HỘI THỪA SAI VN TẤT NIÊN |
HỘI THỪA SAI VN TẤT NIÊN TẠI GX. GÒ MÂY |
THƯỜNG HUẤN BHG. BẢO HÀ, VĂN BÀN THƯỢNG HÀ – NẬM XÉ TẠI TÂN AN |
THƯỜNG HUẤN BHG. BẢO HÀ, VĂN BÀN THƯỢNG HÀ – NẬM XÉ TẠI TÂN AN |
THƯỜNG HUẤN BHG. BẢO HÀ, VĂN BÀN THƯỢNG HÀ – NẬM XÉ TẠI TÂN AN |
T.LỄ LÒNG THƯƠNG XÓT TẠI BẢO HÀ |
THƯỜNG HUẤN BHG. TẠI TÂN AN |
CÁC LM NHA TRANG TẠI BẢO HÀ |
CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: Is
6,1-2a.3-8; 1Cr 15,1-11; Lc 5,1-11
1.
Khiêm nhường
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta thấy: người khôn
ngoan là người biết tận dụng mọi cơ hội để làm giàu cho mình, nhưng đồng thời
cũng phải khiêm tốn để biết mình và biết người. Kẻ thành công đỗ đạt là kẻ biết
tin tưởng, cậy dựa vào kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm của người khác.
Và hành trình của đức tin cũng không đi ra
ngoài sự khôn ngoan ấy. Đoạn Tin Mừng hôm nay mô tả cho chúng ta khuôn mặt
người khôn ngoan đi tìm Chúa và đã nhận ra Ngài, không ai khác hơn là thánh
Phêrô.
Thực vậy, ông là một dân chài chuyên nghiệp,
một người đi biển nhiều kinh nghiệm quý giá, thế nhưng ông không quá tự phụ với
những sự từng trải ấy, trái lại, ông vẫn có một sự khôn ngoan đặc biệt, đó là
khiêm tốn, tin tưởng và vâng phục vào lời Chúa Giêsu:
-
Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy, con xin thả lưới.
Trước mẻ cá lạ lùng này, Phêrô không tự hào
về đức tin của riêng mình để mà khoe khoang với các bạn, cũng như để kể công
với Chúa. Trái lại, thêm một lần nữa, ông vẫn khôn ngoan dựa vào mẻ cá lạ lùng
ấy, để suy nghĩ và nhận ra Đức Kitô là Thiên Chúa của mình. Đứng trước mẻ cá,
Phêrô đã thực sự khiêm tốn thú nhận:
-
Lạy Chúa, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi.
Chính nhờ thái độ này, đức tin của ông được
củng cố đến độ ông không chỉ nói lên lời cảm tạ suông, mà còn đáp trả bằng cả
cuộc sống của mình, đó là ông đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa.
Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta có đủ
khiêm tốn để lắng nghe lời Chúa qua những con người, qua những biến cố mà Ngài
gởi đến hay không? Có lẽ Phêrô vẫn đoán biết Đức Kitô không có nhiều kinh
nghiệm về biển cả, nhưng ông rút kinh nghiệm qua những phép lạ, vì thế ông vẫn
khiêm tốn vâng phục và tin tưởng vào Chúa Giêsu vì Ngài còn là Thầy, là người
hướng dẫn của ông. Liệu chúng ta có biết hồi tâm để rút ra những kinh nghiệm
như Phêrô hay không?
Kinh nghiệm bản thân cho ông hay ban đêm là
cao điểm để đánh bắt. Thế mà ông đã từng cực nhọc suốt cả đêm mà chẳng đánh bắt
được một con cá nào, vậy mà lòng trọng kính đối với Chúa Giêsu đã thúc đẩy ông
thả lưới giữa ban ngày ban mặt, là thời điểm chẳng thuận tiện chút nào. Liệu chúng
ta có quá tự hào về kinh nghiệm bản thân, để rồi khép kín cõi lòng mình trước
lời mời gọi của Chúa hay không?
Những kinh nghiệm và hiểu biết, đôi khi có
thể trở thành chướng ngại vật cản trở cho hành trình đức tin, nếu chúng ta không
có được sự khiêm tốn của Phêrô. Hãy cư xử như Phêrô, bằng cách đón nhận ý Chúa
qua kinh nghiệm của Hội Thánh, đồng thời cảm tạ Ngài bằng một thái độ cụ thể và
quyết liệt như Phêrô, đó là từ bỏ mọi sự mà đi theo Ngài.
2.
Đào tạo tông đồ - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật về mẻ cá lạ
lùng mà Phêrô và các bạn được chứng kiến. Đây khám phá chỉ đơn thuần là một
phép lạ lớn lao cho ta ngưỡng phục quyền năng của Thiên Chúa. Nhưng qua dấu lạ
này, Chúa Giêsu còn muốn mời gọi ta ra khơi truyền giáo. Và qua tiến trình của phép
lạ, Chúa Giêsu đã áp dụng một chương trình đào tạo các môn đệ, đặc biệt là
Phêrô, người đứng đầu các môn đệ. Chương trình đào tạo này gồm 4 điểm.
Điểm thứ nhất: cảm
nghiệm về sự nghèo nàn của bản thân. Phêrô và các bạn đang giặt lưới. Các ông
mệt mỏi sau
một đêm thức trắng vật lộn với biển khơi. Tâm trạng các ông chán nản sau thất
bại chua cay não nề. Thế mà giờ đây, Chúa Giêsu lại bảo các ông ra khơi. Ra tận
chỗ nước sâu. Nước sâu là chỗ nguy hiểm. Nước sâu là chỗ Phêrô gặp thất bại.
Chúa Giêsu muốn Phêrô trở lại chỗ nước sâu để nhận thức rõ sự vô tài bất lực
của bản thân. Chúa Giêsu muốn Phêrô nhìn rõ những thất bại để ông biết khiêm
nhường. Khiêm nhường là bài học đầu tiên Chúa Giêsu muốn gửi đến các môn đệ của
Người.
Điểm thứ hai: cảm
nghiệm về sự cao cả của Thiên Chúa. Người tông đồ phải làm chứng về Thiên Chúa.
Muốn
làm chứng phải có kinh nghiệm. Ai chưa từng gặp được Thiên Chúa, chưa từng tiếp
xúc với Người thì không thể làm chứng về Người. Trong những trường hợp đặc
biệt, Thiên Chúa thường chủ động tỏ mình ra. Chúa tỏ mình cho Môsê trong bụi
gai cháy đỏ. Chúa tỏ mình ra cho thánh Phaolô qua làn ánh sáng chói lọi trên đường
đi Đa mát. Hôm nay Chúa tỏ mình ra cho Phêrô qua mẻ lưới lạ lùng. Lập tức Phêrô
nhận biết sự cao cả, sự thánh thiện của Chúa. Sợ hãi vì thấy mình tội lỗi,
Phêrô vội quỳ xuống xin Chúa rời xa. Phêrô đã sống bên cạnh Chúa. Ông đã được
tiếp xúc với Chúa. Ông đã cảm nghiệm được sự thánh thiện cao cả của Chúa. Sau
này ông đi rao giảng chỉ là để kể lại những gì ông đã mắt thấy tai nghe.
Điểm thứ ba trong
chương trình đào tạo môn đệ của Chúa đó là sự vâng lời tuyệt đối. Phêrô hẳn là
rất ngạc nhiên
khi Chúa Giêsu bảo ông ra khơi đánh cá, lại còn chỉ rõ nơi thả lưới. Không ngạc
nhiên sao được khi Phêrô là người miền biển trong khi Chúa Giêsu là người miền
núi. Phêrô làm nghề chài lưới lâu năm kinh nghiệm trong khi Chúa Giêsu chỉ làm
nghề thợ mộc. Thế mà khi Chúa Giêsu bảo ông thả lưới bên phải thuyền, ông đã
tăm tắp làm theo. Phêrô đã vâng lời tuyệt đối. Phêrô đã học được thái độ vâng
lời của người môn đệ. Ông đã thành công. Ông đã thấy kết quả rõ ràng. Và Chúa
đã đặt ông làm tông đồ trưởng.
Điểm sau cùng mà Chúa
muốn người môn đệ phải có đó là sẵn sàng ra đi. Ra đi là một thái độ liều lĩnh.
Vì vượt qua
những khoảng không gian vật lý cheo leo. Ra khơi là chấp nhận đối đầu với phong
ba bão táp.
Vượt qua những khoảng không gian vật lý đã
khó. Vượt qua những khoảng không gian tâm lý còn khó hơn. Ra đi là bỏ nơi an
toàn để đến nơi bấp bênh. Ra đi là bỏ nơi quen biết để đến nơi xa lạ. Lên đường
truyền giáo là bỏ lại tất cả: gia đình, thuyền bè, chài lưới. Bỏ cả nghề nghiệp
cũ đã thành thạo để bắt tay vào nghề mới còn chập chững. Bỏ lưới cá để chài
người.
Nhưng khó nhất chính là ra khỏi chính mình.
Dù có đi xa ngàn dặm nhưng vẫn giữ được những thói tật xưa cũ thì người ta vẫn
còn ở khởi điểm. Muốn lên đường người môn đệ phải ra khỏi tính tự ái tự mãn của
mình. Ra khỏi những quan niệm xưa cũ hẹp hòi. Ra khỏi những ảo tưởng viễn vông.
Ra khỏi những ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Khi đã từ bỏ tất cả, người môn đệ sẽ trở nên
hoàn toàn nghèo nàn. Gia tài chỉ có niềm cậy tin phó thác hoàn toàn vào Đấng
kêu gọi ta. Vũ khí chỉ có lòng vâng phục tuyệt đối vào Đấng sai ta.
Mỗi người được Chúa huấn luyện. Bao lâu ta
chưa cảm nghiệm được sự hèn kém của bản thân, chưa cảm nghiệm được sự thánh
thiện cao cả cũng như tình yêu của Thiên Chúa, chưa có niềm vâng phục tuyệt
đối, chưa ra đi trong tự do và khó nghèo, ta vẫn chưa thực sự trở thành môn đệ
của Chúa. Chưa được đào tạo kỹ lưỡng mà đã làm việc thì phần thành công chắc
chắn sẽ ít hơn phần thất bại.
Lạy
Chúa, xin hãy dạy bảo con theo đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.
Bạn
có tuyệt đối vâng lời Chúa trong mọi hoàn cảnh không?
2.
Bạn
có cảm nghiệm về sự vô tài bất lực của mình không?
3.
Bạn
đã ra đi khỏi chính mình chưa?
4.
Bạn
có cảm thấy Chúa có chương trình đào tạo mình không?
3.
Môn đệ Đức Kitô trên hoàn vũ - Achille Degeest
Bài Phúc Âm hôm nay rất dễ hiểu, không cần
giải thích theo nghĩa này nghĩa khác có thể không có trong bản văn. Chúng ta
chú ý đến nhiều điểm. Đức Giêsu sai Phêrô đánh thuyền ra khơi thả lưới. Chúa
biết, khi ra lệnh như thế Người đòi hỏi Phêrô làm một việc trái ngước kinh
nghiệm dân chài lành nghề. Thật vậy, Phêrô tin chắc rằng sau một đêm mệt nhọc
uổng công, bây giờ là ban ngày, cố gắng cũng vô ích. Tuy nhiên vì vâng lời
Chúa, vì tin Chúa, Phêrô thả lưới. Sau khi vớt được mẻ Chúa nhiều quá sức tưởng
tượng, ông phản ứng như những tâm hồn ngay thẳng khi đứng trước tôn nhan Chúa:
“Lạy Thày, con là một kẻ quá nhiều sai lỗi, một kẻ có tội”. Bằng một giọng uy
nghi khích lệ, Chúa cho ông rõ phần thưởng đích thật của cuộc gặp gỡ trên mặt
hồ. Qua hình ảnh phép lạ đánh cá, ông thoáng nhìn thấy số mệnh ông.
Chúng ta suy niệm về hai câu:
1) “Hãy ra khơi”. Chúa phán thế vì biết ngoài khơi là
vùng có nhiều cá. Chúng ta nghĩ đến một Phêrô thuyền trưởng con thuyền Giáo
Hội, như ảnh đạo thời xưa thường trình bày. Thày ra lệnh cho ông hãy lái Giáo
Hội tiến vào chỗ hiểm nguy là thế giới trong đó cái khối nhân loại sống, lao
động và chết. Trên thuyền với thuỷ thủ đoàn là những Kitô hữu, lệnh được ban ra
là thả lưới xuống biển mặc dầu đã phí rất nhiều thì giờ mà chẳng được gì. Đức
vâng lời đã đem lại một mẻ lưới thần kỳ. Tuy nhiên có phải bao giờ cũng gặt hái
được kết quả lạ lùng không? Nếu thế chẳng quá dễ dàng ư? Điều quan trọng là
đừng có lạm dụng cách chơi chữ của Chúa khi Người phán bảo Phêrô: “Từ nay ngươi
sẽ là kẻ lưới người”. Thật vậy, nhân loại không bị cưỡng bách vào trong “lưới”
của Giáo Hội. Ở đây là một thực tại cơn bản hơn: Phêrô và các tông đồ, do một
hành vi biểu lộ đức tin trái ngược sự thật hiển nhiên theo quan niệm loài người,
đã tỏ ra xứng đáng được Chúa cho biết số phận. Các ông được liên hợp với công
cuộc cứu độ của Người trên thế giới.
2) “Bỏ lại mọi sự, họ đã theo Chúa”.
Thánh chép sử diễn tả cách đơn giản về một
trong những khía cạnh đòi hỏi gắt gao nhất của thiên chức các ông. Giáo Hội đã
áp dụng câu đó cho thiên chức tu sĩ và thiên chức linh mục. Phêrô và các bạn
không có được gia nghiệp súc tích của thanh niên nhà giàu, nhưng vốn liếng
khiêm tốn của các ông, chiếc thuyền đánh cá, căn nhà, thôn xóm, đối với các ông
là những gì tha thiết. Các ông cũng như chàng thanh niên đều được kêu gọi bỏ
lại mọi sự. Trong thông điệp về sự độc thân của linh múc (đoạn 24), Đức Phaolô
VI nhắc đến câu nói trên. Thế giới chúng ta gồm những vùng nước sâu lắm cá cần
có những môn đệ bỏ lại mọi sự để theo Đức Kitô.
4. Con đường của Thiên Chúa là tốt nhất Suy niệm của Charles E. Miller
Thiên Chúa thì kiên bền không thay đổi. Chúng
ta có thể tùy thuộc vào Thiên Chúa. Thánh Kinh đã mặc khải những hành động và
những lời của Thiên Chúa trong quá khứ. Những gì Thiên Chúa đã thực hiện trong
quá khứ là những gì mà Người sẽ thực hiện trong ngày hôm nay. Những gì Thiên Chúa
đã nói trong quá khứ là những gì Thiên Chúa sẽ nói với chúng ta hôm nay. Những
gì xảy ra cho Phêrô trong bài Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay đã xảy ra cho tất cả
chúng ta trong cùng một cách thế như thế ngày hôm nay.
Thánh Phêrô là một người đánh cá, không phải
là môn thể thao, nhưng là kế sinh nhai của thánh nhân. Ngài có một nghề nghiệp.
Ngài và những người đồng nghiệp đã làm việc vất vả suốt đêm, đó là thời điểm
tốt nhất để đánh cá trong vùng sông hồ này, nhưng họ đã không đánh bắt được gì.
Tiếp đó, Chúa Giêsu là một người thợ mộc, đã nói với Phêrô là một người đánh
cá, hãy thả lưới một lần nữa. Vấn đề to lớn ở đây, bây giờ là thời điểm tệ hại
nhất để đánh cá. Chúng ta có thể nghe được việc nhấn mạnh và xác quyết trong giọng
của Phêrô: “Lạy Thầy, chúng con đã khó nhọc suốt đêm mà không đánh bắt được
gì”. Ngài đã trình bày quan điểm với Chúa Giêsu để nhắc Chúa Giêsu đừng quên
điều đó nhưng khi ngài thình lình nhận biết mình đang nói với ai. Sau một lúc,
có lẽ nhìn vào ánh mắt của Chúa Giêsu thấy sự nhấn mạnh trong đôi mắt của Ngài,
nên Phêrô nói thêm: “Nhưng nếu Thầy đã phán như thế, con sẽ thả lưới”. Đức tin
của Phêrô thì giống như một con trẻ khác xa với những người trưởng thành, nhưng
nó đã mạnh đủ để ông đặt sự nhấn mạnh của ông vào từ”Thầy” khi ông nói: “Nếu Thầy
nói như vậy con sẽ thả lưới”. Kết quả sự tin tưởng của Phêrô vào Chúa đã đưa
đến một mẻ lưới kinh ngạc. Phêrô nghĩ rằng cách của ông là tốt nhất nhưng ông
đã học biết rằng cách của Chúa thì tốt nhất.
Trước đó, tiên tri Isaia đã học cùng bài học
như chính Phêrô đã học. Đầu tiên, Isaia không muốn chấp nhận sứ vụ trở thành
một tiên tri cho dân Chúa. Ông cảm thấy mình bất xứng, ông tự mô tả chính mình
như một người không biết ăn nói. Ông sung sướng bỏ đi và theo một cách sống
khác, nhưng Thiên Chúa đã muốn ngài. Một thiên thần Sêraphim đã đụng đến môi
của tiên tri Isaia, đó là một biểu hiện ân sủng của Thiên Chúa. Với ân sủng này
Isaia đã đáp trả: “Này tôi đây xin hãy sai tôi”, ngài đã trở thành một trong
những vị tiên tri lớn nhất bởi vì ngài đã theo đường lối của Chúa.
Trong lúc suy nghĩ chúng ta không thấy điều
gì quen thuộc, xảy ra với chúng ta sao? Có lẽ các bạn có nơi trái tim hình ảnh
của một người nào đó mà các bạn muốn kết hôn. Điều đó đã thực hiện được. Một
người khác bước vào đời sống của các bạn và bây giờ các bạn sẽ cảm ơn Thiên
Chúa, vì hôn thê của các bạn thật hợp với các bạn hơn. Có thể các bạn có một
công việc mà các bạn thích, các bạn có vẻ như có một tương lai với một công ty
đặc biệt. Nhưng trong thời suy thoái kinh tế, công ty giảm biên chế, bạn mất công
việc của mình. Tiếp đó, một cơ hội lớn thình lình mở ra cho bạn và bạn trở
thành một người có công việc khác khiến các bạn thấy rằng có một sự chăm sóc kỳ
diệu mà các bạn không bao giờ nghĩ ra trước đó.
Những thí dụ này có thể không thích hợp với
các bạn. Mọi người chúng ta phải có thời gian để suy nghĩ về những gì Thiên
Chúa đã hành động trong cuộc sống của chúng ta theo một cách vượt xa những gì chúng
ta đã dự định và mong đợi. Thánh Phaolô nghĩ rằng ngài đang thi hành bổn phận của
một người Do Thái sốt sắng nhiệt tình. Thiên Chúa có một dự định khác cho ngài,
như là một tông đồ và là tác giả của những bức thư Tân Ước. Ngài đã đặt bút
viết những điều về những giáo lý quan trọng nhất cho chúng ta. Cách của Thiên
Chúa thì tốt hơn của Thánh Phaolô.
Đôi khi chúng ta không bắt được một mẻ cá
lớn. Những điều xem ra là sai, là thất bại đối với chúng ta. Tiếp đó chúng ta phải
kêin nhẫn và dành thời gian để cho Chúa hành động. Từ thị kiến thiên đàng của
tiên tri Isaia chúng ta sẽ ca lên khúc tán tụng của mình: “Thánh Thánh Thánh,
Chúa là sức mạnh và quyền năng, trời và đất đầy vinh quang Chúa”. Sự diễn tả vẻ
huy hoàng của Thiên Chúa sẽ nhắc nhở chúng ta rằng, Thiên Chúa siêu việt hơn
chúng ta. Đường lối của Người thì không phải là đường lối của chúng ta và đường
lối của Ngài luôn luôn là tốt nhất.
5. Được gọi để gọi người khác
-
“Thưa ông bà muốn gặp ai ạ?”
Chị Céline đã nói câu ấy lần đầu tiên cách
đây 40 năm. Từ đó ngôi nhà khách với chùm chìa khóa, cái chổi, chiếc ghế đã trở
thành giang sơn của chị.
Bổn phận của chị giữ nhà khách là gọi người
khác. Trong suốt 40 năm trường, chị Céline chỉ làm ngần ấy công việc. Câu hỏi
trên kia chị phải lặp đi lặp lại đến hơn 10 lần mỗi ngày. Với thời gian, phương
thế có đôi phần thay đổi: từ cái kẻng đến chuông điện, rồi điện thoại, sau đó
lại trở về chuông kéo, kẻng sắt… nhưng công việc luôn luôn vẫn là gọi người
khác.
Ôi chao! Biết bao khuôn mặt đã xuất hiện tại
nhà khách, bao giọng nói đã vang rền trong điện thoại. Nhưng có một điều chị
Céline hằng đoán chắc: người ta đang gọi, đang xin gặp một người nào đó… trừ ra
chị. Vì thế chị thường nói đùa: “Tôi chỉ được Chúa gọi một lần duy nhất và từ
dạo ấy, tôi đã luôn luôn gọi người khác: tôi được gọi để gọi”.
Một ngày của chị bị cắt vụn thành từng miếng,
công việc của chị bị chẻ thành từng mảnh, luôn luôn là gián đoạn. Khi cầm chuỗi
lần hạt, chị biết mình sẽ không đọc được quá 10 kinh, khi xem sách chị đoán sẽ
thưởng thức không quá 10 dòng; trong nhà nguyện, chị quỳ ở ghế cuối cùng, gần
cửa ra vào, luôn thấp thỏm đợi chờ chuông reo… luôn bị gián đoạn, nhưng chỉ với
“sự gián đoạn” này của mình, chỉ mới có thể tạo nên “sự liên hệ” của người
khác. Chị bao giờ cũng nhanh nhẹn đối với một khách sang cũng như một bà lão nhà
quê. Tất cả mọi người đều ăn cắp giờ của chị. Không ai cần gặp chị… Với thời
gian, da mặt chị nhợt nhạt hơn, người chị tiều tụy hơn, nhưng nụ cười vẫn tươi
nở như thuở nào, lời kinh dâng Chúa mỗi ngày lại càng thêm sốt sắng hơn.
Và rồi một hôm, trong lúc vội vã đi gọi người
khác, chị Céline đã ngã quỵ trong hành lang nhà dòng, thổ huyết! Chị bập bẹ:
“Chúa đến gọi tôi lần hai” (và cũng là lần cuối). Đôi tay chị run run ôm lấy
lồng ngực khiến chùm chìa khóa rơi trên nền gạch hoa. Đàng kia, chiếc ghế vẫn
vô tình không biết từ nay mình sẽ là vô chủ…
Chị Céline đã suốt đời trung thành với tiếng
gọi của Chúa và với công việc bổn phận hằng ngày của chị: được gọi để gọi người
khác. Giá trị và sự cao cả của chị không phải là ở chỗ đó sao?
Chúa Nhật hôm nay nhắc lại cho chúng ta ban
ơn gọi: ơn gọi của Isaia trong đền thánh Giêrusalem (Bđ. 1), ơn gọi của Phaolô
trên đường đi Đamas (Bđ. 2) và ơn gọi của Simon Phêrô bên bờ hồ Giênêzaret (bài
Tin Mừng). Nhưng chắc chắn có chủ ý dạy chúng ta lắng nghe tiếng gọi của Chúa và
làm theo ý Chúa, ra đi gọi những người khác đến với Chúa: được gọi để gọi người
khác.
Isaia tự thuật về chính ơn gọi làm ngôn sứ
của ông. Chúa đã gọi ông. Ông đã can đảm, sẵn sàng đáp lại: “Tôi đây, hãy sai
tôi đi”. Thái độ của Isaia chính là thái độ của Đức Giêsu sau nầy khi Ngài đi
vào thế gian: “Này con xin đến để thực thi ý Chúa” (Dt 10,9).
Thánh Phaolô cũng khéo léo tế nhị nhắc lại ơn
gọi của mình và cách mình đáp lại ơn gọi đó. Phaolô cho biết khi Chúa hiện ra
với ông trên đường đi Đamas và chọn ông làm tông đồ cho dân ngoại, ông khiêm
tốn cho mình là một tông đồ hèn mọn nhất, chẳng đáng gọi là tông đồ vì đã bắt
bớ Giáo Hội. Ông coi đây là một ân huệ Chúa ban và không dám uổng phí, trái lại
ông nhờ ơn Chúa mà hết lòng hết sức và sẵn sàng đáp lại tiếng gọi bằng cả cuộc
sống.
Còn Simon Phêrô đã được Chúa gọi một cách rõ
ràng và công khai sau mẻ cá thật nhiều đến nỗi gần rách lưới, Chúa Giêsu nói
với ông: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ đi lưới người như lưới cá”. Điều này sẽ xảy ra
sau đó? Tin Mừng cho thấy không phải chỉ có Phêrô, người được gọi đích danh, đã
theo Chúa, mà cả những người khác nữa cũng đã vội vã theo Chúa: “HoÏ đưa thuyền
vào bờ và bỏ mọi sự mà theo Chúa”. Đến đây chúng ta mới rõ “mẻ cá lạ” Chúa làm
là có dụng ý hay có mục đích “mở đường” cho ơn gọi của Phêrô và đồng bạn. Nghề
nghiệp đánh cá của các ông thật đã giúp ích cho các ông hiểu một cách dễ dàng
sứ vụ mới là làm “những kẻ chài lưới người” (Mt 4,19), nhưng mẻ cá lạ mới giúp
các ông quyết định lại ơn gọi một cách mau chóng, vì biết rằng có Chúa giúp khi
thi hành sứ vụ của mình.
Anh chị em thân mến,
Chính Thiên Chúa, bằng cách trực tiếp hay
gián tiếp, đã chọn gọi những người làm việc cho Ngài, làm cộng tác viên của Ngài
trong công trình cứu chuộc nhân loại. Ngài đã gọi các tiên tri, các tông đồ, đã
gọi bao nhiêu người khác, đã gọi chính chúng ta. Những ai được Chúa gọi phải
mau mắn đáp lại ơn huệ của Chúa – Chúa kêu gọi đó là một ân huệ Ngài ban – một
cách khiêm tốn và biết ơn vì ta chẳng đáng được vinh dự lớn lao như thế, và tự
sức ta, ta cũng chẳng làm nổi việc gì.
Phải làm trọn ơn gọi của mình, khi đã chấp
nhận thì không ngoái cổ lại đàng sau và hãy bắt tay vào việc một cách cần mẫn,
hết lòng trông cậy vào ơn phù trợ của Ngài, vâng lời Ngài, tin tưởng phó thác
và để Ngài tùy ý hoàn tất công việc lúc nào theo như Ngài muốn.
Chúng ta cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp cách
đặc biệt cho những người Chúa đã chọn, đã và đang khiêm tốn chịu khó làm việc
Chúa trên khắp mọi cánh đồng và vườn nho của Chúa, nhất là cho Đức Thánh Cha,
cho các vị Giám mục và các linh mục, cùng tất cả những người cộng tác chặt chẽ
với các ngài.
Chúng ta cũng tha thiết xin Chúa kêu gọi thêm
những người đang ước muốn vào làm việc tông đồ của Hội Thánh, đặc biệt trong
những nơi đang xảy ra tình trạng “lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít”.
Chính chúng ta cũng hãy xin ơn biết lắng nghe
tiếng Chúa chỉ bảo ra làm việc nầy hay việc khác trong hoàn cảnh Giáo Hội hiện
nay trên quê hương đất nước chúng ta. Trước hết là giữ vững niềm tin vào Đức
Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Đó chính là ơn gọi đưa chúng ta vào Nước Trời bây giờ
và sau nầy. Đó cũng là ơn gọi làm tông đồ giáo dân bằng chính cuộc sống đức tin
của mình trong môi trường xã hội.
Nếu tình yêu đòi biểu lộ, và có khi biểu lộ
bằng những cách “kỳ lạ”, thì Thiên Chúa vì quá yêu nhân loại, nêu đã biểu lộ
bằng nhiều cách thế, trong đó có cách thế cho con người được tham dự vào việc
truyền bá Tin Mừng, được đọc và được giảng Lời của Thiên Chúa. Lạ lùng lắm
thay! Miệng lưỡi con người mà được nói Lời của Đấng siêu việt. Tình yêu Thiên
Chúa vẫn gửi tới mỗi người tín hữu để họ đem Lời Thiên Chúa nói cho những người
xung quanh, những người thân thuộc và cả những người đi theo Chúa, dùng chính
nghề nghiệp khả năng của mình để thành nghề lôi kéo người khác về cho Chúa. Và
Đấng là Tình Yêu đang luôn chờ đợi lời đáp trả của từng người chúng ta.
Và nhất là giờ đây, chúng ta kính nhớ Đức
Kitô chịu chết và tuyên xưng Ngài sống lại vì chúng ta qua cử hành Thánh Thể,
chúng ta hãy hết lòng tạ ơn Chúa đã gọi chúng ta đến tham dự vào mầu nhiệm cứu
rỗi nầy. Nhờ nghe Lời Chúa và ăn uống Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta sống ơn gọi
một cách tốt đẹp để đời sống chúng ta cũng là một lời mời gọi nhiều người khác
đến với Chúa.
6. Kêu gọi các môn đệ đầu tiên - McCarthy
Suy Niệm 1. LẠY CHÚA,
THEO LỜI CHÚA…
Thời gian ban đêm là thời gian để đánh cá.
Nếu có người nào khác nói với Phêrô: “Chèo ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá”
hẳn ông sẽ nói: “Bạn có điên không? Phải chăng bạn muốn tôi trở thành một kẻ
điên trước mặt những bạn chài khác? Nếu bọn ngư phủ chúng tôi suốt đêm đã không
bắt được con cá nào, thử hỏi chúng tôi còn có cơ may nào để bắt được cá giữa
ban ngày?”.
Nhưng khi Đức Giêsu nói những lời ấy với
Phêrô, câu trả lời tự phát của Phêrô là: “Thưa thầy, chúng tôi đã vất vả suốt đêm
mà không bắt được gì cả. Nhưng theo lời Thầy, tôi sẽ thả lưới”.
Đối với Phêrô, lời của Đức Giêsu khác với lời
của bất cứ ai. Lời người mang theo quyền bính mà lời người khác không có được.
Vì thế nếu Đức Giêsu đã yêu cầu, thì dù tình thế có vẻ tuyệt vọng, dù Phêrô có
mệt mỏi hoặc có vẻ điên rồ, ông cũng phải thử làm lại.
Phêrô hoàn toàn tín thác vào Đức Giêsu. Theo
lời Người, ông được chuẩn bị để cố gắng làm điều không thể làm được. Sau này
chúng ta còn thấy được điều này trong Tin Mừng khi ông cố gắng đi trên mặt nước
theo lời của Đức Giêsu.
Có bao nhiêu người mà chúng ta coi lời họ là
nghiêm chỉnh? Chúng ta hoàn toàn tín thác vào lời ai? Chúng ta hoàn toàn tin
cậy vào lời ai? Câu trả lời là “rất ít”.
Đánh cá là một nghề xứng đáng. Tuy nhiên, Đức
Giêsu thấy Phêrô có khả năng làm những việc khác. Đức Giêsu cần loại người như
Phêrô để giúp đỡ Người trong công việc của Người. Đức Giêsu đã nhìn thấy những
đức tính nào của Phêrô khiến Người kêu gọi ông chia sẻ công việc với Người? Ông
có một đức tính hàng đầu và quan trọng nhất là đức tin vào Đức Giêsu. Ông cũng
có đức khiêm nhường.
Câu chuyện Tin Mừng không còn là một câu
chuyện về việc đánh cá, nhưng về lòng tín thác. Đức Giêsu đã nói với Phêrô:
“Anh sẵn sàng tín thác vào Thày tới đâu?”. Đây là một khúc quanh trong cuộc đời
của Phêrô. Điều gì bắt đầu từ một khởi điểm mới sau một thất bại thì bắt đầu
với một phương hướng mới.
Đánh cá là một nghề quan trọng. Nhưng Đức
Giêsu đã kêu gọi Phêrô và các bạn chài của ông đến với một công việc còn quan
trọng hơn. Người đã mang lại cho họ không chỉ một công việc mới, nhưng một mục
tiêu để họ cống hiến cả cuộc đời họ cho mục tiêu ấy. Họ biết rằng người kêu gọi
họ để phục vụ những người khác: “Thày làm cho anh em thành những người đi đánh
lưới người”. Khi các giáo chủ của các giáo phái kêu gọi người ta đi theo họ, họ
biến đổi người ta thành những nô lệ của họ. Đức Giêsu kêu gọi các Tông đồ không
phải để họ phục vụ Người, nhưng phục vụ người khác.
Chúa vẫn còn kêu gọi con người, và ngày nay
nhu cầu ấy to lớn. Và vẫn còn có những người đáp lại lời Người. Một số người
(như các tông đồ) được kêu gọi để tận hiến mình, đi theo Đức Kitô bằng một
phương thế “chuyên nghiệp”. Nhưng không phải mọi Kitô hữu đều được kêu gọi theo
Đức Kitô bằng cách ấy.
Bằng phép Rửa tội, chúng ta cũng được kêu gọi
đi theo Đức Kitô. Nhưng đối với một người bình thường, đi theo Đức Kitô có
nghĩa là gì? Là sống xứng danh một Kitô hữu trong ngành nghề của bạn ở bất cứ
nơi nào bạn có mặt. Còn có nhiều cách phục vụ Đức Kitô và Tin Mừng Người hơn nữa.
Ơn gọi ban đầu không hướng đến những tông đồ nhưng hướng đến những người môn
đệ.
Suy Niệm 2. MỘT KHỞI
ĐẦU TỐT ĐẸP
Isaia, Phaolô và Phêrô là trung tâm của các
Bài đọc hôm nay. Cả ba người đã làm những điều vĩ đại cho Thiên Chúa. Tuy nhiên
họ đều có mặc cảm tự ti. Họ có một quan điểm thấp kém về mình. Họ không đặt
mình ra trước, nhưng được Thiên Chúa kêu gọi. Họ chấp nhận ơn gọi ấy một cách miễn
cưỡng, nghĩ rằng họ không xứng đáng với ơn gọi.
Isaia nói: “Tôi là một người có đôi môi ô
uế”. Phaolô nói: “Tôi là người nhỏ nhất trong các tông đồ. Tôi không xứng đáng mang
danh tông đồ”. Và Phêrô tuyên bố: “Lạy Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ
tội lỗi”. Đó không phải là một sự khiêm nhường giả tạo của ông mà là một chân
lý rõ ràng.
Mỗi người bắt đầu bằng sự nhận ra sự bất xứng
và không thích hợp của mình. Theo một quan điểm tâm linh, sự khởi đầu như thế
là lý tưởng. Người nào đặt mình ra trước xem ra làm hại hơn có lợi. Người ấy
chỉ cậy dựa sức mình là cát mà thôi và ngôi nhà tâm linh xây trên cát chắc chắn
sẽ sụp đổ.
Mặt khác, khi chúng ta gặp một người lo sợ,
miễn cưỡng ngần ngại, chúng ta nhận thấy người ấy đáng tin hơn, và nhân đạo
hơn. Yếu tố miễn cưỡng này là cốt lõi của vấn đề, bởi lẽ nếu một thánh nhân
hoặc tử đạo hăm hở đi tìm cái chết hoặc cực hình xem ra không chân thật.
Ở đây có một nghịch lý to lớn. Phaolô nói:
“Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh” (2Cr 12,10). Nghĩa là khi ông nhận ra sự yếu
đuối của mình và chạy đến Thiên Chúa, quyền năng của Thiên Chúa trở nên có hiệu
lực nơi ông.
Khi chúng ta biết những yếu đuối của chúng
ta, Thiên Chúa có thể làm chúng ta mạnh mẽ. Khi chúng ta biết sự trống rỗng của
chúng ta, Thiên Chúa có thể đổ đầy chúng ta. Khi chúng ta biết sự nghèo nàn của
chúng ta. Lúc đó, chúng ta thích hợp để làm công việc của Người, và Người hoàn thành
trong chúng ta những việc mà chúng ta nghĩ mình không làm được.
Sự khiêm nhường là một khởi điểm. Điều đó
không có nghĩa là chúng ta chỉ yếu đuối, vị kỷ và hèn nhát. Không có ân sủng,
chúng ta không thể cứu lấy mình, càng không thể cứu người khác.
Tuy nhiên, người ta có thể dùng tội lỗi và
yếu đuối của mình như một lá chắn. Isaia xin Thiên Chúa chọn người khác, người
nào có cái miệng thanh sạch. Phêrô xin Đức Kitô tránh xa ông vì ông là kẻ tội
lỗi. Khi chúng ta làm điều đó, chúng ta nhượng bộ sự yếu đuối của chúng ta.
Chúng ta dùng sự yếu đuối của mình như một mánh khoé thách đố làm điều thiện
hảo.
Theo Phêrô, Đức Giêsu là Đấng Thánh phải
tránh xa ông là kẻ tội lỗi. Nhưng Đức Giêsu khước từ làm như thế. Người đã đến
vì những người tội lỗi. Bằng cách ấy, Người đã thay đổi cách hiểu của con người
về Thiên Chúa. Thiên Chúa không phải là Đấng xa lánh tội nhân, nhưng là một
Thiên Chúa muốn họ được cứu, và đem đến cho họ một sự khởi đầu mới mẻ.
Isaia, Phaolô và Phêrô sau cùng đã chấp nhận
lời mời gọi của Thiên Chúa, và cả ba đã làm một công việc sáng chói. Đây là một
nghịch lý –sức mạnh vươn lên từ sự yếu đuối. Khi chúng ta đáp lại lời kêu gọi
của Thiên Chúa, Người sẽ ban cho chúng ta sức mạnh để chúng ta có thể làm những
điều mà chúng ta không bao giờ nghĩ mình làm được.
Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta sự khiêm
nhường để hiểu biết những yếu đuối của chúng ta, và cho chúng ta sức mạnh vượt
lên yếu đuối. Lúc đó, chúng ta sẽ có được niềm vui để khám phá ra rằng chính
khi chúng ta yếu là lúc chúng ta mạnh, bởi vì quyền năng của Chúa trở nên có
hiệu lực đối với chúng ta.
7. Đào tạo môn đệ
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi
bằng ba tên: biển Galilê, biển Ti-bê-ri-át và hồ Ghen-nê-xa-rét, hồ này dài 20,8km,
rộng 12,8km. hồ ở vào chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225m dưới mặt
biển, vì thế nó có khí hậu giống như khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư dân không
đông lắm, nhưng vào thời Chúa Giêsu, có chính thị trấn chung quanh bờ hồ, không
thị trấn nào dưới mười lăm ngàn dân. Ghen-nê-xa - rét thực ra là tên của một
cánh đồng xinh đẹp nằm ở phía tây bờ hồ, đó là vùng đất phì nhiêu nhất.
Tại đây chúng ta đối diện với một khúc quanh
trong chức vụ Chúa Giêsu. Lần trước Chúa giảng trong nhà hội nữa, bây giờ Ngài
ở tại bờ hồ. Rồi Ngài sẽ còn trở lại nhà hội nữa, nhưng sẽ đến một ngày, cửa
nhà hội đóng lại trước mặt Ngài, thì Hội Thánh của Ngài sẽ ở nơi bờ hồ, sẽ ở
ngoài đường cái, và tòa giảng của Ngài sẽ là chiếc thuyền. Ngài sẽ đi tới bất
cứ nơi nào người ta muốn nghe Ngài giảng. Khi nhà hội đóng cửa thì Chúa Giêsu
giảng ngoài đường, bên bờ hồ. Vào dịp này Ngài mượn một chiếc thuyền của một
người bạn dùng làm tòa giảng để giảng cho quần chúng. Khi giảng xong, Ngài ban
cho bốn người sắp được kêu gọi một bài học cụ thể về tính cách của công tác và sự
thành công vĩ đại sẽ đến với chức vụ của họ, nếu họ bằng lòng từ bỏ tất cả để
đi theo Ngài. Ngài đã làm một phép lạ vô cùng kích động, và chúng ta có thể
liệt kê các điều kiện để một phép lạ xảy ra:
1. Có mắt biết nhìn xem:
Chúng ta không cần nghĩ rằng Chúa Giêsu đã
dựng nên bầy cá lớn đó trong trường hợp này. Biển Galilê có nhiều bầy cá đông
đảo đến nỗi có thể che đặc cả mặt biển trong một khu rộng lớn. Có lẽ con mắt
thấu suốt của Chúa Giêsu đã nhìn thấy bầy cá lớn đó mà các ngư phủ không thấy.
Chúng ta cần đôi mắt biết nhìn thấy. Nhiều người đã nhìn nước sôi làm bật cái
nắp vung nhưng chỉ một mình James Watt đã nhìn thấy và sáng chế ra máy hơi
nước. Nhiều người đã nhìn thấy táo rơi, nhưng chỉ một mình Isaac Newton đã nhìn
thấy và đã tìm ra luật hấp lực của trái đất. Nhìn lên bầu trời các nhà thiên
văn học tìm thấy nhiều điều hơn là một người thường. Nhìn vào một hàng rào cây
cỏ, các nhà thảo mộc khám phá ra nhiều điều kỳ diệu mà một người nông dân
thường không nhận ra được.
“Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng
thương vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ
Người nói với các môn đệ: lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít, vậy anh em hãy
xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9,36-38).
Sau cuộc tiếp xúc với người phụ nữ xứ Samari
ở bờ giếng Gia-cóp, Chúa nói với các môn đệ viễn tượng tốt đẹp của mùa gặt Tin
Mừng: “Nào anh em chẳng nói: còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt. Nhưng này, Thầy
bảo anh em: Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!”
Và thánh Gioan ghi tiếp: “Có nhiều người Samari trong thành đó tin vào Đức
Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng. Khi gặp Người họ xin Người ở lại với họ,
Người ở lại hai ngày. Số người tin còn đông hơn nữa.” (Ga 4,35.39.40) Thế giới
đầy dẫy những phép lạ cho những ai biết nhìn xem.
2. Có tinh thần biết cố gắng nhẫn nại:
Khi Chúa Giêsu nói thế, dù rất mệt nhọc,
Phêrô cũng sẵn lòng thả lưới một lần nữa. Nhiều người đành chịu thảm bại trong cuộc
đời vì họ ngã lòng quá sớm. Trong cuốn hồi ký “Cuộc đời những thành tựu của
tôi”, nhà tỷ phú Mỹ Henri Ford với biệt danh vua ô tô, đã ghi lại biết quyết
thành công của ông: “Những người đầu hàng thường đông hơn những người chiến
thắng, không phải họ thiếu tiền của, sự hiểu biết, trí thông minh, lòng ham
muốn… cái họ thiếu là lòng kiên nhẫn.” Và ông gọi đó là “nữ hoàng không vương
miện của ý chí.” Ray Knoe, một thiên tài của công ty sản xuất thực phẩm “mì ăn
liền” Mc Donald, cũng có cùng một quan điểm khi xếp lòng kiên trì vào hàng đầu
các năng lực của con người, ông viết: “Không có gì trên thế gian có thể thay
thế lòng kiên trì. Tài năng ư? Cứ xem có biết bao người đầy tài năng mà vẫn cứ
thất bại! Thiên tài ư? Thiếu gì thiên tài đã không được tán thưởng. Giáo dục ư?
Thế gian đầy dẫy những kẻ vô dụng cho dù có học thức. Vậy chỉ có lòng kiên trì và
cương quyết là vạn năng. Nếu thêm vào đó năng lực của lời cầu nguyện thì không
có gì có thể địch nổi.”
3. Có tinh thần cố gắng trong trường hợp hầu như tuyệt
vọng:
Đêm đã qua rồi, đêm mới thuận tiện cho cuộc
đánh bắt cá, tất cả hoàn cảnh đều không thuận tiện, nhưng Phêrô nói: “Trong
hoàn cảnh như vậy, nhưng nếu Thày bảo thì chúng con xin vâng.”
Chúng ta thường chờ đợi vì thời cơ chưa thuận
lợi, nếu cứ chờ đợi cho đến lúc mọi sự đều thuận lợi thì chắc sẽ không bao giờ
chúng ta bắt đầu được. Nếu chúng ta theo đúng lời Chúa Giêsu truyền dạy khi
Ngài bảo chúng ta làm một việc không thể thực hiện thì phép lạ sẽ xảy ra.
Rõ ràng đó là do một quyền phép siêu nhiên
khiến Phêrô cảm thấy mình đang đứng trước sự hiện diện của Đấng Thần linh và tỏ
vẻ sợ hãi như cảm giác của một người đối diện với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã
phán những lời chẳng những đánh tan sự kinh hãi của Phêrô, nhưng cũng đem lại
can đảm cho ông và đồng bạn trong những năm tới: “Đừng sợ, từ nay ngươi sẽ là
kẻ chinh phục người ta.”
Ngày nay Chúa cũng đang kêu gọi chúng ta làm
môn đệ Ngài. Vâng phục có thể bao hàm sự hy sinh, nhưng chắc chắn sẽ đem lại
kết quả là cứu rỗi các linh hồn.
Để kết thúc, chúng ta nên suy gẫm lời của
chân phước Eserive, sáng lập Opus Dei: “Nếu bạn bị cám dỗ để tự hỏi: Ai bảo tôi
xía vô chuyện ấy? Tôi phải trả lời ngay cho bạn: Chính Đức Kitô ra lệnh cho bạn
đó. Ngài bảo bạn phải xin “vì lúa chín đầy đồng mà thợ gặt ít quá, hãy cầu xin
chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa!” Đừng có ươn lười: Việc ấy, tôi, tôi làm sao
được? Tôi có nhiều việc phải làm. Những công việc như vậy không phải để cho
tôi! Không, không có ai khác. Nếu bạn nói được như vậy, nhiều người cũng sẽ nói
như thế. Lời mời của Chúa là dành cho tất cả và mỗi người Kitô hữu. Không có ai
được miễn trừ, dầu là tuổi tác, dầu là sức khỏe, dầu nghề nghiệp. Không có một
miễn trừ nào, một là chúng ta mang lại kết quả cho việc tông đồ hoặc đức tin ta
kiệt quệ.” (Escriva amis de Dieu).
8. Chú giải của William Barclay
NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỦA
MỘT PHÉP LẠ
Hồ nước lớn danh tiếng tại Galilê được gọi
bằng ba tên: hồ Galilê, hồ Tibêriát và hồ Giênêdarét (Ghennêxaret), hồ này dài
20,8 km, rộng 12,8 km. Hồ ở vào một chỗ trũng của mặt đất, nơi sâu nhất là 225m
dưới mặt biển. Vì thế nó có khí hậu giống như khí hậu nhiệt đới. Ngày nay cư
dân không đông lắm, nhưng vào thời Chúa Giêsu, có chín thị trấn ở chung quanh
bờ hồ, không thị trấn nào dưới 15.000 dân. Giênêdarét thực ra là tên của một
cánh đồng xinh đẹp nằm phía Tây bờ hồ, đó là vùng đất phì nhiêu. Người Do Thái thích
chơi “lắp chữ”, họ có ba cách lắp chữ cho Giênêdarét, cả ba cách đều có nghĩa
là xinh đẹp.
1.
Bởi
chữ kinnor, nghĩa là cây đàn, bởi vì “trái của nó ngọt như tiếng đàn”, hoặc bởi
vì tiếng sóng vỗ vui như tiếng đàn.
2.
Bởi
chữ gan, nghĩa là vườn cây, và chữ sar nghĩa là vua, tức là “vua của các vườn”.
3.
Bởi
chữ gan, một khu vườn và chữ asher, của cải, tức “vườn đầy của cải”.
Tại đây chúng ta đối diện một khúc quanh
trong sứ vụ Chúa Giêsu. Lần trước Chúa giảng trong hội đường, bây giờ Ngài ở
tại bờ hồ, sẽ ở ngoài đường cái, và toà giảng của Ngài sẽ là chiếc thuyền. Ngài
sẽ đi tới bất cứ nơi nào người ta muốn nghe Ngài giảng. John Wesley đã nói:
“Các ‘linh đoàn’ của chúng ta hình thành bởi những kẻ phiêu bạt trên các vùng
núi non tăm tối, không thuộc về một Giáo Hội, nhưng họ đã được thức tỉnh bởi
lời giảng của những người đã theo đuổi họ qua các khu rừng hoang vắng cho tới
các làng mạc hẻo lánh hoặc các phố chợ sầm uất, các đồi cao trũng thấp, những
người đã dựng cờ thập giá trên các đường phố, cùng ngõ hẻm của các đô thị,
trong các thôn xóm, trong các nhà kho, trong các nhà bếp trại quê, v.v… và các việc
đó được thực hiện như chưa từng có ai làm kể từ thời các tông đồ”. Wesley còn
nói: “một căn phòng tiện nghi, một cái gối quỳ êm ái, và một toà giảng xinh xắn
tiện nghi thật, nhưng giảng ngoài đồng cứu được nhiều linh hồn hơn”. Khi hội
đường đóng cửa thì Chúa Giêsu giảng ngoài đường, bên bờ hồ…
Trong chuyện này có một điều có thể gọi là
bảng liệt kê các điều kiện của một phép lạ.
1. Có mắt biết nhìn xem.
Chúng ta không cần suy nghĩ rằng Chúa Giêsu đã dựng nên bầy cá lớn đó trong
trường hợp này. Biển Galilê có nhiều bầy cá đông đảo đến nỗi có thể che đặc mặt
biển trong một khu vực rộng lớn. Có lẽ con mắt thấu suốt của Chúa Giêsu đã nhìn
thấy bầy cá lớn đó mà những người ngư phủ không thấy. Chúng ta cần cặp mắt biết
nhìn. Nhiều người đã thấy nước sôi làm bật cái nắp vung nhưng chỉ một mình
James Watt đã nhìn và sáng chế ra máy hơi nuớc. Nhiều người đã nhìn thấy trái
táo rơi, nhưng chỉ một mình Isaac Newton đã tìm ra định luật hấp lực của trái
đất. Thế giới đầy dẫy những phép lạ cho những đôi mắt biết nhìn xem.
2. Có tinh thần biết cố
gắng. Khi Chúa Giêsu nói vậy, dù rất mệt nhọc, Phêrô cũng sẵn lòng thả lưới một
lần nữa. Nhiều người đành chịu thảm bại trong cuộc đời vì họ đã ngã lòng quá
sớm.
3. Có tinh thần dám cố
gắng trong trường hợp hầu như tuyệt vọng. Đêm đã qua rồi, đêm mới thuận tiện
cho việc đánh bắt. Tất cả hoàn cảnh đều không thuận lợi, nhưng Phêrô nói: “Tuy
hoàn cảnh như vậy nhưng nếu Thầy bảo thì chúng con xin vâng”. Chúng ta thường
chờ đợi vì thời cơ chưa thuận lợi, nếu cứ đợi cho tới lúc mọi sự đều thuận lợi
thì chắc sẽ không bao giờ chúng ta bắt đầu được. Nếu chúng ta theo đúng lời
Chúa Giêsu truyền dạy khi Ngài bảo chúng ta làm một việc không thể thực hiện thì
phép lạ sẽ xảy ra.
9.
Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
MẺ LƯỚI CÁ LẠ VÀ GỌI
SIMON PHÊRÔ
Bản văn đóng khung ở dưới đây sẽ cho thấy:
việc kêu gọi Simon là đối tượng của một sự chuyển vị. Thực vậy, đối với Luca
lời kêu gọi này giả thiết Chúa Giêsu và Simon đã quen biết nhau; lời đáp của
Simon sẽ dễ hiểu hơn khi ông biết Chúa Giêsu như một người giảng dạy và chữa
bệnh cách lạ lùng.
Lc 5,1-11 không đơn giản, vì nó không chỉ vay
mượn ở cảnh kêu gọi các môn đệ trong Mc 1,16-20. Lúc đầu, vì quá đông dân chúng,
Chúa Giêsu phải lên một chiếc thuyền để giảng dạy, đó là cảnh ở Mc 4,1-2. Nhưng
đặc biệt, bản văn này kết hợp trình thuật về mẻ lưới lạ đến từ truyền thống và cụng
thấy việc đánh cá trong cả hai trường hợp đều ám chỉ sứ mệnh của Giáo Hội. Việc
gắn liền phép lạ này vào trình thuật kêu gọi môn đệ không có mục đích cung cấp
cho Simon một dấu hiệu mới về quyền năng của Chúa Giêsu, nhưng trước hết phép
lạ đó làm cho kẻ đánh lưới cá trở thành kẻ đánh lưới người. Như vậy, toàn bộ
trình thuật được cấu trúc trên ẩn dụ này.
Việc đặt vị trí cho câu chuyện (c. 1-3), việc
giảng dạy của Đức Giêsu – mà Luca có ý nhấn mạnh nhiều – bị cản trở do chính
thành công của mình = đám đông chen lấn Người để nghe lời Thiên Chúa – Lời
Thiên Chúa mà về sau Phêrô và nhóm Mười Hai cũng sẽ không bỏ quên được (Cv
6,2). Hai chiếc thuyền và đoàn thủy thủ đang sẵn sàng – nếu họ giặt lưới là vì
công việc đã xong. Hơn nữa, Chúa Giêsu và Simon đã biết nhau. Chiếc thuyền của
ông không chỉ giúp cho Thầy tách ra khỏ đám đông và tiếp tục việc giảng dạy một
cách thỏa đáng hơn.
Vì liền sau đó, Chúa Giêsu bảo Simon đưa
thuyền ra chỗ nước sâu và, cùng với cả đoàn ngư phủ thả lưới (c. 4-7). Đã từng trải
trong nghề, ông chủ thuyền bực bội trước lệnh của một người sống ở nông thôn và
trước một kết quả hết sức là bấp bênh. Tuy nhiên, nếu ông thả lưới, không phải
vì ông thử bắt cá – bởi lẽ ông đã vất vả suốt đêm và đã thất bại – mà vì muốn
vâng theo một lời nói mà ông đã có kinh nghiệm về hiệu quả. Mà, trong trường
hợp này, hiệu quả còn ở điểm hẹn: hiệu quả vượt hẳn qua sức chứa của những chiếc
lưới của Simon đến nỗi sắp rách. Không thể rách lưới được, vì bằng một dấu hiệu
ngầm, đoàn ngư phủ khác đã đến giúp: như vậy chiếc thuyền thứ hai nêu rõ sự vĩ
đại của phép lạ. Nhưng Luca còn nhấn mạnh thêm đến hiệu quả của Lời Chúa Giêsu:
dưới sức nặng của mẻ cá bắt được: hai chiếc thuyền suýt gần như chìm.
Với các câu 8-11, mọi chú ý đều hướng về
Simon Phêrô, bằng cách ghép hai tên mà Chúa Giêsu đặt người đứng đầu nhóm Mười
Hai (6,14). Thấy phép lạ, Simon cùng có một phản ứng như Isaia (Is 6,5-6): một
con người, tất nhiên là tội nhân, không thể sống được khi tiếp cận với quyền
năng thần linh của Thiên Chúa. Sự kinh hãi thánh thiêng chiếm ngự cả các bạn
đồng nghiệp của Phêrô. Để làm nổi vai trò của Phêrô, mãi đến bây giờ Luca mới
nhắc đến Giacôbê và Gioan, Anrê được nói đến ở Mc 1,16 với ba vị khác, ở đây bị
bỏ qua – như ở 4,38. Chính vì Luca đặt nổi bộ ba Phêrô, Gioan và Giacôbê, sẽ là
những nhân chứng về hai dấu chỉ của quyền năng thần linh khác nữa (8,51; 9,28).
Nhưng trở ngại mà Phêrô đặt ra đã được giải
tỏa: cũng giống như các sứ giả thần linh trong các cảnh mặc khải (x. 1,13 - 30;
2,10). Chúa Giêsu vượt qua khoảng cách khi bảo Phêrô đừng sợ. Rồi, không gọi rõ
tên Simon như đã xảy ra cho ông và anh của ông ở Mc 1,17, Chúa Giêsu chỉ nói
lên một lời hứa cho mình ông thôi. Luca viết lại lời hứa này để giải tỏa ẩn dụ
của việc đánh cá khỏi khía cạnh tiêu cực của nó – những con cá chết – và nhắc
tới việc phán xét của Chúa (Gr 16,16): “Từ nay, anh sẽ là kẻ cứu sống người ta”.
Động từ mà Luca chọn có nghĩa đen là “bắt sống”. Bởi đó chúng ta hiểu mẻ lưới
lạ tiên báo lời rao giảng Kitô giáo có mục đích quy tụ những con người lại –
hình ảnh chiếc lưới bắt cá – để họ được sống. Cũng có những tiếng “từ nay” –
một diễn ngữ quen thuộc của Luca (xem trong kinh Mangificat 1,48), mở ra giai
đoạn mới của ơn cứu độ. Thời tương lai được mở ra bởi câu 10, đó là hiện tại
của Giáo Hội đã bắt đầu từ ngày ấy.
Simon Phêrô không chỉ là phát ngôn viên của
nhóm người quy tụ xung quanh Chúa Giêsu (Lc 9,20); ông sẽ còn giữ một nhiệm vụ
tương tự trong cộng đoàn đầu tiên ở Giêrusalem sau Phục Sinh (Cv 1,15). Nhất là
ông sẽ rao giảng lời Chúa, như vậy là thả một mẻ lưới lớn quy tụ nhiều người để
họ được sống (Cv 2,14-41).
Chúa Giêsu không có một lời kêu gọi nào cho
các bạn đồng nghiệp của Simon; phép lạ và lời Chúa nói với Simon đã là một
tiếng gọi và tất cả sẽ theo Người. Được mượn ở ngôn ngữ của các Kinh sư, thuật
ngữ này chỉ điều kiện của người môn đệ chấp nhận đi theo bước chân của Thần
mình (x. Lc 5,27-28). Sau cùng, một nét đặc trưng nữa của Luca; những môn đệ
mới bỏ tất cả, không chỉ bỏ lưới như ở Mc 1,18. Theo Chúa Giêsu, đó làm một
chọn lựa triệt để.
10.
Chú giải của Noel Quesson
Trang Tin Mừng này, như nhiều trang khác,
dưới vẻ bề ngoài hời hợt kể về một giai thoại của đời sống Đức Giêsu thật ra là
một trang về giáo hội học hay thần học về Giáo Hội.
Một hôm, Đức Giêsu đang đứng ở bờ hồ Ghen-nê-xa-rét, dân
chúng chen lấn nhau đến gần Người để nghe lời Thiên Chúa
Trước tiên, tôi nhìn ngắm quang cảnh cụ thể.
Rồi tôi thử tưởng tượng. Đức Giêsu ở giữa một đám đông. Người nói. Đám đông
lắng nghe Người. Người không nói bất kỳ điều gì: Người nói Lời Chúa. Nhà thần
học Luca nói với chúng ta đó là vai trò đầu tiên của Giáo Hội: việc rao giảng!
Điều mà Giáo Hội cố gắng thực hiện chính.Đức Giêsu đã bắt đầu điều đó. Sự rao
giảng của Giáo Hội là sự kéo dài việc rao giảng của Đức Giêsu và có cùng một
nội dung.
Lạy Chúa, xin cho con lòng yêu mến Lời Chúa,
lòng khao khát được lắng nghe Lời Ngài.
Người thấy hai chiếc thuyền đậu dọc bờ hồ, còn những
người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang giặt lưới. Đức Giêsu xuống một
chiếc thuyền, thuyền đó của ông Simon, và Người xin ông chèo thuyền ra xa bờ
một chút. Rồi Người ngồi xuống, và từ trên thuyền Người giảng dạy đám đông
Quang cảnh cụ thể và hiện thực. Nhưng cũng là
quang cảnh có tính tượng trưng sâu sắc. Chiếc thuyền tạo ra một khoảng cách;
giữa Đức Giêsu và đám đông, như thế nhấn mạnh vẻ uy nghi nào đó của Đức Giêsu
đang ngồi giảng dạy. Và "thuyền đó là thuyền của Simon "tức Phêrô”
Giữa đám đông các môn đệ, Luca thong thả nhận ra một vài người sẽ trở thành
"nhóm mười hai mà Đức Giêsu gọi là các Tông Đồ." (Lc 6,12)...và trong
nhóm mười hai này, Luca còn nhận ra Simon là trọng tâm của bài tường thuật và
được gọi đích danh sáu lần trong trang Phúc âm này. Vì thế, đây là cơ cấu chủ
yếu của Giáo Hội mà Đức Giêsu mong muốn.
Cơ cấu tổ chức của Giáo Hội có thể làm cho
chúng ta vui mừng hay khó chịu. Dọc dài theo lịch sử, các giáo hoàng và các giám
mục có thể đã đóng những vai trò trần tục theo hình ảnh các ông hoàng của thế
gian này, hỡi ôi! Nhưng về mặt thần học, chính Đức Giêsu thiết lập cơ cấu tông
truyền của Giáo Hội. Trong Giáo hội, các vị có chức tránh trước tiên không phải
là một thủ lĩnh, một bề trên trong phẩm trật, một người chấp chính, mà là một
người phục vụ đại diện cho Đức Kitô, Đấng Phục vụ trong bí tích. Giáo sĩ là một
dấu chỉ, một Bí tích của Đức Giêsu Kitô. Giữa đám đông các môn đệ có linh mục
là dấu chỉ rằng chúng ta không chinh phục ân sủng và Lời Chúa, nhưng chúng ta
tiếp nhận Lời từ một Đấng khác. Thánh chức đại diện cho Đức Kitô quả là một
trách nhiệm đáng sợ. Ngày hôm nay, chẳng phải chúng ta có khuynh hướng nguy
hiểm là đánh giá thấp "lời giảng dạy" của Giáo Hội, là bác bỏ khỏi
Giáo Hội khía cạnh bí tích, mầu nhiệm, thiêng liêng đó sao? Để chỉ nhìn thấy
con người đang nói mà quên đi Đấng mà người ấy đại diện và biểu thị một cách
hiệu lực đó sao? Công đồng dám khẳng đinh: "Chúa Kitô hằng hiện diện trong
Giáo Hội nhất là trong các hoạt động phụng vụ Người hiện diện trong con người
thừa tác viên. Người nói khi người ta đọc Thánh Kinh. Ai rửa tội chính là Đức
Kitô rửa. Phụng vụ đáng được xem là việc thực thi chức vụ tư tế của chính Chúa
Giêsu Kitô, trong đó công cuộc thánh hóa được biểu tượng nhờ những dấu chỉ khả
giác" (S.C 7). Chúng ta có cầu nguyện để các Giáo hoàng, các Giám mục, các
linh mục đóng đúng vai trò ấy hay không?
Chiếc thuyền ấy của Simon, neo trong cái vũng
nhỏ ở Ca - phác-na-um; tôi thích tưởng tượng nó như một chiếc thuyền cũ kỹ tồi
tàn mà khắp mọi chỗ có những mảnh ván đóng đinh chong vào để lấp kín những chỗ
hư hại... một chiếc thuyền rất phàm nhân, rất bình thường, rất nghèo hèn! Nhưng
Đức Giêsu đã bước lên chiếc thuyền ấy và từ đó Người nói! Ôi! Chiếc thuyền mẫu
nhiệm, Giáo Hội của Người, và Lạy Chúa, nó vừa rất con người và cũng rất thánh thiêng…
Giảng xong, Người bảo ông Simon: "Chèo ra chỗ nước
sâu mà thả lưới bắt cá
Bản dịch theo mặt chữ thì tốt hơn và nói
rằng: Ra chỗ nước sâu hay đúng hơn: "Ra chỗ nước trên vực thẳm "eis
to bathos" ' tiếng Hy Lạp. Từ tiếng Bathos có nghĩa là vực thẳm, mà có từ
tiếng Pháp "bathiscaphe": Chiếc tàu lặn của Cousteau để thám hiểm các
vực sâu dưới đáy biển. Đối với dân Sêmít, dân cư của các vùng đất khô cằn, biển
là nơi đáng ngại nhất, biểu tượng của các vực thẳm nội tâm, nơi ở của các quái
vật trong hỏa ngục (St 7,17; Tv 74,13-24,2; Gr 38,16; Gn 2,2; Kh
9,l-3-20,3-13,1). Nghề biển là một nghề nguy hiểm. Oâi có biết bao thủy thủ,
thuyền trưởng “bị nuốt chửng, nhận chìm" vào cái hàm mở rộng của biển cả!
Như thế, Đức Giêsu nói một cách tượng trưng
điều này: "Con thuyền của Simon, Giáo Hội của Ta, hãy tiến vào nơi hiểm
nghèo của biển cả, vào nơi hiểm nghèo của thế gian, hãy rời bỏ sự an toàn của
bờ bến; hãy tiến lên trên vực thẳm". Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết mạo
hiểm.
Ông Simon đáp: "Thưa Thầy, chúng tôi đã vất vả suốt
đêm mà không bắt được gì cả. Nhưng vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.
Sứ mạng của Giáo Hội hoàn toàn vượt quá những
sứ mạng của con người: Người môn đệ chân chính lắng nghe "lời" Chúa
dù lời đòi hỏi người ấy những điều xem ra phi lý.
Họ đã làm như vậy, và bắt được rất nhiều cá, đến nỗi hầu như
rách cả lưới. Họ làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền kia đến giúp.
Những người này tới, và họ đã đổ lên được hai thuyền đầy cá, đến gần chìm
Luca nhấn mạnh đến tính chất phi thường của
việc đánh cá siêu phàm ấy: Lưới rách, một sự giúp đỡ cần thiết, người ta đổ cá
đầy "hai" thuyền, thuyền sắp chìm!
Giáo Hội chỉ có thể thành công nhờ tin vào
Lời của Đức Giêsu. Thế thì Simon tư tế phải nhớ lại thôi! Trên mảnh đất chuyên
môn của mình Simon tưởng mình có khả năng, nhưng Đức Giêsu đã đánh trúng ông,
đã chỉ cho ông những giới hạn của mình: Vì thế, ông không là gì cả nếu không có
Người. “Chúng tôi đã vất vả mà không bắt được gì cả!" Chúng ta cũng thế,
trong chiếc thuyền của chúng ta, chúng ta thường phải nhường chỗ cho một Đấng
Khác, để thả lưới ở nơi mà chúng ta không tự mình làm được.
Đó là ý nghĩa mẫu nhiệm của sự thất bại: giai
đoạn đau khổ và khiêm hạ để chúng ta từ bỏ chính mình và đem lại cho chúng ta
cơ hội giải phóng mình khỏi những ảo tưởng vẫn làm cho chúng ta tin tưởng vào
giá trị của mình. Như thế, có chẳng lúc, chúng ta được mời gọi phải thực hiện
một bước liều của đức tin: để hoàn thành các bổn phận nghề nghiệp của chúng ta,
để yêu thương chồng mình để chấp nhận một đứa con, để chịu đựng một thử
thách... hay hoàn toàn đơn giản, để chịu đựng một ngày của cuộc sống khô cằn trong
đó chúng ta vất vả mà không thu hoạch được gì. Chúng ta phải tiến lên trên vực
thẳm", phải liều mình với một cử chỉ điên rồ mà Đức Giêsu đòi hỏi chúng
ta! Hỡi Giáo Hội! Tại sao bạn còn nghi ngại?
Thấy vậy, ông Simon Phê-rô sấp mặt dưới chân Đức Giêsu và
nói: "Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!" Quả vậy,
thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt ở đó với ông
đều kinh ngạc
Ở đây Luca đùng trước biệt danh
"Phêrô" mà sau này Đức Giêsu sẽ đặt cho ông Simon (Lc 6,14). Cũng
vậy, Luca dùng trước danh hiệu "Chúa" ("Kurios" trong tiếng
Hy Lạp) sẽ là danh hiệu của Chúa phục sinh trong vinh quang (Lc 24,3 - 24,34).
Trước sự hiện diện của Thiên Chúa, con người
luôn cảm thấy một sự run sợ lạ lùng, đây là nền tảng hầu như phổ biến của tình
cảm tôn giáo trong mọi tôn giáo trên thế giới. “Khốn cho tôi, tôi là một con
người có đôi môi ô uế". Isaia đã nói (6, 1) khi nghe thấy các thiên sứ kêu
lên: “Thánh! Thánh! Thánh! Lạy Chúa là Thiên Chúa hoàn vũ" Chúng ta còn nhớ
những người dân ở Nadarét xin Thiên Chúa làm những phép lạ! Còn người môn đệ
chân chính lại sợ hãi trước phép lạ và cầu khẩn Thiên Chúa tránh xa mình. Xin
Chúa trách xa con, Phêrô khẩn khoản nài xin. Con là kẻ tội lỗi. Sau này khi
nghe tiếng gà gáy, ông sẽ còn khám phá một cách sâu xa hơn tình trạng tội lỗi
của mình! à thì ra người ta không thờ phụng nhân cách trong Giáo Hội, cũng không
tôn thờ giáo hoàng. Con người mà Đức Giêsu đã yêu cầu đại diện Người tức vị
giáo hoàng đầu tiên là một "con người tội lỗi". Trước đó, Phêrô là
trưởng nhóm", ông tin tưởng vào kiến thức và kinh nghiệm của mình. Nhưng
cuộc gặp gỡ với Đức Kitô đã cho ông thấy sự nhỏ bé của ông. Đức Giêsu chuẩn bị
ông trở thành thủ lãnh tối cao của Giáo Hội Người bằng cách làm cho ông ý thức
sự vô nghĩa của mình. Thánh Gioan khi kể lại sự đánh cá mầu nhiệm đã đặt nó sau
sự Phục Sinh (21,1,19) và câu chuyện chấm dứt bằng việc nhắc đến Phêrô đã ba
lần chối Chúa, và bằng sự tín nhiệm của Đức Giêsu đem lại cho người tội lỗi ấy
một sứ mệnh!
Cả hai người con ông Dê-bê-đê, là Gia-cô-bê và Gio-an,
bạn chài với ông Simon, cũng kinh ngạc như vậy
Ở đây trong quá trình câu chuyện, Luca kể lại
cho chúng ta tên những người khác như để làm nổi bật Phêrô trước đó.
Và các người bạn ấy của Phêrô được kể ra để
nói rằng họ chia sẻ niềm kinh ngạc lạ lùng của Phêrô là cũng là những người sẽ
có đặc ân đáng sợ là bộ ba chứng kiến (Phêrô, Giacôbê và Gioan) sự sống lại của
một bé gái (Lc 8,51), sự biến hình trên núi (Lc 9,28), sự hấp hối trong vườn
cây dầu (Mt 26,37).
Ngày nay, sự sợ hãi mà điều thánh thiêng gây
ra dường như biến mất. Nhưng đó không phải là sự biến mất. Đó là một sự di
chuyển: Khi người ta mất đi sự kính sợ Thiên Chúa, thì người ta bị mọi thứ hốt
hoảng và sợ hãi xâm chiếm: nguy cơ nguyên tử, sự mất quân bình đủ loại sự mỏng dòn
mới về tâm lý, sự lo lắng trước tương lai.
Bấy giờ Đức Giêsu bảo ông Simon: Đừng sợ
Đó là lời an ủi mà trong Kinh Thánh các thiên
sứ luôn luôn nói với những con người sững sờ vì sự hiện diện thánh thiêng (Lc
1,13-30 - 2,10). Đó cũng là lời mà Đức Giêsu sẽ luôn luôn nói sau khi Người
sống lại (Mt 28,10; Kh 1,17).
Từ nay anh sẽ là người thu phục người ta.
Theo hình ảnh tượng trưng của biển cả được
khai triển bên trên, vấn đề là "cứu sống những con người khỏi vực thẳm quỷ
quái": Đó là vai trò của Giáo Hội. Nhân loại là mồi ngon của những sức
mạnh đáng sợ muốn nuốt trửng nhân loại. Bạn"hãy là "kẻ đánh lưới
người", bạn hãy cứu họ!
Thế là họ đưa thuyền vào bờ, rồi bỏ hết mọi sự mà theo Người
Phép lạ thật sự không phải là đánh cá ngoài
khơi xa mà là đánh cá trong các tâm hồn; họ đã chọn lựa sự liều lĩnh ấy của Đức
tin để theo Đức Giêsu và bỏ hết mọi sự.
11. Những môn đồ tiên khởi - R. Gutzwiller
Cho đến bây giờ vẫn chỉ có một mình Đức Giêsu
giảng Tin mừng. Bây giờ Ngài tụ tập các môn đệ quanh Ngài. Chắc hẳn đó là một
cộng đoàn thính giả, nhưng cũng là những cộng tác viên mà Ngài cho tham dự tích
cực vào công việc của Ngài. Điều này xem ra có vẻ bất ngờ và ngạc nhiên. Thế
nhưng, ngay bản chất của Thiên Chúa nhập thể đòi hỏi Ngài phải sử dụng con
người để xây dựng Nước Thiên Chúa. Lời mời gọi thật là ý nghĩa bắt đầu nơi
Simon Phêrô.
1. Chuẩn bị.
Nơi Simon, thửa đất được chuẩn bị thật kỹ
lưỡng, mặc dầu ông không ý thức được điều đó. Ông có mặt khi Chúa chữa lành
người quỷ ám trong hội đường. Nơi nhà ông, Chúa đã chữa lành bà nhạc của ông và
chiều đến, trước cửa nhà ông, nhiền bệnh nhân đã tìm lại được sức khoẻ một cách
lạ lùng. Đây Chúa Giêsu đang ngồi trên chiếc thuyền đánh cá của ông, nhẹ nhàng
đi ra xa bờ và từ đó, Ngài cất tiếng giảng dạy dân chúng; vị trí đặc biệt này
cũng là vị thế của ông trong lãnh vực thiêng liêng.
Trong việc sửa soạn trực tiếp cho vị Tông đồ
có hai phương diện: đòi hỏi và củng cố.
Yêu cầu thứ nhất là phải luôn dễ dàng suy
phục đức tin. Chúa Giêsu bảo ông ra khơi thả lưới. Phêrô cũng từ chối như bất
cứ người nào khác: ông tuyên bố rõ rằøng: mình đã vất vả suốt đêm –thời gian
thuận tiện để đánh cá- cùng các bạn, thế mà chuảng kết quả gì. Bây giờ tại sao
lại phải làm nữa, vào một lúc bất lợi, khi mà con người mệt mỏi và xét theo loài
người thì tất bại là cái chắc!
Nhưng ông cũng thưa: ‘Vâng lời Thầy, con sẽ
thả lưới’. Tinh thần đức tin đưa đến chỗ vâng phục, khiến cho ông được thừa
nhận và được ban thưởng một mẻ cá lạ lùng. Mẻ cá mà Simon và em là Anrê bắt
được quá nhiều đến độ ông phải làm hiệu cho bạn là Giacôbê và Gioan ở một chiếc
thuyền khác đến giúp đỡ. Và cả hai thuyền đầy ắp những cá.
Con người lao công, Thiên Chúa thưởng công.
Cần con người phải ra tay hành động, phải cố gắng, phải sử dụng mọi phương tiện
cần thiết, nhưng trong việc phụng vụ nước Chúa, phần kết quả không tuỳ thuộc ở
con người.
Kể từ thời ấy, Giáo Hội rất thường sử dụng
mọi phương pháp để hoạt động tông đồ, dốc toàn lực và kiên trì làm việc; dầu
hạt giống đã gieo, nhưng số thu hoạch không tăng gấp bội.
Ngược lại, khi không, ở một miền nào đó trên
trái đất, nơi người ta chẳng hy vọng gì thì nhiều lần Thiên Chúa lại làm phát sinh
một mùa thâu hoạch thật là phong nhiêu, chỗ mà người ta cho rằng kết quả chẳng
có bao nhiêu. Ở đây trong sự mời gọi thi hành nhiệm vụ khởi đầu của Simon, rõ
ràng thành công hay thất bại đều ở trong tay Chúa, vất cả chỉ có ý nghĩa khi nó
hợp với Thánh ý và giới mệnh của Chúa, thi hành cả lúc coi là có viễn tượng
thất bại, nhưng làm với một niềm tin trung kiên bền vững.
Đòi hỏi thứ hai là ý thức tình trạng tội lỗi
của mình. Thánh Phêrô đã hiểu mẻ cá này có ý nghĩa gì rồi. Nó làm cho ông chú ý
đến Đức Kitô dường như ngôi sao lạ đối với các đạo sĩ, bởi vì mẻ cá nhiều quá
đỗi, trong một khoảng thời gian vắn, một nơi bất lợi, tất cả cho ông biết rằng
có sự hiện diện của một lực siêu nhiên.
Do vậy, Thánh Phêrô có kinh nghiệm về Thiên
Chúa nhờ gần gũi với Đức Kitô. Sự gần gũi này làm ông sợ hãi đến cùng cõi thâm
sâu trong người ông, ông ý thức được tình trạng tội lỗi của mình, đó là cái
không thể tồn tại trước nhan Thiên Chúa. Con người càng cảm thấy sự hiện diện
của Thiên Chúa hằng sống, thì càng thấy cái tôi tội lỗi cua mình biểu hiện ra
thật đau khổ và không thể nào chịu được. Vì đó Thánh Phêrô, đã sụp xuống và sợ
hãi thưa: ‘Lạy Chúa xin hãy xa tôi, vì tôi là kẻ tội lỗi’.
Đó hẳn là thái độ xứng hợp. Con người được
mời gọi cộng tác vào nước Thiên Chúa chẳng phải vì có những khả năng đặc biệt
như những tư chất tri thức, điều kiện luân lý và đạo đức, nhưng chỉ đơn giản là
vì Thiên Chúa muốn họ cộng tác, có thế thôi, chứ nơi con người không có chi
xứng đáng để Thiên Chúa phải chọn lựa. Một khi con người biết rằng mình được
Thiên Chúa mời gọi không phải vì ‘mình thế này thế nọ’, nhưng ‘cho dù mình bất
xứng, Thiên Chúa cũng vẫn…’, và nếu thành thực thú nhận rằng mình tội lỗi thì
sẽ chẳng quy kết quả và vinh dự cho bản thân mình nhưng cho duy mình Thiên Chúa
mà thôi.
Thế cho nên mẻ cá lạ lùng này là một chuẩn bị
tuyệt hảo. Khi con người tội lỗi tín thác vào sức mạnh và sự cao cả của Thiên
Chúa, và bắt tay vào việc với tinh thần dễ dậy và ngoan ngoãn với đức tin, thì
lúc đó họ đang sống trong chân lý. Mọi thái dộ khác xuất phát từ nguyên một
triết lý tự nhiên thôi, đều phải coi là sai lạc. Chúa Giêsu không đòi hỏi mà thôi,
phép lạ của Ngài còn làm cho Simon và các đồng bạn được vững chắc trong tâm
hồn.
Là những ngư phủ thiện nghệ, họ sẽ chẳng bao
giờ quên được mẻ cá này. Họ chưa từng thấy hay kinh nghiệm một trường hợp nào
tương tự. Nay bỗng dưng vào một lúc bất tiện, cả một đàn cá từ tứ phía đổ tràn
vào lưới; nay bỗng nhiên mẻ cá nhiều đến độ hai thuyền chở nặng gần chìm; họ
coi đây là hiện tượng siêu phàm không thể hiểu được.
Sau này khi đi giảng Tin mừng các ông sẽ gặp
sự chống đối từ phía Israel, và sẽ phải từ bỏ dân riêng của mình sau bao năm
trường vất vả mà không kết quả để quay về phía các dân ngoại.
Với một thiểu số ít ỏi, họ đã chinh phục được
những thành phố lớn; đến giờ chịu tử đạo, các ông sẽ phải bỏ mạng sống mình và
bỏ tất cả để chấp nhận một số phận bấp bênh hầu phục vụ nước Thiên Chúa. Thế
nhưng các ông không lầm khi theo Chúa Kitô bởi vì từ nay các ông biết rằng kết
quả có thể đến bất ngờ, hoàn toàn bất ngờ ở nơi nào, lúc nào tuỳ sự tự do cao
cả Chúa định đoạt. Các ông không còn lo lắng đến thành công hay thất bại, chính
Chúa Kitô sẽ quyết định những điều đó.
Sau những đêm trường vất vả mà công dã tràng,
các ông nhận được những buổi mai vinh thắng. Trong nước Thiên Chúa, vất vả cố
gắng không được cân đo theo những quy luật tự nhiên. Ta hãy tin rằng mọi sự đều
ở trong tay Thiên Chúa; phải luôn luôn thi hành công việc với lòng hy vọng và đừng
khi nào thất vọng.
2. Sứ vụ
Simon nài xin: ‘Lạy Thày, xin hãy tránh xa
con’. Chúa Giêsu trả lời ông theo một hướng trái ngược hẳn: ‘Đừng sợ, các con
sẽ là kẻ chinh phục người ta’. Tạo vật tội lỗi có lý do để sợ hãi. Nhưng ơn
sủng của Chúa Kitô sẽ xua đuổi nỗi lo sợ này. Tội lỗi đẩy ra xa, còn ân sủng
kéo lại gần. Không phải chỉ để vui hưởng yên ủi hay bản thân được cảm nghiệm, nhưng
là để tham dự và cộng tác vào công trình của Chúa. ‘Con sẽ là ngư phủ lưới
người ta’.
Chiếc ghe nhỏ của Phêrô từ đây sắp lướt trên
đại dương, tức là lịch sử thế giới, đoàn người đi với Ngài không ngừng tìm cách
câu lưới người ta. Con người sẽ trở nên miếng mồi của Thiên Chúa, nhưng không
phải để bị huỷ diệt, mà là để được giải thoát: để được cứu vớt khỏi cái đầm lầy
đáng thương tức là cuộc sống hoàn toàn có tính cách trần thế, và được đưa sang
đại dương mênh mông tức là tình yêu của Thiên Chúa.
Bởi vì một khi sóng nước đời này muốn làm
biển cả thì thực tế lại chỉ là một cái đầm lầy nước đọng. Chỉ khi nào sa vào lưới
của Chúa và rồi được Ngài cho chìm ngập trong những cuộn sóng ơn sủng, bấy giờ,
họ mới có được cái kinh nghiệm thế nào là sự phong phú của một đời sống trong Chúa.
Để thực hiện chương trình này, Chúa Giêsu sắp
chinh phục những con người mà Ngài sẽ lấy quyền năng của mình để trang bị cho
và trao cho nhiệm vụ ra đi giảng dạy. Do đó không được hoàn toàn quên đến phần
đóng góp của con người để cho rằng một mình Thiên Chúa làm hết mọi sự.
Nhưng thể theo ý của Đức Kitô, Đấng đã sắp
đặt như thế chứ không theo cách khác, những con người này phải chịu vất cả với
sự kiên nhẫn, đam mê kiên trì của một ngư phủ, để đem hiểu biết cũng như tài
khéo trong việc đánh bắt những con người ‘cô đơn’ sử dụng những phương pháp
tinh xảo để thu phục đám đông, dành mọi nỗ lực để phục vụ sứ mạng đã được trao
phó.
Không có gì cao quí cho bằng nghề lưới người:
phải bắt đầu lại luôn luôn, hết mẻ này đến mẻ khác… đến với mọi giai tầng xã
hội, mọi ý thức hệ chính trị, mọi phe nhóm quốc gia, chủng tộc.. Mọi tuổi tác,
giới phái, trình độ văn hoá… Các ngư phủ lưới người phải làm việc theo lệnh của
Chúa ở khắp mọi nơi. Đó là sứ vụ của họ.
Vậy họ trả lời ra sao? ‘Các ông đã từ bỏ mọi
sự mà đi theo Ngưới’. Bản văn không thuật lại một lời phản kháng nào của bốn
môn đệ tiên khởi cả. Không bán tín bán nghi, cũng không từ chối vì thứ khiêm
nhường giả tạo, cũng không vì nhiệt tình bồng bột; nhưng chỉ nhấn mạnh đến hai
mặt của sự kiện: ‘Các ông đã bỏ mọi sự mà đi theo Người’. Mỗi một mặt đều có
tầm quan trọng riêng của nó.
Bỏ mọi sự. Con người phải cởi bỏ những mối
dây làm mình bị vướng víu và tê liệt. Cần phải có bàn tay và tâm hồn tự do.
Không còn thuộc về thế giới xung quanh và cái vũ trụ quen thuộc. Chúa Kitô muốn
cho kẻ được Ngài mời gọi cộng tác phải hoàn toàn tuỳ Ngài xếp đặt. Ân huệ tuyệt
đối giả thiết sự từ bỏ hoàn toàn. Nhờ từ bỏ, con người chuẩn bị cho mình thật
sẵn sàng.
Đi theo Người. từ nay có một nhóm môn đồ ở
với Thầy. Các ông không theo Ngài kiểu như những học trò thụ giáo một bậc Thầy
triết lý: bởi vì đây không nhằm mục đích tri thức, nhưng là một sự dấn thân
thực sự. Chúa Giêsu đã biến những ngư phủ này thành những ngư phủ lưới người,
kéo họ ra khỏi cái thế giới nhỏ hẹp của họ; họ sắp đi theo Ngài, cùng Ngài đi
vào thế giới mênh mông. Họ thuộc về Ngài hoàn toàn, họ đã khám phá một tâm điểm
mới cho cuộc sống, một mục đích mới để hoạt động.
Giờ đây chính Chúa Giêsu sắp xếp mọi sự cho
họ; Chúa Kitô sẽ là số phận của họ trong suốt cuộc sống của họ trên dương thế,
và là cuộc sống mới của họ. Sau mẻ cá lạ lùng này, họ đã cập bờ nhưng với con
người hoàn toàn khác hẳn. Sự ra đi này biến thành một cuộc vượt biển mới, cuộc Vượt
qua bao la và đòi can đảm mà họ chỉ thoáng linh cảm thấy.
Theo gương Chúa Kitô, qua việc từ bỏ và tận
hiến mình thực sự là điều lớn lao nhất trong cuộc sống của con người.
12. Chú giải của Fiches Dominicales
BÊN BỜ HỒ GHEN-NÊ-XA-RÉT, NGƯ PHỦ SIMON
ĐƯỢC CHÚA KÊU GỌI TRỞ THÀNH PHÊRÔ,
KẺ BẮT NGƯỜI NHƯ BẮT CÁ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một chiếc thuyền đánh cá.
Một lần nữa, chúng ta lại sắp được thấy Luca
vẽ nên bức tranh này một cách rất tài tình. Khi đặt việc Đức Giêsu kêu gọi những
môn đệ đầu tiên trong bối cảnh một mẻ lưới lạ lùng, mà ta sẽ gặp lại Phúc âm
Gioan 21, 1-11, Luca có ý lấy Simon-Phêrô làm một nguyên mẫu, và dùng chiếc
thuyền làm biểu tượng Giáo Hội truyền giáo.
Theo Phúc âm Máccô và Matthêu, hành động đầu
tiên của Đức Giêsu khi thi hành sứ vụ là kêu gọi các môn đệ. Còn trong Phúc âm
Luca, đầu tiên Đức Giêsu lại được giới thiệu xuất hiện một mình đứng trước đám
đông, rồi chỉ sau đó Người mới kêu gọi các môn đệ.
·
Trước
tiên là "Simon", chủ chiếc thuyền mà lát nữa Đức Giêsu sẽ ngồi vào vị
trí của ông. Chỉ trong có ít dòng mà tên ông được nói tới năm lần, trong đó có
một lần và là lần đầu tiên ông được gọi là Simon-Phêrô Lúc này ông là târn điểm
của bài tường thuật, mà cũng sẽ là tâm điểm trong Phúc âm của Luca nữa.
·
Rồi
đến "hai con ông Zêbêđê là Giacôbê và Gioan, bạn chài với ông Simon"
·
Cả
ba ông, được kêu gọi trước tiên, sẽ là những chứng nhân đặc tuyển được chứng
kiến việc hồi sinh cho con gái ông Giai-rô, việc Chúa biến hình sáng láng trên
núi Taborê (Lc.9,28).
Khung cảnh là "ven bờ Biển hồ
Ghennêxarét": Đức Giêsu giảng dạy bên bờ hồ, bao quanh người là đông đảo
dân chúng chen lấn nhau "để nghe lời Thiên Chúa ". Có hai chiếc
thuyền đậu gần đó. Còn "những người đánh cá thì đã ra khỏi thuyền và đang
giặt lưới", sau khi đã đi đánh cá trở về.
R. Meynet nhận xét: "Đức Giêsu giảng dạy
bên bờ hồ, bao quanh Người là đông đảo dân chúng chen lấn nhau. Trong khi đó,
những người dân chài đang lo toan công việc thường ngày của họ: họ đang giặt
lưới. Đám đông có đó, nhưng họ lại không tham dự cùng với đám đông. Đám đông lắng
nghe lời Chúa, còn họ đang lao dộng" (Lévangile se lon saint Luc. Phân
tích tu từ ", tập 2 trg 70).
2. Trở thành toà giảng
Bỗng dưng mọi sự bắt đầu đảo lộn. Đức Giêsu
xuống một chiếc thuyền, "thuyền đó của ông Simon và Người xin ông chèo
thuyền ra xa bờ một chút ".
Thế là từ đây hai người, Đức Gìêsu và ông
Simon, là những kẻ "đồng hội đồng thuyền" dấn thân vào cùng một cuộc phiêu
lưu: Simon, người dân chài của Biển hồ sát cánh liền kề với Đức Giêsu, người
đang "ngồi" trong tư thế của một vị tôn sư dạy dỗ các môn sinh của
mình, để ngỏ lời với đám đông. "Con thuyền của Phêrô đã trở thành tòa để
giảng dạy" (Sđd).
3….và cũng là biểu tượng Giáo Hội truyền giáo.
“Hãy chèo ra chỗ nước sâu, mà thả lưới bắt
cá”, giờ đây Đức Giêsu lệnh cho ông Phêrô như vậy. "bắt cá", chuyện
đó các ông đã vất vả "suốt đêm rồi mà không bắt được gì cả”dù rằng đêm tối
vẫn là thời điểm thích hợp nhất cho việc đánh cá. Vậy mà, đang lúc các bạn chài
người Nadarét của ông từ chối đề nghị kia của Đức Giêsu, thì Simon lại đầu hàng
trước lệnh của người dân quê miền đồi núi ấy vốn không biết gì về chuyện chài
lưới cả, ông đáp: “Thưa Thầy, dựa vào lời Thầy tôi sẽ thả lưới".
-
Lời
của Đức Giêsu tỏ ra rất hữu hiệu, vì mẻ lưới bắt được rất nhiều cá, đến nỗi
lưới hầu như bị rách; họ phải "làm hiệu cho các bạn chài trên chiếc thuyền
kia đến giúp", dẫu sao hai thuyền đều đầy cá đến gần chìm.
-
Đối
với người dân chài chân chất kia, chẳng có gì phải nghi ngờ nữa: trong Đức
Giêsu Nadarét này, đúng là Thiên Chúa đã đột nhập vào đời sống của Người. Thế
là ông liền quỳ gối sấp mặt dưới chân Người hành khách trên thuyền của mình như
sấp mặt trước Đức Chúa" vậy. Con người ông giờ đây bỗng dưng giống như
Isaia xưa khi được thị kiến ở trong Đền Thờ (bài đọc thứ nhất), đang ý thức
được khoảng cách tách biệt ông với Đấng, mà như ông thấy, đang thực hiện những
việc lạ lùng trong con thuyền của ông: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là
kẻ tội lỗi".
-
Câu
trả lời Simon nhận được từ Đức Giêsu sẽ đánh dấu một khúc quanh quyết định cho
cuộc đời của ông: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ bắt người như bắt cá".
·
"Đừng
sợ ": kiểu nói thường đi theo sau mọi loan báo quan trọng trong Kinh
thánh: loan báo cho Aùpraham trong sách Sáng thế 15, 1; loan báo cho Zacaria
trong Luca 1,13; loan báo cho Đức Maria trong Luca 1,30.
·
"Từ
nay" cuộc đời của Simon, vị quan thầy-ngư dân bắt đầu mở sang trang mới.
Cuộc đời của ông xoay chiều đổi hướng để hướng đến một bến bờ khác.
·
"Từ
nay": một giai đoạn mới của chương trình cứu độ, giai đoạn truyền giáo,
được mở ra ngay tức thì.
·
"Anh
sẽ bắt người": sát nghĩa là: anh sẽ bắt những con người sống, có nghĩa là
anh sẽ giựt lên những con người đang sống, anh sẽ kéo họ ra khỏi thế lực của sự
ác để bảo đảm cho họ được sống an lành. Là "ngư dân", Simọn-Phêrô vẫn
sẽ giữ nghề đánh cá, nhưng cái nghề đi tìm cá ban đêm của ông, một khi thay đổi
đối tượng, thì cũng sẽ thay đổi ý nghĩa.
"Từ nay", sứ mệnh của ông sẽ là lôi
kéo người ta ra khỏi vòng kiềm tỏa của sự ác và cái chết, mà thời đó người ta
vốn dùng hình ảnh biểu tượng là chỗ nước sâu, để đưa họ đến cõi sống nên R.
Meynet có thể viết: "Mẻ lưới lạ lùng hôm nay chỉ là hình ảnh báo trước mẻ
lưới lạ lùng đích thực. Giống như mẻ lưới lạ lùng xưa, mẻ lưới lạ lùng đích
thực cũng sẽ diễn ra dựa vào Lời của Đức Giêsu" (Sđd, tr.68).
Thế rồi, sau khi đã đưa thuyền vào bờ,
Simon-Phêrô, Giacôbê và Gioan "bỏ hết mọi sự mà theo Đức Giêsu" để
dấn thân vào con đường mà theo kiểu nói của Ph. Bossuyt và J. Radermakers sẽ là
một cuộc thả lưới lâu dài nhất và phi thường nhất trong cả cuộc đời của các ông
("Đức Giêsu, Lời ban ân sủng theo thánh Luca” tr. 183).
BÀI ĐỌC THÊM.
1. “Tin là dám liều”
Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật việc Đức
Giêsu kêu gọi ông Phêrô. Chúa xuống thuyền của ông; Người đi vào đời ông. Đúng
là sáng kiến từ phía Chúa. Mà điều Chúa yêu cầu Phêrô làm cũng không có chi là
hoàn toàn mới lạ cả. Người đòi Phêrô hành nghề của ông. Phêrô làm nghề đánh cá.
Nghề này thì ông rành quá rồi; ông biết phải đánh bắt khi nào, đánh bắt ở đâu.
Nên ông chẳng sợ hãi gì khi phải thưa với Chúa rằng ông gặp ngày không hên
thôi. Dựa vào sự hiểu biết và tay nghề của mình, Phêrô thành thực nói cho Thầy
biết rằng điều Thầy yêu cầu là hoàn toàn sai lầm. Vậy mà điều Chúa yêu cầu ông
thực hiện lại là điều mới lạ: tin cậy vào lời của Người. Và thế là Phêrô, dù
bụng dạ chẳng vững chút nào, ông vẫn mạnh dạn thả lưới" Chúng tôi đã vất
vả suốt đêm mà không bắt được gì cả, Nhưng dựa vào lời Thầy, tôi sẽ thả lưới.
Phêrô dám đặt cọc vào sự tin tưởng hơn cả uy tín của mình. Và cá đang ở điểm
hẹn.Vai trò chủ động của con người trước sáng kiến của Chúa được Phúc âm mô tả
như vậy đó. Nó hệ tại ở một lòng tin tưởng. Lòng tin tưởng ấy không phải là
thái độ thụ động, mà đôi khi là sự anh hùng và luôn luôn là sự dám liều táo bạo.
Lòng tin tưởng thường là một thái độ tình nguyện can đảm nhất, bởi lẽ lòng tin
tưởng không bị ai chỉ huy nhưng là một sự tặng ban, một hành vi tự do.
2. "Một bài tường thuật lúc nào cũng có tính thời
sự"
Nếu bài tường thuật của Luca, chỉ là kể lại
một phép lạ tỏ tường, thì chúng ta chỉ cần vỗ tay ca ngợi, và bày tỏ vẻ ngỡ ngàng
cùng cảm tạ Chúa vì quyền năng của Người đã được biểu lộ ra trong Đấng Mêsia
của Người, thiết tưởng cũng đủ rồi. Nhưng còn hơn một phép lạ nữa."Mẻ lưới
lạ lùng" chính là một ẩn dụ mà mỗi chi tiết của câu chuyện đều quy chiếu
về một thực tại thiêng liêng", và mỗi nét biểu hiện đều đòi hỏi phải được
cắt nghĩa bằng biểu tượng". Không chỉ là một cú ngoạn mục diễn ra trên
Biển hồ Ghennêxarét cách đây gần hai ngàn năm mà thôi, mà chính là một vấn đề
lúc nào cũng mang tính thời sự.
Ở thế kỷ XX hôm nay cũng như ở thế kỷ đầu,
Đức Kitô vẫn luôn bồn chồn đi lại dọc theo các bờ sông, bờ biển và các nẻo
đường của chúng ta. Người hòa mình với dân chúng, đi vào các nhà, năng lui tới
các nơi làm việc hay các khu vui chơi giải trí. Gặp lúc thuận tiện hay không
thuận tiện, Đấng Mêsia vẫn không mệt mỏi loan báo, đề nghị Tin Mừng kêu gọi sám
hối, Tin Mừng chữa lành, Tin Mừng giải thoát. Như thời ngôn sứ Isaia, Người là
Thiên Chúa làm cho những người mắc bệnh cùi dơ bẩn được lành sạch. Người tha
thứ tội lỗi và muốn cho những người hối cải đáp ứng lời người kêu gọi và tự
nguyện hiến thân phục vụ Người.
Hôm nay vị Tôn sư ấy vẫn còn gặp gỡ
"những ngư phủ" do ơn gọi, có năng lực, giầu kinh nghiệm và đảm đang;
họ đã neo thuyền không người của họ ở bến an toàn. Họ đã được huấn luyện rất
sâu và kỹ, đã theo những lớp đào tạo lại, đã phác thảo một cách ý thức và thông
minh những chương trình và kế hoạch, đã chọn nơi và những hoàn cảnh thuận lợi.
Họ đã trở về tay không và chán nản; lưới chẳng dính lấy được một con tép; trái
tim họ bị đâm xiên và lòng trí thật ê chề.
Nhưng con thuyền của Phêrô không thể cứ trú
ẩn mãi ở cảng, cũng chẳng được bỏ neo an toàn ở một vùng vịnh thanh bình không
còn sợ gì nguy hiểm. Cùng với Chúa và theo lệnh Người, Giáo hội phải ra khơi,
bất chấp những hiểm nguy của miền nước sâu gợi lên bao loài thủy quái cùng những
hang sâu vực thẳm là vương quốc của những hung thần, của Satan và sự chết.
Không thể nào đánh cá được, những chuyên viên
từng tuyên bố và lặp đi lặp lại như vậy. Còn các vị "quân tử gàn" mà lòng
tin đã què quặt, nỗi sợ đã làm họ tê liệt và phần họ lại chỉ muốn được an thân
thì tuyên bố: thật là sự điên rồ giết người, là sự thiếu khôn ngoan và lệch
lạc, là muôn vàn khó khăn nguy hiểm không sao tính được.
Nhưng ta phải tin tưởng
vào Thầy chứ.
Phêrô, các bạn đường của ông và các cộng đoàn
Kitô hữu tiên khởi cuối cùng đều đã hiểu rõ lời kêu gọi của Đấng Phục-sinh là
phải rời bỏ cái nôi của buổi ấu thơ đã được những truyền thống và luật lệ lỗi
thời và trì trệ bao kín. Với sự can đảm, nếu không muốn nói là anh hùng, họ đã
cất đi những hàng rào bao quanh khu vực khép kín của họ để liều lĩnh đi vào
miền đất dân ngoại, đối đầu với thế gian, bất chấp những cám dỗ bị lây nhiễm,
bị hiểu lầm, phải thất bại hay phải chết vì đạo.
Hôm nay đức tin vẫn đủ để đương đầu với những
khu vực nguy hiểm, dám đối thoại, mở toang những cánh cửa vẫn đóng kín, từ bỏ
lối độc quyền cao ngạo về chân lý, về độc quyền rao giảng Tin Mừng và sự thánh
thiện. Hãy tách những con thuyền của các bạn ra! Hãy ra xa bờ! Hãy tiến ra khơi
và thả lưới ngay nơi mà bạn đã vất vả và thất bại ê chề!
Tuy nhiên, ẩn dụ về mẻ lưới không phải là một
công cuộc đi chinh phục để chiếm đất đai, hay quyền lợi hoặc bổng lộc. Không
phải là vấn đề lôi kéo những con cá ra khỏi thiên đường của chúng, để cắt xẻ
thịt nó, mà ăn cho thỏa, hoặc đem đi buôn bán. Những kẻ đánh bắt người như bắt
cá phải là những con người cứu nhân độ thế, những người giải phóng nô lệ và tù
nhân khỏi bóng tối, giải phóng những ai bị trói buộc vì những dục vọng mù quáng,
hay bị bầm dập vì những bất công, những ai ngụp lặn trong dòng tư lợi nhỏ nhen bẩn
thỉu, những ai bị chới với vì những thử thách gian truân. Chính trong những vực
sâu tăm tối này, chính trong những ngục tù không chắn song kia mà lưới của nhà
giải phóng ấy làm nên những việc thần kỳ. Nghĩa là một bầu khí tự do, một vùng
trời đầy ánh sáng, một niềm hân hoan trở về miền đất hứa, nhưng luôn luôn là có
các bạn chài của chiếc thuyền kia đến giúp".
13.
Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
GỌI BỐN MÔN ĐỆ ĐẦU
TIÊN
1. Luca biên soạn đoản văn này từ những chất
liệu văn chương khác nhau (xem ghi chú của BJ), nhưng cách tác giả dùng để tổng
hợp chúng lại thành một trình thuật mới, đặc biệt nhấn mạnh đến ý nghĩa truyền
giáo của trình thuật (hay giáo hội học) hơn là phương tiện thần thiêng của nó:
trước tiên, phép lạ trở thành một biểu tượng về sự phong phú của Lời Chúa (c.1)
do Chúa Giêsu và sau đó là Simon Phêrô (c.5). Luca làm cho độc giả chú ý tới
chính công việc tông đồ hơn là điều kiện để làm tông đồ; ông muốn người ta phải
tìm xem trước biến cố phục sinh (x. Cvsđ 1,21-22) đã có sứ mệnh và những ràng
buộc của công việc truyền giáo. Lời hứa với Phêrô ở đây, ngay từ đầu sứ mệnh
công khai của Chúa Giêsu ("từ đây con sẽ là kẻ chài lưới người” c.10) tương
ứng với lời uy quyền tại bàn tiệc ly. Khi hoàn tất sứ mệnh của Chúa Giêsu,
quyền đó đã được ủy thác cho Phêrô thi hành sau phục sinh ("khi con người
trở lại, hãy củng cố anh em con” Lc 22,31-32). Chính mối ưu tư đó đã hướng dẫn
Luca trong trình thuật tuyển chọn (6,12-16) và ban sứ mệnh cho nhóm 12 (9,1-6)
mà không cần phải ban lại cho họ sau biến cố phục sinh. Tuy nhiên, để họ có thể
thi hành tốt bổn phận, Thánh Thần còn phải “mặc cho họ sức mạnh từ trời cao”
trước khi họ có thể “làm chứng nhân cho Chúa Giêsu đến tận cùng trái đất” (Lc
24,49; Cvsđ 1,8).
2. Địa vị trọng yếu của Phêrô trong trình
thuật cho thấy chủ tâm của Luca, và tác giả còn làm nổi bật (Phêrô) ở nhiều đoạn
khác trong phúc âm (x. Lc 45 nghịch với Mc 14,13; Lc 22,31-34; 24,34) địa vị
này tương ứng với chức vụ của vị lãnh đạo công việc truyền giáo cho người Do
thái, rồi sau đó cho dân ngoại mà tác giả phúc âm đã gán cho Phêrô trong phần
đầu của công vụ sứ đồ (chương 1-12).
Vậy, cùng với Chúa Giêsu, Simon là nhân vật
chính của trình thuật này: ông được gọi trước là Simon - Phêrô một lần (c.8) vì
chỉ về sau (6,14) Simon mới được Chúa đổi tên là Phêrô. Nơi Mt 4,18-22 và Mc
1,16-20 chúng ta thấy cả hai anh em Simon và Anrê cùng thả lưới với nhau. Đây
không phải chỉ có mình Phêrô (chính vì cách dùng số nhiều các câu 4,5,6,7) còn
những người khác, tác giả chỉ nhắc đến một cách lờ mờ, có thể họ chỉ là những
người làm thuê. Hình như Luca tránh gọi tên Anrê, và lời loan báo ơn gọi làm chài
lưới người ta, chỉ nhắc đến Simon, không đả động gì đến Anrê, trong lúc Matthêu
và Maccô nói đến cả hai anh em Simon và Anrê.
Chiếc thuyền là thuyền của Simon (c.3); chính
với Simon mà Chúa Giêsu nói: “Hãy ra khơi” (c.4); và cũng chính Simon đáp lại
Ngài (c. 5). Chính Simon còn kêu lên: “Xin thày tránh xa con, vì con là kẻ tội
lỗi” (c.8). Tất cả điều gì làm cho Chúa Giêsu: đón Chúa xuống thuyền thì cũng
do Simon làm; tất cả những điều gì Chúa Giêsu làm cũng để làm cho Simon; và tất
cả những lời khác là lời của Simon.
Simon cũng làm lu mờ 2 con ông Giêbêđê:
thuyền của họ cũng được đề cập ở câu 2, nhưng không có nói đến họ. Thuyền của
họ còn được nói ở câu 7, còn họ thì được gọi trống là bạn chài của Simon. Tên
của họ chỉ được nói đến ở cuối trình thuật, nơi câu 10, như là một sự vớt vát,
trong đó giải thích là họ ngạc nhiên như Simon bạn của họ. Luca trì hoãn nhắc
đến họ cốt để Simon độc diễn hầu như trong suốt cả trình thuật. Tuy nhiên tác
giả cũng nói đến Giacôbê và Gioan ngoại trừ Anrê, chắc hẳn là ba người là nhóm
được biệt đãi, là nhóm được mục kích con gái ông Gia-ia sống lại (8,51), biến
cố biến hình (9,28). Anrê không được gọi tên có lẽ vì ông là bạn chài của Simon
là người mà Luca muốn lưu tâm. Vì Luca liệt hai con Giêbêđê vào màn cuối của trình
thuật, người ta dễ dàng hiểu rằng tác giả ít bận tâm đến trường hợp và thời
gian Chúa gọi họ. Tác giả chỉ thu tóm những gì liên hệ đến lời kêu gọi của Chúa
Giêsu và việc mau mắn đáp trả trong một câu kết luận vắn gọn ở cuối trình thuật
(c.11).
3. Khi các nhà chú giải đã phân vân trong
việc nghiên cứu ý hướng của Luca khi đặt câu chuyện này ở đây. Một số cho rằng
mục đích bài tường thuật phép lạ là để giải thích hay “nêu lý do” việc các ngư
dân đáp trả lời kêu gọi của Chúa Giêsu: một khi đã chứng kiến sức mạnh phi
thường của Chúa Giêsu, họ sẵn sàng tin tưởng vào Ngài. Có lẽ Luca đã làm cho sự
mau mắn, mà nhờ đó nhóm dân chài Galilêa trở thành môn đệ. Chúa Giêsu từ lúc
khởi đầu sứ mệnh của Ngài, được dễ chấp nhận và dễ hiểu hơn. Chắc hẳn, Luca đã
biên soạn theo ý hướng này. Và dù tác giả có những ý hướng khác, thì cũng không
nhất thiết phải loại trừ ý hướng này.
Nhưng nhiều nhà chú giải nhìn thấy trong
trình thuật này một biểu tượng về giáo hội học: lệnh thả lưới và mẻ cá gợi đến khắp
thế giới và thành quả họ sẽ thâu lượm được đối với nhân loại. Có nhiều lý chứng
mạnh mẽ xác quyết giả thuyết này. Trước hết sự kiện Luca đã liên kết mẻ lưới lạ
lùng này với trình thuật về ơn gọi của các môn đệ. Tiếp đến Luca ưu tư đến vấn
đề truyền giáo cũng như lưu tâm đến thuyết phổ quát về ơn cứu chuộc, thường
được diễn tả trong phúc âm thứ ba và Cvsđ. Cũng có sự kiện là về sau Gioan đã
dùng (ch.21) trình thuật về mẻ lưới lạ lùng này để dẫn đưa vào trình thuật
thiết lập chức mục tử tối cao của Phêrô nghĩa là trong bối cảnh có tính cách
phi thường về giáo hội - điều này giả thiết rằng trên bình diện truyền khẩu,
thì các tác giả khác ngoài Luca đã liên kết cách tự nhiên mẻ lưới kỳ lạ và biểu
tượng về giáo hội. Cũng có thể là dụ ngôn về chiếc lưới (Mt 13,47-50) nếu thực
sự dụ ngôn này có ý nghĩa về giáo hội, dẽ dàng liên kết chài lưới - giáo hội.
Nhưng lý chứng quan trọng nhất là chính Chúa Giêsu liên kết tương quan giữa
việc đánh cá và việc chinh phục người ta: trong những bản văn song song của
Matthêu và Maccô, sự liên kết này ám chỉ rõ ràng về bản tính giáo hội. Vậy có
thể khẳng định rằng tất cả khung cảnh này có thể rất nhiều điểm biểu tượng và
là tiền ảnh của sứ vụ tương lai của các tông đồ cũng như sự thành công của sứ
mệnh đó.
KẾT LUẬN
Lời Chúa Giêsu kêu mời thật đầy uy quyền,
Ngài gọi người Ngài muốn và làm điều Ngài thích. Thiên Chúa cũng đã làm như vậy
đối với các tiên tri. Nếu không thì Giacobê và Gioan đưa thuyền lên bờ và từ
chối không làm ngư phủ: họ bỏ tất cả. Một sức sống mới tràn đầy trong đời sống
của họ. Họ theo Chúa Giêsu với tư cách là môn đệ. Bây giờ họ bước theo Chúa
Giêsu như các học trò đi theo thày rabbi để đồng hóa các lời dạy bảo, cách sống
của họ. Từ đây điều làm cho các môn đệ tràn đầy sức sống, chính là Chúa Giêsu, Nước
Thiên Chúa và việc truyền giáo. Simon đã có một kinh nghiệm về thần tính của
Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu, ông được nhìn nhận là kẻ chài lưới và được trao
nhiệm vụ cứu độ. Thời cứu độ đã bắt đầu: nhận biết ơn cứu độ qua việc thú nhận
tội lỗi (1,77). Nước Thiên Chúa được tỏ hiện trong việc tiếp nhận các tội nhân.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1.
Chính
từ Thiên Chúa mà Giáo hoàng, các giám mục (hàng giáo phẩm) cũng như các linh
mục lãnh nhận ơn gọi, trách nhiệm và quyền hành của mình. Các Ngài có nhiệm vụ tiếp
tục công việc của Chúa Kitô để rao truyền Lời Chúa và tuyển chọn các môn đệ,
giáo sĩ, cũng như giáo dân. Nhờ ân sủng của Chúa, các Ngài là những kẻ chài
lưới người.
2.
Ơn
gọi của những người được thánh hiến phải bắt chước gương của Simon và các bạn
đồng nghiệp, từ bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu. Thiên Chúa quan phòng sắp đặt mọi
ơn gọi trong giáo hội. Điểm then chốt là đáp trả ơn gọi đó một cách quảng đại.
Để được vậy, giáo dục đức tính quảng đại trong một gia đình Kitô giáo là một
phương thế chuẩn bị tốt nhất. Phêrô đã chuẩn bị tiếng gọi của Chúa bằng sự
quảng đại và sẵn sàng giúp đỡ của mình; ông đã cho Chúa Giêsu mượn thuyền để
rao giảng; đã ý thức sự bất công của mình trước mặt Chúa.
3.
Trình
thuật này của Phúc âm nhắc nhở chúng ta rằng việc tông đồ trong giáo hội phải
được thực hành trong những điều kiện nào. Lúc Chúa chưa có mặt trong thuyền thì
Simon thả lưới cũng không bắt được gì hết. Nhưng khi có Chúa Giêsu, ông bắt
được một mẻ lưới kỳ lạ. Đó là mộ ví dụ minh chứng chân lý này là không có Chúa
không thể làm gì được (Gio 15,5) với ân sủng Ngài thì không gì là không có thể ("tôi
có thể chịu đựng mọi sự trong đấng ban sức mạnh cho tôi” Phil 4,13).
4.
Simon
nói: “thưa thầy, chúng tôi đã cực nhọc suốt đêm mà không được gì hết”. Cũng một
cám dỗ ấy thường làm ta nản chí. Đó là đêm tối những tình trạng đầy mặc cảm,
người ta chỉ thấy mình làm quá sức; một công việc đã gắng hết sức mà hình như không
có được một kết quả nào, và người ta đâm ra buồn bực vì những cố gắng bền tâm
của mình xem ra vô hiệu. Lúc đó muốn bỏ tất cả: có lẽ có những lúc nào đó người
ta mơ đến một mẻ lưới kỳ lạ. Lúc đó hãy biết nghe lời Chúa mời gọi ta ra khơi:
Hãy tiếp tục! Bắt đầu lại! Và nếu cuối cùng được thành công thì hãy biết khiêm nhượng
nhận rằng những cố gắng của ta đã nỗ lực không đáng được thành công ấy, nó vượt
quá những cố gắng của ta. Hãy thú nhận như Simon - Phêrô rằng chúng ta là những
người tội lỗi và những thành công thu đạt được là do Chúa quảng đại ban phát
cho ta.
5.
Thuyền
của Phêrô chính là giáo hội. Chúa Giêsu vẫn luôn tiếp tục dậy dỗ ta từ trong
chiếc thuyền này. Nhất là trong lúc cử hành Thánh lễ, đặc biệt trong phần phụng
vụ lời Chúa, cũng chính Chúa Giêsu bây giờ vẫn còn tiếp tục dậy chúng ta.
6.
Dù
Phêrô là người tội lỗi, Chúa Giêsu cũng chọn làm môn đệ của Ngài. Chúng ta
khiêm nhường thú nhận tội lỗi thì Chúa không lìa xa ta. Chỉ có óc bè phái,
tưởng rằng mình thánh thiện và không thể chê trách trước mặt Thiên Chúa là dựng
nên một hàng rào ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người.
14.
Từ nay anh sẽ bắt người
Suy Niệm
Chẳng ai ngờ cuộc đời Simon có thể chuyển
hướng.
Ông đã có nghề nghiệp ổn định và đã lập gia
đình. Thế giới của ông là hồ Ghênêxarét, là những con cá quẫy đuôi trong lưới,
là gia đình cần phải chăm nom.
Ông yêu vợ con, ông yêu biển cả. Chúa đã đặt
ông vui sống trong thế giới ấy, nên chỉ có Ngài mới có thể kéo ông ra, và bất
ngờ đưa ông vào một thế giới mới, một đại dương bao la hơn nhiều, một gia đình
rộng lớn hơn vạn bội. Chỉ Chúa mới có thể làm trái tim ông say mê một Ai khác,
yêu một Ai đó hơn những người ông đã từng yêu.
Đức Giêsu đã đến với Simon thật tự nhiên.
Ngài chọn thuyền của ông làm nơi giảng dạy. Sau đó Ngài mời ông thả lưới bắt
cá, Simon có nhiều lý do để khước từ. Ông có thể nhân danh kinh nghiệm của mình
để thấy tốt hơn nên chờ dịp khác, hay nại lý do mệt mỏi, sau một đêm ra khơi.
Nhưng Simon đã vâng lời, chỉ vì tin Lời Thầy Giêsu, Lời đầy quyền uy, Lời trừ
được quỷ (Lc 4,30). Lời mạnh mẽ đã chữa cho mẹ ông khỏi bệnh (4,39).
Mẻ cá lạ lùng, mẻ cá chỉ có trong mơ. Mẻ cá
làm Simon run rẩy nhận ra mình tội lỗi, và nhận ra Đấng ở gần bên. Mẻ cá bất
ngờ mở đường cho một lời mời gọi mới: "Đừng sợ, từ nay anh sẽ thành kẻ bắt
người."
Simon lại có nhiều lý do hơn để từ chối.
Chuyện gia đình bề bộn, tương lai bấp bênh. Kẻ quen bắt cá đâu có khả năng bắt người.
Kẻ tội lỗi đâu xứng với sứ mạng. Nhưng một lần nữa, Simon dám tin vào Lời Chúa,
để cho Chúa tự do lôi kéo mình.
Ông đã bỏ lại bao điều ông yêu mến. Khi bỏ
lại hai thuyền đầy cá, ông tin rằng những mẻ cá mới đang đợi ông.
Chúa vẫn gọi tôi ra khỏi lối mòn quen thuộc,
khỏi những điều tưởng như không thể đổi. Tôi có sẵn sàng lên đường theo Ngài
không?
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Nghe
theo tiếng Chúa, buông lưới và gặt hái được một kết quả không ngờ: có khi nào
trong đời, bạn có một kinh nghiệm tương tự như kinh nghiệm của Simon không?
·
Theo
ý bạn, để sống cho tha nhân, điều gì là khó bỏ hơn cả?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa
chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng
đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong
manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa,
sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu. Chúng
con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình kém đức kém tài. Chúa đưa chúng con đi
xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của
Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa.
Amen.
15.
Dựa vào lời Thầy
Suy Niệm
Simon là một giáo dân, có gia đình, có nghề
nghiệp. Cuộc đời ông tưởng như chẳng thể nào đổi thay. Vậy mà ông ngư phủ bộc
trực và ít học này lại lọt vào cặp mắt của Đức Giêsu.
Ngài đã từng đến nhà chữa bệnh cho bà mẹ vợ
của ông. Chắc ông cũng đã có lần nghe Ngài giảng và thấy một số phép lạ Ngài
làm. Đôi bên đã quen biết nhau qua nhiều mối liên hệ đời thường, nên Đức Giêsu
rất tự nhiên xuống thuyền của Simon, và từ thuyền, Ngài giảng cho đám đông lời Thiên
Chúa.
Khi giảng xong, Ngài bảo ông thả lưới chỗ
nưóc sâu. Đây thật là một thách đố lớn cho Simon.
Kinh nghiệm dân chài cho ông biết nếu đêm
không có cá thì đánh cá ban ngày cũng uổng công. Vả lại ông và các bạn đã mệt
nhoài sau một đêm vất vả. Lưới đã được giặt và đem phơi...
Nhưng Simon còn có một kinh nghiệm khác, kinh
nghiệm về sức mạnh của Lời Đức Giêsu. Lời đầy uy quyền, lời đuổi được ma quỷ,
lời chữa cho mẹ vợ ông. Thế nên, giờ đây ông dám dựa vào lời Thầy mà thả lưới.
Mẻ cá sau đó là lời đáp của Thầy trước niềm
tin của ông.
Điều mà ông đã vất vả tìm kiếm thì không gặp.
Còn khi chẳng cố gắng mấy thì lại được dư tràn. Tràn trề dư dật là dấu hiệu của
bàn tay Thiên Chúa.
Qua mẻ cá kinh khủng, Đức Giêsu tỏ mình cho
ông. Ngài cho ông gặp Ngài và gặp bản thân mình.
Chính lúc đó ông cảm được khoảng cách giữa
mình với Chúa. Ông thú nhận mình là tội nhân trước mặt Đấng Thánh.
Nhưng khi ông muốn Ngài tránh xa ông, thì
Ngài lại đến gần ông để trao sứ mạng. Ngài mở đời ông sang một trang mới:
"Từ nay, anh sẽ bắt sống người ta."
Không phải bắt để làm chết như bắt cá, nhưng bắt để đưa vào cuộc sống mới.
Simon đã trải qua một chuỗi kinh nghiệm với
Đức Giêsu: kinh nghiệm quen biết, kinh nghiệm bị thách đố trong niềm tin, kinh
nghiệm thấy Chúa tỏ mình mình chói lòa qua mẻ cá lạ, kinh nghiệm được gọi và
kinh nghiệm đáp trả. Kinh nghiệm trước dẫn đến kinh nghiệm sau.
Gặp Đức Giêsu là bước vào một cuộc đối thoại.
Chỉ cần đứt một mắt xích là tương quan đổ vỡ. Simon cứ lớn dần lên sau mỗi bước
của lòng tin.
·
Tin
đòi vượt trên lối suy luận thông thường, vượt trên kinh nghiệm, vượt trên mệt
mỏi của xác thân.
·
Tin
đòi tôi ra khơi buông lưới thêm một lần nữa.
·
Tin
đòi tôi bỏ lại tất cả để theo Chúa. Bỏ tất cả là đặt tất cả dưới Chúa và sử
dụng tất cả trong Ngài.
Hôm nay, Đức Giêsu vẫn cần các giáo dân cộng
tác. Tôi có dám bước vào chuỗi kinh nghiệm như Simon không?
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Có
nhiều người đi lễ, nhưng ít người nghe được tiếng mời gọi cộng tác của Đức
Giêsu. Bạn có thấy vai trò quan trọng của giáo dân trong Hội Thánh không? Họ có
thể làm gì và phải làm gì?
·
Cuộc
đời Kitô hữu của bạn có những đêm vất vả mà không được gì. Bạn đã làm gì để giữ
vững niềm tin trong giai đoạn ấy?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, chúng con không hiểu tại sao Chúa
chọn Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng
đầu tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá mong
manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo Chúa, sống
cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ mình
kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi
bất ngờ, vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh của
Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau Chúa.
Amen.
16.
“Con sẽ là kẻ đánh lưới người”
Một cái hồ nhỏ, một bến đò nhỏ, một nhà giảng
thuyết trẻ, vài ngư dân mộc mạc. Cuộc phiêu lưu của Giáo Hội mà Luca là người
thuật lại đã bắt đầu như thế. Trong khi mô tả bước đầu này ngài hiểu những
chuyến đánh cá người đầu tiên, những bước đầu của Giáo Hội nơi thế giới ngoại
giáo. Và chúng ta, làm sao chúng ta không nghĩ đến những đám đông các tín hữu?
Nhưng cũng nghĩ đến những đám đông chờ đợi
những ngư phủ nữa. Tin Mừng này là dành cho mỗi một người chúng ta, ngay cả
đoạn 10 nổi tiếng mà vì Tin Mừng đó, đoạn này đã được viết: “Từ nay đây là
những người mà con sẽ bắt lấy”. Đây là những từ ngữ thật sự đánh trúng những
thanh thiếu niên đã trở nên những linh mục và những nhà truyền giáo.
Và có thể đánh trúng những ai trong khi đọc
lại trang Tin Mừng của Luca cảm thấy nổi lên sự nản chí: đánh cá ở đâu và như
thế nào đây?
Đây chính là mục tiêu của trần thuật này của
Luca: niềm tin vào Chúa Giêsu như là phương thuốc chống lại sự nản chí. Trong
khi khai mào mùa đánh cá tông đồ lớn lao, Chúa Giêsu nêu bật một sự cảnh cáo
đừng nên quên bao giờ: không có Ta, lưới của các con sẽ trống trơn. Chúng ta
không luôn luôn thấy rõ chân lý cơ bản này ở vào lứa tuổi đôi mươi. Một khi đã
dấn thân vào sứ mạng tông đồ, chúng ta lao nhọc ngày đêm mà không làm việc một
cách đầy đủ với Chúa Giêsu. Chúng ta bỏ không nghe bài giảng, xao lãng các bí
tích, chúng ta hoạt động, chạy vạy và một ngày kia cảm thấy nản lòng: tôi làm
cật lực một cách vô ích.
Làm phương thuốc phòng ngừa, và khi chúng ta
muốn thoát ra khỏi một giây phút nghi ngờ, chúng ta hãy suy niệm trang Tin Mừng
này. Đây là trang Chúa Giêsu tỏ cho thấy chúng ta có thể làm gì khi chúng ta
tin cậy vào Ngài. Ngài chọn điều có thể đánh động nhiều nhất Phêrô và các tông
đồ đầu tiên: nghề nghiệp của họ. Và Ngài làm cho họ bực tức. Ngài là thợ mộc mà
đưa ra những lời khuyên cho những người chuyên đánh cá, và là những người vất
vả qua một đêm nỗ lực nhưng vô ích.
Những nhà chuyên môn trong công tác tông đồ
sẽ gặp cảnh này. Cạn kiệt những nỗ lực vô ích, họ bị cám dỗ có ý phó thác cho
Chúa Giêsu, nghĩa là cho việc cầu nguyện. Và tôi nghĩ rằng mọi Kitô hữu, trong
công tác tông đồ hạn hẹp hơn và không chính thức hơn, có cùng ước muốn xuôi tay
hoặc tìm kiếm những phương pháp khác hơn là chuyên chú cầu nguyện.
Dầu vậy, chỉ có cầu nguyện mới lại mang đến
cho chúng ta lòng nhiệt thành của Phêrô. Là thợ mộc hoặc không phải là thợ mộc,
Chúa Giêsu đã chinh phục ông: “Theo lời Thầy, tôi xin thả lưới”.
Chúng ta sẽ không đưa về những mẻ lưới và
những chiếc thuyền đầy cá. Chúng ta không còn ở vào thời kỳ Chúa Giêsu phải nhờ
đến phép lạ củng cố một niềm tin vừa chớm nở. Nhưng chúng ta biết điều mà con
người đã có thể làm cùng với Chúa Giêsu, qua những mẻ lưới truyền giáo lớn. Chúng
ta có quyển Công Vụ Tông Đồ, những câu chuyện truyền giáo và những hạnh các
thánh để làm sống lại niềm tin của chúng ta. Một mình đức tin, đức tin có thể
làm cho chúng ta thành các tông đồ làm việc cật lực nhìn lên Ngài “theo lời
Thầy, tôi xin thả lưới”.
17.
Cuộc phiêu lưu
Chúng ta vừa nghe qua câu chuyện phiêu lưu
của ba nhân vật quan trọng nhất của Thánh Kinh, đó là Isaia, Phaolô và Phêrô.
Cả ba đã gặp Chúa trong những biến cố lạ lùng, để rồi sau đó đã hy sinh cả cuộc
đời cho Ngài. Vậy thì cuộc phiêu lưu ấy như thế nào?
Đối với Isaia, Thiên Chúa đã kêu gọi ông
trong một thị kiến khác thường. Ông thấy vinh quang Thiên Chúa bằng một cảnh
sắc hùng vĩ, với các thiên thần đứng chầu và không ngớt tung hô. Một cảnh tượng
uy nghiêm và trang trọng.
Đối với Phaolô, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho
ông một cách trực tiếp hơn. Sau khi đã kể lại những người đã được Đức Kitô phục
sinh hiện đến, ông cũng cho biết là Đức Kitô cũng đã hiện ra với ông vì lúc đó
ông đang bắt bớ Giáo hội, nhưng là do tình yêu Thiên Chúa thúc đẩy. Lần hiện ra
này đã là một biến cố quan trọng trong đời sống của ông.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bị bắt lấy đang
lúc làm việc và đã thấy được quyền năng của Đức Kitô qua mẻ cá lạ lùng. Biến cố
đó đã làm cho ông và các bạn ông tin theo Ngài. Như vậy, Thiên Chúa đã dùng ba
cách thức khác nhau để mạc khải, để tỏ lộ mình ra.
Đối với Isaia thì Thiên Chúa là một Đấng vinh
quang. Đối với Phaolô thì Đức Kitô là chủ của sự sống, còn đối với Phêrô, thì
Ngài là Chúa của tạo vật. Đối với mỗi vị, Ngài tỏ ra là một người khác, vừa thu
hút lại vừa chế ngự. Vừa có vẻ như xa xôi nhưng lại rất gần gũi. Gặp gỡ họ bằng
những lời mời gọi mãnh liệt nhất và trong những gì là sâu xa nhất. Ngài đến với
họ như để hoàn thành một cách sung mãn niềm ước mơ đã có từ lâu trong tâm hồn
họ.
Đồng thời trong cuộc gặp gỡ này, cả ba đều có
cùng một phản ứng, vừa bất ngờ lại vừa mạnh mẽ. Các ông đều cảm thấy mình bất
xứng và hổ thẹn.
Isaia đã kêu lên:
-
Vô phúc cho tôi, tôi chết mất vì lưỡi tôi nhơ bẩn.
Phaolô thì tự thú:
-
Tôi vốn là kẻ hèn mọn nhất trong các tông đồ và không xứng đáng với danh hiệu
ấy, vì tôi đã bắt bớ Hội Thánh của Thiên Chúa.
Còn Phêrô thì thưa lên với Chúa Giêsu rằng:
-
Lạy Thầy, xin Thầy hãy xa tránh tôi vì tôi là kẻ tội lỗi.
Giữa lý tưởng cao cả mời gọi họ và con người
yếu đuối của họ có một hố sâu cách biệt, làm cho họ cảm thấy mình bất lực và
muốn đẩy Thiên Chúa ra xa. Trước mặt Thiên Chúa, con người đều cảm thấy sợ hãi
và xấu hổ. Thế nhưng chính Ngài sẽ hành động để nâng đỡ sự yếu hèn của con người.
Miệng lưỡi của Isaia đã được tinh luyện bằng
than hồng. Phaolô được biến đổi bởi ơn Chúa. Còn Phêrô, người đánh cá xui xẻo,.
thì cảm thấy như được an tâm để dấn thân vào công việc mới. Như thế mỗi người
đều được Thiên Chúa tái tạo và chấp nhận vào chính lúc mà họ cảm thấy bất xứng
và thất vọng nhất. Từ đó họ cảm thấy cả con người và cuộc đời họ lệ thuộc vào
Thiên Chúa. Nên họ hoàn toàn phó thác, để Thiên Chúa thực hiện những gì Ngài
mong muốn nơi họ. Họ chỉ còn biết theo Ngài và tuân phục Ngài.
Để đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa, thì
Isaia đã trả lời:
-
Này tôi đây, xin hãy sai tôi.
Phaolô thì nói:
-
Tôi đã chịu khổ nhọc nhiều hơn những người khác.
Còn Phêrô và các bạn thì đã bỏ chài lưới, ghe
thuyền mà đi theo Chúa Giêsu.
Sự sợ hãi đã nhường chỗ cho niềm tin tưởng
tuyệt đối vào Thiên Chúa. Tin tưởng vì Thiên Chúa chính là tất cả những gì
chúng ta muốn và Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên như thế, vì nếu không có Ngài
chúng ta không là gì cả.
Cuộc phiêu lưu của ba đấng trên đây, phải
chăng cũng là cuộc phiêu lưu của mỗi người chúng ta. Thiên Chúa nói với chúng
ta bằng nhiều cách. Thiên Chúa đến với chúng ta bằng nhiều ngả đường.
Vì thế, cần phải chăm chú lắng nghe và tìm
hiểu. Có những lúc chúng ta cảm thấy bối rối và lo sợ, nhưng đừng vội thất vọng
ngã lòng, bởi vì Chúa sẽ nâng đỡ và phù trợ. Điều cần thiết đó là, hãy sẵn sàng
từ bỏ và vâng phục Ngài.
18. Mẻ lưới
Sau khi kết thúc bài giảng của mình, Chúa
Giêsu nói với Phêrô rằng:
-
Hãy ra khơi và thả lưới.
Và chúng ta đã thấy được phản ứng tức thời
của Phêrô. Ông nói:
-
Thưa Thày, chúng con đã vất cả cực nọc suốt đêm mà chẳng bắt được một con cá
nào. Nhưng vâng lời Thày, chúng con sẽ thả lưới.
Qua lời nói này, chúng ta thấy được thái độ
của Phêrô. Ông không tranh luận và bàn cãi với Chúa Giêsu về những kinh nghiệm
nghề nghiệp của mình, trái lại ông hoàn toàn tin tưởng và vâng phục, chính vì
thế mẻ cá lạ lùng đã xảy ra. Đồng thời, nếu suy nghĩ, chúng ta sẽ tự hỏi: các
ông đã làm lụng vất vả suốt đêm, tuy nhiên các ông đã làm lụng như thế nào?
Tôi xin thưa:
-
Các ông đã làm lụng một mình.
-
Và kết quả ra làm sao?
Tôi xin thưa:
-
Chỉ là một con số không.
Với chúng ta cũng vậy. Nếu chúng ta làm việc
một mình, có nghĩa là chúng ta quá ỉ vào sức riêng, quá cậy dựa vào tài năng
của mình, để rồi thất bại sẽ làm cho chúng ta bực bội và thất vọng. Trái lại,
với tâm tình cầu nguyện và tin tưởng, chúng ta hãy mời Chúa cùng làm với chúng
ta và chúng ta sẽ thấy mọi sự tốt đẹp hơn nhiều, bởi vì như một câu danh ngôn
đã bảo:
-
Có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa, thì tường
thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.
Hay như Thánh vinh đã nói:
-
Ví như Chúa chẳng xây nhà,
Thợ
nề vất vả chỉ là uổng công.
Thành
trì Chúa chẳng giữ trông,
Hùng
binh kiện tướng cũng không ra gì.
Và
chính Chúa cũng đã xác quyết:
-
Không có Thày, các con không thể làm gì được.
Tiếp nối đoạn Tin mừng, chúng ta thấy sau mẻ
cá lạ lùng ấy, các môn đệ đã đi từ ngạc nhiên đến sợ hãi. Trong khi đó, Phêrô
đã quì xuống dưới chân Chúa và thưa lên với Ngài:
-
Lạy Thày, xin hãy xa con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Phải chăng đây là một tiếng kêu xuất phát từ
cõi lòng khiêm nhường của ông, khiến chúng ta liên tưởng tới lời nói của viên
đội trưởng:
-
Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con.
Chúa
Giêsu không những đã không rời xa Phêrô, trái lại Ngài đã yêu thương và dành
cho ông một sứ mạng:
-
Từ nay con sẽ trở thành kẻ chài lưới người ta.
Và Phúc âm đã kết thúc: các ông cho thuyền
vào bờ, rồi sau đó đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu. Một vài câu ngắn ngủi
này đã nói lên tất cả. Các ông đã trở thành những mẫu gương sáng chói cho muôn
đời noi theo, bởi vì qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người cũng đã từ bỏ mọi
sự, bước theo Chúa trên dấu chân của các ông.
Lời Chúa phán với các ngư phủ bên bờ hồ
Tibêriade ngày xưa vẫn còn vang vọng tới chúng ta cho đến hôm nay:
-
Các con hãy ra khơi và thả lưới.
Vâng theo lệnh truyền ấy, biết bao nhiêu vị
tông đồ đã đi tới những vùng đất xa xôi hẻo lánh để rao giảng Tin mừng Phúc âm,
thực hiện những hành động bác ái yêu thương hầu giúp đỡ những kẻ khốn cùng.
Riêng chúng ta thì sao? Là những người dân ở
hậu phương, chúng ta có bổn phận phải yểm trợ cho các chiến sĩ ngoài tiền tuyến
bằng lời kinh cầu nguyện, bằng đời sống gương mẫu, bằng những hy sinh gặp phải
cũng như bằng chính tiền bạc vật chất, để hoạt động của các vị thừa sai gặt hái
được những thành quả tốt đẹp, và bản thân chúng ta, dưới một góc độ nào đó,
cũng sẽ trở nên những người thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo.
Thế nhưng, chúng ta đã làm được những gì để
góp phần nhỏ bé vào công cuộc truyền bá đức tin của Giáo hội? Chúng ta có thực
sự muốn ra khơi và thả lưới hay không?
19. Mẻ cá lạ
Chúa Giêsu là một người đã sinh ra ở trần
gian thì Chúa chỉ có thể sống ở trần gian một thời hạn nào đó, và chúng ta đã biết
là 33 năm, rồi Chúa đã về trời. Nhưng đạo lý của Ngài, sự nghiệp của Ngài, cần
phải được duy trì và loan truyền khắp nơi, nên Chúa phải nghĩ đến chuyện tuyển
chọn những người cộng tác, để ở với Ngài, đi theo Ngài, tham dự vào sinh hoạt
của Ngài, tiếp thu giáo huấn của Ngài và chứng kiến các việc Ngài làm… để sau
này trở thành những người tiếp tục duy trì và truyền bá công cuộc cứu độ mà
Ngài đã khởi đầu.
Chính vì thế khi bắt đầu công khai giảng dạy,
chúng ta thấy việc trước hết Chúa làm là kêu gọi một số môn đệ. Những môn đệ
đầu tiên đó là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Các ông này đã đi theo Chúa nhưng
chưa một ai quyết định dứt khoát bỏ mọi sự đi theo luôn. Nên theo Chúa được một
thời gian các ông lại trở về nghề nghiệp cũ là chài lưới đánh cá. Vậy là các
ông chưa hiểu ơn gọi và sứ mạng cao cả Chúa muốn trao phó cho các ông.
Hôm nay, một lần nữa, Chúa lại kêu gọi các
ông và nói cho các ông biết sứ mạng quan trọng Chúa muốn trao phó. Để các ông
vững tin vào Chúa, Chúa đã cho các ông chứng kiến một phép lạ, và qua phép lạ
này các ông sẽ hiểu sứ mạng của mình hơn. Phép lạ này xảy ra vào quãng đầu cuộc
đời công khai giảng dạy của Chúa Giêsu, tức là khoảng đầu năm 28, xảy ra ở bờ
hồ Tibêria, gần Bếtsaiđa, quê hương của bốn tông đồ đầu tiên. Đó là phép lạ
Chúa Giêsu cho các môn đệ bắt được nhiều cá.
Hồ Tibêria còn được gọi là hồ Ghennêxarét, có
nhiều cá. Người ta thường đánh cá về đêm. Nhưng đêm ấy, các tông đồ đã thả lưới
thâu đêm mà không bắt được gì cả. Nghề đánh cá có nhiều may rủi, cay cực. Nghề
đánh cá phải chấp nhận sống giữa thiên nhiên với cuồng phong bão tố sóng cả. Phải
chấp nhận sống bồng bềnh trên chiếc thuyền tròng trành tối ngày. Cuộc sống phải
lấy đêm làm ngày là chuyện thường. Các môn đệ cũng thế, sau một đêm vất vả nhọc
mệt mà chẳng được gì. Giờ đây các ông ngồi giặt lưới, rũ lưới, rồi đợi chờ
chiều tối thuận tiện sẽ lại ra khơi.
Nhưng giữa lúc ấy Chúa bảo: “Hãy chèo ra chỗ
nước sâu mà thả lưới bắt cá”. Các ông vâng lời Chúa ngay và bắt được rất nhiều
cá quá sức mong tưởng, là hai thuyền đầy đến nỗi gần chìm. Dù các tay chài
thiện nghệ đến đâu cũng phải kinh ngạc và công nhận đó là phép lạ. Một điều này
thôi cũng đủ minh chứng Chúa Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng quyền phép vô cùng.
Trước phép lạ tỏ tường này, Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Từ nay các anh sẽ là
người thu phục người ta”, nghĩa là những người có sứ mạng đi thu họp người ta
để đưa vào Nước Thiên Chúa. Thế là từ lần kêu gọi này các ông quyết định dứt
khoát từ bỏ mọi sự đi theo Chúa để thực thi sứ mạng đó.
Bài Tin Mừng này rất phù hợp với khẩu hiệu
của đại hội giới trẻ Công giáo toàn cầu tổ chức tại Manila, Philippin, từ ngày
10 đến 15 tháng một năm 1995. Khẩu hiệu duy nhất của đại hội do chính Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II chọn là “Như Cha đã sai Thầy đi thế nào, Thầy cũng sai
chúng con đi như vậy”. Đức Giáo Hoàng đã dùng lời Chúa Giêsu làm khẩu hiệu như
một lời hô hào gửi đến giới trẻ Công giáo toàn cầu, và cũng cho tất cả mọi Kitô
hữu nữa.
Đức Kitô được Chúa Cha sai đến trần gian để
công bố và thiết lập Nước Trời. Đức Kitô đã hoàn thành sứ mạng đó. Và trước khi
về trời Ngài lại trao sứ mạng đó cho các tông đồ: “Các con hãy đi khắp nơi
giảng dạy cho muôn dân”. Các tông đồ đã đóng vai trò chài lưới người. Các ngài
đã ra đi rao giảng và cũng đã chu toàn sứ mạng Chúa trao phó. Nối tiếp các tông
đồ, hiểu theo sát nghĩa, đã có biết bao người hiến thân làm tông đồ, rao giảng
Tin Mừng để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Nhưng hiểu một cách rộng rãi,
tất cả chúng ta đều là tông đồ của Chúa. Điều này Công đồng Vaticanô II đã nhắc
đi nhắc lại nhiều lần: mỗi Kitô hữu là một tông đồ của Chúa. Tất cả chúng ta
đều được Chúa truyền phải làm mọi cách để chinh phục người ta về cho Chúa.
Người giáo dân thực thi mệnh lệnh này có hiệu
quả hơn các linh mục, tu sĩ. Bởi vì các linh mục, tu sĩ đâu có đến các gia đình
hay gặp gỡ được những người không có đạo, và họ cũng đâu có đến nhà thờ để nghe
các linh mục giảng. Chính các giáo dân là những tông đồ cụ thể, trực tiếp và
hữu hiệu nhất. Vậy anh chị em hãy suy nghĩ, hãy cố gắng hơn nữa, để đời sống
của anh chị em, cách giao tiếp, gặp gỡ của anh chị em vừa làm chứng cho Chúa,
cho đạo, vừa là động lực lôi kéo hay thúc đẩy người ta đến với Chúa.
Riêng các bạn trẻ, các bạn cũng hãy sẵn sàng
muốn được sai đi xây dựng Nước Trời. Đối với phần đông giới trẻ Công giáo hiện
nay, Nước Trời được nhìn như một cuộc sống hạnh phúc phần xác và phần hồn. Muốn
dấu chỉ của Nước Trời được nhìn thấy trong cuộc sống, các bạn trẻ hãy cố gắng
làm sao để cái tốt, cái đẹp của Nước Trời được thể hiện ngay trong đời sống cá nhân
và gia đình các bạn. Nếu mỗi người chúng ta cố gắng sống được như thế thì Nước
Trời đang ở giữa chúng ta.
20. Ơn gọi
Cả ba bài đọc của Chúa nhật V Mùa thường năm
C đều quy về một đề tài chính là “Thiên Chúa đi tìm và kêu gọi con người”. Ngài
không để cho những yếu hèn của người được gọi cản trở chương trình hành động
của Ngài, nhưng Ngài ban hồng ân tràn đầy và một biến đổi người được chọn trở thành
dụng cụ thích hợp: “Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ đánh cá người”.
Lời này xưa kia Chúa đã nói cho thánh Phêrô, nhưng không những cho Phêrô mà
thôi, mà còn cho tất cả mọi tín hữu là những kẻ tin nhận Ngài. Ngài kêu gọi
từng người một với những khả năng, nhất là với những khuyết điểm, những bất
toàn để rồi Ngài biến đổi họ trở thành những kẻ làm chứng cho Ngài.
Nơi bài đọc 1 chúng ta nhận thấy rằng, trước
khi kêu gọi vị tiên tri, hoặc trước khi kêu gọi một ai đến theo Chúa thì Thiên Chúa
đến với người đó, cho họ được cảm thấy Ngài, được cảm nghiệm sự hiện diện của
Ngài trong đời sống người đó và ban ơn thánh như than hồng cháy đỏ trong thị
kiến để thanh tẩy và biến đổi đương sự vừa được gọi trở thành hữu dụng hơn.
Khởi đầu của ơn gọi là kinh nghiệm sống động
về ơn Chúa, là những lúc nói được là sốt sắng nhất. Lúc khởi đầu, người được
gọi còn sốt sắng trong ơn gọi, vì còn cảm thấy như gần gũi Thiên Chúa, sống bên
cạnh Ngài. Nhưng rồi trong cuộc đời theo Chúa có những thử thách đen tối, điều
quan trọng là đương sự được gọi còn trung thành với ơn Chúa ban, và đây là
trường hợp của thánh Phaolô tông đồ như được gợi lại nơi bài đọc 2 của thánh lễ
Chúa nhật V mùa thường.
Thánh Phaolô đã được gọi sau rốt, nhưng không
vì công nghiệp và tài năng của ngài, mà vì tình thương nhưng không của Thiên
Chúa. Lúc đó ngài đang đi lùng bắt những đồ đệ của Chúa Giêsu Kitô trên đường
tiến về Damas, nhưng rồi Chúa đã tìm đến Phaolô, từ đó Phaolô đã không bất trung
với ơn Chúa đến độ thánh nhân đã viết và chúng ta đọc lại trong thơ của ngài
như sau: “Ơn Chúa đã không trở thành vô ích nơi tôi, nhờ ơn Chúa tôi được như
ngày nay”.
Nơi bài Phúc âm trích từ Phúc âm thánh Luca,
chúng ta cũng quan sát thấy cùng một kinh nghiệm tôn giáo về ơn gọi đã xảy ra,
đó là việc Chúa thực hiện một phép lạ để rồi nhờ phép lạ này mà Phêrô nhận ra
sự hiện diện của Chúa và thốt lên: “Thưa Thầy, xin hãy xa con, vì con là kẻ có
tội”.
“Lạy Chúa, xin hãy xa con, vì con là kẻ có
tội”. Trước nhan Thiên Chúa ai là người vô tội hoàn toàn? Thiên Chúa tìm và kêu
gọi con người, Ngài không để cho những yếu đuối của người được gọi cản trở
chương trình hành động của Ngài, nhưng ban hồng ân tràn đầy để biến đổi người
được chọn trở thành dụng cụ thích hợp.
“Đừng sợ, hãy theo Ta, từ nay con sẽ là kẻ
đánh cá người”. Thật, kinh nghiệm sống động về Thiên Chúa Đấng trọn tốt trọn
lành, và đồng thời cho con người vừa được gọi ý thức về thân phận yếu hèn tội
lỗi của mình không xứng đáng được gọi, nhưng vì Chúa đã trấn an Phêrô và từ đó
không bao giờ ngưng trấn an những kẻ Ngài gọi: “Đừng sợ, con sẽ là kẻ đánh cá
người”.
Ơn Chúa sẽ biến đổi người đồ đệ, nhưng liệu
chúng ta có đủ sức can đảm đi đến cùng để cho ơn Chúa biến đổi cuộc sống mình
hay không? Liệu chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: Ơn Chúa không trở thành
vô ích nơi tôi hay không? Nhờ ơn Chúa tôi được như ngày nay, như là tông đồ của
Chúa, mặc dù tôi đã là kẻ tội lỗi, bắt bớ những tín hữu của Chúa.
21.
Ơn gọi
Phụng vụ lời Chúa hôm nay trình bày những
phản ứng khác nhau của con người phàm tục khi đối diện với Đấng Thiên Chúa
thánh thiêng qua con người và sứ vụ của Đức Giêsu. Con người do kinh nghiệm dạn
dày của một đời dấn thân vào mọi khoảnh khắc thăng trầm của cõi nhân sinh, đã từng
vào sinh ra tử nơi những trận tuyến dữ dội nhất của xã hội loài người, đã nếm
trải mọi vinh nhục của lòng dạ người đời. Có lẽ đầy xác tín và sẽ mãi bám chặt
lấy kinh nghiệm bản thân theo góc độ có thể định hình. Đó có thể là một thế
giới quyến rũ, một nhân loại hồn nhiên mở ra những khả năng vô hạn cho công
trình xây xây nên một địa đàng tương lai. Đó có thể là một đấu trường dữ dội
nơi sàng lọc các giá trị, nó ưu đãi cho sức mạnh của trí tuệ, của thế lực, của
vật chất. Đó có thể là một bãi tha ma, một đống đổ nát điêu tàn của mọi ước mơ,
nơi chôn vùi mọi giá trị hão huyền, mọi toan tính thành tâm thiện chí, mọi khát
vọng công bằng, hòa bình, yêu thương, để cuối cùng trơ ra một thế gian trần
trụi, chết chóc, tanh hôi, một mảnh vườn hoang vô chủ, một mảnh đất màu mỡ mọc
lên đủ mọi thứ gian tà ác độc. Đó là một thế giới đã bị nguyền rủa. Đó là một
nhân loại đã bị nhiễm độc không còn hy vọng tìm ra lối thoát.
Đức Giêsu đến đề nghị giải pháp của Người cho
một thế giới mới, một nhân loại mới dựa trên nền tảng của giá trị Tin Mừng.
Công cuộc Người dự định là qui tụ cộng đoàn nhân loại đã được phục hồi những
giá trị nhân bản và tâm linh nguyên thủ qua quá trình hoán cải để hình thành
một thể chế mới họa theo mẫu cộng đoàn Thiên Chúa Cha, Con và Thánh Thần. Đó là
một thể chế của Thiên Chúa, hay đúng hơn một gia đình của Thiên Chúa là nơi để
yêu thương, để trao ban và đón nhận yêu thương không còn mức độ, không còn giới
hạn và theo một chu kỳ vô tận.
Phản ứng của con
người ra sao trước kế hoạch của Đức Giêsu?
Thưa, chúng tôi đã vất vả suốt đêm mà không
bắt được con cá nào. Chúng tôi đã vất vả suốt đêm, rõ ràng là rất tự tin, rất
xác tín nơi kinh nghiệm và hiểu biết của mình mà không bắt được gì cả. Liệu
công cuộc và nỗ lực của Thiên Chúa có sinh được kết quả gì hơn những cố gắng
của nhân loại không? Nhân loại đã có thừa mứa tiện nghi, cuộc sống đã và còn
tiếp tục tự lập, tự mãn trên đà tiến khoa học kỹ thuật. Lời giảng của Chúa liệu
sẽ đem đến điều gì đáng ước mơ hơn những giá trị vật chất và tinh thần mà con
người đang thụ hưởng? Đường hướng của Chúa liệu có thay đổi được cục diện giống
gần như đã được cài đạp, đã được chương trình hóa của thế giới, của nhân loại
hay không?
“Nhưng vâng lời Thầy, chúng tôi sẽ thả lưới”.
Kể cả khi không còn lựa chọn nào khác, con người vẫn tỏ ra miễn cưỡng, không
mảy may tin tưởng, hy vọng nơi công cuộc thực hiện nhân danh Chúa. Thế nhưng,
để rồi xem Đức Giêsu có kế hoạch của Người. Là Thiên Chúa, hơn ai hết, hơn mọi
trí tuệ của phàm nhân, Người tiên liệu tất cả mọi hoàn cảnh, mọi điều kiện, mọi
khí hậu, mọi chuyển vận của cuộc đời và của con người, để chương trình yêu
thương và cứu độ của Người phải nhất thiết thành tựu và thành tựu mỹ mãn.
Không cần thiết nữa, bất cứ một lý do thối
thoát nào như trường hợp của ngôn sứ Isaia: “Khổ thân tôi vì miệng tôi ô uế”, hay
như ông Simon Phêrô: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ có tội”. Thái độ
hợp tình hợp lý nhất có lẽ là con người nên khiêm tốn nhập cuộc vào kế đồ đại
nghĩa của Đức Giêu, như cung cách của thánh Phaolô: “Tôi có gì cũng là nhờ ơn
Thiên Chúa, và ơn Người ban cho tôi đã không vô hiệu”.
Đó là phản ứng thuận ý trời hơn hết để có
được những mẻ cá lạ lùng.
22. Mầu nhiệm
Bài Tin Mừng hôm nay có tên gọi truyền thống
là “mẻ cá lạ lùng” qua việc Chúa gọi Simon từ kẻ “lưới cá” Ngài đã làm cho ông
trở nên kẻ “lưới người”. Qua hành trình ơn gọi ta thấy Chúa thử thách Simon,
ông tin tưởng cậy trông vào Chúa và cuối cùng Chúa đã thương chọn ông trở thành
tông đồ của Ngài.
Hôm nay là Chúa nhật V Mùa thường niên tôi
xin kính mời quí ông bà anh chị em cùng với tôi lần mở lại trang Tin Mừng để
tìm hiểu về hành trình ơn kêu gọi của mỗi người chúng ta trong cuộc sống hiện
tại.
Phúc âm kể lại: đang khi Simon giặt lưới,
tranh thủ nắng để phơi lưới, thế mà Đức Giêsu lại bảo ông bỏ việc riêng đó mà chèo
thuyền ra xa bờ một chút để Ngài rao giảng. Rõ ràng đây là một thử thách nhắm
đến tinh thần vâng phục, nhưng mới chỉ là thử thách lần đầu, phải bỏ mình.
Rồi khi giảng xong, Ngài lại bảo ông chèo
thuyền ra khơi thả lưới. Đây là thử thách thứ hai ta thấy nặng ký hơn lần đầu. Vì
Đức Giêsu không biết gì về nghề chài lưới, thế mà lại bảo Simon là một người
chuyên về nghề chài lưới, chèo thuyền ra chỗ nước sâu mà thả lưới bắt cá. Đây
là một điều vô lý hết sức: “Múa rìu qua mắt thợ”. Thả lưới cả đêm mà không bắt
được một con cá nào. Thả lưới ban ngày làm gì có cá. Nhưng Simon lại phải bỏ
mình “vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới, chứ ai khác thì… còn khuya!”
Quả thật, vì nể Thầy, Simon thả lưới. Cuối
cùng các ông đã bắt được rất nhiều cá đến nỗi hầu như rách lưới. Đến lúc này Simon
rất mệt vì đã vất vả suốt đêm, mà giờ này cá quá nhiều, một mình không làm gì
được. Ông phải nhờ đến các bạn đồng nghiệp đến giúp đỡ ông. Đây là thử thách
thứ ba Chúa đòi hỏi Simon phải bỏ mình sống tương quan liên đới với anh em.
Nhưng qua những lần thử thách, Simon đặt niềm tin vào Thầy thế nào?
Trước hết, nhờ kinh nghiệm sống thân mật bên
Thầy mấy tuần trước đó, Simon đặt hết tin tưởng vào Thầy: ông ra khơi thả lưới.
Lòng tin và sự vâng phục của Simon được tưởng
thưởng tức khắc. Nhờ quyền năng phi thường Chúa Giêsu chỉ cho Simon phải thả
lưới chỗ nào để chắc chắn bắt được nhiều cá.
Một mẻ cá như thế, giữa ban ngày, ngay mẻ
lưới đầu tiên, sau một đêm tốn công vô ích; đối với những ngư phủ rành nghề,
quả là một việc khác thường.
Sau đó, ông Simon sụp lạy dưới chân Chúa
Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là người tội
lỗi!” Quả vậy, thấy mẻ cá vừa bắt được, ông Simon và tất cả những người có mặt
ở đó với ông đều kinh ngạc.
Simon đã từng chứng kiến phép lạ ở Cana,
nhưng phép lạ này có liên quan mật thiết tới cá nhân ông, khiến ông bị xúc động
mạnh. Ông thấy Thiên Chúa hiện diện ngay bên ông khiến ông có thể cảm nghiệm,
sờ được. Bài đọc 1 cũng cho ta biết: ngày xưa Isaia khi nghe Chúa gọi, khi
chiêm ngưỡng Thiên Chúa ngự trên ngai lửa, đã la hoảng lên:”… khốn thân tôi,
tôi chết mất vì miệng lưỡi tôi nhơ bẩn, mà mắt tôi đã thấy Giavê.
Simon cũng kinh hãi ông quỳ xuống chân Thầy
và nói “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!”, nhưng Chúa Giêsu
bảo ông Simon rằng: “Đừng sợ hãi: từ đây con sẽ là kẻ chinh phục người ta”. Như
vậy, nhờ vào lòng tin và vâng phục Phêrô đã được Chúa tuyển chọn. Qua Bí tích
Rửa tội đã làm cho chúng ta trở nên con cái của Thiên Chúa. Như thế, mỗi người
chúng ta sống ơn gọi của mình như thế nào?
Đối với những người sống trong bậc gia đình
phải chu toàn trách nhiệm của mình là nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Khi nói
đến vấn đề giáo dục con cái ngày nay là một vấn đề rất khó khăn, chắc chắn rằng
cha mẹ sẽ gặp nhiều thử thách. Vì thế, trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta phải
biết vượt qua những thử thách đó và thêm tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên
Chúa. Cách riêng, những người đang theo đuổi ơn gọi sống đời tận hiến, bài Phúc
âm mời gọi chúng ta hãy lạc quan tin tưởng vào tình yêu của Đức Kitô, sống tốt
giây phút hiện tại của mình. Kiên trì vượt qua thử thách, thêm tin tưởng vào
Chúa. Vì hành trình ơn gọi của mỗi người không do một mình chúng ta thực hiện,
nhưng luôn có Chúa cùng đồng hành với ta.
Một mình Phêrô không bắt được gì cả; nhưng có
Chúa giúp, Phêrô đánh được một mẻ cá lạ lùng.
Gioan Vianney khi còn là chủng sinh đã học
hành rất chậm. Ngày kia, một cha giáo vâng lời bề trên địa phận đến khảo hạch
xem Vianney có đủ khả năng làm linh mục hay không? Tuy đã cố gắng học hành chăm
chỉ, nhưng Vianney vẫn không trả lời được bất cứ câu hỏi nào cho trôi chảy. Tức
giận, vị giáo sư đập bàn và nói “Vianney, anh thật dốt đặc như một con lừa! Với
một con lừa như anh, thử hỏi Hội thánh sẽ hy vọng làm được gì đây?” Sau một
giây suy nghĩ, Vianney khiêm tốn và bình tĩnh trả lời: “Thưa cha, theo ý con: ngày
xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm của con lừa mà đánh bại được 3000 quân
Philitinh. Vậy thì với cả một con lừa như con, chẳng lẽ Thiên Chúa lại không
làm được việc gì hữu ích hay sao?
Quả thật, con lừa Vianney của Thiên Chúa đó
sau này không những đã trở thành cha sở họ Ars, mà còn là một người nhân đức
thánh thiện, làm ích rất nhiều cho Chúa và các linh hồn.
Qua tấm gương của cha Vianney, ngài đã sống
trọn vẹn ơn gọi của ngài. Ước mong mỗi người chúng ta cũng xem lại việc sống ơn
gọi trong bậc sống của mình và khi gặp thử thách xin cho chúng ta biết tin cậy
vào sự quan phòng của Chúa.
23.
Thành quả vàng son
Thánh Gioan Vianney, lúc còn là chủng sinh,
học rất chậm. Ngày kia, một giáo sư thần học, thừa lệnh Đức giám mục đến khảo
sát Vianney xem có đủ khả năng học vấn để tới chức linh mục chăng? Tuy đã dốc
hết sức học hành, Vianney vẫn không thể trả lời được câu nào cho trôi chảy. Nổi
nóng, vị giáo sư đập bàn nói: Anh dốt đặc như con lừa. Với một con lừa như anh,
Giáo hội hy vọng làm nên trò trống gì. Vianney khiêm tốn trả lời: Thưa cha, này
xưa Samson chỉ dùng một cái xương hàm con lừa mà đánh bại 3000 quân Philitinh.
Vậy với cả một con lừa này, Thiên Chúa không làm được việc gì sao?
Quả thật con lừa của Thiên Chúa đó, sau này
không chỉ trở thành một cha sở, mà con được tôn phong làm bổn mạng của các cha
sở.
Hôm nay Simon cũng vất vả suốt một đêm chài
lưới mà không bắt được một con cá nào, nhưng “vì lời Thầy con sẽ thả lưới”. Và
lạ thay, một mẻ cá lớn bất ngờ đến nỗi lưới hầu như sắp rách. Trước tình thế
này, Simon chỉ còn biết bỏ thuyền, chạy đến sấp mình dưới chân Chúa mà nói: Lạy
Chúa, xin hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi. Kẻ nhận mình là tội lỗi yếu
hèn đó, sau này đã trở thành Phêrô, người thuyền trưởng của con thuyền Giáo
hội.
Có một điểm gì đó rất gống nhau giữa Vianney
và Phêrô. Đó chính là nhận mình yếu hèn khuyết điểm và hoàn toàn để cho Chúa
lèo lái điều khiển đời mình. Nhờ đó, Chúa đã ban tặng cho các ngài những đặc ân
vô cùng lớn lao. Vì ơn Chúa chỉ ban xuống cho những kẻ khiêm nhường.
“Thưa thầy, chúng con đã cực nhọc suốt đêm mà
không bắt được gì hết, nhưng vì lời Thầy, con sẽ thả lưới”. Đây là lời bày tỏ
sự bất lực của con người, để chính sự bất lực này sẽ làm nổi bật quyền năng của
Thiên Chúa. Chính sự vâng phục của con người trước uy quyền của Thiên Chúa sẽ
đem lại nhiều hiệu quả vượt sức tự nhiên loài người.
Từ vâng phục dẫn đến phép lạ, từ phép lạ dẫn
đến niềm tin: Trước mẻ cá, Simon xưng Đức Giêsu là Thầy: “Vì lời Thầy, con sẽ
thả lưới”, nhưng sau mẻ cá diệu kỳ, Người lại tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa:
“Lạy Chúa, xin Chúa hãy tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Qua phép lạ mẻ cá,
Simon đã nhận ra quyền năng Thiên Chúa nơi Đức Giêsu và đã tin vào Người. Đây
chính là lời tuyên xưng thiên tính nơi Đức Giêsu.
Chính khi tin vào quyền năng Thiên Chúa nơi
Đức Giêsu, mà Simon đã ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình trước sự thánh
thiện vô song của Thiên Chúa. Đó cũng là kinh nghiệm của ngôn sứ Isaia trước
Thiên Chúa: “Khốn cho tôi, tôi chết mất… vì lưỡi tôi dơ bẩn” (Is 6,5). Nhưng
sau khi được than hồng là lửa tình thương Chúa thanh tẩy, ông đã mau mắn xin
vâng, ra đi làm ngôn sứ cho Chúa: “Lạy Chúa, xin hãy sai con”. Hôm nay, Chúa
cũng trấn an Phêrô: “Đừng sợ, từ đây các con sẽ là kẻ chinh phục người ta”.
Thành ngữ này thường gặp trong Cựu Ước, để trấn an con người hãy tin tưởng vào
quyền năng Thiên Chúa. Ở đây, Đức Giêsu muốn trấn an các tông đồ, đặc biệt ba
vị là Phêrô, Giacôbê và Gioan, để các ngài tin tưởng vào sự quan phòng của
Thiên Chúa khi đón nhận và thi hành sứ mạng Chúa giao.
Quả thật ngay sau đó, các ông đã bỏ mọi sự mà
đi theo Ngài. Đó là ơn gọi của Phêrô, con người đã gặp gỡ Chúa và đã được Chúa
thu hút chinh phục, để rồi Phêrô ra đi chinh phục các tâm hồn về cho Ngài.
Trước khi gặp Chúa, Simon dù có vất vả suốt
đêm cũng không được một con cá nào. Sau khi gặp Chúa, Chúa đã hướng dân ông kéo
lên một mẻ cá bội thu. Nhưng dù cá có nhiều đến rách lưới, ông cũng không màng,
vì từ đây mục đích đời ông không phải là thành quả vàng son, mà là chính Chúa
mà thôi.
Lạy Chúa, từ bỏ mọi sự là điều kiện để đi
theo Người. Xin cho chúng con một đức tin can đảm, dám từ bỏ những gì chúng con
đã từng bám víu, cũng chẳng sợ thiệt thòi khi đã hiến dâng.
Xin cho chúng con một đức tin liều lĩnh, sẵn
sàng mất đi tất cả, để chỉ xin giữ trọn một mình Chúa mà thôi. Vì Chúa chính là
gia nghiệp và là phần phúc cuộc đời chúng con. Amen.
24.
Người ấy biết đứng lên
Theodore Roosevelt đã từng nói, "Người
đáng được chú ý không phải người biết nhận xét hoặc người biết ý kiến cho người
khác con đường tốt, nhưng là người ở trong cuộc. Người phải chịu xây sát với
nước mắt và mồ hôi, dũng cảm đấu tranh, lầm lỗi và gặp những trắc trở, biết
hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công việc nhưng lại
bị thất bại. Như thế, chỗ đứng của họ không chung với những tâm hồn cô đơn và
nhút nhát, nhưng với những tâm hồn biết cảm nghiệm được thất bại và chiến
thắng."
Không biết trong đầu của Roosevelt đã có ai
là thần tượng hay không, nhưng thật ra điều đó miêu tả một ngư phủ được Chúa
Giêsu kêu gọi theo Ngài để cộng tác vào việc rao giảng Nước Thiên Chúa: Thánh
Phêrô, một con người thuộc giới lao động. Đây là một người ở "trong trận chiến,
xây sát bằng nước mắt và mồ hôi, dũng cảm chiến đấu, lầm lỗi và luôn gặp những
trắc trở, hăng hái nhiệt tình, mạnh mẽ tin tưởng vào sự thành công của công
việc nhưng lại bị thất bại." Hơn hết, đây là một người biết thế nào là
"thất bại" và "chiến thắng."
Thánh Phêrô là một người đã từng ngã đi ngã
lại. Ngài đã từng phải cảm nghiệm hết cái thất bại này đến thất bại nọ. Thí dụ,
một lần Chúa Giêsu đã hỏi các môn đệ Ngài về câu hỏi người ta nói Chúa Giêsu là
ai? Sau cùng, Ngài đã hỏi chính các môn đệ Ngài nghĩ Ngài là ai? Thánh Phêrô đã
nhanh nhẩu đáp ngay, "Ngài là Con Thiên Chúa hằng sống." Câu trả lời
này của Thánh Phêrô đã làm cho Chúa Giêsu hài lòng về ông. "...Anh thật là
có phúc, vì không phải phàm nhân mạc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của
Thầy, Đấng ngự trên trời" (Mt 16:15 & 17). Sau đó, Chúa Giêsu đã dùng
cơ hội này để diễn tả sứ mệnh của Đấng Cứu Thế. Sứ mệnh đó chính là phải chịu
đau khổ và chịu chết. Chính ngay sau khi nghe điều đó, Thánh Phêrô đã vấp ngã.
Ông đã nói với Chúa Giêsu rằng, "Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp
phải chuyện ấy!" Và Chúa Giêsu đã quay lại bảo ông, "Satan, lui lại
đàng sau Thầy!" (Mt 16: 22 -23).
Khoảng một thời gian sau đó, trên núi biến
hình, Thiên Chúa đã ban cho Thánh Phêrô thêm một món quà đặc biệt nữa: đó là
được nhìn thấy Maisen và 'lia đàm đạo với Chúa Giêsu. Câu truyện đó là để chứng
thực về điều mà Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ Ngài về sứ mệnh của Đấng Cứu Thế.
Lúc đó Thánh Phêrô đã phản ứng ra sao? Ông đã nói với Chúa Giêsu rằng họ có thể
ở trên núi và xây nhà dựng cửa.
Một thời gian sau lần đó nữa, Thánh Phêrô
đang ở trên thuyền với các môn đệ khác. Họ nhìn thấy Chúa Giêsu đi trên nước
đến với họ. Chúa Giêsu đã kêu Thánh Phêrô đến với Ngài. Thánh Phêrô đã ra khỏi
thuyền và khi ông rời mắt khỏi Chúa Giêsu thì một tí nữa là ông bị chết chìm.
Trong những giờ phút cuối cùng trước giờ tử
nạn của Chúa Giêsu tại nhà Tiệc ly, chính là giây phút cực kỳ khó hiểu đối với
Thánh Phêrô khi ông nhìn thấy Thầy mình rửa chân cho các môn đệ. Một việc làm
của các đầy tớ. Không hiểu được ý nghĩa của việc làm đó, Thánh Phêrô đã lên
tiếng, "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Tuy
nhiên, khi ông hiểu được việc làm của Chúa Giêsu thì chính ông lại còn muốn Chúa
Giêsu không những rửa chân của ông mà còn cả mình ông nữa (Gn 13:8-9).
Chúa Giêsu đã muốn Thánh Phêrô ở với Ngài
trong vườn Ghétsimani với Ngài, thế nhưng ông đã ngủ.
Chúa Giêsu đã dạy dỗ về lòng tha thứ và không
được dùng bạo động. Thế nên trong khi bị quân dữ bao vây, chính Thánh Phêrô đã
cầm kiếm và vung văng để một tên lính phải bị chém đứt tai. Một lần nữa, Thánh
Phêrô đã hành động như là ông chưa nắm được ý nghĩa đích thực của những lời giảng
dạy của Chúa Giêsu.
Sau cùng, cái giờ phút tệ bạc nhất đó là
chính Thánh Phêrô đã mạnh dạn thề thốt cho dù có bất cứ chuyện gì xảy ra thì
ông cũng sẽ không bỏ Chúa Giêsu. Thế nhưng, trong sân Philatô, ông đã sợ hãi mà
chối Chúa đến ba lần, không phải với những người có chức quyền gì, mà là những
đứa đầy tớ thấp hèn (Mt 26:35, 70, 72, 74).
Chúa Giêsu đã gọi Thánh Phêrô là đá. Tuy
nhiên đó là một viên đá cứ rơi lên rớt xuống. Hết lần này đến lần khác, ngài đã
phải cúi mặt xuống ăn năn. Đó là một con người đã phạm hết lỗi lầm này đến lỗi
lầm khác, thế nhưng sau cùng đã trở nên Tông Đồ Cả., Trong cuộc bách hại bởi
quân Rôma, Thánh Phêrô chính là người đã liên kết và gìn giữ Hội Thánh. Đó là
thời gian mà Giáo Hội tiên khởi đã bị giết chết cả hàng ngàn người. Trong ngày
Lễ Hiện Xuống, chính Thánh Phêrô đã đứng ra và giảng dạy. Sau khi Chúa Giêsu không
còn hiện hữu một cách thể lý nữa, nhưng những người tàn tật và mù lòa vẫn còn
tiến đến, và chính Thánh Phêrô đã chữa cho họ được khỏi.
Tin mừng của Phúc Âm là ơn thánh vẫn hằng
luôn ban xuống cho chúng ta. Ơn thánh của Chúa hằng luôn hiện hữu ở giữa chúng
ta, ở đây, ngày hôm nay trong buổi tụ họp này. Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra
là, "Làm sao chúng ta thể hiện công việc ấy ngay? Làm sao nó có thể trở
thành một cái gì đó hơn là một ý tưởng suông?" Ở tại chỗ này, tài liệu Thánh
Phêrô để lại có thể giúp ích cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta có thể thấy được
Thánh Phêrô đã làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa gần gũi là một tiến trình
lớn lên của cuộc sống chúng ta. Chúng ta có thể nhìn thấy trong Thánh Phêrô một
tiến trình lớn lên kèm theo sự chỗi dậy của những lần ngã qụy; biết chỗi dậy
sau những lần bị thất bại; Simon Phêrô có lòng nhiệt thành. Ông có lòng đạo đức
cao siêu. Khi thánh nhân bị ngã, thì ngài luôn biết chỗi dậy.
Nếu bạn chỉ biết ngồi ở trong căn phòng của mình
và đóng cửa lại, thì những tài năng của bạn sẽ bị chôn vùi và không được phát
triển. Nếu vậy, thì bạn gìn giữ chính bạn để làm cái gì? Bây giờ chính là lúc
chúng ta sống. Đây chính là lúc mà Thiên Chúa đang hiện diện bên bạn, và Ngài uốn
nắn bạn để trở thành người môn đệ tốt đẹp. Chúng ta không cần phải lo ngại sẽ
bị thất bại. Những người mà cố gắng để làm những việc có giá trị, và rồi bị
thất bại thì chắc chắn được hưởng niềm vui lớn lao hơn là những người không cố
gắng để làm bất cứ chuyện gì cả.
Cũng như Thánh Phêrô, chúng ta phải có một
tiến trình lớn lên kèm theo sự đứng lên sau những lần ngã quỵ; biết chỗi dậy
sau những lần bị thất bại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét