THẾ VÂN HỘI MÙA ĐÔNG HÀN QUÔC CÙNG MỘT LÁ CỜ |
THÁNH PERE'GRIN CHỮA NGƯỜI UNG THƯ |
THẾ VÂN HỘI MÙA ĐÔNG HÀN QUÔC CÙNG MỘT LÁ CỜ |
CHÍNH QUYỀN XÃ BẢO HÀ, H. BẢO YÊN VÀ BAN DAN VẬN TỈNH ỦY CHÚC TẾT TẠI BẢO HÀ |
CHÍNH QUYỀN XÃ BẢO HÀ, H. BẢO YÊN VÀ BAN DAN VẬN TỈNH ỦY CHÚC TẾT TẠI BẢO HÀ |
BẢO HÀ CHÚC TẾT UBND HUYỆN. BẢO YÊN |
|
BẢO HÀ CHÚC TẾT CÔNG AN H. BẢO YÊN VÀ BAN DAN VẬN TỈNH ỦY |
CHÚA NHẬT 6
THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa:
Lv 13,1-2.44-46; 1Cr 10,31 – 11,1; Mc 1,40-45
MỤC LỤC
1.
Phong cùi
2.
Phong cùi
3.
"Hãy sống đẹp cho nhau"
4. Đức
Giêsu- Đấng chữa lành mọi bệnh tật
5. Niềm
vui tròn đầy.
6. Giơ
tay đụng vào – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
7. Tôi
muốn anh được sạch
8. Chữa
người phong cùi – Radio Veritas Asia
9.
Chạnh lòng thương – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
10. Tội
lỗi còn hơn phong cùi nữa – Yvon Daigneau
11. Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
12.
Muốn và có thể
13.
Người bị loại trừ
14. Cứu
chữa khỏi bệnh phong hủi trong tâm hồn
15.
Loan báo Tin Mừng
16.
"Vì loài người chúng tôi"
17. Nếu
Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi
18. Cử
chỉ
19.
Lòng từ ái
20.
Phong cùi
21.
Phong cùi
22.
Bệnh phong
23. Sự
chấp nhận
24. Đức
Giêsu chữa một người phong hủi
25. Suy
niệm của Lm. Giuse Lê Minh Thông
26.
"Tôi muốn, anh sạch đi!"
29. Chú giải của Noel Quesson
1. Phong cùi
Theo luật Do Thái, những người phong cùi không được sống
trà trộn với dân chúng. Đồng thời ai nấy phải lo giữ mình, không được động chạm
tới họ. Họ phải sống riêng biệt ngoài thành, mặc áo rách, để tóc dài, không cạo
râu. Nếu chẳng may gặp người mắc bệnh thì phải hô to lên để những người khác
tìm lối tránh. Những người mắc bệnh không những chỉ đau khổ phần xác mà còn đau
khổ phần hồn vì họ luôn phải sống trong một tình trạng cô đơn và tuyệt vọng.
Đối với ngày xưa, cũng như đối với hôm nay, chứng bệnh
này vẫn còn là một nan y khó chữa, chính vì thế chúng ta hiểu được tại sao
người bệnh qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, đã bất chấp lề luật, chạy đến tìm gặp
Chúa Giêsu, vì anh nghĩ rằng mình không còn phương tiện nào khác để được khỏi.
Niềm hy vọng duy nhất của anh trong lúc bấy giờ là Chúa Giêsu. Bởi đó, anh đã
quỳ xuống, sụp lạy Ngài và xin Ngài cứu chữa. Còn Chúa Giêsu đã đón nhận anh
một cách nhân từ, chữa lành cho anh và bảo anh phải đi trình diện với hàng tư
tế để được chứng nhận là mình đã khỏi thực sự. Qua cử chỉ và thái độ của Chúa,
chúng ta nhận thấy Ngài thực tình thương xót như tiên tri Isaia đã viết: Ngài
coi mọi bệnh tật của chúng ta như là của riêng Ngài, Ngài mang lấy hết mọi tai
ương của chúng ta. Trước thái độ tin tưởng của người phong cùi, Chúa Giêsu đã
đặt tay trên anh và chữa lành cho anh, cũng như Ngài đã từng cứu chữa biết bao
những kẻ bệnh hoạn tật nguyền tìm đến với Ngài.
Tình thương này không phải chỉ được biểu lộ với những
người đau khổ thân xác, mà còn đối với những người đau khổ phần hồn, tức là
những kẻ tội lỗi. Chính Ngài đã xác định lập trường: Ta đến để kêu gọi những kẻ
tội lỗi. Một người tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99
người công chính không cần ăn năn sám hối. Chính vì vậy, Ngài không ngần ngại
ngồi ăn uống với những người mà bọn biệt phái liệt vào hạng tội lỗi như Lêvi và
Giakêu. Đồng thời Ngài còn sẵn sàng tha thứ cho người thiếu phụ ngoại tình, cho
tên trộm lành và nhiều người khác nữa.
Hẳn chúng ta đã biết qua về cuộc đời của cha Đamiêng, vị
tông đồ người hủi. Ngài sinh tại nước Bỉ, gia nhập dòng Trái Tim Chúa và Mẹ
Maria. Sau khi làm linh mục, ngài được sai đi giảng đạo tại Hạ Uy Di. Sau đó
ngài tình nguyện đi giúp những người cùi ở Molokai. Ngài đã hy sinh trót cả
cuộc đời, sống với họ, giúp đỡ họ và chết giữa họ.
Như chúng ta đã biết, phong cùi là một chứng bệnh nan y
và ghê sợ, nó làm cho cơ thể bị lở loét, người mắc bệnh mặc dù còn sống nhưng
thực sự chỉ là một thây ma biết đi với một thân hình hôi thối. Đó cũng chính là
hình ảnh của một tâm hồn tội lỗi, bởi vì tội lỗi cũng sẽ làm cho tâm hồn chúng
ta trở thành nhơ nhớp, hôi thối và chết đi như vậy. Tuy nhiên chúng ta đã có
một vị lương y thần diệu đó là Chúa Giêsu. Nếu muốn được chữa lành, chúng ta
hãy bắt chước người phong cùi chạy đến sấp mình trước mặt Chúa, xin Ngài xót
thương. Ngài cũng sẽ bảo chúng ta trình diện với linh mục, nghĩa là hãy chạy
đến toà giải tội với tâm tình thống hối ăn năn, hầu nhờ đó mà chúng ta sẽ được
chữa lành, được tha thứ.
2. Phong cùi
Bệnh cùi là một chứng bệnh hay lây, và theo quan niệm của
người Do Thái, dưới cái nhìn tôn giáo, thì bệnh cùi là do tác động của một thứ
thần ô uế. Người mắc bệnh cùi bị liệt vào hàng những kẻ dưới quyền lực của ma
quỷ và lẽ đương nhiên họ không được quyền chung đụng với người trong sạch. Theo
lề luật Do Thái, có cả những khoản quy định tình trạng xã hội của những kẻ mắc
phải chứng bệnh hiểm nghèo này. Họ bị tách biệt khỏi cộng đồng loài người, cả
về phương diện xã hội lẫn tôn giáo.
Đoạn Tin Mừng tuy ngắn ngủi nhưng đầy chi tiết giúp chúng
ta hiểu được tầm mức và ý nghĩa hành động của Chúa Giêsu. Thực vậy chính người
mắc bệnh phong cùi đã đi bước trước. Anh đến với Chúa và van xin Ngài cho anh
được lành sạch. Lời van xin bao gồm nhiều ý nghĩa. Anh muốn Chúa Giêsu cho anh
được lành và qua đó, cho anh trở thành người sạch và được gia nhập cộng đồng xã
hội.
Hành động của người mắc bệnh quả là táo bạo. Anh đã liều
lĩnh vượt ra khỏi những điều luật lệ quy định là phái xa tránh người khác, thậm
chí còn phải la to để người khác biết mà tránh. Anh đến với Chúa Giêsu, để
trình bày tình trạng của mình, cũng như ý muốn được chữa lành. Hành động liều
lĩnh này hẳn phải xuất phát từ lòng tin tưởng không những ở quyền năng của Chúa
Giêsu có thể chữa lành bệnh, mà nhất là ở lòng nhân từ thương yêu của Ngài,
muốn giải thoát người ta khỏi bệnh tật. Chắc là anh đã từng được nghe thiên hạ
nói về Ngài. Diễn tiến của sự việc cho thấy anh đã không tin tưởng hão huyền.
Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương trước thái độ và lòng tin của anh. Và Ngài đã
làm phép lạ để cứu chữa anh.
Nhìn vào hành động của Chúa Giêsu, chúng ta thấy Ngài
cũng đã không ngần ngại vi phạm điều lề luật quy định vì Ngài đã giơ tay đặt
trên người bệnh. Dĩ nhiên, không thể coi đoạn Tin Mừng này như là một sự khuyến
khích cho việc vi phạm lề luật, nhưng cách xử sự của Chúa Giêsu cho chúng ta
thấy còn có những cái quan trọng hơn cả việc tuân giữ lề luật, hay nói cách khác,
lề luật vì con người chứ không phải con người vì lề luật. Bằng chứng là tiếp đó
chúng ta lại thấy Chúa Giêsu căn dặn người được lành hãy đi trình diện cùng
trưởng tế, dâng của lễ theo luật Maisen. Một nghi thức mà tất cả những người
được khỏi bệnh cùi, vì lý do nào đều phải làm để được công khai và chính thức
tuyên bố là mình được khỏi, được sạch và do đó được quyền vào lại trong cộng
đồng xã hội.
Người mắc bệnh phong cùi là hình ảnh tượng trưng cho tâm
hồn tội lỗi, vì tội lỗi cũng chính là thứ phong cùi thiêng liêng, làm cho tâm
hồn chúng ta trở nên hôi thối và chết dần chết mòn. Bời đó, với một lòng tin
tưởng, chúng ta hãy chạy đến với Chúa Giêsu, để được chữa lành, để được tha
thứ, nhờ đó, chúng ta được liên kết với Thiên Chúa và với anh em, sợi dây liên
kết này vốn đã đứt đoạn do tội lỗi của chúng ta.
3. "Hãy sống đẹp cho nhau"
(Trích
trong 'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)
Cuộc
sống hôm nay rất cần cái đẹp. Cái đẹp cho bản thân như ăn ngon mặc đẹp. Cái đẹp
cho tha nhân như một cử chỉ đẹp, một phong cách đẹp, một lời nói làm đẹp lòng
người. Nhà văn Tolstoy đã kể lại một kỷ niệm đẹp trong cuộc đời ông như sau:
Một hôm, ông đang ngồi nghỉ mát trên ghế đá công viên, từ xa có một người quần
áo rách nát tả tơi đến gần và ngả mũ xin ông giúp đỡ. Thấy cảnh cơ cực, nhà văn
liền thò tay vào túi định lấy tiền giúp cho người hành khất. Thế nhưng, ông đưa
tay tìm hết túi này đến túi kia cũng không kiếm được một đồng nào trong túi.
Bấy giờ ông nhìn người ăn xin và nói trong sự hối tiếc: "Này người anh em!
Xin thứ lỗi cho tôi. Rất tiếc là hôm nay tôi không mang theo một đồng nào trong
túi". Nghe lời nói chân tình đó, người ăn xin không buồn mà còn nở nụ cười
rạng rỡ trên môi và nói: "Không đâu thưa ông. Hôm nay ông đã cho tôi một
món quà quý báu còn hơn cả tiền bạc. Đó là ông đã không khinh dể tôi mà còn coi
tôi như người anh em của ông".
Bài
Phúc âm hôm nay, thánh Marcô cũng tường thuật lại một cử chỉ đẹp mà Chúa Giêsu
đã dành cho người bệnh phong hủi nan y. Ngài đưa tay chạm vào thân thể lở loét
của anh. Một thân thể hôi hám và dơ bẩn mà người đời đã xa tránh. Hành động này
không chỉ nhằm mục đích chữa bệnh cho anh mà còn xoa dịu nỗi đau trong lòng của
anh. Anh bị người đời khinh chê. Anh bị xã hội loại trừ. Người đời xếp anh vào
hàng tội nhân bị Thiên Chúa giáng hoạ. Khi chạm đến thân thể anh, Chúa Giêsu
cũng chạm đến tâm hồn anh. Anh được chữa lành cả hồn lẫn xác. Thân xác anh khoẻ
mạnh. Danh dự của anh cũng được phục hồi. Tâm hồn anh cũng bình an và tươi vui.
Từ nay anh không bị người đời xa lánh, khinh chê. Từ nay anh không còn tủi hổ
vì phận số bất hạnh của mình. Qua Chúa Giêsu, anh được cộng đồng đón nhận. Nhờ
Chúa Giêsu, anh được xã hội nhìn nhận. Xã hội không còn lý do để khinh chê hay
loại bỏ anh ra bên lề xã hội. Giờ đây anh có thể sống tươi vui như bao con
người khác trong xã hội. Anh không còn mặc cảm về bệnh tật. Anh không còn mặc
cảm bị khinh chê. Anh được quyền sống như bao con người khác, được tôn trọng và
yêu thương.
Có ai
đó đã từng nói rằng: "một lời nói hay không bằng một cử chỉ đẹp". Cuộc
sống sẽ hạnh phúc hơn khi mỗi người biết làm đẹp lòng nhau. Cuộc sống sẽ bớt đi
những tủi hờn, những cô đơn và thất vọng nếu chúng ta biết sống đẹp với nhau.
Đừng chơi xấu, đừng loại trừ nhau, nhưng hãy đón nhận nhau. Cuộc sống sẽ vơi đi
những nỗi sầu khổ đắng cay nếu mỗi người chúng ta biết đối xử đẹp với nhau.
Thế
nhưng, giữa cuộc đời hôm nay vẫn còn đó những lối sống tiểu nhân tầm thường,
nên vẫn còn đó những oan ức, những giọt nước mắt đắng cay vì tình người phụ
bạc, vì tình đời thay trắng đổi đen. Cuộc sống hôm nay vẫn còn đó những lối
sống kém văn hoá, những cư xử thấp hèn nên vẫn còn đó những ứng xử thô lỗ, cộc
cằn, những hành vi phi nhân và bất nghĩa.
Ước gì
mỗi người chúng ta hãy can đảm loại bỏ những hành vi thô lỗ, cộc cằn, những
hành xử thiếu văn hoá khởi đi từ chính gia đình chúng ta. Mỗi thành viên trong
gia đình hãy biết dâng tặng cho nhau những cử chỉ đẹp như: sự quan tâm, sự
khiêm tốn, ôn hoà và hiền hậu với nhau. Chúng ta không thể "khôn nhà dại
chợ", sống tốt với hàng xóm mà cư xử tệ với anh em. Chúng ta không thể
sống trọn vẹn đức ái Kitô giáo nếu chúng ta không yêu mến gia đình chúng ta.
Đức ái luôn mời gọi chúng ta phục vụ nhau một cách quảng đại, hy sinh và quên
mình. Đức ái mời gọi chúng ta sống khiêm nhu, hiền lành và nhẫn nại với nhau.
Đức ái bao hàm sự bao dung và đón nhận nhau trong yêu thương và tha thứ. Đức ái
không cho phép chúng ta loại trừ hay tẩy chay nhau. Đức ái mời gọi chúng ta
dâng tặng cho nhau những nghĩa cử yêu thương làm đẹp lòng nhau.
Chúa
Giêsu năm xưa đã đưa tay chạm đến người bệnh để chữa lành cho anh. Ngài có thể
phán một lời thì con người anh có thể lành lặn. Thế nhưng, Chúa đã sử dụng đôi
tay để trao ban tình yêu và sự quan tâm trìu mến dành cho anh. Phải chăng, Ngài
cũng muốn chúng ta hãy tiếp tục trao ban cho nhau những nghĩa cử yêu thương
nồng ấm tình người? Ước gì từng người chúng ta hãy biết dâng tặng cho nhau
những nghĩa cử yêu thương, những lời nói dịu dàng, những hành vi bác ái và vị
tha. Ước gì lối sống đẹp của chúng ta sẽ là dấu chỉ chứng nhân tin mừng cho thế
giới hôm nay. Amen.
4. Đức
Giêsu- Đấng chữa lành mọi bệnh tật
(Suy
niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)
Một khi
đã tin vào Đức Giêsu nhờ lời rao giảng, các tín hữu tiên khởi tiếp tục tìm hiểu
về Đức Giêsu qua những gì các tông đồ kể lại, và phần lớn những điều này được
ghi lại nơi các sách Tin Mừng. Niềm tin vào Đức Giêsu làm thay đổi cuộc đời tín
hữu, khi họ nhận ra Thiên Chúa hằng yêu thương họ, một cách rất đặc biệt qua
Đức Giêsu.
1) Tội
còn khủng khiếp hơn bệnh phong cùi nhiều
Ngày
nay với tiến bộ của y khoa, người ta đã chế ngự được bệnh phong. Bệnh phong
ngày nay cũng chỉ là một bệnh như bao bệnh khác. Ngày nay người ta hay có thái
độ xa cách đối với những người mắc bệnh hư miễn nhiễm (HIV, AIDS) như ngày xưa
người ta đã có đối với những người mắc bệnh phong cùi. Kitô hữu tuy phải khôn
ngoan để không bị lây nhiễm, nhưng không được có thái độ thiếu bác ái trong
cách cư xử đối với những người anh chị em bị mắc những bệnh này.
Ngày
xưa khi chưa khắc phục được bệnh phong cùi, thì bệnh này là một nỗi kinh hoàng
cho những người bị nhiễm và cho cả những thân nhân của người bệnh nữa. Vì là
bệnh truyền nhiễm nên người ta đã phải có biện pháp để bảo vệ những người khác
cho khỏi bị lây nhiễm, nghĩa là, bảo vệ xã hội khỏi bị tiêu diệt, vì thế thậm
chí đôi khi người ta áp dụng những biện pháp rất khắc nghiệt. Người bệnh phải
sống tách biệt với người khác, kể cả những người thân thuộc như vợ chồng con
cái. Dù rất yêu nhau, họ cũng phải sống xa cách, và không được phép lại gần
nhau; điều này áp dụng không chỉ với hai người nam nữ yêu nhau, nhưng cả đối
với người mẹ và người con còn thơ dại.
Mọi tật
bệnh và đặc biệt bệnh phong cùi, theo quan điểm của người Do Thái, là hậu quả
của tội. Qua cái gì cụ thể hữu hình là bệnh, người ta thấy nơi tội một cái gì
tương tự như bệnh phong cùi gây cho con người. Tội là thái độ hận thù ghen ghét
anh chị em mình và không sống như con Thiên Chúa. Tội làm người ta xa nhau, làm
người ta bị cô lập với cộng đoàn, làm người ta mất bình an mất vui và không
được hạnh phúc.
2) Đức
Giêsu- dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện
Nếu đặt
mình vào trường hợp và tâm trạng của anh bị bệnh phong được Đức Giêsu chữa lành
hôm nay, người ta sẽ thấy anh ta mong ước được khỏi bệnh "khủng
khiếp" này đến độ nào. Ao ước này đặc biệt rất mãnh liệt nếu anh ta có vợ
và con thơ yêu dấu. Ai có thể giúp anh ta được? Đức Giêsu xuất hiện như niềm hy
vọng của anh ta. Anh ta đã qùy xuống nài xin Đức Giêsu! "Nếu Ngài muốn,
Ngài có thể chữa tôi!"
Làm sao
anh ta có thể tin Đức Giêsu như vậy? Qua cách sống, lời giảng dạy, và những dấu
lạ Đức Giêsu làm, người ta tin vào Đức Giêsu hơn. Xưa tiên tri Elisa cũng đã
chữa viên quan Naaman của Syria, một người bị bệnh cùi chỉ bằng lời truyền cho
ông đi tắm bảy lần ở sông Yordan (2V.5, 1-27); bây giờ, nếu Thiên Chúa muốn,
nếu vị tiên tri Giêsu này muốn, thì Ngài cũng có thể làm như tiên tri Elisa đã
làm chứ. Đức tin của người bệnh phong cùi này phản ảnh đức tin của con người
thời đó đối với Đức Giêsu; hơn nữa, qua anh ta người ta nhận ra Thiên Chúa đang
tác động nơi anh ta, làm anh ta tin tưởng tuyệt đối vào Đức Giêsu.
Đức
Giêsu đã xúc động và thương anh ta thật sự. Ngài đọc được nỗi khổ của người bị
bệnh phong cùi này. Ngài thấy được khao khát của anh ta qua việc anh qùy gối
trước Ngài để nài xin ân huệ được khỏi bệnh. Đức Giêsu đã đưa tay ra, chạm vào
anh và nói: "dĩ nhiên là tôi muốn, anh hãy lành đi." Đức Giêsu thương
anh ta, và qua anh ta, thương tất cả con người đang đau khổ bệnh tật. Đức Giêsu
thương con người, Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa không muốn con
người khổ não, Ngài muốn con người bình an và hạnh phúc. Đức Giêsu là dấu chỉ
Thiên Chúa hiện diện để yêu thương, để chữa lành và nối kết con người lại với
nhau và với Thiên Chúa.
3) Đức
Giêsu không chỉ là một con người
Tại sao
Đức Giêsu không chữa tất cả những người bị bệnh phong cùi thời đó? Tại sao Đức
Giêsu không chữa lành tất cả mọi bệnh tật của con người? Tại sao Đức Giêsu
không biến đổi tất cả để làm con người đừng thù ghét nhau nữa nhưng luôn yêu
thương và giúp đỡ nhau? Đức Giêsu là một người như tất cả mọi người, nên Ngài
không thể làm được điều đó. Nếu Ngài làm được điều đó, người ta sẽ nói Ngài
không là người thật vì Ngài không chia sẻ nỗi bất lực trước nỗi khổ của con
người. Ngài là người, Ngài bất lực và thậm chỉ không biết cả tương lai nữa.
Những gì con người không biết và không làm được, mà Ngài biết và làm được, thì
đó là ơn huệ và là dấu chỉ Thiên Chúa ban để giúp con người nhận biết chân
tướng của Ngài mà thôi.
Đức
Giêsu chữa người bị bệnh phong cùi không bằng cách như tiên tri Elisa đã làm
đối với Naaman, viên quan của Syria ,
nhưng bằng một lời: "tôi muốn chứ, anh khỏi đi." Cách chữa bệnh bằng
lời của Đức Giêsu, cho người ta biết hơn về chân tính của Ngài. Ngài có uy
quyền, trổi vượt hơn cả các tiên tri trước, kể cả Môsê. Thời Môsê, mấy người
chống đối ông bị phạt mắc bệnh phong cùi; những người này đã hoảng sợ và xin
ông Môsê cầu khẩn Thiên Chúa tha thứ cho họ; ông Môsê đã xin Chúa, và Chúa đã
cho họ được khỏi. Đức Giêsu đã không chữa người bị bệnh này như vậy; Ngài làm
như thể Ngài có quyền chữa bệnh vậy, và cách nói của Ngài làm người ta hiểu như
thể quyền đó từ Ngài mà ra.
Qua
cách trình bày của Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu là người rất đặc biệt. Ngài
thương yêu con người, rung động trước nỗi khổ của con người, Ngài yêu thương và
chữa lành con người, giúp họ trở lại với cộng đoàn con người, trở lại với người
thân yêu và nhận ra Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương họ. Đức Giêsu còn là một
người trổi vượt hơn những người khác, hơn các tiên tri nổi tiếng ngày xưa là
Elisa và Môsê. Như thể tự Ngài, Ngài có quyền chữa lành bệnh tật. Ngài là
người, và hơn là một con người. Ngài là Đấng "từ trên."
Câu hỏi
gợi ý chia sẻ
1. Với
cách hành xử của Đức Giêsu hôm nay, bạn được đánh động ở điểm nào? Xin chia sẻ?
2.
Thánh Phaolô viết: "vậy dù ăn, dù uống, hay làm bất cứ việc gì, anh em hãy
làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa" (1Cr. 10, 31). Bạn có thể làm được điều
này không? bằng cách nào?
5. Niềm
vui tròn đầy.
(Suy
niệm của John W. Martens - Lm GB. Văn Hào chuyển ngữ)
Vừa đi
khỏi, anh đã bắt đầu rao truyền và loan tin ấy khắp nơi ( Mc 1,45)
Trong
tác phẩm "Bàn về sự nhiễm uế và tội lỗi trong nền văn hóa Do Thái cổ
đại", tác giả Jonathan Klawans đã nêu ra sự khác biệt giữa sự nhiễm uế do
tội lỗi, và sự nhiễm uế do tập tục. Sự nhơ uế mang tính luân lý gồm những tội
như ngoại tình và giết người, hàm ngậm những hành vi tội lỗi và dơ bẩn. Còn sự
nhơ uế do phong hóa mang tính tập tục bao gồm những tiến tình tự nhiên, như
việc sinh nở, hành vi giao phối vợ chồng, chu kỳ kinh nguyệt của phụ nữ v..v..
Những quy trình tự nhiên này không liên quan gì đến hành vi tội lỗi cả. Bệnh
phong hủi, là một trong những bệnh ngoài da vẫn được người ta xem như một thứ
nhơ uế, nhưng chỉ mang tính phong hóa theo tập tục thời bấy giờ mà thôi.
Cho dù
một người mắc bệnh ngoài da, như những người bệnh phong, sẽ không bị kết án là
có tội, nhưng theo sách Lêvi " người đó vẫn bị coi là nhơ uế bao lâu còn
mang bệnh tật trong người. Họ phải sống một mình, tách khỏi lều trại nơi cộng
đồng sinh sống (Lv 13,45-46)". Nhiều người nhiễm bệnh phong hủi còn bị cắt
đứt sự tương giao hoàn toàn, cả về mặt xã hội và cả trong đời sống tôn giáo.
Những sự nhiễm uế khác theo tập tục, như sinh nở, kinh nguyệt, chỉ kéo dài một
thời gian ngắn, thường một ngày hay một tuần, nhưng cách riêng nhiễm uế do bệnh
cùi có thể trở thành vĩnh viễn suốt cả một đời người.
Chúng
ta sẽ không ngạc nhiên khi một người phong hủi đi tìm kiếm và đến gặp Đức
Giêsu. Anh ta nài xin Ngài giúp anh ta trở lại hòa nhập với cộng đồng. Qùy gối
trước mặt Đức Giêsu, anh ta khẩn xin tha thiết với một ước muốn giản đơn "
Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Mặc dù bệnh nhân không
nài ép Chúa với một cung điệu ai oán và trang trọng, nhưng anh ta bày tỏ mong
ước với một động thái xác quyết và tin tưởng, vì " Ngài có thể làm việc
này". Đây là một thái độ biểu tỏ đức tin. Anh ta tin tưởng tuyệt đối vào
quyền năng của Đức Giêsu và tín thác nơi lòng trắc ẩn của Ngài.
Đức
Giêsu chạnh lòng thương đối với bệnh nhân. Marcô sử dụng hạn từ Splanchnizomai
trong tiếng Hy lạp, diễn tả một tình cảm sâu xa, một sự thương cảm và yêu
thương dạt dào. Trái tim của Đức Giêsu đã lay động trước hoàn cảnh bi thương
của người bệnh và Ngài giơ tay chạm vào anh ta. "Ngài nói: Tôi muốn, anh
hãy được sạch. Lập tức bệnh phong hủi biến mất và anh ta được lành sạch (Mc
1,42)". Khi chạm vào người cùi, Đức Giêsu có làm điều gì sai trái không?
Chắc chắn không và tuyệt đối không. Cho dù bệnh cùi là căn bệnh lây lan, và
luật Do Thái vẫn coi sự sờ chạm đến bệnh nhân là một sự nhiễm uế, nhưng sự
nhiễm uế này hoàn toàn không phải do tội lỗi. Khi Đức Giêsu chạm đến người cùi
để chữa lành cho anh ta, có thể đó là một hành vi phản khoa học, khiến dễ bị
lây nhiễm, nhưng tuyệt đối nơi Ngài không thể có sự nhiễm uế. Động thái này có
nghĩa là gì? Chúng ta thấy Đức Giêsu vẫn cẩn thận tuân thủ lề luật và Ngài
không tỏ ra khinh suất lề luật chút nào.
Sau khi
bệnh nhân đã hoàn toàn được lành lặn, Đức Giêsu nghiêm giọng đuổi anh ta đi
ngay và còn căn dặn kỹ lưỡng " Đừng nói gì với ai cả, nhưng hãy đi trình
diện tư tế và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì Môsê đã truyền để
làm chứng cho người ta biết (Mc 1,44). Sự đồng cảm của Đức Giêsu được thể hiện
không phải bằng một cái ôm hôn thắm thiết để chúc mừng anh ta, vì anh được trở
lại hòa nhập với cộng đồng. Nhưng, Ngài nói với người được chữa lành là hãy đi
thực hành những gì mà luật Môsê dạy bảo, như đã viết trong sách Lêvi 14,1-32.
Bệnh nhân sau khi được lành bệnh, phải thực hiện điều luật, để được đón nhận
trở lại hội nhập với cộng đồng. Vị tư tế sẽ còn phải kiểm tra, như sách Lêvi đã
dạy, và sự kiểm tra này kéo dài suốt cả tuần lễ. Anh ta đang trên đường để tái
hòa nhập, và lúc Đức Giêsu chữa lành cho anh ta, anh ta vẫn chưa có thể trở lại
với cộng đồng một cách hoàn toàn lúc bấy giờ.
Nhưng
tại sao Đức Giêsu lại nghiêm giọng bảo anh ta đừng nói gì cho ai biết? Có phải
thực sự Đức Giêsu mong muốn người bệnh đã được chữa lành phải câm lặng tuyệt
đối hay không? Có phải bệnh nhân sau khi được lành sạch sẽ không nói cho vị tư
tế biết ai đã chữa lành cho mình?
Sứ mạng
cứu thế của Đức Giêsu là mời gọi mọi người tiến vào Vương quốc Nước Trời, thế
thì tại sao Ngài lại nghiêm cấm người vừa được chữa lành do quyền năng của Ngài
lại phải câm nín? Người được Đức Giêsu cứu chữa chắc chắn không thể im miệng
được. Anh ta ra đi và bắt đầu công bố cho mọi người, quảng bá rộng khắp tin vui
mà mình mới được lãnh nhận. Vì vậy số người đến tìm gặp Đức Giêsu ngày càng
đông đến mức độ Ngài không thể công khai vào thành nào, mà chỉ có thể ở lại
những nơi hoang vắng ngoài thành ( Mc 1,45) .
Dường
như có sự mâu thuẫn và đối kháng giữa chỉ thị của Đức Giêsu cấm người bệnh đừng
nói gì với ai, với sứ mệnh quảng bá Vương quốc Nước Trời. Trong Tin mừng Marcô,
chúng ta thấy nhiều lần Đức Giêsu đã nói như vậy. Các học giả kinh thánh gọi đó
là "Bí mật Thiên Sai". Một đàng, Đức Giêsu mời gọi mọi người hãy bước
theo Ngài và Ngài đã chữa lành các bệnh nhân một cách công khai, một đàng lại
có vẻ như Ngài muốn bịt miệng các chứng nhân, cấm họ nói bất kỳ điều gì. Có
phải đây là một sự đánh đố mang tính tâm lý mà Đức Giêsu khởi xướng, hay chỉ là
một kỹ xảo chơi chữ theo kiểu văn chương mà Marcô đã sử dụng?
Các học
giả cho chúng ta thấy thái độ phản ứng của bệnh nhân được chữa lành nói lên câu
trả lời cho vấn nạn này. Niềm vui Tin Mừng vọt trào nơi tâm hồn những con người
mà Đức Giêsu đã sờ chạm đến, phải được công bố và được nhân rộng. Niềm vui đó
cần được sẻ chia, cần được quảng bá rộng khắp cho mọi người. Người cùi trong
bài Tin Mừng hôm nay đã chu toàn những gì lề luật đòi hỏi, nhưng anh ta biết
rằng mình không thể câm lặng, ôm giữ cho riêng mình niềm vui sung mãn và ngập
tràn đó. Sau khi đã trải nghiệm sự vui mừng lớn lao vì được thụ lãnh quyền năng
chữa lành của Đức Giêsu, anh ta ra đi và nói cho mọi người biết. Đây là hình
mẫu và là chân dung của một nhà truyền giáo đích thực, mà mỗi người chúng ta
cần phải sao chép.
6. Giơ
tay đụng vào – Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
"Người
chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và bảo..."
Kể từ
cái trải nghiệm nhỏ bé nhận được trong khóa học BISA VIII tại Bangkok - Thái
Lan đúng vào mấy ngày Tết Nhâm Thìn, tôi đã có một cái nhìn rất khác về 'phép
lạ' Đức Giêsu chữa người bị phong hủi.
BISA
(Bishops' Institute for Social Action) là khóa học dành cho các giám mục Á Châu
về các đề tài liên quan tới phát triển con người theo Học Thuyết Xã Hội của
Giáo Hội do OHD (Office of Human Development) thuộc FABC (Federation of Asian
Bishops' Conferences) tổ chức. Khóa VIII na7m đó có sự tham dự của khoảng 30
giám mục, 10 đại biểu linh mục, giáo dân đại diện cho 18 Hội Đồng Giám Mục và
06 tổ chức quốc tế. Tôi được mời tham dự trong tư cách đại diện cho Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam
vì đề tài học tập liên quan đến các di dân và thổ dân. Khóa học được chia làm
hai phần, bốn ngày dành cho chương trìnhthực nghiệm (immersion program) và bốn
ngày cho hội nghị thuyết trình và thảo luận. Trong phần thực nghiệm, các tham
dự viên được chia thành từng nhóm 4-5 người đi thực tế trong một môi trường xã
hội cụ thể. Nhóm tôi gồm 04 người, trong đó có 02 giám mục, đi làm việc tại một
trung tâm PCU-AIDS (Palliative Care Unit for AIDS Patient Center) tại tỉnh
Sayong miền đông nam Bangkok - Thái Lan, gần biên giới Kampuchia. Công việc của
chúng tôi là cùng với các y công và y tá của trung tâm chăm sóc các bệnh nhân
AIDS đang trong giai đoạn cuối. Một trong các công việc tôi được trao là thay
tã (tampers) và chùi rửa các bệnh nhân AIDS hoàn toàn bại liệt.
Việc
phục vụ và đụng chạm trực tiếp tới những con người này (một thứ phong hủi ghê
tởm hiện đại?) trong trạng thái dơ bẩn nhất của thân xác họ, đã để lại nơi tôi
một ấn tượng khó quên; mọi cảm xúc tự nhiên trong mình như muốn nổi loạn, buộc
tôi phải gồng mình kiềm chế. Cảm nghĩ lóe lên nhiều lần trong đầu tôi lúc đó
chính là: "Ôi tình yêu nhập thể, khủng khiệp quá!" Phải, Thiên Chúa
trong mầu nhiệm nhập thể đã đụng chạm trực tiếp tới tình trạng kinh tởm dơ dáy
tột cùng của thể xác, nhất là của tinh thần con người (trường hợp Người giơ tay
đụng vào người mắc bệnh phong cùi ghê tởm ở đây chỉ là một chút điển hình!). Và
Người làm hành đông này không có bất kỳ một thiết bị bảo hộ nào như tôi lúc đó,
nào là khẩu trang, bao tay cao su, nào là các thiết bị y tế, nước sát trùng...
và cả các tấm tã cực kỳ tiện lợi. Điều duy nhất mà Người được trang bị và sở
đắc tới độ siêu đẳng (đồng thời cũng chính là điều tôi hoàn toàn thiếu thốn) đó
là 'Người chạnh lòng thương'! Thế đấy, tình yêu nhập thể thực quá cụ thể và
chạm tới những ngõ ngách cùng tận và tăm tối nhất của kiếp người. Điều mà Đức
Giêsu đã làm với người phong hủi xưa, Người sẽ còn tiếp tục làm mãi với từng
con người nhân loại chúng ta, đặc biệt những ai cùng khổ bất hạnh, bệnh tật
kinh tởm nhất, cả về mặt thể lý lẫn luân lý; bất cứ ai Người cũng chạm tới được
miễn là họ biết 'quỳ xuống và van xin...' như người phong hủi xưa.
Và cũng
từ trải nghiệm này tôi còn được học thêm một điều nữa, đó là việc chữa lành
(hay phép lạ) không phải là điều quan trọng và cần nhấn mạnh nhất. Khi phục vụ
tại CPU-AIDS tôi được cho biết, bệnh nhân nào tìm lại được ý chí muốn sống,
người đó mới có cơ may kéo dài cuộc sống, ngược lại bệnh nhân sẽ tàn lụi vô
phương cứu chữa. Tác động lớn nhất trong việc điều dưỡng không phải là thuốc
men hay phương tiện y tế, mà chính là trả lại cho bệnh nhân niềm tin và hy
vọng. Tôi đã thấy vài trường hợp điển hình ngay nơi các bệnh nhân AIDS mà tôi
phục vụ (thay tã, đút cơm hay nắn bóp), một số họ đã bắt đầu tỏ ra có các dấu
hiệu hồi phục rõ ràng. Một bệnh nhân AIDS-TB (lao phổi) nặng, bị mọi người xa
tránh vì dễ lây nhiễm và nhầy nhụa, nhưng khi được tôi ân cần đút cơm và trò
truyện, anh đã nở được nụ cười thật tươi sau nhiều ngày vật vã... Và bác sĩ cho
biết, bệnh tình của anh đã có dấu hiệu khả quan hơn.
Thế
đấy, tác giả Mác-cô viết: 'Người chạnh lòng thương, giơ tay đụng vào anh và
bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập tức chứng phong hủi biến khỏi anh,
và anh được sạch...' ôi sao mà xác thực quá! 'Chạnh lòng thương' còn quan trọng
hơn nhiều việc Đức Giêsu lấy quyền năng mà làm phép lạ... Nói cách khác, chính
'chạnh lòng thương' mới là phép lạ lớn hơn hết vì nó đáp ứng trực tiếp nỗi khát
vọng thâm sâu nhất của bệnh nhân phong hủi này, khi anh ta thoát khỏi tình
trạng bị mọi người hắt hủi, và kể từ lúc đó chứng phong hủi của anh khởi sự
tiến trình hoàn toàn biến mất.
Ôi, sức
mạnh của lòng thương xót thật vô song, và mong sao mọi linh mục của Đức Ki-tô
không những hiểu được điều này mà còn tham gia tích cực vào quyền năng này nữa!
Lạy
Chúa từ nhân, xin cho con biết cảm tạ Chúa không ngừng, không phải vì các phép
lạ hoặc các ơn trọng đại con nhận được, nhưng vì đã biết tín thác vào lòng Chúa
xót thương. Cho dầu không thể sửa trị được hết các yếu đuối phần hồn phần xác
(sẽ không bao giờ, với bất cứ ai!), con vẫn mừng vui khôn xiết vì Chúa đã chạnh
thương chạm tới sự ghê tởm, thấp hèn và tội lỗi của con, qua đó trả lại cho con
niềm hy vọng tràn trề và một sức sống bất tận. A-men.
7. Tôi
muốn anh được sạch
(Suy
niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Từ câu
1:39, Marcô ghi nhận là Chúa Giêsu đã bắt đầu mở rộng hoạt động khắp miền
Galilê. Tiếp theo là câu chuyện chữa lành người phong hủi. Và trong câu kết
(1:45), Marcô cho thấy dân chúng ở Galilê cũng bị thu hút mạnh mẽ bởi Chúa
Giêsu. Họ đến với Người từ mọi vùng, như dân chúng ở Capharnaum đã làm
(1:35-37). Câu chuyện chữa lành người phung hủi được thuật lại riêng, không
chung với các bệnh nhân khác. Hầu hết các bệnh nhân đều được mang đến cho Chúa
Giêsu để được chữa lành (1:32-34), chỉ có bệnh nhân phung hủi nầy tự mình tìm
đến với Người. Lý do là vì sợ bị ô uế, mà chẳng ai dám đụng đến người phung
hủi. Hành động và lời nói của người phung hủi đã được làm nổi bật cách đặc biệt
trong trình thuật nầy.
Hành
động đầu tiên của bệnh nhân là đến lại gần và quỳ gối trước mặt Người. Theo
luật Môisen, bệnh phong hủi là một bệnh ghê tởm. Người mắc bệnh bị xem như
người ô uế, bị loại ra khỏi hàng ngũ của dân Thiên Chúa thánh thiện, và phải xa
lánh mọi người (Lv 13). Bệnh nầy bị đánh giá như là một sự hủy hoại không những
thân xác, mà cả mọi tương quan của bệnh nhân với Thiên Chúa và xã hội. Do đó,
đến gần và quỳ gối trước Chúa Giêsu là một thái độ đức tin. Ông đến với Chúa
Giêsu vì đã thấy Người đã chữa lành nhiều người (1:21-28; 32-34). Và ông cũng
thấy Người có quyền năng hơn cả các luật sĩ (x.1:22), nên ông bất kể luật
Môisen mà đến với Người. Ông đến để cầu xin chữa bệnh: "Nếu Ngài muốn,
Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Lời cầu xin nầy xác nhận đức tin thúc đẩy
ông đến với Chúa Giêsu (x. 1:15). Ông tin Người có quyền năng, và Người có thể
làm được nếu Người muốn. Ông phó thác vào ý muốn của Người. Lời cầu xin cũng
phản ánh hiện trạng của ông: bệnh phong hủi làm cho ông bị ô uế, bị ruồng bỏ và
chỉ có Chúa mới làm cho ông được sạch.
Đáp lại
cử chỉ đức tin của người phong hủi, Chúa Giêsu đưa tay đụng đến anh và nói lời
chữa bệnh. Đưa tay ra là dấu hiệu hành động của quyền năng Thiên Chúa (Xh 3:20;
7:5; Tv 138:7), hoặc hành động nhân danh Thiên Chúa (Xh 14:16.21.27). Đụng đến
người phung hủi theo Luật là vấy uế. Nhưng vì Chúa Giêsu ở trên Luật Môisen (x.
2:10-12), nên khi đụng đến ông, Người không bị ô uế. Ngược lại, Người làm cho
người bị kể là ô uế được lành sạch hoàn toàn. Cũng đáp lại lời tuyên xưng đức
tin của người phung hủi, Chúa Giêsu dùng lại lời của ông mà chữa ông
lành:"Tôi muốn, anh sạch đi!".
Lý do
Chúa Giêsu muốn người phung hủi ra về trong thinh lặng là để ông có thể cảm
nghiệm lâu dài và cách cá nhân quyền năng của Thiên Chúa, biểu lộ trong Chúa
Giêsu, đang thực hiện trong ông. Quyền năng ấy đã chữa ông lành bệnh phong hủi,
đã đưa ông vào lại trong tương quan và hiệp thông với Thiên Chúa và con người
(x. Lv 14:1-32). Nhưng Chúa Giêsu không thành công. Người không thể kiềm hãm
được người phong hủi. Ông được chữa lành, và ông kinh nghiệm bản thân về lòng
thương xót và quyền năng của Thiên Chúa quá lớn lao trong ông, khiến ông chỉ có
một cách là "rao giảng" kèrussò, tin mừng ấy cho mọi người biết. Sau
Gioan (1:4), Chúa Giêsu (1:14.38. 39), ông là người thứ ba rao giảng những điều
kỳ diệu của Thiên Chúa (1:45), và những người khác sau ông (3:14; 5:20; 6:12;
7:36).
Chúa
Giêsu đến để hội nhập lại những người ngoài trật tự của con người và Thiên
Chúa. Người thực hiện điều ấy với quyền năng và lòng thương xót, nên danh Người
vẫn được loan truyền giữa con người.
8. Chữa
người phong cùi – Radio Veritas Asia
(Trích
trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Raoul
Folereau, vị đại ân nhân của những người phong cùi đã ghi lại một chuyến đi của
ông như sau: Đến một nơi cách thành phố 15 cây số, chúng tôi lần theo một lối
đi được chỉ trước, và sau nửa giờ đi bộ chúng tôi lạc vào một thế giới của buồn
thảm, đau khổ và thất vọng. Thật thế, tại một nơi mà không ai muốn đặt chân
đến, có khoảng 60 người phong cùi đang sống bên nhau. Trước đây, người ta giam
họ trong một trại cùi chẳng khác nào một trại tù, mọi người nhìn họ như những
kẻ bị chúc dữ, hoặc tệ hơn nữa, như những con thú dữ. Không chịu nổi sự giam
hãm và cách ly như thế, một số người cùi này đã trốn thoát và đến trú ẩn giữa
khu rừng này. Tại đây, tình trạng của họ càng thêm tồi tệ hơn, xung quanh họ,
trên đất đầy dẫy những vết tích của căn bệnh quái ác này.
Tôi đến
bên một người lớn tuổi được xem như đại diện của họ và hỏi:
- Hôm
nay là chiều Thứ Bảy, cửa quán ngoài phố xá đã đóng cửa rồi; thứ hai tôi sẽ trở
lại và mang theo thức ăn thức uống; tôi cũng sẽ đưa một bác sĩ đến để chăm sóc
cho bà con, chúng tôi sẽ cất nhà và sẽ ở lại đây với bà con khi cần, vậy bác
hỏi bà con có thể chờ cho đến ngày Thứ Hai không?
Người
đó đưa mắt nhìn tôi với vẻ nghi ngờ, vì đã từ lâu họ không còn tin điều đó nữa;
đối với họ, xem ra không còn ai đáng tin trên đời này nữa. Rồi ông khẩn khoản
nói:
- Ông
không thể giúp cho chúng tôi ngay được sao? Chúng tôi vừa mới có một người anh
em qua đời, chúng tôi phải dùng đôi tay cùi lở này để đào xới một cái mộ chôn
người anh em.
Tôi
nhìn đôi bàn tay không nguyên vẹn vì bệnh tật, nay phải mang thương tích vì
người đồng loại. Những con người khốn khổ đó nếu không nhìn thấy, không thể tin
được là có thật.
Căn
bệnh phong cùi vẫn là căn bệnh ghê sợ nhất đối với hiện tại. Người phong cùi
đau đớn trên thân xác đã đành, mà còn đau khổ gấp bội phần trong tâm hồn khi
cảm thấy bị bỏ rơi.
Trong
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã gặp gỡ và chữa lành cho người phong cùi. Không
những chữa lành tấm thân bệnh hoạn, Ngài còn tái lập họ trong cộng đoàn nhân
loại, khi bảo bệnh nhân đi trình diện với các tư tế, nghĩa là hội nhập họ trở
lại cuộc sống. Sự tái hội nhập này luôn đòi hỏi sự cảm thông, lòng quảng đại và
cởi mở đón nhận của người khác. Vi trùng Hansen đục khoét và hủy hoại thân xác
con người, thì cũng có biết bao thứ vi trùng khác độc hại hơn đang ẩn núp trong
tâm hồn con người, tên của chúng là dửng dưng, ích kỷ, thù hận. Chúng đang giết
dần giết mòn con người mà con người không hay biết.
Xin
Chúa tha thứ cho những mù quáng, dửng dưng và ích kỷ của chúng ta trước bao
nhiêu cảnh khốn cùng của đồng loại. Xin Ngài ban cho chúng ta một trái tim biết
cảm thông và đôi tay rộng mở để san sẻ.
9.
Chạnh lòng thương – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy
Niệm:
Đây là
quy chế người mắc bệnh phong theo sách Lêvi (13, 45-46). Người ấy phải mặc quần
áo rách, để tóc bù xù, che môi trên, phải vừa đi vừa kêu lên: "Ô uế ! ô uế
!" để người ta biết mà tránh xa. Người phong phải ở một mình, phải ở một
chỗ bên ngoài trại... Như thế từ xa xưa, người ta đã biết đến sự dễ lây lan của
bệnh phong và ảnh hưởng nguy hiểm trên thân xác do chứng bệnh này.
Để được
chứng nhận là đã khỏi bệnh, người phong phải trình tư tế, phải qua một quá
trình phức tạp để thanh tẩy trong tám ngày, và phải dâng những con vật bị sát
tế để làm lễ xá tội (Lêvi 14).
Người
phong trong bài Tin Mừng hôm nay đã không giữ Luật Môsê. Anh dám lại gần Đức
Giêsu, dám tin ngài có khả năng làm anh được sạch, mặc dù theo truyền thống
Kinh Thánh, chỉ Thiên Chúa mới làm được chuyện đó.
Đức
Giêsu vì thương anh, nên cũng đã làm điều không được phép. Ngài dám đưa bàn tay
ra và đụng đến anh, đụng đến da thịt nhơ uế của anh, đến chính phận người hẩm
hiu của anh, dù chỉ một lời của ngài thôi cũng đủ làm anh khỏi bệnh.
Cái
đụng của bàn tay Đức Giêsu đã không làm ngài bị ô uế. Trái lại, nó đã đem lại
sự thanh sạch cho anh bị phong.
Để làm
phép lạ chữa bệnh rất lừng lẫy này, Đức Giêsu đã phải trả giá.
Người
phong khi được khỏi, đã không tránh được chuyện rêu rao. Vì thế người ta đổ xô
nhau tới khiến ngài phải ở ngoài thành. Khi người khỏi bệnh vào được thành thì
Đức Giêsu lại phải ở hoang địa!
Thái độ
chạnh lòng thương và đụng đến người phong của Đức Giêsu đã gợi hứng cho nhiều
tâm hồn noi gương bắt chước.
Tại
nhiều trại phong ở Việt Nam ,
ta thấy bóng dáng của các nữ tu. Họ ở trại phong Bến Sắn, Di Linh, Quy Hòa, Văn
Môn... Nhiều nữ tu đã hiến dâng tuổi trẻ của mình để phục vụ người phong, đụng
đến những vết thương tàn phế nơi thân xác họ. Các chủng sinh Miền Bắc cũng đã
quen tiếp xúc với người phong, ở lại với họ, săn sóc và chia sẻ thân phận của
họ.
Giáo
hội Công Giáo sung sướng được phục vụ người phong ở khắp nơi, và coi đây như
một nét đặc trưng của khuôn mặt Giáo Hội.
Cầu
nguyện:
Lạy
Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến
mọi nơi chúng con đi.
Xin
Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin
Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin
Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận
được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho
chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng
cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ
Têrêxa Calcutta )
10. Tội
lỗi còn hơn phong cùi nữa – Yvon Daigneau.
Mở đầu.
Sứ vụ
của Chúa Giêsu nơi loài người đã được khẳng định trong các trường hợp đơn giản
và thông thường mà mọi người đều hiểu được. Chúa Giêsu là Đấng cứu độ. Ngài
không đến mang giải pháp cho vô số vấn đề hàng ngày, nhưng để giải phóng loài
người khỏi quyền lực của tội lỗi và sự chết đang thống trị họ. Giai đoạn đời
sống Chúa Giêsu mà chúng ta đọc trong Tin Mừng Chúa nhật hôm nay mời gọi chúng
ta suy nghĩ cách mới mẻ và thời sự về sứ vụ của Ngài đối với chúng ta.
Bệnh
tật.
Chúng
ta thất vọng và chua xót khi thuốc của chúng ta uống không đạt hiệu quả. Ai mà
không tìm cách chống lại một cơn nhức đầu sổ mũi bằng những liều thuốc thần
được quảng cáo khắp nơi, và cuối cùng cũng phải nhượng bộ trước sức tấn công
của bệnh cúm. Vào thời Chúa Giêsu, người ta hầu như không có cách nào chống lại
bệnh tật cả và nó cũng hoành hành như ngày nay. Nơi người ngoại giáo, người ta
thường mặc nhiên gán cho bệnh tật sự thù ghét của những quyền lực của thần dữ,
cho sự trừng phạt của Thiên Chúa vì tội lỗi, ngay cả những tội lỗi mà người ta
không hề biết tới. Tại Israel ,
bệnh tồi tệ nhất trong các bệnh là bệnh phong cùi. Đôi khi người ta có thể lành
được nhưng điều ấy có nghĩa là Chúa đã tha tội. Thường thường, phải để cho cơn
bệnh tăng dần theo diễn tiến ghê rợn của nó thôi.
Người
phong cùi đến với Chúa Giêsu xin được tẩy sạch. Anh ta xin một điều lớn hơn là
được hồi phục trong thân xác. Anh ta khẩn nài Chúa Giêsu tẩy sạch tâm hồn anh
khỏi những tội lỗi đã gây cho anh nỗi khốn khổ này. Một khi được tẩy sạch trong
lòng, thân xác anh sẽ được tái sinh.
Thái độ
của Chúa Giêsu.
Không
ai sẽ ngạc nhiên về thái độ của Chúa Giêsu cả. Trái lại người ta ngạc nhiên về
những lời cảnh cáo nghiêm khắc của Ngài. Chữa lành người bệnh chẳng đủ rồi ư?
Tại sao còn bắt anh phải giữ thinh lặng, một việc khó khăn như thế, trong lúc
mọi người chung quanh đều nhận thấy anh ta được chữa lành? Tại sao bắt anh ta
phải làm một công việc phiền toái, là đến cho một công chức của đền thờ kiểm
tra việc chữa lành đã quá hiển nhiên như thế.
Chúa
Giêsu yêu cầu kẻ Ngài tẩy sạch khỏi bệnh phong cùi làm một việc hoán cải nghiêm
túc và rõ rệt. Sự thinh lặng mà anh ta phải giữ về biến cố anh được chữa lành
sẽ ngăn cản anh khỏi gán cho mình công trạng của việc thanh tẩy này, hoặc dùng
nó để thu hút sự chú ý đến mình. Sự thinh lặng sẽ gìn giữ anh khỏi chơi trò anh
hùng, điều này sẽ gây ra kiêu ngạo và sinh tội nữa.
Còn
việc anh ta phải làm tại đền thờ sẽ ghi dấu sự kiện anh được tái nhập vào cộng
đoàn, mà chỉ có thể thực hiện một cách công khai thôi. Việc này cũng sẽ cho
phép anh bắt đầu lại cuộc sống trung thành với Chúa. Tuyên dương những kỳ công
của Thiên Chúa mà thôi thì chưa đủ, còn phải sống ngày này qua ngày nọ trong sự
khiêm tốn trung thành với ý Chúa nữa. Việc trình diện nơi đền thờ sẽ khai mào
cho sự trung thành mới mẻ này.
Người
phong cùi.
Theo
Tin Mừng, người phong cùi không có vẻ hiểu rõ ý định của Chúa Giêsu về mình.
Anh ta không thể giữ miệng được, anh nói oang oang ra và mọi người đi tìm Chúa
Giêsu, mỗi người đều hy vọng sẽ nhận được phép lạ cho mình hoặc, ít nhất, là
được chứng kiến những phép lạ mà mình sẽ kể cho bà con lối xóm.
Anh chị
em hãy ghi nhận rằng Chúa Giêsu không gọi người ấy tới để nói với anh ta rằng
Ngài rút lại việc chữa lành và anh sẽ bị phong cùi như trước. Ngài để cho anh
hưởng niềm vui và cuộc sống mới, cho dù nó bắt đầu một cách mỏng dòn. Lòng
thương xót của Chúa như thế đó, Ngài vẫn trung thành bất chấp những sự vụng về,
chậm tin và thất tín của những kẻ đã được thương xót.
Kết
luận.
Trong
lòng mỗi người chúng ta có một nguồn ô nhiễm lan đến sự sống mà phép rửa đã ban
cho chúng ta. Đó là một sự gắn bó keo sơn với tội lỗi, những tội mà chúng ta
tái phạm hoài một cách vô ý thức. Chúng ta cần được thanh tẩy triệt để, đó là
công trình của lòng thương xót. Chúng ta hãy đến xin Chúa Giêsu, Đấng thanh tẩy
chúng ta.
11. Suy
niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
BỆNH
PHONG TÂM HỒN
Thời
xưa, bệnh phong là một bệnh nan y, bị mọi người kinh tởm xa lánh. Trong đạo Do
thái, người mắc bệnh phong bị gạt ra ngoài lề xã hội. Họ không được sống chung
với thân nhân trong xóm làng, nhưng bị xua đuổi ra ngoài đồng ruộng, vào trong
rừng núi hay trong sa mạc. Họ phải ăn mặc rách rưới. Đi đến đâu cũng phải kêu
to lên: "Ô uế, ô uế", cho mọi người biết mà xa tránh. Ai tiếp xúc với
người bệnh phong đều bị coi là ô uế. Ai đụng chạm vào người bệnh phong bị con
như mắc tội rất nặng. Chẳng ai dám đến gần người bệnh phong. Người bệnh như
thế, không những bị những vết thương trên thân xác hành hạ đau đớn mà còn bị
những nỗi đau, nỗi nhục trong tâm hồn dằn vặt khổ sở. Họ bị xã hội khinh khi
loại trừ. Họ bị một mặc cảm chua chát dày vò. Nhân phẩm không được tôn trọng,
họ sống mà bị con như đã chết. Nhưng chưa chết được, họ vẫn phải tiếp tục sống
để chịu những nỗi đau đớn còn hơn cả cái chết gặm nhấm, thiêu đốt.
Một lần
nữa, Đức Giêsu lại vượt qua những biên giới cấm kỵ khi dám đến gần người bệnh
phong. Không những Người đến gần mà còn đưa tay chạm vào thân mình bệnh nhân.
Lòng thương yêu đã khiến Đức Giêsu dám làm tất cả. Vì thương người bệnh, Đức
Giêsu đã bất chấp nguy hiểm bị lây nhiễm, đã bất chấp những điều bị coi là cấm
kỵ của đạo Do Thái.
Khi
chữa khỏi bệnh phong, Người đã giải thoát người bệnh khỏi những đau đớn phần
xác. Từ nay anh không còn bị những vết thương hành hạ. Thân thể anh trở nên
lành lặn. Da dẻ anh trở lại hồng hào tươi tắn. Khuôn mặt anh rạng rỡ. Giọng nói
anh thanh tao. Anh cũng là một người như bao người khác.
Nhưng
điều quan trọng hơn, đó là khi chữa anh khỏi chứng bệnh nan y, Đức Giêsu đồng
thời cũng giải phóng anh khỏi những mặc cảm đè nặng tâm hồn anh bao năm tháng
qua. Khi Đức Giêsu vuốt ve thân thể bệnh tật của anh. Người đã vuốt ve tâm hồn
anh. Trước kia anh cảm thấy bị mọi người xa lánh. Nay anh cảm thấy qua Đức
Giêsu mọi người gần gũi anh hơn bao giờ. Trước kia anh cảm thấy bị khinh miệt.
Nay anh cảm thấy được trân trọng. Trước kia anh cảm thấy bị bỏ rơi. Nay, dưới
bàn tay dịu hiền của Đức Giêsu, anh cảm thấy được yêu thương vỗ về. Những vết
thương sâu thẳm trong trái tim anh đã liền da lành lặn. Đức Giêsu đã hồi sinh
tâm hồn lạnh giá của anh.
Muốn
cho mọi người chấp nhận anh tái hội nhập vào đời sống xã hội. Đức Giêsu bảo anh
đi trình diện với thày cả theo như luật định. Trước kia anh bị loại trừ, bị gạt
ra ngoài lề xã hội. Nay anh được bàn tay âu yếm ân cần của Đức Giêsu đón nhận
anh trở lại xã hội loài người. Qua vị thượng tế, anh được công khai đón nhận.
Nhân phẩm anh được phục hồi. Danh dự anh được tôn cao. Giờ đây anh có thể tự
tin, vui sống giữa mọi người, như mọi người.
Chúng
ta ai cũng có những mặc cảm đè nặng tâm hồn, những vết thương sâu kín, những
niềm đau khôn nguôi, những nỗi buồn hầu như không ai thông cảm được. Hãy noi
gương người bệnh phong chạy đến với Đức Giêsu. Người sẽ xóa đi những mặc cảm đè
nặng hồn ta. Người sẽ chữa lành những vết thương bao năm gặm nhấm trái tim ta.
Người sẽ xoa dịu những nỗi đau vò xé tâm tư. Người sẽ an ủi những nỗi buồn phủ
kín hồn ta.
Phần
ta, hãy biết noi gương bắt chước Đức Giêsu, đừng loại trừ anh em mình ra khỏi
đời sống xã hội. Hãy biết đến với những anh em bị bỏ rơi. Hãy biết an ủi những
anh em đang buồn khổ. Hãy biết tránh cho anh em những mặc cảm nặng nề. Hãy hàn
gắn những vết thương trong tâm hồn anh em. Hãy tôn trọng danh dự và nhân phẩm
của anh em. Hãy giúp cho anh em mình được hòa nhập vào đời sống cộng đoàn, đời
sống xã hội. Nước ta đang quyết tâm thanh toán bệnh phong vào cuối năm nay. Xứ
đạo ta cũng hãy quyết tâm thanh toán bệnh phong trong tâm hồn. Hãy diệt trừ
bệnh phong chia rẽ. Hãy tẩy chay bệnh phong loại trừ. Hãy xóa đi bệnh phong
phân biệt. Hãy phá tan bệnh phong nghi kỵ. Hãy bài trừ bệnh phong kết án. Nếu
ta thanh toán được bệnh phong tâm hồn, thân thể xứ đạo ta sẽ liền da liền thịt,
khuôn mặt xứ đạo ta sẽ hồng hào, rạng rỡ vui tươi phản ảnh được khuôn mặt đích
thực của Đức Kitô.
Lạy Đức
Giêsu, xin cứu độ chúng con. Amen.
CÂU HỎI
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ
1- Cha
Đa-miêng và Đức cha Cát-xe đã sống với người phong và lây bệnh của họ. Có lần
nào bạn đã tiếp xúc với người bị bệnh hay bị bỏ rơi chưa? Bạn có phải trả giá
về hành động này không?
2- Có
bao giờ bạn đã là nạn nhân bị người khác loại trừ chưa? Bạn cảm thấy thế nào?
Bạn rút ra được bài học gì từ kinh nghiệm đó?
3- Bạn
đã có kinh nghiệm về sự được Chúa an ủi, được Chúa cứu chữa, được Chúa tha thứ
bao giờ chưa?
4- Bệnh phong tâm hồn là gì?
12. Muốn và có thể.
(Trích trong 'Manna' – Lm Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Mẹ Têrêxa lập quỹ giúp người phong ở Calcutta. Những
thùng quyên tiền của Mẹ mang dòng chữ: "Hãy chạm đến một người phong bằng
lòng trắc ẩn của bạn".
Chạm đến người phong là điều xưa nay ai cũng sợ. Theo
luật Cựu Ước, người phong phải mặc rách, xõa tóc, che râu. Đi đâu người ấy cũng
phải la to: "Ô uế! ô uế!" (Lv 13,45-46). Bị cách ly với mọi người, bị
coi như mắc trọng tội, đau đớn cả xác lẫn hồn, người phong sống mà như chết.
Người phong trong bài Tin Mừng hôm nay khá đặc biệt. Anh
tự ý đến gặp Đức Giêsu và quỳ xuống trước mặt Ngài. Lời van xin của anh thật là
một lời xin mẫu mực. "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được
sạch".
Nếu Ngài muốn: anh mời gọi lòng thương xót của Ngài. Anh
để cho Ngài tự do chữa hay không tùy ý. Dù rất muốn khỏi bệnh, nhưng anh lại
phó thác số phận mình cho ý Ngài muốn. Ngài có thể: anh tin tưởng vào quyền
năng của Ngài. Anh không nói như người cha của đứa con bị động kinh: "Nếu
Thầy có thể làm được gì..." (Mc 9,22).
Đối với anh, chắc chắn Ngài có thể chữa anh lành bệnh.
Chỉ cần Ngài muốn là đủ rồi. Chính thái độ tin tưởng, đơn sơ, phó thác của anh
đã đụng rất mạnh đến chỗ sâu nhất trong lòng Đức Giêsu.
Không cưỡng lại được sự tin cậy đó, Ngài nói: "Tôi
muốn." Phép lạ phát sinh từ lòng tin của người phong và từ ý muốn đầy
quyền năng của Đức Giêsu.
Nhưng Ngài không chỉ muốn, mà còn đụng vào anh. Ngài
không kinh tởm, không sợ lây, không sợ bị ô uế. Bàn tay Ngài đụng vào da thịt
anh với các vết thương. Ngài không bị ô uế, nhưng Ngài làm cho anh hết ô uế.
Chính lòng thương đã khiến Ngài mạnh dạn đụng vào anh, như chính anh đã mạnh
dạn đến với Ngài bằng lòng tin.
Đức Giêsu vừa tự do với Lề Luật, vừa lệ thuộc Lề Luật.
Ngài bảo anh đi trình diện với tư tế và dâng của lễ.
Chúng ta cần nếm niềm vui của người phong được lành.
Anh hạnh phúc vì được sạch, được làm người bình thường,
được chung sống với cộng đoàn, được hiệp thông với Thiên Chúa. Anh lấy lại phẩm
giá, ra khỏi những mặc cảm. Niềm vui quá lớn khiến anh đi loan báo khắp nơi.
Người phong sau khi được khỏi đã có thể vào thành. Còn Đức Giêsu lại phải ở
ngoài thành, nơi hoang vắng.
Từ khi ông Hansen tìm ra vi trùng bệnh phong năm 1871,
người phong đã có được niềm hy vọng chữa lành. Họ không còn bị trục xuất ra đảo
xa hay bị bách hại. Nhưng để cho họ được sống như mọi người vẫn là điều khó.
Cũng có những người bị ta xa tránh như người phong: những
cô gái lỡ lầm, những người mắc bệnh sida hay nghiện ngập, những người có tiền
án hay thuộc giai cấp cùng đinh... Hãy đến gần họ và để họ đến gần mình, vì nói
cho cùng, ít nhiều chúng ta đều là người phong.
Gợi Ý Chia Sẻ
Khi cầu nguyện để xin ơn, thường chúng ta ít để cho Chúa
được tự do. Chúng ta như muốn bắt Chúa phải làm theo ý mình. Lời cầu xin của
người phong có nhắc nhở bạn điều gì đó không?
Cha Đamiêng, Đức Cha Cassaigne đã sống với người phong và
lây bệnh của họ. Bạn có lần nào đụng chạm hay tiếp xúc với một người bị bỏ rơi,
bị coi là ô uế không? Bạn có phải trả giá về hành động này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, có những ngày đón nhận
những người khác là điều vượt quá sức con, vì con kiêu hãnh, tự hào và yếu
đuối.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, có những ngày con không
thể nào kính trọng kẻ khác được, vì ý kiến, vì màu da, vì cái nhìn của người
ấy.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con có những ngày mà yêu mến
người khác làm cho tim con đau nhói, vì nỗi sợ hãi, nỗi khổ đau và những giới
hạn của bản thân con.
Lạy Chúa là Thiên Chúa của con trong những ngày khó khăn
đó, xin hãy nhắc cho con nhớ rằng tất cả chúng con đều là con cái Chúa và đừng
để con quên Lời Chúa nói: "Điều gì chúng con làm cho người bé nhỏ nhất là
làm cho chính Ta"
13. Người bị loại trừ.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Đối với tâm lý người xưa nói chung và người Do Thái nói
riêng, bệnh tật nếu không phải do tội lỗi thì cũng là trò ma chước quỷ bày ra.
Xét theo diện nào, thì bệnh tật cũng đều đáng sợ. Và bệnh càng nặng, càng ghê
tởm, người ta càng phải cẩn thận, đề phòng.
Ở đất Do Thái thời bấy giờ có lẽ không bệnh nào nan trị
bằng bệnh phong cùi. Nó vừa ghê tởm vừa dễ lây. Xã hội lập tức đã phải có biện
pháp đối với những người mắc bệnh phong cùi. Luật pháp Do Thái trục xuất người
phong cùi ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội. Người phong cùi phải ra khỏi nhà,
đến ở những nơi hoang vu hẻo lánh, không được tiếp xúc với ai và cũng không
được để cho ai đến gần mình. Gặp ai qua đường, bệnh nhân phải lên tiếng làm
hiệu trước để cho mọi người tránh xa, kẻo bị ô nhiễm theo luật. Vô phúc cho ai
bị ô nhiễm như vậy, vì sẽ bị tuyệt thông, không được tham dự các nghi lễ nữa,
trước khi làm lễ thanh tẩy theo luật dạy. Còn chính người phong cùi, khi thấy
thân xác lành sạch phải đến trình diện các Thầy Tư Tế để xin khám nghiệm. Nếu
đúng đã lành bệnh thật, họ còn phải dâng lễ đền tội và thanh tẩy trước khi được
cấp giấy chứng nhận phục hồi quyền hiệp thông với cộng đồng xã hội.
Anh chị
em thân mến,
Có hiểu
số phận thảm thương của người phong cùi trong xã hội Do Thái thời xưa, chúng ta
mới hiểu được ý nghĩa đoạn Tin Mừng hôm nay: Một người phong cùi dám đến gần
Chúa Giêsu, bất chấp pháp luật ngăn cấm. Anh đến quỳ xuống van lạy Chúa Giêsu.
Thái độ đó chứng tỏ một lòng tin thật mạnh mẽ. Chúa Giêsu động lòng thương,
Ngài cũng bất chấp pháp luật, Ngài giơ tay ra đụng đến người phong cùi và phán:
"Ta muốn anh được sạch", tức thì bệnh phong cùi biến mất, người phong
cùi được lành sạch.
Ngày
nay, quan niệm khắt khe đối với bệnh phong cùi đã chuyển biến. Nhiều người và
nhiều tổ chức từ thiện đã và đang xả thân chăm sóc, giúp đỡ, điều trị những
người phong cùi trên thế giới. Với đà tiến bộ của y khoa, người ta đã hy vọng
sẽ một ngày không xa, sẽ bài trừ được hết bệnh phong cùi.
Tuy
nhiên, có một thứ bệnh phong cùi mà khoa học không bao giờ chữa được, đó là
bệnh phong cùi của tâm hồn, đó là tội lỗi: hận thù, kỳ thị chủng tộc, ý thức
hệ, bạo lực. Chính bệnh phong cùi này mới đáng sợ, vì nó cô lập con người xa
cách Thiên Chúa và cộng đoàn dân Chúa. Bệnh phong cùi này chỉ có Máu Thánh Chúa
Kitô mới thanh tẩy được. Chúa Giêsu đã đến để giao hòa vạn vật với nhau, nhờ
được giao hòa với Thiên Chúa. Vì Ngài đến để xóa bỏ tội lỗi và làm cho tất cả
nhân loại được nên trong sạch, được đến gần Thiên Chúa, được nên dân Chúa. Chúa
Giêsu đã chết và và sống lại để cho chúng ta được lành sạch, cho chúng ta được
làm con Thiên Chúa và làm anh em hết mọi người. Không loại trừ ai và không bị
ai loại trừ. Ngài đã giao hòa vạn vật trên trời dưới đất, không còn loài vật
sạch hay dơ, không còn biên giới ngăn cách chúng ta với Chúa và với mọi người.
Nhưng Chúa Giêsu cũng đã để lại trong Giáo Hội các Nhiệm Tích, nhất là Nhiệm
Tích Hòa Giải là phương thế Chúa dùng để tẩy sạch bệnh phong cùi của chúng ta
và giao hòa nối kết chúng ta lại với Chúa và với mọi người, để củng cố mối dây
liên kết ấy ngày càng bền chặt hơn.
Thưa
anh chị em,
Chúng
ta đã biết, theo luật pháp Do Thái, người mắc bệnh phong cùi phải ở riêng ngoài
trại, cách ly mọi người, không được đến gần ai và cũng không ai được đến gần
họ. Nhưng ở đây, với lòng tin mãnh liệt, người cùi đón đường và tiến đến bên
Chúa Giêsu. Còn Chúa Giêsu, thay vì xa lánh bệnh nhân như luật buộc, "Ngài
đưa tay ra đụng đến người phong cùi". Đối với Chúa, không có vấn đề kỳ
thị, cấm kỵ, loại trừ. Chúa là tất cả cho mọi người, không kỳ thị chủng tộc,
văn hóa, giàu nghèo, bệnh tật...
Thái độ
tin tưởng của người phong cùi và hành động nhân hậu của Chúa Giêsu cho chúng ta
một bài học: chúng ta đừng bao giờ tự biến thành người mắc bệnh phong cùi nghĩa
là đừng tự cô lập mình với anh em, đừng tự giam mình trong pháo đài ích kỷ, thù
hận nhưng hãy biết quảng đại yêu thương bằng việc sẵn sàng quên mình vì mọi
người.
Noi
gương Chúa Giêsu, mỗi người chúng ta hãy biết nhìn người anh em đồng loại như
một "cái mình khác" của chính mình. Một khi nhìn nhận như thế, chúng
ta phải trở nên anh em của bất cứ người nào, không trừ một ai, và phải đi đến
với mọi người để phục vụ trong tình yêu thương. Người già cả, người nghèo khó,
người bệnh tật, người cô đơn hay hèn kém... Tất cả đều kêu gọi lương tâm Kitô
giáo của chúng ta, và chúng ta hãy nhớ lại Lời Chúa: "Tất cả những gì anh
em làm cho một người bé nhỏ nhất trong các anh em Ta, là anh em đã làm cho
chính Ta" (Mt 25,40). Chúng ta hãy nhìn nhận trong mọi người sự có mặt của
Chúa Kitô. Mọi người đều là anh em mà chúng ta phải yêu mến một cách thật tình.
Bằng chính lời nói, hành động yêu thương mà chúng ta làm chứng cho tình yêu của
Chúa Kitô và thông hiệp với những người khác trong mầu nhiệm tình yêu của Cha
trên trời.
Có lẽ
ông bà anh chị em đã được nghe nói đến Đức Cha Jean Cassaigne, nguyên Giám Mục
Giáo phận Sài Gòn của chúng ta trước đây. Sau 15 năm làm Giám Mục Sài Gòn, Đức
Cha Jean Cassaigne đã tình nguyện về sống giữa những bệnh nhân phong cùi thân
yêu của ngài ở trại phong cùi Di Linh (Lâm Đồng), trong một ngôi nhà gỗ nhỏ
hẹp. Tuy không giữ một địa vị nào trước mặt xã hội, nhưng ngài thật là một người
bạn của người phong cùi, một chứng nhân của tình yêu Thiên Chúa, một con người
hy sinh phục vụ người phong cùi, chấp nhận mang lấy bệnh phong cùi của họ và
chết đi ở giữa họ.
Mười
tám năm trời, ngài sống trong thinh lặng giữa rừng núi thâm u, với những bệnh
nhân phong cùi, không mấy ai biết đến. Nhưng khi ngài mất đi vào năm 1973, mọi
người hay biết đều cảm phục tấm gương hy sinh anh dũng của ngài, ngài đáng được
gọi là: "Cha của người phong cùi".
Tấm
gương bác ái cao cả đó, không phải ai cũng có thể noi theo được, nhưng trước
mắt chúng ta, còn có những người, những tập thể mà chúng ta xa lánh kiểu dân Do
Thái thời Cựu Ước xa lánh người phong cùi. Có khi chúng ta đã gán cho họ những
nhãn hiệu thù nghịch, để rồi không bao giờ muốn tiếp xúc với họ, sợ mình trở
thành "cùi" như họ. Có khi chúng ta đã từ chối tiếp xúc, hợp tác với
cá nhân này hay tập thể nọ, chỉ vì họ không cùng tôn giáo hay lập trường với
chúng ta. Nếu chúng ta làm như vậy là chúng ta khinh thường, làm nhục sứ mạng
giao hòa mọi người mọi vật, sứ mạng mà Chúa Giêsu đã nhận lãnh từ Chúa Cha, đã
thi hành bằng cách hiến mạng sống mình, đổ đến giọt máu cuối cùng trong trái
tim của Ngài.
Trong
Thánh Lễ hôm nay, khi chúng ta tưởng niệm Mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của
Chúa Giêsu, mầu nhiệm là cho chúng ta được giao hòa với Chúa và với nhau, chúng
ta hãy xin Chúa giúp chúng ta luôn xa lánh tội lỗi để được hiệp thông với Chúa
và với anh em, biết sống quảng đại mối giao hòa với hết mọi người mà Chúa Giêsu
Kitô đã đem đến cho chúng ta.
14. Cứu
chữa khỏi bệnh phong hủi trong tâm hồn.
(Trích
trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm. Trần Ngà)
Thời
Chúa Giêsu, người mắc bệnh phong lâm vào hoàn cảnh vô cùng bi đát và thảm hại.
Cuộc sống của họ tồi tệ ngàn lần hơn cái chết. Thà chết phứt đi còn hơn là phải
chịu cái chết dần mòn trong đau đớn thể xác và khốn khổ về tinh thần. Nỗi đau
thương nhất mà người phong hủi phải gánh chịu là bị cách ly khỏi cha mẹ, bạn
trăm năm, con cái, những người thân yêu và hết thảy mọi người để sống trong sự
ghê tởm, ghẻ lạnh của người đời và kết thúc cuộc đời bằng cái chết cô đơn thảm
hại.
Bài
trích sách Lêvi được trích đọc trong phụng vụ hôm nay diễn tả phần nào tình
trạng thương tâm đó: "Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc,
che râu và kêu lên: "Ô uế! Ô uế!". Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế;
nó ô uế. Nó phải ở riêng ra, cách ly khỏi mọi người. Chỗ ở của nó là một nơi
riêng bên ngoài trại." (Lêvi 13, 45-46)
Tội lỗi
cắt lìa chúng ta khỏi thân mình Chúa Giêsu.
Tội lỗi
cũng y như một thứ bệnh phong hủi trong tâm hồn gây tác hại cho người lỗi phạm
không thua kém.
Giáo lý
công giáo dạy rằng bí tích thánh tẩy tháp nhập người tín hữu vào Thân Mình Chúa
Giêsu như cành nho được tháp vào thân nho và cũng như thân nho chuyển thông
nhựa sống nuôi cành thế nào thì Chúa Giêsu cũng chuyển thông sự sống thần linh
của Người cho các tín hữu như thế.
Bí tích
thánh tẩy làm cho "người tín hữu trở thành chi thể trong Thân Thể Chúa
Giêsu" (giáo lý công giáo số 1267), nhờ đó, sự sống vĩnh cửu của Chúa
Giêsu được thông ban cho họ y như sự sống của toàn thân châu lưu trong từng chi
thể.
Thế
nhưng, khi phạm tội trọng, người tín hữu tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa Giêsu như
cành nho bị chặt phăng khỏi thân nho, như bàn tay bị cắt lìa cơ thể.
Hậu quả
của việc cắt lìa nầy là họ trở nên như một cành nho khô héo, thành một bàn tay
đứt lìa, và vì thế, sự sống thiêng liêng của Thiên Chúa không còn được thông
ban cho họ nữa. Thân phận của họ lúc nầy còn tệ hơn cả thân phận người phong
hủi bị gạt ra khỏi gia đình, thôn xóm và cách ly với mọi người.
Chúa
Giêsu cứu ta khỏi tội và đưa ta hoà nhập lại với Hội Thánh.
Khi
"người bị phong hủi đến gặp Chúa Giêsu, anh ta quỳ xuống van xin rằng:
"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Chúa Giêsu chạnh
lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh sạch đi!" Lập
tức, chứng phong hủi biến khỏi anh, và anh được sạch." (Mc 1, 40-42)
Làm sao
tả hết nỗi mừng vui hoan hỉ của người phong được Chúa chữa lành. Anh ta reo lên
vui sướng và mặc dù Chúa Giêsu nghiêm cấm anh tiết lộ danh tánh Người đã cứu
chữa anh, nhưng niềm hạnh phúc trào dâng không thể nào kìm nổi đã khiến anh
phải cao rao cho mọi người biết hồng ân anh đã lãnh nhận. (Mc 1, 42)
Từ đây,
anh được thoát khỏi chứng bệnh quái ác và không còn bị cách ly với xã hội loài
người, được giã từ nơi cô tịch để về sum họp với gia đình, làng xóm, được đoàn
tụ với bao người thân yêu.
Hôm
nay, để cứu chúng ta khỏi tình trạng "cành lìa cây", "cánh tay
bị cắt lìa cơ thể" do tội lỗi gây ra, Chúa Giêsu lập nên bí tích giải tội
để nối kết chúng ta lại với Thân Mình Người, để cho sự sống thần linh của Người
tiếp tục truyền qua cho chúng ta như sự sống của thân nho chuyển thông cho
cành, như sự sống từ thân mình chuyển qua cho bàn tay.
Ngày
qua ngày, Chúa Giêsu vẫn trông chờ chúng ta ăn năn trở về như người cha chờ đợi
đứa con đi hoang, như mẹ hiền mong ước đứa con lưu lạc trở về. Người vẫn thao
thức tìm kiếm chúng ta như người chủ chiên đi tìm con chiên lạc rất yêu dấu.
Ước gì
chúng ta biết thành khẩn tìm đến với Chúa Giêsu như người mắc bệnh phong trong
Tin Mừng hôm nay, khiêm tốn quỳ xuống trước mặt Người và tha thiết van xin:
"Lạy Chúa, xin thanh tẩy linh hồn con nên trong sạnh. Xin cho con được
giao hoà với Chúa để sự sống của Chúa lại được thông truyền cho chúng
con."
15.
Loan báo Tin Mừng
Một
người tân tòng mới trở lại cùng Chúa, ngày kia có anh bạn láng giềng tới chơi
và hỏi: Anh biết được những gì về Đức Kitô? Người tân tòng trả lời: Có, tôi
biết nhiều lắm. Người bạn hỏi: Vậy Ngài sinh ra bao giờ, ở đâu và chết lúc bao
nhiêu tuổi. Trước những câu hỏi này, người tân tòng tỏ ra bối rối vì kiến thức
của anh về Đức Kitô còn non yếu. Cuối cùng người tân tòng bèn thú nhận: Phải,
về Đức Kitô thì tôi biết ít lắm, nhưng có điều này chắc chắn: Trước đây tôi nằm
đường nằm chợ, tôi say sưa be bét, nợ nần ngập đầu ngập cổ. Trước đây, vợ tôi
ít khi mỉm cười với tôi. Thấy bóng tôi là sợ hãi. Nhưng hôm nay, tôi là một
người đàn ông tiết độ, hết nợ và còn dư tiền để tậu một căn nhà mới. Hôm nay,
vợ tôi thường tươi cười với tôi. Đức Kitô đã làm cho tôi tất cả những điều ấy.
Đó là niềm tin tưởng và xác tín của tôi.
Tình
cảnh của người tân tòng này cũng phần nào giống với người phong cùi của đoạn
Tin Mừng sáng hôm nay. Anh không biết nhiều về Đức Kitô, nhưng anh tin chắc
Ngài đã chữa lành cho anh và anh ra đi loan truyền cho mọi người biết điều
đó...
Với
chúng ta cũng vậy, chúng ta phải nói cho mọi người biết những gì Đức Kitô đã
làm cho mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy lưu ý tới hành động của Chúa Giêsu.
Ngài không sợ bị nhơ bẩn, bị ô uế, trái lại Ngài đã giơ tay ra, đụng tới người
phong cùi và bỗng nhiên cơn bệnh của anh biến mất.
Ngày
hôm nay, Chúa Giêsu vẫn còn giơ tay ra đụng tới chúng ta và chữa lành chứng
bệnh phong cùi tâm hồn chúng ta là tội lỗi. Thực vậy, Ngài đụng đến chúng ta
qua Bí tích Giải tội, để chữa lành những ung nhọt tội lỗi. Ngài đụng đến chúng
ta qua Bí tích Thêm sức, để trao ban Thánh Linh và gia tăng sức sống. Và nhất
là Ngài không phải chỉ đụng đến chúng ta mà còn ngự vào tâm hồn chúng ta qua Bí
tích Thánh Thể. Rồi khi chúng ta đau yếu, Ngài đụng đến chúng ta qua Bí tích Xức
dầu để xoa đi những đớn đau phần hồn cũng như phần xác. Ngài giơ tay ra cho
những cô dâu và chú rể để giúp họ thánh hóa cuộc sống gia đình...
Chính
vì thế, chúng ta có thể mượn lời kinh chúc tụng của Mẹ Maria để cảm tạ hồng ân
Thiên Chúa. Ngài là Đấng toàn năng, đã làm cho tôi muôn việc trọng đại. Là
những người cha người mẹ, chúng ta phải nói cho con cái biết những gì Chúa đã
làm cho chúng ta và cho gia đình chúng ta nữa.
Tất cả
chúng ta, những Kitô hữu, cũng phải nói cho những người tin cũng như không tin,
bằng lời nói và bằng đời sống, những gì Chúa Giêsu đã làm cho chúng ta.
Có thể
chúng ta không biết nhiều về Đức Kitô, nhưng chúng ta biết chắc chắn rằng Ngài
đã làm chuyển biến, đã làm thay đổi để chúng ta được trở nên tốt lành và thánh
thiện hơn.
16.
"Vì loài người chúng tôi"
"Ngài
chạnh lòng thương, giơ tay sờ vào anh ta"
Như bị
một ma lực cuốn hút, người phong cùi cứ rẽ đám đông xấn tới, tiến lại gần Đức
Giêsu, mặc cho người ta nạt nộ quát mắng, ngăn cản anh. Và cũng bất chấp dư
luận, Đức Giêsu đã giơ tay ra đón và sờ vào anh ta. Theo phong tục Do Thái thời
Chúa (và bây giờ ở nhiều nơi vẫn còn như vậy), bệnh nhân phong bị cấm, không
được lui tới những xóm thôn, thị tứ, nơi những "người lành" cư ngụ.
Họ bị coi là "kẻ xấu xa" vì đã bị Thiên Chúa luận phạt ngay ở đời này
vì tội lỗi của mình. Họ bị loại trừ ra khỏi xã hội loài người, sống lang thang
vất vưởng như những bóng ma. Họ là những con ma sống, hay những xác chết còn
thở hí hóp. Họ phải la to lên cảnh báo khi có người tới gần họ. Ai cũng không muốn
"dây với người hủi". Nhưng Đức Giêsu đã giơ tay đón anh ta, sờ vào
anh ta. Khi đôi tay nhân lành chạm vào làn da "sượng sần và tê
điếng", lạ thay và cũng cao cả nhường bao! Làn da vô cảm ấy đã nhẵn nhụi,
hồng hào lành lặn trở lại. Ai nói được hết nỗi vui của anh. Nhưng Đức Giêsu lại
bảo anh phải gấp rút đi gặp các tư tế.
Đây là
một thủ tục cần thiết để người phong có thể hội nhập lại xã hội. Chứng nhận của
tư tế sẽ giúp cho gia đình anh, bạn bè anh, bà con lối xóm vui lòng đón anh trở
lại xã hội người. Cứu người phong khỏi bệnh, Chúa còn trả lại nhân phẩm cho
anh, cứu anh khỏi thân phận bị loại trừ, hất hủi.
Lệnh
truyền thứ hai của Chúa đối với người phong là anh ta không được kể chuyện mình
cho ai nghe. Chi tiết này xem ra mâu thuẫn với việc phải đi bẩm báo các vị tư
tế, và ý muốn cho anh hội nhập xã hội trở lại. Đương sự đã không thể giữ miệng
được lâu. "Vừa ra khỏi đó, anh đã bắt đầu rao truyền và tung tin đó khắp
nơi". Anh đã trở thành người rao giảng Tin Mừng cứu độ, bởi vì anh đã được
cứu độ, được giải phóng. Việc anh loan báo tin vui đã khiến Đức Giêsu không thể
công khai vào thành nào được. Chúa không muốn bị người ta xem Ngài là ông thầy
lang mát tay, Ngài không muốn gây một sự cuồng nhiệt nơi quần chúng. Cho dù làm
cho người ta hiểu đúng Tin Mừng của Chúa không phải là một điều dễ dàng.
Thánh
Gioan đã gọi các phép lạ của Chúa là những "dấu chỉ", Chứng tỏ vương
quốc tình yêu, công bình, hòa bình, hạnh phúc của Thiên Chúa đang đến với lịch
sử nhân loại. Qua các phép lạ, Chúa muốn chứng tỏ vì sao Chúa đến. Chúa đến
không phải để làm thầy lang, người trừ qủi, người giảng thuyết, mà là để chia
sẻ thân phận cùng khổ, tuyệt vọng của con người chúng ta, và để cứu chúng ta
khỏi mọi sự dữ. Như chúng ta vẫn thường tuyên xưng: "Vì loài người chúng
tôi và để cứu chuộc chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế".
17. Nếu
Thầy muốn, Thầy có thể chữa tôi.
(Suy niệm của Noel Quesson)
Người phong cùi quỳ xuống cầu xin Chúa: "Nếu Thầy
muốn, Thầy có thể chữa tôi".
Bác sĩ Collins là một người vô tín, có kiến thức cao,
ngày kia, gặp một bác nông dân đi lễ, ông lên tiếng hỏi:
- Bác đi đâu vậy?
- Tôi đi nhà thờ, thờ lạy Chúa.
- Chúa
của bác to hay nhỏ?
- Thưa
ông, Chúa rất lớn, đến mức các tầng trời không chứa nổi; nhưng Người cũng rất
nhỏ, có thể ngự nơi trái tim tôi.
Câu nói
của bác nông dân đã tóm gọn đầy đủ niềm tin vào Thiên Chúa: tin vào Chúa quyền
năng, có thể làm được mọi sự. Đồng thời cũng tin rằng Chúa yêu thương ta triệt
để, Người làm chủ trái tim ta. Người phong cùi kể trong Tin Mừng hôm nay đã cho
ta thấy một lòng tin như vậy.
Trong
xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu, người phong cùi là loại người đáng ghê tởm
nhất. Họ không được ở chung với cha mẹ anh em trong nhà, không được tiếp xúc
với dân làng. Họ phải sống thành nhóm riêng nơi mồ mả, chốn hoang vu. Mỗi khi
thấy ai tới gần, họ phải la lên: "Ô uế! ô uế!" để người ta biết mà
tránh xa họ. Luật Môsê cấm liên hệ với người phong cùi. Trò chuyện với họ là
phạm luật, chưa kể sự đụng chạm tới thân xác họ. Trong hoàn cảnh cách ly đó,
một người phong cùi đã nghe nói về Chúa Giêsu, anh tin tưởng Chúa có quyền cứu
anh. Anh đón đường đến quỳ trước mặt Chúa và van xin: "Nếu Thầy muốn, Thầy
có thể chữa tôi".
Chuyện
này xảy ra vào giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa Giêsu. Người ta chỉ
mới nghe đồn về Chúa như một dấu lạ xuất hiện, nhưng người phong cùi này hẳn
phải được ơn trên soi sáng, mới có được một lòng tin đặc biệt như vậy. Anh đón
gặp Chúa mà không sợ Ngài xua đuổi. Anh biểu lộ niềm tin, biết rõ Chúa có thể
chữa mình khỏi thứ bệnh nan y. Anh quỳ gối trước Chúa, tỏ lòng tôn sùng, một
thái độ người ta vốn dành cho thần linh, cho Thượng Đế.
Thấy
lòng tin của anh, Chúa xúc động thương cảm, giơ tay chạm vào người anh và nói:
"Ta muốn anh được khỏi". Chạm đến người phong cùi, Chúa đã phạm luật,
khiến một số người đang dò xét Chúa phải bực bội vì hành động này. Dĩ nhiên,
Chúa muốn thay đổi những lệch lạc trong luật. Chúa có quyền và đến để làm việc
đó. Nhưng ở đây, Chúa muốn tỏ ra Người đã hài lòng trước lòng tin vững mạnh của
người phong cùi. Tình yêu Chúa đã trao ban rộng rãi và có thể phát sinh những
hiệu quả kỳ diệu, khi con người tin tưởng mở rộng tâm hồn đón nhận.
Lạy
Chúa, xin ban Thánh Thần cho chúng con, nhờ Người soi sáng, chúng con luôn nhận
ra Chúa quyền năng và yêu thương đang hiện diện trong cuộc sống chúng con. Nếu
Ngài muốn, Ngài có thể chữa lành chúng con và những người anh chị em bệnh nạn
đang kêu cầu Chúa. Chúng con ngợi khen Ngài.
18. Cử
chỉ
So với
những cử chỉ lớn lao, thì những cử chỉ nhỏ bé lại có thể giúp chúng ta thấu
hiểu hơn về tính cách của một con người. Những điều lớn lao chứng tỏ cho chúng
ta về sức mạnh nơi một con người. Còn những điều nhỏ nhoi lại cho chúng ta thấy
được bản tính nhân loại nơi một con người. Chúng ta có được ví dụ rất tốt đẹp
này trong bài Tin Mừng hôm nay. Đó là cử chỉ của Đức Giêsu, qua việc Người đụng
chạm vào kẻ bị phong hủi, trước khi chữa lành cho anh ta. Mặc dù tự thân sự
đụng chạm là một điều nhỏ bé, nhưng trong bối cảnh này, đó là một việc làm lớn
lao. Chính những cử chỉ nhỏ bé giống như vậy, lại khẳng định được nhân cách và
giá trị của con người.
Ngày
nay, người ta không còn sợ hãi bệnh phong hủi như trước đây. nếu người nào bị
lây nhiễm căn bệnh này, mà được điều trị kịp thời, thì họ có thể hoàn toàn khỏi
bệnh, và không ai biết rằng họ đã từng bị mắc bệnh. Trong Kinh Thánh qua các
thời kỳ, bệnh phong hủi là một trong những căn bệnh đáng sợ nhất. Đối với dân
chúng thời đó bệnh phong hủi tương tự như căn bệnh AIDS đối với chúng ta ngày
nay.
Người
mắc bệnh phong hủi bị cấm không được sống chung với cộng đồng, để bảo vệ cho cả
cộng đồng khỏi bị lây nhiễm. Những người phong hủi cũng bị loại ra khỏi những
sinh hoạt tôn giáo, bởi vì họ bị coi là những kẻ không tinh sạch theo lễ nghi,
và không ai dám liên lạc với họ. Do đó, họ là những kẻ sống ngoài lề xã hội và
tôn giáo. Họ bị mọi người ruồng rẫy, khinh miệt và người ta tin rằng họ bị
chính Thiên Chúa cũng ruồng rẫy, khinh miệt nữa. Nếu muốn công bố là đã khỏi
bệnh, họ phải trải qua một lễ nghi thanh tẩy, trước khi được chấp nhận trở lại
với cộng đồng.
Đức
Giêsu biết tất cả những điều này. Tuy nhiên, Người đã vượt qua những cấm đoán
của xã hội và tôn giáo. Đức Giêsu cho phép người phong hủi lại gần Người. Thế
rồi Người đã làm một điều mà không ai ngờ. Người tiến đến gần, đụng chạm vào
người phong hủi, trước khi chữa lành cho anh. Tại sao Người lại dám làm một
điều mà lề luật cấm đoán? Sự đụng chạm đó cho thấy lòng thương xót lớn lao của
Đức Giêsu đối với người sống ngoài lề xã hội, kẻ tội lỗi và người đau khổ.
Người
đụng chạm vào người phong hủi, để có thể chứng tỏ rằng tất cả mọi sự đều tinh
sạch đối với người mà tự bản thân họ đã tinh sạch. Sự không tinh sạch bên ngoài
không hề làm mất đi sự tinh sạch của tâm hồn. Người đụng chạm vào anh ta, để
dạy cho chúng ta rằng không được khinh miệt bất cứ ai, và coi họ như là những
kẻ đáng thương, bởi vì nỗi đau đớn thể xác của họ. Người đụng chạm vào các
thương tích của con người, không phải để cho các thương tích đó có thể dính
chặt vào Người, mà là để Người có thể trừ khử chúng ta ra khỏi người đang bị
đau đớn.
Đối với
người phong hủi, cử chỉ đơn giản đó mang ý nghĩa của cả một thế giới. Nỗi đau
khổ tệ hại nhất của người phong hủi không phải là tự thân căn bệnh, mà là nỗi
đau đớn vì bị tất cả mọi người ruồng rẫy. Khi đụng chạm vào người anh ta, Đức
Giêsu đem đến cho anh một dấu hiệu của sự đón nhận, và sửa đổi nơi anh ý tưởng
rằng mình không tinh sạch, vô giá trị, không là gì cả, chỉ là một con người bỏ
đi mà thôi.
Đức
Giêsu đã có sự hiểu biết lớn lao, và có cảm xúc đối với những người đau khổ,
Oscar Wilde nói về điều này như sau;
"Đức
Giêsu đã thấu hiểu bệnh phong hủi của người phong hủi, sự tối tăm của người mù,
sự bất hạnh do thói tự mãn của những kẻ sống theo lạc thú, sự nghèo nàn đến kỳ
lạ của những kẻ giàu có, sự thèm khát có thể dẫn con người đến tình trạng uống
cả những giòng nước bùn lầy".
Đức
Giêsu nhấn mạnh đến khả năng thương xót của chúng ta. Người thách đố suy nghĩ
của chúng ta về lòng yêu mến. Mỗi người chúng ta đều có khả năng yêu thương lớn
lao. Thật đáng tiếc là chúng ta thường không sử dụng đến khả năng yêu thương
đó. Chúng ta có được khả năng này trong sức mạnh của chúng ta, để tiếp cận được
với những người đang phải chịu đựng nỗi đau đớn của cảnh bị ruồng rẫy. Chúng ta
có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang lại niềm say mê vui sống nơi người
khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được một cách mờ nhạt về lòng thương xót
vô biên của Thiên Chúa.
Khi
nhìn vào Đức Giêsu, chúng ta nhận ra được cách cư xử, mà một cộng đoàn Kitô hữu
nên có, đối với những kẻ tội lỗi và những người bị xã hội ruồng bỏ. Trong thời
đại của chúng ta, ai là những người phong hủi (sống ngoài lề xã hội)? Chúng ta
đã nhận biết được cách cư xử của Đức Giêsu đối với họ. Vậy chúng ta phải cư xử
với họ ra sao? Và theo mức độ con người, mỗi người chúng ta đều đã được Đức
Kitô thanh tẩy trong phép Rửa tội, và chúng ta cần phải loan truyền tin vui.
19.
Lòng từ ái
Trong
Kinh Thánh qua các thời kỳ, người ta tin rằng căn bệnh phong hủi rất hay lây
nhiễm. Vì lý do đó, những người phong hủi bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng
đồng. Người ta biết đến họ như là những người không thể đụng chạm vào được. Sự
hiện hữu của họ quả thật là lạnh lùng, cô độc. Họ phải sống xa cách với mái
nhà, gia đình và bạn bè của họ. Họ là những con người đã từng hòa mình trong
cuộc sống, thế mà hiện nay, họ không là gì cả. Cuộc đời của họ là một cái chết
sống động. Người ta tin rằng họ bị Thiên Chúa nguyền rủa. Người ta cho rằng họ
không chỉ là những kẻ bệnh hoạn, mà còn không tinh sạch nữa. Người đàn ông đang
tiến lại gần Đức Giêsu chính là loại người đó. Anh ta không được xuất hiện
trước công chúng, mà không rung chuông, hoặc không la to lên báo hiệu, để cho
mọi người cảnh giác. Anh ta có nguy cơ bị xua đuổi bằng những cục đá. Nhưng anh
ta quyết định đi gặp một người, mà anh ta tin rằng sẽ không xua đuổi anh.
Đức
Giêsu nhìn thấy người phong hủi đang lại gần, và cho phép anh ta tiến thẳng đến
với Người. Liệu Người có đụng chạm vào người phong hủi này không? Nếu Người sờ
tay vào người phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nếu Người không sờ tay vào người
phong hủi, thì Người sẽ nói gì? Nhận thấy tình trạng bi đát của anh ta, Đức
Giêsu đã động lòng thương, Người tiến lại gần và sờ vào anh. Đây là một hành
động biểu tượng, chắc chắn sẽ gây sốc cho những người xem. (Người ta nhận thấy
ở bắc Ailen, thậm chí ngay cả một cái bắt tay đơn giản, cũng có thể gây rắc
rối). Khi đụng chạm vào người phong hủi, thì Đức Giêsu đã tự biến mình thành
một người không tinh sạch. Hầu hết mọi người trong chúng ta đều e ngại người
đau yếu và người nghèo khổ. Chúng ta có thể cho người ăn xin một vài đồng lẻ,
nhưng chắc chắn chúng ta không hề có tương quan gì đối với họ. tuy nhiên, chúng
ta lại thích được đụng chạm vào. Chúng ta cảm thấy vinh dự, khi được một nhân
vật quan trọng nào đó bắt tay, hoặc vỗ vào lưng chúng ta.
Chắc
hẳn là sự tiếp xúc về mặt thể lý tạo cho mọi người, đặc biệt là những người đau
yếu và bị thương tật, một cảm giác nồng ấm và vui tươi. Chính khi đụng chạm vào
người khác, chúng ta cảm nhận được một cách chính xác về người đó. Đức Giêsu đã
đụng chạm vào những người phong hủi, tội lỗi, đau yếu và kẻ chết.
Bạn hãy
thử tưởng tượng xem người phong hủi cảm thấy sung sướng đến thế nào, khi Đức
Giêsu đụng chạm vào người anh ta. Trước hết, anh ta cảm thấy mình là một con
người. Thân xác của anh ta đã bị tổn thương sâu xa hơn – do cảm giác rằng mình
bị tất cả mọi người, kể ac Thiên Chúa, xua đuổi và bỏ rơi. Bằng cách đụng chạm
vào anh ta, Đức Giêsu đã chữa lành tinh thần bị tổn thương của anh ta. Thế rồi
người phong hủi nói "Thưa Ngài, nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi
được sạch".
Đức
Giêsu đáp: "Tất nhiên là tôi muốn". Và Người đã chữa lành cho anh.
Bây giờ, anh được chữa lành cả về thân xác nữa, hoàn toàn được lành lặn.
Nơi
người y bác sĩ, lòng từ ái hầu như là một điều quan trọng nhất đối với một bệnh
nhân. Khi người ta xuất viện sau một cuộc phẫu thuật hoặc một cơn bệnh, một
trong những điều mà người ta luôn phê bình, đó là về cách cư xử của các bác sỹ
và y tá.
Đức
Giêsu yêu cầu người phong hủi im lặng về việc chữa bệnh của Người. Nhưng người
này lại loan báo đi khắp mọi nơi về điều mà Đức Giêsu đã làm cho anh ta. Và anh
ta không chỉ nói về sự kiện Đức Giêsu chữa lành cho anh, nhưng anh ta còn nói
về tấm lòng từ ái và sự tôn trọng thật đáng kinh ngạc, mà Người đã cư xử với
anh.
Đức
Giêsu đưa bàn tay đầy yêu thương và chữa lành về phía một người hạ đẳng. Người
thách đố chúng ta – những kẻ đi theo Người – trong việc tiếp cận với những con
người mà ngày nay xã hội ruồng bỏ: các tù nhân, những người nghiện ma túy,
những lữ khách, các nạn nhân Aids...
Những
điều mà người ta có thể làm cho người khác thật đáng kinh ngạc. Người ta có thể
nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang đến niềm vui sống, thông truyền cảm hứng cho
những kế hoạch tương lai, phục hồi lòng tự trọng và tự hào. Thậm chí người ta
còn có thể phản ánh một cách lờ mờ về lòng từ ái vô biên của Thiên Chúa nữa.
20.
Phong cùi
Như
chúng ta đã biết, bệnh phong cùi là một chứng bệnh hiểm nghèo, rất khó chữa
trị. Nó làm cho người mắc phải, bị đau đớn nhức nhối, và trở nên hôi thối. Nó
gậm nhấm các chi thể, làm cho các chi thể bị băng hoại, chết dần chết mòn và
sau cùng bị rơi rụng.
Hơn thế
nữa, nó còn là một chứng bệnh rất hay lây, vì thế người ta thường cô lập những
kẻ mắc phải chứng bệnh này ở một nơi riêng rẽ, không cho tiếp xúc với thế giới
bên ngoài.
Hình
ảnh của bệnh phong cùi cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho tội lỗi. Bởi vì
tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta trở nên xấu xa và hôi thối dưới mắt Thiên
Chúa. Nó cũng làm cho tâm hồn chúng ta bị băng hoại và sau cùng giết chết sự
sống của Thiên Chúa, sự sống của ơn sủng trong chúng ta. Đồng thời, tội lỗi còn
là như một chứng bệnh truyền nhiễm, do gương mù gương xấu của chúng ta mà nó sẽ
lây lan sang những người chung quanh.
Thế
nhưng có một điều bi đát, đó là đối với những kẻ mắc phải chứng bệnh phong cùi,
thì như tôi vừa nói, người ta thường để họ sống biệt lập tại một nơi hoang
vắng, hay trong những trại riêng biệt, hầu giới hạn sự lây lan của nó.
Còn tội
lỗi thì khác, nó đang ở giữa chúng ta, trà trộn vào trong chúng ta, thế lực và
ảnh hưởng của nó mỗi ngày một bành trướng, nó tràn ngập khắp nơi, từ thôn quê
cho tới tỉnh thành, không chỗ nào mà không có dấu vết của nó, để rồi con người
thời nay đã đánh mất ý thức về nó. Họ coi phạm tội là một chuyện bình thường,
như ăn một chén cơm, uống một ly nước.
Riêng
với chúng ta thì sao? Sau khi đã nhận biết sự nặng nề và xấu xa của tội lỗi là
như thế, chúng ta hãy có lấy một điều dốc quyết và kiên trì thực hiện điều dốc
quyết ấy, đó là thà chết chẳng thà phạm tội mất lòng Chúa.
Hẳn
chúng ta còn nhớ câu chuyện về vua thánh Louis, ngày kia ngài cùng với một số
quan chức đi thăm một trại cùi. Ngài hỏi một viên đại thần. Nếu ngươi được phép
chọn lựa: Một là phạm tội trọng hai là mắc chứng bệnh phong cùi thì ngươi sẽ
chọn đường nào.
Viên
đại thần trả lời: kẻ hạ thần thà phạm một trăm tội trọng chứ chẳng thà mắc phải
chứng bệnh ghê tởm ấy.
Thế
nhưng nhà vua đã nói với ông ta: Còn trẫm, thà rằng trẫm mắc phải chứng bệnh
ghê tởm gấp trăm lần chứ chẳng thà phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cố gắng
xa tránh tội đã đành, còn khi trót phạm tội, chúng ta phải làm gì? Tôi xin
thưa, hãy giục lòng thống hối ăn năn, như vua thánh Đavid ngày xưa: Lạy Chúa,
xin thương xót con, vì con đã vấp phạm đến Chúa, rồi sau đó thi hành ngay
phương thế mà Chúa Giêsu đã chỉ cho người phong cùi.
Phương
thế ấy như thế nào: Con hãy đi trình diện cùng tư tế. Phải chăng mỗi khi chúng
ta phạm tội, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta rằng: Con hãy đi gặp linh mục
nơi tòa giải tội.
Bởi vì
như chúng ta đã biết, bí tích Giải tội chính là bí tích của lòng thương xót,
nhờ đó mà chúng ta sẽ được Chúa tha thứ. Và tòa giải tội chính là nơi để chúng
ta gặp gỡ và làm hòa cùng Thiên Chúa.
Có một
người khô khan nguội lạnh, tới gặp một vị linh mục và nói: Thưa cha con tội lỗi
nặng nề lắm, chỉ có một cách là thắt cổ chết quách đi cho rồi. Vị linh mục dẫn
người đó tới chân tượng thánh giá và hỏi:
Ai chịu chết trên đó?
- Thưa, Chúa Giêsu.
Tại sao Ngài lại chịu chết?
- Thưa, để cứu chuộc nhân loại.
Vậy
trong nhân loại có con hay không?
- Thưa,
có.
Thế là
người đó thêm niềm cậy trông, giục lòng ăn năn, xưng thú tội lỗi và tìm lại
được sự bình an cho tâm hồn.
Hãy xa
tránh tội lỗi để tâm hồn được bình an, đồng thời hãy ăn năn sám hối để lấy lại
được tình nghĩa của Chúa.
21.
Phong cùi
Bệnh
phong cùi ngày nay không còn là một chứng bệnh nan y, nếu được chữa trị theo
đúng phương pháp. Số người mắc bệnh cùi ở Việt Nam vẫn còn nhiều, khoảng 20.000
người. Họ thường phải sống ở những nơi xa xôi hẻo lánh. Đa số bệnh nhân bị tật
nguyền, không thể mưu sinh. Nói chung, họ luôn thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu nhà ở
cũng như thiếu tình thương chăm sóc.
Phần
lớn trong họ chưa biết Chúa, nên trước những đau khổ thân xác và tinh thần, họ
dễ rơi vào cảnh tuyệt vọng. Đã có những tấm lòng nhân hậu, noi gương Chúa
Giêsu, cúi xuống trên nỗi bất hạnh của họ. Chẳng hạn các tu sĩ nam nữ, các giáo
dân thiện chí tại những trại phong cùi, rải rắc trên toàn đất nước.
Thế
nhưng, trong bối cảnh của xã hội Do Thái cách đây hơn 2000 năm, thì phong cùi
quả là một chứng bệnh khủng khiếp. Họ bị đồng hóa với những kẻ bị Thiên Chúa
trừng phạt. Kiếp sống của họ thật đáng thương. Họ phải mặc quần áo tả tơi, tóc
tai phải bù xù, râu mép phải che lại. Họ bị xua đuổi khỏi cộng đoàn, sống tách
biệt trong những nơi hoang vắng và nếu có đi tới đâu, thì phải kêu lớn tiếng:
Tôi nhơ bẩn, để người khác nghe thấy mà tránh cho xa. Người mắc bệnh phong cùi
như thế bị coi như là một người đã chết ngay khi còn đang sống. Họ chỉ là như
một thây ma biết di động mà thôi.
Đoạn
Tin Mừng sáng hôm nay kể lại câu chuyện một người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu.
Anh ta đã làm một điều táo bạo vượt ra ngoài luật lệ cho phép. Điều duy nhất
khiến anh ta có can đảm để làm như vậy, đó là lòng tin vào Chúa Giêsu, một
người mà anh đã được nghe nói đến. Anh ta không sợ mình làm cho Ngài bị nhơ
bẩn, nhưng anh ta hy vọng chính Ngài sẽ làm cho anh được sạch. Lòng tin này
khiến anh quỳ gối xuống trước mặt Ngài và kêu van:
- Nếu
Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi nên sạch.
Tất cả
ước mơ của anh là được khỏi bệnh, trở nên lành sạch, được làm một con người
bình thường, nối lại những liên hệ với xã hội. Anh tin là Ngài có thể làm được
chuyện lớn lao đó, miễn là Ngài muốn.
Trước tình
cảnh bi đát này Chúa Giêsu đã động lòng thương, Ngài đã đưa tay ra đúng vào con
người anh ta. Và Ngài trả lại cho anh ta toàn bộ những gì đã mất. Chúa Giêsu
không ngại nhơ bẩn, bởi vì Ngài đã để cho lòng thương xót trào dâng.
Đoạn
Tin Mừng trên đòi chúng ta phải thay đổi thái độ đối với những kẻ bất hạnh. Nếu
hiểu phong cùi là chứng bệnh hiểm nghèo làm cho nên ghê tởm, thì trong xã hội
còn biết bao nhiêu thứ phong cùi khác nữa. Chẳng hạn những người nghiện ma túy,
những người trộm cắp từng vào tù ra khám, những người mắc bệnh Siđa... Chúng ta
dễ có thái độ coi thường và xa tránh. Nhiều khi họ muốn trở nên lành sạch, muốn
mọi người quên đi cái dĩ vãng lầm lỡ của họ và làm lại cuộc đời, nhưng chúng ta
lại không tin là họ có thể thực hiện được điều ấy. Chúng ta phê phán cái bề dầy
của dĩ vãng, chúng ta khinh bỉ và chê trách họ.
Chúa
Giêsu đã đưa tay động tới người phong cùi và chữa lành cho anh ta. Ước mong
phép lạ Chúa Giêsu ngày xưa được kéo dài bằng thái độ yêu thương và chăm sóc
của chúng ta.
22.
Bệnh phong
Có một
hòn đảo nằm chơi vơi giữa biển Thái Bình Dương mênh mông, trên đảo chỉ toàn là
những người phong: cụt tay, đứt chân, mắt đui, mày lở, răng rụng... Một hôm,
Đức giám mục phụ trách quần đảo này gióng tiếng kêu gọi các linh mục ở Âu Châu
hãy tình nguyện hy sinh sang đó phục vụ. Một linh mục trẻ, đẹp trai, thông
minh, khoẻ mạnh đã hăng hái đáp lời, đó là cha Đa-Miêng, sau này được tặng thêm
biệt danh "Tông đồ người phong".
Khi đặt
chân đến hòn đảo này, cha Đa-Miêng đã được tiếp đón và giới thiệu như sau:
chiều hôm đó, trong ngôi nhà thờ rất đông người phong, đức giám mục đứng trên
bàn thờ quay xuống giới thiệu với mọi người: "Các con thân mến, các con
hằng mong ước có một linh mục đến ở cùng các con, yêu thương săn sóc các con,
thì đây cha Đa-Miêng, một linh mục người Bỉ sẽ sống chung với các con từ nay
cho đến chết, các con có sung sướng không?" Cả nhà thờ xôn xao, thì thầm
to nhỏ. Cha Đa-Miêng đứng cạnh Đức Giám Mục chẳng hiểu họ nói gì. Rồi họ từ từ
bước lên cung thánh, dáng điệu chất phác đơn sơ. Cha Đa-Miêng thấy họ đến gần
mình thì sởn tóc gáy và nổi da gà, trông họ như những thây ma còn sống, như
những quái thai mất hẳn dáng người. Họ làm gì đây? Họ tiến đến bên cha, người
thì sờ vào mặt, người thì sờ vào tay, người thì sờ vào áo cha.. Cha hỏi đức
giám mục: "Thưa đưc cha, họ làm gì vậy?" Đức cha trả lời: "Họ
nói họ không thể tưởng tượng được một người ở phương xa, chẳng bà con huyết
thống gì với họ, trẻ trung, đẹp trai, không bệnh tật như họ, tự nhiên lại đến
phục vụ họ trên mảnh đất cùng khốn này, họ không tin mắt mình nên họ đến sờ mó
vào người cha, xem cha có bị phong như họ không, và họ nói với nhau:
"Không, cha đẹp quá, cha không bệnh tật gì cả, cha thương chúng ta
quá".
Sống
với những người phong ở đây được một thời gian, dần dần Cha Đa-Miêng hòa đồng
được với họ, nói tiếng của họ, cha không còn cảm thấy tởm gớm họ như những ngày
đầu mới đến, nói đúng hơn, cha đã quá yêu Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong họ, nên
chẳng còn thấy ghê sợ gớm tởm nữa. Một ngày kia đến lượt cha cũng mắc bệnh
phong, thân mình lở loét, nhức nhối, mặt mày sần sùi, đen đủi, trông rất dễ sợ.
Một số báo ở Bỉ đăng hình cha và kể lại sự hy sinh vĩ đại của cha. Thân mẫu của
cha, mắt mờ không đọc được, nhìn vào bức hình bà cũng chẳng nhận ra nổi đứa con
yêu, bà hỏi đứa cháu: "Hình ai đây mà trông ghê sợ vậy?" cô cháu trả
lời: "Một người phong bên đảo Môlôkai của cha Đa-Miêng đấy". Qua mắt
được bà cố, nhưng họ lại nhìn nhau và không ai bảo ai, tất cả đều xót xa rơi
lệ. Cha Đa-Miêng đã sống với người phong trên hòn đảo này cho đến chết, tình
yêu Chúa đã giúp cha hy sinh suốt đời vì họ.
Phong,
hủi hay cùi cũng là một thứ bệnh. Đã có lần nào anh chị em gặp một người phong
cỡ nặng chưa? Mời anh chị em vào trại phong Di Linh, Quy Hòa, Bến Sắn... anh
chị em sẽ thấy một người phong nặng, không còn hình tượng gì là con người nữa,
tứ chi rụng hết, mặt mũi sần sùi, thân mình lở loét. Có người đến đây không
chịu nổi sự dơ bẩn đã té xỉu vì hôi thối nặng mùi. Chắc chắn ai trong chúng ta
cũng sợ mắc phải chứng bệnh như thế, chúng ta sẽ tránh xa và gìn giữ vệ sinh
cẩn thận kẻo mắc thứ bệnh này.
Cũng
vậy, bệnh phong đối với xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu bị kể là dơ bẩn, một
loại không thánh nữa, bị cô lập riêng ra một nơi, không được ở chung với dân
làng, ngay cả cha mẹ thân nhân cũng không được chứa người đó trong nhà. Một
người phong thời Chúa Giêsu là một nạn nhân thật sự bị ruồng bỏ, đi đâu người
đó cũng phải lắc chuông loặc kêu lên "dơ, dơ" để mọi người biết mà
tránh xa... Đau khổ nhất là bị cộng đồng Do Thái giáo gạt ra ngoài như một loại
dứt phép thông công, cho nên, người mắc bệnh phong hết sức đau khổ về tinh thần
cũng như thể xác, về của ăn họ chỉ sống nhờ của bố thí.
Nhưng
trong câu chuyện Tin Mừng kể lại, chúng ta thấy người phong này đã đi vào xóm
làng, chạy theo Chúa Giêsu và xin Ngài cứu chữa. Làm như thế là người này đã vi
phạm luật lệ thời đó và có thể bị ném đá chết. Nhưng niềm tin vào Chúa đã khiến
anh không sợ hãi để liều mình như thế. Thực vậy, anh đến với Chúa với một niềm
tin tuyệt đối, anh khiêm nhường quỳ xuống van xin: "Lạy Ngài, nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch". Chúng ta hãy để ý câu anh nói
"Nếu Ngài muốn", anh nói như thế không phải là anh hồ nghi gì quyền
năng của Chúa, mà ngược lại, anh hoàn toàn tùy thuộc vào Chúa. Nói rõ hơn, anh
biết rằng Chúa có thể và Chúa có quyền làm cho anh khỏi bệnh, nhưng điều đó còn
tùy ý Chúa, tùy lòng thương xót của Chúa. Đây cũng là gương mẫu nhắc nhở chúng
ta mỗi khi cầu xin Chúa điều gì: xin vâng, xin tùy ý Chúa, xin tùy lòng thương
xót của Chúa.
Đàng
khác, người Do Thái hết sức khinh bỉ những người phong, đến nỗi bất cứ ai giao
tiếp cách nào với họ, như nói chuyện với họ thôi, cũng bị kể là dơ bẩn và không
nên thánh được. Thế mà Chúa Giêsu đã nói chuyện và đụng chạm đến người phong
này để chữa lành anh ta thì đủ nói lên lòng thương xót của Chúa như thế nào. Có
những phép lạ Chúa chỉ phán một lời hay chỉ làm một cử chỉ nào đó, ở đây Chúa
dùng cả hai: Chúa vừa nói "Tôi muốn, anh sạch đi" vừa cầm tay bệnh
nhân để nói lên tình thương của Ngài đối với anh ta.
Đây
cũng là điều nhắc nhở chúng ta: những người phong là những người đáng thương,
chúng ta đừng bao giờ sợ hãi mà xa tránh, nhưng hãy thật lòng thăm hỏi và cố
gắng chia sẻ, giúp đỡ tùy theo điều kiện và hoàn cảnh của chúng ta.
23. Sự
chấp nhận
Chắc
hẳn rằng bệnh phong hủi là một căn bệnh khủng khiếp, nhưng không khủng khiếp
bằng cảm giác không được yêu thương, không ai mong muốn mình bị ruồng bỏ. Một
trong những điều tệ hại nhất có thể xảy ra cho một con người, đó là bị xua
đuổi. Sự xua đuổi gây tổn thương cho bất cứ cảm xúc hoặc tâm trạng nào khác.
Điều này làm tổn hại đến giá trị bản thân, khiến cho người ta cảm thấy mình vô
giá trị. Sự xua đuổi còn làm cho người ta muốn co rút lại hoặc công khai nổi
loạn. Trong một bộ lạc ở Châu Phi, có một hình phạt chủ yếu là tẩy chay.
Sự xua
đuổi gây tác hại đối với trẻ con, người lớn tuổi, người tật nguyền... Đối với
một đứa trẻ, tình trạng bị cha mẹ bỏ rơi tương đương với cái chết. Người lớn
tuổi sợ hãi bị bỏ rơi, còn hơn là tất cả những bệnh tật của họ. Những vết
thương nặng nề nhất gây ra cho người bị tật nguyền, không phải là do những hạn
chế của họ về mặt thể lý hoặc tâm lý, nhưng là do tình trạng bị bỏ rơi mà họ đã
từng trải qua. Những người làm công việc sáng tạo (các nhà văn, nghệ sĩ v.v...)
đều là những người nhạy cảm, dễ cảm thấy đau khổ, bất chấp những thành công mà
họ đã đạt được. về một phương diện nào đó, mỗi người chúng ta đều đã từng cảm
thấy nỗi đau bị khước từ.
Có
những cách để tự cô lập mình khỏi tình trạng bị khước từ – phiêu lưu đôi chút,
không muốn (không cần) gì cả, tránh né các mối quan hệ. Dường như tốt hơn là
nên xây dựng những bức tường, và tránh né các mối quan hệ, hơn là liều mình
chịu đau khổ vì bị khước từ. Nhưng điều này cũng giống như việc cưa chân đi, để
khỏi cần phải mang giày.
Người
đàn ông tiến lại gần Đức Giêsu là một người đã bị ruồng bỏ. Vì là một người
phong hủi, nên anh ta bị bắt buộc phải sống bên ngoài cộng đồng. Thậm chí người
ta còn không được đụng chạm vào anh ta. Vào thời kỳ đó, bệnh tật bị coi như một
sự trừng phạt vì tội lỗi. Do đó, người ta coi người phong hủi cũng bị cả Thiên
Chúa ruồng bỏ. Nỗi đau khổ tệ hại nhất của người phong hủi không phải là căn
bệnh phong hủi, nhưng chính là nỗi đau bị tất cả mọi người ruồng bỏ.
Khi
chúng ta khước từ người nào, là chúng ta đang thực sự cư xử với họ giống như
những "người phong hủi", mặc dù chúng ta không ý thức về điều đó.
Chúng ta có thể khước từ một người, theo những cách thế nhỏ bé nhưng tinh tế –
bằng một giọng nói hoặc thậ chí chỉ bằng một cái nhìn của chúng ta. Nhưng những
chuyện khó chịu nhỏ nhặt do bị khước từ, lại có thể tích lũy thành những hậu
quả trầm trọng lâu dài.
Điều
thú vị không phải là việc Đức Kitô chữa lành người phong hủi, nhưng là cách
Người chữa lành cho anh ta. Vì bị tất cả mọi người loại trừ và ruồng bỏ, nên
những kẻ phong hủi bắt buộc phải rung chuông báo hiệu mọi người, mỗi khi người
đó ra đường; không một ai muốn đến gần họ, vì sợ bị lây nhiễm, và bị qui cho là
không tinh sạch.
Nhưng
Đức Giêsu lại bỏ qua tất cả điều này. Người đã động lòng thương, khi nhìn thấy
hoàn cảnh khó khăn của người phong hủi. Đức Giêsu cho phép người đó đến gần
Người. Thật ra Người đã làm một điều mà không ai ngờ: Người tiến lại gần và
đụng chạm vào anh ta. Bằng cách đó, Người đem đến cho anh một dấu hiệu đón
tiếp, và chấn chỉnh nơi anh ta ý tưởng rằng mình là người dơ bẩn, không xứng
đáng, và không là gì cả, mà chỉ là một hạng người thừa. Trước khi chữa lành cho
thân xác tan nát của anh, Người đã chữa lành sự nhận thức đầy mặc cảm nơi anh.
Đức
Giêsu chấp nhận người phong hủi đúng theo con người của anh. Sự chấp nhận là
một câu trả lời cho sự khước từ. Đây là một trong những điều thân ái nhất có
thể xảy ra cho chúng ta. Khi chấp nhận, chúng ta có cảm giác rằng con người
mình có giá trị.
Mỗi
người chúng ta đều khát khao được chấp nhận con người của mình. Chính sự quí
mến và chấp nhận của người khác, làm cho chúng ta được là con người duy nhất
theo đúng bản chất của mình. Khi chúng ta cho rằng mình làm việc chỉ vì công
việc, rằng người khác cũng có thể làm cùng một công việc đó, thậm chí còn tốt
đẹp hơn chúng ta, thì chúng ta không phải là con người duy nhất. Nhưng khi
chúng ta chấp nhận con người của mình, thì chúng ta có khả năng nhận ra được
đầy đủ tiềm năng nơi bản thân mình.
Đây là
cách Đức Giêsu chấp nhận người phong hủi, và chấp nhận chúng ta. Và đến lượt
mình, đây cũng là cách thế mà chúng ta phải học hỏi, để biết chấp nhận người
khác, và tiếp cận với những người đang phải chịu đựng nỗi đau khổ tình trạng bị
khước từ. Đến lượt mình, chúng ta phải có thể nhen nhúm lại niềm hy vọng, mang
lại niềm say mê vui sống nơi người khác, và rồi từ đó, chúng ta phản ánh được
một cách mờ nhạt về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa.
24. Đức
Giêsu chữa một người phong hủi
(Lm.
FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Tác giả
đã đặt câu truyện này vào thời gian Đức Giêsu thi hành sứ vụ tại Galilê. Chúng
ta chỉ biết tổng quát như thế nhờ c. 39. So sánh với hai tác giả nhất lãm kia
(Mt 8,2-4; Lc 5,12-16), chúng ta cũng thấy bối cảnh không rõ ràng. Mỗi tác giả
đã kể lại câu truyện này theo những bận tâm thần học của mình mà thôi. Trong TM
Mc, với mẩu truyện cuối cùng này của ch. 1, hành động quyền lực của Đức Giêsu
đã đạt tới đỉnh cao nhất, vì Người chữa lành được bệnh phong hủi.
2.- Bố
cục
Bản văn
này có ba phần:
1) Chữa
lành người phong hủi (cc. 40-42);
2) Lệnh
cấm nói và trình diện tư tế (cc. 43-44);
3) Biến
cố được phổ biến và hậu quả (c. 45).
3.- Vài
điểm chú giải
- người
bị phong hủi (40): Sách Lêvi đã nói đến chứng bệnh này trong ch. 13–14: bệnh
lây lan đặc biệt nguy hiểm, cũng là hình phạt dành cho tội lỗi. Chính vì thế,
người ta không nói "chữa lành" nhưng là "được thanh tẩy (làm cho
sạch)" khỏi bệnh phong hủi. Ta hiểu được một lối chơi chữ trên hai từ
Híp-ri nâga' ("nó đánh") và nega' ("đòn đánh"; "vết
phong hủi"; "người mắc bệnh phong hủi") (x. 2 V 15,5; 2 Sb
26,19-20; Is 53,4.8).
Người
tôi tớ của Đức Chúa được mô tả như người phong hủi (Is 53,3-5). Nhìn thấy
Người, dân chúng tưởng Người đã phạm tội (x. G 4,7tt; 8,13tt; 2,7-8). Vị ngôn
sứ không phủ nhận nguyên nhân là tội, nhưng đây là tội của dân.
Từ đó,
ta hiểu vì sao xử lý những ca bệnh phong hủi được dành cho các tư tế: các vị là
những nhà chuyên môn phân biệt được các dạng bệnh, và chỉ các vị mới đưa người
đã lành bệnh tái tháp nhập cộng đồng dân Chúa bằng nghi lễ thanh tẩy (x. Lv 13;
14,19; Đnl 24,8).
Tuy
nhiên, nếu đúng là bệnh phong thì người ta coi là chỉ có Thiên Chúa mới chữa
được, bởi vì cũng giống như gọi một người chết về lại với cuộc sống. Thiên Chúa
cũng có ban quyền chữa bệnh phong cho những ngôn sứ lớn, như Môsê (Ds 12,9-14;
x. Xh 4,6-8) và ngôn sứ Êlisa (2 V 5,9-14). Vậy, người ta còn có thể chờ đợi ai
chữa bệnh phong hủi trong tương lai, nếu không phải là chờ đợi Đấng Mêsia (x.
Mt 11,5)?
- Người
chạnh lòng thương (41) (HL. splanchnistheis, partic. aorist của động từ
splanchnizomai do từ ta splanchna, lòng dạ): "bị rúng động"; "bị
chuyển động trong lòng".
- giơ
tay đụng vào anh: Hành vi này là tiêu biểu của một cuộc chữa lành bằng uy
quyền. "Đụng" đây không phải là vi phạm quy định của luật lệ Do Thái
liên hệ đến sự trong sạch, nhưng là chuyển thông sức mạnh chữa lành.
- Người
nghiêm giọng ("làm gắt", NTT) (43): Động từ Hy Lạp embrimaomai,
"khịt khịt" (ngựa); "phát tiếng hừ hừ do cơn giận dữ trong
lòng" (người). Đức Giêsu cho hiểu rằng Người vừa làm một việc ngoại lệ là
chữa bệnh công khai, ngược lại với quyết định của Người. Do đó, Người
"đuổi" anh này đi ngay để người ta đừng hiểu sai sứ mạng của Người.
Động từ embrimaomai không có từ tương đương trong ngôn ngữ Tây phương (TOB:
s'irritant; BJ: en le rudoyant; NAB: warning him sternly; Mann: sent him away
with the stern warning).
- để
làm chứng cho người ta biết ("để làm chứng trước mặt họ", NTT) (44):
Có những người cho rằng câu này nhắm đến dân chúng (chẳng hạn, cha Lagrange:
"pour l'attester au peuple"). Nhưng hiểu như thế có phần ép bản văn.
Quả thật, Đức Giêsu bảo người phong đến trình diện tư tế và nhắc anh phải dâng
một hy lễ đúng theo Lv 14,1-32, nhưng theo ý nghĩa minh nhiên của bản văn, đại
danh từ quy về các tư tế. Việc chuyển đi từ số ít sang số nhiều được giải thích
là: việc làm chứng sẽ vượt quá cá nhân vị tư tế chứng thực, để đến với toàn
giai cấp tư tế. Như thế, Đức Giêsu đã giao cho anh này một sứ mạng phải thực
hiện nơi các tư tế (x. Mc 5,19): việc chữa lành người phong hủi là một dấu chỉ
thiên sai. Vì chiếu cố đến họ, Đức Giêsu đã miễn chuẩn lệnh truyền về bí mật
thiên sai.
4.- Ý
nghĩa của bản văn
* Chữa
lành người phong hủi (40-42)
Với bài
tường thuật Đức Giêsu chữa người phong hủi để kết thúc ch. 1, Mc đưa hành vi
quyền lực của Đức Giêsu tới tuyệt đỉnh. Bệnh phong được người Do Thái coi như là
một chứng bênh đặc biệt trầm trọng. Lời khẩn cầu của người bệnh chứng tỏ một
niềm tin tưởng phi thường: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được
sạch" (c. 40). Anh ta gán cho ý muốn của Đức Giêsu một quyền lực to lớn.
Lời khẩn cầu này cũng vừa là một thách đố vừa chứng tỏ lối xử sự trước đây của
Đức Giêsu đã gây ra ấn tượng nào và thức tỉnh những niềm chờ mong nào. Đức
Giêsu hành động như Thiên Chúa: chỉ cần Người muốn một điều là điều ấy được
thực hiện. Người phong hủi được chữa lành tức khắc.
* Lệnh
cấm nói và trình diện tư tế (43-44)
Đức
Giêsu đã gửi anh đi trình diện với các tư tế, để các vị này ghi nhận bệnh đã
lành và để cho kẻ trước đây bị loại trừ nay được chấp nhận vào lại trong cộng
đồng mà chia sẻ cuộc sống và hiệp thông vào nền phụng tự của anh em mình. Đức
Giêsu từ chối mọi thứ quảng cáo ầm ĩ và cấm người đã khỏi bệnh nói về chuyện
mình được chữa khỏi.
* Biến
cố được phổ biến và hậu quả (45)
Tuy
nhiên, anh này không tuân theo lệnh của Đức Giêsu, anh đã rao truyền khắp nơi
những gì đã xảy ra cho anh. Do đó, danh tiếng của Đức Giêsu càng lan rộng hơn
nữa và tiếp tục làm gia tăng lòng tin tưởng vào Người: dân chúng từ khắp nơi
tuôn đến với Người. Thật ra, các hành vi quyền lực của Đức Giêsu không có ý
nghĩa tối hậu nơi sự kiện là có người bệnh nào đó được khỏi. Ý nghĩa của các
hành vi đó là cho thấy rõ ràng quyền lực cao vời của Thiên Chúa, thấy rằng
Triều Đại Thiên Chúa đang đến gần, để mọi người có thể tin vào Người.
+ Kết
luận
Chữa
bệnh phong hủi là một dấu chỉ thiên sai. Mục tiêu Mc nhắm là cho thấy Đức Giêsu
đến loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, làm chứng về quyền chúa tể của Thiên
Chúa đang tìm cách cứ độ con người. Tuy nhiên, ơn cứu độ Người hứa ban không
phải là một ơn cứu độ phi nhân, trái lại được gửi đến cho trọn vẹn con người. Thiên
Chúa đã làm điều đó nơi Đức Giêsu, Đấng có một trái tim biết thương cảm.
5.- Gợi
ý suy niệm
1. Như
người bệnh của bài Tin Mừng, chúng ta được lưu ý: không ép buộc Thiên Chúa luôn
luôn phải sẵn sàng trợ giúp chúng ta và theo cách chúng ta quy định. Chúng ta
cứ bày tỏ với Ngài tình cảnh khốn cùng của chúng ta, rồi để Ngài định
liệu:"Nếu Ngài muốn".
2.
"Người phong cùi này cung cấp cho chúng ta một lời khuyên rất tốt về cách
cầu nguyện. Anh không nghi ngờ ý muốn của Chúa, y như thể anh không muốn tin
vào sự tốt lành của Người. Khi nói rằng nếu muốn, Chúa có thể thanh tẩy anh,
anh khẳng định quyền lực ấy thuộc về Chúa, đồng thời khẳng định đức tin của
anh... Nếu đức tin yếu, đức tin trước tiên phải được củng cố. Chỉ khi đó đức
tin mới cho thấy tất cả quyền lực của mình là đạt được việc chữa lành tâm hồn
và than xác.
Có lẽ
Tông Đồ Phêrô đã nói đến đức tin đó khi bảo: "Người đã dùng đức tin để
thanh tẩy lòng họ" (Cv 15,9)... Đức tin tinh tuyền, được sống trong tình
yêu, được duy trì nhờ sự nhẫn nại, kiên nhẫn trong chờ đợi, khiêm nhường cách
khẳng định mình, cương quyết trong niềm tin tưởng, đầy trọng kính trong lời cầu
nguyện và đầy khôn ngoan trong những gì cầu xin, đức tin này chắc chắn trong
mọi hoàn cảnh được nghe lời này của Chúa: 'Tôi muốn'" (Thánh Paschase
Radbert (?-khoảng 849), đan sĩ Biển đức).
3.
Chúng ta học nơi Đức Giêsu sự kín đáo trong việc phục vụ. Như Đức Giêsu, người
Kitô hữu phục vụ, cứu chữa, vì lòng mình cảm thương sâu sắc nỗi khốn cùng của
anh chị em mình, chứ không phải để chứng tỏ bản thân. Người Kitô hữu phục vụ vì
lòng chan hòa bác ái, chứ không phải vì thiếu thốn (đi tìm sự nể trọng của
người khác).
4. Hôm
nay, chúng ta cũng học nơi người phong thái độ mau mắn đi làm chứng để bày tỏ
lòng biết ơn đối với Thiên Chúa, Đấng đang liên tục ban muôn vàn ân sủng cho
chúng ta. Muốn vậy, cần phải ý thức chúng ta đã và đang nhận được những ân huệ
lớn lao nào.
25. Suy
niệm của Lm. Giuse Lê Minh Thông
TẠI SAO
NGƯỜI ĐƯỢC CHỮA LÀNH KHÔNG GIỮ LỜI ĐỨC GIÊSU CĂN DẶN?
Dẫn
nhập
Bài Tin
Mừng Mc 1,40-45 thuật lại việc Đức Giêsu chữa một người mắc bệnh phong hủi và
những gì xảy ra sau đó. Không phải tình cờ khi bản văn lặp đi lặp lại bốn lần
từ "sạch", trong đó 3 lần là động từ katharizô: "sạch" (Mc
1,40.41.42) và 1 lần danh từ katharismos "sự sạch" (1,44). Người mắc
bệnh phong "muốn được sạch" và Đức Giêsu "muốn anh ta được
sạch". Hai ước muốn gặp nhau và lập tức anh ta được sạch. Sau đó Đức Giêsu
nói anh ta đi trình diện tư tế, để xác nhận "sự sạch" (được chữa
lành) nơi anh ta. Như thế, bệnh phong hủi làm người ta trở thành "không
sạch" và bị cách ly khỏi xã hội. Bệnh phong làm cho sự giao tiếp và tương
quan của người bệnh với người khác bị cắt đứt. Vậy làm thế nào để biến đổi từ
tình trạng "không sạch" trở thành "được sạch", từ tình
trạng "tương quan bị cắt đứt" trở thành "có tương quan với người
khác"?
Điều lạ
lùng trong cách hành văn là sau khi chữa lành, Đức Giêsu lại đuổi anh ta đi
ngay, dặn anh ra không nói gì với ai và đi trình diện tư tế, nhưng anh ta đã
không giữ lời Đức Giêsu căn dặn. Thay vì giữ im lặng thì người được chữa lành
lại đi "rao giảng nhiều nơi, đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai đi vào
thành" (1,45). Sự việc anh ta không giữ lời Đức Giêsu trong bản văn có ý
nghĩa gì? Bài viết sẽ bàn về việc chữa lành bệnh phong hủi và phản ứng lạ lùng
của người được chữa lành. Cụ thể là (1) Người mắc bệnh phong đã làm gì trước
khi được chữa lành, (2) đã phản ứng thế nào sau khi được chữa lành và (3) tại
sao không làm theo lời Đức Giêsu căn dặn.
1. Hành
động trước khi được chữa lành
Câu
chuyện mở đầu bằng việc người mắc bệnh phong đến gặp Đức Giêsu, anh ta quỳ
xuống van xin để Người làm cho anh được sạch. Về phía Đức Giêsu, Người chạnh
lòng thương, giơ tay đụng vào anh và nói: "Tôi muốn, anh hãy được
sạch" (1,41). Lập tức bệnh phong biến khỏi và anh ta được sạch. Như thế,
việc chữa lành được thực hiện từ cả hai phía.
Ba động
tác về phía người mắc bệnh phong hủi là "đến với", "quỳ
xuống" và "van xin Đức Giêsu" bằng một lời nói: "Nếu Ngài
muốn, Ngài có thể làm cho tôi sạch" (1,40). Về phía Đức Giêsu, Người cũng
thực hiện ba bước, trước hết Người chạnh lòng thương, thứ đến Người đụng vào
người phong hủi và sau cùng Người nói lên ý muốn của Người: "Tôi muốn, anh
hãy được sạch" (1,41). Trong hai lời nói của hai nhân vật, đều xuất hiện
động từ "muốn" (thelô) và động từ "sạch" (katharizô). Như
thế, "ước muốn được sạch" của người bệnh phong chỉ có thể được thực
hiện khi anh ta đối diện với một người vừa "muốn chữa lành", vừa
"có khả năng chữa lành". Nếu "không muốn" và "không
xin" thì chẳng có gì để nói, nhưng nếu "muốn" và "van
xin" mà không gặp được "có khả năng" thì cũng không có gì xảy
ra.
Bản văn
vừa đề cao hành động của người bị phong hủi: "Đến với Đức Giêsu" và
"van xin Người". Đây là hành động "cầu xin" dựa trên niềm
tin, bởi vì đây không phải là cách chữa bệnh bình thường. Đồng thời bản văn đề
cao "ước muốn" và "khả năng chữa lành" của Đức Giêsu. Người
là Đấng có quyền năng làm cho người mắc bệnh phong "được sạch", nghĩa
là làm cho một người bị loại trừ khỏi cộng đoàn được hội nhập trở lại và có thể
thiết lập tương quan với mọi người trong cộng đoàn.
2. Phản
ứng sau khi được chữa lành
Sự hội
nhập cộng đoàn của người được chữa lành diễn tả qua sự đảo ngược cách ngoạn
mục. Từ chỗ anh ta không được tiếp xúc với cộng đồng đến chỗ trở thành người
rao giảng về lời của Đức Giêsu. Người thuật chuyện cho biết: "Vừa đi khỏi,
anh ta đã bắt đầu rao giảng nhiều nơi và loan truyền lời ấy" (1,45a). Câu
kết của bài Tin Mừng cho thấy tầm ảnh hưởng lời rao giảng của anh ta:
"...đến nỗi Người (Đức Giêsu) không thể công khai đi vào thành, Người đành
ở những nơi hoang vắng bên ngoài và người ta từ khắp nơi đến với Người"
(1,45b).
Người
mắc bệnh phong được chữa lành là người đã thi hành sứ vụ của Đức Giêsu:
"Rao giảng" (kêrussô). Thực vậy, trước đoạn văn Mc 1,40-45, tác giả
Tin Mừng Máccô cho biết ở Mc 1,39: "Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê, rao
giảng (kêrussô) trong các Hội đường." Đến Mc 1,45, chính người được chữa
lành đi "rao giảng nhiều nơi", còn Đức Giêsu, Người lại không di
chuyển để "giảng dạy" mà "ở những nơi hoang vắng bên ngoài và
người ta từ khắp nơi đến với Người" (1,45b). Chi tiết: "Người ta từ
khắp nơi đến với Người" cho thấy kết quả lời rao giảng của người bị bệnh
phong được chữa lành là ngoài sức tưởng tượng.
Đầu
đoạn văn, người phong "đến với Đức Giêsu" chứ không phải Đức Giêsu
đến với anh ta; đến cuối đoạn văn, Đức Giêsu lại không thể công khai vào thành,
vì người được chữa lành đã làm cho nhiều người khác từ khắp nơi "đến với
Đức Giêsu". Bản văn muốn nói với độc giả rằng ai đã thực sự gặp được Đức
Giêsu và được Người "chữa lành bệnh tương quan", thì người ấy sẽ phản
ứng bằng cách "rao giảng về Đức Giêsu" và làm cho "nhiều người
khác", "đến với Người". Điều lạ trong bản văn là "lời rao
giảng thành công" của người được chữa lành là do "không giữ lời Đức
Giêsu".
3. Ý
nghĩa của việc "không vâng lời" ở Mc 1,44-45
Sau khi
người bệnh được chữa lành, Đức Giêsu đã làm gì và nói gì với anh ta? Người
nghiêm giọng, đuổi anh ta đi ngay và nói với anh ta: "Coi chừng, đừng nói
gì với ai, nhưng anh hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được sạch, anh hãy
tiến dâng những gì Mô-sê đã truyền, để làm chứng trước mặt họ" (1,44).
Người
được chữa lành đã hoàn toàn không giữ lời Đức Giêsu dặn. Đức Giêsu nói
"Coi chừng, đừng nói gì với ai" thì anh ta lại "loan truyền lời
ấy cho cả thành biết". Đức Giêsu bảo "hãy đi trình diện tư tế và tiến
dâng những gì Mô-sê đã truyền" thì anh ta lại không đi trình diện tư tế và
dâng của lễ mà đi vào thành rao giảng và nói với mọi người về việc anh ta được
chữa lành. Tại sao anh ta không giữ lời Đức Giêsu căn dặn? Kiểu hành văn này có
ý nghĩa gì?
Lời dặn
của Đức Giêsu có thể hiểu là nhằm tránh sự hiểu lầm về tư cách Mê-si-a của
Người và Người có thể vào các thành rao giảng. Điều đáng chú ý là việc người
được chữa lành không giữ lời dặn của Đức Giêsu trong đoạn văn mang lại những
hiệu quả tích cực. Có thể liệt kê ba ý sau:
(1)
Điều tích cực thứ nhất là anh ta nói về Đức Giêsu cho mọi người, nhưng lời rao
giảng của anh ta không thay thế lời rao giảng của Đức Giêsu, ngược lại, lời rao
giảng của người được chữa lành đã làm cho "mọi người đến với Đức
Giêsu".
(2)
Điều tích cực thứ hai là thay vì Đức Giêsu vào thành, đi rao giảng cho đám
đông, thì bây giờ dân chúng từ khắp nơi đến với Người. Nhờ lời rao giảng của
người được chữa lành, Đức Giêsu có thể giảng dạy mà không phải đi đâu cả. Đồng
thời, nhờ anh ta mà cử toạ được chuẩn bị trước, dân chúng chủ động đến với Đức
Giêsu nghĩa là họ thực sự muốn nghe lời Người.
(3)
Điều tích cực thứ ba của việc "không giữ lời dặn của Đức Giêsu" là
cách thức bày tỏ tác động lớn lao của việc chữa lành nơi anh ta. Làm sao anh ta
có thể im lặng khi niềm vui gặp được Đức Giêsu, hạnh phúc được chữa lành, được
hội nhập vào cộng đồng là quá lớn. Để diễn tả sự sống mới, cuộc đời mới, tương
quan mới, anh ta không còn cách nào khác là ra đi loan báo về Đức Giêsu. Dân
chúng khắp nơi đã cảm nhận được niềm vui và hạnh phúc ấy, nên họ đã kéo đến với
Đức Giêsu, để cũng "được sạch" tâm linh, nghĩa là có thể thiết lập
tương quan với Đức Giêsu và tương quan với người khác.
Đề tài
người được chữa lành "không giữ lời Đức Giêsu dặn" (Mc 1,44-45) còn
xuất hiện ở các nơi khác trong Tin Mừng Mác-cô và đây là một trong những kiểu
hành văn độc đáo của văn chương Mác-cô. Đề tài tương phản: "Càng cấm, càng
nói" đã được phân tích phần nào trong bài viết: "Bí mật công khai".
Cấm không được nói mà ai cũng biết!
(http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2011/05/tim-hieu-tm-mc-bi-mat-cong-khai-cam.html).
Chi tiết "không vâng lời Đức Giêsu" trong Mc 1,40-15, nhằm cho độc
giả biết hai thông tin:
(1)
Theo truyền thống Do Thái, để người bệnh phong hủi chữa lành có thể hội nhận
vào cộng đồng, người ấy phải "trình diện tư tế, và tiến dâng những gì
Mô-sê đã truyền" (1,44).
(2) Đối
với độc giả dân ngoại (cũng là độc giả qua mọi thời đại), họ được mời gọi hành
động như người phong được chữa lành: Ra đi rao giảng để mọi người từ khắp nơi
đến với Đức Giêsu.
Kết
luận
Đoạn
Tin Mừng Mc 1,40-45 giúp độc giả suy gẫm về hai đề tài lớn: (1) "Tương
quan" và "hội nhập cộng đoàn", "hội nhập xã hội"; (2)
Thể hiện niềm vui và hạnh phúc được chữa lành bằng cách rao giảng "lời ban
sự sống" đã đón nhận để mọi người đến với Đức Giêsu.
Con
người có thể "cô đơn" và "đơn độc" ngay giữa đám đông. Có
những người hoàn toàn khoẻ mạnh về thể lý, nhưng tương quan với người khác lại
có thể bị tổn thương, bị rạn nứt, thậm chí bị cắt đứt, đổ vỡ, nghĩa là trở
thành những người "bị tách rời khỏi cộng đoàn" hay "tự mình cắt
đứt tương quan với người khác". Bài Tin Mừng dùng hình ảnh "bệnh
phong hủi" để diễn tả "tương quan bị cắt đứt" giữa cá nhân và
cộng đoàn. Vì thế, cần đến với Đức Giêsu để được Người chữa lành. Hành trình
của người mắc bệnh phong trong bản văn là lời mời gọi độc giả hãy "đến với
và van xin" Đức Giêsu. Người sẽ chữa lành họ, vì Người là "Đấng muốn
chữa lành" và "có khả năng chữa lành". Nghĩa là Đức Giêsu có khả
năng làm cho độc giả được thanh tẩy, được sạch, được hội nhập cộng đoàn và bước
vào tương quan tốt đẹp với người khác.
Đồng
thời, một khi đã được chữa lành, độc giả sẽ cảm nhận niềm vui và hạnh phúc khôn
tả, đó là niềm vui và hạnh phúc được bước vào tương quan với Đức Giêsu và với
mọi người. Niềm vui và hạnh phúc lớn lao này sẽ thúc đẩy những ai được chữa
lành lên đường, ra đi rao giảng và loan báo về Đức Giêsu để mọi người cũng được
đón nhận niềm vui và hạnh phúc ấy bằng cách tìm đến với Đức Giêsu. Cách thức
rao giảng mà bản văn đề cao là rao giảng như thế nào đó, để không phải mọi
người đến với mình, nhưng để họ "đến với Đức Giêsu", "lắng nghe
Đức Giêsu" và tin vào Người. Ước mong độc giả thực sự gặp gỡ Đức Giêsu,
bước vào tương quan tràn đầy sức sống với Người và với mọi người. Từ đó hân
hoan ra đi rao giảng và làm chứng về Đức Giêsu để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc
đã lãnh nhận cho những người xung quanh mình./.
Nguồn:
http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/02/mc-140-45-tai-sao-nguoi-uoc-chua-lanh.html
26.
"Tôi muốn, anh sạch đi!"
Vài
hàng sơ lược
Trong
đoạn Phúc Âm này chúng ta nghe Mác-cô kể lại câu chuyện người bị bệnh phong xin
Chúa Giêsu chữa lành. Trước khi đi vào đoạn Phúc Âm, chúng ta hãy trở về với
bối cảnh xã hội Do-thái, để hiểu được tình trạng và hoàn cảnh của người bị bệnh
Phong thời đó. Theo Cha Cantalamesse thì sách Lêvi dạy rằng, người nào bị nghi
mắc bệnh phong, phải được đưa tới một vị tư tế, vị này, sau khi khám xét,
"tuyên bố người đó là dơ." Để làm cho những sự việc ra xấu hơn, người
phong đáng thương hại, bị loại khỏi tình bạn con người, chính người bịnh phải
làm cho kẻ khác tránh xa mình, bằng cách báo cho họ biết sự nguy hiểm:
"Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: "Ô
uế! Ô uế! "Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra,
chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại." (Lv 13, 45-46)
Về điều
này, Rudolf Pesch giải thích rằng: "Những người bị bệnh Phong được coi là
kẻ bị ô uế, những người đáng chết. Họ phải xa lìa với xã hội, phải tự động cách
ly với xã hội. Dù luật lệ trong Thánh Kinh có nghiêm ngặt, nhưng sự cách ly
người Phong ra khỏi xã hội không được làm triệt đở ở khắp mọi nơi công cộng.
Người bệnh Phong không được bước vào thành thánh Giê-ru-sa-lem. Nhưng trong các
làng mạc, họ không bị cách ly hoàn toàn. Với những điều kiện đòi hỏi nhất định,
hình như người ta cũng có thể để cho người bị bệnh Phong bước vào đền thờ. Dù
thế nào, thì người bệnh Phong vẫn bị coi là những người bị Thiên Chúa xa cách.
Như vậy
ai có thể chữa cho người bị bệnh Phong? Theo Adolf Pohl thì: "Việc chữa
lành khỏi bệnh Phong được coi như là sự Phục Sinh từ cõi chết. Và người ta chỉ
có thể chờ mong Thiên Chúa làm điều đó. Khi Vua dân Ít-ra-en, trong sách thứ 2
các Vua 5,7, nhận lệnh chữa lành cho người bị bệnh Phong, thì ông đã thốt lên
rằng: "Ta đâu có phải là vị thần cầm quyền sinh tử, mà ông ấy lại sai
người này đến nhờ ta chữa hắn khỏi bệnh phung hủi?"
Ngoài
ra, nói chung chung về bệnh Phong, theo Cha Cantalamesse thì "hai nhân tố
lạ lùng đã góp phần gia tăng sự ghê tởm trước bệnh phong, đến nỗi biến nó thành
biểu tượng của sự bất hạnh nhất có thể giáng xuống một con người, và cô lập
những nạn nhân vô phúc tội nghiệp trong những con đường vô nhân đạo nhất.
Nhân tố
thứ nhất là sự xác tín rằng, cơn bệnh này lây lan đến nỗi làm nhiễm độc bất cứ
ai có thể đã tiếp xúc với người bệnh; nhân tố thứ hai, cũng không có cơ sở, vì
bệnh phong là hình phạt vì tội lỗi.
Nhân
vật đã góp phần hơn hết thay đổi thái độ và luật pháp đối với những người bệnh
phong là Raoul Follereau (1903-1977). Trong năm 1954 ông đã thiết lập Ngày Thế
Giới Bệnh Phong cổ võ những đại hội khoa học và cuối cùng, trong năm 1975 đã
thành công để luật pháp thu hồi sự kỳ thị những người bệnh phong. Ngoài ra, có
một câu chuyện rất cảm động về tấm lòng của ông Raoul giành cho người Phong:
"Khi đến thăm một trại cùi, ông Raoul Follereau tiến đến bên cạnh một cô
gái cùi và đưa tay ra bắt. Cử chỉ này khiến cô gái bỡ ngỡ. Nhưng lạ thay, cô
gái lại không chịu chìa tay ra đáp lễ. Thấy ông Raoul ngỡ ngàng, vị giám đốc
bèn giải thích: Thưa ông, qui luật của trại chúng tôi không cho phép bệnh nhân
bắt tay khách. Cám ơn ông giám đốc. Nhưng qui luật trại chỉ cấm bệnh nhân bắt
tay khách, nhưng đâu cấm khách hôn bệnh nhân phải không? Vừa nói, ông Raoul vừa
tiến đến ôm hôn cô gái cùi. Mọi người sững sờ. Trong phút chốc cả đám người cùi
nhào đến bên ông. Và một tiếng thốt lên trong nghẹn ngào: Hôm nay, tôi cảm thấy
chúng tôi là người."
Trở về
với đoạn Phúc Âm, chúng ta có thể phân ra như sau: câu 40: Cuộc gặp gỡ giữa
người Phong với Giêsu, và người bị Phong mở lời xin được chữa lành. Câu 41:
Giêsu chữa lành. Câu 42: Anh bị bệnh Phong được sạch. Câu 43-44: cấm không được
loan truyền tin chữa lành, mà chỉ đến trình diện các tư tế. Câu 45: Dù bị cấm
nhưng người khỏi bệnh vẫn lên đường loan báo tin vui.
Suy
niệm
- Câu
40 kể là có một người bị bệnh Phong đến gặp Giêsu. Người bị bệnh Phong trong
đôi mắt của người Do-thái, là người có tội với Thiên Chúa, đời sống của họ xa
cách Thiên Chúa. Ở đây Adolf Pohl như đặt mình vào trong thân phận của người
Phong và tự nói với mình rằng: "Tôi không hợp với Chúa. Tôi không xứng
đáng có tương quan với Chúa.... Tôi không phải là con cái của Chúa, mà là con
cái của thế gian. Tôi chỉ được "trang điểm" bởi một "lớp phấn
Kitô hữu" rất mỏng. Trong cộng đoàn tốt lành kia, tôi là một cái xác lạ
lẫm. Tôi không còn thật nữa: "Chẳng lẽ người phàm công chính trước Thiên
Chúa? "Chẳng lẽ con người lại thanh sạch trước Đấng dựng nên mình?"
(Gióp 4, 17)
Chính
người Phong hủi đó hôm nay lại đến với Giêsu. Trong khi mọi người đều xa lánh
anh ta, nếu anh ta xuất hiện trên đường. Vâng, chỉ có Giêsu thì không chạy
trốn, chỉ có Giêsu ở lại và để cho anh ta đến với mình. Cha Cantalamesse giải
thích rằng: "Chúa Giêsu không sợ lây, Người để kẻ phong đến với Người và
quì trước mặt Người. Còn hơn điều đó: trong một thời đại khi người ta tưởng
rằng chỉ sự ở gần người bệnh phong là đã lây nhiễm rồi, Người giơ tay và đụng
vào anh." Chúng ta đừng tưởng tất cả sự này là tự nhiên và không bắt Chúa
Giêsu trả giá nào. Là con người, Chúa chia sẻ trong sự này, như trong nhiều
điểm khác, những xác tín của thời đại Người và của xã hội Người đương sống.
Nhưng sự thương cảm của Người đối với người bệnh thì mạnh trong Người hơn là sự
sợ bệnh phong"
Khi đến
gần Giêsu, người Phong quỳ xuống dưới chân Chúa và mở lời van xin rằng:
"Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch." Thái độ quỳ xuống
dưới chân ở đây đúng là thái độ kêu xin khẩn nài. Chúng ta có thể thấy ở đoạn
khác: "Có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức
Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Người" (Mc 5, 22) hay "Thật vậy,
một người đàn bà có đứa con gái nhỏ bị quỷ ám, vừa nghe nói đến Người, liền vào
sấp mình dưới chân Người." (Mc 7, 26). Thái độ của anh bạn Phong không chỉ
nói lên lời khẩn nài kêu xin, mà theo Rudolf Pesch và Adolf Pohl, thì còn nói
lên niềm tin tưởng của anh vào Chúa Giêsu. Ở đây, chúng ta thấy rằng, anh đã
nói: "Nếu Ngài muốn", chứ không nói như người cha có con bị bệnh câm:
"Nhưng nếu Thầy có thể làm được gì..." (Mc 9, 22). Tâm tình của anh
bạn bị Phong hàm chứa một niềm tin chắc chắn vào Đấng yêu thương và quyền năng.
Phải chăng anh ta tin rằng, Đấng có lần nói với mình: "Con là con yếu dấu
của Cha", sẽ không bao giờ bỏ rơi anh, chính Ngài sẽ giải thoát và cứu
chữa anh? Phải chăng, với thái độ và lời nói của mình, anh muốn cầu nguyện với
Chúa rằng: "Lạy Chúa! Xin thương xót con, con không giấu Chúa những vết
thương của con, Chúa là bác sĩ, con là bệnh nhân; Chúa đầy lòng thương xót, con
thì khốn khổ" ("Confessions," X,39).
Ngoài
ra, Adolf Pohl còn chú ý một điều nữa, là anh bị bệnh Phong trong câu nói kia,
đã nhắc đến hai từ "Ngài" và chỉ có một từ: "tôi". Chúng ta
thấy qua lời xin trên đụng tới quyền năng của Giêsu. Ở đây theo Rudolf Pesch
thì quyền năng của Giêsu là quyền năng của Thiên Chúa. Vâng, Giêsu có muốn sử
dụng quyền năng của mình để cứu chữa người bất hạnh kia không? Với tâm tình của
sách Khôn Ngoan 11, 23: "Nhưng Chúa xót thương hết mọi người, vì Chúa làm
được hết mọi sự", chúng ta tiếp tục chiêm ngắm thái độ của Giêsu.
-
"Người chạnh lòng thương giơ tay đụng vào anh và bảo: "Tôi muốn, anh
sạch đi!" (câu 41) Lời kêu xin của ang bị bệnh Phong thúc đẩy Giêsu mạnh
đế nỗi, Giêsu đã tỏ ra bốn hành động liên tiếp. Ở đây chúng ta chú ý đến 4 động
từ: (1) Người "chạnh lòng thương". Theo Adolf Pohl thì các tác giả
nhất lãm không bao giờ dùng từ chạnh lòng thương này để chỉ về sự thương hại,
sự tội nghiệp cho bất cứ con người nào. Từ "chạnh lòng thương" như
diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa. Cho nên ở đây không ám chỉ đến cảm giác
tội nghiệp của Giêsu, mà diễn tả thực sự thiên tính của Ngài - một Thiên Chúa
là tình yêu. Vâng, với ĐTC Biển Đức, thì trong câu chuyện này "Chúa Kitô
là "bác sĩ" chân thật của nhân loại, là Đấng Chúa Cha từ trời đã sai
xuống thế gian hầu chữa lành con người, bị đánh dấu trong thân xác và tinh thần
bởi sự tội và các hậu quả sự tội....Tin Mừng Thánh Marcô giới thiệu cho chúng
ta Chúa Giêsu Đấng, lúc bắt đầu thừa tác vụ công khai của Người, hoàn toàn hiến
mình để rao giảng và chữa lành người bệnh trong những làng xứ Galilêa. Những
dấu lạ vô kể Người thực hiện cho người bệnh xác nhận "tin mừng" Nước
Chúa. Tin Mừng hôm nay tường thuật sự chữa lành một người phong và diễn tả với
hiệu quả lớn cường độ tương quan giữa Thiên Chúa và con người, tóm tắt trong
một cuộc đối thoại kỳ lạ: Người phong nói "nếu ngài muốn, ngài có thể chữa
tôi được sạch", Chúa Giêsu trả lời "Tôi muốn, anh hãy sạch", tay
Người đụng vào mình anh và giải cứu anh khỏi bệnh phong (Mc 1, 40-42)."
Hành động thứ hai (2) Người "giơ tay". Theo Rudolf Pesch thì hành
động này biểu tượng cho sức mạnh và động từ (3) "đụng" vào anh là
biểu tượng cho việc truyền sức mạnh của Chúa Giêsu lên trên người bị bệnh
Phong. Vâng, sức mạnh của tình yêu, sức mạnh đem lại sự chữa lành. Chúng ta
cũng có thể nhớ lại hình ảnh Giêsu đối với nhạc mẫu của Phê-rô: "Người lại
gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài."
(Mc 1,31). Ngoài ra, về hành động (2) và (3) này ĐTC diễn tả rất hay: "Cử
chỉ này của Chúa Giêsu, Đấng giơ tay và động tới thân mình đầy vết thương của
kẻ kêu xin Người, bày tỏ rõ ràng ý muốn Thiên Chúa chữa lành tạo vật sa ngã của
Người, Chúa Kitô là "tay" Thiên Chúa giang ra cho nhân loại hầu nhân
loại có thể được giải thoát khỏi những đống cát di chuyển bệnh tật và sự chết,
hầu trỗi dậy bằng cách dựa vào tảng đá vững chắc của tình yêu thần linh (x. Tv
39, 2-3)."
Tiếp
theo ba hành động kia là lời nói (4)"Tôi muốn, anh sạch đi! " Đây là
lời có sức chữa lành. Lời có sức chữa lành này Chúa Giêsu cũng lên tiếng với
con gái ông Gia-ai: "Người cầm lấy tay nó và nói: "Ta-li-tha
kum", nghĩa là: "Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi! " (Mc
5, 41) hay Chúa Giêsu đã thốt lên "Ép-pha-tha", nghĩa là: hãy mở
ra" để chữa lành cho người vừa điếc vừa ngọng.(ss. Mc 7, 34).
- Sau 4
hành động của Chúa Giêsu, thì điều gì đã xảy ra? "Lập tức, chứng phong hủi
biến khỏi anh, và anh được sạch" (câu 42) Điều xảy ra đúng như ĐTC vừa nói
ở trên, là phục hồi sự sống cho anh bị bệnh Phong "cách dồi dào" (Ga
10,10), sự sống trọn vẹn, hạnh phúc, đời đời. Cụ thể hơn, chúng ta để ý tới từ
"lập tức". Từ này diễn tả sống động quyền năng và sức mạnh của Giêsu.
Ngoài ra, động từ "biến" thuộc về bản chất của ma quỷ, chúng nhập vào
và rồi lại biến đi. Tuy vậy, câu chuyện chữa lành anh bị Phong đây không thể so
sánh được với những câu chuyện Chúa xua đuổi ma quỷ. Vâng, giờ đây anh được
sạch rồi. Một tin vui thật lớn!
- Tin
vui này có được phép loan truyền rộng rãi ra không? 43 Nhưng Người nghiêm giọng
đuổi anh đi ngay,44 và bảo anh: "Coi chừng, đừng nói gì với ai cả, nhưng
hãy đi trình diện tư tế, và vì anh đã được lành sạch, thì hãy dâng những gì ông
Mô-sê đã truyền, để làm chứng cho người ta biết."(câu 43 và 44)
Nếu anh
mới được chữa lành khỏi bệnh Phong không được phép nói với bất cứ ai về việc
Giêsu chữa cho mình, thì không đúng, vì theo câu 44 anh phải đi trình diện nơi
các tư tế, để họ chứng thực anh được khỏi bệnh, như anh mù trong phúc âm Gioan.
(ss. 9, 1-41) Vâng, anh thanh niên đã được thanh sạch khỏi bệnh Phong cần được
xã hội đón nhận, cần có được một chỗ đứng hẳn hoi. Tương quan với Chúa và tương
quan với người khác luôn đi đôi với nhau. Sau khi trình diện nơi các tư tế xong
theo như luật Môi-sê (Lê-vi 14, 1-9), thì anh cần phải dâng lễ vật như Mô-sê đã
truyền (ss. Lê-vi 14, 10 và 21tt). Và như vậy người ta sẽ biết về sự thanh sạch
của anh. "Người ta" ở đây chỉ số nhiều, theo Adolf Pohl nghĩa là
những tư tế ở Ga-li-lê-a mà anh ta trình diện, và những tư tế ở Giê-ru-sa-lem
nơi anh ta dâng của lễ.
Như vậy
phải hiểu làm sao điều Chúa Giêsu ngăn cấm? Theo Pesch thì anh không nên nói về
việc anh được chữa lành, mà qua chính sự trình diện và nghi thức dâng của lễ
theo luật Mô-sê, anh sẽ được chứng thực khỏi bệnh. Ngoài ra, theo các nhà chú
giải, thì vì Chúa Giêsu còn phải thi hành sứ mạng của Ngài. Nếu danh tánh của
Ngài mà bị rao truyền khắp nơi, có thể Ngài bị cản trở không tự do đi lại được
nữa, và qua đó ảnh hưởng đến sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Ngài. Chúng ta có
thể thấy được hậu quả về điều này, khi đọc câu 45. Sau khi anh ta tung tin ra,
thì Chúa Giêsu không thể công khai vào thành nào được nữa. Mặt khác, sự nghiêm
cấm này liên quan đến chính thân phận của Chúa Giêsu: Trong Ngài chính Đấng Tạo
Dựng và công trình cứu rỗi đang hiện diện. Vâng, Giêsu không phải là một tiên
tri, mà là một Tiên Tri trọn hảo. Ngài là Con Thiên Chúa : "Con là Con yêu
dấu của Cha, Cha hài lòng về Con." (Mc 1, 11) Và điều này không được phép
tiết lộ ra. Vì nếu người Do Thái, dân đang trông chờ Đấng Messia, mà biết được,
thì có lẽ chương trình của Chúa Giêsu sẽ chưa được nửa đường đã gãy cánh. Vâng,
chương trình của Giêsu, Đấng Messia đích thực, đâu có hợp với sự mường tượng và
mong đợi của dân Do-thái. Chúng ta cứ chiêm ngắm cuộc đời của Ngài thì sẽ nhận
ra ngay.
Như
vậy, anh thanh niên được thanh sạch đã không giữ lời nghiêm cấm của Giêsu. Một
cách nào đó chúng ta cũng có thể thông cảm với anh, vì trước một phép lạ, một
ơn cứu rỗi quá lớn lao trên chính bản thân mình, anh ta không thể nào câm lặng
không rao truyền về vị thầy thuốc tốt lành tài ba. Ở đây, Mác-cô một cách nào
đó đã cố ý làm nổi bật việc tung tin của anh thanh niên này, như là một cách
rao giảng Tin Mừng, giống như người thanh niên được Chúa Giêsu chữa lành khỏi
bị quỷ ám trong chương 5, 18-20: "Khi Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia
đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người. Nhưng Người không cho phép, Người
bảo: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa
đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào." Anh ta ra đi và bắt
đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh.
Ai nấy đều kinh ngạc."
Tham
khảo
- Về sự
chữa bệnh của Chúa Kitô. Bài huấn dụ của ĐTC Biển Đức XVI trình bày lúc trưa
khi ngài đọc kinh Truyền Tin từ cửa sổ văn phòng ngài với hàng ngàn người tập
hơp trong Quảng Trường Thánh Phêrô. VietCatholic News 13/02/2006
- Cha
Raniero Cantalamessa Dòng Capuchine, người giảng Phủ Giáo Hoàng, giải thích Tin
Mừng Chúa Nhật VI TN: Những bệnh phong hủi mới của xã hội VietCatholic News
11/02/2006
-
Rudolf Pesch,
-
Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000.
Sonderausgabe, Band II/1
- Adolf
Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005,
Wuppertaler Studienbibel NT 1.
29. Chú
giải của Noel Quesson
Có
người bị phong hủi đến gặp gỡ Đức Giêsu... và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến
với Người.
Theo
lối hành văn Sêmít cổ xưa, mà người ta gọi là "gom kết" lại, thì
trang Tin Mừng của Mác-cô trên đây được đóng khung trong hai câu giống nhau. Ở
đầu trình thuật ông diễn tả một bước chân của cá nhân. Kết thúc trình thuật, ta
thấy nhiều người đến từ khắp nơi.
Đức
Giêsu, là chính Thiên Chúa đến gặp gỡ con người. Nhưng con người, cũng phải đến
gặp gỡ Thiên Chúa. Lạy Chúa, xin dẫn con đến gặp gỡ Chúa.
Anh ta
quỳ xuống van xin rằng: "Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được
sạch".
Đừng
quên chúng ta mới ở chương đầu của Tin Mừng Maccô. Con người đó thật là mạnh
dạn, hay anh ta đã có một lòng tin phi thường. Anh ta làm một cử chỉ: thưa gửi
vài lời. Đó là những gì mà người ta thường chỉ có thể làm và nói với một mình
Thiên Chúa.
Thực tế
vào thời đó, bệnh phong hủi vẫn còn là một thứ bệnh không thể chữa trị được.
Việc chữa lành người phong hủi là một thứ kỳ công giống như việc phục sinh một
người chết. Đó là một trong những "dấu chỉ" của thời Thiên Sai (Mt
11,25; Lc 7,18-22). Thái độ khiêm tốn phủ phục của người phong hủi biểu lộ lòng
tin của anh nơi Đức Giêsu. Đúng vậy, có những tình huống mà cách cầu cứu duy
nhất là "kêu xin" Thiên Chúa, Đấng làm chủ tất cả, ngay cả những gì
con người không thể thực hiện được: "Thưa Ngài, Ngài muốn là Ngài chữa tôi
được khỏi bệnh". Đó là một lời nguyện xin cần được lặp đi lặp lại.
Động
lòng thương trước người đó.
Ở đây
bản thảo Hy Lạp giữ hai từ: "splagknisteis" có nghĩa là động lòng
thương, xốn xao lòng dạ, cảm động đến tận tâm can, và "orgisteis" có
nghĩa là "nổi giận". Thiếu gì dịp Maccô đã sử dụng rất chính xác từ
"nổi giận" nhưng ở đây thật là khó giải thích: Trường hợp một kinh
sư, khó chịu trước kiểu nói trên, có lẽ ông ta đã làm giảm nhẹ ý nghĩa. Nhưng
vì cả hai "câu dịch" đều có trong bản thảo, nên suy nghĩ về hai ý
nghĩa, tưởng là không vô ích. Tại sao Thánh Thần, Đấng linh hứng Kinh thánh,
lại không có thể đi đến mức đó, nghĩa là có thể sử dụng những sai lầm của những
người sao chép Kinh thánh để nói với ta? Dù sao, qua hai từ trên, chúng ta cũng
nhận thấy một "phản ứng rất nhân bản"! Việc nhập thể của Thiên Chúa
thật là "hiện thực", đi tới tình trạng chấp nhận cả những tình cảm
của con người tầm thường như thế: xót thương, giận hờn. Lạy Chúa. Xin tạ ơn
Chúa vì đã muốn cảm nghiệm những cảm xúc của chúng con và đã bầy tỏ cách công
khai những diễn biến tình cảm đó. Nổi giận ... "Thực ra điều đó ý nghĩa
gì? Riêng tôi, tôi thấy ở đó phản ứng tự nhiên của Thiên Chúa trước nỗi đau khổ
của con người". Đức Giêsu nhìn thấy tận mắt một khuôn mặt đáng thương bị
các vết thương mâng mủ làm biến dạng. Và Người không thể chịu nổi điều đó,
Người nổi giận. Đừng quên rằng, Đức Giêsu là Chính "Thiên Chúa hiện hình
cụ thể". Qua thái độ biểu lộ tính khí trên, Đức Giêsu muốn nói với ta
rằng, Thiên Chúa lên án định mệnh khắc nghiệt của con người, luôn bị bệnh tật
tác hại trên thân xác. Phẫn nộ, đó cũng là phẫn nộ của biết bao người, nhưng
trước "vấn đề sự dữ", họ chỉ biết chống đối mãnh liệt nhất đến nỗi
phủ nhận sự hiện diện của Thiên Chúa.
"Động
lòng thương". Kiểu nói này ta có thể hiểu ngay. Thực vậy, Thiên Chúa của
chúng ta không phải là một Thiên Chúa vô cảm, dửng dưng, nhưng là một Thiên
Chúa dễ bị thương tổn một Thiên Chúa cùng chịu khổ với nhưng người đau khổ, một
Thiên Chúa mang trên mình những thương tích của chúng ta (Is 53,5). Đấng
"làm cho Thiên Chúa hiện diện cụ thể" nói cho ta biết tấm lòng trìu
mến của Thiên Chúa đối với bệnh nhân. Vậy khi nào chúng ta mới chấp nhận thế
giới này, như thực trạng hiện nay của nó, không thể "hoàn hảo" được?
Chỉ có mình Thiên Chúa là Thiên Chúa. Chỉ có mình Thiên Chúa là hoàn hảo. Thế
gian không phải là "Chúa". Thế gian không thể hoàn hảo. Thiên Chúa đã
không thể làm khác hơn là tạo dựng một thế gian "không phải là Chúa nếu
không Người đã không làm được điều gì cả, và Người có thể sẽ muôn đời cô đơn.
Do đó, Người đã quyết định tạo dựng con người, được ghi dấu ấn "hữu
hạn", rõ ràng "không phải là Chúa". Và như thế, con người phải
gánh chịu những rủi ro về tình trạng sức khỏe suy sụp, với khả năng nguy hiểm
trở thành phong hủi, điên khùng, khi các nhiễm thể hoạt động lệch lạc. Cần phải
có can đảm nhìn thẳng vào "thế gian này". Nhưng, nếu Thiên Chúa tạo
thành một tạo vật mang dấu tích hạn hẹp và bất toàn, thì Người chỉ tạo dựng nó
trong chương trình là một ngày kia sẽ ban cho nó sự sống thần thiêng của Người.
Đối với
Thiên Chúa, con người chưa hoàn hảo, vì chưa được sống lại, chưa được thần hóa.
Và sự dữ tác hại con người; đã làm cho Người "nổi giận", đã khơi dậy
"lòng thương xót" của Người. Do đó, Đức Giêsu chữa lành một số người
bệnh, như là một "dấu chỉ" báo hiệu ngày cánh chung, lúc đó mọi sự
"sẽ được hoàn tất" (Rm 8,18).
Đức
Giêsu giơ tay đụng vào anh ta
Chúng
ta lại có dịp suy nghĩ đến "bàn tay". Ở đây, đối với một người phong
hủi, một người "không ai được sờ động đến", thì cử chỉ của Đức Gìẽsu
phải mang một ý nghĩa đặc biệt vì không ai được sờ chạm, ôm ấp, vuốt ve họ bao
giờ cả. Luật đã cấm như thế. Ngay cả, khi một ai đó tiến lại sát kề họ, họ cũng
phải kêu to lên để người khác lánh xa: "Nhơ! Nhơ!": Thế mà ở đây, Đức
Giêsu lại dám phá đổ một điều cấm kỵ nguy hiểm đó: Người đụng chạm đến người
phong hủi.
Người
bảo: "Tôi muốn, tôi cho anh được khỏi bệnh".
Đức
Giêsu cứu chữa, nhờ một "cử chỉ" và "bằng một lời phát biểu: Đó
là nguyên lý để cử hành mỗi bí tích. Chúng ta là những tạo vật có thể xác, và
chúng ta cần đến những cử chỉ trên thân xác. Khi chịu phép rửa, nước đổ trên
trán chúng ta, thì một lời cũng được đọc lên nói rõ ý nghĩa của cử chỉ đó.
Trong Bí Tích Thánh Thể, khi bánh ban sự sống chạm đến tay và liên hệ đến thân
xác ta; thì đồng thời cũng có một lời đọc nêu lên ý nghĩa: "Mình Thánh Đức
Kitô".
Tôi
cũng có thể dành một chút thời gian để suy gẫm về lời phát biểu: "Tôi
muốn!". Ở đây, một lần nữa, người dịch đã làm giảm nhẹ ý nghĩa bản văn
chính thức bằng tiếng Hy Lạp của Maccô (thật là đáng tiếc!). Người phong hủi đã
không nói: "Nếu Ngài muốn điều đó", nhưng là nếu Ngài muốn". Và
Đức Giêsu cũng không đáp lại: "Tôi muốn điều đó", mà là "Tôi
muốn". Điểm quan trọng muốn đề cao ở đây, không phải là đại danh từ
"điều đó", những quyền năng thuộc nguyên ý muốn của Đức Giêsu, nghĩa
không nhấn mạnh đến điều mong muốn.
Ngay
tức khắc, chứng phong hủi biến đi, và anh ta được khỏi bệnh
Câu nói
trên phản lại bối cảnh văn hóa của thời đại, là Maccô lúc đó đang viết Tin
Mừng. Đối với một người Do Thái, bệnh phong hủi là một "hình phạt của
Thiên Chúa", Đấng đã phạt Mytiam, chị của Môsê (Ds 12,9).
Gêhadi,
đầy tớ của Êlisê (2V 5,27), Ôdia, ông vua đầy tham vọng (2Sb 26,16). Bệnh phong
hủi là chứng bệnh gây sợ hãi, đến nỗi có người kinh sợ dù chỉ nhìn thấy một vết
loang lổ trên tường. Vì thế, sách Lê vi đã dành cả hai chương nói về bệnh này.
Chứng bệnh làm cho mặt và tay chân người bệnh thối rữa, chứng tỏ sự khủng khiếp
của nó. Người ta coi đó như sức tác hại của ma quỷ.
Nói đúng ra, người bị phong hủi không được sống thông hiệp với kẻ khác, bị loại
ra khỏi cộng đoàn (Lv 13,1-6). Trong chứng bệnh làm ung thối con người như thế,
người ta coi đó là "biểu tượng" của tội lỗi. Như thế, ai mà không bị
phong hủi! Và ai sẽ cứu chữa ta khỏi chứng bệnh ác độc đó? Thưa, đó là nhờ sự
"tiếp cận" và "lời" của Đức Giêsu. Lạy Chúa Giêsu Kitô, nhờ
Mình Chúa xin cứu chữa tâm hồn con người hôm nay. Hiện nay, vẫn còn hàng triệu
người trong các nước thuộc thế giới thứ ba mắc bệnh phong hủi.
Và giũa chúng ta trong những xã hội tân tiến, vẫn cần tìm
kiếm những bàn tay và những tấm lòng để thực hiện tác động "chữa
lành" của Đức Giêsu đối với biết bao người nghèo khó: Đó là những người
không có vẻ đẹp và ngoại hình lôi cuốn cái nhìn của kẻ khác, đó là những kẻ bị gạt
ra khỏi xã hội chúng ta, những trẻ em khuyết tật, những người mắc bệnh nan y.
Người nghiêm giọng đuổi anh ta đi ngay.
Đó là câu dịch chính xác theo đúng bản văn của Maccô
(nhưng ta cũng thấy có kiểu dịch làm giảm nhẹ ý nghĩa: "Người cho anh ta
ra về với lời cảnh giác nghiêm trọng"). Nếu tôn trọng bản văn, thì Chúa
Giêsu được giới thiệu cho ta ở đây, không phải là hạng người "nhu
mì", mà các bức ảnh thuộc thế kỷ trước đã trình bày cho ta, nhưng là một
con người đầy cương nghị.
Coi chừng, không được nói gì với ai cả.
Như Đức Giêsu đã truyền cho quỷ phải im lặng, Người cũng
đòi buộc kẻ được ơn lạ phải im hơi lặng tiếng, kiểu nói rất mạnh: "không
gì hết", "không với một ai cả".
Đó là "bí mật Thiên Sai" nổi tiếng, đã được
Maccô lặp đi lặp lại tới 10 lần trong Tin Mừng của ông. Do đó, hầu như Đức
Giêsu tránh làm phép lạ, vì thường bị người ta hiểu lầm! Người Do Thái (và cả
chúng ta nữa!) dễ mong đợi một Đấng Mêsia theo kiểu trần gian. Từng đám đông
tuôn đến với hy vọng rằng, Đức Giêsu có thể mang lại cho họ hạnh phúc đời này,
Người có thể giải quyết những vấn đề thuộc sức khỏe, hay khôi phục nền độc lập
có tính chính trị. Đúng vậy, đối với Đức Giêsu, làm phép lạ thật là nguy hiểm!
Điều đó có thể làm hỏng sứ vụ của Người, hay có thể làm cho người ta hoàn toàn
hiểu sai ý nghĩa. Các phép lạ có thể làm cho nhiều người tưởng rằng, Nước Thiên
Chúa chỉ bao gồm một thứ hạnh phúc tầm thường. Đúng ra, công cuộc cứu độ thực
sự việc cứu rỗi triệt để, mà Đức Giêsu trình bày, chỉ có thể được hiểu tường
tận dưới ánh sáng tử nạn và phục sinh của Chúa. Cần phải chờ đợi đến lúc đó để
không còn lầm lẫn nữa về bản chất của công cuộc "giải phóng" con
người, mà Đức Giêsu chủ động thực hiện! Còn những việc chữa bệnh chỉ là cách
loan báo sự sống lại .
Nhưng lo đi trình diện tư tế, và vì anh đã được khỏi
bệnh, thì hãy dâng của lễ như ông Môsê đã truyền để làm chứng cho người ta.
Đức Giêsu truyền cho người được ơn lạ phải im lặng, không
được lộ chuyện với dân chúng, đồng thời Người cũng trao cho anh trách nhiệm
phải đến gặp các tư tế. Đây là việc rất cần thiết, để có thể tái hội nhập vào
xã hội. Nhưng hơn nữa, Đức Giêsu còn muốn mở mắt các tư tế ở Giêrusalem là
những người sẽ kình chống Người kịch liệt. Cho họ dấu chỉ thiên sai qua việc
chữa lành người phong hủi, để họ sẽ không có lý do nào biện minh khi họ kết án
Người. (Ga 15,22).
Nhưng vừa ra khỏi đó, anh ta đã vội công bố và tung tin
ấy ra; đến nỗi Đức Giêsu không thể công khai vào thành nào được, mà phải ở lại
những nơi vắng vẻ ngoài thành. Và dân chúng từ khắp nơi tuôn đến với Người.
Đối với Maccô. "Lời" được công bố trên đây là
một thuật ngữ, được ông sử dụng tới 10 lần khác nhau trong Tin Mừng: đó là Phúc
Âm, là Tin Mừng. Dù bị Đức Giêsu ngăn cấm, nhưng ta thấy người được cứu chữa,
khi đến lượt mình lại trở nên "kẻ cứu độ" người khác. Còn chúng ta
thì sao? Chúng ta có công bố Lời Chúa không? Một lần nữa, ta chiêm ngắm tình
yêu Đức Giêsu dành cho bầu khí cô tịch, cho những "nơi hoang vắng".
Người thực sự là hình ảnh của Thiên Chúa, một Thiên Chúa kín mật, một Thiên
Chúa không gây ồn ào, một "Thiên Chúa ẩn giấu".
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét