ĐỨC THÁNH CHA DỰ ĐẠI HỘI GIỚI TRẺ |
|
HỒ SUỐI HAI |
MỤC VỤ GIÁO XỨ QUA MẠNG |
GIÁO HỌ THÔN LÝ SAPA |
ĐẠI HỘI ASIAS LEGIO LÀO CAI YÊN BÁITẠI GX. AN THỊNH |
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH – Năm B
CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH
Cầu cho ơn thiên triệu Linh mục và
tu sĩ
Lời
Chúa: Cv 4,8-12; 1Ga 3,1-2; Ga 10,11-18
1. Chủ chăn và đoàn chiên.
Chúa Giêsu muốn
nói gì qua hình ảnh chủ chăn và đoàn chiên? Tôi xin thưa đó là sự gắn bó mật thiết.
Thực vậy, giữa chủ
chiên và đoàn chiên có một sự gắn bó mật thiết với nhau thế nào, thì giữa Chúa
Giêsu và những người được Chúa Cha trao cho Ngài cũng có một sự gắn bó mật thiết
với nhau như vậy, bởi vì họ thuộc về Ngài và Ngài biết tên họ. Điều này cũng có
nghĩa là Ngài biết tường tận từng người một với những ưu điểm và khuyết điểm, với
những suy tư và tính toán, với những âu lo và khát vọng. Giữa Ngài và những người
tin vào Ngài đã tạo nên được một sự cảm thông chân thành. Họ nhận ra tiếng Ngài
và bước đi theo Ngài. Điều ấy không thể xảy ra cho những kẻ xa lạ.
Tất cả những sự kiện
kể trên đều là những biểu hiện của tình yêu thương. Chúng ta không thể hồ nghi
về những lời khẳng định của Chúa Giêsu, bởi lẽ Ngài đã chết để bảo vệ đoàn
chiên của Ngài như một người mục tử tốt lành và nhân hậu. Ngài phán: Không ai
yêu hơn người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu. Hay như thánh Phêrô đã viết
trong: Chính Ngài đã gánh lấy tội lỗi chúng ta nơi thân xác của Ngài trên cây
thập giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính. Nhờ
vết thương của Ngài, anh em đã được chữa lành. Xưa kia anh em như những con
chiên lạc, thì giờ đây anh em đã trở về cùng vị mục tử, Đấng canh giữ linh hồn
anh em.
Thế nhưng điều
quan trọng hơn đó là mỗi người chúng ta phải làm gì và phải sống như thế nào, để
được xứng đáng là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa? Khi người chủ chăn
đứng ngoài cửa và vên tiếng gọi, lập tức những con chiên nhận biết tiếng họ,
chúng liền tụ lại quanh người ấy và bước đi theo sự hướng dẫn của người ấy. Và
người ấy sẽ dẫn đoàn chiên của mình tới đồng cỏ xanh và tới dòng suối mát.
Với chúng ta cũng
thế, là những con chiên trong đoàn chiên của Chúa, chúng ta phải biết nhận ra
tiếng Chúa mời gọi. Nhưng nhận ra tiếng Chúa mời gọi mà thôi chưa đủ, điều quan
trọng hơn, đó là chúng ta còn phải tụ lại bên Ngài và bước đi dưới sự hướng dẫn
của Ngài bằng cách thực thi những điều Ngài truyền dạy, bằng cách tuân giữ những
giới luật của Ngài.
Bởi vì chỉ bước đi
theo sự hướng dẫn của Ngài, chúng ta mới có thể đạt tới miền đất hứa là quê
hương Nước Trời mà thôi.
2.
Chúa chiên lành.
Có một chàng sinh
viên, sau khi tốt nghiệp đại học, đã không chọn cho mình một ngành nghề chuyên
môn, nhưng lại đi chăn cừu thuê. Anh cho biết: Mỗi ngày anh phải làm việc tới
mười tám tiếng đồng hồ và làm tất cả bảy ngày trong tuần. Suốt thời gian ở trên
núi, anh hoàn toàn cô đơn, chỉ bầu bạn với chú chó, chú ngựa và hai ngàn con cừu.
Mỗi tuần một lần,
người ta đem đến cho anh thực phẩm, thư từ và đạn dược. Công việc của anh là
làm sao giữ cho đàn cừu được ở chung một chỗ, dẫn chúng đến nơi có cỏ và có nước,
đồng thời bảo vệ chúng khỏi thú dữ.
Anh kể: một buổi
sáng nọ, có một nhóm cừu tự rời khỏi bày, thế là tôi phải bỏ tất cả thời gian để
lần theo dấu vết của chúng. Ngay khi vừa mới tìm thấy, thì một cơn mưa bão ập
xuống, khiến tôi và những con cừu vừa ướt lại vừa bị lạnh cóng suốt đêm.
Câu chuyện trên
cho chúng ta thấy nghề chăn cừu thời nay thật là khó khăn và cực nhọc. Nhưng
ngày xưa, khi chưa có súng đạn thì công việc của họ không chỉ cực nhọc mà còn rất
nguy hiểm nữa.
Trong sách Samuel,
Đavid đã trả lời cho nhà vua trước lúc giao tranh với Goliath như sau: Tâu bệ hạ,
thần đã từng chăm sóc đàn cừu của phụ thân, bất cứ khi nào có một con sư tử hay
một con gấu cướp đi một con cừu, thì lập tức, thần rượt theo và tấn công nó để
cứu con cừu. Nếu con sư tử hay con gấu ấy quay vào tấn công thần, thần sẽ xông
tới, chộp cổ họng và đánh nó cho đến chết. Thần đã giết nhiều sư tử và gấu. Thần
cũng sẽ làm như vậy với tên Philitinh ngoại đạo này.
Từ những mẩu chuyện trên chúng ta đi vào đoạn Tin mừng hôm nay, trong đó
Chúa đã nói: Ta là mục tử nhân lành, sẵn sàng hiến mạng sống mình vì đàn chiên.
Nói cách khác Chúa Giêsu chính là vị mục tử mà tiên tri Egiechiel đã loan báo:
Ngài chăm sóc những con bơ vơ yếu đuối, chữa lành những con bệnh hoạn và đi tìm
những con bị lạc. Chúa Giêsu còn làm hơn thế nữa, Ngài tự hiến mạng sống cho
đoàn chiên. Và từ cõi chết sống lại, Ngài đã chia sẻ vinh quang Phục sinh cho
đoàn chiên của Ngài. Từ đó chúng ta hãy rút ra một vài điểm thực hành:
· Điểm thứ nhất, đó
là hãy
tỏ lòng biết ơn Ngài vì nhờ sự chết và Phục sinh, Ngài đã cứu chúng ta
khỏi manh mối của thú dữ là ma quỷ và tội lỗi.
· Điểm thứ hai, đó
là hãy bước đi dưới sự dẫn dắt của Ngài, nhờ vậy mà chúng ta chẳng bao
giờ bị lầm đường lạc lối. Trái lại, cuộc đời chúng ta sẽ được bảo đảm an toàn,
bởi vì như lời thánh vịnh cũng đã xác quyết: Chúa là Mục tử, Ngài dẫn lối chỉ
đường cho con đi. Đi trong tay Chúa nào con thiếu chi con sợ chi. Cỏ non rợn đồng
xanh con không bao giờ thiếu suối nước trường sinh con nghỉ uống no đầy.
3. Mục Tử Nhân Lành- ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Dân Do Thái là dân du mục. Cuộc đời họ gắn liền với
đoàn vật và những đồng cỏ. Nên khi Đức Giêsu đưa ra hình ảnh người mục tử và
đoàn chiên, người Do Thái hiểu ngay tức khắc. Đức Giêsu đã dùng hình ảnh quen
thuộc ấy để nói lên mối liên hệ của ta với Người và của Người với ta. Người là
Mục tử nhân lành. Ta là đoàn chiên của Người. Người lãnh đạo đoàn chiên không
phải bằng uy quyền áp chế, bằng kỷ luật khắc nghiệt, nhưng bằng tình yêu tha
thiết. Tình yêu của Người được biểu lộ qua ba khía cạnh: hiểu biết, quan tâm
chăm sóc và hy sinh cho đoàn chiên.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hiểu biết. Sự hiểu biết này không phát xuất từ lý trí, do học hỏi, nhưng phát xuất từ
trái tim, do tình yêu. Khi yêu, trái tim trở nên vô cùng nhậy bén đến độ hiểu
được hết những âm thanh của tâm hồn và tai người thường không nghe thấy, nhìn
thấy hết những gì ẩn kín trong tâm hồn mà mắt thường không nhìn thấy, cảm nhận
được hết những chiều sâu thăm thẳm của tâm hồn mà không một nhà tâm lý học nào
có thể cảm được. Khi Đức Giêsu nói: “Ta biết chiên Ta” có nghĩa là Người hiểu
biết từng người trong chúng ta. Người không chỉ hiểu rõ hoàn cảnh sinh sống của
chúng ta, mà còn thấu rõ tâm tư tình cảm của ta. Người biết những gánh nặng mà
ta đang phải gánh. Người thông cảm với những đau đớn mà ta đang phải chịu. Người
đau những nỗi đau trong tâm hồn ta. Người khổ những nỗi khổ đang dày vò ta. Người
nhức nhối trong vết thương của tâm hồn ta.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu quan tâm chăm sóc. Sự hiểu biết sâu xa đến từ sự quan tâm chăm sóc. Sự quan tâm chăm sóc
cũng phát xuất từ tình yêu. Có yêu mới quan tâm. Có quan tâm mới hiểu biết nhu
cầu. Có hiểu biết nhu cầu mới biết đường chăm sóc. Đức Giêsu yêu thương ta nên
Người quan tâm đến ta. Người biết rõ những nhu cầu của ta. Người chăm sóc ta.
Có những tình yêu muốn chiếm hữu. Đó là thứ tình yêu ích kỷ. Có những chăm sóc
khiến ta trở nên ấu trĩ, yếu ớt, không lớn lên được. Đó là thứ chăm sóc độc
đoán ràng buộc. Đức Giêsu chăm sóc không phải để ràng buộc ta nhưng để giúp ta
sống trong tự do. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên ấu trĩ, nhưng là để
giúp ta trưởng thành. Người chăm sóc ta không phải để ta trở nên yếu ớt nhút
nhát, nhưng là để giúp ta mạnh mẽ, tự tin. Vì thế, Nguơì cung cấp cho ta những
lương thực lành mạnh. Người đưa ta đến những đồng cỏ non, đến những giòng suối
trong. Lương thực Người mang đến, đó là Lời Chúa, là Mình Máu Thánh Chúa, là
Thánh ý Chúa Cha. Những lương thực ấy sẽ cho ta được sống và sống dồi dào.
Tình yêu của Đức Giêsu là tình yêu hy sinh. Đây chính là dấu chỉ chắc chắn nhất của một tình yêu. Càng yêu mến nhiều
càng sẵn sàng hy sinh nhiều. Yêu đến sẵn sàng hy sinh mạng sống là một tình yêu
cao cả không có gì sánh được. Đức Giêsu đã xác nhận điều ấy khi Người nói:
“Không có tình yêu nào lớn lao hơn tình yêu của người dám hy sinh mạng sống
mình cho bạn hữu” (Ga 15,13). Chính Người đã thực hiện điều ấy. Người là Mục tử
nhân lành sẵn sàng liều mạng, một mình chống lại sói dữ để bảo vệ đoàn chiên.
Người đã tự hiến mạng sống vì ta. Người đã chấp nhận chết đi để ta được sống.
Hạnh phúc cho ta được là đoàn chiên của Người. Ta được an ủi vì Người hiểu ta. Ta an tâm vì Người hằng quan tâm chăm sóc
ta. Ta sung sướng vì Người yêu thương đến nỗi chết vì ta.
Người muốn ta chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người. Người muốn ta lớn mạnh để đến lượt ta, chính ta trở thành mục tử nhân
lành theo gương Người. Cha mẹ là mục tử của con cái. Thày cô giáo là mục tử của
học sinh. Giám đốc là mục tử của công nhân. Y bác sĩ là mục tử của bệnh nhân.
Anh chị lớn là mục tử của các em nhỏ.
Nhưng đặc biệt hơn hết, Người muốn có những người tiếp tục
công việc của Người, chăm sóc đời sống tâm linh nhân loại. Chính vì thế,
Giáo Hội dành ngày hôm nay để cầu nguyện cho ơn kêu gọi làm linh mục. Nhìn tình
hình chung trên toàn thế giới, và riêng trong Giáo phận, ta thấy còn thiếu rất
nhiều linh mục. Giáo dân cần linh mục như bệnh nhân cần bác sĩ. Giáo dân cần
linh mục như học sinh cần thầy cô giáo. Giáo dân cần linh mục như một người bạn
sẵn sàng cảm thông, chia sẻ vui buồn trong đời sống và như một người bạn đồng
hành giúp đỡ trong cuộc hành trình tiến về đời sau.
Hãy cầu nguyện cho có nhiều thanh niên sẵn sàng hiến
thân làm linh mục. Hãy khuyến khích con cháu dâng mình cho Chúa, làm linh mục để
phục vụ anh em. Nhất là hãy cầu nguyện cho các linh mục được trở nên những mục
tử như Đức Giêsu, vị Mục Tử nhân lành, biết yêu thương phục vụ đoàn chiên, hiểu
biết tâm tư tình cảm của từng người, quan tâm chăm sóc từng con chiên và sẵn
sàng hy sinh bản thân vì lợi ích của đoàn chiên.
Lạy Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành, xin hãy ban cho
chúng con nhiều mục tử tốt lành theo gương Chúa. Xin biến chúng con thành những
mục tử tốt lành trong gia đình, trong khu phố, trong xã hội. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1-
Đức Giêsu hướng dẫn đoàn chiên bằng cách nào? Bằng
quyền lực hay bằng tình yêu thương?
2-
Hãy kể ra những đặc tính của tình yêu của Đức Kitô.
3-
Bạn có cảm thấy trách nhiệm là mục tử của mình
không? Bạn đã đối xử với đoàn chiên của mình thế nào?
4-
Bạn nghĩ gì về đời sống tu trì? Bạn có cầu nguyện
cho cha Xứ của bạn không?
4. Mục tử nhân lành.
Suy Niệm
Mục tử và đàn chiên trên đồng cỏ là một hình ảnh quen thuộc đối với người
Palestine . Giữa
người và chiên có một mối tương quan mật thiết. Ở đây Đức Giêsu tự ví mình như
người mục tử.
Mục tử nhân lành khác với người chăn thuê, vì dám hy sinh mạng sống mình
cho đoàn chiên, chứ không bỏ chiên mà chạy khi gặp sói dữ.
Hội Thánh là đoàn chiên của Đức Giêsu Kitô. Giữa Ngài và từng con chiên,
có mối dây gắn bó. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, như Cha biết
tôi và tôi biết Cha. Đây là cái biết sâu thẳm, cái biết hai chiều.
Chiên không phải là một con vật ngờ nghệch, thụ động. Chiên là hình ảnh
của một ngôi vị tự do.
Vị Mục Tử gọi tên từng con bằng giọng quen thuộc. Chiên nghe tiếng của
Ngài và đi theo. Như thế giữa Mục Tử và đoàn chiên có sự hiểu biết nhau sâu xa,
nhận ra nhau dễ dàng, và một sự trân trọng quý mến nhau đặc biệt.
Sau Phục Sinh, Đức Giêsu đã giao cho Phêrô sứ mạng chăn dắt và chăm sóc
đoàn chiên của Ngài. Sứ mạng này bắt nguồn từ một tình yêu. Yêu mến Ngài dẫn đến
yêu mến đoàn chiên Ngài. Đức Giêsu là Mục Tử tối cao và gương mẫu.
Mọi mục tử khác chỉ là phụ tá giúp chăn dắt đoàn chiên của Ngài. Mọi mục
tử phải noi gương Ngài, dám chết để cho chiên được sống.
Hội Thánh dành Chúa Nhật hôm nay để cầu cho ơn thiên triệu. Chúa Giêsu vẫn
cần những người tiếp nối công việc của Ngài, để lo cho đoàn chiên trên thế giới.
Các bạn trẻ khi lớn lên thường lập gia đình. Điều đó thật là tốt đẹp. Nhưng
Chúa Giêsu vẫn muốn một số bạn trẻ ở bên Ngài cách đặc biệt để được Ngài sai
đi. Họ chấp nhận hy sinh quyền được lập một tổ ấm, để có thể yêu mãnh liệt hơn
và bao la hơn.
Tiếng gọi của Chúa vẫn vang lên ở ngay nơi lời nài xin của con người. Những
người đói khát Lời Chúa, đói khát tình thương, đói khát bánh ăn, đói khát ý
nghĩa cuộc sống. Khước từ tiếng kêu của con người là khước từ tiếng Chúa.
Chúa Giêsu mời các bạn trẻ nhìn thấy đám đông bơ vơ. Những người bệnh hoạn
tật nguyền, những trẻ em đường phố, những người lầm lỡ, tự đặt mình ở bên lề xã
hội... Thấy họ bằng trái tim và để cho tim mình đáp trả.
Tạ ơn Chúa đã cho Hội Thánh 408.024 linh mục (Niên giám Toà Thánh năm
2007). Nhưng đồng lúa chín vàng vẫn cần nhiều thợ gặt, tận tụy hơn, thanh khiết
hơn, vô vị lợi hơn. Có thể chính bạn được Chúa bất ngờ mời gọi để đứng trong đội
ngũ những người phục vụ đó!
Gợi Ý Chia Sẻ
· Bạn nghĩ gì về cuộc
sống của các linh mục và tu sĩ ở vùng bạn sống? Các vị ấy đã làm gì và còn phải
làm gì cho dân Chúa?
· Theo ý bạn, cuộc sống
thực dụng hôm nay có làm cho ít người muốn đi tu không? Đi tu có phải là làm một
việc khác thường hay bất thường không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim thuộc
trọn về Chúa, nên cũng thuộc trọn về con người.
Xin cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu bằng tình yêu hiến
dâng, một trái tim đủ lớn để chứa được mọi người và từng người, nhất là những
ai nghèo khổ, bị bỏ rơi.
Xin cho chúng con những linh mục biết cầu nguyện, có tình bạn thân thiết
với Chúa để các ngài giới thiệu Chúa cho chúng con.
Xin cho chúng con những linh mục thánh thiện, có thể nuôi chúng con bằng
tấm bánh thơm tho, tấm bánh Lời Chúa và Mình Chúa.
Cuối cùng, xin cho chúng con những linh mục có trái tim của Chúa, say mê
Thiên Chúa và say mê con người, hy sinh đời mình để bảo vệ đoàn chiên và dẫn
đưa chúng con đến với Chúa là Nguồn Sống thật.
5. Những con đường hy vọng – Rolland Dionne.
Xưa kia, người ta đã cầu nguyện cho các ơn gọi, và lúc ấy môi trường Kitô
thuận lợi cho các ơn gọi. Cha mẹ hãnh diện dâng con cái cho Chúa. Sự trung
thành không bị nghi ngờ, người ta dễ dấn thân trọn đời. Không thiếu cách tuyên
truyền để khơi dậy các ơn gọi. Ngày nay, người ta ít cầu cho ơn gọi hơn. Ơn gọi
rất hiếm hoi. Các gia đình có ít con cái hơn. Những năm về sau này, nhiều trường
hợp bỏ đời tu đã gây nên nghi ngờ đối với khả năng có thể triển nở trong việc
phục vụ Chúa. Có bao nhiêu lý do giải thích sự thiếu hăng hái trong việc chiêu
sinh.
Đâu là điều gì chúng ta phải quan tâm suy nghĩ trong ngày Chúa nhật cầu
cho ơn gọi này? Đâu là những đường hướng cho tương lai? Người ta còn tin vào ơn
gọi nữa không?
Đón tiếp giới trẻ.
Chúng ta đều biết đến những vấn đề của các thế hệ. Ta biết tất cả những
nỗi khó khăn mà giới trẻ gặp trong việc tìm chỗ đứng của mình. Tuy nhiên, ta
cũng biết rằng tương lai của Giáo Hội là giới trẻ. Đó là một giới trẻ còn có khả
năng sống quảng đại và dấn thân, nhưng đòi hỏi ta phải tin tưởng nơi họ. Trong
các chuyến viếng thăm của Ngài, Đức Giáo Hoàng đã cho chúng ta một gương mẫu về
sự tin tưởng nơi giới trẻ. Người lắng nghe họ. Ngài nói với họ: “Các bạn là
Giáo Hội… Các bạn có chỗ đứng của các bạn trong Giáo Hội… Đừng chờ người ta cho
bạn chỗ đứng ấy. Hãy nắm lấy nó…” Không đón tiếp giới trẻ như thế, làm sao có
ơn gọi được?
Chứng tá của những
người lớn.
Từ vài năm nay, chứng tá đó mất đi giá trị bởi nhiều vụ cởi áo ra đi
trong Giáo Hội của chúng ta. Giới trẻ đã trở thành người đa nghi. Ai lại liều
mình dấn thân vào một cuộc sống không có hạnh phúc hoặc khó thể hiện chính
mình.
Cách đây hai năm, một giám mục thành thật thú nhận với một vị khách rằng
điều đã ảnh hưởng nhất đến các chủng sinh trẻ trong sự lựa chọn của họ, chính
là niềm hạnh phúc giãi tỏa ra nơi cuộc sống của các linh mục cao niên. Một cuộc
sống như thế vẫn là cách quảng cáo tốt nhất cho ơn gọi làm linh mục. Kẻ vui
thích trong một bậc sống sẽ làm cho kẻ khác ưa thích bậc sống ấy.
Đồng hành với giới
trẻ.
Ngày xưa người ta săn sóc giới trẻ như một cây non. Người ta chăm nom
cho sự phát triển của họ. Người ta ân cần lo toan cho họ. Họ lớn lên về sức lực
và vẻ đẹp. Ngày nay, có bao nhiêu người trẻ sống trong cô đơn và trong những
gia đình thiếu vắng tình thương, họ gần như cây thiếu nước và không khí, họ èo
uột. Việc đồng hành với giới trẻ trở nên cần thiết. Họ cần gặp Chúa nơi một người
đồng hành.
Tin vào những tiếng
gọi của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu tiếp tục gọi. Những lời mời gọi của Ngài cũng vẫn quyến rũ và
đầy hứa hẹn cho tương lai. Chúng ta có quan tâm đủ để trình bày cho giới trẻ
tương lai được chứa đựng trong những câu đáp đẹp đẽ của những kẻ Ngài đã gọi
không? Câu đáp trả của Phêrô và Andrê em ông: “Và tức khắc, bỏ lưới, họ đi theo
Ngài” (Mt 4,20). Câu đáp của Lêvi, người thu thuế: “Từ bỏ mọi sự, ông đứng dậy
và theo Ngài” (Lc 5,28).
Chúng ta có trách nhiệm giới thiệu cho giới trẻ kinh nghiệm về Thiên
Chúa. Lời mời gọi này đã thu hút bao nhiêu người nam, người nữ vẫn còn có thể
lôi cuốn giới trẻ.
Tin tưởng vào việc
cầu nguyện.
Việc cầu nguyện xem ra như là ít được thực hiện hơn xưa kia: “Hãy xin
thì sẽ được”. Có lẽ tất cả những cuộc khủng hoảng mà chúng ta đã trải qua và những
nẻo đường mới mẻ mà người ta phải tìm kiếm đều làm cho chúng ta quên cầu nguyện
cho ơn gọi. Chúa nhật cầu nguyện cho ơn gọi nhắc nhở chúng ta về công việc cấp
bách này.
6. Trục nhìn của chúng ta.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Chúng ta khó biết được mức sâu đậm của chất “thực” ẩn dưới hình ảnh “chủ
chiên” trong sự so sánh của Chúa Giêsu. Ngày nay không còn thấy cảnh những mục
đồng hòa mình với đàn chiên nữa. Đám đông nghe Chúa giảng dạy có một não trạng
thấm nhuần lịch sử tổ tiên họ. Abraham và những tổ phụ khác sống một đời du mục
bị chi phối bởi sự tìm kiếm đồng cỏ gia súc, các ông sống giữa đàn chiên mình,
biết rõ từng chiên một, và chiên cũng biết rõ chủ của chúng. Khi xưng mình là
Chúa chiên lành, Chúa Giêsu biết rằng đám đông hiểu Người. Chúa đưa ra một sự
so sánh hoàn toàn phù hợp với tâm lý thính giả. Nền văn mình chúng ta biết đến
một loại bầy lũ khác, đó là bầy xe hơi vô trật tự, là lũ người đông như kiến
trong các thành thị. Giả sử Chúa sống ở thế gian ngày nay, chắc hẳn là Người sẽ
dùng một hình ảnh so sánh khác để nói với chúng ta, nhưng giáo huấn của Nguòi
cũng sẽ như xưa mà thôi. Chúa Giêsu dạy chúng ta điều gì?
1) Trước hết, dạy
chúng ta biết đến một sự hiện diện. Chúa hiện diện giữa thế giới như người chủ
chăn sống lẫn với đàn chiên mình. Một trong những đặc tính của chủ chăn là tham
gia đời sống đàn chiên, chủ và chiên nên như một: Chủ chiên không đứng ngoài
đàn, nhưng dẫn đầu đàn chiên. Xuyên qua sự so sánh Chúa muốn cho người ta hiểu
rằng Người có mặt trong nhân loại và dẫn dắt nhân loại. Không một ai ở bất cứ
thời nào lọt ra ngoài cặp mắt cảnh giác chăm nom của Đấng muốn chăn dắt y tới
chốn mà y sẽ tìm ra lương thực và an toàn. Lương thực cho tâm trí, cho trí tuệ
và ý chí, cho cơ thể nữa –đó là mối quan tâm chiếu cố luôn luôn sẵn sàng của
Chúa đối với con người ngày nay. Tuy nhiên muốn được chăm nom thì phải thỏa mãn
một điều kiện: con người phải chấp nhận làm thành viên, nhất là do đức tin, của
“bày chiên” mà Đức Kitô là Chúa chiên lành.
2) Ta biết chiên
Ta… như Cha biết Ta. Ở đây chúng ta vào một lĩnh vực của linh hồn
trong đó ẩn náu cái nhu cầu sâu kín nhất của con người. Thật vậy, bởi đâu con
người đau khổ nhất? Đau khổ vì cảm thấy mình cô đơn: Không một tình thương mến
nào, không một trực giác nào, không một sự chăm sóc nào có thể đi vào tâm khảm
của bản thể chúng ta. Trong lương tri chúng ta có một trung khu, nơi đây không
một ai (kể cả chính ta nữa) được quyền vào sâu, và ở trong trung khu đó, chúng
ta cảm thấy lẻ loi cô quạnh. Những ngành khoa học nhân văn, nhất là khoa tâm lý
học, cố gắng tìm hiểu những cơ chế âm u của vô thức. Cho dù những khoa đó đạt
được kết quả thì vẫn còn đó cái lối cá biệt không sao phân tích được, trong cái
nhân ấy con người cảm thấy vấn đề của mình –với số mệnh mình. Con người đau khổ
và không được ai hiểu biết mình đến tận cùng nội tâm.
Thế mà, này đây Chúa nói Chúa hiểu biết con người như Cha hiểu biết Con.
Như Cha biết Ta, nghĩa là Chúa biết rõ con người bằng một sự hiểu biết trực tiếp
vào sâu tới chỗ tận cùng tâm khảm giữa Cha và Con có một sự hiểu biết tương
giao toàn diện, hiểu tới tận cùng. Chúa hiểu biết tới đáy lòng con người. Chúa
làm cho con người hết lẻ loi. Nếu tôi tự hỏi lòng thì tôi biết rằng có một Đấng
biết rõ tâm khảm tôi, vào sâu trong tôi, hiểu tôi, và –đây là một niềm an tâm
tuyệt đỉnh- Người xét đoán tôi, không phải để lên án, nhưng là để cứu vớt tôi,
vì Người thương tôi.
Có một hệ quả (trong số biết bao hệ quả): chúng ta có nhậy cảm không, đối
với nỗi cô đơn của những người anh em ở quanh ta? Họ sẽ cảm thấy được chúng ta
hiểu biết họ đôi chút, do đó thấy vơi đi được một ít nỗi buồn lẻ loi cô quạnh.
Nếu như chúng ta cố hiểu họ như Chúa hiểu họ, nghĩa là nếu chúng ta đứng vào
đúng trục nhìn của đôi mắt yêu thương Chúa Giêsu hướng thẳng về họ.
7. Hiến mạng cho chiên.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tháng 3 năm 1980 Đức
cha Rômêrô, Tổng Giám Mục San Salvador ở Trung Mỹ đã cương quyết lên tiếng phản
đối chính phủ vi phạm nhân quyền, vì đã ủng hộ giới địa chủ và đại tư sản áp bức
bóc lột nông dân. Người dân ở đây tuyệt đại đa số là người Công Giáo (98%). Đức
cha đã đứng về phía nông dân để bênh vực quyền lợi cho họ, dù biết rằng hành động
của ngài có thể đưa ngài đến chỗ bị cầm tù và cái chết nữa. Nhưng, giống như
Chúa Giêsu, Người Mục Tử nhân lành, Ngài sẵn sàng hiến mạng sống cho đàn chiên
được sống và sống dồi dào, vì tin rằng đó là thực hiện ý muốn của Thiên Chúa.
Ngày 24/3/1980, một
tay súng bắn thuê đã hạ sát Đức cha Rômêrô trong lúc ngài đang cử hành Thánh Lễ
với giáo dân, đàn chiên của Giáo phận ngài chăm sóc.
Ngày xưa, ở Palestin, đề tài người mục tử xả thân cho đàn chiên là một
nguồn hứng khởi cho các văn sĩ Kinh Thánh, khiến họ mô tả Thiên Chúa như một Mục
Tử. Thiên Chúa đã xả thân cho Israel không khác gì người mục tử, vì thế tác giả
Thánh Kinh đã hát lên:
“Chúa
là Mục Tử chăn dắt tôi,
Tôi
chẳng thiếu thốn gì…
Dầu
qua lũng âm u,
Tôi
sợ gì nguy khốn,
Vì
có Chúa ở cùng..”
Từ đó các nhà lãnh đạo tôn giáo của Israel thay mặt Chúa ở trần gian,
cũng được ví như các vị mục tử. Tiếc thay, theo thời gian, vai trò lãnh đạo tôn
giáo của Israel
đã bị thoái hoá. Vào thời kỳ ấy, Ngôn sứ Ezekiel đã nhân danh Chúa cảnh cáo các
vị mục tử này: “Hỡi các mục tử của Israel , các ngươi đã bị băng hoại rồi:
các người chỉ biết lo cho bản thân mình chứ chẳng hề nghĩ đến đàn chiên. Các
ngươi chẳng chăm sóc những con yếu đuối, chữa lành những con bệnh tật, băng bó
những bị thương tích, dẫn về những con lạc đường, hoặc tìm kiếm hững con lạc mất.
Vậy hỡi các chủ chăn, hãy nghe đây, Ta, Vị Chủ Tế Tối Cao, Ta tuyên bố rằng… Ta
sẽ tách đàn chiên ra khỏi các ngươi… Ta sẽ giao đàn chiên cho một Vị Vua, giống
như Đavít, tôi tớ Ta để làm Mục Tử và Người ấy sẽ lo lắng chăm sóc cho đàn
chiên” (Ez 34,2-4,9-10.23).
Chúng ta phải đọc Tin Mừng hôm nay trong bối cảnh này. Chúa
Giêsu nói: “Tôi chính là người mục tử nhân lành, sẵn sàng hy sinh mạng sống vì
đàn chiên… Chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên và một chủ
chiên”. Nói cách khác, Chúa Giêsu chính là nhân vật mà Ngôn sứ Ezêkiel
đã tiên báo. Giống như Đavít, người Mục Tử nhân lành, Ngài chăm sóc những con
chiên yếu đuối, bơ vơ, chữa lành những con bệnh tật và tìm kiếm những con lạc
đường. Hơn nữa, Ngài hiến mạng sống cho đàn chiên của Ngài. Lại còn hơn thế nữa,
Ngài đã sống lại từ cõi chết và chia sẻ sự sống Phục Sinh của Ngài cho đàn
chiên. Đây chính là điều Thánh Gioan đã nói trong bài đọc 2 hôm nay: “Nhờ sự chết
và sống lại của Chúa Kitô, không những chúng ta được ơn tha thứ tội lỗi, được cứu
thoát mà còn được nên giống như Thiên Chúa, được đồng vinh quang với Thiên Chúa
nữa”. Và trong bài đọc 1, Thánh Phêrô cũng quả quyết trước công nghị: “Không có
Đấng Cứu Độ nào khác ngoài Đức Giêsu. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, vì dười bầu
trời này, ơn cứu độ không gặp được ở một ai khác”.
Như thế, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa Kitô, chúng ta hiểu được ý
nghĩa của dụ ngôn người Mục Tử nhân lành một cách sâu xa hơn: Chúa Kitô đã chết
và đã sống lại, ngài đã cứu chúng ta là đàn chiên của Ngài khỏi phải chết. Ngài
đang hiện diện giữa thế giới chúng ta để tập họp chúng ta lại thành một đàn
chiên của Ngài và ban cho chúng ta sự sống đời đời, để chiên của Ngài nghe tiếng
Ngài, đi theo Ngài, thì “ không bao giờ phải diệt vong, không ai có thể giựt khỏi
tay Ngài được”(Ga 10,28).
Chúa Nhật hôm nay được chọn làm ngày thế giới cầu nguyện cho ơn gọi Linh
mục, Tu sĩ. Cầu nguyện và hoạt động để có nhiều, có thêm số các mục tử. Làm mục
tử là chăn dắt với Chúa Kitô, phụ một tay cho Chúa Kitô, chia sẻ công việc chăn
dắt của chính Chúa Kitô. Chỉ có Chúa Kitô là Mục Tử nhân lành duy nhất, còn các
mục tử khác chỉ là thay mặt Ngài mà chăn dắt đàn chiên của Chúa. Hơn nữa người
mục tử vẫn là chiên của Chúa Kitô, cũng phải được chính Chúa Kitô chăn dắt. Như
thế, không phải chỉ có các giám mục, linh mục mới là mục tử, nhưng mọi tín hữu
cũng là “mục tử” theo gương người Mục Tử nhân lành là Chúa Kitô, vì Ngài đã
trao phó trách nhiệm chăn dắt đàn chiên cho chúng ta, cho từng người tín hữu
trong phạm vi, trong lãnh vực của mình. Dù là giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ
hay giáo dân, tất cả chúng ta đều có trách nhiệm về những người chung quanh, và
do đó, chúng ta là “mục tử” trong mức độ trách nhiệm của chúng ta: cha mẹ có
trách nhiệm với lợi ích thể xác và tinh thần của con cái; các thành viên trong
gia đình có trách nhiệm với nhau. Các thầy, cô có trách nhiệm với các học sinh ở
trường, lớp. Các viên chức từ xã đến chủ tịch hay tổng thống đều có trách nhiệm
nặng nề với nhân dân. Cũng thế, cha sở có trách nhiệm vơí mọi người trong họ đạo,
gồm cả người chưa tin, người trễ nãi, người bỏ đạo. Các tu sĩ nam nữ phụ trách
các cộng đoàn lớn nhỏ đều có trách nhiệm với các thành viên của cộng đoàn và
các thành viên của cộng đoàn giáo xứ, dòng tu, cũng có trách nhiệm với nhau. Đức
Giám Mục cũng có trách nhiệm với mỗi người trong giáo phận của ngài. Đức Giáo
Hoàng có trách nhiệm trên toàn thế giới. Trách nhiệm vô cùng nặng nề!
Và vì là mục tử, chúng ta phải biết đến nhu cầu của người khác. Biết
nhìn, biết chăm lo, biết dấn thân phục vụ đến độ sẵn sàng thí mạng sống cho anh
em theo gương người Mục Tử nhân lành, như Đức Tổng Giám Mục Rômêrô đã hiến mạng
sống cho giáo dân trong Giáo phận San Salvador của ngài. Với ý thức trách nhiệm
mục tử, người tín hữu không còn sống cho riêng mình nữa, không còn được phép
mưu lợi cho cá nhân mình nữa. Là Kitô hữu, linh mục, tu sĩ hay giáo dân, tôi phải
là mục tử, tôi phải chăn dắt đàn chiên Chúa giao phó cho tôi: gia đình tôi, cộng
đoàn tôi, giáo xứ tôi, giáo phận tôi, đồng nghiệp, đồng bào tôi. Có hoàn thành
trách nhiệm chăn dắt theo ý Chúa, tôi mới tìm được hạnh phúc đích thực hoàn
toàn.
Anh chị em hiệp ý với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hãy cầu xin cho các
kitô hữu thực sự là đàn chiên của Chúa, đồng thời là mục tử theo gương Chúa
Kitô, trong khi thi hành chức vụ của mình, và cho Giáo Hội có thêm nhiều người
biết dấn thân theo lời mời gọi của Chúa, trở nên những mục tử nhiệt thành, biết
quên mình phục vụ đàn chiên. Với tâm tình này, chúng ta dâng Thánh Lễ như tiến
vào đồng cỏ xanh tươi, suối nước mát trong, để được nuôi dưỡng bằng chính Mình
Máu Chúa Kitô và được hạnh phúc sống dưới sự chăn dắt chở che của Ngài.
8. “Ta Là Mục Tử Tốt Lành” – Noel Quesson.
“…Người
mục tử tốt lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”.
Trên một tờ báo y
học ở Achentina, bác sĩ Gioan Coóctê (Jean Cortez) đã kể một trường hợp đặc biệt
chính ông chứng kiến. Ông chữa bệnh cho một bé gái tên là Angien. Bé Angien bị
ung thư bao tử, một bệnh ít khi xảy tới cho người trẻ tuổi. Sau mấy lần giải phẫu
và điều trị đủ cách, ông đành báo tin buồn cho bà mẹ rằng ông chịu bó tay, bé
Angien đã chết.
Mẹ em bé, bà Maria
gần như hoá điên trước tin này. Bà không cho ai đụng tới thi thể con gái và quì
cầu nguyện lâu giờ bên giường em. Bác sĩ Cortez nghe bà cầu xin Chúa để bà chết
thay cho con. Ông rất cảm động, làm hiệu cho mọi người ra ngoài để bà mẹ một
mình với con. Lúc trở lại, ông bỡ ngỡ thấy em Angien đứng bên giường, dáng vẻ rạng
rỡ khoẻ mạnh. Còn bà mẹ gục đầu trên giường và thều thào với bác sĩ Cortez:
Thưa bác sĩ, Chúa đã nhận lời tôi. Bác sĩ Cortez cho làm mọi loại thử nghiệm và
thấy em Angien đã hoàn toàn khoẻ mạnh không còn dấu vết đau ốm nào. Còn bà
Maria thì đang hấp hối vì bệnh ung thư bao tử, căn bệnh mà con gái bà đã mắc từ
hai năm nay. Các thân nhân xúm quanh bà mẹ, an ủi bà và hứa chăm sóc bé Angien
chu đáo. Vài giờ sau, bà tắt thở. Bác sĩ Gioan Coóctê kết luận: “Tôi không thể
giải thích chuyện này vì rõ ràng em bé đã chết. Một nguồn lực siêu nhiên đã chứng
giám và can thiệp vào tình mẫu tử mạnh mẽ của bà mẹ”.
Tình mẫu tử khiến
bà Maria sẵn sàng chết thay con. Người ta lý giải cường độ mạnh mẽ của tình mẫu
tử là vì chính bà mẹ đã chia sẻ cuộc sống cho con. Hai mẹ con dường như chỉ có
một sự sống duy nhất. Và Chúa Giêsu đã muốn dùng hình thức sự sống này để
diễn ta mối liên kết giữa Chúa với mọi người chúng ta. Người diễn tả ý này bằng
nhiều cách: “Ta là bánh sự sống; Ta là ánh sáng thế gian; Ta là cửa; Ta là Mục
tử nhân lành; Ta là cây nho; Ta là sự sống lại và là sự sống”. Còn chúng ta là
con người được nuôi dưỡng bắng bánh sự sống, chúng ta là chiên, là cành nho, được
thông ban sự sống của Chúa. Vì thế, Người sẵn sàng chết để cứu độ chúng ta.
Lời lẽ của Chúa hoàn toàn khác biệt với bất cứ một người sáng lập học
thuyết, tôn giáo nào. Kiểu nói làm ta nghĩ tới Thiên Chúa, Đấng mạc khải tên
mình cho Môi-sê; Đấng đã phán từ bụi gai bừng cháy; Ta là Đấng tự hữu.
Danh hiệu Người Mục tử đã thành cổ điển trong mọi nền văn hoá Đông
phương. Chúa là Mục tử chân chính, khác hẳn những người chăn thuê, làm mướn. Vì
chỉ có Mục tử chân chính mới sẵn sàng hiến mạng vì chiên. Chúa đã thực hiện điều
này để chúng ta thấy rõ Tình Yêu của Người, thấy rằng Chúa là Mục tử duy nhất
chân thực, vị Mục tử nhân lành đã hy sinh mọi thứ vì đàn chiên, kể cả tài sản
quý hoá nhất, đó là mạng sống mình, nhất nữa đó lại là mạng sống của Chúa, mạng
sống mà Chúa tự nguyện hy sinh. Cái chết của Chúa không phải bất ngờ, không phải
chịu thua bạo lực, nhưng là một hiến ban hoàn toàn ý thức và tự do. Chúa chết
như một hành động yêu thương… Một Tình Yêu tột đỉnh (Ga 13,1; 15,13)
Chúa là Mục tử thực, Chúa biết rõ các chiên và các chiên biết Chúa. Hiểu
biết này không phải chỉ là nhận thức, nhưng là thấu hiểu, là chia sẻ cuộc sống.
Một hiểu biết ở mức độ chặt chẽ nhất, cao thượng nhất: Như Cha biết Ta và Ta biết
Cha. Tình thân giữa Chúa với những người được Chúa cứu chuộc bằng cái chết của
Người cũng chính là tình thân mật giữa các ngôi vị Thiên Chúa, và chúng ta được
thông hiệp trong sự sống, trong tình yêu của Thiên Chúa cao cả.
Kinh Thánh dùng từ ngữ đoàn chiên để nói về dân Israel : Chúa
Giêsu đã mở rộng từ này tới một giới hạn vô tận: Ta còn nhiều chiên khác ngoài
đàn, Ta phải đem tất cả về, và sẽ chỉ còn một đoàn chiên, một Mục tử. Chúng ta
có sứ mệnh cùng Chúa thực hiện mục tiêu của tình yêu lớn lao cao cả đó.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con là những người cộng tác với Chúa, được chu
toàn nghĩa vụ loan báo Tin Mừng cứu độ cho cả những chiên ngoài đàn như lòng
Chúa ước mong.
9. Mục tử thật - mục tử giả.
(Suy niệm của Lm. Tạ Duy Tuyền)
Xã hội hôm nay thật lắm chuyện thị phi! Cuộc đời cứ như: "Vàng thau
lẫn lộn". Hàng thật hàng giả đã khó phân biệt mà người tốt, người xấu càng
khó phân biệt hơn. Có những mặt hàng giả mà như thật. Có người phải ngậm đắng
nuốt cay khi bỏ tiền mua hàng thật nhưng lại phải lấy đồ giả. Có người vì cả
tin nghe người nên bị lừađến thân bại danh liệt. Kẻ bị lừa tình mà ôm hận suốtđời.
Kẻ bị lừa tiền mà tan hoang cửa nhà. Có kẻ giảnhân giả nghĩa để đánh lừa đồng
loại và vun quén cho bản thân. Kẻ thất đức lại sống trên nhung lụa. Người công
chính phải tù tội lầm than vẫn còn đó trong kiếp người hôm nay. Đó là kết quả tất
yếu của chủ nghĩa thực dụng. Đặt quyền lợi cá nhân lên trên lợi ích tập thể.
Con người lấy mình làm trung tâm nên mọi sự đều quy về mình. Tìm hạnh phúc cho
mình. Tìm vinh danh cho mình. Vì hạnh phúc của mình nên sẵn sàng bỏ rơi đồng loại,
cho dù đó là cha, là mẹ, cho dù đó là vợ chồng hay con cái. Sự thật phũ phàng
đó đang là căn bệnh trầm kha của xã hội hôm nay.
Có biết bao cha mẹ đã đang tâm giết các thai nhi vì sợ đứa con sinh ra sẽ
thêm phần ăn, thêm gánh nặng cho gia đình. Có biết bao vợ chồng đã đứt gánh giữa
đường chỉ vì một mối tình riêng, một quan hệ bất chính. Có biết bao người con
đã bỏ rơi cha mẹ trong đói khổ, già yếu, bệnh tật vì còn phải lo cho chính bản
thân mình.
Xem ra thế giới hôm nay đang thiếu dần hai chữ hy sinh. Không có hy sinh
làm sao có ân nghĩa. Không có ân tình, ân nghĩa, nên người ta đâu cần hy sinh
và đối xử tốt với nhau. Câu chuyện "Anh phải sống" của Khái Hưng
không còn là văn học phản ánh hiện thực xã hội hôm nay nữa! Nó chỉ còn là huyền
thoại, một dĩ vãng đã qua.
Chuyện kể rằng: có
hai vợ chồng trẻ đi đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi
trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước trở về. Thình
lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một
dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bể vỡ tan tành.
Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi
phút giây trôi qua lại ồ ạt và mạnh mẽ. Sức lực của chồng xem ra càng đuối dần
khi phải gồng mình để thoát thân và cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng
đã cạn kiệt, nên đành buông tay ra để mặc cho dỏng nước lũ cuốn trôi, chỉ kịp
gào thét trong mưa giông và nước lũ: "anh phải sống đểnuôi nấng đàn
con".
Tác phẩm "Anh phải sống" đã một thời đi vào lòng người, vì nó
phản ánh quá trung thực về tình yêu của những con người dám hy sinh cho gia
đình, cho xóm ngõ, cho dân tộc. Nhưng xem ra, tác phẩm này không còn chỗ đứng
trong xã hội hôm nay. Vì giá trị con người hôm qua được đo bằng tấm lòng biết xả
thân vì đồng loại, biết quên mình vì giađình, vì dân tộc, còn giá trị của con
người hôm nayđược cân nhắc bằng tiền bạc và địa vị. Người càng có lắm tiền nhiều
của càng được kính trọng, nể vì. Người càng có địa vị cao càng có nhiều kẻ hầu
người hạ. Có mấy ai dùng quyền để phục vụ vô vị lợi cho tha nhân? Có mấy ai
dùng tiền để mua lấy tình bạn? Thế giới đã đổi thay! Cách sống cũng đổi thay.
Con người chạy theo lợi nhuận. Mọi quan hệ, mọi việc làm đều được căn nhắc thiệt
hơn. Vì quyền lợi của mình mà bỏ rơi đồng loại. Vì lợi ích của mình mà chà đạp
lên danh dự, nhân phẩm người khác. Lòng đại nghĩa hy sinh đã bị chôn vùi khi đặt
quyền lợi mình trên lợi ích của anh em.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cái nhìn tương phản của hai loại mục tử. Mục tử
thật và mục tử giả. Mục tử thật luôn hết mình vì đàn chiên. Mục tử giả
chỉ lo vun quén cho bản thân. Mục tử thật thì hy sinh cho đàn chiên. Mục tửgiả
chỉ đến để xén lông chiên. Mục tử thật luôn tìm kiếm nguồn nước và đồng cỏ xanh
tươi cho đàn chiên nođầy. Mục tử giả chỉ tìm kiếm hạnh phúc cho chính bản thân
mình. Họ sống hưởng thụ, lười biếng và thiếu trách nhiệm đến sự sống còn của
đàn chiên. Chúa Giê-su đưa ra khuôn mẫu mục tử nhân lành là chính Chúa. Cả cuộc
đời không tìm an nhàn cho bản thân. Ngài dong duổi gió bụi đểtìm từng con chiên
lạc đưa về ràn. Vì sự sống của đàn chiên, Ngài sẵn sàng đối phó với sự dữ để bảo
vệ đàn chiên. Ngài đã chấp nhận cái chết để đàn chiênđược sống.
Đó cũng là mẫu gương cho mỗi người chúng ta. Mỗi người chúng ta đều là mục
tử của Chúa khi chúng ta có nhiệm vụchăm sóc, bảo vệ anh em mình. Mỗi người
chúng ta đều phải có trách nhiệm trước sự an nguy của đồng loại. Mỗi người
chúng ta đều có bổn phận đẩy lùi sự dữ đang hoành hành trong môi trường sống của
chúng ta. Không aiđược phép bàng quan trước sự dữ dang bủa vây gia đình, xóm
làng của mình. Không ai được phép vô trách nhiệm trước bữa no bữa đói của cha mẹ,
con cái hay hàng xóm láng giềng. Nếu mỗi người chúng ta đều biết sống có trách
nhiệm với anh em thì giòng đời này sẽ bớt đi những trái ngang, sẽ vơi đi những
giọt nước mắt buồn đau, tủi hờn. Nếu mỗi người chúng ta đều biết đưa vai gánhđỡ
gánh nặng cho anh em, và biết dùng đôi vai làm điểm tựa nâng đỡ anh em, thì cuộc
đời này sẽ là một thiênđàng mà con người đang hưởng nếm những giây phút ngọt
ngào nhất của tình người, của hạnh phúc yêu thương.
Đây cũng là điều kiện để có được sự sống trường sinh. Vì "ai giữ mạng
sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ được sống muôn
đời.
Nguyện xin Chúa Giê-su mục tử luôn phù hộ nâng đỡ và giúp chúng ta biết
sống hiến thân mạng sống vì anh em. Amen.
10. Ơn
kêu gọi.
Hôm ấy thánh Phêrô và Gioan bị điệu đến trước tòa án Do Thái vì những tội
trạng như đã chữa lành cho một người què, đã rao giảng danh Đức Kitô cho dân chúng,
khiến nhiều người nghe lời giảng mà tin theo, để rồi trở nên những con chiên
trong đàn chiên của vị mục tử duy nhất là chính Đức Kitô.
Tuy nhiên, để họ được nghe tiếng Ngài, thì phải có những người được sai
đi rao giảng, như Phêrô và Gioan mà tôi vừa nhắc đến.
Phải cần thật nhiều những vị tông đồ đi rao giảng thì nhân loại này mới
thực sự trở nên một đoàn chiên dưới quyền dẫn dắt của một chủ chiên. Vì thế,
nhân ngày ơn thiên triệu hôm nay, trước hết phải là ngày cầu nguyện và hành động
để có thêm, thêm nữa số các tông đồ.
Nếu như con người thời nay không muốn lắng nghe Tin Mừng thì lại càng cần
phải có nhiều người đi rao giảng, để ở mọi nơi và trong mọi lúc, Tin Mừng được
trình bày dưới mọi góc cạnh cho mọi người, để rồi không ai nói được rằng mình chẳng
hề được nghe nói về Tin Mừng ấy.
Tuy nhiên, đông số tông các tông đồ mà thôi chưa đủ, điều cần thiết là
phải có những tông đồ hội đủ tư cách và khả năng, mà Phêrô hôm nay là những tấm
gương sáng ngời. Ông không ngừng rao giảng khi được thong dong, trước đám đông
dân chúng đang ngạc nhiên và ngưỡng mộ vì phép lạ người què vừa mới được chữa
lành. Hơn thế nữa, ông còn rao giảng hùng hồn và dạn dĩ khi đứng trước tòa án
Do Thái, trước những vị đầu mục của dân chúng. Nếu chúng ta có nói rằng ông
đang hiến mạng sống mình vì đoàn chiên, thật cũng chẳng sai. Cứ thử so sánh
phiên tòa hôm nay với phiên tòa xét xử Chúa Giêsu mà xem, chúng ta sẽ thấy có
những điểm thật giống nhau.
Trước đây người ta hỏi Chúa Giêsu: Ông lấy quyền gì mà làm như vậy. Còn
bây giờ người ta cũng hỏi các ông: Bởi quyền phép nào hay nhân danh ai mà các
ngươi đã làm những điều ấy. Tòa chỉ chờ họ thưa: nhân danh Chúa Giêsu, để khép
tội, vì thưa như vậy là coi Đức Kitô là Thiên Chúa. Đó cũng chính là tội trạng
của Chúa Giêsu vì dám tự xưng mình là Con Thiên Chúa.
Nếu Đức Kitô đã không sợ chết, thì các môn đệ của Ngài cũng không sợ phải
hiến mạng sống mình. Các ông tuyên xưng một cách mạnh dạn Đức Kitô là Đấng Cứu
Thế. Vụ án của Ngài đã được nói trước trong Kinh Thánh, vì Ngài chính là viên
đá bị thợ xây loại bỏ, lại trở thành viên đá góc xây nên đền thờ Thiên Chúa.
Phêrô và Gioan là những tông đồ sẵn sàng hiến mạng sống mình vì danh Đức
Kitô, để giống như Ngài và kết hợp với Ngài trong mầu nhiệm cứu độ, tiếng các
ông đã vang vọng, để rồi đã được lắng nghe, đã được đón nhận và đã thôi thúc được
nhiều người đã trở về trong đoàn chiên của Chúa.
Tóm lại trong ngày cầu nguyện cho ơn kêu gọi, chúng ta hãy kêu xin Chúa
sai thêm thợ gặt đến đồng lúa của Ngài, nhưng đồng thời phải là những thợ biết
gặt, phải là những mục tử dám hy sinh vì đoàn chiên, để nhờ đó qui tụ được những
con chiên còn lạc đường vào một đoàn chiên và dưới sự dẫn dắt một chủ chiên duy
nhất mà thôi.
11. Mục
tử.
Chúa nhật thứ IV mùa Phục Sinh được gọi là Chúa nhật Đấng Chăn Chiên nhân
lành. Vì thế, toàn bộ lời Chúa hôm nay đều xoay quanh chủ đề này. Mục tử, tức
là người chăn chiên, là hình ảnh rất quen thuộc đối với dân Do Thái du mục ngày
xưa nói riêng, và cả xã hội Do Thái cho tới thời Chúa Giêsu nói chung. Vì vậy,
suốt thời Cựu ước, hình ảnh người chăn chiên trở thành một trong những biểu tượng
phong phú và sống động nhất, được dùng để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và
dân Do Thái. Họ như một đoàn chiên riêng của Thiên Chúa, được Người nuôi nấng,
chăn dắt, săn sóc đặc biệt. Và bây giờ, Chúa Giêsu áp dụng hình ảnh đó cho
chính Ngài và đoàn chiên của Ngài là chúng ta. Chúng ta thấy Chúa dùng hai hình
ảnh: người chăn chiên thuê và người chăn chiên tốt lành để so sánh và diễn tả
cho mọi người biết Ngài là người chăn chiên thật, là mục tử tốt lành. Thế nào
là một mục tử tốt lành? Chúng ta có thể tóm tắt trong hai điều: biết các con
chiên của mình và ân cần săn sóc chúng. Chúa Giêsu là một chủ chăn tốt lành vì
Ngài có đầy đủ và hoàn toàn hai yếu tố đó.
Chúa
Giêsu là chủ chăn tốt lành của chúng ta vì Ngài biết chúng ta. Một người chăn
chiên chuyên nghiệp biết số chiên trong bầy có bao nhiêu con. Họ biết từng con
một, về ngày sinh tháng đẻ, để có thể xén lông hay gây giống. Họ có tên gọi cho
từng con, biết bệnh tật từng con để cứu chữa: con nào hay bị lạnh, con nào cận
thị, con nào hay lạc bầy ăn rong, hơn nữa, có khi họ còn chụp hình, ghi sổ từng
con mỗi năm và cân ký hàng tháng.
Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh đó áp dụng cho Ngài như Ngài đã tuyên bố:
“Tôi biết chiên của tôi”, và Ngài còn quả quyết sự hiểu biết của Ngài đối với mỗi
người cũng như sự hiểu biết giữa Ngài với Cha Ngài: “Tôi biết chiên tôi như Cha
tôi biết tôi và tôi biết Cha tôi”. Thực vậy, Ngài biết từng con chiên, Ngài biết
chúng ta là những nhân vị, là những tín hữu, là những người có tính tình thế
nào, dòng máu huyết thống ra sao. Ngài biết chúng ta hơn chúng ta biết mình.
Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu
của chúng ta. Ngài biết rõ từng người: ai là con chiên tốt, trung thành, ngoan
đạo; ai là con chiên ghẻ, lười biếng, khô khan, phản bội. Tóm lại, không ai có
thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì, dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa
cũng biết hết.
Rồi Chúa Giêsu là chủ chăn tốt lành đích thực của chúng ta, vì Ngài ân cần
săn sóc chúng ta. Thực vậy, Chúa hằng ở bên săn sóc từng người chúng
ta, dù chúng ta không quan tâm đến, như cá sống dưới nước, dù không để ý tới nước,
nơi nó bơi lội, nhưng không có nước, nó sẽ chết. Chúa biểu lộ tình yêu đặc biệt
đối với những ai mang thương tích linh hồn. Ai trong chúng ta đã không nhiều lần
nghe những câu chuyện Tin Mừng tỏ rõ lòng ưu ái của Chúa, như chuyện đứa con
hoang đàng, chuyện Giakêu hối cải, chuyện người đàn bà ngoại tình, chuyện người
trộm lành trên thập giá, và tột đỉnh của tình yêu này là tự hiến mình cho đoàn
chiên. Quả thực, cả một đời tận tụy, hy sinh, giảng dạy và ban ơn, Chúa chưa
cho là đủ, Chúa còn muốn thực hiện đặc tính sau cùng của một chủ chăn tốt lành
là chết vì con chiên và cho con chiên, để minh chứng lời Ngài đã nói: “Không có
tình yêu nào lớn hơn, cao quý hơn là chết cho người mình yêu”.
Chúa Giêsu tự xưng mình là mục tử tốt lành và Chúa đã hành động xứng tước
vị đó, thì đoàn chiên cũng phải biết đối xử sao cho xứng đáng. Vật không lý trí
còn biết bổn phận mình với chủ chăn, thì chúng ta, vật có linh tính, càng phải
đền đáp sao cho xứng tình ưu ái của Chúa chiên vô cùng nhân hậu ấy. Vậy bổn phận
của chúng ta là gì?
Chúng
ta phải suy tôn Chúa là chủ chăn chúng ta bằng lòng tin tưởng và yêu mến. Nhưng suy tôn không
phải chỉ ngoài miệng mà phải suy tôn Chúa trong đời sống, trong công ăn việc
làm, trong sự đối xử với người chung quanh, và làm chứng nhân cho Chúa. Rồi
chúng ta phải tín nhiệm vào Ngài. Con cái tín nhiệm cha mẹ, tôi tớ tín nhiệm
vào chủ, chúng ta càng phải biết tín nhiệm vào Chúa hơn. Sau cùng, chúng ta phải
biết nghe lời Chúa. Một con chiên ngoan bao giờ cũng biết tuân ý chủ.
Luôn vâng theo ý Chúa và sống theo lời Chúa là làm hài lòng Chúa nhất, giống
như con cái tuyệt đối vâng lời cha mẹ vậy.
Có lẽ những điều trên chúng ta đều biết cả, nhưng biết mà không đem thực
hành là biết uổng. Chúng ta hãy kiểm điểm xem thái độ và hành động của chúng ta
đối với Chúa, chủ chăn của chúng ta thế nào? Thành thực mà nói: chúng ta không
chối Chúa ra mặt, nhưng chúng ta hay xâm lấn một số quyền lợi của Chúa. Chúng
ta chỉ công nhận Ngài là chủ chăn, là Chúa trong vài hoàn cảnh, trường hợp đời
sống, chứ không cả đời sống, sự thường xuyên của chúng ta. Chẳng hạn, chúng ta
chỉ giữ đạo, chỉ giữ điều răn khi hứng thú, gặp may mắn; bao lần chúng ta thiếu
tín nhiệm vào Chúa, quá lo lắng vật chất đến xao nhãng các bổn phận thiêng
liêng; bao lần đời sống, cách ăn ở, cư xử của chúng ta không làm chứng cho Chúa
trước những người chung quanh. Sửa chữa những khuyết điểm đó là cốt yếu của lời
Chúa dạy hôm nay. Lạy Chúa, xin làm cho chúng con trở thành chiên ngoan tốt
lành Chúa.
12. Mục tử.
Du khách dừng chân
trước một đàn cừu, bỗng lưu ý tới một con vật nằm dài trên đất được chủ nó vuốt
ve, và băng bó vết thương ở một chân bị gẫy.
Du khách hỏi chuyện
nhưng bị người chăn cừu đáp lại bằng một bộ mặt khó chịu. Sau khi thấy du khách
là người hiền lành, người chăn cừu mới tiết lộ sự thật:
-
Con cừu này có những
đức tính tuyệt hảo. Khi còn lành mạnh, nó luôn dẫn đầu đàn. Nó biết cách làm cho
mọi con trong bầy vâng phục. Tiếc thay vì quá tự tin, nó không chịu vâng lời
tôi và thường hay dẫn đàn cừu đi theo sở thích của nó. Cuối cùng, tôi buộc lòng
phải áp dụng biện pháp khá đau đớn.
Nói tới đây, người
chăn cừu dừng lại vì bị xúc động. Anh giải thích tiếp:
-
Tôi đành phải bẻ gẫy
chân nó. Kể từ đó, nó hoàn toàn phụ thuộc vào tôi. Mỗi buổi sáng, tôi vác nó
lên vai, đưa ra đồng cỏ. Rồi buổi chiều, tôi lại vác nó về. Nó không tự mình đi
ăn cỏ. Từ một tháng nay, nó ăn cỏ giữa lòng bàn tay của tôi. Những chăm sóc tôi
dành cho nó đã tạo nên mối tương quan mật thiết giữa nó và tôi. Mong sao nó giảm
đau, để rồi từ nay nó sẽ là con vật biết vâng lời và tôi sẽ lại đặt nó đặt nó
làm con vật đầu đàn.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Vậy trước hết,
mục tử là người như thế nào? Tôi xin thưa:
-
Mục tử là người chăm sóc đàn chiên.
Họ có thể là chính ông chủ, hay con trai, con gái của ông ta. Họ cũng có
thể là người làm thuê được trả công bằng tiền, hay bằng sản phẩm của đoàn vật,
với trách nhiệm phải tìm đồng cỏ cho đàn vật ăn và suối nước cho đàn vật uống.
Ngoài ra, người mục tử còn có bổn phận phải bảo vệ đàn chiên khi chúng bị
kẻ trộm hay thú dữ đe dọa. Trách nhiệm này không nhỏ, vì họ có thể bị buộc phải
đần bù về số con vật bị mất.
So sánh Chúa Giêsu với người mục tử trong câu chuyện vừa nghe, chúng ta
thấy có một số điểm khác biệt như sau .
Trước hết tương quan giữa chủ chăn và con vật gẫy chân là một tương quan
thu hẹp. Chủ chăn muốn nắm giữ quyền sở hữu trên mọi con vật trong đàn. Trong
khi đó, con vật đầu đàn lại muốn chiếm quyền điều khiển cả đàn, nên đã bị sửa
phạt.
Còn tương quan giữa Chúa Giêsu, vụ mục tử nhân lành với đàn chiên thì lại
khác, đó là một tương quan mở rộng và luôn hướng tới Chúa Cha. Ngài không qui
đàn chiên về mình, trái lại luôn qui hướng về Chúa Cha, như lời Ngài đã phán:
-
Cha của anh em, Đấng ngự ở trên trời, không muốn một
ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất.
Người chủ chăn trong câu chuyện đã sửa phạt con vật đầu đàn để nó được
thuần tính, bằng cách bẻ gẫy một chân để nó hoàn toàn lệ thuộc vào mình.
Còn Chúa Giêsu thì khác. Ngài gọi tên từng con chiên và dẫn cả đàn đi
ăn. Ngài biết từng con chiên như Chúa Cha biết Ngài. Đồng thời, Ngài đích thân
chắm sóc các con chiên. Mỗi người đều có một vị trí, một giá trị của mình trong
đàn, vì chính Ngài đã nói:
-
Trên trời sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi sám hối trở
lại, hơn chín mươi chín người công chính không cần ăn năn.
Sau cùng, kẻ chịu đau đớn trong câu chuyện là con đầu đàn bướng bỉnh.
Còn Chúa Giêsu thì khác, chính Ngài, với tư cách là mục tử nhân lành, đã
hy sinh mạng sống cho đàn chiên, như lời Ngài đã nói:
-
Ta hoàn toàn tự nguyện hiến mạng sống của Ta, trước
là để làm đẹp lòng Chúa Cha, sau là để các chiên Ta được sống và sống dồi dào.
Hãy bước đi dưới sự hướng dẫn của vị mục tử nhân lành là Chúa Giêsu, nhờ
đó chúng ta sẽ tới được bến bờ hạnh phúc.
13. Tốt lành.
Thế nào là một mục tử tốt lành? Đó là người biết các con chiên của mình,
ân cần săn sóc chúng, và sẵn sàng hy sinh, chịu cực khổ để bảo vệ chúng, thậm
chí sẵn sàng hy sinh cả mạng sống cho chúng nữa. Đó là những đặc điểm hay những
vẻ đẹp của một người chăn chiên tốt lành mà Chúa Giêsu đã phác họa trong bài
Tin Mừng hôm nay và áp dụng cho chính Ngài.
Chúa Giêsu là mục tử tốt lành của chúng ta, vì Ngài biết chúng ta. Chúa
biết từng con chiên một, Chúa biết tình trạng sức khỏe của từng con, và con nào
đi lạc trong cả bầy trăm con Ngài cũng biết. Chúa biết tất cả và biết rõ từng
người một. Không phải Chúa chỉ biết một cách chung chung, nhưng có thể nói Chúa
đi guốc trong bụng chúng ta.
Người đời không đo được lòng người: “Dò sông dò biển dễ dò. Đố ai đo nổi
lòng người nông sâu”. Nhưng với Chúa, Chúa biết từng chân tơ kẽ tóc của chúng
ta. Chúa hiểu biết chúng ta hơn bất cứ ai, hơn cả chúng ta biết về chính mình nữa.
Ngài thấu suốt tư tưởng, ước mơ, lời nói, việc làm, dự định, khuynh hướng tốt xấu
của chúng ta. Ngài còn biết tất cả chúng ta trong quá khứ, hiện tại và tương
lai. Ngài biết những ai đã bê tha trong tội lỗi, những ai đang đau khổ về thể
xác và những ai đang bị dằn vặt trong tâm hồn. Ngài biết rõ từng người: ai là
con chiên tốt, trung thành, ngoan đạo, ai là con chiên ghẻ, lười biếng, khô
khan, phản bội… Tóm lại, không ai có thể lẩn trốn khỏi mắt Chúa, bất cứ sự gì,
dù thầm kín hay bí mật đến đâu, Chúa cũng biết hết, biết tất cả, biết từng ly từng
tí, theo kiểu “Một sợi tóc trên đầu cũng được đếm cả rồi, sợi nào rơi xuống đất
Chúa đều biết hết”.
Tuy nhiên, Chúa biết rõ mọi con chiên và từng con chiên. Đây không phải
là cái biết lý thuyết: biết để biết hay biết suông vậy thôi, nhưng là cái biết
để đối xử với đàn chiên và từng con chiên theo tình trạng của nó. Thông thường,
tiến trình của hầu hết các tình cảm của chúng ta đều theo một diễn tiến như
sau: quen – biết – hiểu – thông cảm – thương mến – yêu, nghĩa là khi chúng ta
quen một người, dần dần chúng ta hiểu biết về người ấy, rồi mới dễ dàng đi tới
cảm thông, giúp đỡ và thương yêu.
Đó là chưa kể trường hợp nhiều khi biết rõ nhau, người ta lại ghét nhau
hơn. Đó là về phía con người chúng ta với nhau. Còn đối với Chúa, là Đấng toàn
tri, toàn năng và yêu thương, nơi Ngài không có vấn đề tách rời từng giai đoạn
như diễn tiến nơi con người. Cùng một lúc, sự hiểu biết và yêu thương của Ngài
gồm tóm tất cả mọi yếu tố, nên không thể có trường hợp Chúa biết rồi Chúa mới
yêu hay Chúa biết mà Chúa không yêu thương.
Thực vậy, Chúa Giêsu là mục tử tốt lành, vì Ngài ân cần săn sóc các con chiên.
Trong ba năm giảng dậy, chúng ta thấy Ngài ân cần săn sóc tất cả những ai đến với
Ngài, nhất là những người vất vả, khó khăn. Ngài kêu gọi: “Những ai khó nhọc và
gánh nặng, hãy đến với Ta, Ta sẽ nâng đỡ, bổ sức cho”. Đặc biệt những người tội
lỗi. Ngài không bao giờ xua đuổi, xa lánh họ, nhưng tìm kiếm, kêu gọi, tha thứ.
Cả một đời tận tụy, hy sinh, giảng dạy và ban ơn, Chúa chưa cho là đủ, Chúa còn
muốn thực hiện đặc tính sau cùng của một mục tử tốt lành nữa, là chết vì con
chiên và cho con chiên, như Ngài đã tuyên bố: “Không có tình yêu nào cao quý
hơn, lớn hơn là chết cho người mình yêu”.
Chúa
Giêsu là mục tử tốt lành, nhưng sứ vụ mục tử ấy Chúa cũng đã trao cho Giáo Hội,
cho mỗi người trong Giáo Hội. Dù có chức vụ gì, hay chỉ có vị trí khiêm
nhường, nhỏ bé đến đâu trong cuộc sống, mỗi người đều là mục tử: Giám mục là mục
tử trong giáo phận; linh mục là mục tử trong giáo xứ; vợ chồng, cha mẹ là mục tử
trong gia đình. Có thể con cái cũng là mục tử cho cha mẹ và anh chị em với
nhau; thầy cô giáo là mục tử trong lớp, trong trường mình. Rất có thể học sinh
cũng là mục tử cho thầy cô giáo và các bạn học; các bạn trẻ là mục tử cho nhau…
Tóm lại, mục vụ là sứ mệnh của Giáo Hội và mỗi tín hữu đều có phần của mình
trong sứ mệnh ấy, vừa được chăn dắt vừa có trách nhiệm chăn dắt.
Là mục tử, dù trong vị trí nào, chúng ta cũng phải nhìn vào mục tử gương
mẫu là Chúa Giêsu. Chúng ta phải biết nhau, ân cần quan tâm đến nhau, giúp đỡ
nhau, yêu thương nhau. Đặc tính nổi bật của mục tử tốt lành là nhân hậu, thương
xót. Vì thế, ai muốn nên trọn lành thì phải tập sống nhân hậu, thương xót. Ai
muốn kéo người ta về với Chúa thì càng phải cố gắng có những cử chỉ và những việc
làm nhân hậu, thương xót.
Chúng ta hãy nhớ: mỗi người chúng ta đều được Chúa trao cho trách nhiệm
chăn dắt một ai đó trong đoàn chiên hay đưa một ai đó vào đoàn chiên, hay đưa một
ai đó về lại trong đoàn chiên… bằng cách sống biểu hiện nhân hậu và thương xót
của chúng ta.
14. Chúa chiên lành.
Trong việc tham dự
hội nghị tại Ấn Độ, tôi đã được dịp nghe bài thuyết trình của một nhà trí thức
Công giáo người An Độ nói về những ước nguyện của người giáo dân trong cộng đồng
Giáo Hội. Nhà trí thức An Độ này là một tổng giám đốc của một công ty phổ biến
những kỹ thuật truyền thông mới mẻ và có uy tín trong cộng đồng Giáo Hội địa
phương. Và một trong những ước nguyện của một giáo dân trưởng thành và có thể
nói là đã thành đạt trong đời sống cộng đoàn, đó là không muốn được gọi là con
chiên của Chúa, ông đã hãnh diện chia sẻ như sau:
Trong thời đại kỹ
thuật tân tiến hiện nay, thời đại mà người giáo dân đã đạt được mức trí thức
cao thì ta không thể nào đối xử với họ là những con chiên ngoan ngoãn chỉ biết
vâng phục lệnh của bề trên, và ông ta nói, tôi không thích hình ảnh con chiên
trong đoàn chiên của Chúa, tôi cũng không muốn sống như những con chiên, tôi muốn
được gọi, được kể như là những con chiên chỉ biết cúi đầu nghe lệnh.
Kể từ lần nghe được bài chia sẻ của giáo dân trí thức này bên Ấn Độ đến
nay, thỉnh thoảng tôi lại đặt vấn đề cho mình suy nghĩ về hiền thánh này, Chúa
là Đấng chăn chiên nhân lành, còn ta là đoàn chiên của Người. Đây là một hình ảnh
hết sức quen thuộc và cũng hết sức quan trọng trong mạc khải Cựu cũng như Tân Ước,
đến nỗi Chúa Giêsu đã dùng đến nó không những nhiều lần, mà nhất là trong lần
quan trọng nhất khi trao cho Phêrô quyền chăn dắt đoàn chiên của Chúa: “Hãy
chăn dắt chiên con, chiên mẹ của Thầy”.
Nhiều lần tôi đã đặt cho mình câu hỏi: “Hình ảnh về đoàn chiên còn hợp
thời nữa hay không?”, và có thể nói tôi đã tìm được câu trả lời trong một lần dừng
chân tại miền Nam quốc gia Au Châu, và được dịp tận mắt chứng kiến cảnh những
người chăn chiên hướng dẫn đoàn chiên tiến về đồng cỏ tươi tốt nuôi sống đàn
chiên.
Kinh nghiệm sống này tôi chỉ được nhìn qua và trước khi có kinh nghiệm sống
này, tôi chỉ được nhìn đoàn chiên qua hình ảnh Chúa Giêsu hướng dẫn đoàn chiên
trong những bức tranh, và giờ đây qua kinh nghiệm tận mắt nhìn ngắm đoàn chiên
sinh hoạt như thế nào với người chăn, tôi chợt như được hiểu thêm về ý nghĩa
sâu xa của hình ảnh được Chúa Giêsu sử dụng và được Giáo Hội cử hành hằng năm
vào Chúa nhật hôm nay, Chúa nhật IV Phục sinh được gọi là Chúa nhật “Chúa Chiên
Nhân Lành”.
“Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta và chúng theo Ta”. Đây là một hình
ảnh cụ thể và hình ảnh cụ thể đoàn chiên im lặng hiệp nhất đi theo người chăn
mà tôi đã chứng kiến tận mắt giúp tôi hiểu thêm mối tương quan giữa người chăn
và đoàn chiên. Đây không phải là một mối tương quan trí thức của sự hiểu biết
thuần lý của lý trí khô khan, nhưng là một tương quan sống động của con tim, của
tình yêu thương vật chất, một tình yêu không thể diễn đạt thành lời nói, không
thể gói ghém trọn vẹn trong ngôn ngữ con người, nhưng được diễn tả một cách cụ
thể trong hành động.
Từ ngữ “biết” có nghĩa là tin tưởng và yêu thương. Tin và yêu thì không
có sự đàn áp nào cả, những con chiên như hiểu được ý muốn của người chăn và
trung thành gắn bó với người chăn, nhưng không phải chỉ là một sự gắn bó bên
ngoài.
Trong bài Phúc Am chúng ta vừa nghe qua, Chúa Giêsu còn nhắc đến một sự
gắn bó chặt chẽ nội tâm, đó là một sự chia sẻ được cuộc sống để chúng được sống
đời đời và chúng sẽ không bao giờ hư mất, không ai có thể cướp được chúng khỏi
tay Tôi: “Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi thì cao trọng hơn tất cả, không ai có thể
cướp được khỏi tay Cha Tôi”. Đây là lúc mà Chúa Giêsu vượt qua giới hạn của
hình ảnh đời thường, của hình ảnh một đoàn chiên đi theo người chăn, để tiến xa
hơn vào trong mối tương quan giữa Chúa và mỗi người chúng ta.
Trong đời thường, người chăn chiên không thể nào chia sẻ sự sống của
mình cho con chiên, nhưng ở đây Chúa Giêsu vượt qua giới hạn của hình ảnh mà đi
vào thực tại và Chúa mạc khải cho chúng ta biết, Chúa chia sẻ cho chúng ta sự sống
của chính Chúa, để được sống kết hợp mật thiết với Chúa, một sự kết hiệp mật
thiết có thể nói giống như mẫu lý tưởng sự kết hiệp mật thiết giữa Chúa và
Thiên Chúa Cha: “Tôi và Cha Tôi là một”.
Cử hành lễ Chúa Chiên Lành hôm nay, chúng ta được mời gọi vượt qua tính
tự phụ, tự kiêu của mình để tin tưởng vào tình yêu của Chúa và sống trong tình
yêu này. Và không những chỉ tin tưởng và sống trong tình yêu này mà thôi, nhưng
chúng ta còn được mời gọi để chia sẻ sự sống của Chúa, được mời gọi mỗi ngày một
lớn thêm trọn hảo trong tình yêu của Chúa.
Do đó chúng ta biết rằng, mối tương quan giữa ta và Chúa là mối tương
quan đặc biệt có ưu tiên trên mọi mối tương quan khác như Chúa đã nói: “Không
ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi thì cao trọng
hơn tất cả”. Chúa Giêsu đã đặt mối tương quan giữa ta và Chúa, tình yêu thương
kết hiệp giữa ta và Chúa thành mối tương quan ưu tiên của Ngài, đến độ Ngài phải
hy sinh mạng sống của mình trên thập giá để ban cho chúng ta được mối tương
quan này, được chia sẻ sự sống của Chúa và chia sẻ mãi mãi.
Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Chúa
trong đời sống mình và cho chúng ta được trưởng thành trong đời sống, trong
tình yêu của Chúa và trong đức tin mà chúng ta giờ đây cùng nhau tuyên xưng qua
kinh Tin kính.
15. Tình
yêu.
Khi không có động cơ là tình yêu, thì việc thực hiện một bổn phận, thậm
chí kể cả việc thể hiện lòng tin, cũng đều có thể đưa đến hậu quả là làm khô héo
tâm hồn con người.
Hai người có thể đang làm cùng một công việc như nhau, ngay cả đang làm
việc bên nhau, tuy nhiên, họ vẫn có thể có những thái độ trái ngược nhau đối với
công việc đó. Một người thì yêu mến công việc của mình, và hoàn toàn hết mình với
công việc. Người đó tự hào về việc mình đang làm, và đặt tâm hồn của mình vào
đó. Còn người kia thì ghét công việc của mình, và chỉ làm nửa vời. Đối với người
này, đây chỉ là thuần túy là một công việc mà thôi. Điều duy nhất mà người này
quan tâm đến, đó là số tiền thù lao.
Đức Giêsu cho ta một ví dụ hay về điều này, trong dụ ngôn của Người, nói
về kẻ làm thuê và người chăn chiên tốt lành. Giữa hai người này, có một sự mâu
thuẫn. Đối với kẻ làm thuê, quan tâm đến đàn chiên chỉ là công việc. Anh ta làm
việc chỉ vì đồng lương, mà không hề biết gì về đàn chiên, hoặc chăm sóc gì đến
chúng. Hậu quả là đàn chiên bị đói khổ.
Đối với người chăn chiên tốt lành, quan tâm đến đàn chiên không chỉ là
công việc, mà còn là một lối sống, một ơn gọi. Người đó biết rõ về đàn chiên,
và quan tâm chăm sóc chúng, đến mức độ sẵn sàng liều cả mạng sống của mình, để
cứu đàn chiên. Kết quả là đàn chiên được phát triển.
Nét khác biệt rất lớn giữa người chăn chiên tốt lành và kẻ làm thuê
chính là tình yêu của người đó đối với công việc của mình. Người đó yêu thích
và tận tụy với công việc. Điều này không làm cho công việc của họ trở nên dễ
dàng hơn. Nếu bất cứ điều gì cũng làm cho công việc của người đó khó khăn hơn,
là bởi vì họ làm công việc đó một cách kỹ lưỡng. Nhưng điều này lại làm cho họ
có khả năng đặt hết tất cả năng lực của mình vào công việc. Nếu bạn muốn yêu mến,
thì năng lực sẽ đến với bạn. Không chỉ có công việc được lợi ích, mà người làm
công việc đó cũng được lợi ích nữa – trong cùng một hành động, công việc này
đem lại điều tốt đẹp nhất. Cách làm việc như vậy đem lại sự giải phóng cho con
người.
Hầu hết chúng ta đều là những kẻ làm thuê, theo ý nghĩa là chúng ta
không làm việc cho bản thân mình. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta phải
có tư tưởng của người làm thuê. Chỉ vì con người đòi hỏi phải được trả công đầy
đủ, nhưng điều đó không có nghĩa là người đó thuộc loại làm thuê mà Đức Giêsu
nói đến. Người đó không được mang thái độ của kẻ làm thuê vào công việc của
mình. Người đó không được làm việc chỉ vì đồng lương, mà vẫn có thể mang thái độ
của người chăn chiên tốt lành.
Chúng ta có quyền đòi một số tiền trả công xứng đáng. Ngoài những sự đền
đáp khác, đây là điều đúng đắn, do nhân phẩm của con người. Nhưng với tư cách
là những Kitô hữu, chúng ta phải cố gắng nhìn vào công việc như là một cách thế
phục vụ người khác, bất kể điều gì xảy ra. Nếu được như vậy, chúng ta mới là những
người chăn chiên tốt lành. Chúng ta phải rời bỏ hàng ngũ của những kẻ làm thuê.
Chúng ta đều là thành viên của một cộng đoàn thánh thiêng – đó là những người
thực hiện những công việc cần thiết, nhưng tẻ nhạt, trong một tinh thần phục vụ.
Công việc vất vả nhưng lương thiện làm cho cơm bánh của con người trở nên có
hương vị ngọt ngào. Kẻ làm thuê làm việc trong sự bất lợi trầm trọng nhất – tâm
hồn của người đó không đặt vào trong công việc. Người ta vẫn có thể sống suốt cả
cuộc đời mình, với tâm lý của một kẻ làm thuê. Hầu như kẻ bị lạc lối không mang
tư tưởng gì cả. Có một sự xói mòn xảy ra trong tâm hồn của những người nào
không quan tâm đến phẩm chất công việc, mà chỉ để ý đến những động cơ mà thôi.
“Nếu bạn cảm thấy mình không có tình yêu, hãy cứ để mặc người khác một
mình. Thay vào đó, bạn nên bận rộn với nhiều thứ” (Tolstoy).
16. Mục tử.
Dưới thời bạo chúa
Nêrô bắt đạo. Rôma ngập tràn máu lửa, biết bao tín hữu đã chết dưới tay ông vua
điên loạn, bạo tàn.
Giáo Hội non trẻ
do Đức Giêsu thiết lập như sắp rã rời tan tác. Phêrô là con chim đầu đàn, là trụ
cột của Giáo Hội. Các tín hữu tha thiết xin Phêrô trốn khỏi Rôma, để tiếp tục dẫn
dắt đoàn chiên. Người anh cả một thoáng phân vân, chần chừ. Quả thật đoàn chiên
đang nao núng vì sợ thiếu vắng đầu đàn, sao có thể giữ vững niềm tin? Thầy đã
chẳng khuyên khi người ta bắt bớ chúng con ở thành này, thì hãy trốn sang thành
khác sao? Phêrô xách bị gậy đi trốn. Đụng Thầy ở cổng thành, Phêrô hỏi:
-
Quo vadis, Domine?
Thưa Thầy, Thầy đi đâu?
-
Nếu con bỏ các
Kitô hữu của Thầy thì Thầy sẽ quay lại để chịu đóng đinh cho họ một lần nữa.
Phêrô hiểu ngay lời
Thầy, quay trở lại Rôma để an ủi khích lệ đoàn chiên, và để chịu đóng đinh thập
giá như Thầy.
“Ta là mục tử tốt lành. Mục tử tốt lành thí mạng sống vì đoàn chiên”. Đức
Giêsu ví mình như một vị mục tử tốt lành khác với người chăn thuê, vì người đã
dám hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Cái chết của Người không bất ngờ, cũng
không đầu hàng bạo lực, nhưng là một cái chết tự hiến. Đức Giêsu chết để nói
lên lời yêu thương. Một tình yêu tột đỉnh, yêu cho đến cùng. Thánh Gioan viết:
“Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn
hữu mình”.
Chính tình yêu đã tạo nên mối dây gắn bó giữa chủ chiên và từng con
chiên, khiến Người nói: “Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta”. Đó là
sự hiểu biết nhau sâu xa, sự trân quí giữa mục tử và đoàn chiên.
Đức Giêsu là mục tử duy nhất, tối cao và gương mẫu. Các mục tử khác chỉ
là phụ tá giúp chăn dắt đoàn chiên của Người. Mọi mục tử phải noi gương Người,
dám chết cho đoàn chiên được sống. Phêrô là người mục tử đầu tiên. Phêrô có thể
trốn bắt bớ, tù tội, chết chóc. Nhưng chính khi đổ máu, Phêrô đã giữ vững đoàn
chiên. Cái chết của Phêrô đã có sức thuyết phục hơn bất cứ lời rao giảng nào:
“Thầy làm vững đức tin của con. Rồi đến lượt con, con sẽ làm vững đức tin của
anh em con”. Các mục tử tiếp bước Phêrô vui lòng nằm xuống đất để nên nhân chứng,
và củng cố niềm tin cho các anh em.
Dụ ngôn người “mục tử tốt lành” cho thấy tình yêu sâu sắc của Thiên
Chúa.
-
Người yêu thương mỗi người một cách cá biệt, không
yêu cách chung chung.
-
Người yêu thương vô điều kiện, ngay cả khi chúng ta
lầm đường lạc lối.
-
Người yêu thương bằng tình yêu vui mừng, chứ không
la rầy khiển trách khi tìm thấy chiên lạc.
Ngày nay, Đức Giêsu vẫn cần những vị mục tử tốt lành lo cho đoàn chiên
trên thế giới. Người rất cần các bạn trẻ hiến thân cho sứ mạng mục tử này. Người
mời gọi chúng ta hãy nhìn bằng trái tim yêu thương, để thấy những cơn đói Lời
Chúa, đói tình thương, đói của ăn, đói ý nghĩa cuộc sống. Người kêu gọi chúng
ta hãy tha thiết xin Cha cho nhiều mục tử tận tụy hơn, thanh khiết hơn, vô vị lợi
hơn, và thánh đức hơn. Những mục tử sẵn lòng âm thầm chết từng ngày cho đoàn
chiên.
17. Vị
Mục tử nhân lành – JKN.
Câu hỏi gợi ý:
1.
Mục tử là gì? Xét về phẩm chất, có mấy loại mục tử?
Mỗi loại có những tính chất gì? Làm sao phân biệt được loại nào với loại nào?
2.
Đức Giêsu là mục tử nhân lành: đặc điểm cao quí nhất
của Ngài là gì? Ngài có thể hy sinh cho đàn chiên tới mức độ nào?
3.
Những bậc cha mẹ trong gia đình, những tổ trưởng
trong khu phố hay trong các xí nghiệp, những thầy giáo trong các trường học, những
giám đốc công ty... có thể hiểu là những mục tử không? Bài Tin Mừng này có áp dụng
cho họ được không?
Chia sẻ
1. Mục tử - tốt và xấu - trong xã hội và Giáo Hội
Xã hội nào cũng đều có tổ chức, cơ cấu, trong đó luôn luôn có những người
lãnh đạo, điều khiển. Trong các tôn giáo cũng thế. Trong lịch sử Do-thái, những
người lãnh đạo dân chúng được gọi là mục tử (x. Gr 10,21; Ed 37,23-24): chẳng hạn
như vua Sa-un, vua Đavít. Kitô giáo, vốn tiếp nối truyền thống Do-thái, cũng gọi
những người lãnh đạo trong Giáo Hội (như linh mục, mục sư, giám mục, hồng y,
giáo hoàng) là mục tử. Những mục tử hay những người lãnh đạo ấy thường được xã
hội hay tôn giáo tạo cho những điều kiện thuận lợi và trao cho những phương tiện
hữu hiệu để có thể thi hành hữu hiệu công việc lãnh đạo đó: chẳng hạn địa vị,
chức vụ, quyền bính, tiền bạc, tiếng nói... Những điều kiện và phương tiện này
là một thứ dao hai lưỡi. Nó có thể giúp các mục tử hay các nhà lãnh đạo phục vụ
dân chúng hay các tín hữu hữu hiệu hơn. Nhưng nó có thể làm tha hóa, biến chất
các mục tử khi sử dụng nó. Và nó cũng có thể bị những kẻ lắm tham vọng tìm cách
đạt tới để lợi dụng nó, để phục vụ cho những tham vọng hay lợi ích cá nhân của
mình, của gia đình hay phe nhóm mình.
Như vậy, chiếu theo thái độ đối với những điều kiện và phương tiện mà xã
hội hay tôn giáo dành cho những người lãnh đạo hay mục tử, ta có thể có 2 loại
mục tử tương ứng:
- Mục tử tốt: là những người lãnh đạo thật sự có ý hướng phục vụ dân
chúng hay các tín hữu, chứ không nhằm lợi ích cho riêng mình. Họ sử dụng những
điều kiện hay phương tiện xã hội hay Giáo Hội trao cho hoàn toàn để phục vụ tha
nhân và công ích.
- Mục tử xấu: là những người lãnh đạo không nhắm phục vụ dân chúng, mà
nhắm đạt được những điều kiện và phương tiện thuận lợi kia để hưởng thụ hoặc chỉ
để thăng tiến bản thân, thỏa mãn những tham vọng riêng tư.
Loại sau này còn bao gồm những mục tử bị tha hóa, là những người lãnh đạo
khởi đầu có ý hướng tốt, nhưng khi tiếp xúc hay sử dụng những điều kiện hay
phương tiện xã hội trao cho, thì bị chúng hấp dẫn, mê hoặc và làm cho biến chất,
để cuối cùng trở thành những mục tử xấu.
2. Mục tử tốt và xấu trong bài Tin Mừng và trong Thánh Kinh
Trong bài Tin Mừng hôm nay (Ga 10,11-18), Đức Giêsu mô tả và đối chiếu
hai loại mục tử ấy: một loại được gọi là mục tử nhân lành, còn loại kia là kẻ
chăn chiên thuê.
] Mục tử nhân lành
thì: «hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên», «tôi biết chiên của tôi, và chiên
của tôi biết tôi... chúng sẽ nghe tiếng tôi». Ngài tự nhận mình chính là mục tử
loại này. Trong Thánh Kinh có rất nhiều câu mô tả những đức tính tốt của những
mục tử nhân lành, mà chính Thiên Chúa là mô hình gương mẫu nhất:
-
yêu thương, trìu mến chiên với tất cả tâm hồn:
«Chúa tập trung cả đàn chiên dưới cánh tay: lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng,
bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt» (Is 40,11).
-
yêu quí từng con chiên, một con cũng như cả trăm
con: «Ai có một trăm con chiên mà có một con đi lạc, lại không để chín mươi
chín con kia trên núi mà đi tìm con chiên lạc sao? Và nếu may mà tìm được, người
ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con không bị lạc» (Mt
18,12-13).
-
lo cho chiên, tạo những điều kiện tốt đẹp cho
chiên: «Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và chuồng của chúng sẽ ở
trên các núi cao. Tại đó chúng sẽ nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong
những đồng cỏ mầu mỡ» (Ed 34,14).
-
làm chiên sống no ấm, hạnh phúc: «Chúa chăn dắt
tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì» (Tv 23,1); làm chiên luôn vững dạ vì được bảo vệ:
«Dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo
vệ, con vững dạ an tâm» (23,4).
-
tinh thần trách nhiệm rất cao: «Con nào bị mất, Ta
sẽ đi tìm; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về; con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; con
nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh; con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ
canh chừng» (Ed 34,16).
-
cứu thoát, giải phóng đàn chiên: «Thiên Chúa sẽ cứu
thoát dân Người, như mục tử cứu thoát đàn chiên» (Dc 9,16).
Tóm lại, người mục tử tốt thật sự yêu thương đàn chiên, sẵn sàng hy sinh
cho sự an nguy và hạnh phúc của đàn chiên. Thậm chí như Đức Giêsu, người mục tử
tuyệt vời nhất, sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình: coi sự sống còn của đàn
chiên quý hơn cả sự sống mình.
] Kẻ chăn chiên
thuê hay mục tử xấu thì: «không thiết gì đến chiên», «khi thấy sói đến liền bỏ
chiên mà chạy: sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn». Thánh Kinh cũng có
nhiều câu mô tả hạng mục tử này với những đặc tính:
-
vô trách nhiệm: «Con chiên nào mất, nó chẳng quan
tâm; con thất lạc, nó chẳng đi tìm; con bị thương, nó không chạy chữa; con mạnh
khoẻ, nó chẳng dưỡng nuôi» (Dc 11,16a); «Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho
mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi
không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi
không chịu đi tìm» (Ed 34,4)
-
chỉ nghĩ tới hưởng thụ, sẵn sàng bóc lột: «Sữa các
ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, mà đàn chiên lại
không lo chăn dắt» (Ed 34,3). Thậm chí bóc lột đến tận xương tủy: «Con nào béo
thì chúng ăn thịt, rồi lóc luôn cả móng» (Dc 11,16b)
-
ích kỷ, vụ lợi, đầy tham vọng: «Chúng là lũ chó
đói, ăn chẳng biết no. Thế mà chúng lại là mục tử! Cả bọn - chẳng trừ ai - chỉ
mưu tìm lợi lộc cho riêng mình» (Is 56,11).
-
tàn bạo, độc ác: «Các ngươi thống trị chúng một
cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,3); «Các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì
đến chúng» (Gr 23,2b).
-
tác hại vô cùng đến đàn chiên: «Các ngươi đã làm
cho đàn chiên của Ta phải tan tác» (Gr 23,2).
Tóm lại, mục tử xấu coi đàn chiên chỉ là phương tiện, bắt chúng phải hy
sinh phục vụ cho lợi ích riêng tư của mình, không một chút tình thương đối với
chúng. Nhưng kết cục của hạng mục tử này rất bi thảm: «Khốn cho mục tử vô tích
sự đã bỏ mặc đàn chiên. Gươm sẽ chặt đứt tay nó, sẽ chọc mắt phải của nó. Cánh
tay của nó sẽ khô đét, và mắt phải của nó sẽ mù loà» (Dc 11,17); «Khốn thay những
mục tử làm cho đàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác (…) các ngươi đã
xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác
của các ngươi mà trừng phạt các ngươi. Đó là sấm ngôn của Đức Chúa» (Gr 23,1-2).
3. Hãy trở nên những mục tử nhân lành
Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu tự xưng mình là «mục tử nhân lành», luôn
yêu thương đàn chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì đàn chiên. Khi tự
xưng như thế không phải để chúng ta nể phục cho bằng để chúng ta bắt chước, noi
gương Ngài trong công việc «mục tử» của chúng ta. Chúng ta thường giới hạn ý
nghĩa của từ «mục tử» này, đến nỗi chỉ áp dụng nó cho những người lãnh đạo tôn
giáo. Thật ra, tất cả những ai đảm trách việc lãnh đạo, từ một gia đình đến một
phường, một tỉnh, hay một quốc gia, từ một hội đoàn, một xứ đạo, đến một giáo
phận, một giáo hội địa phương hay Giáo Hội toàn cầu, một cách nào đó, đều có thể
gọi là mục tử. Ước chi mọi mục tử đều biết thật sự yêu thương đàn chiên của
mình và lãnh đạo chúng một cách sáng suốt! Ước chi mọi cha mẹ đều yêu thương
con cái, mọi cha xứ đều sẵn sàng hy sinh phục vụ giáo dân, mọi giám mục đều hết
lòng chăm sóc các linh mục và giáo dân dưới quyền mình! Ước chi mọi vị lãnh đạo
xã hội và đất nước biết quên những quyền lợi riêng tư để nghĩ đến lợi ích chung
của dân chúng!
Mọi quốc gia, mọi giáo hội, đều rất cần những vị minh quân, những mục tử
nhân lành. Cần hơn cả việc có thật đông những cá nhân tài giỏi, xuất sắc. Câu
chuyện sau đây minh họa điều đó.
Có hai người thuộc hai quốc gia nói chuyện với nhau: - «Tôi rất khâm phục
đất nước anh, vì nước anh có rất nhiều anh hùng». - «Thế đất nước anh có nhiều
anh hùng không?» - «Rất tiếc, đất nước tôi ít anh hùng lắm!» - «Lạ nhỉ, đất nước
tôi nhiều anh hùng thế mà sao vẫn cứ nghèo nàn và lạc hậu, còn đất nước anh
không có anh hùng mà sao lại phát triển và giàu có như vậy?» - «À, đất nước tôi
thì bù lại, được khá nhiều vị minh quân!» Thì ra chỉ một vị minh quân - hay mục
tử nhân lành - cũng đủ quí giá và ích lợi cho đất nước và Giáo Hội hơn nhiều
anh hùng hay cá nhân xuất sắc hợp lại! Cầu mong cho đất nước và Giáo Hội Việt Nam có được những
minh quân!
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin Cha
hãy ban cho Giáo Hội và đất nước con nhiều vị mục tử nhân lành hơn! Xin cho các
nhà lãnh đạo đất nước và Giáo Hội con biết thật sự yêu thương người dân cũng
như các tín đồ của mình hết lòng và sẵn sàng hy sinh phục vụ họ. Có như thế, đất
nước và Giáo Hội con mới tiến bộ lên được. Amen.
18. Đức
Giêsu, Vị mục tử nhân lành - Lm. Đan Vinh.
Tìm hiểu lời Chúa
1) Ý
chính: Đức Giêsu, vị mục tử nhân lành:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã tự ví mình như một Mục Tử nhân
lành. Sự nhân lành của người Mục Tử biểu lộ qua 3 hành động sau: một là biết rõ
từng con chiên và cũng được chiên nhận biết và đi theo. Hai là quan tâm đến cả
đàn chiên, nhất là những con bị đau ốm, bị thương tích hay lạc mất. Ba là can đảm
thí mạng đương đầu với sói rừng để bảo vệ đoàn chiên.
2)
Chú thích:
-
Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình
cho đoàn chiên. Người làm thuê vì không phải là Mục Tử, và vì chiên không thuộc
về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho
chiên tán loạn. Vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên (Ga
10,11-13):
] Tôi chính là: Đây
là kiểu nói mặc khải về Danh xưng của Thiên Chúa: “Ta là Đấng Hiện Hữu” (Xh
3,14). Đức Giêsu đã nhiều lần khẳng định: “Tôi Hằng Hữu” (Ga 8,24.28); “Chính
tôi là bánh trường sinh” (Ga 6,35), “Tôi là bánh từ trời xuống” (Ga 6,41); “Tôi
là ánh sáng thế gian” (Ga 8,12; 9,5); “Tôi là cửa cho chiên vào” (Ga 10,7.9);
“Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14); “Chính Thầy là sự sống lại và là
sự sống” (Ga 11,25); “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống” (Ga
14,6); “Thầy là cây nho thật…Thầy là cây nho, anh em là cành” (Ga 15,1.5).
] Mục Tử nhân lành:
Mục tử là người chăn chiên, một hình ảnh quen thuộc đối với dân Do Thái. Thiên
Chúa chính là Mục Tử cai trị, hướng dẫn dân Người (x. Tv 23,1). Ngôn sứ Edêkien
đã tuyên sấm lời Đức Chúa phán như sau; “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta,
chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; Con nào đi lạc,
Ta sẽ đưa về; Con nào bị thương, Ta sẽ băng bó; Con nào bệnh tật, Ta sẽ cho mạnh;
Con nào béo mập, con nào khỏe mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực
mà chăn dắt chúng” (Ed 34,15-16). Thiên Chúa cũng dùng một số mục tử để thay
Người mà coi sóc dân như Môsê (x. Is 63,11), Đavít (x. Tv 78,70-71). Bên cạnh
các mục tử tốt cũng có những kẻ xấu xa bất xứng (x. Gr 10,21; 12,10). Thiên
Chúa hứa ban một Mục Tử thuộc dòng dõi Đavít, luôn làm đẹp lòng Người (x. Gr
23,4-6; Ed 34,23-24). Vị Mục Tử duy nhất ấy chính là Đức Giêsu như Người đã từng
khẳng định: “Tôi là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11.14).
] Hy sinh mạng sống
mình cho đoàn chiên: Đây là sự khác biệt quan trọng giữa mục tử chân chính với
kẻ chăn thuê. Hy sinh mạng sống là dấu hiệu của một tình yêu tột đỉnh (x. Ga
15,13).
] Người làm thuê
không phải là Mục Tử: Đức Giêsu dùng kiểu nói tương phản để làm nổi bật tính
cách nhân lành của Mục Tử chân chính. Người chăn thuê thường tỏ ra hèn nhát và
vô trách nhiệm đối với đoàn chiên (x. Ga 10,12-13). Ở đây, người làm thuê ám chỉ
là các đầu mục dân Do Thái như các kinh sư, các người pha-ri-sêu gỉa hình (x.
Mt 23,2), các Ngôn sứ giả (x. Mt 24,11). Những đầu mục này chỉ lo tìm tư lợi,
là kẻ dẫn đường sai lạc, là người nói mà không làm, là người đạo đức giả (x. Mt
23,14.16.25.28).
-
Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết
tôi. Như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình
cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải
đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử
(Ga 10, 14-16):
] Tôi biết chiên của
tôi và chiên của tôi biết tôi: Từ ngữ “Biết” trong Kinh Thánh không những nói về
sự hiểu biết đối với tha nhân về tri thức, mà còn có nghĩa là một sự quan hệ mật
thiết: Biết cái gì nghĩa là có kinh nghiệm cụ thể về cái đó. Biết một người nào
là có liên hệ mật thiết với người đó (x. St 4,1; Lc 1,34). Đức Giêsu biết các
tín hữu là đoàn chiên của Người, và họ cũng biết Người là Mục Tử của họ và sẵn
sàng vâng nghe lời Người. Tuy nhiên những điều mặc khải của Đức Giêsu thường
khó hiểu và khó chấp nhận, bao lâu Đức Giêsu chưa được tôn vinh, nghĩa là chưa
được treo trên thập giá(x. Ga 8,28). Sự tôn vinh này là điều kiện để các môn đệ
đón nhận được ơn Thánh Thần (x. Ga 7,39). Rồi nhờ Ơn Thánh Thần tác động, các
ông sẽ hiểu biết trọn vẹn các chân lý đã được Đức Giêsu mặc khải trước đó (x.
Ga 16,3).
] Tôi còn có những
chiên khác không thuộc ràn này: Sự quan tâm săn sóc của Đức Giêsu, vị Mục Tử
nhân lành, không chỉ dành riêng cho các tín hữu, mà còn phổ biến đến mọi dân tộc
nhờ các môn đệ của Người. Sứ mạng loan Tin Mừng và làm chứng cho Đức Kitô được
trao cho các môn đệ và cũng là trao cho Giáo Hội, trao cho mỗi tín hữu chúng ta
trước khi Người về trời (x. Mt 28,19; Cv 1,8).
] Sẽ chỉ có một
đoàn chiên và một Mục Tử: Với cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, biên giới
ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại đã bị phá hủy (x. Gl3,28). Mọi người mọi
dân tộc đều có thể gia nhập đoàn chiên của Người, vì Người đã đổ máu ra để cứu
chuộc toàn nhân loại (x. 1 Tm 2,4). Viễn tượng về một ngày đoàn tụ nhân loại
trong một đại gia đình, một đoàn chiên duy nhất dưới quyền một Mục Tử tối cao
là Đức Giêsu (Vua Mêsia) có trở thành hiện thực hay không, là tùy vào sự ý thức
và quyết tâm của mỗi người tín hữu chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Ơn Thánh
Thần để chu toàn sứ mạng “được sai đi khắp thế gian, đến với muôn dân” hay
không.
- Sở
dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại Mạng
Sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống
mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của
Cha tôi mà tôi đã nhận được (Ga 10,17-18):
] Sở dĩ Chúa Cha
yêu mến tôi: Khi hiển dung trên quả núi cao, Đức Giêsu đã được Chúa Cha công nhận:
“Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về người” (Mt 17,5). Lý do Người được
Chúa Cha yêu mến:
] Là vì tôi hy sinh
mạng sống mình để rồi lấy lại: Đức Giêsu đã hy sinh chịu chết trên thập giá
vâng theo ý Chúa Cha như Người đã cầu nguyện trước cuộc khổ nạn: “ Cha ơi, nếu
được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý
Cha” (Mt 26,39). Người sẵn sàng chịu chết để rồi nhờ quyền năng Thánh Thần, Người
sẽ lấy lại mạng sống bằng sự phục sinh vinh quang.
] Mạng sống của
tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình: Việc Đức
Giêsu chịu chết không phải do ý muốn của các đầu mục Do Thái, tổng trấn
Philatô, Giuđa, quân lính và dân chúng…Nhưng là do Người tự ý chấp nhận vâng phục
thánh ý Chúa Cha(x. Mt 26,39) khi đến “GIỜ” Con Người được tôn vinh (x.Ga
12,23).
] Để rồi lấy lại: Đức
Giêsu đã báo cho các môn đệ biết trước: Người sẽ đi lên Giêrusalem, chịu đau khổ
do các đầu mục Do Thái gây ra, sẽ bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại (x.
Mt 16,21; 17,22; 20,18-19), nhờ quyền năng Thiên Chúa Cha (x. Cv 2,32-33).
] Đó là mệnh lệnh của
Cha tôi mà tôi đã nhận được: Đức Giêsu đã luôn vâng lời Chúa Cha (x. Mc 14,36),
đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự (x. Pl 2,8).
Học sống lời Chúa
1) “Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).
- Câu chuyện: Mẹ chết thay con:
Trên một tờ báo y học ở Achentina, bác sĩ Giăng Coóctê (Jean Cortez) đã
kể lại trường hợp đặc biệt mà chính ông đã chứng kiến. Ông đang điều trị cho một
bé gái tên là Angien. Em bị ung thư bao tử, một bệnh rất hiếm gặp nơi trẻ em.
Sau mấy lần giải phẫu và điều trị đủ cách, ông đành báo tin buồn cho bà mẹ là
ông đành chịu bất lực trước căn bệnh hiểm nghèo này, và cho biết Angien đã chết!
Bà Maria mẹ em bé gần như hóa điên khi nghe tin ấy. Bà nhất quyết không cho ai
đụng vào thi thể của con, và quì cầu nguyện nhiều giờ bên giường con. Bác sĩ
Coóc-tê rất xúc động khi nghe thấy lời bà cầu xin cho mình được chết thay con.
Ong cùng mọi người im lặng ra bên ngoài để bà một mình với đứa con yêu đã chết.
Nửa tiếng đồng hồ sau, mọi người lại vào phòng. Mọi người hiện diện đều
rất ngạc nhiên khi thấy Angien đã khỏe lại. Gương mặt em rạng rỡ vui vẻ. Em
đang ngồi trên giường và ôm mẹ, còn mẹ em thì lại nằm gục trên giường và đang ở
trong tình trạng sắp chết. Bà thều thào nói với bác sĩ rằng: “Thưa bác sĩ, tôi
rất mừng được Chúa đã thương nhậm lời cầu của tôi là cho tôi được chịu bệnh
thay thế cho con tôi!”. Bấy giờ bác sĩ Coóctê lập tức cho tái xét nghiệm và kết
quả là bé Angien đã hoàn toàn bình phục, còn bà Maria mẹ em lại mắc chứng bệnh
ung thư bao tử của em mà trước đó bà không hề mắc phải. Thân nhân xúm lại chung
quanh bà Maria để động viên an ủi bà và có người hứa sẽ thay bà mà nhận bé
Angien làm con và chăm sóc nuôi dạy bé nên người tốt. Vài giờ sau bà Maria tắt
thở trong bình an, Bà được mọi người kính phục về tình mẫu tử cao quí bà dành
cho con. Bác sĩ Coóctê kết luận: “Tôi không thể giải thích lý do tại sao chuyện
này lại có thể xảy ra được! Vì rõ ràng trước đó cô bé Angien đã chết. Có thể đã
có một quyền năng siêu phàm nào đó tác động và hoán chuyển căn bệnh quái ác từ
nơi đứa con sang cho bà mẹ!”
-
Suy nghĩ: Tình mẫu tử thiêng liêng đã khiến bà Maria hy sinh chịu chết thay cho
con. Tình mẫu tử ấy là phản ảnh tình yêu của Đức Giêsu, Mục Tử nhân lành đối với
các tín hữu là đoàn chiên của Người. Người đã nói: “Không có tình thương nào
cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga
15,13). Trong bài Tin Mừng hôm nay Người nói: “Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống
mình cho đoàn chiên”.
Câu hỏi:
1) Mỗi người chúng
ta đều có thể là mục tử đối với đoàn chiên là những người được Chúa trao cho ta
nhiệm vụ trông nom săn sóc. Vậy đoàn chiên ấy gồm những ai?
« Đáp: Đoàn chiên ấy
chính là các con cái và các em trong gia đình mà ta có nhiệm vụ phải nuôi dưỡng,
dạy dỗ và săn sóc; Đoàn chiên ấy cũng là các công nhân trong nhà máy xí nghiệp
mà ta đang giữ nhiệm vụ quản lý điều hành; Đoàn chiên ấy cũng là các học trò
trong một lớp học mà ta là giáo viên chủ nhiệm; Đoàn chiên ấy còn là các hội
viên trong hội đoàn Công Giáo Tiến Hành mà ta có nhiệm vụ là huynh trưởng trong
Ban Chấp Hành…
2) Phân biệt giữa
Mục Tử nhân lành với các kẻ chăn thuê giống và khác nhau thế nào?
« Đáp: Giống nhau
vì cả hai đều có nhiệm vụ phải chăm sóc và nuôi dưỡng đoàn chiên. Tuy nhiên Mục
Tử nhân lành và kẻ chăn chiên lại có nhiều điểm khác nhau như sau:
Mục tử nhân lành: là chủ đoàn chiên và
chiên thuộc về người ấy, nên ông yêu thương chúng và sẵn sàng thí mạng chống lại
với sói dữ để bảo vệ đoàn chiên; Ong lại cũng biết rõ từng con chiên một như về
tính khí và các khó khăn con chiên phải chịu đựng, các nhu cầu của chiên cần được
đáp ứng. Do đó đoàn chiên luôn yêu mến và vâng nghe lời ông. Ngoài ra Mục Tử
nhân lành còn phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với đoàn chiên như: băng bó
chữa lành các con chiên bị đau ốm hay thương tích, đi tìm các con chiên thất lạc
và tìm được thì vác trên vai mà đưa về đoàn, để sẽ chỉ có một đoàn chiên và một
mục tử.
Kẻ chăn thuê chỉ là người làm công và
chiên không thuộc về hắn, nên hắn không yêu thương chiên mà chỉ lo tìm tư lợi
ích kỷ như chỉ lo vắt sữa và xén lông chiên đem bán lấy tiền, không quan tâm
chăm sóc cho đoàn chiên, không chịu băng bó chữa bệnh cho chiên đau yếu, không
đi tìm các con chiên lạc. Nhất là khi thấy sói rừng kéo đến tấn công đoàn
chiên, kẻ chăn thuê cảm thấy nguy hiểm cho bản thân mình thì sẵn sàng bỏ rơi
đoàn chiên mà chạy thoát thân một mình, mặc cho sói rừng cắn xé các con chiên
và làm cho đoàn chiên tan tác…
2) “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của
tôi biết tôi” (Ga 10, 14)
- Câu chuyện: “Vì
tôi là linh mục”:
] Cách đây ít lâu,
Nguyễn Đức Quang đã sáng tác một bài hát mang tựa đề: “Vì tôi là Linh Mục” để tặng
một người bạn thân là linh mục “cấp tiến” đã phá giới hồi tục. Nội dung bài hát
về một linh mục vì không mặc áo dòng nên đã bị sa chước cám dỗ vào cuộc tình. Để
rồi cả đời bị lương tâm cáo trách và đánh mất lý tưởng của cuộc đời mình.
] Linh mục là người
phàm, không phải là thần thánh: Linh mục cũng là một con người yếu đuối và bất
toàn như bao người khác: “Nhân vô thập toàn”, Tuy nhiên Linh Mục đã được thánh
hiến cho Chúa, nghĩa là thuộc trọn về Chúa, hiến thân phụng sự Chúa và trở
thành khí cụ Chúa dùng mà thánh hóa thế gian. Linh Mục là người được Chúa mời gọi
và đã đáp lại tiếng Chúa bằng sự hy sinh tình cảm gia đình, thôi bỏ nghề nghiệp
mà đi theo làm môn đệ Chúa. Được Người đào tạo và huấn luyện trong môi trường
chủng viện. Sau đó, được thụ phong Linh Mục và được sai đi để chu toàn ba sứ vụ
đặc biệt là: Sứ vụ tiên tri để đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, sứ vụ
Tư Tế để cử hành các phép Bí Tích nhất là Thánh Thể mà thánh hóa người ta, và sứ
vụ Vương Đế để chăn dắt đoàn chiên được Chúa trao phó.
] Những khó khăn của
Linh mục thời đại mới: Trong bài “Linh mục, người là ai?”, văn hào Giuăng Aria
(Juan Arias) viết: “Lạy Chúa, Linh mục là ai? Đối với nhiều người: Ông ta là
người cô độc ích kỷ. Đối với nhiều người khác: Ông ta là thứ trai già vô tích sự,
một nhân viên bàn giấy của tôn giáo”. Người nghèo tỏ vẻ bực bội khi thấy Linh mục
năng tiếp xúc với các người giàu có. Họ rủa Linh mục là ‘Đồ tư bản chết liệt!”,
Nếu Linh mục hiến thân chuyên lo phục vụ cho người nghèo hèn ít học, bệnh tật,
cô đơn…thì người ta lại ganh ghét và gọi Linh mục là “Đồ Tả Khuynh bần tiện!”.
Làm Linh mục thời đại này thật không đơn giản chút nào!
] “ Một người luôn
luôn sai lầm” (He is always wrong): Đây là tựa đề của một bài báo nhỏ nói lên sự
cảm thông của các tín hữu đối với Linh mục chủ chăn như sau:
« Giảng ngắn dưới
10 phút: “Ông Linh mục này lười không chịu dọn kỹ bài giãng!”. Giảng quá 20
phút: “Ong ta là người ưa nói dai và nói dài!”
« Nếu giảng hùng hồn:
“Ông ta la lối om sòm thật bất kính đối với Chúa đang ngự trong nhà chầu!”. Nếu
giảng với giọng bình thường: “Ông ta có tài dỗ ngủ cho người mang bệnh khó ngủ!”.
« Nếu năng đến thăm
các gia đình trong xứ: “ Ông ta chẳng có việc gì để làm, suốt ngày la cà hết
nhà này sang nhà nọ để kiếm chác! chẳng mấy khi thấy ông ta có mặt ở nhà để tiếp
xúc với các người cần gặp hay để đi kẻ liệt!”. Nếu ít đi thăm: “Ông ta chẳng
quan tâm để biết con chiên của mình sống chết ra sao!”.
« Nếu Linh mục còn
trẻ: “Ông ta mới ra trường nên tay nghề còn non và chưa có kinh nghiệm mục vụ
giáo xứ!”. Nếu đã cao niên: “Một lão già lẩm cẩm hủ lậu! Ông ta nên sớm xin về
hưu đi là vừa!”.
Quyết tâm: “Ở sao cho vừa
lòng người: Ở rộng người cười ở hẹp người chê”: Câu ca dao thật đúng khi áp dụng
cho Linh mục. Vậy bạn quyết tâm sẽ làm gì để trở nên con chiên ngoan trong đoàn
chiên Chúa, do các Mục Tử là các Linh Mục chăm sóc?
(Đáp: Cầu nguyện, cảm thông, cộng tác, giúp đỡ, trở nên cánh tay nối
dài…)
19. Chú giải của Alain Marchabour.
CHÚA GIÊSU – VỊ MỤC
TỬ NHÂN LÀNH (cc. 11-21)
Dụ ngôn về vị mục tử và đoàn chiên gợi nhớ đến Lc 15,3-7 và Mt 18,12-14.
Tuy nhiên nơi Gioan điều lý thú tập trung trước tiên vào Chúa Kitô: Vị Mục Tử
nhân lành đối nghịch với kẻ trộm cướp (c.1) và người lạ (c.5). Ở đây được miêu
tả các mối tương quan liên kết mục tử với đoàn chiên của mình. Khác với những kẻ
làm thuê, Chúa Giêsu là mục tử đích thực (nhân lành) vì hai lý do: trước tiên
Người liều mạng sống mình để bảo vệ đoàn chiên; và nhất là Người duy trì với
các chiên mối tương quan hiểu biết duy nhất bởi vì được ăn rễ sâu trong sự hiểu
biết Chúa Cha của Người (như Chúa Cha biết Tôi).
Dụ ngôn, lúc đầu bóng bẩy, ám chỉ rõ ràng cái chết của Chúa Giêsu: “Tôi
hy sinh mạng sống mình cho chiên của Tôi” (10,15); cũng một giới từ như trong
Mc 14,24 (máu đổ ra cho muôn người) và trong Lc 22,19 (mình Thầy hy sinh cho
anh em).
Khi đối chiếu Chúa Giêsu với kẻ làm thuê, có một điều chắc chắn được xác
định về Chúa Giêsu: người làm thuê bỏ chiên mà chạy (“Thầy sẽ không để anh em mồ
côi” 14,18); lúc bấy giờ sói có thể vồ lấy chiên (“không ai cướp được các chiên
của Tôi khỏi tay Tôi” 10,28) và làm cho chúng tán loạn (Chúa Giêsu chịu chết “để
quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối” 11,52).
Kể từ câu 16, diễn từ vượt quá tình huống lịch sử của Chúa Giêsu để thâu
gom tất cả mọi tín hữu đến từ thế giới ngoại giáo và nhờ qua trung gian các môn
đệ, sẽ tin vào Người (17,20). Việc quy tụ các tín hữu, mong đợi vào thời cuối
cùng, sẽ được thực hiện chung quanh Chúa Giêsu và lời của Người. Sự hiệp nhất hằng
mong đợi này được trao ban trong cái chết của Chúa Giêsu (11,52); nó ăn rễ sâu
trong sự hiệp nhất hằng hữu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Đây là một cuộc chinh phục
thiết yếu đầy khó khăn mà Chúa Giêsu phải cầu xin trước khi Người trở về cùng
Chúa Cha (17,21).
Kể từ câu 17, Chúa Giêsu bày tỏ tình thân mật của Người với Chúa Cha, ở
đó sự sống và sự chết của Người đều có ý nghĩa. Nhịp điệu của bài diễn từ với
nhiều lần lặp lại, đối chiếu và tương hợp, mở rộng ý nghĩa như bản trình bày dưới
đây cho thấy:
Chúa
Cha
yêu mến Tôi là vì Tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại không ai lấy
đi được mạng sống của Tôi chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình Tôi có quyền hy
sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy đó là mệnh lệnh mà Tôi nhận đã nhận được từ
Cha
Tôi.
Được đặt ở đầu và ở cuối, Chúa Cha tỏ hiện như khởi nguyên và cùng đích
mọi hành động của Chúa Giêsu. Mọi sự đều xuất phát từ Người: mệnh lệnh không gì
khác hơn là cách diễn tả tình yêu. Theo động lực riêng biệt của Gioan, sự chết
được trình bày như một hành động hoàn toàn tự do trong đó hoàn thành mệnh lệnh
yêu thương của Chúa Cha. Ngay trong lúc chết, thời điểm theo thường tình con
người không còn làm chủ sự sống của mình nữa, Chúa Giêsu vẫn là Chúa Tể bởi vì
Người hoàn thành điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu của Người, đã muốn mang sự
sống đến cho mọi người. Việc suy niệm thần học về cuộc Thương Khó của Chúa
Giêsu ở đây, khá cách biệt với cách trình bày bi thảm trong Tin Mừng Maccô,
giúp chúng ta hiểu được cuộc Thương Khó như sự tự nguyện hoàn thành chương
trình của Chúa Cha.
Lời nói của Chúa Giêsu gây nên chia rẽ. Sự chia rẽ này liên quan đến những
kẻ từng chứng kiến việc chữa lành người mù, cũng như những người nghe dụ ngôn
và các người sẽ đọc lời giảng dạy này. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu “bị quỷ
ám” và đạo lý của Người chỉ có thể là dấu chỉ của ma quỷ và của sự điên khùng
(cả hai thứ thường liên kết với nhau trong thế giới cổ xưa). Kẻ khác nhận biết
nơi lời Người và trong hành động của Người dấu chỉ của Thiên Chúa.
20. Chú giải của Noel Quesson.
Khi ấy
Chúa Giêsu nói: "Tôi chính là...".
Các bạn hãy đọc lại thật chậm hai chữ này: "Tôi là" các bạn
hãy đặt hai chữ này lên môi miệng Chúa Giêsu. Vấn đề lớn được đạt ra đối với
Chúa Giêsu đó là lai lịch của Người: Người là ai? Tất cả những ai đã đến gần
Người đều phải ngạc nhiên vì sự bí mật về bản thân của Người. Người đã có những
hành vi lạ lùng, Người đã nói "nói như chưa có ai đã nói như thế bao giờ".
Đôi khi Người như có vẻ chiếm chỗ của Thiên Chúa.
Vì thế, Người đã nhiều lần dùng những cách nói, những công thức mà nghe
lướt qua, chúng ta không hiểu hết ý nghĩa.
“Ta là Bánh ...". -"Ta là ánh sáng trần gian...". -“Ta là
cửa ...". -"Ta là Đấng chăn chiên lành ...". -“Ta là cây
nho...". "Ta là sự Phục sinh và là sự sống...".
Tất cả những kiểu nói ấy bắt đầu bằng 2 chữ Hy Lạp “Ego eimi", có
nghĩa "Tôi là".
Chúng ta đừng quên rằng Chúa Giêsu đã phát âm những từ này theo tiếng
"Aramên", ngôn ngữ giống như tiếng Hêbơrơ và danh từ riêng
"Thiên Chúa” là nhóm chữ không quên được “YHWH", từ bốn chữ này không
ai đã dám đọc lên và có nghĩa là "Ta là" (Xuất hành 3-14). Trước bụi
gai bốc lửa trong sa mạc, Môsê đã hỏi Thiên Chúa: "Tên của Người là gì? Và
câu trả lời bí nhiệm từ lửa đã thốt ra: "Ta là Đấng Hằng Hữu”, bằng tiếng
Hêbơrơ, có 4 phụ âm mà người Do Thái không bao giờ đọc lên, và trong những bản
Thánh Kinh của chúng ta ngày nay, vì tôn trọng tính trung thực của các từ ngữ
đó (Thiên Chúa khó diễn tả), đôi lúc người ta đã giữ nguyên hình thức ban đầu:
Để mắt nhìn, thì hiểu là "Yahweh” nhưng thực sự đọc lên thì phải thốt ra
là "Đức Chúa".
Không tự xưng danh rõ ràng, nhưng qua những lời này Chúa Giêsu đã dám
tuyên bố rằng Người là "Đấng Cứu Độ duy nhất cho con người”, loại trừ tất
cả những vị Chúa giả hiệu, những Đấng Cứu Độ không chính danh, những lãnh tụ
sai lạc của nhân loại, người là "Đấng chăn chiên" duy nhất.
Tôi
chính là người mục tử nhân lành, người chăn chiên thực sự.
Biểu tượng "người mục tử dẫn đàn chiên" đã có từ lâu trong khắp
miền phương Đông ngày xưa, để mô tả những "Thần Thánh" và "Vua
Chúa".
Trong Thánh kinh cũng vậy, biểu tượng này cũng được áp dụng cho Chúa:
"Chúa là mục tử của tôi, tôi không còn thiếu thốn chi" (Tv 22,1).
"Giờ đây, chính Ta sẽ chăm sóc cho con chiên của Ta" Chúa đã nói (Ed
34). "Giờ đây Chúa của các ngươi đến. Như một người mục tử, Người cho đàn
chiên ăn cỏ - Với cánh tay quyền lực của Người, Người tập họp chiên lại, Người
ôm vào ngực những chiên con, Người mang đến sự tươi mát cho những chiên cái còn
cho con bú” (Is 40,11).
Chúng ta đừng bao giờ quên những trích dẫn này trong Kinh thánh mà bất cứ
người Do Thái nào, nhất là Chúa Giêsu, cũng phải nhớ luôn luôn. Đối với những
hình ảnh của Chúa Giêsu, lời tuyên bố này đã có một ý nghĩa “thần học" rõ
ràng: Người nói Người là "Đấng Mêsia", "sứ giả của Thiên
Chúa" để dẫn đắt loài người đến với cuộc sống thật. Câu trước liền câu
này, (rất tiếc là sách "bài đọc” đã không bắt đầu trước một câu) đã được
chính môi miệng Chúa Giêsu nói ra như tóm tắt hoàn hảo nhất của bộ Tin Mừng, và
sứ mệnh mà Người đảm nhận: "Ta đã đến cho loài người, có được cuộc sống,
và cho loài người có cuộc sống dồi dào" (Ga 10,10).
Chúng ta cũng biết loài người cần đến những người chỉ đạo như thế nào,
những Đấng do Chúa sai đến, có khả năng phân tách tình hình, dự đoán tương lai,
trừ khử những hiểm nguy đang hăm dọa và mang đến sự an toàn. Cá nhân tôi rất
chán ghét những điều ngu xuẩn mà các đài phát thanh và truyền hình thường phổ
biến ào ạt. Khi một số nhân vật, chỉ là những "con người" như chúng
ta đã tỏ ra dường như nắm được chân lý, biết những gì sẽ xảy ra, những gì phải
làm: Chỉ cần loại bỏ điều này, điều kia và mọi việc sẽ ổn, chỉ cần làm thế này
hoặc sai lạc ở chỗ này, chỗ kia.
Lời khẳng định sau đây của thánh Phêrô trong bài đọc 1 hôm nay vang lên
như một lời cảnh tỉnh trong bối cảnh hư hỏng và phá sản những giá trị thiêng
liêng: "Chúa Giêsu chính là viên đá mà các người tự xưng là những người
xây dựng thế giới đã chê bỏ, nhưng Người đã trở nên viên đá góc. Ngoài Người
ra, không có sự cứu rỗi nào cả".
Người
làm thuê, vì không phải là mục tử, và không có chiên thuộc về riêng mình, nên
thấy sói đến là bỏ chiên mà chạy.
“Người chăn chiên lành" ở đây được Chúa Giêsu giới thiệu để đối lại
với các "vị câu thế" giả hiệu, những người này hứa hẹn toàn "những
điều kỳ diệu”. Giờ nguy hiểm là giờ sự thật: Người chăn chiên giả hiệu,
"người làm thuê" chỉ làm công việc để kiếm tiền, và tìm lợi riêng.
Anh ta không cần gì đến đàn chiên, và đôi khi anh ta sẵn sàng phụ lực với chó
sói để tru lên. Trong mọi trường hợp, anh ta sẽ không liều mạng sống của mình,
nhưng trước hết anh ta sẽ tự cứu chính mình. Vì anh ta là kẻ làm thuê và không
thiết gì đến chiên. Còn người mục tử nhân lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên.
Trong trang này, bốn lần Chúa Giêsu nói: "Người hy sinh mạng sống của
chính Người". Chúng ta không nên dừng lại ở những hình ảnh thôn dã điền
viên, những "chuồng chiên" lãng mạn này. Bầu khí bây giờ thật bi thảm:
"Chúa Giêsu đang nghĩ đến người mục tử chịu chết để cứu đàn chiên của
mình. Hình ảnh lạ lùng, khác thường quá. Chúng ta thường nghĩ rằng: Khi một người
chăn chiên chết, anh ta không thể bảo vệ đàn chiên được nữa. Nhưng Chúa Giêsu
nói: Nhờ cái chết của Người, Người sẽ cứu chúng ta. Chúa Giêsu mạc khải điều
này trong hoàn cảnh: Sự thù địch của những lãnh tụ tôn giáo càng lúc càng tăng,
sau khi Chúa chữa lành một người mù bẩm sinh (Ga 9).
Mạng
sống của tôi không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình.
Đối với Chúa Giêsu, cái chết không phải là một sự bất ngờ, cũng không phải
là một ép buộc phải chịu, hay phải chấp nhận. Người đã làm cho cái chết trở
thành một sự hiến dâng hoàn toàn ý thức và tự do. Cái chết của Người là một
"tác động" yêu thương, yêu thương đến cùng. "Không có tình yêu
nào cao cả hơn là cho những người tự hiến chính mạng sống của mình" (Ga
13,1; 15,13).
Bản văn bằng tiếng Hy Lạp của Thánh Gioan ở đây mạnh nghĩa hơn là những
bản dịch có thể diễn tả. Nguyên văn có những từ sau đây: "Ta tháo gỡ linh
hồn Ta ra". "Ta hiến dâng mạng sống của Ta". Cách nói khác thường
này cũng ám chỉ trực tiếp bài thơ thứ IV của người đầy tớ (Is 53,10), người này
hiến dâng mạng sống của mình để hy sinh cho quần chúng. Còn chúng ta thì sao?
Phải chăng chúng ta sẽ giữ lại mạng sống và cái chết của chúng ta "cho
chính chúng ta?". Chúng ta sẽ hiến dâng cái chết của chúng ta cho ai?
Chúng ta có yêu thương người khác đủ để có thể thực hiện sự dâng hiến - tối thượng
này không?
Tôi
chính là người mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của Tôi, và chiên của Tôi biết
Tôi.
Khác với người làm thuê, "không thiết tha gì đến những con chiên”.
Nhân loại, tất cả mọi người, đều có giá trị dưới mắt Chúa Giêsu, cho đến độ Người
có thể liều mạng sống của Người cho mỗi một người trong chúng ta. Lạy Chúa,
Chúa đã liều mạng sống của Chúa vì con sao? Đúng, Ta đã yêu thương con thật
tình, không phải chuyện đùa giỡn.
Qua những lời thắm thiết nồng nàn "Ta biết chiên của Ta" chứng
tỏ tình yêu đã tiến rất xa. Động từ ‘biết’ trong Kinh thánh không chỉ có nghĩa
là biết bằng tri thức mà là sự ‘biết’ của một người thương yêu một người khác đến
độ như đã cộng sinh ra với người đó và dấn thân hoàn toàn vì người đó; như một
người chồng nói về vợ mình: "Bây giờ anh biết em, anh trở thành một tạo vật
mới, đấy là sự hy sinh ra lần thứ hai". Sự hiện diện mật thiết của người
này trong người kia, một sự cảm thông hỗ tương, một sự hiệp thông trong tư tưởng
và tâm hồn. Đấy là “cùng sống với người đó" và "dấn thân vì người
đó".
Như
Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha.
Đấy là một gương mẫu. Sự thương yêu mật thiết và sống động giữa Ngôi Cha
và Ngôi Con trong mầu nhiệm Ba Ngôi. Sự mật thiết giữa Chúa Giêsu và những người
Chúa cứu chuộc bằng cái chết của Người, những người mà Chúa cho sinh ra nhờ cái
chết của Người. Đó cũng chính là sự kết hợp mật thiết hiện có giữa các ngôi vị
Thiên Chúa. Vâng chúng ta hãy nói về sự mật thiết sâu sa này: Khi nghe gọi
"Maria", Mađalêna đã nhận ra ngay đó là tiếng nói của Chúa Giêsu Phục
sinh (Ga 20,16). Tôi cũng thế, tôi cũng được Chúa biết rõ tên riêng của tôi. Tạ
ơn Chúa, vì tình thương này.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc đàn này. Tôi cũng phải đưa chúng
về, chúng sẽ nghe tiếng Tôi và sẽ chỉ có một đàn chiên, và một người mục tử.
Trái tim Chúa Giêsu yêu thương mọi người. Tương quan sống động, việc hiệp
thông sự sống giữa người mục tử và những con: chiên, "sự quen biết riêng”
với từng con chiên, Chúa Giêsu xác quyết rằng sự "quen biết" này sẽ
lan ra đối với tất cả mọi người không ngoại trừ ai cả. Sứ mệnh cứu độ của Người
phải vươn tới tầm mục hoàn cầu. Chữ "Oicouménè" Hy Lạp có nghĩa là
"toàn địa cầu có người ở”. Một lần nữa, đây là cách nói bí nhiệm của Chúa
Giêsu, làm cho chúng ta tự hỏi: "Người là ai, mà có những tham vọng như thế?
Người có "hơn" Người thợ mộc khiêm nhường ở Nagiarét không? Xét theo
bề ngoài dường như Chúa Giêsu sắp chết trong sự thất bại hoàn toàn, bằng một
cái chết nhục nhã và bị chế nhạo, một cái chết "vô ích"? Ở thế kỷ II,
có một lời ghi trên một phần mộ, ký tên Abercius: "Tôi là môn đệ của một
thánh Mục Tử có mắt rất to, nhìn thấy khắp nơi". Chúa Giêsu cũng vậy, Người
có mắt rất to: Mỗi người một ngày nào đó, dù hư hỏng đến đâu, cũng sẽ nghe
"tiếng của Người" và sẽ tự cảm thấy được Chúa thương yêu và
"đoái nhìn đến", chúng ta chỉ thấy có một phần nhỏ đàn chiên của Người,
Công đồng Vatican nói: Đàn chiên nhỏ, đám đông vô tận.
Sở
dĩ Chúa Cha yêu mến Tôi, chính vì Tôi hy sinh mạng sống. Tôi có quyền hy sinh
và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là lệnh của Cha Tôi mà Tôi đã nhận được.
Người thí bỏ mạng và lấy lại mạng sống của Người đễ dàng như "tháo
cởi và mặc lại" áo quần. Chính những từ này đã được dùng chiều thứ Năm Tuần
Thánh trong Tin Mừng theo Thánh Gioan 13,4-12.
21. Chú giải của Fiches Dominicales.
ĐỨC
GIÊSU VỊ MỤC TỬ TỐT LÀNH
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1.
Giữa cuộc luận chứng về căn tính.
Chúng ta đang trong bối cảnh lễ Lều, với 2 nghi lễ độc đáo: thắp sáng Đền
Thờ và rước đuốc ban đêm; đoàn rước các tư tế tới múc nước ở giếng Siloê về đổ
trên bàn thờ trong Đền Thờ.
Chính trong khung cảnh lễ này mà Đức Giêsu đã chọc giận các đối thủ đang
tìm bắt Người, khi tự giới thiệu là người được Thiên Chúa sai đến thực hiện nơi
bản thân điều mà nghi lễ loan báo: Khi lễ Lều kết thúc, Đức Giêsu đã tuyên bố:
"Ai khát hãy đến cùng Ta và hãy uống" (7,37-38). Kế đó, Người nói với
người Do Thái: "Ta là ánh sáng trần gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong
bóng tối, nhưng sẽ được ánh sáng cho cuộc đời" (8,12).
Ra khỏi Đền Thờ, Đức Giêsu gặp trên đường một người mù từ mới sinh. Người
truyền cho anh: "Hãy đi rửa ở suối Siloê”?
Người mù đi rửa và anh đã nhìn thấy. Bị những người Biệt phái làm khó dễ,
nguyền rủa, sau cùng, bị trục xuất khỏi Hội đường, người mù đã sáng lại gặp Đức
Giêsu, anh nhận ra Người là Con Người: "Lạy Thầy, tôi tin”. Anh quỳ xuống
trước mặt Người mà tuyên xưng. Anh giống như con chiên đầu tiên của đoàn chiên
mới được vị Mục Tử Tốt Lành qui tụ lại (9,35-38).
2. Đức
Giêsu tự giới thiệu mình là vị Mục Tử cứu thế
Đức Giêsu vẫn đang nói với người Biệt phái. Người đã đối chiếu "trộm
cướp”, chúng theo ngã khác leo vào chuồng chiên, với “vị mục tử đích thực”:
theo cửa chính mà vào, gọi tên từng con và cho chúng ra ngoài (10,1-6). Đối với
các thính giả tìm lương thực nơi Kinh Thánh, hình ảnh về người mục tử cứu thế
được Thiên Chúa sai đến, dẫn đầu đoàn chiên trong cuộc Xuất hành mới thật là dễ
hiểu.
Trước sự chậm hiểu của những người Biệt phái, Đức Giêsu tự nhận là
"cửa chuồng chiên" (10,7-10) trước khi tuyên bố công khai: "Ta
là mục tử tốt lành (người chăn chiên đích thực)!" không phải theo nghĩa nhẹ
nhàng, bóng bẩy, mà theo nghĩa trọn vẹn của chức năng, thể hiện trọn vẹn sứ mệnh
mục vụ.
- Người “chăn thuê”, chẳng khi nào chịu liều mình cho đoàn chiên vì
chiên đâu phải của họ: vừa có biến là họ đào tẩu bỏ mặc đàn chiên không ai bảo
vệ. Đức Giêsu, "vị mục tử tốt lành”, cũng giống như chàng mục tử Đavid nhỏ
nhắn ngày xưa dám cống hiến cả mạng sống để bảo vệ đàn chiên của cha già Jessê
(1Sam 17,31 ), không sợ "nguy nan" hay "thiệt mạng”.
Khác với người “chăn thuê”, Đức Giêsu, vị "mục tử tốt lành”,
"biết chiên và chiên biết Người, như Cha biết Người và Người biết Cha”.
Người gắn bó với họ bằng sợi dây yêu thương theo khuôn mẫu và khơi nguồn từ
tình yêu trao đổi giữa Chúa Cha và Chúa Con.
3. Đến
qui tụ đoàn chiên vượt qua mọi biên giới.
- Bỗng chốc chân trời mở rộng vượt khỏi những giới hạn chật hẹp của “chuồng
chiên Do Thái, vươn tới những con chiên khác" mà Đức Giêsu phải dẫn đưa về,
để chỉ còn "một đàn chiên và một chủ chiên".
A.Marchadour chú giải: lời Đức Giêsu phá vỡ hoàn cảnh lịch sử, bao gồm cả
những tín hữu đến từ thế giới dân ngoại, nhờ các tông đồ mà tự nhận Người
(17,20). Thời sau hết, mọi tín hữu sẽ qui tụ chung quanh Đức Giêsu và lời Người.
Sự hiệp nhất đáng mong ước này được trao ban trong cuộc Tử Nạn của Đức Giêsu
(11,52); sự hiệp nhất ấy có nguồn gốc nơi sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa
Con. Đó là một cuộc chinh phục đầy gian nan mà Đức Giêsu đã quan tâm cầu khẩn
trước khi Người về cùng Cha (17,21) (Tin Mừng theo thánh Gioan, Centurion,
trang 144).
- Đoạn Tin Mừng kết thúc bằng một câu nói lên sự viên mãn đến lạ lùng,
qua đó, dưới ánh sáng của mối thân tình giữa Người và Chúa Cha, Đức Giêsu bộc lộ
ý nghĩa của đời sống và cái chết của Người. Khi trao ban mạng sống của Người,
đúng hơn "phó thác mạng sống" trong một hành vi vừa tự do tuyệt đối
("Mạng sống Ta... không ai lấy được: chính Ta tự trao ban") vừa hoàn
toàn vâng phục Chúa Cha ("Đây là lệnh truyền Ta đã nhận từ Cha"), Đức
Giêsu, Chúa Con, bày tỏ ở mức hoàn hảo nhất tình yêu của Chúa Cha muốn cứu độ
toàn thể nhân loại.
A. Marchadour nhận xét: "Được đặt ở khởi đầu và kết thúc, Chúa Cha
xuất hiện như nguồn mạch và cùng đích cho mọi hoạt động của Đức Giêsu. tất cả đến
từ Người: lệnh truyền chẳng gì khác hơn là sự bày tỏ tình yêu. Cái chết, dưới
ngòi bút sống động của Gioan, được trình bày như một hành vi tuyệt đối tự do
trong đó Đức Giêsu hoàn tất lệnh truyền yêu thương của Chúa Cha. Ngay cả trong
cái chết, giờ phút mà con người thường bị truất quyền làm chủ mạng sống, Đức
Giêsu vẫn làm chủ, vì Người hoàn tất điều mà Thiên Chúa, trong tình yêu, muốn để
đem sự sống đến cho con người" (Sđd, trang 144-145).
BÀI ĐỌC THÊM
1)
Dung mạo đích thực của Giáo Hội
"Ta
còn những chiên khác chưa thuộc đàn này”.
Đó là dung mạo đích thực của Giáo Hội. Giáo Hội là truyền giáo. Nếu
không Giáo Hội sẽ chẳng còn là Giáo Hội nữa. Hoặc sẽ là Giáo Hội của những Người
được sai đi (Tông đồ) hoặc sẽ chẳng còn là Kitô hữu nữa. Chúng ta, bạn và tôi,
hôm nay, phải thi hành điều mà các Tông đồ đã làm vào thời các ngài. Các ngài
đã để Mầu Nhiệm Phục Sinh biến đổi mình. Các ngài đã hiểu rằng, nhờ Bí tích
Thánh Thể và qua các ngài, nhân tính Chúa lại hiện diện nhiều hơn nữa. Các ngài
đã hiểu rằng Người muốn nhờ các ngài đem đến cùng tận địa cầu, cũng như nhờ
chúng ta đem đến tận cùng thời gian, ơn cứu độ mà trong 33 năm, Người đã đem tới
cho những người sống cùng thời với Người. Từ nay, chính nhờ đôi mắt ta mà Đức
Kitô có thể nhìn thấy những khổ đau của nhân loại, chính nhờ đôi chân ta mà Đức
Kitô có thể đi đến gặp gỡ con người trong đau thương hay trong lầm lạc, chính
nhờ trái tim ta mà Người có thể yêu thương thế giới hiện đại. Chính qua bản
thân ta mà Đức Giêsu Cứu Thế muốn trao ban sự sống của Người, sự sống của ta.
Như thế, trở về chuồng chiên không còn là cứ giữ nguyên lốt chiên, nhưng là trở
nên, qua ơn gọi, chính Vị Mục Tử Tốt Lành đi tìm con chiên lạc đàn .
Nói về ơn gọi là nói về cuộc chuyển hoán, cuộc đổi đời quyết liệt của tất
cả những ai đã lãnh nhận bí tích rửa tội. Ơn gọi này đòi buộc ta phải giã từ
thân phận của những kẻ tiêu thụ thuần tuý, chỉ biết đòi hỏi trong Giáo Hội. Ta
phải trở nên thân thể Đức Kitô. Ta phải là bóng hình của Người. Mỗi người ở địa
vị mình, đều được kêu gọi vào những công việc khác nhau, để thực sự trở thành
những Mục tử Tốt lành cho con người thời nay".
2.
"Tình yêu, con đường duy nhất để đến vơi thế giới bất tin" (Đức Hồng Y P.Poupard, tài liệu dành cho ngày ơn thiên triệu).
"Thánh nữ Têrêxa đã mở ra cho chúng ta con đường duy nhất để đến với
thế giới những người không tin: đó là tình yêu. Không ai có thể sống thiếu tình
yêu. Trước tấn thảm kịch của thuyết nhân bản vô thần, thảm kịch, vì do nhân
danh một tư tưởng cao cả của nhân loại, mà con người đã khước từ Thiên Chúa. Mọi
Kitô hữu, mọi linh mục, mọi tu sĩ đều bồn chồn lo âu. (…) Thánh Phanxicô đệ
Salê đã nói: "tất cả đều dành cho tình yêu đều ở trong tình yêu, đều vì
tình yêu, và đều phát xuất từ tình yêu trong Giáo Hội”. Nhưng cái chân lý cao cả
ấy hầu như đã bị lãng quên, đã bị thuyết Jansénisme khô cằn ngăn chặn. Chỉ có
người nữ tu dòng kín trẻ trung thành Lisieux đã nhắc ta nhớ lại chân lý ấy
trong nét tươi tắn của thái độ Ngài hoàn toàn phó thác cho Thiên Chúa. Hôn thê
của Đấng chịu đóng đinh và đã vì yêu mà tự nộp mình cho ta, chính chị cũng dâng
hiến cho Người tình yêu vì tình yêu, như vị hôn thê dâng hiến cho hôn phu.
"Trong trái tim Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu”; thế là đã rõ, một xác quyết
như thế đụng chạm tới tất cả mọi người ở thế kỷ XX của chúng ta vì chúng ta
không biết yêu và được yêu trong chân lý (...).
Thánh nữ Têrêxa luôn luôn là, tôi dám nói, một âm vang đích thực của
trái tim Thiên Chúa cho thời đại chúng ta, cho mỗi người chúng ta. Dù ta là ai,
ta đã được tạo thành để sống tình yêu Thiên Chúa, tình yêu đã trao ban sự sống
cho ta. Ta đến từ Thiên Chúa và ta lại trở về với Người, Người là Đường là Sự
Thật và là Sự Sống. Công Đồng Vatican II đã mạnh mẽ nhắc lại điều này. Sử gia
mai ngày có thể thắc mắc ''Giáo Hội thời Công Đồng đã làm gì? Đức Phaolô VI đã
trả lời họ ngay từ ngày 14/9/1965: “Giáo Hội yêu, Giáo Hội yêu, yêu bằng trái
tim mục tử, yêu bằng trái tim đã kêu, yêu bằng trái tim rộng mở đón nhận mọi
người, kể cả những người bắt bớ Giáo Hội”. Ta nên tìm lại cái trực cảm quan trọng
ấy của Đức Phaolô VI. Đó cũng là trực cảm của thánh nữ Têrêxa thành Lisieux:
“Giáo Hội là Đức Kitô và Đức Kitô là tình yêu”. Chúng ta được Thiên Chúa yêu
thương.
Thánh nữ Têrêxa đã khơi gợi hàng ngàn, hàng ngàn ơn gọi làm linh mục
trên khắp thế giới. Những linh mục ấy đã tìm thấy nơi thánh nữ một tình yêu tuyệt
đối dành cho Đức Giêsu và tình yêu Giáo Hội, một ý nghĩa sâu xa trong kinh nguyện
và trong sứ mệnh truyền giáo trên khắp hoàn cầu, một sự kết hợp bằng chiêm niệm
và hoạt động, một mẫu gương dùng con đường tình yêu bé nhỏ và phó thác, đường
nên thánh trong cuộc sống hằng ngày. Ngày nay, thánh nữ Têrêxa vẫn tiếp tục làm
phong phú tác vụ của các linh mục, đặc biệt là những linh mục trẻ bị cuốn hút bởi
sứ điệp tình yêu giữa lòng Giáo Hội (...).
Tất cả hành trình đức tin thâu tóm trong đức cậy và đức ái. Niềm tin là
niềm hy vọng của tình yêu, tin là hy vọng vào tình yêu. Phải chăng vai trò đã
được quan phòng của sứ điệp của thánh nữ Têrêxa, ở ngưỡng cửa thiên niên kỷ thứ
3, chính là trả lại cho ta tình yêu và niềm hy vọng? Con người đã được tạo dựng
theo hình ảnh Thiên Chúa Tình Yêu là để yêu thương. Trong lãnh vực tình yêu,
thánh nữ Têrêxa là bậc thầy linh đạo. Trong tình yêu, không có dè dặt, không có
tính toán, không có trung dung, không có quân bình vì con người chẳng bao giờ
có thể yêu Thiên Chúa cho xứng với tình Người yêu ta (...).
Một nữ tu hỏi thánh nữ Têrêxa: "Chị nói gì với Đức Giêsu?” Chị
thánh trả lời: "Em không nói gì hết, em yêu Người”? Chỉ tình yêu là quan
trọng.
3.
“Trong trái tim Giáo Hội, tôi sẽ là tình yêu”.
(Thánh nữ Têrêxa
Hài Đồng, bản văn được trích dẫn trong tài liệu của Uỷ ban quốc gia về ơn thiên
triệu)
"Sau cùng con đã tìm thấy an nghỉ... tìm trong thân thể mầu nhiệm của
Giáo Hội, con chẳng thấy mình trong bất cứ chi thể nào đã được thánh Phaolô
miêu tả, đúng hơn con muốn có mặt trong tất cả những chi thể ấy... Đức ái đã
cho con chìa khoá ơn gọi của con. Con hiểu rằng nếu Giáo Hội có một thân thể gồm
nhiều chi thể khác nhau, chi thể quan yếu nhất, cao cả nhất không thể thiếu được,
con hiểu đó là TRÁI TIM, và TRÁI TIM đó cháy đỏ TÌNH YÊU. Con hiểu rằng chỉ có
Tình Yêu mới làm cho các chi thể của Giáo Hội hoạt động, và nếu Tình Yêu vụt tắt,
các Tông đồ sẽ thôi không loan báo Tin Mừng, các thánh tử đạo sẽ từ chối đổ
máu... Con hiểu rằng TÌNH YÊU phủ trùm lên mọi ơn gọi, và tình yêu là tất cả,
bao gồm mọi không gian và mọi thời gian... Tắt một lời, Tình Yêu là vĩnh cửu!
Thế là, trong niềm vui tột đỉnh, con kêu lên: "ôi Giêsu, Tình Yêu của
con, ơn gọi của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là TÌNH
YÊU. Phải rồi, con đã tìm được vị trí của con trong Giáo hội. Chỗ ấy, Ôi lạy
Chúa, chính Chúa đã ban cho con, trong trái tim Giáo Hội, thưa Mẹ, con sẽ là
Tình Yêu, như thế con sẽ là tất cả, như thế giấc mơ của con đã thành hiện thực!”
CHÚA
NHẬT IV PHỤC SINH B
LỄ CHÚA CHIÊN LÀNH
LỄ CHÚA CHIÊN LÀNH
Cv
4,8-12; 1 Ga 3,1-2; Ga 10,11-18
TÌNH YÊU HIẾN DÂNG CỦA MỤC TỬ NHÂN LÀNH
“Tôi
chính là Mục Tử nhân lành.
Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình
cho đoàn chiên”
(Ga 10,11)
Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình
cho đoàn chiên”
(Ga 10,11)
1. Bài đọc 1
Lời chứng hùng hồn của Phêrô trước các vị thủ lãnh
Do Thái cho thấy niềm xác tín của Giáo Hội sơ khai về Đức Kitô Phục Sinh và tác
động của biến cố đó trên đời sống các tín hữu.
Trước hết, lời chứng của Phêrô, đại diện cho các tín
hữu thời Giáo Hội sơ khai, về Đức Kitô Phục Sinh nhấn mạnh vai trò của Chúa
Thánh Thần. Phêrô được “đầy Thánh Thần” mạnh dạn lên tiếng làm chứng về Chúa
Kitô Phục Sinh (Cv 4,8). Từ khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Ngũ
Tuần (Cv 2,1-4), các tín hữu luôn xác tín về sức mạnh của Thánh Thần trong lời
chứng của họ: họ nhận được đầy Thánh Thần nên mạnh dạn nói lời Thiên Chúa (Cv
4,31); lời chứng của họ là lời chứng cùng với Thánh Thần (Cv 5,32); Têphanô,
một người đầy Thánh Thần (Cv 6,5), và cũng nhờ được đầy tràn Thánh Thần mà sẵn
sàng dùng chính mạng sống của mình để làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh (Cv
7,1-60).
Sau nữa, Phêrô xác tín rằng việc ngài chữa lành cho
một người què không hề do quyền năng riêng hay lòng đạo đức của mình, mà do
lòng tin vào danh của Đức Kitô Phục Sinh (x. Cv 3,11-16). Chính nhờ danh Đức
Giêsu Kitô, người Nadarét, Đấng đã chịu đóng đinh vào thập giá, và Thiên Chúa
đã làm cho trỗi dậy từ cõi chết, chính nhờ Đấng ấy mà người què được lành mạnh
(x. Cv 4,9-10). Đức Kitô Phục Sinh không chỉ là một xác tín suông, mà niềm xác
tín đó mang lại ơn chữa lành cho những ai có lòng tin. Chính Đức Kitô Phục Sinh
hành động qua những người đặt niềm tin nơi Người.
Cuối cùng, Phêrô tuyên xưng mạnh mẽ rằng Đức Kitô
Phục Sinh, Đấng đã bị loại bỏ và giết chết như tảng đá bị thợ xây loại ra
ngoài, lại trở nên tảng đá góc tường vì dưới gầm trời này, ngoài Người ra,
không có danh nào khác đã được ban để nhờ đó mà nhân loại được cứu độ (x. Cv
4,11-12). Niềm xác tín căn bản này của Giáo Hội sơ khai, qua lời chứng hùng hồn
của Phêrô, vẫn là con đường cứu độ duy nhất cho nhân loại, con đường đi qua khổ
đau của khổ giá để đến vinh quang phục sinh.
Nhờ ơn Thánh Thần mà Giáo Hội sơ khai mạnh dạn làm
chứng về Đức Kitô Phục Sinh, Đấng là sức mạnh chữa lành cho những ai có lòng
tin, và là Đấng Cứu Độ duy nhất cho nhân loại dưới gầm trời này.
2. Bài đọc 2
Đoạn thư thứ nhất Gioan trình bày những chân lý cao
sâu về tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa có sức biến đổi kỳ diệu, làm
thay đổi thân phận của người được yêu thương.
Tình yêu Thiên Chúa làm cho những người được yêu
thương ra như không còn thuộc về thế gian. Tình yêu diệu kỳ đó làm cho người
được yêu không chỉ được gọi là con Thiên Chúa mà thực sự là con Thiên Chúa.
Tình yêu đó biến đổi họ, thay đổi thân phận của họ, ban cho họ những quyền lợi
thật sự của kẻ làm con đến nỗi thế gian không còn nhận ra họ nữa, vì thế gian
không biết Thiên Chúa.
Tình yêu Thiên Chúa không chỉ làm thay đổi thân phận
của người được yêu, mang họ ra khỏi những ô nhơ, tội lụy của thế gian và ban
cho họ quyền làm con Thiên Chúa, mà còn hướng họ đến một chân trời mới, cao xa
hơn, huyền nhiệm hơn phía trước. Chân trời mới đó hiện nay vẫn chưa được tỏ
hiện cách rõ ràng và trọn vẹn, nhưng sẽ được mạc khải cách tròn đầy khi Đức
Kitô xuất hiện. Đức Kitô sẽ xuất hiện thế nào, hiện nay vẫn chưa hoàn toàn sáng
tỏ, nhưng có điều chắc chắn là những người được Thiên Chúa yêu thương sẽ được
nên giống như Người.
Tình yêu Thiên Chúa quả diệu kỳ: Tình yêu ban cho
người được yêu thân phận làm con Thiên Chúa và được trở nên giống Chúa Kitô khi
người lại đến.
3. Bài Tin Mừng
Trong Cựu Ước, Thiên Chúa được xem là mục tử của dân
Israel (St 48,15; Is 40,11; Tv 80,2), nhưng các vị mục tử được Thiên Chúa trao
trách nhiệm chăn dắt chiên của Ngài không phải lúc nào cũng là những mục tử tốt
(x. Gr 23,1-2; Ed 34,1-6), nên Thiên Chúa hứa ban vị mục tử đẹp lòng Ngài để
dẫn dắt dân (x. Gr 3,1; Ed 34,23). Đoạn trích Tin Mừng thứ tư trình bày Chúa
Giêsu như là mục tử tốt lành có thể được xem như hiện thực hóa điều Thiên Chúa
hứa xa xưa. Tác giả nhấn mạnh tính “tốt lành” của vị mục tử bằng cách làm nổi
bật những phẩm chất cao quý, lý tưởng cho mọi mục tử.
Trước hết, phẩm chất đầu tiên của mục tử Giêsu là sự
hy sinh đến tận cùng. Theo lẽ thường thì mục tử phải ra sức bảo vệ đàn chiên vì
sự an toàn, khỏe mạnh của đàn chiên cũng chính là lợi ích của mục tử. Xét cho
cùng, mục tử bảo vệ đàn chiên là bảo vệ lợi ích của mình. Còn kẻ làm thuê chỉ
tính toán cho lợi lộc riêng nên khi gặp khó khăn sẽ bỏ đàn chiên mà chạy. Trái
lại, mục tử Giêsu không chỉ bảo vệ, mà còn hy sinh cả mạng sống cho đàn chiên.
Dù hình ảnh mục tử - đàn chiên rất phổ biến trong Cựu Ước, nhưng không có nơi
nào trong Cựu Ước trình bày bất kỳ mục tử nào dám chết cho đàn chiên. Như thế,
sự chăm sóc, bảo vệ và hy sinh bằng cả tính mạng mà mục tử Giêsu dành cho đoàn
chiên là vì chính lợi ích của đoàn chiên chứ không vì lợi ích riêng của mình.
Hơn
nữa, phẩm chất thứ hai của vị mục tử Giêsu là “biết chiên” và “chiên biết”.
Theo lẽ thường, các mục tử tiếp xúc hàng ngày với đàn chiên nên mối tương quan
giữa mục tử và chiên là mối tương quan hai chiều: mục tử biết chiên và chiên
biết mục tử. Ở đây, cái “biết” của mục tử Giêsu đối với đàn chiên, một đàng,
cũng không nằm ngoài qui luật bình thường đó, đàng khác, được làm nổi bật qua
phép so sánh: “Tôi biết chiên
của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa
Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,14-15).
Mối tương quan giữa Chúa Giêsu và Chúa Cha gần gũi, thân thiết, sâu sắc đến nỗi
hai mà như một: “Ta và Chúa Cha là một” (Ga 10,30), đến độ “Ai
thấy thầy là thấy Chúa Cha” (Ga
14,9). Sự “biết” giữa Đức Giêsu và đàn chiên cũng gần gũi, thiết thân đến nỗi
sự sống của đàn chiên cũng chính là sự sống của mục tử Giêsu, Đấng sẵn sàng hy
sinh mạng sống cho đàn chiên.
Sau cùng, phẩm chất thứ ba của mục tử Giêsu là sự
tập hợp những đàn chiên khác nữa để chỉ có một đàn chiên và một mục tử. Mục tử
Giêsu không chỉ quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho đàn chiên của mình, những người
đã đón nhận đức tin, mà còn mở rộng sự lưu tâm đến những đàn chiên khác, những
người chưa tin. Sự hy sinh tính mạng của mục tử Giêsu có giá trị cho cả những
đàn chiên khác lúc này chưa nhận ra tiếng Người. Mục đích tối hậu của mục tử
Giêsu là đưa những con chiên đó về với Người, để “chỉ có một đàn chiên và một
người mục tử” (Ga 10,16).
Đức Giêsu thực là mục tử tốt lành, Đấng biết rõ đàn
chiên, gần gũi với từng con chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống cho đàn chiên.
Người không chỉ chăm lo cho đàn chiên của mình, cho những người tin, mà còn mở
rộng lòng kêu mời những con chiên thuộc đàn khác, những con còn đi lạc, những
người chưa tin để chúng cũng trở về hợp thành một đàn chiên duy nhất, dưới sự
chăn dắt của mục tử tốt lành, mục tử Giêsu.
II. GỢI Ý ÁP DỤNG
1/ Phêrô,
đại diện cho các tín hữu sơ khai, tuyên tín về Đức Kitô Phục Sinh. Tôi có thật
sự xác tín về mầu nhiệm phục sinh của Đức Kitô? Đức Kitô Phục Sinh có ảnh hưởng
gì trên cuộc đời tôi? Tôi có sẵn sàng làm chứng về Đức Kitô Phục Sinh bằng
những phương tiện và trong khả năng mà tôi có?
2/ Thư thứ nhất Gioan xác tín về sức biến
đổi diệu kỳ của tình yêu Thiên Chúa. Tôi có tin rằng Thiên Chúa yêu thương tôi?
Tôi có dám để cho tình yêu Thiên Chúa biến đổi cuộc đời tôi? Tôi có sẵn sàng
sống địa vị làm con Thiên Chúa? Tôi có muốn trở nên giống Đức Kitô, Đấng là
hiện thân của tình yêu Thiên Chúa?
3/ Đức
Giêsu chính là vị mục tử tốt lành, Đấng biết rõ mỗi người chúng ta, sẵn sàng
chết cho chúng ta, để quy tụ chúng ta về một đoàn chiên duy nhất dưới sự dẫn
dắt của Người. Tôi có tìm kiếm để biết Chúa Giêsu như Chúa Giêsu vẫn hằng biết
tôi? Tôi có để cho Chúa Giêsu mục tử chăn dắt và hướng dẫn cuộc đời tôi? Tôi có
sống tinh thần hiệp nhất mà mục tử Giêsu khởi xướng và mời gọi?
III. LỜI NGUYỆN CHUNG
Chủ
tế: Anh
chị em thân mến! Trong ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ hôm
nay, chúng ta cùng hướng lòng lên Đức Kitô, vị Mục Tử nhân lành, để chân thành
dâng lời cảm tạ và tha thiết nguyện xin:
1. Đức Kitô đến để cho đoàn chiên được
sống và sống dồi dào. Chúng ta cùng cầu xin cho các vị chủ chăn trong Hội Thánh
luôn biết noi gương Chúa: tận tình quan tâm chăm sóc mọi nhu cầu của đoàn
chiên, sẵn sàng trở nên như tấm bánh bẻ ra vì sự sống của mọi người.
2. “Ta
còn những chiên khác không thuộc đàn này.” Chúng ta cùng cầu xin cho những
người ở khắp nơi trên thế giới chưa đón nhận đức tin chân thật, biết khát khao
tìm kiếm chân lý và mở lòng cho tin mừng cứu độ, để họ cũng được thuộc về một
đoàn chiên duy nhất.
3. Chúa
Giêsu nói: “Chiên của Ta thì nghe tiếng Ta.” Chúng ta cùng cầu xin cho có nhiều
người trẻ nhận ra và quảng đại đáp lại tiếng Chúa mời gọi, hiến thân trong đời
sống tu trì và tích cực trở nên những thợ gặt lành nghề cho cánh đồng truyền
giáo hôm nay.
4. Cỗ võ và khích lệ ơn gọi là trách
nhiệm chung của các tín hữu. Xin Chúa cho mọi người trong cộng đoàn chúng ta
luôn ý thức và tích cực đóng góp vào công cuộc đào tạo linh mục - tu sĩ, bằng
lời cầu nguyện hằng ngày cùng với những nâng đỡ tinh thần lẫn vật chất.
Chủ
tế: Lạy
Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành, Chúa hằng yêu thương chăm sóc tất cả mọi người.
Xin nhận lời chúng con cầu nguyện và ban ơn trợ giúp để mỗi ngày chúng con trở
nên xứng đáng thuộc về đàn chiên của Chúa hơn. Chúa hằng sống và hiển trị muôn
đời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét