TUẦN THÁNH TẠI BẢO HÀ |
TUẦN THÁNH TẠI LĂNG THÍP |
HAI TÂN TÒNG ĐÊM VỌNG PHỤC
SINH
LÃNH THƯỞNG THI KINH BỎN LỄ PHỤC
SINH
|
LÃNH THƯỞNG THI KINH BỎN LỄ PHỤC
SINH
|
LÃNH THƯỞNG THI KINH BỎN LỄ PHỤC
SINH
|
LÃNH THƯỞNG THI KINH BỎN LỄ PHỤC
SINH
|
LÃNH THƯỞNG THI KINH BỎN LỄ PHỤC
SINH
|
LÃNH THƯỞNG THI KINH BỎN LỄ PHỤC
SINH
|
MỪNG LỄ PHỤC SINH TẠI TÂN AN |
ĐỐT LỬA PHỤC SINH |
ĐỐT LỬA PHỤC SINH |
ĐỐT LỬA MỪNG CHÚA PHỤC SINH |
ĐỐT LỬA MỪNG CHÚA PHỤC SINH |
CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH – Năm B
LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Cv 4,32-35; 1Ga 5,1-6; Ga 20,19-31
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay chúng
ta thấy Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ trong một căn phòng đóng kín vì sợ
người Do Thái. Thân xác vinh quang của Ngài tựa hồ như một luồng ánh sáng chiếu
qua những khung cửa kính. Để củng cố niềm tin, Ngài cho các ông xem những vết
thương trên tay chân Ngài khiến cho các ông hết sức vui mừng. Rồi Ngài nói với
các ông: Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con. Điều đó có nghĩa là: Chúa
Cha đã sai Ngài đến trong thế gian để cứu chuộc nhân loại, thì Ngài cũng sai các
ông đi để đem lại ánh sáng và sức mạnh của Tin Mừng cứu rỗi cho muôn dân.
Ngài thổi hơi để thông ban thần khí
cho các ông và nói: Các con hãy lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Các con tha tội ai
thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại. Với
tác động của Chúa Thánh Thần, Ngài đã trao ban cho các ông một uy quyền thiêng
liêng, đó là quyền tháo cởi. Quyền tha thứ và cầm buộc nếu như tội nhân chưa được
xứng đáng.
Thế nhưng ngày hôm đó Tôma lại vắng mặt,
ông đã tỏ ra cứng lòng khi nghe các môn đệ kể lại sự việc. Chúng ta có thể nghĩ
rằng sự cứng lòng của Tôma là một sai lỗi, là một khuyết điểm may mắn, vì nhờ
đó mà chúng ta có được một bằng chứng về sự sống lại của Đức Kitô, bởi vì các
môn đệ không phải là những người cả tin, dễ nghe theo những lời đồn thổi, nhưng
các ông đã đòi phải có những chứng cớ hiển nhiên.
Cũng chính nhờ sai lỗi và khuyết điểm
này chúng ta mới có được những lời lẽ đầy an ủi của Chúa Giêsu: Vì con đã thấy
nên con mới tin, nhưng phúc cho ai không thấy mà tin. Khi phán những lời ấy, có
lẽ Chúa Giêsu đã nghĩ tới hàng triệu triệu người qua dòng thời gian luôn tin tưởng
nơi Ngài, mặc dù đã không một lần nhìn thấy Ngài trên mặt đất này. Và cũng thật
hạnh phúc cho chúng ta, bởi vì chúng ta chưa được nhìn thấy Ngài, chưa được sờ
tới gấu áo Ngài, chưa được nghe Ngài nói, chưa được chứng kiến những phép lạ
Ngài làm, cũng như chưa được ăn và uống với Ngài. Nhưng chúng ta đã tin tưởng
nơi Ngài dựa vào những chứng cớ của các tông đồ, là những người đã dám chết để
làm chứng cho sự phục sinh của Đức Kitô.
Thánh Gioan đã viết trong sách Phúc Âm
như sau: Sở dĩ một số các phép lạ được kể lại là để anh em tin rằng Chúa Giêsu
là Đấng cứu thế, đồng thời nhờ niềm tin tưởng này mà anh em có được sự sống, dĩ
nhiên đó phải là sự sống vĩnh cửu mà chính Ngài muốn đem đến cho thế gian.
Chúng ta hãy Chúa xin củng cố niềm tin
của chúng ta, để một khi đã xác tín việc Chúa sống lại, chúng ta cũng sẽ mạnh dạn
làm chứng cho Chúa như các môn đệ ngày xưa.
2. Khoa học và đức tin
Trong một cuộc hội thảo về tôn giáo,
viên kỹ sư thao thao bất tuyệt chứng minh tôn giáo chỉ là thuốc phiện mê hoặc
dân chúng. Thế nhưng khi bàn bạc và trao đổi, thì một cụ già đã phát biểu như
sau:
-
Theo tôi thì khoa học chỉ là chuyện bịa đặt và láo khoét. Viên kỹ sư ngạc nhiên
hỏi cụ già tại sao nói thế, thì cụ già đã trả lời:
-
Ngài chẳng biết gì về tôn giáo, nhưng lại lên tiếng chỉ trích tôn giáo, thì tôi
đây, tôi chả biết gì về khoa học, thì liệu tôi có quyền phê bình khoa học như
tôi vừa phát biểu hay không?
Khoa học và đức tin, phải chăng là hai
thái cực đối nghịch. Làm thế nào để dung hòa đức tin và khoa học.
Từ những ý nghĩ trên, chúng ta đi vào
đoạn Tin mừng sáng hôm nay và chúng ta có thể nói: Thánh Tôma, nếu không phải
là thánh tổ của các nhà khoa học thì cũng là một vị thánh có tinh thần khoa học,
bởi vì các nhà khoa học chỉ tin, chỉ công nhận là thật những gì mình có thể kiểm
chứng được. Nhà khoa học trước khi tin, thường nghi ngờ. Cái đó gọi là óc phê
bình.
Jean Guitton đã nói: Tôi luôn hoài
nghi. Chính vì hoài nghi mà tôi có được óc phê bình, nhờ đó mà tôi có thể tin vững
chắc. Tuy nhiên, liệu chúng ta có quyền xử dụng óc phê bình trong lòng tin hay
không? Dẫu muốn hay không, thì trong quá trình của lòng tin, chúng ta thường gặp
rất nhiều nghi ngờ như Bernanos đã nói: Tin là hai mươi bốn giờ nghi ngờ trong
một ngày, trừ những giây phút trông cậy. Làm sao chúng ta có thể dung hòa được
giữa khoa học và tôn giáo, giữa lý trí và đức tin. Nếu phân tích, chúng ta sẽ
thấy điểm cuối cùng của khoa học và đức tin nhằm tới chính là Thiên Chúa, tuy
nhiên phương pháp xử dụng thì khác biệt nhau.
Phương pháp của khoa học là phương
pháp thực nghiệm, đi từ những sự việc cụ thể, để rồi dần dần tiến đến cùng
Thiên Chúa, là tác giả của những sự việc cụ thể ấy. Trong khi đó, đức tin thì
xuất phát từ Thiên Chúa dựa vào những điều Ngài mạc khải, Ngài tỏ lộ để tìm biết
về Ngài. Cũng theo Jean Guitton, thì phải làm sao cho lý trí biết tin và nhất
là làm cho lòng tin trở nên có lý. Đó là chuyện của các nhà chuyên môn.
Còn đối với chúng ta, những người tín
hữu bình thường thì không đặt vấn đề như thế. Chúng ta thường nói tin yêu. Càng
yêu mến nhiều, thì càng tin tưởng vững chắc. Và những người có lòng kính mến
Chúa thì thường không cần phải tin, vì họ đã thấy.
Đây là trường hợp của Gioan, khi nhìn
thấy bóng người đi trên mặt biển, trong khi các tông đồ bảo là ma, thì chỉ mình
Gioan đã kêu lên: Thày đấy.
Rồi trong ngôi mộ rỗng, với những dây
băng và khăn liệm được xếp gọn ghẽ, thì Gioan đã tin rằng Chúa đã sống lại. Sở
dĩ Gioan đã thấy, đã tin chỉ vì ông có lòng yêu mến. Bởi đó, chúng ta hãy xin
Chúa thắp lên trong chúng ta ngọn lửa yêu mến, nhờ đó mà lòng tin nhỏ bé của
chúng ta sẽ được củng cố và trở nên vững vàng.
3. Gặp gỡ Đức Kitô Phục Sinh- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng
Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta
nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện
ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:
1. Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành
với họ trên mọi nẻo đường.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn
trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Ngươì
xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn
đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường
dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này,
Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người
theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không
ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của
cuộc sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới
hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya.
Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất
hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp
tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào
Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn,
trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người
làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên
nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một
khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất
hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu
niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.
2. Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh
khơi dây niềm bình an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối,
bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc
các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con
hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc
sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần Linh
Chúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi
vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn
các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi
ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn
đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp
Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt
vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực,
các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối
được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.
3. Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan
trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một
bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường.
Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ
như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ
thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những
xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở
lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại
rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một
ý nghĩa.
4. Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục
sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ
cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý
nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao
đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem
ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối
đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh.
Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng
không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với
các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu
Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các
môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục
sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một
lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho
tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang
hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh
khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế
chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không
gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong
chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ
vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở
bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị
tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên
ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được
Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người.
Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an,
linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống
dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm
trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
4. Nỗi oan Tôma - ĐGM. Vũ Duy Thống.
Đối với phần đông tín hữu Việt Nam,
danh xưng Tôma khơi gợi về một thái độ, rất riêng tư nhưng cũng rất điển hình,
chẳng những không tích cực mà xem ra còn để lại nhiều tai tiếng. Gặp một tâm hồn
cứng cỏi trước những biểu cảm của niềm tin, người ta đã khéo ví von “cứng lòng
như Tôma”; thấy ai biểu lộ do dự hoặc nghi ngờ trước những sự kiện tôn giáo,
người ta đã vội đưa vào gia phả “con cháu thánh Tôma”. Kể cũng oan.
Thật ra, đi liền với danh xưng Tôma lại
là một bài học dẫn đến niềm tin, và cũng còn đó lời gọi sống sao cho mối phúc
thứ chín, như người ta gọi về lời Chúa Giêsu kết thúc trang Tin Mừng hôm nay
“Phúc cho kẻ không thấy mà tin”, được trở thành hiện thực trong đời mỗi Kitô hữu.
1. LẠY CHÚA
TÔI, LẠY THIÊN CHÚA CỦA TÔI
Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh
là cả một chặng đường trong đó yếu tố trước hết chính là cộng đoàn: “Chúng tôi
đã được thấy Chúa”. Chính vì chứng từ của cộng đoàn này mà Tôma đã tự vấn để rồi
sau đó mới đi tới đức tin. Ngay việc các môn đồ hội họp vào ngày thứ nhất trong
tuần cùng với lời chúc bình an của Đấng Phục Sinh, làm bối cảnh hình thành truyện
Tôma, cũng cho thấy vai trò của cộng đoàn trong việc khai sinh đức tin nơi một
người.
Nhưng yếu tố chủ động hơn phải được
tìm thấy trong phản tỉnh của cá nhân ông. “Nếu tôi không thấy… tôi không tin”.
Câu nói tự phát ấy đã trở thành tai tiếng khiến nhiều người nghĩ rằng Tôma là một
kẻ cứng đầu cứng cổ, đòi hỏi, nghi ngờ. Nhưng thực ra, ông là người thực tiễn.
Chính nhờ ông lên tiếng mà ta mới thấy rõ hơn thế nào là trăn trở của đức tin
thuở ban đầu và thế nào là nỗ lực cá nhân làm cho niềm tin có được bản sắc
riêng không thể lẫn với người khác. Nếu hôm trước Tôma đòi thấy mới tin, thì
tám ngày sau, qua tiếp xúc cá nhân với Đấng Phục Sinh, ông đã tuyên xưng không
phải bằng công thức chung nữa, mà bằng một cách rất riêng làm thành đỉnh cao
tuyên tín Phục Sinh: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả
khi có yếu tố quyết định chính là hồng ân Thiên Chúa, như một bao trùm từ khởi
sự cho đến hoàn thành. Nguyện vọng của Tôma xem ra ngược ngạo, nhưng đã được Đức
Giêsu thanh luyện, để cuối cùng khi dâng lời tuyên tín, cũng là lúc ông được dẫn
vào một nhận thức mới mẻ hoàn toàn. Thay vì phải thấy mới tin, ông nhận ra rằng
phải tin mới thấy trọn vẹn: thấy Đấng Phục sinh và con người Giêsu cũng là một,
thấy Đấng Phục sinh rốt cuộc là Chúa và là Thiên Chúa của mình, và thấy niềm
tin vượt lên tất cả sẽ trở thành hạnh phúc.
2. ĐỪNG CỨNG
LÒNG, NHƯNG HÃY TIN
Chuyện lòng riêng của Tôma cũng là
chuyện lòng chung của muôn lòng tín hữu. Từ nỗi oan Tôma, ngày nay người ta hiểu
hơn rằng niềm tin không phải là một yếu tố đơn thuần, mà là một tổng hợp giữa
ơn thánh và nghị lực con người, trong đó có cộng đoàn và mỗi cá nhân.
Chỉ dựa vào ơn thánh, người ta có nguy
cơ rơi vào thái độ coi mọi sự là bởi Chúa nên không cần phải đào sâu tìm hiểu nữa.
Có biết đâu tin như thế là không còn tin nữa, mà một cách nào đó đã là cả tin.
Vì tin tất cả nên cả tin, hay vì cả tin nên tin tất cả? Chỉ dựa vào lý trí, người
ta lại có nguy cơ khác là thái độ muốn giới hạn tri thức về thực tại và tiêu
chuẩn của kinh nghiệm khả giác hoặc khả năng suy luận: những gì không hiểu,
không đo lường sờ chạm, đều bị chối từ. Có biết đâu tin như thế cũng không còn
là tin nữa, mà xem ra lại gần với sự bất tín! Nếu chỉ dựa vào cộng đoàn thôi,
người ta còn có thêm một nguy cơ nữa là thái độ tiêu cực. Bên ngoài có vẻ ngoan
ngùy, nhưng thực chất là dấu hiệu của một niềm tin hời hợt. Lúc đạo giáo hưng
thịnh xem ra không có vấn đề, nhưng khi sự đạo phải bước vào thầm lặng thì biết
đâu bởi vì dễ tin nên cũng dễ bỏ niềm tin trước bất cứ ai?
Thành ra, phải xem trường hợp Tôma như
một kinh nghiệm, và cần xem chặng đường niềm tin của ông như một kinh điển cho
niềm tin đang dấn bước đi trong cuộc sống. Đừng cứng lòng! Phải chăng là lời gọi
hãy xa đi những thái độ không phù hợp, để chẳng những tránh được khủng hoảng,
mà dường như còn nghe lại từng ngày lời ân cần đã một lần ngỏ với Tôma ở cuối
chặng đường gặp gỡ: “Nhưng hãy tin!”
3. PHÚC CHO
KẺ KHÔNG THẤY MÀ TIN
Cũng từ nỗi oan Tôma, tín hữu hôm nay
cảm nhận hơn niềm vui trong đức tin của mình. Niềm vui của Tôma là được thấy
Chúa nên tin, còn niềm vui của đời tín hữu lại là tin để được thấy Chúa. Tin
như thế là một hạnh phúc.
Trong hạnh phúc ấy, sau này các tông đồ
đã qui tụ cho Chúa những kẻ tin, và những kẻ tin sơ khai đã vui mừng cử hành niềm
tin của mình một cách sống động, không những qua nghi thức phụng vụ, mà còn qua
cách sống cộng đoàn biết chia sẻ và phục vụ lẫn nhau, và niềm hạnh phúc, cuối
cùng, sẽ là sức mạnh chiến thắng.
Nhưng với kẻ tin hôm nay, tất cả vẫn
còn ở phía trước. Bổn phận của ta là phải khổ công vun đắp niềm tin của mình
sao cho thắm đượm hồng ân Thiên Chúa mà vẫn không quên nỗ lực đóng góp của con
người, sao cho chan hòa với nhịp sống cộng đoàn mà vẫn không triệt tiêu bản sắc
cá nhân. Và một khi niềm tin muốn khơi dậy niềm tin, thì cái bổn phận kia đã trở
thành trách nhiệm loan báo hạnh phúc cho những người đồng thời.
Tuy nhiên, phải thú nhận rằng niềm tin
hạnh phúc ấy còn lắm nhạt nhòa. Đó đây trong nhịp sống chung Giáo Hội cũng như
trong nếp sống riêng mỗi tín hữu, vẫn có thể có những lúc ngại tin hoặc chậm
tin vào điều mình không thấy. Nhất là phải hy sinh những hạnh phúc chính đáng
thấy được để vươn đến một thứ hạnh phúc ở ngoài tầm nhìn khả giác. Quả là vất vả.
Nhưng chính lúc ấy, Tôma xuất hiện như một người bạn tri âm, như một người thầy
đã từng trải nghiệm. Và lời Đức Giêsu nói với ông lại trở thành lời vỗ về đem lại
sức mạnh. Nghe trong mối phúc thứ chín có lời dặn dò: muốn thấy điều mình tin,
hãy bắt đầu bằng cách tin điều mình không thấy; và chừng như cũng có lời ước hẹn:tin
điều mình không thấy sẽ được thấy điều mình tin.
Ngày nay nỗi oan Tôma vẫn còn đó. Một
mình ông chịu tai tiếng để sau này người ta biết đường mà tránh. Một mình ông
chịu quở là cứng lòng tin để tín hữu hiểu rằng phải vượt trên những điều nhìn
thấy mới gặp được lối đi hạnh phúc của niềm tin. Và như thế, liệu ta có thể bảo
rằng nỗi oan Tôma là một nỗi oan hạnh phúc? Cùng với mầu nhiệm đức tin khi bánh
rượu được truyền phép hôm nay, ta sẽ lặp lại lời tuyên xưng của Tôma. Để xin
thêm đức tin cho những tấm lòng còn nghi ngại, củng cố đức tin cho những người
đang yếu đuối, và xin được hạnh phúc cho mọi kẻ tin.
5. Chúng tôi đã thấy Chúa.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Sau khi được phục sinh, Đức Giêsu được
tôn vinh lên làm Chúa, nhưng Ngài vẫn dễ thương như xưa.
Nỗi bận tâm lớn nhất của Ngài là các
môn đệ. Việc làm quan trọng nhất của Ngài là đi thăm các ông. Ngài đưa các ông
ra khỏi nỗi sợ hãi co quắp, khỏi căn nhà đóng kín cửa âm u. Ngài chúc cho họ
bình an ba lần (c.19.21.26), thứ bình an ngay giữa những bất an, dao động.
Đức Giêsu phục sinh cho họ xem các vết
thương. Thân xác chiến thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ
mạng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Chỉ có một người không vui, đó là ông
Tôma. Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp
Đức Giêsu phục sinh. Chỉ biết ông đã “không ở với” các môn đệ, lúc Ngài đến. Có
vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn,
khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn: “Chúng tôi đã thấy
Chúa.” Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan. “Nếu tôi không thấy...
nếu tôi không xỏ ngón tay... nếu tôi không thọc bàn tay... tôi sẽ chẳng tin
đâu.” Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Đức Giêsu phục sinh đến với nhóm,
nhưng không quên một ai. Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì
Ngài hiện đến. Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em, nhưng
Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi. Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin
như anh em.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên
đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng
Ngài sống lại.
Quanh chúng ta vẫn có nhiều người giống
Tôma. Họ đòi “thấy và chạm đến” những thực tại vô hình, như Thiên Chúa, linh hồn,
đời sau. Nếu “thấy và chạm” có nghĩa là “có cảm nghiệm”, thì đòi hỏi trên thật
là chính đáng. Đức Giêsu đã cho Tôma được thấy và chạm đến Ngài.
Chúng ta cũng phải có khả năng giúp
người khác thấy và chạm đến những điều vô hình nhưng có thật. Chúng ta cần sống
như người đang thấy Thiên Chúa, cần thanh thoát như người đã đụng đến trời cao,
cần bay lên khỏi cái nặng nề của thân xác như người đã cảm được cái nhẹ bổng của
linh hồn.
Truyền giáo là làm cho người ta tin,
làm cho người ta thấy và chạm đến Thiên Chúa. Nhưng trước hết, mỗi người chúng
ta phải nói được rằng: “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Và tất cả cộng đoàn chúng
ta phải nói được rằng: “Chúng tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,25).
Gợi Ý Chia Sẻ
1.
Bạn nghĩ gì về đức tin của bạn? Có khi nào bạn
thấy đức tin đó mạnh không? Nếu bạn thực sự tin vào Chúa, vào sự phục sinh, bạn
có thấy cuộc đời bạn sẽ có những thay đổi và chuyển biến lớn lao không?
2.
Có ai là Tôma trong nhóm của bạn không? Có ai
chưa được hưởng niềm vui phục sinh? Bạn đã làm gì để nâng đỡ họ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, Chúa đã sống
đến cùng cuộc Vượt qua của Chúa, xin cho con biết sống cuộc Vượt qua mỗi ngày của
con,
Vượt
qua sự nhỏ mọn và ích kỷ.
Vượt
qua những đam mê đang kéo ghì con xuống.
Vượt
qua nỗi sợ khổ đau và nhục nhã.
Vượt
qua đêm tăm tối cô đơn của Vườn Dầu.
Vượt
qua những khắc khoải của niềm tin.
Vượt
qua những thành kiến con có về người khác...
Chính vì Chúa đã phục sinh nên con vui
sướng và can đảm vượt qua, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước
gì con biết noi gương Chúa phục sinh gieo rắc khắp nơi bình an và hy vọng, tin
tưởng và niềm vui.
Ước
gì ai gặp con cũng gặp thấy sự sống mãnh liệt của Chúa.
6. Vui mừng vì thấy Chúa.
(Chúa
Nhật Lòng Nhân Hậu Chúa)
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
"Chúng tôi đã được thấy
Chúa" Đó là tiếng reo vui ngây ngất của các môn đệ. Thầy Giêsu, người đã bị
đóng đinh, chết và chôn cất, nay bất ngờ hiện đến, đứng giữa họ thật gần gũi.
Động từ "thấy" được nhắc đến
6 lần trong bài Tin Mừng này. Thấy Thầy vẫn như xưa, với những dấu đinh và vết
đâm. Nhưng Thầy cũng khác xưa, nên không dễ nhận ra ngay. Maria Macđala cứ tưởng
Thầy là người làm vườn.
Để thấy được Chúa phục sinh, cần có đức
tin. Ai tin mới thấy, và thấy để rồi tin hơn. "Phúc cho ai không thấy mà
tin"
Chúng ta vẫn tin bao điều mình không
thấy. Các bạn trẻ vẫn tin vào tình yêu, tình bạn. Các đôi vợ chồng vẫn tin vào
sự chung thủy của nhau, dù chẳng ai thấy rõ hết lòng dạ con người.
Tin không phải là một hành vi mù
quáng, phi lý. Tin chẳng hề làm hạ giá con người. Trái lại, chỉ con người mới
biết tin và dám tin.
Nhờ tin, tôi không còn bị giam trong
thế giới chật hẹp của cân đo đong đếm, của vật chất khả giác, nhưng được đưa
vào một thế giới phong phú hơn nhiều: thế giới của những ngôi vị tự do, của
chính Thiên Chúa.
Tin là chấp nhận bấp bênh, là có thể bị
lừa. Nhưng nếu không tin thì không thể sống được.
Vấn đề là tôi phải biết tôi đã tin vào
ai. Khủng hoảng lớn nhất là khủng hoảng niềm tin: niềm tin vào Thiên Chúa và niềm
tin vào con người. Cả hai niềm tin nâng đỡ nhau và cho tôi hạnh phúc.
Ông Tôma không tin vào lời chứng của
các bạn, nên ông chậm tin vào việc Chúa phục sinh. Khi Chúa giúp ông lấy lại niềm
tin vào Chúa, ông sẽ gắn bó hơn nhiều với cả tập thể.
Chúng ta là những kẻ không thấy mà
tin. Không thấy bằng mắt thường, nhưng vẫn thấy bằng con mắt đức tin.
Tin là một cách thấy nghiêm túc. Người
tin là người thấy bằng trái tim. Họ thấy được Đấng Vô Hình rõ hơn cả cái hữu
hình. Kitô hữu là người tin Chúa, nên cũng là người thấy Chúa. Thấy Thiên Chúa
hiện diện như người Cha nhân từ. Thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa làm người
trên trái đất, sống chết chỉ vì say mê Cha và say mê con người và đã sống lại để
cho cuộc đời một ý nghĩa mới.
Thấy mọi người là con cái Cha và là
anh em của nhau. Dù những điều chúng ta tin thật là mầu nhiệm, nhưng đó không
phải là chuyện mơ hồ, viễn vông.
Thế giới hôm nay chỉ tin vào những người
đã thấy. Ước gì chúng ta dám mạnh dạn tin Chúa hơn, để có thể thấy Chúa tỏ tường
hơn và giúp người khác thấy điều mình đã thấy.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Nhiều khi chúng ta không thấy Chúa chỉ vì
chúng ta không dám liều lĩnh tin vào Ngài. Có khi nào bạn gặp được Chúa, vì đã
dám quên mình để sống cho tha nhân không?
·
Có khi nào bạn gặp khủng hoảng đức tin chưa
(mất lòng tin vào Thiên Chúa và vào con người)? Đâu là nguyên nhân của cuộc khủng
hoảng? Đâu là cách bạn giải quyết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu phục sinh,
lúc chúng
con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi
tên chúng con
như Chúa đã
gọi tên
chị Maria đứng
khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng
con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với
chúng con trên dặm đường dài
như Chúa đã
đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng
con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến
và đứng giữa chúng con
như Chúa đã
đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng
con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên
nhẫn và khoan dung với chúng con
như Chúa đã
không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng
con vất vả suốt đêm
mà không được
gì,
xin hãy dọn
bữa sáng cho chúng con ăn,
như Chúa đã
nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa
Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình
ra
cho chúng
con thấy Ngài mỗi ngày,
để chúng con
tin là Ngài đang sống, đang đến,
và đang ở thật
gần bên chúng con. Amen.
7. Hãy nhìn xem.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Thân xác chúng ta thường mang những vết
sẹo, hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã. Có những vết sẹo gợi lại cả một
vùng kỷ niệm. Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua.
Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không
làm đau như xưa. Khi Đức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ, Ngài giúp họ
nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn.
Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng:
-
Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm
thâu;
-
Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết.
Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục
sinh có sẹo, dù điều đó chẳng đẹp gì. Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem. Những
cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền,
thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh.
Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức cuộc
khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã. Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết
sẹo của mình.
Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy,
thương tích. Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu thì mọi sự sẽ trở nên nhịp
cầu cứu độ.
Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các
vết thương đã lành. Có những vết thương tưởng
chẳng thể nào thành sẹo. Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của
mình không?
Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ
bị thương. Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó. Hẳn Tôma đã
nhìn thật lâu những dấu đinh. Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu.
Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh
để lấy lại. Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông. Ông đâu dám mong Thầy
sẽ đích thân hiện đến để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông
tràn ngập niềm cảm mến tri ân. Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập,
để bước vào thế giới của lòng tin.
Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông
chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên
Chúa của ông.
Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt
khỏi cái thấy. Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng
ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.
Cần tập thấy Chúa để rồi tin. Có khi
phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình, của Hội Thánh, của cả thế giới, để rồi
tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại
và khổ đau.
"Phúc
cho những ai không thấy mà tin", và phúc cho những ai biết thấy nên tin.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Đọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy Chúa Phục
Sinh đã tặng cho các môn đệ những món quà nào?
·
Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu trước
thái độ của ông Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma! Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải gỡ những
xung đột trong nhóm của bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
xin cho con luôn vui tươi, dù có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao
giờ khép lại với chính mình; nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những
người - cũng như con - đang cần một người bạn.
Nếu như con
nên yếu đuối, thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và
nhân từ hơn.
Nếu bàn tay
con run rẩy, thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tật như một lời kinh.
Ước chi con
sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng. Và con sẽ về
nhà Chúa, để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.
8. “Tôi nhận ra bạn…” – Maurice Brouard.
Bối cảnh. Tường thuật
này đến sau việc viếng mồ và việc Chúa hiện ra cho bà Maria Macdala, việc Tôma
tuyên xưng đức tin mạnh nhất trong Tin Mừng, đưa chúng ta trở về lời tựa của
thánh Gioan, tuyên bố thần tính của Chúa Giêsu.
Một việc
nhìn nhận.
Hôm đó, người ta đang nghĩ đến một việc
gì khác. Bỗng chốc có ai đó xuất hiện, “một người quen biết” mà người ta tuyệt
đối không thể nhận ra được; sau một lúc do dự, nghi ngờ, người ta đã phá vỡ được
khối băng: “Càng nhìn bạn, bạn càng làm tôi nhớ đến ai đó mà tôi đã gặp, tôi đã
trông thấy bạn ở đâu đó rồi… Tôi quen biết bạn nhưng không thể nào nhớ ra tên bạn…”.
Dần dần, trong ý thức hiện ra kỷ niệm này, hoàn cảnh kia… Rồi bỗng chốc niềm
xác tín “tôi nhận ra bạn rồi… tôi đã gặp bạn tại…”. Ai lại đã chẳng có một kinh
nghiệm như thế, gần giống với kinh nghiệm hoàn toàn độc nhất vô nhị của các
Tông đồ.
Kinh nghiệm
của các Tông đồ.
1. Chúa Giêsu có sáng kiến.
Chúa Giêsu không đến gặp môn đệ vì các
ông đã có hẹn với Ngài. Các ông chẳng còn chờ đợi gì nơi Đấng đã chịu đóng đinh
thập giá nữa. Không một người Do Thái nào, dù say mê gắn bó với Chúa Giêsu, đã
nhận ra Ngài là Đấng Mêsia. Và giờ này đây, “Ngài đến và đứng ở giữa họ”. Chính
Ngài đã có sáng kiến đến gặp gỡ họ.
Chúng ta có thể nào được kinh nghiệm
này của các Tông đồ không? Có và không. Kinh nghiệm của các ngài về những lần
Chúa hiện ra quả là độc nhất vô song và kinh nghiệm đó chính là nền tảng cho đức
tin của chúng ta. Vả lại, cũng như các ngài, chúng ta gặp Chúa Kitô trong đức
tin: chúng ta cảm thấy mối liên lạc sống động với Chúa như với một người bạn, sự
hiện diện của Ngài vừa bao quát vừa làm chúng ta phấn khởi. Ngài đã hứa với
chúng ta rằng: “Ai yêu mến Thầy… thì Cha Thầy và Thầy, chúng ta sẽ đến lưu lại
nơi người ấy”.
2. Họ nhận ra Ngài.
Nhờ lời chào của Ngài “Bình an cho các
con!” và việc Ngài cho xem tay và cạnh sườn của Ngài, các môn đệ nhận ra Đấng
đã chịu đóng đinh thập giá ngày thứ sáu tuần thánh. Tôma nghi ngờ trước khi có
được một đức tin đầy xúc động và hăng say.
3. Họ được sai đi thi hành sứ vụ.
Chúa Giêsu không hiện ra để cho người
ta chiêm ngắm Ngài, nhưng để sai họ đi tiếp tay với Ngài mà loan báo Tin Mừng:
“Cũng như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Kinh nghiệm
của chúng ta.
1.
Cũng như Đấng Phục Sinh đã có sáng kiến hiện
ra với các tông đồ, cũng vậy, chính Ngài đến gặp gỡ chúng ta, Ngài đến bất ngờ
trong cuộc sống chúng ta. Đức tin là một hồng ân của Thiên Chúa, Đấng chiến thắng
những mối nghi ngờ của chúng ta.
2.
Ngài cho ta nhận ra được Ngài nhờ sự bằng an
của Ngài, nhờ lời Ngài nói trong nội tâm ta. Ngài nói: “Chính Thầy đây”. Tôi gặp
gỡ Ngài trong Lời của Ngài đang hiện tại hóa việc rao giảng của Ngài khi xưa và
trong Thánh Thể, hiện tại hóa hy tế của Ngài.
3.
Một khi chính bản thân tôi đã gặp Ngài, tôi
có thể mang Lời Ngài đến cho anh em tôi, tôi có thể phục vụ thế giới bằng hành
động.
Câu hỏi.
Tôi có chỉ bằng lòng đọc Tin Mừng,
chia sẻ, lắng nghe Tin Mừng, cử hành Thánh lễ mà không làm gì hơn nữa chăng? Nếu
đúng vậy, thì đó là tránh né: khi tôi không thao thức làm cho Chúa Giêsu hiện
diện trên thế giới thì tôi đã không chu toàn sứ vụ mà tôi đã được trao phó.
Lời Chúa và Thánh Thể.
Như thánh Tôma, chúng ta hết thảy đều
ước mong kiểm chứng cách khả giác sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô Phục Sinh
trong Thánh Thể. Câu trả lời của Chúa Giêsu vẫn luôn luôn có giá trị: “Phúc
thay những kẻ không thấy mà tin”.
9.
Đức tin là một sự tăng trưởng.
(Trích
trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Ký sự thuật lại lần xuất hiện thứ hai
của Chúa tại phòng Tiệc ly, trong lúc có một môn đệ Tôma là người bản tính cứng
tin. Ký sự đáng cho ta chú ý về hai điểm được nhấn mạnh. Trước hết là thực tại
hữu thể trong sự Chúa sống lại, dù người ta đưa ra bất kỳ lý thuyết phỏng đoán
về cơ thể hiển vinh của Chúa. Tiếp đến là tầm quan trọng và ưu thế của đức tin.
Trước khi nhấn mạnh vấn đề đức tin,
chúng ta ghi sơ qua rằng rất có thể bài tường thuật muốn trả lời hai ý kiến phản
kháng:
a/ Chúa Phục
Sinh không phải làmột bóng ma, cũng chẳng phải là một ảo ảnh. Chúa phô
bày những dấu vết về nhân dạng –về thực tại hữu thể của Người: đó là những
thương tích của một người đóng đinh trên thập giá, Chúa cho Tôma tra tay vào những
vết thương đó.
b/ Truyền
thuyết mà người Do Thái tưởng tượng về việc thi hài Chúa bị mấy môn đệ lấy đi mất,
là một chuyện dựng đứng, bởi lẽ một số đông môn đệ đã thấy Chúa, nhận
đúng Chúa bằng xương bằng thịt.
Giả thuyết này, giả thuyết nọ cốt ý giải
thích cái thực tại hữu thể, nhưng không thay đổi được gì trong việc kiểm chứng
một sự kiện.
Đối với chúng ta, vấn đề hấp dẫn nhất
liên quan đến đức tin:
1) Trước đây, Chúa đã phán: Các ngươi tin vào
Thiên Chúa, vậy hãy tin vào Ta (Ga 14,1). Đáp lại lời đó của Thày,
vang lên tiếng hô của Tôma: Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi. Khoảng giữa
Lời Chúa và tiếng kêu kỳ diệu của Tôma, một quá trình dài đã được thực hiện. Có
thể nói rằng một trong những mạch văn chứa đựng tính chất bi kịch trong toàn bộ
Phúc Âm của thánh Gioan biểu lộ trong bước tiến chật vật từ cứng tin vươn tới đức
tin. Người Do Thái sau này sẽ đứng tại chỗ với lòng cứng tin. Đức tin chỉ được
vươn tới sau khi vượt thắng bao khó khăn trở ngại. Tôma thuộc hạng người ưa phản
kháng, khó thuyết phục. Ta nhớ lại, ông đã từng xem việc Chúa đi thăm mộ
Lagiarô như một việc liều lĩnh (Ga 11,16). Ông đã dám nói với Chúa rằng ông
không biết cuộc phiêu lưu của Người rồi đây sẽ kết thúc ở đâu (Ga 14,5). Vậy mà
chính ông đã tuyên xưng đức tin bằng một câu tuyệt vời nhất trong khắp Tân Ước.
Đây là một kết quả cho thấy cùng một lúc lòng rộng rãi Chúa khi Người ban ơn đức
tin, và lời đáp đơn sơ của một tâm hồn khó tính nhưng ngay thẳng.
Người ta sẽ nhận xét: Tôma dễ có được
niềm tin vì may mắn được thấy Chúa. Phần chúng ta, chúng ta nhận định rằng các
môn đệ khác cũng may mắn như Tôma. Tuy nhiên đã có một khoảnh khắc các ông nhận
ra Chúa Giêsu là Thiên Chúa nhiều hơn là một người. Niềm tin của ông nằm trong
quá trình các ông thừa nhận Đức Giêsu Thiên Chúa.
Chúng ta cũng vậy. Thiên Chúa đòi hỏi
chúng ta vượt lên trên những gì chúng ta biết về con người Giêsu lịch sử, để
vươn tới niềm tin vào Đức Giêsu Thiên Chúa.
2) Đức tin là một sự “trở nên” liên tục, một
sự tiến tới không ngừng. Không bao giờ người ta đạt tới hoàn hảo
trong đức tin vào Đức Giêsu, Chúa chúng ta và là Thiên Chúa chúng ta. Một trong
những bản dịch có thẩm quyền nhất về câu 27, viết: Ngươi đừng trở nên cứng tin,
mà là người thành tín. Cứng tin hay thành tín không phải là trạng thái bất động
của nội tâm. Từ chối không tin, là khiến cho đức tin càng thêm khó. Ngược lại,
chấp nhận tin và làm cho đức tin càng dễ được chấp nhận và sống động. Người ta
tiến hóa trong đức tin. Người ta trở nên cứng tin hơn hoặc thành tín hơn.
Sự kiện này có một hệ quả. Đức tin sống
động thiết lập trong con người một sự tăng trưởng thiêng liêng. Sau một thời kỳ
tăng trưởng, cơ thể bị hao mòn dần rồi chết. Đức tin là một thực tại thiêng
liêng lớn lên và tăng trưởng theo mức độ chúng ta muốn sống trong đức tin. Đức
tin không hao mòn, nhưng phát triển và nảy nở không ngừng. Tại sao? Vì lẽ đức
tin nối chúng ta vào Thiên Chúa hằng sống, là nguồn mạch vô tận của sự sống.
Tuy nhiên chúng ta có trở nên mỗi ngày một thành tín hơn hay không là tùy thuộc
lòng ước muốn, thái độ ngay thẳng thực tiễn và cung cách chúng ta nghênh tiếp đức
tin.
10.
Củng cố đức tin.
Có một chi tiết đặc biệt liên quan tới
đoạn Phúc Âm vừa nghe, đó là cùng một đoạn Phúc Âm này đã được chọn để dùng cho
Chúa Nhật thứ hai phục sinh cho ba năm liền A, B, và C, nghĩa là năm nào vào
Chúa Nhật thứ hai phục sinh, chúng ta cũng đều đọc, nghe đoạn Phúc Âm này. Chi
tiết này nói lên tầm quan trọng và ý nghĩa phong phú trong Mùa Phục Sinh. Chúa
Giêsu Phục Sinh là trung tâm và là nguồn năng lực tái tạo cộng đoàn những đồ đệ
của Chúa.
Ngay từ khởi đầu đoạn Phúc Âm, chúng
ta được nhắc lại việc Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng lại vắng mặt
Tôma, và trong lần hiện ra này, Chúa đã ban cho các tông đồ sự bình an:
"Bình an cho các con". Sự bình an này làm cho các tông đồ thực sự được
vui mừng. Các tông đồ được vui vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho các tông đồ
Chúa Thánh Thần, quyền năng tha tội và sai các ông ra đi làm chứng cho Chúa.
Các tông đồ có thể nói được trong giai đoạn này - trong phần thứ nhất của đoạn
Phúc Âm hôm nay - đã tin phần nào và đã chia sẻ cho Tôma: "Chúng tôi đã
xem thấy Chúa", nhưng Tôma không tin và đòi kiểm chứng một cách cụ thể. Có
thể nói, đây là giai đoạn thứ hai của cộng đoàn. Thái độ cứng lòng tin của Tôma
đã gây chia rẽ hay làm yếu kém đi sức mạnh làm chứng của cộng đoàn cho Chúa Phục
Sinh. Một cộng đoàn chia rẽ như vậy thì chắc chắn không thể nào có sự bình an,
không thể nào có niềm vui để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Cộng đoàn Kitô chúng ta ngày hôm nay
là một cộng đoàn của những người tin Chúa Phục Sinh đã qui tụ lại. Chắc chắn
Chúa Phục Sinh hiện diện ở giữa chúng ta, Ngài là trung tâm liên kết và nâng đỡ
sự hiệp nhất của cộng đoàn chúng ta, Ngài là nguồn mạch của sự bình an và niềm
vui của cộng đoàn chúng ta. Chúa Phục Sinh ban cho cộng đoàn các đồ đệ đầu tiên
sự bình an, Chúa Thánh Thần và sức mạnh làm chứng cho Chúa. Ðó là một cộng đoàn
lý tưởng cho tất cả mọi cộng đoàn Kitô khác rải rác khắp nơi trên thế giới, qua
muôn thế hệ. Ðó là một cộng đoàn lý tưởng, trong đó niềm vui và sự bình an đã
thay thế cho sự u buồn thất vọng: thấy Chúa các tông đồ đều vui mừng. Và niềm
vui, sự bình an này luôn luôn là dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Nhưng vì là
những con người cụ thể, như chúng ta đây, mỗi người đều có những giới hạn của
mình và cộng đoàn của chúng ta, cộng đoàn của các môn đệ Chúa chắc chắn phải trải
qua những thử thách, những trở ngại.
Sự vắng mặt, sự cứng lòng tin của
Tôma, thái độ của Tôma, tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh hưởng trên sự
hiệp nhất của cộng đoàn. Sự vắng mặt của chúng ta, sự cứng lòng tin của mỗi người
chúng ta hay thái độ của chúng ta đối với Chúa Giêsu cũng như đối với anh chị
em, thái độ đó cũng có ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã
đáp lại khuyết điểm này của cộng đoàn các tông đồ để mang lại niềm vui và sự
bình an, để trao ban sứ mạng qua việc Chúa đáp lại đòi hỏi của Tôma để biến đổi
ông, và Tôma đã tin và tuyên xưng: "Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa Trời tôi, Lạy
Chúa và là Chúa Trời con". Và Chúa Giêsu dường như muốn cho các môn đệ của
Ngài từ đó không nên thách thức như Tôma nữa: "Phúc cho những ai không thấy
mà tin".
Cộng đoàn chúng ta hôm nay cần thực hiện
lý tưởng của cộng đoàn Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để cho Chúa Giêsu Phục Sinh
qui tụ chúng ta lại trong tình yêu của Người, hãy đón nhận sự bình an của Chúa
trong niềm vui nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm chứng một cách xứng đáng
cho Chúa. Nhưng như vừa nói chúng ta đây là những con người có giới hạn
và Chúa Phục Sinh cũng đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập và để lại cho
chúng ta một phương thế để tái tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn, để gìn giữ cộng
đoàn được luôn hiệp nhất với Chúa và giữa mọi người với nhau, phương thế đó là
bí tích Hòa Giải: "Các con tha tội cho ai thì trên trời cũng tha; các con
cầm tội ai thì trên trời cũng cầm lại".
Không có phương pháp nhân loại nào
khác có sức phục hồi và củng cố sự hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa cho bằng
phương thế siêu nhiên mà Chúa Giêsu đã thiết lập và muốn cho các tông đồ sử dụng,
và chúng ta biết rất rõ phương thế đó là phương thế nào. Ðó là sự tha thứ bí
tích, và đó cũng là bí tích của sự tha thứ. Dĩ nhiên, để lãnh nhận bí tích tha
thứ của Chúa để chúng ta được tha thứ và tha thứ cho nhau, để xây dựng lại sự
hiệp nhất cộng đoàn các môn đệ Chúa, để làm cho cộng đoàn chúng ta có thể chu
toàn sứ mệnh Chúa đã trao phó "Hãy làm chứng cho Thầy", thì mỗi người
chúng ta cần hành động như Tôma, cần kiểm điểm lại đức tin của mình và loại bỏ
đi những gì không phù hợp với đức tin trong nếp sống của chúng ta, để có thể
khiêm tốn tuyên xưng mỗi ngày, mỗi giây phút: "Lạy Chúa, Lạy Chúa Trời
con, Lạy Chúa, con tin Chúa là Thiên Chúa và Ðấng Cứu Ðộ của con." Cần phải
canh tân đức tin hàng ngày để đức tin của chúng ta được củng cố thêm mãi, để
chúng ta có được sự bình an, niềm vui và sức mạnh làm chứng cho Chúa mọi nơi, mọi
lúc.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta canh
tân đức tin và củng cố đức tin.
11. Dấu chứng Phục Sinh.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu
tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi
chẳng có tin”. Đó là thách thức của tông đồ Tôma. Đó cũng là đòi hỏi của
con người khoa học thực nghiệm ngày nay: phải thấy, phải đụng chạm, phải kiểm
nghiệm được mới tin.
Ngày 23
thánh 9 năm 1968, cha Piô, linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một
tu viện tại Italia. Suốt 50 năm cha Piô mang năm dấu thánh, nghĩa là trên hai
tay, hai chân và ngực ngài được in năm vết thương của Chúa Giêsu. Những vết
thương mà Chúa Phục Sinh đã tỏ cho ông Tôma tông đồ trong Tin Mừng hôm nay. Nhiều
người trên khắp thế giới đã đến xưng tội với vị linh mục thánh thiện này và
tham dự thánh lễ cha cử hành. Khi cha Piô dâng lễ, cả ngài và dân chúng đều nhận
thức rõ ràng ngài mang trên thân thể ngài những dấu thương tích mà Chúa đã chịu
trên thập giá, những vết thương làm cha đau đớn khôn tả. Thỉnh thoảng những giọt
máu rỉ ra trên tay của cha, hai tay chỉ để trần khi dâng lễ. Lúc khác, hai tay
ngài được bao lại trong đôi gang tay màu nâu. Khi dâng lễ, ngài thường gồng như
một người vác thập giá. Ngài thường khóc khi nhìn thánh Thể, mặt ngài như thiên
thần, nhưng người có mặt cảm thấy bình an.
Với một số
người, câu chuyện của cha Piô coi như chuyện đạo đức giả tưởng ở thời Trung cổ.
Nhưng thực ra đây là một con người của Chúa sống trong thế kỷ của chúng ta. Hằng
trăm ngàn người thuộc đủ mọi tín ngưỡng hay không tín ngưỡng đã thấy tận mắt,
đã đến thăm viếng ngài. Ngài cũng chịu đủ mọi khám nghiệm y khoa cũng như khoa
học. Tất cả đều chứng minh rằng không có lối giải thích tự nhiên nào đối với
các vết thương trên cơ thể ngài. Và cũng không có cách nào chữa trị được.
Chúa chọn vị linh mục thánh thiện này
để chia sẻ nỗi khổ thể xác của Con Chúa. Để làm cho sự chia sẻ này hiển nhiên
hơn, xúc động hơn, Chúa đã để cho xuất hiện những vết thương trên thân xác cha
Piô. Và trong lịch sử đã có hàng trăm người khác cũng đã được in dấu thánh, đặc
biệt là cha Thánh Phanxicô thành Assisi, để họ trở nên những nhân chứng sống động
cho cuộc khổ nạn và Phục Sinh của Đức Ktô.
Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng,
nhưng là một Tin Mừng không dễ tin, đặc biệt đối với những người theo Chúa, như
các tông đồ. Nguyên sự kiện ngôi mồ trống không đủ bằng chứng để họ tin. Cần phải
có những lần hiện ra của Chúa Giêsu mới củng cố được lòng tin của các ông.
Thánh Gioan đã ghi lại câu chuyện Chúa hiện ra cho các tông đồ và cho Tôma là để
chúng ta tin. Thế nhưng, trong những lần hiện ra đó, cái gì đã giúp cho những
người thân của Chúa Giêsu nhận ra Ngài? Có thể là một tiếng gọi (với Maria), một
cử chỉ bẻ bánh (với hai môn đệ Emmau) hoặc cũng có thể là một phép lạ xẩy ra
theo lệnh truyền của Chúa (như mẻ cá đầy ở biển hồ Tibêria), nhưng đặc biệt là
những thương tích nơi tay chân và cạnh sườn của Ngài. Ông Tôma đã thưa cùng với
Chúa: “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” khi Chúa Giêsu cho ông thấy những dấu
đinh của cuộc khổ nạn trên thân thể Ngài và nói với ông những lời không thể ngờ
được: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào
cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!”.
Như thế, dấu chỉ để người nhận ra Chúa
Phục Sinh không phải là vinh quang chói lọi hay cái gì khác, mà là chính
dấu đinh. Nếu chính Đứng Phục Sinh vinh hiển đã không muốn dùng vinh
quang và sức mạnh chiến thắng của mình mà khuất phục thế gian, thì phương chi
là chúng ta. và nếu Chúa đã muốn dùng những dấu đinh nơi chân tay và cạnh sườn
làm những dấu chứng phục sinh, thì mỗi người chúng ta cũng không có dấu chỉ nào
ý nghĩa hơn là những vết thương của các cuộc khổ nạn mà chúng ta có thể đã,
đang và sẽ còn chia sẻ với Chúa. Chính với những dấu chỉ này mà chúng ta có thể
làm chứng cho Chuá Phục Sinh một cách sống động nhất. Từ hơn 2000 năm nay,
Thánh giá mới thực sự là biểu hiện vinh quang, và dấu đinh mới là dấu chỉ của
Chúa Phục Sinh. Hãy nhận ra Chúa nơi năm dấu thánh, chứ không phải trong ánh
hào quang. Chúa Kitô thực sự là “người” khi “đầu đội vòng gai, mình mặc áo đỏ”
(Ga 19,5) nghĩa là khi Ngài bị đánh đập sỉ vả; Ngài thực sự là “Chúa” khi bị
đóng đinh trên thập giá. Ngày nay Ngài cũng vẫn đang hiện diện giữa chúng ta
như là “người” và là “Chúa” trong những người anh em bị đau khổ, bị ngược đãi,
sỉ nhục, bị tù đày, tra tấn, bị đói khát, trần truồng, bị chối bỏ, bị giết vì
tình yêu Thiên Chúa và tình yêu nhân loại.
Nhưng thưa anh chị em,
Giáo hội nói chung và mỗi người tín hữu
chúng ta nói riêng có sẵn sàng mang dấu tích của Chúa Phục Sinh, có sẵn sàng trở
nên khí cụ bình an của Chúa hay không? Nói khác đi, chúng ta có sẵn sàng chịu
đau khổ, chịu đóng đinh để làm chứng cho Chúa Phục Sinh không? Có sẵn sàng hoà
giải nhân loại với Chúa, hoà giải nhân loại với nhau, bằng những hy sinh và cả
giá máu mà chúng ta phải sẵn sàng đổ ra hay không?
Con người ngày nay không dễ tin. Họ
cũng đòi hỏi như ông Tôma, phải được trông thấy, phải được kiểm nghiệm, phải có
dấu chứng khả giác mới chịu tin. Chúng ta có nghiệm vụ trình bày cho họ thấy rõ
khuôn mặt thật của Chúa Phục Sinh. Làm sao họ có thể nhận ra khuôn mặt của Chúa
Giêsu, nếu họ không nhìn thấy những vết thương, những chứng tích của Chúa Kitô
đóng đinh nơi tay chân, nơi thân xác, nơi cuộc sống cuả người Kitô hữu? Làm sao
họ có thể tin được, nếu họ không thấy chứng tích của những bàn tay chai cứng vì
lao động, của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, của những cuộc đời xả thân
hy sinh cho tha nhân? Làm sao có thể tin được, nếu họ không thấy dấu chứng của
cộng đoàn Kitô hữu tương tự như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi ở Giêrusalem sau
ngày Chúa Phục Sinh theo sách Công vụ mô tả: “Những kẻ tin, muôn người như một,
chuyện cần với lời giảng dạy của các tông đồ, hiệp nhất và cùng chung lo cho
người nghèo khó bằng cách để chung tiền của, họ đồng tâm nhất trí chia sẻ bánh
thánh và cầu nguyện”. Đời sống chứng tá đó đã thu hút những người không
tin, nên “số những người tin Chúa mỗi ngày càng thêm đông” (X. Cv 4,32-35;
2,42-47). Đó chính là chứng tích của tình yêu. Con người ngày nay cũng đang đòi
kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu của cộng đoàn Kitô hữu chúng ta. Đạo của
anh là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng
tích tình yêu của anh đi!
Ước gì mỗi người chúng ta đều mang những
chứng tích tình yêu của Chúa Kitô đóng đinh trên tay chân, trên thân xác, trong
cuộc sống… để chia sẻ với Chúa Giêsu những vết thương của các cuộc khổ nạn đang
diễn ra trên thế giới ngày nay, nhờ đó chúng ta mới có thể làm chứng cho chiến
thắng vinh quang của Chúa Kitô Phục Sinh.
12. Niềm tin Chúa Phục Sinh – Noel Quesson.
“Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người… và
không đặt tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
Một hôm ma
quỷ muốn cám dỗ Thánh Martinô vào đường sai lạc, hắn hiện hình một vị vua oai
phong đến bảo Thánh nhân:
-
Hỡi Martinô, Cha cám ơn con đã tin Cha. Con biết rằng Cha luôn tin tưởng con. Cha
mong từ nay con luôn ở bên Cha và tín nhiệm vào Cha.
Martinô chăm
chú nhìn vào ông vua và hỏi:
-
Nhưng thưa
ông, ông là ai vậy?
Ông vua đáp:
- Ta là Đấng Kitô
đây mà!
Martinô lại
hỏi:
-
Vậy thì những
vết thương bị đóng đinh ở tay chân Ngài đâu?
-
Ta từ vinh
quang trên trời xuống, nên đâu còn thương tích gì.
Martinô nói:
-
Tôi không muốn
nhìn Đức Kitô không thương tích.
Vua quỷ liền
biến mất.
Đức Kitô khi đã Phục sinh vẫn giữ những
thương tích của cuộc khổ nạn và những lần xuất hiện đầu tiên, Chúa thường cho
các môn đệ xem những thương tích này để họ dễ nhận ra Chúa và cũng để nhắc lại
cái chết với dấu tích yêu thương trọng đại của Chúa đối với họ.
Qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy
Chúa đã hiện ra với các Môn đệ trong những buổi họp mặt thường lệ. Các tín hữu,
bắt đầu có buổi họp hàng tuần. Lễ hội đã chuyển từ ngày Sabat sang ngày Chúa nhật,
ngày Chúa sống lại. Niềm tin và phương thức thờ tự đã chuyển từ Cựu ước sang
Tân ước, từ Do thái giáo sang Kitô giáo. Mỗi Chúa nhật khi chúng ta họp nhau để
phụng thờ Chúa đó là một lễ Phục sinh, và Chúa ở giữa các tín hữu Người. Cho dù
chúng ta khoá kín cửa, cho dù tâm hồn ta còn ngổn ngang nhiều trở ngại, nhưng
khi chúng a họp nhau lại vì Danh Chúa, thì Chúa có mặt với chúng ta.
Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Chúa
xuất hiện sau khi người sống lại. Và lần xuất hiện thứ hai chú trọng đặc biệt tới
Tôma. Tông đồ Tôma là người nhiệt tình và thẳng thắn, nghĩ sao nói vậy. Ông đã
mạnh dạn biểu lộ nỗi nghi nan trước sự kiện Chúa sống lại. Khi hiện ra lần sau,
Chúa đã bảo ông Tôma: “Đây là vết thương của Ta, Con hãy đặt tay vào và đừng
hoài nghi nữa”. Có lẽ Chúa đã mỉm cười trước sự nghi nan này. Chúa cho ta biết
dù Người không có mặt, Người vẫn nghe mọi lời nói, vẫn thấy mọi tâm tình, mọi
suy tư của chúng ta. Sự kiện đó giúp chúng ta dễ tin vào lời hứa của Chúa: “Thầy
ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” cho dù chúng ta không thấy Chúa.
Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin, vẫn
thi hành lời Chúa, vẫn trung thành thực hiện sứ mệnh Chúa trao, đó là căn bản
cuộc sống và của niềm tin. Nhờ đó chúng ta đáng lãnh phần thưởng như lời Chúa:
“Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng
con mỗi khi chúng con ngắm nhìn những thương tích nơi chân tay và cạnh sườn
Chúa. Chúng con xin tạ ơn Ngài.
13. Niềm tin.
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, tôi muốn
suy nghĩ về thái độ của Tôma. Tôma không phải là một kẻ cứng lòng, ông chỉ muốn
tin vào những gì là rõ ràng và hiển nhiên. Vì thế, khi nhìn thấy Chúa, ông đã vội
vã kêu lên:
-
Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi.
Và Chúa Giêsu đã nói một lời đem lại
cho chúng ta nhiều an ủi và khích lệ:
-
Phúc cho ai không trông thấy mà tin.
Có lẽ khi nói lời này Chúa Giêsu đã
nghĩ tới hằng triệu triệu người tin tưởng và trung thành phụng sự Ngài, dù chưa
một lần nhìn thấy.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta chưa một lần
nhìn thấy Ngài, chưa một lần được đụng tới gấu áo Ngài, chưa một lần được nghe
Ngài giảng, chưa một lần được chứng kiến phép lạ Ngài làm. Dầu vậy, chúng ta vẫn
tin tưởng, yêu mến và thờ lạy Ngài.
Thế nhưng có kẻ đã bảo:
-
Đó chỉ là một niềm tin tưởng mù quáng vào một
người đã sống cách đây hơn 2000 năm, niềm tin tưởng ấy không còn thích hợp với
não trạng của con người thời nay.
Tôi xin trả lời:
-
Đức tin của chúng ta không mù quáng, nhưng dựa
trên những cơ sở vững chắc.
Thực vậy, sự hiện diện của Chúa Giêsu
là một sự kiện lịch sử như sự hiện diện của César, của Khổng Tử. Hàng ngàn năm
về trước, các tiên tri đã loan báo và trong Tân Ước, cuộc đời Chúa Giêsu đã được
xác định một cách rõ ràng và cụ thể, cùng với những lời Ngài đã dạy và những việc
Ngài đã làm. Qua đó chúng ta thấy được rằng: Ngài là Thiên Chúa. Bởi vậy, chúng
ta hãy tin tưởng vào lời Chúa, dù lời ấy nó không phù hợp với sở thích và nguyện
vọng riêng tư của chúng ta.
Thế nhưng, có kẻ lại bảo:
-
Nếu đó là những sự kiện cụ thể và hiển nhiên,
tại sao không lôi kéo được hết mọi kẻ tài cao và học rộng?
Dĩ nhiên chúng ta không chối cãi, ngày
nay có nhiều người trí thức vỗ ngực tự xưng mình là kẻ không tin tưởng. Để có một
cái nhìn đứng đắn, chúng ta cần phải xác định: Những chân lý siêu nhiên không
phải là những chân lý toán học như hai với hai là bốn. Để đón nhận, cần phải có
một tâm hồn sẵn sàng. Đức tin mãi mãi vẫn là một hồng ân của Thiên Chúa. Những
đam mê vẩn đục thường là những chướng ngại vật cản ngăn con đường đức tin.
Tôi xin lấy một thí dụ: Chúa Giêsu đã
làm cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại. Đó là một sự kiện lạ lùng, thế nhưng,
những kẻ chứng kiến đã có phản ứng như thế nào? Phúc âm đã kể lại:
-
Có những người đã tin vào Chúa, nhưng có những
kẻ lại hậm hực tức tối, để rồi tìm mọi cách để giết Chúa. Trước một sự kiện hiển
nhiên như thế, người thì bảo: Ngài thực là Thiên Chúa hãy tin vào Ngài. Kẻ thì
bảo: Ông ta là một tay nguy hiểm, cần phải khử trừ.
Ngày nay cũng thế. Có những nhà bác học
Công giáo thì cũng có những nhà bác học vô thần. Và đây chính là vai trò của
tác dụng ơn Chúa trong tâm hồn mỗi người. Người thì công nhận, kẻ thì từ khước
và làm cho ơn Chúa trở nên vô hiệu quả, như một câu danh ngôn đã nói:
-
Chính trái tim làm cho đầu óc bị hư hỏng.
Cho đến tận cùng thời gian, nhân loại
này luôn luôn chia thành hai giới tuyến: Giới tuyến của những người tin tưởng
vào Chúa và giới tuyến của những kẻ chối bỏ Ngài. Cũng như trên thiên đàng vào
thời nguyên thủy đã có những thần lành và thần dữ. Vậy thì chúng ta thuộc về giới
tuyến nào? Hãy tuyên xưng đức tin như Tôma ngày xưa: Lạy Chúa tôi, lạy Thiên
Chúa tôi.
14. Lòng thương
xót.
Trong cuốn “A Forgiving God In An
Unforgiving World”, “Một Thiên Chúa Tha Thứ Trong Một Thế Giới Không Tha Thứ”,
của Ron Lee Davis, kể lại câu chuyện về một linh mục người Phi Luật Tân như
sau:
Vị linh mục
là một người rất yêu mến Thiên Chúa, nhưng ông luôn luôn bị ám ảnh bởi một tội
bí ẩn đã phạm nhiều năm trước đây. Ngài đã ăn năn sám hối, nhưng vẫn không cảm
thấy bình an vì chưa cảm nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa. Trong giáo xứ của
ngài có một người phụ nữ có lòng yêu mến Thiên Chúa rất sâu xa và tuyên bố là
được ơn biết những điều Chúa Giêsu muốn nói với bà. Riêng vị linh mục lại không
tin điều này. Để thử thách bà, ngài nói: “Lần sau bà nói chuyện với Chúa Giêsu,
tôi muốn hỏi Ngài xem tội của tôi đã phạm trong thời gian còn học ở chủng viện
là tội gì”. Người phụ nữ đã đồng ý.
Vài ngày sau
đó, vị linh mục hỏi bà, “Này bà, bà đã gặp Chúa Giêsu trong giấc mơ chưa?” Bà
trả lời, “Rồi”, “Vậy bà có hỏi Ngài tôi đã phạm tội gì trong chủng viện không?”
ngài hỏi. “Có chứ”. “Vậy thì Ngài nói gì?” Người phụ nữ mỉm cười và nói, “Một
điều rất thú vị mà tôi chưa bao giờ nghe Ngài nói khi tôi hỏi Ngài rằng cha đã
phạm tội gì, Ngài chăm chú nhìn tôi và nói, “Ta chẳng còn nhớ nữa!”
Thật vậy, khi hiện ra Chúa Giêsu đã
không hề nhắc tới các việc ba lần Phêrô chối Ngài, sự đào ngũ của các tông đồ ở
vườn Giệtsimani, sự nghi ngờ của Tôma. Ngài đã tha thứ tất cả! Đây là điều an ủi
lớn cho chúng ta.
Tuy nhiên, Ngài đã đòi hỏi chúng ta
cũng phải tha thứ cho nhau: “Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha
anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho
người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em”.
Ngày
13.5.1881, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã bị bắn bởi Mehmet Ali Agca. Trong
khi còn đang nằm trong phòng cấp cứu, ngài nói, “Tôi cầu nguyện cho người anh
em đã bắn tôi, và tôi thành thật tha thứ cho anh ta”. Vào ngày 27.12.1983, ngài
đã đến nhà tù thăm anh, nói chuyện và ôm anh.
Bà Barbara
Reynolds trước đây là một ký giả của tờ nhật báo USA Today. Khi còn bé đã bị lạm dụng
tình dục bởi một người trong họ hàng. Đến tuổi trưởng thành, bà gặp lại người
đàn ông đó và đối chất với ông về sự kiện loạn luân. Bà đã chia sẻ như sau:
“Khi tôi đối chất với người họ hàng, kẻ đã lạm dụng tình dục lúc tôi còn nhỏ. Một
cách kỳ lạ, ông ta đã không nhận ra sự đau khổ của tôi. Ông đã không năn nỉ xin
tha thứ. Ông chỉ nhìn chằm chặp vào tôi với những ánh mắt trống rỗng và chán
chường, rồi nói, “Tôi như thế đó!” Do vậy tôi có thể làm gì được? Bắn ông ta hả?
Thưa kiện? Tránh mặt? Đến lúc đó ông ta vẫn không hiểu. Có lẽ ông sẽ không bao
giờ hiểu. Bởi vậy, tôi chỉ có thể làm được hai điều. Trước hết, tôi bỏ đi, và
không bao giờ nói chuyện với ông ta nữa. Thứ đến, tôi đã tha thứ cho ông “.
Bà Reynolds
kể rằng sau nhiều năm đi đến các nhà phân tích tâm lý học, sự tha thứ vẫn là
phương thuốc trị liệu tốt nhất. Chúng ta tha thứ cho người khác không phải chỉ
vì ích lợi linh hồn của người đã làm điều sai trái cho chúng ta, nhưng còn vì
ích lợi tinh thần của chính chúng ta. Tuy vậy, sự tha thứ không phải dễ!
Cô Corrie
Ten Boom đã diễn tả sự tha thứ giống như buông tay ra khỏi sợi dây chuông. Bạn
có bao giờ nhìn thấy một ngôi thánh đường với tháp chuông cao vút chưa? Để nghe
được tiếng chuông kêu, bạn phải kéo thật mạnh một lúc. Ngay khi tiếng chuông đã
bắt đầu vang lên, chỉ cần giật nhẹ tay theo đà chuyển động. Bao lâu bạn tiếp tục
kéo, chuông cứ vang. Cô Corrie đã so sánh rằng sự tha thứ chính là buông tay ra
khỏi sợi dây chuông. Đơn giản là như vậy!
Khi bạn làm như thế, tiếng chuông vẫn
cứ tiếp tục vang, vì sự chuyển động vẫn còn làm việc. Tuy nhiên, nếu bạn buông
tay ra khỏi sợi dây, tiếng chuông sẽ bắt đầu chậm lại, rồi dần dần ngưng hẳn.
Giống như vậy, khi bạn quyết định tha thứ, những cảm giác không tha thứ xưa kia
có lẽ vẫn còn tiếp tục, vì chúng vẫn còn nhiều chuyển động. Nhưng nếu bạn quyết
định tha thứ, cái tinh thần không tha thứ kia sẽ bắt đầu chậm lại và dần dần im
bặt. Sự tha thứ không phải là một cảm giác, nhưng là một hành động. Đó là buông
tay ra khỏi sợi dây oán thù.
15. Tin.
Trong thành Giêrusalem, ai nấy đều rõ:
Ông Giêsu, người làng Nagiaret, đã chết. Thế nhưng, việc Ngài đột ngột sống lại
đã gây nên nhiều thái độ khác nhau: Tin và không tin, chấp nhận và chống đối.
Chúng ta cùng nhau phân tích thái độ của Tôma, vì nó rất gần gũi với chúng ta,
cũng như soi sáng cho chúng ta tin vào Đức Kitô Phục sinh hơn.Trước hết tin là
phải chấp nhận có một thế giới khác vượt ngoài tầm tay và suy tưởng của chúng
ta. Trong thời đại khoa học này, chúng ta dễ bị cám dỗ, chỉ tin vào nh ững gì
thấy được và hợp lý mà thôi.
Chính vì thế một bác sĩ giải phẫu đã
tuyên bố:
-
Tôi đã mổ nhiều người nhưng chẳng thấy linh hồn
ở đâu.
Hay như một phi hành gia sau lần bay
quanh mặt trăng ba vòng cũng tuyên bố:
-
Tôi đã lên thật cao mà chẳng thấy Chúa nào ở
trên trời cả.
Tôma cũng đòi phải thọc chính tay mình
vào cạnh sườn Chúa thì ông mới tin. Thường tình con người vẫn muốn coi mình là
trung tâm điểm và bắt Thiên Chúa phải thế này thế nọ thì chúng ta mới tin. Tiếp
đến, tin vào Chúa Phục sinh đòi chúng ta phải dám liều. Hai người yêu nhau dù
có tâm sự tính toán kỹ với nhau, nhưng rồi cuối cùng cũng vẫn phải dám liều. Biết
ngày mai sẽ ra như thế nào. Nếu chắc chắn thì còn thề thốt làm chi.
Chẳng bao giờ con người có thể hiểu hết
về Thiên Chúa cũng như về thế giới bên kia. Tin đây là tin Đấng đã chết mà nay
sống lại, đồng thời Ngài đã hứa ban cho chúng ta đời sống vĩnh cửu sau khi chết.
Cũng như Tôma, chúng ta chỉ được nghe nói lại. Ngài là Đấng vô hình và dường
như luôn vắng bóng và im tiếng, dù Ngài luôn ở bên cạnh chúng ta. Tin như vậy
không phải là dám liều, dán trao cả cuộc đời và con người chúng ta vào tay Đấng
vô hình đó sao. Với Tôma, tin Ngài sống lại có nghĩa là phải tiếp tục từ bỏ những
dự định riêng tư để bước theo Ngài.
Sau cùng, tin đòi phải chiến đấu. Đức
tin không đem lại sự yên ổn. Sở dĩ như vậy vì đức tin đòi phải phá hủy con người
cũ trong chúng ta. Bởi đó chúng ta phải chiến đấu với chính mình. Con người vẫn
có khuynh hướng ôm chắc lấy những gì có sẵn, không muốn đánh mất thế giới họ đã
tạo ra như của cải, mạng sống. Tin vào Chúa Phục sinh là hướng cả cuộc sống về
đời sau Chúa hứa. Do đó, đức tin đòi chúng ta phải đặt lại giá trị tất cả những
gì chúng ta đang có hay sẽ kiếm được, ngay cả đến mạng sống. Nhiều khi đức tin
còn đòi chúng ta phải có thái độ dửng dưng và từ bỏ, nếu của cải, mạng sống
ngăn cản Tin Mừng. Nếu không chiến đấu với những khuynh hướng đi xuống như vậy,
chúng ta sẽ bị kéo ghì và ở lại mãi trong thế giới vật chất…
Hơn nữa, đó cũng chính là não trạng
chung của những người chung quanh. Họ sẽ trấn an để chúng ta sống như thể chẳng
có Tin Mừng Phục sinh. Sống ngược với não trạng trần thế ấy đòi chúng ta phải
có một ý chí phấn đấu và mạnh mẽ. Đáp lại, Tin Mừng thường làm chúng ta có cảm
giác lạc lõng và bơ vơ, không giống ai và bị thiệt thòi ở đời này. Sống đức tin
và đón nhận niềm vui của Đấng đã sống lại là điều khó khăn, chúng ta luôn bị
cám dỗ đặt lại vấn đề đức tin, linh hồn, đời sau, giống như người Do Thái ngày
xưa luôn muốn trở lại với kiếp nô lệ nhưng no nê, bảo đảm, và bàn tay khỏi lo lắng
và đòi hỏi.
Hãy vững niềm
tin vì Chúa đã sống lại, Ngài ở với chúng ta luôn mãi.
16. Sống đức tin.
Ngày nay, người ta muốn đặt lại tất cả
các vấn đề, kể cả vấn đề niềm tin Chúa Kitô Phục sinh. Bởi thế, chúng ta không
cảm thấy khó chịu với tông đồ Tôma, là người đã không muốn chấp nhận những gì
người ta nói, và chống lại những điều được chấp nhận theo sự lôi cuốn của đám
đông. Tôma khăng khăng muốn chính mình kiểm chứng điều mà các tông đồ khác nói
lại là chính họ đã được thấy, được gặp Chúa Kitô Phục sinh. Đúng ra ông không
có lý do chính đáng để nghi ngờ nữa. Khiêm nhường một chút thì chắc hẳn ông đã
dễ dàng chấp nhận rồi. Nhưng như thế thì lại thiệt cho chúng ta, mất một bằng
chứng cụ thể, sống động về Chúa Kitô Phục sinh, và nhất là câu nói bất hủ của
Chúa: “Phúc thay những người không thấy mà tin”.
Đàng khác, khiển trách Tôma kém lòng
tin thì Chúa đã khiển trách với thái độ êm dịu và trìu mến: “Tôma, đừng cứng
lòng nữa, nhưng hãy tin”. Chúng ta thấy khác hẳn khi Chúa khiển trách những người
Pharisêu hay các tông đồ khác. Như thế, Chúa còn thông cảm nhiều với Tôma. Tại
sao? Vì Chúa thấy những thiếu sót của Tôma: ông không chống đối để đi đến việc
từ chối đức tin, nhưng là khát vọng thấy rõ hơn để tin. Bởi thế, trong thời đại
chúng ta, có phản chứng chăng nữa thì cũng đừng ngạc nhiên và lo lắng, ngược lại,
phải hy vọng, vì đó là thái độ tìm kiếm sâu xa, nó là dấu hiệu của lòng tin hoạt
động và tự do, của những người đang tìm kiếm, nhờ đó mà người ta khám phá ra những
giá trị chân thực. Do sự tìm kiếm này người ta nhận ra được điều chính yếu của
Kitô giáo là đức tin. Điều chính yếu ở đây là tin vào Đức Kitô.
Vậy đức tin là
gì? Đức tin là tiếng kêu. Thật vậy, Tin Mừng đã nói lên như thế. Khi Chúa Giêsu
hiện ra đứng trước Tôma, thì ông run sợ và phát ra tiếng kêu này “Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con”. phải chăng chính những lời bộc phát đó đã diễn tả
điều sâu thẳm nhất nơi tâm hồn người ta? Phải chăng đó là tiếng nói của trái
tim, của tâm hồn, khắc hẳn với sự đắn đo so nghĩ của con người để tìm những lời
lẽ hợp tình hợp lý, trước khi muốn nói lên?
Những nơi khác
trong Tin Mừng cũng cho thấy cảnh tương tự, như lời tuyên xưng của Phêrô. Khi
Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta bảo Thầy là ai?” Thì Phêrô đã trả lời mà
kêu lên: “Thầy là Đức Kiô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Và Chúa đã xác định ngay
rằng đó là tiếng kêu đức tin: “Phêrô, con có phúc, vì không phải xác thịt hay
máu huyết tỏ cho con biết điều đó, nhưng là Cha Ta trên trời”.
Cũng vậy, đám
đông tụ họp bên Chúa Giêsu sau phép lạ hóa bánh, lúc bấy giờ Chúa nói về bánh
ban sự sống, Ngài làm cho họ chưng hửng khi Ngài quả quyết: “Phải ăn thịt và uống
máu Ngài mới được sự sống đời đời”, nghe Chúa nói thế họ bỏ đi, còn các môn đệ ở
lại, Chúa hỏi: “Anh em có muốn bỏ Thầy mà đi không?” Một lần nữa, tiếng kêu lại
vang lên và cũng là tiếng kêu của Phêrô: “Chúng con sẽ theo ai, Thầy mới có những
lời ban sự sống đời đời”.
Với Martha, chị của
Lagiarô, Chúa đã hỏi bà: “Thầy là sự sống lại và là sự sống, con có tin điều đó
không?” Martha trả lời: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến
trong thế gian”. Đó cũng là một tiếng kêu tuyên xưng đức tin.
Đức tin là một tiếng
kêu, nhưng sau đó là gì? Là nhận biết. Đối với một vật nào đó thì người tìm ra,
khám phá được. Nhưng đối với một người thì người nhận biết. Đức tin là nhận biết
một Đấng. Đức tin giống như tia chớp nơi một người chồng đang chờ đợi một người
vợ tương lai mà anh ta đã yêu thương. Và rồi, giữa đám đông, anh đã nhận ra người
anh thương yêu, chỉ có mình nàng thôi. Đấng mà đức tin nhận biết là Đức Giêsu,
Con Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài thôi.
Chúng ta tin Chúa
Giêsu, chúng ta nhận biết Chúa rồi, chúng ta phải làm gì? Chúng ta phải sống niềm tin đó. Sống niềm tin có
nghĩa là chúng ta phải thể hiện niềm tin ấy trong đời sống. Đó là cách thẩm định
đức tin của chúng ta. Bất cứ du khách nào sau một lần viếng thăm nước Mỹ, cũng
đều có thể rút ra một bài học. Dù muốn dù không, du khách nào cũng phải thán phục
tinh thần làm việc và óc thực dụng của người Mỹ. Người Mỹ không áp dụng chính
sách hay một phát minh mới như một đồ trang sức, mà ngược lại, họ tìm cách ứng
dụng vào đời sống thực tế.
Người Kitô hữu có
thể nhìn vào đó để làm bài học cho đức tin của mình. Chúng ta có ứng dụng đức
tin vào đời sống hằng ngày không? Chúng ta tin Thiên Chúa là Đấng quan phòng và
là Cha nhân từ. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng một cuộc sống tin tưởng, lạc
quan, phó thác, hân hoan, ngay cả khi gặp gian nan thử thách không? Chúng ta là
tín hữu của Đấng đã sống và đã chết cho tha nhân, và là Đấng dạy chúng ta phải
sống yêu thương, bác ái với mọi người. Niềm tin ấy có được thể hiện bằng những
việc làm cụ thể của yêu thương, quảng đại, quên mình, tha thứ với mọi người
không? Chúng ta tin có một cuộc sống mai hậu, vĩnh cửu, bất diệt. Niềm tin ấy
có được thể hiện bằng những hy sinh phấn đấu không?
Đức tin của chúng
ta chỉ đáng tin cậy, chỉ có giá trị khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể.
Giống như cái đèn được đốt lên, cần đặt ở chỗ cao để soi sáng cho mọi người,
thì đức tin của chúng ta cũng cần phải được thắp lên chiếu sáng cho mọi người.
Nó cần phải được đốt lên một cách liên tục trong cuộc sống hằng ngày.
Cuộc sống mỗi
ngày với những độc điệu, phiền toái và thử thách của nó, chính là nơi để chúng
ta sống một cách cụ thể niềm tin của chúng ta. Những mối tương quan hằng ngày với
những người chung quanh chính là môi trường để chúng ta diễn đạt niềm tin của
chúng ta. Xin Chúa cho cả cuộc sống của chúng ta trở thành chứng tích của tình
yêu Chúa đối với mọi người. Và xin cho tất cả những ai gặp gỡ chúng ta đều có
thể nhận ra được tình yêu của Chúa.
17. Mọi sự đều có thể.
Có câu chuyện kể rằng có một người muốn xin gia nhập
trong một đoàn xiếc. Anh nói: “Tôi sẽ biểu diễn bằng cách trèo lên bậc cao khoảng
50 mét và nhảy xuống một đống mùn cưa”. Chủ đoàn xiếc nói, “Nghe anh nói thật hấp
dẫn. Dầu vậy tôi cũng cần phải coi anh biểu diễn ra sao đã”. Sau đó, họ làm một
dàn nhảy cao cỡ 50 mét, và anh xin việc bắt đầu biểu diễn. Khi anh ta từ trong
đống mùn cưa ngoi ra, thân xác say sứt, mặt mày méo mó thì ông chủ đoàn xiếc
nói với anh ta rằng, “Thật là tuyệt. Tôi nhận anh vào đoàn xiếc. Chúng tôi sẽ
trả anh 250 Đô La một tuần”. Anh ta lắc đầu nói, “Cám ơn, nhưng tôi không muốn”.
Ông chủ nâng tiền lương lên dần từ 250 tới 500 và 1000 đô la một tuần. Thế
nhưng anh kia vẫn không chịu. Ông chủ không hiểu nổi nên nói, “Sao anh kỳ vậy?
Anh cần việc mà!” Anh ta trả lời, “Tôi đau lắm... Tôi không bao giờ dám nữa
đâu!” Anh thanh niên này có ước vọng tốt nhưng khi gặp điều khó, anh ta không
dám dấn thân. Anh ta bỏ lỡ cơ hội cho một tương lai tốt.
Trong bài Tin Mừng
hôm nay, các môn đệ thân yêu của Chúa Giêsu tụ họp cách bí mật trong phòng kín,
vì họ sợ rằng những người giết Chúa cũng sẽ tìm kiếm và giết họ như vậy. Thế rồi
Đức Kitô Phục Sinh đã hiện ra với họ và ban cho họ sự bình an của Ngài. Thánh
Gioan đã nói: “Các môn đệ đã vui mừng khi nhìn thấy Ngài”. Nhưng sau đó khi họ
nói với Tôma (Tôma là người không có mặt khi Chúa Giêsu hiện ra) là “chúng tôi
đã nhìn thấy Chúa”, ông trả lời: “Trừ phi tôi nhìn thấy bàn tay của Ngài và những
lỗ đinh, xỏ ngón tay tôi vào những lỗ đinh đó, và thọc tay tôi vào cạnh sườn
Ngài, thì tôi không bao giờ tin điều ấy” (Ga 20,25). Tám ngày sau đó, Đức Kitô
Phục Sinh lại hiện ra với các tông đồ, và lần này dĩ nhiên có Tôma đang ở với họ
và chính mắt ông đã nhìn thấy Chúa; bởi đó ông chỉ còn biết thưa: “Lạy Chúa, lạy
Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu đã nói với Tôma: “Con tin vì đã nhìn thấy Thầy,
nhưng phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28-29).
Tin luôn đòi có sự
dám liều, có sự dấn thân. Khi niềm tin của
ta là vô điều kiện, chúng ta biết rằng mọi cái đều có thể là nguyên nhân cho sự
việc xảy ra. Cũng như Tôma, chúng ta thường thấy rằng rất khó quay lại với Chúa
khi có quá nhiều sự đòi buộc chúng ta. Tin vô điều kiện vào Chúa, dạy cho chúng
ta biết là Ngài có sự đòi buộc mà chúng ta không thể ngờ được. Đó là điều kiện
để đi theo một người mà người đó lại là một người mà chúng ta luôn luôn không
thể biết và làm chúng ta ngạc nhiên.
“Mọi sự đều có thể
cho những kẻ tin”, chính Chúa Giêsu đã nói điều ấy với đám đông dân chúng đã chứng
kiến những phép lạ Người làm. Mọi sự đều có thể cho những ai tự đặt mình dưới
chân Chúa cách vô điều kiện như trẻ nhỏ tin vào cha mẹ em. Mọi sự đều có thể xảy
ra cho những ai sẵn sàng chấp nhận hy sinh đời sống mình vào Quyền Năng Phục
Sinh của Chúa.
Trong những giới
hạn khả năng của riêng bạn mà bạn muốn trở nên con người và nhận ra toàn diện bản
chất con người của mình như Chúa muốn, thì xin bạn hãy nhớ rằng chẳng có gì có
thể xảy ra được nếu như bạn không làm một sự thay đổi và “trở nên như trẻ nhỏ”.
Nhưng khi bạn làm sự thay đổi đó thì bạn trở nên con người vĩ đại. Khi bạn quyết
định thay đổi con người mình thì mọi sự đều có thể xảy ra!
Chúa Giêsu đã nói
với chúng ta rằng nếu chúng ta muốn cảm nghiệm một cuộc sống hạnh phúc mà Ngài
đã làm cho chúng ta qua đời sống, sự chết và phục sinh của Ngài thì chúng ta phải
trở về với Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta phải trở về với Cha trên trời
trong cùng một tâm hồn của trẻ thơ hoàn toàn phó thác vô điều kiện trong tay
cha mẹ trần gian của bé.
Mọi cái đều có thể
cho những ai mở rộng đôi mắt và thưa cùng Chúa, “Xin hãy làm cho con được ngạc
nhiên!”
18. Đức tin.
Trong sinh hoạt bình thường, đôi khi chúng ta có dịp gửi
đến cho nhau những quà tặng. Chẳng hạn như ngày cưới, ngày sinh nhật… Thế
nhưng, có những quà tặng chẳng mang lại một ý nghĩa nào cả, hay ít nữa một sự
tiện dụng nào đó. Người tặng cũng chỉ tặng cho xong bổn phận, cho xong món nợ.
Còn người nhận thì cũng miễn cưỡng vui vẻ lúc bấy giờ, còn sau đó thì xếp quà tặng
vào một xó góc tăm tối, bụi bậm và có lẽ chẳng bao giờ ngó ngàng tới.
Phải chăng đó
cũng chính là hình ảnh đức tin của nhiều người trong chúng ta. Một thứ quà tặng
mà chúng ta không phải vất vả mua sắm. Một thứ đơn thuốc đã được ghi sẵn: phải
làm cái này và phải tránh cái kia. Một thứ đồ vật đã lỗi thời, bị phế thải và
không còn dùng vào việc chi, thoảng hoặc họ mới ngó ngàng tới, như người ta vốn
mỉa mai diễn tả:
- Một năm họ tới nhà thờ ba lần để rửa tội, để kết hôn và để
vĩnh viễn ra đi. Một tuần nếu có đi lễ ngày Chúa nhật, thì cũng chỉ đứng tận
đàng xa, tít ngoài sân cho qua lần chiếu lệ. Trong suốt thời gian còn lại, đức
tin được xếp vào một xó góc tăm tối, hay một ngăn tủ khóa kín.
Với chúng ta thì
khác, đức tin không phải là một quà tặng bất đắc dĩ, không phải là những hình
thức bề ngoài, cũng không phải là một cái gì đã chết. Nhưng đức tin chính là sự
sống. Bởi đó thánh Gioan đã viết:
- Sự chiến thắng trên thế gian là đức tin của chúng ta.
Kinh nghiệm trong
những trại giam cho chúng ta thấy: những người có được một nền giáo dục tôn
giáo vững chắc mới dễ dàng tránh được những hành vi dã man và độc ác. Đồng thời
dựa vào những bản thống kê, thì số người Công giáo tự tử chỉ là một con số nhỏ
nhoi khiêm tốn. Nếu đức tin không phải là sức mạnh thì làm sao người Công giáo
có đủ khả năng chịu đựng.
Đức tin chính là
sự sống. Thân xác của chúng ta,
chẳng hạn, là một vật sống động. Ở đó có máu huyết lưu thông, để không ngừng
phát triển, không ngừng lớn lên và đổi mới.
Ngày rửa tội, đức
tin được gieo trồng trong tâm hồn chúng ta, nó cần phải nẩy mầm, lớn lên, đâm
bông và kết trái. Điều đó có nghĩa là Đức Kitô sống trong tôi và tôi sống trong
Đức Kitô. Toàn thể con người tôi được ơn sủng thấm nhập, được gìn giữ trong
tình yêu của Ngài. Được trở nên cao cả với địa vị là con cái Ngài. Được vượt
trên trần thế để tiến vào quê hương nước trời. Như một mầm non phải được chăm
sóc thì mới có thể phát triển, bằng không nó sẽ bị thui chột. Đức tin của chúng
ta cũng vậy. Nó phải được chăm sóc, được nuôi dưỡng bằng việc đọc và suy gẫm lời
Chúa cũng như các sách đạo đức, nhờ đó tìm thấy những tiêu chuẩn hướng
dẫn cho hành động.
Tiếp đến bằng
việc cầu nguyện. Chúng ta sẽ không thể nào có được một đức tin trưởng
thành mà không cầu nguyện. Cầu nguyện ở đây không phải chỉ là đọc một số kinh dọn
sẵn, nhưng là thực sự tâm tình và kết hiệp với Chúa.
Nếu chúng ta chỉ
sống đạo ở cái mức tối thiểu: dự lễ một tuần một lần, xưng tội rước lễ thì một
năm một lần, thì chúng ta không hy vọng gì thắng nổi thế gian. Cứ như thế, đức
tin dần dần thui chột để rồi chỉ còn lại một bộ xương cách trí, một tín đồ hữu
danh vô thực mà thôi. Và tới một lúc nào đó, chúng ta sẽ dễ dàng bán Chúa vì một
lợi lộc nhỏ nhoi, sẽ dễ dàng chối Chúa chỉ vì một lý do không đâu mà thôi.
19. Cộng đoàn.
Các bài đọc hôm
nay cho ta biết đôi nét về sinh hoạt của cộng đoàn thời Hội Thánh sơ khai. Căn
cứ vào các sách Tin Mừng và nhất là sách Công vụ Tông đồ, ta thấy cộng đoàn Hội
Thánh sơ khai có mấy đặc điểm sau:
Đó là cộng đoàn cầu
nguyện. Hoàn cảnh ban đầu với
những cộng đoàn bé nhỏ, những con người yếu đuối. Kỷ niệm về Đức Kitô, người Thầy
thân thương còn quá tươi mới, quá đậm nét. Đó là lý do khiến các tín hữu sơ
khai tha thiết họp nhau cầu nguyện. Những buổi cầu nguyện là những buổi ôn lại
kỷ niệm của Thầy Chí Thánh. Các ngài bẻ bánh để tái diễn cử chỉ thân thương của
Thầy. Các ngài kể cho nhau nghe những lời nói và những việc làm của Thầy để ghi
tâm khắc cốt. Khao khát sự hiện diện của Thầy đã làm cho lời cầu nguyện của các
ngài trở nên sống động. Và Đức Kitô Phục sinh vẫn thường đến an ủi các ngài
trong các buổi cầu nguyện ấy.
Đó là cộng đoàn đức
tin. Các ngài quây quần sống bên nhau vì
cùng chung một niềm tin vào Đức Kitô Phục sinh. Niềm tin ấy rất mãnh liệt vì
các ngài đã được tận mắt nhìn thấy Ngài. Niềm tin ấy không chỉ là lý trí mà còn
ảnh hưởng tới cả cuộc sống. Niềm tin ấy không chỉ biểu lộ trong những giờ cầu
nguyện mà còn đi sâu và thực hiện cụ thể trong những chọn lựa, trong những sinh
hoạt đời thường. Cộng đoàn đóng vai trò gìn giữ, bồi dưỡng và phục hồi đức tin.
Như trường hợp của tông đồ Tôma. Ông tìm lại được đức tin nhờ sự giúp đỡ của cộng
đoàn. Chúa ban lại đức tin cho ông khi ông ở giữa cộng đoàn.
Đó là cộng đoàn đức
ái. Đức tin chân thật sẽ dẫn đến đức
ái. Thật sự tin Chúa sẽ dẫn đến yêu mến Chúa. Thật sự yêu mến Chúa sẽ biểu lộ
trong tình yêu mến tha nhân. Nên các tín hữu sơ khai tự nhiên đồng tâm nhất trí
với nhau. Sự đồng tâm nhất trí không chỉ trong tư tưởng lời nói mà nhất là cả
trong việc chia sẻ của cải vật chất. “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là
của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung… Trong cộng đoàn không ai
phải thiếu thốn, vì tất cả những người có ruộng đất nhà cửa, đều bán đi, lấy tiền,
đem đặt dưới chân các tông đồ. Tiến ấy được phân phát cho mỗi người, tùy
theo nhu cầu”. Thật đẹp và đáng mơ ước. Ai mà không mong muốn được sống với những
con người như thế. Ai mà không mong muốn được chia sẻ đời sống của một cộng
đoàn như thế.
Đó là cộng đoàn chứng nhân. Các ngài
làm chứng cho nhau. Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh quá mãnh liệt làm cho
các ngài sung sướng hạnh phúc, không thể kìm giữ, nên đã trào dâng trong việc
chia sẻ với bạn bè. Câu nói “Chúng tôi đã thấy Ngài” là câu nói cửa miệng của
các tông đồ. Ta được nghe các chứng từ dồn dập của Maria Mađalêna, của Phêrô và
Gioan, của các môn đệ đi làng Emmau, và muộn màng nhưng mãnh liệt trong tiếng
kêu của Tôma. Hữu xạ tự nhiên hương. Chứng từ của các ngài lan tỏa ra cả những
người chung quanh. Trước hết là do đời sống của các ngài. Đời sống đức tin mạnh
mẻ. Đời sống cầu nguyện sống động. Đời sống bác ái chan hòa. Tất cả trở thành một
lời chứng hùng hồn, có sức thuyết phục hơn biết bao lời hay ý đẹp. Hơn thế nữa,
các ngài còn hăng hái ra đi làm chứng cho Chúa. Bất chấp khó khăn thử thách. Bất
chấp mất danh vọng chức quyền. Bất chấp cả mất mạng sống. Cộng đoàn Hội Thánh
sơ khai có những nét đẹp như thế là nhờ các ngài đã gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh,
đã đón nhận được ơn phục sinh nên đã hoàn toàn thay da đổi thịt, trở thành những
con người mới. Đó không còn là một cộng đoàn bình thường nữa. Đó là một cộng
đoàn phục sinh. Cộng đoàn phục sinh đã vượt qua trần gian. Cộng đoàn phục sinh
tiên báo cuộc sống hạnh phúc trên Nước Trời.
20. Tin.
Các tông đồ đã đưa ra cho ông Tôma một
thách đố. Họ đã nhìn thấy Chúa. Ông Tôma có tin họ không? Như chúng ta đã biết,
lúc đầu câu trả lời của ông Tôma là không tin. Tuy nhiên, sau khi Tôma cũng được
gặp Chúa Giêsu thì ông sẵn sàng tin. Tôi nghĩ là trong hoàn cảnh phải chịu một
thách đố như vậy thì phản ứng của ông Tôma cũng là một điều bình thường.
Chúa Giêsu Phục sinh có thể hiện ra với
dân chúng, nhưng Người đã không làm như vậy. Người để cho mỗi người chúng ta, với
tư cách là những người môn đệ của Chúa, có một trách nhiệm là làm cho thế giới
nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh qua chính cách mà chúng ta sống cuộc đời của
mình. Có lẽ bạn sẽ thốt lên: “Ồ, không thể được”. Nhưng điều đó thật sự có thể
thực hiện được. Nhiệm vụ này là một niềm vui cho chúng ta, nếu chúng ta tin đây
là việc của Chúa Thánh Thần và không chỉ lệ thuộc vào bản thân chúng ta mà thôi
đâu. Đó là một trách nhiệm đáng sợ nhưng đồng thời cũng là một niềm vui lớn lao
cho chúng ta. Giúp người khác tin vào Chúa Giêsu Kitô là một niềm vui mà chúng
ta có thể cảm nghiệm được trong cuộc đời. Không có niềm vui nào lớn hơn niềm
vui giúp cho một người có số phận phải chết được tiến đến với Thiên Chúa và
lãnh nhận hồng ân sự sống đời đời.
Chúng ta đã đồng hành với Chúa Giêsu
ngang qua các đau khổ và cái chết của Người. Giờ đây, chúng ta cảm nghiệm được
niềm vui Chúa đã Phục sinh. Chúng ta hãy nắm vững sự thật này, và từ đó rút ra
một niềm vui mừng và hạnh phúc để tăng cường sức lực hầu hăng hái thi hành sứ vụ
đang chờ chúng ta. Cuộc đời của chúng ta sẽ luôn luôn là một tổng hợp của niềm
vui và nỗi buồn, may mắn và rủi ro. Nhưng tâm hồn sẽ luôn giữ được sự bình an
và cảm nghiệm được một niềm vui tràn đầy khi biết rằng chúng ta đang cùng đi với
Chúa Giêsu, nếu chúng ta đặt trọn niềm tín thác vào Người và vững tin rằng Chúa
đã sống lại từ cõi chết. Không có gì có thể làm hại chúng ta được, nếu chúng ta
xây dựng cuộc đời mình trên lòng tin tưởng và tín thác vào Chúa Giêsu Phục
sinh.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin giúp con có một
niềm xác tín mạnh mẽ vào sự sống lại của Chúa Giêsu để niềm tin đó cũng biến đổi
con trở thành một con người mới, con người phục sinh.
21. Đức tin.
Bài Tin Mừng kể lại hai lần Chúa Kitô
Phục sinh hiện ra với các tông đồ: lần thứ nhất vào chính ngày Phục sinh, lúc
đó vắng mặt ông Tôma, lần thứ hai, sau đó tám ngày, lần này có mặt ông Tôma. Mục
đích Chúa hiện ra là để minh chứng cho các môn đệ thấy chắc chắn Ngài đã sống lại
thực sự. Bài Tin Mừng này có hai câu nói của Chúa Giêsu rất đáng chú ý và suy
nghĩ: Câu thứ nhất Chúa nói với ông Tôma: “Phúc thay những người không thấy mà tin”,
đây cũng là điều Chúa muốn nói với chúng ta, những người đang sống xa biến cố
Phục sinh cả hơn hai ngàn năm, chúng ta không thấy Chúa Kitô Phục sinh, nhưng
chúng ta vẫn tin, tin mạnh mẽ, tin vững chắc. Câu thứ hai là lời chào và cũng
là lời cầu chúc của Chúa Kitô Phục sinh cho các môn đệ: “Bình an cho anh em”, đây
cũng là điều Chúa muốn ban cho chúng ta và chúng ta cũng luôn cầu xin Chúa.
Chúng ta thấy lúc đầu ông Tôma tỏ ra một
thái độ cứng lòng, khó tin những điều các bà đạo đức, các bạn tông đồ kể lại,
ông cho là ảo tưởng, không đáng tin, ông nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở
tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh
sườn Người, tôi chẳng có tin”. Chúa rất nhân từ và nhẫn nại, Ngài vui lòng chờ
đợi qua tám ngày rồi mới hiện ra để thỏa mãn những yêu sách quyết liệt của ông.
Trước bằng chứng quá hiển nhiên ấy, ông phục xuống và kêu lệnh: “Lạy Chúa của
con, lạy Thiên Chúa của con”. Theo cha Larăng, một học giả Kinh Thánh nổi tiếng,
đây là lần thứ nhất Chúa Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt, cho
nên, đây là một tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài
nghi và từ khước. Tác động đức tin này có giá trị, vì thực sự Tôma đã vượt qua
hình dáng bên ngoài để đi tới thực tại tiềm ẩn: mắt ông chỉ nhìn nhìn thấy con
người Chúa Giêsu, tay ông chỉ sờ tới những vết thương hữu hình, nhưng ông tuyên
xưng Chúa là Thiên Chúa của ông.
Lúc ấy Chúa phán một câu mà muôn đời sẽ
suy niệm và trở nên nguồn an ủi, phấn khởi cho mọi thế hệ về sau: “Phúc thay những
người không thấy mà tin”. Phán câu ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta ở thế kỷ XXI
này và muôn thế hệ sau nữa, là những người không được đặc ân chiêm ngưỡng dung
nhan nhân loại của Chúa, không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm tới thân
xác thánh thiện của Ngài, nhưng chúng ta tin Ngài dựa vào bằng chứng của các
tông đồ, thế giá của Kinh thánh và lời Giáo Hội giảng dạy, ai tin qua đó là có
phúc. Chúng ta có thể nói như thánh Ghêgôriô: “Ngón tay đa nghi của thánh Tôma
đã trở nên ông thầy của toàn thể thế giới, bàn tay đa nghi của thánh Tôma đã dạy
cho con người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Phục sinh của Chúa
Kitô”. Chúng ta tin chắc như thế, chúng ta sẽ là người có phúc: phúc cho chúng
ta, dù không thấy, chúng ta vẫn tin.
Đàng khác, ngay khi hiện đến với các
tông đồ, cả hai lần, lời nói đầu tiên của Chúa là: “Bình an cho anh em”, lời cầu
chúc đó được Chúa nói tới ba lần, đối với các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần
thiết. Quả thực, các ông đã bỏ mọi sự đi theo Chúa, nhưng ngờ đâu, “công chưa
thành, danh chưa toại”, mới được 33 tuổi, vị thầy của các ông đã bị giết chết
như một nhà cách mạng thất bại, và bây giờ đang nằm yên trong mộ đá. Chúa chết,
các môn đệ “tay trắng vẫn hoàn tay trắng”. Hơn nữa, giờ đây các ông còn phải sống
chui lủi trong cảnh “sảy đàn tan nghé”, như rắn mất đầu: thấp thỏm, hoang mang,
lo sợ, các ông sợ tất cả mọi người, nên đã im hơi lặng tiếng, tụ tập nhau trong
căn phòng cửa đóng then cài. Giữa lúc đó, Chúa hiện đến và chúc bình an, còn gì
quý bằng, đang hoang mang, chán nản, sợ hãi, các ông được gặp Chúa và được Chúa
ban cho điều các ông đang cần, đó là bình an. Ơn lộc đó Chúa cũng đang muốn
dành cho chúng ta hôm nay.
Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng
phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở
trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng
thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc.
Do đó, bình an khác với hòa bình, hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không
còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao, cho nên có
khi có hòa bình nhưng không có bình an, nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi
người thì khao khát bình an.
Sống ở trần gian, ai cũng phải trải
qua những giây phút lo âu: về tương lai, gia đình, con cái, tiền bạc, công ăn
việc làm, sức khỏe… những lo ấu ấy như một chất thuốc độc tác hại vào tâm hồn
và cướp đi những niềm vui trong lành, những giấc ngủ bình yên, khiến chúng ta
luôn băn khoăn, khắc khoải, cố gắng tìm mọi cách để giải thoát mình khỏi những
lo âu, và như thế có phải là chúng ta rất cần sự bình an không? Sự bình an đó
do Chúa ban và cũng là cố gắng của mỗi người.
Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc
đời cho Chúa để bản thân chúng ta tìm thấy sự bình an, đồng thời hãy cố gắng sống
tốt đẹp, chúng ta sẽ cảm thấy bình an. Đàng khác, nếu chúng ta chưa đem lại
bình an cho ai, thì chúng ta đừng cố tình làm mất bình an của họ bằng lời nói
hay việc làm lỗi bác ái của chúng ta. Xin Chúa ban bình an cho chúng ta và xin
Chúa cho chúng ta là “khí cụ bình an của Chúa” cho mọi người.
22. Bình an.
Ông Tôma là một người có óc thực tế,
có vẻ chậm hiểu và chậm tin hơn các môn đệ khác. Điều đó cũng đúng và dễ hiểu
thôi. Ông có đủ lý do để nghi ngờ, vì ông chưa được thấy Chúa sống lại rõ ràng
như các môn đệ khác. Và sự kiện ông đòi chính mình phải kiểm chứng mới tin lại
có lợi cho chúng ta, và là dịp khiến Chúa Giêsu liên tưởng tới đông đảo những
Kitô hữu, từ đó cho đến ngày cánh chung, sẽ tin vào Ngài. Chúa chúc phúc cho họ,
vì họ là những người, dù không thấy tận mắt sự kiện phục sinh nhưng vẫn tin vào
Ngài: “Phúc cho những kẻ đã không thấy mà tin”. Lời Chúa Giêsu trên
đây được coi là mối phúc thứ chín trong đời mỗi Kitô hữu. Chúng ta phải cám ơn
ông Tôma, chính vì thái độ thực tế của ông mà chúng ta được thêm một lần Chúa
Kitô Phục sinh hiện ra để minh chứng Ngài đã sống lại, và ban cho chúng ta, qua
ông Tôma, một mối phúc thật khác là “phúc thật đức tin”. Một điều lý thú nữa
trong bài Tin Mừng hôm nay, đó là lời chào và cũng là lời cầu chúc của Chúa
Kitô Phục sinh cho các môn đệ: “Bình an cho anh em”. Lời cầu chúc này được Chúa
nói đến ba lần, đối với các môn đệ lúc ấy thật ý nghĩa và cần thiết. Còn gì vui
mừng và sung sướng hơn cho họ nữa không? Họ được gặp lại một người thân yêu nhất
vừa mới chết. Họ được thấy tận mắt Thầy của họ, được nghe tận tai tiếng nói của
Thầy. Thầy của họ đã sống lại thật rồi và còn được thầy ban cho một món quà mà
họ đang khao khát nhất, đang cần nhất, đó là “bình an”. Món quà ấy Chúa cũng
dành cho mỗi người chúng ta hôm nay. Bởi vì Chúa quá hiểu tâm lý con người nhân
loại. Chúa quá hiểu cục diện thế giới này, ít khi có bình an, lúc nào cũng đầy
những bất hòa, bất thuận, chia rẽ, xô xát, đố kỵ, ích kỷ, nghi ngờ, giả dối…
nên ai cũng muốn xin được hai chữ “bình an”. Có hiểu như thế chúng ta mới thấy
lời chúc bình an của Chúa thật ý nghĩa và là món quà quý giá Chúa dành cho các
môn đệ xưa kia và mỗi người chúng ta hôm nay.
Anh chị em hãy hồi tưởng lại cuộc đời
mình xem: có phải anh chị em rất cần sự bình an không? Có lần người ta hỏi
ông Đan-tê, một đại thi hào của nước Ý rằng: “ Điều ông mong mỏi và tìm kiếm nhất
trong cuộc đời là gì?”. Bậc vĩ nhân đã trả lời rằng: “Tôi vẫn luôn đi tìm kiếm
điều mà bất cứ ai cũng tìm kiếm, đó là sự bình an”. Chúng ta cần và chúng ta
tìm kiếm sự bình an, là bởi vì cuộc sống của chúng ta lúc nào cũng đầy những lo
âu và phức tạp về bản thân mình, về gia đình mình và xã hội chung quanh… luôn
gây cho chúng ta những bất an. Có khi chúng ta muốn an ổn mà không được, vì cây
muốn lặng mà gió chẳng dừng. Không cần nói đâu xa, ngay trong gia đình chúng ta
cũng đầy những ngột ngạt, lườm nguýt, hành tỏi, xích mích, tranh giành, lừa dối
nhau, nghi ngờ nhau… khi thì chiến tranh lạnh khi thì chiến tranh nóng, mạnh ai
nấy sống. Thậm chí có những người chỉ muốn sống ở những nơi khác mà không muốn
về nhà mình. Chính vì thế mỗi người chúng ta, mỗi người trong gia đình, cần suy
nghĩ xem: tại sao mình không có bình an, lý do là bởi ai, bởi đâu? Và chính
mình có là nguyên nhân gây bất an cho gia đình, cho những người chung quanh
không? Người ta nói: “Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan”, “hai con voi đánh
nhau, dẫm nát đám cỏ non”, nghĩa là chúng ta là những người lớn, là cha mẹ mà
cãi nhau, oán thù nhau, thì ảnh hưởng tai hại không nhỏ cho chính những con cái
trong nhà, cho anh hàng xóm chung quanh và xã hội. Xin mọi người hãy suy nghĩ
hai chữ “bình an” hôm nay để chính mình sống bình an và giúp người khác cùng sống
bình an. Tất cả chúng ta, ai ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm
ăn áo mặc nữa. Vì thế, Chúa luôn luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội
cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt
Chúa cũng như Giáo hội cầu chúc chúng ta: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”,
rồi linh mục bảo chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Vâng, đúng vậy,
có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.
Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta
chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của
Chúa”, nghĩa là góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội. Xin
nhớ rằng: nếu chúng ta không chia sẻ bình an thì thôi nhưng đừng bao giờ làm mất
bình an của người khác.
23. Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1.
Việc Tôma đòi hỏi những chứng cứ để tin như thế có gì quá đáng không? Có gì
tích cực, đáng khen trong sự đòi hỏi đó không? Để tin cho vững chắc đến mức có
thể dấn thân hết mình cho niềm tin ấy, việc đòi hỏi những chứng cứ chắc chắn có
cần thiết không?
2.
Trong Kitô giáo, đức tin là yếu tố quan trọng hàng đầu để được cứu rỗi. Nhưng đức
tin ấy có cần phải có chất lượng không? hay chỉ cần một đức tin xoàng xoàng là
đủ? Đức tin có chất lượng là gì?
3.
Một người tuyên xưng đức tin mạnh mẽ có chắc chắn là một người có đức tin mạnh
mẽ không? Tuyên xưng thật mạnh mẽ nhưng lòng thì không tin được như vậy, đó có
phải phần nào là giả dối không?
Suy tư gợi ý:
1. Thái độ của Tôma: đòi hỏi bằng chứng
mới chịu tin
Bài Tin Mừng hôm nay nói đến thái độ của
tông đồ Tôma. Ông đòi buộc phải thấy dấu đinh trong tay Đức Giêsu, xỏ ngón tay
vào lỗ đinh ấy rồi đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, thì ông mới tin. Lý trí
thiên về thực nghiệm và có chiều hướng khoa học của ông đòi buộc ông phải làm
như thế, nếu không, ông không thể chấp nhận rằng Đức Giêsu đã sống lại, vì việc
sống lại quả hết sức khó tin. Nhưng rất có thể là sau khi được thỏa mãn những
đòi hỏi ấy, Tôma xác tín việc Chúa sống lại hơn nhiều tông đồ khác. Người ta vẫn
nói: «đại nghi thì đại ngộ» (nghi ngờ lớn thì giác ngộ lớn)! Các tông đồ khác -
với bản tính đơn sơ, dễ tin hơn - không cảm thấy phải có những bằng chứng rõ
ràng như Tôma mới tin được. Các ông chỉ dựa vào một số những biến cố thấy được
nơi Thầy mình trước đây, như cuộc hiển dung trên núi Tabo, khả năng làm phép lạ
như hóa bánh ra nhiều, làm sóng gió ngoài biển phải im lặng, thậm chí làm được
cho kẻ chết sống lại nhiều lần, v.v... là các ông đã đủ để tin rồi.
Đòi hỏi hay không đòi hỏi bằng chứng để
tin không phải là chuyện quan trọng. Điều này tùy thuộc vào bản tính Trời cho của
mỗi người. Điều quan trọng là phải làm sao để tin cho chắc, tin cho vững, tin tới
mức có thể dám dấn thân hết mình cho niềm tin ấy. Có những người rất dễ tin, vì
thế niềm tin ấy không được xây dựng trên cơ sở vững chắc để có thể giúp họ dấn
thân hết mình cho điều mình tin, nên khi gặp những giông tố thử thách, nghe những
lý thuyết ngược lại, thì đức tin đâm ra bị chao đảo. Vì thông thường là: nếu dễ
tin trong trường hợp này thì cũng sẽ dễ tin trong những trường hợp khác! Hay dễ
được thì cũng dễ mất! Cũng có những người đòi hỏi đầy đủ chứng cớ mới chịu tin.
Có thể họ không tin nếu chưa đủ chứng cớ. Nhưng một khi đã có chứng cớ làm cơ sở
để tin, thì họ lại tin rất vững chắc tới mức độ có thể dấn thân hết mình cho niềm
tin ấy. Hạng người sau sẽ ích lợi cho Thiên Chúa, Giáo Hội và nhân loại hơn.
Cũng có thể có những người tuy dễ tin, nhưng vẫn tin vững chắc và không thay đổi
được. Điều này theo lý luận thì khá nghịch lý, nhưng vẫn có thể xảy ra, vì
trong thực tế vẫn có những điều rất nghịch lý!
Trong Kitô giáo, đức tin là một yếu tố
quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên, tin hay không tin không quan trọng bằng chất lượng
của đức tin. Người tin hời hợt cũng là tin, và người tin một cách xác tín cũng
là tin. Nhưng giá trị của hai thứ đức tin ấy khác hẳn nhau.
2. Trong Kitô giáo, đức tin là yếu tố
quan trọng hàng đầu
Người Kitô hữu coi việc rỗi linh hồn,
tức hạnh phúc vĩnh cửu, là điều quan trọng nhất. Họ có thể hy sinh tất cả mọi
thứ khác trên đời cho hạnh phúc vĩnh cửu ấy, và đó chính là sự khôn ngoan căn bản
của họ. Vì như Đức Giêsu nói: «Được lời lãi cả thế gian mà mất sự sống đời đời
thì ích lợi gì?» (Lc 9,25). Nhưng muốn được sự sống đời, thì phải tin vào Thiên
Chúa, vào Đức Giêsu-Kitô, hay vào Tin Mừng của Ngài như một điều kiện không thể
không có: «Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị
kết án» (Mc 16,16); «Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn
tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu
độ» (Rm 10,9).
3.Nhưng điều quan trọng là chất lượng
của đức tin
Nhưng thế nào là tin đúng với ý nghĩa
của chữ «tin»? Nhiều người tưởng rằng mình tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu,
nhưng thật ra họ chẳng tin hay chỉ tin rất ít! Chỉ cần Chúa gửi đến cho họ một
vài thử thách là họ sẽ thấy ngay họ có tin hay không, hoặc tin ở mức độ nào.
Thật vậy, trong những điều kiện bình
thường không có gì đe dọa, có biết bao người tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ,
rao giảng đức tin hùng hồn không ai bằng. Thậm chí để bảo vệ đức tin, họ không
ngần ngại lên tiếng kết án những kẻ xem ra yếu đức tin hoặc tin khác với mình.
Nhưng khi có thử thách xảy tới, chẳng hạn khi tình thế đòi buộc phải lên tiếng
bảo vệ đức tin, bảo vệ Giáo Hội, bảo vệ công lý, và việc lên tiếng bảo vệ này
đòi hỏi phải trả một cái giá nào đấy, thì họ lại sẵn sàng im lặng bất động, bỏ
mặc đức tin, Giáo Hội và công lý ra sao thì ra. Hay khi đức tin đòi hỏi phải dấn
thân hy sinh, chịu thiệt thòi một cách cụ thể mà trước mắt không được bù đắp lại,
lúc đó họ mới nhận ra đức tin của họ - mà họ vẫn tưởng rất mạnh mẽ - hóa ra là
thứ đức tin chỉ tuyên xưng mạnh mẽ ngoài miệng mà thôi!
4. Tin thật trong lòng quan trọng hơn
tuyên xưng ngoài miệng
Phải nói rằng chúng ta chú tâm vào việc
tuyên xưng đức tin hơn là sống đức tin, chúng ta quan tâm chứng tỏ đức tin bằng
miệng, bằng lời nói nhiều hơn bằng hành động. Chúng ta có khuynh hướng chọn cái
dễ hơn, cái «rẻ tiền» hơn để thực hiện, chứ không chọn cái thật sự cần thiết dù
là «đắt giá», vì thế, đời sống đức tin và việc truyền giáo của chúng ta không
đi đến kết quả mong muốn. Theo thánh Phaolô thì «có tin thật trong lòng mới được
nên công chính; có xưng ra ngoài miệng mới được ơn cứu độ» (Rm 10,10). Chúng ta
có vẻ coi việc xưng ra ngoài miệng quan trọng hơn việc tin thật trong lòng. Có
phải chúng ta coi việc «được ơn cứu độ» quan trọng hơn việc «được nên công
chính»? Nhưng cần xét lại xem: có ai không trở nên công chính mà được ơn cứu độ
nhờ «xưng ra ngoài miệng» không? Lời ấy của thánh Phaolô đòi hỏi chúng ta phải
làm cả hai, và điều trước (tin thật trong lòng) thì quan trọng và cần thiết hơn
điều sau (xưng ra ngoài miệng)! Điều sau chỉ là hiệu quả chứng tỏ điều trước mà
thôi. Vì theo tự nhiên thì «lòng có đầy, miệng mới nói ra» (Mt 12,34; Lc 6,45).
Lòng không đầy mà ngoài miệng lại nói ra thật hùng hồn mạnh mẽ thì rất có thể
đã có phần nào giả dối trong đó!
Thật vậy, thứ đức tin chỉ được tuyên
xưng ngoài miệng chứ không được chứng tỏ bằng hành động chỉ là đức tin giả dối,
hay «đức tin chết»: «Đức tin không có hành động là đức tin chết» (Gc 2,17.26).
Liệu người ta có thể được cứu rỗi với thứ «đức tin chết» ấy không?
5.«Phúc thay những người không thấy mà
tin!»
Quả thật, nếu thấy rồi thì đâu còn là
tin nữa, mà là thấy, biết! Như vậy, tin khác với thấy, biết. Tin chỉ có ý nghĩa
khi đối tượng tin còn mù mờ, chưa sáng tỏ, nó vừa đòi hỏi lý trí nắm được một số
chứng cứ để tin, vừa đòi hỏi ý chí chấp nhận một kết luận vượt khỏi giới hạn mà
những chứng cứ ấy chứng tỏ. Chẳng hạn bố mẹ tôi nói với tôi rằng lúc nhỏ tôi bị
một chứng bệnh rất nguy hiểm mà tôi đã thoát được. Tôi tin điều ấy, chứ không
phải tôi biết hay thấy điều ấy. Để tin điều ấy, trong tôi có tác động của lý
trí và ý chí. Lý trí tôi dựa trên những chứng cứ xác thực này:
-
bố mẹ tôi sinh ra tôi và nuôi tôi nên biết rõ điều đó.
-
bố mẹ tôi là một người chân thật, không hay nói dối
-
tôi thấy bố mẹ tôi không có lợi gì khi dối gạt tôi điều này.
Những chứng cứ ấy chưa đủ để tôi có thể
kết luận chắc chắn điều ấy. Nhưng dựa trên những chứng cứ xác đáng ấy, tôi xác
định rằng điều bố mẹ nói về chứng bệnh lúc tôi còn nhỏ ấy là sự thật. Xác định
điều ấy khi chưa hoàn toàn sáng tỏ là việc làm của ý chí tự do.
Lời của Đức Giêsu: «Phúc thay những
người không thấy mà tin!» đặc biệt áp dụng cho chúng ta hơn là cho các tông đồ.
Tất cả chúng ta chẳng ai thấy Đức Giêsu, chẳng ai thấy Ngài sống lại. Nhưng
chúng ta tin điều ấy. Niềm tin ấy được xây dựng trên những lời chứng phải trả
giá bằng máu, bằng mạng sống của các tông đồ, là những người đã sống với Đức
Giêsu và đã chứng kiến Ngài sống lại: «Chính Đức Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm
cho sống lại; về điều này, tất cả chúng tôi xin làm chứng» (Cv 2,32; x. 3,15;
4,33; 10,39.42; 13,31). Không ai lại sẵn sàng chết để làm chứng một điều gian dối
chẳng đem lại lợi lộc gì cho mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin củng cố đức tin cho con,
đồng thời giúp con luôn thành thật với niềm tin của mình. Đừng để cho con trở
nên giả dối: tin thì không mạnh, nhưng tuyên xưng ngoài miệng thì rất là mạnh.
24. Chú giải mục vụ của
Alain Marchabour.
HIỆN RA VỚI CÁC MÔN ĐỆ (không có ông Tôma): 20,19-23
CHÚA HIỆN ĐẾN (cc. 19-20)
Cảnh tượng diễn
ra có chiều ngày hôm ấy. Các tiểu đoạn trước xem chừng không thay đổi cách hành
xử của các môn đệ (ta có thể nghĩ rằng các môn đệ ở đây ám chỉ nhóm Mười Một,
dù rằng Lc 24,33 thêm “các bạn hữu” vào nhóm Mười Một này). Các ông sống trong
lo âu sợ hãi và trốn tránh. Chính trong nơi cửa đóng then cài này mà Chúa Giêsu
ngự đến. Sự hiện diện của Người không còn lệ thuộc vào luật lệ thể xác và những
điều bó buộc tự nhiên như những sự bó buộc của con người với thể xác mình.
Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường: đơn giản Người có thể hiện diện cách
khác hơn loài người.
Chúa đến, như thuở
sinh thời, là nguồn bình an. Người nói “Chúc anh em được bình an”, điều này
không chỉ là một lời chúc xã giao, mà còn có nghĩa là món quà hữu hiệu của ơn cứu
độ, của niềm vui và của sự bình an. Các dấu vết đóng đinh trên tay và cạnh sườn
của Chúa Giêsu chứng tỏ rằng, bất chấp các tình huống kỳ lạ về sự xuất hiện của
Chúa Giêsu, thánh sử không muốn rằng độc giả xem Chúa như một bóng ma, nghĩa là
ai đó khác với Đấng chịu đóng đinh. Hẳn thật sự hiện diện thể lý bình thường của
Chúa Giêsu đã chấm dứt, tuy nhiên con người đang đứng ở giữa họ là Chúa Giêsu,
nghĩa là cũng một con người như Đấng họ đã biết và y trong, nhưng mà từ nay sự
Phục Sinh đã làm biến đổi. Sự lo âu sợ hãi tiêu tan, các môn đệ hân hoan vui mừng.
SỨ VỤ (cc. 21-23)
Những lần hiện ra
tự nó không nhằm mục đích riêng. Chúng mở màn cho một sứ vụ. “Như”: đây không
chỉ là một sự so sánh, đây là căn nguyên và nền móng. Các môn đệ được sai đi
(theo từng chữ “làm Tông đồ”) để kéo dài hoạt động của Chúa Giêsu. Đây là lần đầu
tiên trong Tin Mừng của mình, Gioan gán tước hiệu Tông đồ cho nhóm Mười Một. Chủ
đề sai đi này đã được trình bày sâu rộng trong diễn từ tư tế (17,17-19). Như
Thiên Chúa đã thổi sinh khí trên Ađam (St 2,7), như Thần Khí đã ngự xuống trên
Chúa Giêsu (1,33-34), Chúa Giêsu mà Thiên Chúa đã tôn làm Chúa, thổi (cũng động
từ Hy Lạp ở đây như trong St 2,7) quyền năng của Thần Khí trên các môn đệ (x.
14,26). Người là Đấng đến để có kinh nghiệm về cái chết, tự tỏ mình ở đây như
là Chúa Tể sự sống. Còn các môn đệ, cho đến lúc ấy còn sợ hãi, bây giờ mặc lấy
sức mạnh của Thiên Chúa. Như Thiên Chúa, rồi Đấng được sai đến là Chúa Giêsu, họ
có thể tha tội, nghĩa là thanh tẩy tội lỗi trong quyền năng cái chết cảu Chúa
Giêsu. Thần Khí kết buộc họ với Thiên Chúa chặt chẽ đến nỗi, khi họ được tha
cho ai hoặc cầm giữ tội của ai, thì chính Thiên Chúa qua họ mà tha cũng như cầm
giữ tội lỗi. Chúng ta có ở đây một dạng văn phạm gọi là “thì thụ động thần
linh” nhằm tránh tên gọi Thiên Chúa qua thì thụ động. Ta có thể dịch như thế
này: “Bất cứ người nào anh em tha… Thiên Chúa sẽ tha tội cho họ… Bất cứ người
nào… Thiên
Chúa sẽ cầm giữ tội họ”.
Chúa đến lần này, cũng như lần tiếp
theo, đều diễn ra vào “ngày của Chúa”, nghĩa là vào lúc các Kitô hữu tiên khởi
hội họp cử hành phụng vụ, thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng
đoàn của Người và mỗi khi họ tập hợp để bẻ bánh cũng là mỗi lần hiện thực hóa một
lần nữa việc sai họ đi khắp thế gian.
ÔNG TÔMA:
KHÔNG THẤY MÀ TIN (20,24-29)
Việc ông Tôma vắng mặt cho phép người
kể chuyện đưavào cảnh tượng tiếp sau. Sự cứng lòng không tin của ông Tôma được
đặc biệt nhấn mạnh, bởi lẽ điều này được diễn tả gần như cùng một từ ngữ như
trong 4,48: “Nếu không thấy dấu lạ điềm thiêng, các ông sẽ chẳng tin đâu”. Ông
Tôma, là người tuy đã mời gọi các bạn đồng môn cùng đi cùng chết với Chúa Giêsu
(11,16), lại chối từ cùng với các bạn đi theo Chúa trong đức tin vào Chúa Giêsu
hằng sống. Ông có hai lỗi: trước hết không tin vào lời chứng của các Tông đồ;
sau nữa, nghi ngờ Chúa Giêsu sống lại.
Chúa Giêsu hiện đến lần thứ hai cũng
được miêu tả với những từ ngữ như lần thứ nhất. Tuy nhiên sự cứng lòng tin của
ông Tôma cho phép thánh sử thực hiện hai mục tiêu: trước tiên việc nhấn mạnh về
những dấu vết thương tích đánh dấu sự liên tục và sự liên kết giữa Chúa Giêsu
chịu đóng đinh và Chúa Giêsu được tôn vinh. Chính việc nâng cao là thập giá làm
nên mặc khải tối thượng về tình yêu của Chúa Cha và vinh quang của Chúa Con. Tiếp
đến, đức tin mà ông Tôma, kẻ không tin, tìm gặp lại, trổi vượt đức tin của các
môn đệ bởi vì ông dành cho Chúa Giêsu tước hiệu vĩ đại nhất của cả Tin Mừng: “Lạy
Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Trong số tất cả các tước hiệu của Chúa
Giêsu đã được khai trình giữa chương đầu này, chúng ta đạt đến tột đỉnh mà mọi
định nghĩa giáo lý sau này đều không thể vượt qua được. Giữa “Ngôi Lời là Thiên
Chúa” ở Lời Tựa (1,1) và lời tuyên xưng Chúa Giêsu là “Chúa và Thiên Chúa”, mọi
sự đều đã rõ. Quả là ngược mặc khải, kẻ làm chứng về chân lý này lại là người
không muốn tin vào lời chứng của các Tông đồ.
Hạnh phúc cuối cùng là kết luận của
Tin Mừng và là sự lặp lại chủ đề chính yếu của đối tượng: giữa thấy và tin, cảnh
tượng và nghe biết, sự kỳ lạ và lời nói, thì chính phần thứ hai mới là điều kiện
thường tình và lý tưởng của kẻ tin. Ngay cả những kẻ đã thấy, cũng phải tin hơn
điều họ đã thấy. Ngôi Lời từ lúc mặc lấy các phàm, nghĩa là nhân tính nơi mà vẫn
phải “nhận biết Thiên Chúa tỏ hiện trong vinh quang”. Chúng ta, những người
lãnh nhận Tin Mừng, chúng ta quả có phúc vì đã không thấy mà nhờ những lời chứng
của các Tông đồ, chúng ta gắn bó với Chúa Kitô và trở nên những kẻ tin vào Người.
KẾT LUẬN (20,30-31)
Hai câu này làm thành đoạn kết của Tin
Mừng trước khi chương 21 được thêm vào. Gioan là tác giả duy nhất trong các
thánh sử đã đưa vào tác phẩm của mình đoạn kết. Để cho độc giả tương lai tiện sử
dụng, ông có hai xác định quan trọng:
Trước hết, Gioan nhận biết đã cố ý thực
hiện một sự tuyển chọn trong số các sự kiện liên quan đến Chúa Giêsu. Vậy nên cần
phải ghi nhớ điều đó mỗi khi thấy một vài thời kỳ trong cuộc đời của Chúa Giêsu
được các Tin Mừng Nhất Lãm thuật lại, còn ông thì vẫn im lặng, và đừng vội kết
luận rằng ông không hay biết các sự kiện đó. Trong khi định trước các môn đệ
như những người lãnh nhận các dấu lạ, Gioan đặc biệt liên tưởng đến các độc giả
của mình, tuy đã trở thành môn đệ, nhưng lại không thấy các dấu lạ được thực hiện
trong cuộc đời của ông.
Sau nữa và nhất là, ông minh định mục
tiêu của mình: kiên định các môn đệ trong đức tin vào Chúa Giêsu, vừa là Đấng
Mêsia như Kinh Thánh đã hứa, vừa là Con Thiên Chúa, từ đó các môn đệ có được sự
sống nhờ Chúa Giêsu. Như vậy, độc giả có sẵn chìa khóa để học hiểu. Tin Mừng
không phải là một quyển sách bình thường, sáng tác để cho độc giả giải trí, mà
là một quyển sách có sự sống; thừa hưởng cũng một năng lực từ sự xác tín và
cũng một tiềm năng sự sống như lúc Chúa Giêsu còn tại thế. Đối với các độc giả
sinh sống vào thời mà Chúa Giêsu không còn hiện diện bằng xác thể nữa, thì có
quyển sách này đây, sẵn sàng cho cuộc hội ngộ giữa độc giả và quyển sách, làm nảy
sinh sự sống do đức tin vào Chúa Giêsu, Đấng Mêsia và Con Thiên Chúa.
25. Chú giải của Noel
Quesson.
Vào chiều ngày ấy,
ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở... Tám ngày sau, các môn đệ Đức
Giêsu lại có mặt trong nhà đó.
Trang Tin Mừng
hôm nay thuật lại cho chúng ta hai lần Đức Giêsu Phục sinh “hiện ra” cách nhau
tám ngày. Tự nhiên chúng ta dễ để tâm chú ý dện lần hiện ra thứ hai với “Tôma”
hơn, vì ta thường đồng hóa với ông, khi trên thực tế ta cũng thấy nơi mình một
“kẻ hồ nghi”, một “kẻ cứng lòng tin” và có thể gặp được nơi ông một thứ biện
minh cho thái độ thiếu đức tin của ta.
Nhưng dù có thông
đồng với Tôma, ta cũng không thể bỏ qua việc đọc trọn vẹn bản văn trên.
Trước tiên, ta cần
lưu ý, Đức Giêsu hằng sống thường hiện ra vào Chúa nhật, ngày thứ nhất trong tuần,
đó có phải là điều ngẫu nhiên không? Ta quá biết rõ, thời đó các Kitô hữu tiên
khởi đâu có ngày nào cũng họp nhau lại. Hằng ngày mỗi người đều phải lo sinh kế.
Họ không thể luôn sống bên nhau. Vì thế, Đức Giêsu Phục sinh chỉ hiện “đến”
trong khung cảnh buổi họp mặt hằng tuần của họ. Chúng ta có thể nhầm lẫn khi
coi đức tin như một vân đề hoàn toàn “riêng tư” hay “cá nhân”: ta thấy rằng sự
hiện diện của Đức Kitô Phục sinh đăc biệt được nhận biết, thấu cảm, và xác nghiện
trong khuôn khổ một cuộc gặp gỡ tập thể. Họ cùng hiện diện với nhau, tập họp
chung ‘trong Giáo Hội’.
Các cửa đều đóng
kín, vì các ông sợ người Do Thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông.
Vào lúc thánh
Gioan viết những dòng trên. Giáo hội đang gặp sợ hãi và bách hại. Các môn đệ Đức
Giêsu đã có thói quen tụ họp này tại nhà ông này, mai tại nhà ông khác. Họ đón
tiếp nhau. Họ kiểm tra lẫn nhau: có những người rút lui, có những kẻ bồ đức
tin, bỏ nhóm. Họ đâm hoảng sợ. Họ đóng kín cửa. Nhưng giờ đây mỗi Chúa nhật như
“Chúa nhật đầu tiên” này, “dấu chỉ” bữa tiệc ly lại được cử hành và một cách
huyền nhiệm, Đức Giêsu lại lướt qua những kẻ thuộc về Người, trong “nơi mà họ
hiện diện” tại Êphêxô, Côrintô, Giêrusalem, Rôma. Đúng vậy mỗi Chúa nhật là
ngày Phục sinh! Chúa vẫn luôn hiện diện giữa cuộc sống chúng con. Chính Chúa
làm cho chúng con sống động, dù không thấy Chúa nhưng chúng con vẫn tin.
Lạy Chúa, ngày
nay chúng con cũng dễ khóa chặt cửa lại vì sợ hãi, khi Thánh Thần Chúa thổi đến,
xin cho những bức tường vây hãm chúng con sụp đổ, để chúng con trở lại thời ca
vang: Nào ta hãy mở rộng cửa cho Đức Kitô Phục sinh.
Trước khi đi xa
hơn trong việc suy niệm đoạn tin Mừng trên, chúng ta tự hỏi Đức Giêsu muốn giải
thoát để phục sinh chúng ta khỏi những tình trạng nào? Khỏi tình trạng bí bức
không lối thoát, khỏi tình trạng sợ hãi, đóng cửa cài then, khỏi tình trạng
“nguy tử” cho mình? Đó có thể là tội lỗi, thử thách về sức khỏe, đau đớn và thất
vọng, khó khăn thuộc phạm vi gia đình, nghề nghiệp. Đó là “Nơi các môn đệ đang
hiện diện: đóng cửa cài then!”
Người nói với các
ông: “Chúc anh em được bình an”. Thế rồi, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Người lại nói với các ông: “Chúc anh em
được bình an!”.
Niềm vui Phục
sinh, niềm vui Kitô hữu, trước hết không phải là niềm vui dễ dàng, niềm vui tự
phát; nghĩa là niềm vui tự nhiên làm ta thấy phấn khởi khi mọi sự đều ổn thỏa,
tình trạng sức khỏe khả quan, “tuổi trẻ” vẫn tràn đầy sinh lực, công việc đều
thành công, tương quan bạn hữu và gia đình luôn thoải mái. Nhưng niềm vui Phục
sinh là niềm vui đến ‘sau' sự sợ hãi! Đó là niềm vui và sự bình an khơi dậy từ
một tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng (từ cái chết của một kẻ bị đóng đinh) mà từ
đó trở đi không có gì để cướp đi khỏi họ niềm vui này: đó là niềm vui và sự
bình an phát xuất từ “lòng tin” vào Đức Giêsu. Cũng như ngày thứ nhất trong tuần
đó, mỗi buổi họp mặt Chúa nhật, Đức Giêsu đều chúc bình an cho ta, qua tiếng
nói của Linh mục: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em” và Công đồng Vatican II
đã tái lập truyền thống xưa “hôn chúc bình an”: các Kitô hữu được mời gọi trao
bình an cho nhau, nhân danh Đức Kitô: bắt tay nhau, ôm hôn, mỉm cười với nhau
và chào chúc: “Bình an Đức Kitô. Đó không phải là cử chỉ tầm thường, nhưng là
“trở nên Đức Kitô” đối với người gần cận của mình; “khi nhiều người tụ họp nhân
danh Thầy, thì Thầy hiện diện ở đó giữa họ”
Như Chúa Cha đã
sai Thầy, thì bây giờ Thầy cũng sai anh em.
Đó! Chúng ta đâu
có thể tưởng tượng được một lời nói như vậy! Thế mà chính Đức Giêsu lập lại cho
ta. Tôi là một con người đâu có ra gì, thế mà lại trở nên Đức Giêsu, được sai gởi
đến với anh em tôi y như Người đã được “Chúa Cha” sai gởi đến trần gian. Chúng
ta đừng lướt qua nhanh những lời trên. Cũng đừng vội vàng gán cho Tôma là kẻ cứng
lòng tin. Hãy dừng lại nơi những lời nói trên đây của Đức Giêsu. Ta hãy hiểu biết
trách nhiệm trọng đại mà Người trao phó cho ta: “sứ vụ” của Đức Kitô được trao
phó cho Giáo Hội và một phần cho tôi. Tôi được Đức Giêsu “sai đi” như Đức Giêsu
được Chúa Cha “sai đến”. Một lần nữa tôi phải tìm hiểu ý nghĩa của hai từ trên:
“sứ vụ” có nghĩa là “sự sai đi” (bởi tiếng La tinh là “missus”) và “tông đồ” có
nghĩa là “kẻ được sai đi” (bởi tiếng Hy Lạp là ‘apostolos’). Khi tôi gặp một
người nào trong công việc làm ăn, trong môi trường sống của tôi, thì không phải
chỉ nhân danh cá nhân, hay vì lợi ích riêng của tôi, mà chính vì tôi được Đức
Kitô sai đến? Tôi phải truyền thông cho bạn một sứ điệp của Đức Giêsu: chính
Người nói với bạn những gì tôi sẽ nói với bạn; Người luôn “sống động” trong
tôi. Tôi là “miệng lưỡi” của Người, là “thân thể” Người, kề cạnh bạn, để thông
tỏ cho bạn tình yêu của Chúa Cha.
Nói xong, Người
thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Đó là việc ban
Thánh Thần, một cuộc “tạo thành mới”: Thần Khí của Đức Giêsu được thông truyền
cho các môn đệ. Đức Giêsu đã chết “đã tiến về gặp gỡ Chúa Cha” các Kitô hữu tiếp
tục công trình của Người. Họ sẽ mang hơi thở sống động của Người, mang Thần Khí
Người. Họ sẽ tiếp tục thể hiện những việc làm của Người. Sau này thánh Phaolô sẽ
nói: “Anh em là thân hình Đức Ki tô. Anh em là Đền thờ của Thánh Thần”. Còn
thánh Gioan cho ta biết, Đức Giêsu lập lại cử chỉ của Thiên Chúa Đấng tạo thành
trong sách Sáng thế (St 2,7): “Lạy Thánh linh tạo dựng, xin hãy đến!”.
Đối với Gioan, việc
Thánh Thần ngự đến đã xảy ra vào chiều ngày Phục sinh: hoạt động cốt thiết của
Đức Giêsu sau khi chiến thắng tử thần, là thông ban “Thánh Thần, Đấng đã Phục
sinh Đức Giêsu từ cõi chết” (Rm 8,11). Trong kinh Tin kính đó là điều cốt yếu
ta kháng định về Thánh Thần: “Người là Thiên Chúa, và là Đấng ban sự sống”. Thần
Khí được trao ban cho các môn đệ ngay buổi chiều ngày Phục Sinh, sẽ hiện lộ ngời
sáng trên công trường năm mươi ngày sau đó, vào ngày lễ Ngũ tuần. Đó là thần
khí của Thiên Chúa vừa mới thành công rực rỡ, ta dám nói như thế - khi giật Đức
Giêsu ra khỏi quyền lực tử thần, và mạc khải Ngài như con Thiên Chúa, nhờ cuộc
Phục sinh. “Xét như Đấng đã được Thần Khí thánh hóa, Người đã được đặt làm con
Thiên Chúa với tất cả quyền năng, do việc Người từ cõi chết sống lại” (Rm 1,4).
Anh em tha tội
cho ai, thì người ấy được tha.
'Thắt buộc” và
“tháo cởi”, “tha giải” và “cầm giữ”. Kiểu nói này là một hình thức văn phạm của
tiếng Aramên: theo đó, người ta dùng hai từ nghịch nghĩa nhau để xác nhận một
thực tại cách mạnh mẽ hơn, và để nhấn mạnh tới từ mang tính “tích cực”. Như thể,
khi trao ban cho các môn đệ Thần Khí Ngài, Đức Giêsu cũng thông nho họ quyền
tháo gỡ con người khỏi sự ác: kể từ đó, ngay tại trần gian, các ông trở nên những
kẻ mang” tình xót thương của Thiên Chúa cho mọi người, cũng như Đức Giêsu đã trở
nên hiện thân của tình thương đó! “Như Chúa Cha đã sai Thầy thì bây giờ Thầy
cũng sai anh em”. Người Kitô hữu cũng được trao ban cho chính sứ vụ mà Đức
Giêsu đã tuyên bố là của Người, trong Hội đường Nagiarét, vào lúc khởi đầu tác
vụ: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, sai đi báo
Tin mừng cho kẻ nghèo hèn, công bố một năm hồng ân của Chúa, trả lại tự do cho
người bị áp bức” (Lc, 4,18-19). Tôi có mang thần khí đó, Thần khí giải phóng,
Thần khí ban sự sống, Thần khí yêu mến và tha thứ nhân danh Đức Giêsu không?
Tha thứ là một ân huệ Phục sinh.
Một người trong
nhóm Mười Hai, nên là Tôma, không có mặt khi Đức Giêsu đến. Ông nói: “Nếu tôi
không thấy... tôi chẳng có tin”.
Đó là “con người
chậm trễ”. Sau buổi lễ gặp mặt, ông mới tới. Trong Tin Mừng, Tôma luôn là người
chỉ tin vào lương tri của mình, là người thiết thực nên nghi ngại cả thái độ liều
lĩnh của Đức Giêsu: “Lạy Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu? (Ga. 14,15).
Khi Đức Giêsu nói đến sự phục sinh cho Lagiarô, thì Tôma chỉ thấy trước mắt cái
chết (Ga 11,15-16).
Tám ngày sau... Đức
Giêsu lại đến và nói: “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy, đừng cứng
lòng tin nữa”.
Một tuần. Tôi thấy
như Đức Giêsu đang mỉm cười hóm hỉnh trao đổi với Tôma. Người có vẻ đang nói với
ông: “Này anh bạn, bạn tưởng tôi đã chết và khuất mặt, khi bạn bày tỏ thái độ
không tin. Nhưng tôi vẫn hiện diện lúc đó, cách vô hình, chứng kiến các bạn nói
chuyện với nhau. Tuy nhiên, lúc đó tôi không tỏ mình ra với các bạn”. Đó là
thái độ kiên nhẫn của Thiên Chúa. Người đã chọn thời gian của Người.
Ong Tôma thưa Người:
“Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con!”
Đó là tiếng kêu
diễn từ một lòng tin của con người đã đòi “chạm, thấy”. Ong đã hiểu được Đức
Giêsu cho dù không hiện hình, vẫn có đó! Người hiện diện cả vào giờ phút ông
nghi ngờ.
Vì thấy Thầy, nên
anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin.
Đó là mối phúc, mối
phúc cuối cùng. Những thực tại cao siêu nhất của Thiên Chúa, ta không thể tự
mình thấy được. Chỉ có “đức tin” dẫn đưa chúng ta tiến sâu vào những thực tại
đó. Và đó chính là hạnh phúc đích thực!
26. Chú giải của Fiches Dominicales.
TỪ CHÚA NHẬT NÀY TỚI CHÚA NHẬT KIA,
TỪ NHẬN THỨC ĐẾN TRUYỀN GIÁO (Ga 20,19-31)
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1) Từ ‘ngày đầu tuần’
Phần đầu của Phúc
âm Chúa nhật này đưa ta đến “sau cái chết của Đức Giêsu, vào buổi chiều ngày thứ
nhất trong tuần ngày quy tụ phụng vụ của các Kitô hữu, thời gian thuận tiện để
Đức Giêsu hiện diện giữa cộng đoàn mà Người quy tụ lại để chia sẻ Lời và Bánh,
và để sai họ đi vào thế giới.
Các môn đệ quy tụ
lại ở cùng một nơi: một kiểu nói mà thánh sử dùng để báo trước tính giáo hội của
việc Chúa hiện ra mà ngài sắp tường thuật. Các cửa đều “đóng kín” vì “sợ người
Do thái? Nỗi sự hãi cho đến lúc này vốn bao trùm những người Israel, đến nỗi họ
không dám tuyên bố ủng hộ Đức Giêsu, thì từ nay còn là phận của các môn đệ thân
tín của Chúa: các ông đang cảm nhận một tâm trạng lo âu sọ hãi mà lát nữa đây
ơn bình an sẽ đối nghịch lại và khoả lấp hết.
Người ta dễ dàng
nhận ra ba tiến trình đặc biệt của những lần gặp gỡ sau phục sinh: Đức Giêsu có
sáng kiến (1), Người tự tỏ mình ra cho các môn đệ (2) người uỷ thác cho các ông
một sứ mạng (3).
Sáng kiến của Đức
Giêsu:
] Đức
Giêsu “đến” như vậy là Người thể hiện lời đã hứa với các môn đệ trong bài diễn
từ giã biệt: “Thầy sẽ đến cùng anh em” (14,18-28).
] Người
“đứng giữa các ông”, dịch sát nghĩa là “Người đứng dậy”, chuyển từ trạng thái
đang nằm, ý nói là chết sang tư thế thẳng đứng của Đấng phục sinh.
] “Chúc anh em được bình an”. Đó là những
lời đầu tiên Đấng-hằng-sống gởi cho các môn đệ của Người đang tu họp. Đây không
phải chỉ là lời chào hỏi thông thường “Shalom” của những người Do thái khi gặp
nhau. Càng không phải là lời cầu chúc suông, nhưng là ơn huệ mang hiệu quả thực
sự của Bình an, đúng như lời Chúa hứa: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy;
Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (14.27).
Các môn đệ nhận biết Chúa.
Đức Giêsu cho họ xem “tay và cạnh sườn
Người” (đối chiếu với ngọn giáo của Gioan 19,34). Chắc chắn từ nay đã qua rồi
thời gian người hiện diện thể lý, nhưng Đấng đang đứng giữa họ lúc này vẫn là Đức
Giêsu, nghĩa là cũng vẫn là Đấng mà họ đã thấy chết và được mai táng, nhưng từ
nay đã biến hình đổi dạng nhờ mầu nhiệm Phục sinh. Và trong cái “nhận Thầy” do
lòng tin ban cho, các môn đệ “tràn đầy niềm vui” niềm vui bất tận và Chúa đã
báo trước cho các ông: “Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng và niềm
vui của anh em không ai lấy mất được” (16,22).
Trao phó sứ mạng:
Việc các môn đệ được gặp Đấng-đang-sống,
cùng nhận ra Đấng đã trải qua và chiến thắng vẻ vang cơn thử thách của cái chết
trên thập giá, không phải là đã hoàn tất. Cuộc gặp gỡ ấy giờ đây khai mở một sứ
mệnh.
] Sau khi đã làm mới lại ơn bình an:
“Chúc anh em được bình an!”.
] Đức Giêsu “thổi hơi vào các ông”, làm
lại cử chỉ ban đầu khi tạo dựng con người, giống như trong Sáng thế ký 2,7: ở
đây hành động này càng ám chỉ rõ nét là hành động sáng tạo của Chúa, nhất nữa
vì đây là lần duy nhất Tân Ước sử dụng cách diễn tả của bản văn Sáng thế ký.
Đúng là một cuộc tạo dựng mới. Đức
Giêsu vinh hiển thông ban Thần Khí tái sinh cho con người. Khi cho họ được chia
sẻ sự hiệp thông với Chúa. “Như (chữ ‘Như' ở đây không phải chỉ là một so sánh,
nhưng ám chỉ một nền tảng, một liên hệ sâu xa) Chúa Cha đã sai Thầy, thì bây giờ
Thầy cũng sai anh em”.
] Và nếu các môn đệ được sai đi, chính
là để loan báo cho ‘mọi người tin mừng về ơn tha thứ của Thiên Chúa’. X. Leon-
Dufour giải thích: “Tha/cầm giữ “ lối văn chương Do thái dùng một cặp từ trái
nghĩa nhau để diễn tả một sự trọn vẹn ở đây cách diễn tả ấy có nghĩa là trọn vẹn
quyền thương xót được đấng Phục sinh trao ban cho các môn đệ. Thể văn thụ động
diễn tả hiệu quả đạt được đều ngụ ý rằng chính Thiên Chúa mới là Đấng ban ơn
tha thứ, cách dùng thì (động từ) ở quá khứ hoàn thành có nghĩa là ơn tha thứ của
Chúa là yếu tố quyết định. Người ta sẽ có thể giải thích một cách rộng rãi là
khi cộng đoàn tha thứ, thì chính Thiên Chúa tha thứ vậy. (Lecture de l'evangile
se lon Jean. quyển IV, Seuil. tháng 11/1996, trang 241).
2) đến buổi tụ họp “tám ngày sau”
Lần hiện ra thứ
hai đã được tác giả đặt vào ‘tám ngày sau’, tức Ngày Chúa nhật tiếp đó, ngày mà
các Kitô hữu của Gioan quy tụ lại để cử hành Thánh Thể, để chia sẻ Bánh và Lời
như chúng tôi đã viết ở trên. Ngày đó trong sách Khải Huyền, cũng được gọi là
“Ngày của Chúa”. Đó là ngày tưởng niệm mầu nhiệm Phục sinh của Đức Kitô.
Ông Tôma, được
tác giả báo trước, “không có mặt khi Đức Giêsu đến”. Độc giả của Phúc âm thứ tư
đồng hoá mình ngay với Tôma, bởi lẽ chính người ấy cũng được mời gọi chỉ dựa
vào nguyên chứng từ của các Tông Đồ mà có được niềm tin phục sinh: “Chúng tôi
đã được thấy Chúa!”.
Ngay lập tức, Tôma
từ chối nhận chứng từ của cộng đoàn; ông đòi xem tận mắt, sờ tận tay, tự mệnh
xác minh thì mới tin: “nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ
ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có
tin”.
Thế là diễn ra lần
hiện ra thứ hai của Đức Giêsu được mô tả cùng một kiểu cách như lần trước. Đức
Giêsu lại hiện đến, mặc dầu các cửa đều “đóng kín”. Một lần nữa Người nói lời cầu
chúc bình an cho các môn đệ, lời mang ơn cứu độ của phục sinh: “Chúc anh em được
bình an!”. Người cho Tôma xem tay và cạnh sườn như để nhấn mạnh cho ông hiểu rằng
Đấng bị đóng đinh xưa với Đấng nay được vinh hiển cũng là một. Giữa hai tình trạng
đó vẫn có sự nối kết và liên tục. Rồi Người bảo ông: “Đặt ngón tay vào đây, và
hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa bàn tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng
tin nữa, nhưng hãy tin”.
Tác giả chẳng cần
nói đến chuyện người môn đệ kia không còn nghĩ đến việc đưa bàn tay ra để sờ và
đặt vào cạnh sườn Chúa nữa. Ông kể lại phản ửng tức thời của Tôma là thay đổi hẳn
thái độ; con người ấy một khi đã vấp phải chướng ngại là cái chết, thì giờ đây
công khai tuyên xưng niềm tin tuyệt đối:
“Lạy Chúa, lạy
Thiên Chúa của con”, trong tư cách là người phát ngôn của cộng đoàn Kitô hữu. Độc
giả nào tự cho mình có thái độ như thái độ đầu tiên của Tôma đều được mời gọi
thực hiện một sự trở lại tương tự.
3) Cho tới Chúa nhật hôm nay, ngày chúng ta tụ họp
Câu chuyện Đức
Giêsu hiện ra kết thúc bằng một mối phúc hứa ban cho tất cả. Những ai đang sống
vào thời không còn sự hiện diện hữu hình của Đức Kitô, cũng hứa ban cho chính
chúng ta, những con người hôm nay đang tụ họp nhân danh Người: “Ai không thấy
mà tin, mới là người có phúc”.
Dufour kết luận:
“Lời hứa này không còn liên quan tới Tôma nữa, nhưng là nhắm đến các môn đệ
tương lai. Cộng đoàn Kitô hữu hôm nay không có gì phải nuối tiếc về khoảng cách
và sự khác biệt về hoàn cảnh sống của mình. Nếu cách thức cộng đoàn tiếp cận niềm
tin không giống như các tông đồ trước đây, thì những ai đang và sau này không
thấy mà tin, chính họ là người có phúc vậy. Kinh nghiệm mà những chứng nhân tận
mắt được hưởng là kinh nghiệm làm nền và không thể được tái diễn: kinh nghiệm ấy
được ban cho họ không chỉ vì họ mà thôi, nhưng còn vì những thế hệ tương lai mà
lòng tin sẽ dựa vào lời chứng được truyền lại cùng với sức mạnh của Thánh Thần,
chứ không dựa vào những dấu chỉ cụ thể về sự Chúa hiện diện, xuyên qua các môn
đệ đang đứng trước mặt Người lúc đó, Đức Giêsu hướng chú ý của Người tới tất cả
những ai sẽ nối tiếp các ngài sau này tới tất cả con cái Thiên Chúa mà Người đã
đến quy tụ lại nên một; vào buổi chiều lễ Vượt qua. Đức Giêsu há đã chẳng nói với
các môn đệ của Người rằng sứ mạng của các ông từ nay sẽ diễn tả và nối dài sứ mạng
của Người đó sao? Giờ đây lòng trí Người hẳn đang nghĩ tới những ai sẽ là thành
quả của sứ mạng được sai đi rao giảng và làm chứng này.
Cuộc gặp gỡ của Đấng
đang-sống với các môn đệ của Người không kết thúc bằng sự nghỉ ngơi. Cuộc gặp gỡ
ấy vẫn luôn là một khai mở hàng về một tương lai vô tận trong niềm hân hoan tồn
tại dù khi các chứng nhân tận mắt không còn nữa. Đó là điều đã được diễn tả
khéo léo trong thư thánh Phêrô: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy
chưa được giáp mặt, mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy anh em được chan chứa một niềm
vui khôn tả” (1Pr 1,8-9) (O.C., trang 251-252).
BÀI ĐỌC THÊM.
Từ những lần Đức Kitô hiện ra đến việc Người loan báo
(G.Bessière, trong Thiên Chúa rất gần, Năm A”, Desclée de Brouwer, trang
53-54).
“Lời Chúa nói với
Tôma: “Vì anh đã thấy Thầy, nên anh mới tin. Ai không thấy mà tin, mới là người
có phúc” không đặt Tôma vào vị trí đối lập vời các tông đồ khác. Lời đó phân biệt
ra hai lớp người tin: thế hệ các chứng nhân trực tiếp về đời sống Đức Giêsu và
đông đảo các tín hữu sau này không được biết trực tiếp Đức Giêsu. Chế độ thông
thường của đức tin sẽ là như vậy.
Câu chuyện kể về
ông Tôma đánh dấu sự chuyển đổi từ những lần Đức Kitô “hiện ra” đến việc Người
“loan báo”. Từ nay chứng từ phải khơi gợi nên sự gắn bó với “con đường” là
chính Đức Giêsu. Ta sẽ gặp lại Người đang khi cùng với các anh em bước theo Người
trên con đường ấy, và đang khi sống chan hoà tình cảm tạ, tình huynh đệ, tình
hoà hảo, là những dấu chỉ thâm sâu của Chúa Thánh Thần.
Nhiều người vẫn
muốn tìm kiếm những biến cố lạ thường, những dấu hiệu giật gân thuộc loại được
Chúa hiện ra hoặc được thị kiến mà chẳng mấy khi quan tâm đến Phúc Âm của Đức
Giêsu, hay đời sống của các Kitô hữu, cùng tất cả những gì Chúa làm trong cuộc
sống đời thường của con người. “Ai không thấy mà tin, mới là người có phúc”.
Tin là ngày qua ngày đi theo Đức Kitô phục sinh đồng thời đón nhận ơn Người
thúc đẩy biến đổi đời mình theo lòng mong ước của Chúa Cha vậy”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét