệ giữ im lặng.
Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc Thương Khó, cái chết và sự
sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất đích thực và ý
nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không được thinh lặng
nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.
+ Kết luận
Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên
Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh
quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà
Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không
phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do-thái và toàn thể nhân loại vẫn mong
chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?
5.- Gợi ý suy niệm
1. Những hoàn cảnh và điều kiện trong đó xảy ra mạc khải
cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ riêng tư với Đức
Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải
để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới
thiệu Đức Giêsu: "Đây là Con Ta yêu dấu". Người không phải là Con
Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình
yêu của Thiên Chúa là Cha Người.
2. Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện
diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào để thuộc về lịch sử cuộc quan hệ
giữa Thiên Chúa Israel với dân Người. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ
hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những
hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến nhân
danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai ngài.
3. Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của
Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành
thì giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại "Đức Giêsu là
Con Thiên Chúa", khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại
này đối với chúng ta. Chúng ta phải "vâng nghe lời" Người và không
được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.
4. Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng
không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe chúng. Còn ở trên
ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ
có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng định và mới bắt
đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu cấm các
môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá
trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của
ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc
hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét