Thứ Năm, 18 tháng 5, 2017

NẬM XÉ DÂNG HOA – KHÁNH THÀNH NHÀ THỜ CAM ĐƯỜNG - CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm A


100 NĂM  ĐỨC MỆ HIÊN RA TẠI PHATIMA - BỒ ĐÀO NHA
NHÀ THỜ PHATIMA NƠI ĐỨC MẸ HIỆN RA ĐÃ 100 NĂM




NẬM XÉ DÂNG HOA 




NẬM XÉ DÂNG HOA 






NẬM XÉ DÂNG HOA 































KHÁNH THÀNH NHÀ THỜ CAM ĐƯỜNG 













KHÁNH THÀNH NHÀ THỜ CAM ĐƯỜNG 



KHÁNH THÀNH NHÀ THỜ CAM ĐƯỜNG









KHÁNH THÀNH NHÀ THỜ CAM ĐƯỜNG 




Thánh Lễ Tạ Ơn Và Cung Hiến Nhà Thờ Cam Đường,
Giáo Xứ Lào Cai, Giáo Phận Hưng Hóa
Cập nhật lúc 11:23 18/05/2017
Vào lúc 16g00 thứ Tư, ngày 17.05.2017, trong bầu khí tưng bừng rộn ràng và tâm tình tri ân của bà con Giáo xứ Lào Cai, Đức cha Gioan Maria Vũ Tất - Giám mục Giáo phận Hưng Hóa long trọng cử hành Thánh lễ tạ ơn và cung hiến nhà thờ Cam Đường – tước hiệu Các Thánh Tử Đạo Việt Nam
WGPHH - Vào lúc 16g00 thứ Tư, ngày 17.05.2017, trong bầu khí tưng bừng rộn ràng và tâm tình tri ân của bà con Giáo xứ Lào Cai, Đức cha Gioan Maria Vũ Tất - Giám mục Giáo phận Hưng Hóa long trọng cử hành Thánh lễ tạ ơn và cung hiến nhà thờ Cam Đường – tước hiệu Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Đồng tế với Đức cha có Đức tổng Giám mục Leopoldo Girelli, quý cha trong và ngoài giáo phận. Tham dự Thánh lễ có quý tu sĩ nam nữ, quý khách cùng đông đảo giáo dân trong và ngoài giáo xứ.
Mở đầu Thánh lễ, Đức cha Gioan Maria chủ sự nghi thức làm phép nước, rẩy nước thánh thanh tẩy nhà thờ và tường nhà thờ mới. Kinh Vinh Danh được cả cộng đoàn cất vang đã tạo nên bầu khí vừa thánh thiêng vừa hân hoan trong tâm tình tạ ơn Thiên Chúa.
Trong bài giảng lễ, Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli cho thấy ý nghĩa của việc rảy nước thánh, nhắc nhớ về Bí tích Thánh Tẩy mà Đức Giêsu đã đem lại sự sống mới cho chúng ta. Và chính sự sống mới này đã quy tụ cộng đoàn nơi đây hiệp dâng Thánh lễ thánh hiến nhà thờ để mở ra một cộng đoàn mới, một sức sống mới. Tuy nhiên, để có đươc sự sống mới thì mỗi người phải biết kết hợp chặt chẽ với Đức Giêsu, như cành nho gắn liền với cây nho. Hơn nữa, Đức tổng nhấn mạnh: để có được một ngôi nhà thờ khang trang đẹp đẽ thì phải có nền móng vững chắc. Cũng vậy, muốn có một ngôi nhà thiêng liêng vững chắc thì mỗi người cũng cần phải được xây dựng trên Đá tảng góc tường là chính Đức Giêsu. Đức tổng cũng cho thấy biểu tượng cuốn sách ở trên gian cung thánh nhà thờ Cam Đường được mở ra với hai trang trắng, là để mời gọi mỗi người hãy viết lên trang sử đức tin và đời sống bác á
i cua cúng ta.





CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm A
Lời Chúa: Cv. 8, 5-8. 14-17; 1Pr. 3, 15-18; Ga. 14, 15-21
MỤC LỤC



1. Điều răn Chúa dạy

Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy. Bên cạnh trung tâm huấn luyện của quân đội, có một người giáo dân rất hăng say với việc tông đồ. Anh muốn giới thiệu Tin Mừng Đức Kitô cho hàng ngàn tân binh quân dịch. Thế nhưng các vị chỉ huy lại không cho phép anh được ra vào trung tâm. Bởi đó, anh đã nghĩ ra một sáng kiến truyền giáo thật hay. Anh đặt làm hàng ngàn chiếc gương nhỏ với một giá rẻ. Mặt sau chiếc gương, thay vì hình một cô gái hay một bông hoa, anh cho in những lời Chúa phán trong Phúc Âm. Chẳng hạn: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì sẽ không phải chết”. Bên dưới lời Chúa là hàng chữ chỉ dẫn như sau: “Nếu bạn muốn biết người được Chúa yêu, thì hãy nhìn ở mặt kia”. Thật là tuyệt vời, mỗi quân nhân khi nhìn ngắm mình trong gương, họ sẽ thấy chính bản thân họ là người được Chúa yêu thương.

Mặt sau chiếc gương khác, có in lời Chúa phán quan đoạn Tin Mừng hôm nay: “Ai yêu mến thầy, thì tuân giữ những điều răn của Thầy”. Và khi soi gương, những quân nhân sẽ tự hỏi: “Mình đã tuân giữ những giới răn của Chúa để được Chúa yêu thương hay chưa?”

Thực vậy, chúng ta chứng minh tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa bằng sự tuân giữ những điều răn của Ngài bởi vì lề luật của Ngài là những chỉ dẫn yêu thương tuyệt hảo nhất. Chúng nói cho chúng ta biết những gì Thiên Chúa muốn và không muốn. Nhưng đồng thời cũng chỉ cho chúng ta hay đâu là điều tốt lành nhất cho bản thân, gia đình và xã hội.

Chẳng hạn điều răn thứ I: “Thờ phượng và kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với Đấng Tối Cao đã đành, mà còn giúp chúng ta tránh đi được những mê tín dị đoan và những sự thờ phượng nhảm nhí làm giảm giá trị con người, như thờ con bò, con rắn, thờ tiền tài, danh vọng, lạc thú.

Chẳng hạn điều răn thứ IV: “Hãy hảo kính cha mẹ”, sẽ giúp chúng ta chu toàn những bổn phận đối với cha mẹ, là những người đã có công sinh thành dưỡng dục chúng ta đã đành, mà còn nhờ đó đem lại cho gia đình chúng ta một bầu khí hoà thuận, cảm thông và hạnh phúc.

Chẳng hạn điều răn thứ V: “Tôn trọng thân xác và mạng sống của mình cũng như của người khác”. Rồi điều răn thứ VII và thứ X: “Tôn trọng đức công bằng, không được lấy hay giữ của người ta một cách trái phép”. Tất cả những điều răn này không phải chỉ đem lại cho cá nhân một sự bảo đảm an toàn, mà hơn thế nữa còn đem lại cho xã hội một sự ổn định và trật tự.

Và như chúng ta đã nói, bên trên những lợi ích cá nhân, gia đình và xã hội, việc tuân giữ những điều răn của Chúa sẽ là một phương thế giúp chúng ta biểu lộ tình yêu mến và gắn bó của chúng ta đối với Chúa, vì tình yêu mà không có việc làm thì chỉ là một tình yêu chết mà thôi. Hơn nữa, chính Chúa Giêsu đã phán dạy chúng ta: Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ những điều răn của Thầy.


2. Sự sống mới – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Nếu các Tin mừng Matthêu, Marcô và Luca mời gọi ta vào Vương quốc Thiên Chúa, thì Tin Mừng Gioan mời gọi ta vào tình yêu Chúa Giêsu Kitô. Thánh Gioan là người sống sau cùng. Sau khi đã nghiền ngẫm tất cả cuộc đời và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, thánh nhân nghiệm ra cái cốt lõi của cuộc sống người môn đệ là tình yêu chúa Giêsu Kitô, là kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, là sống sự sống của Thiên Chúa.

Tình yêu đó không phải là thứ tình yêu mơ mộng lãng mạn nhưng là một tình yêu sàng suốt của lý trí.Tình yêu đó không phải là chuyện đuổi bướm, hái hoa, rung động, xúc cảm, nhưng là một tình yêu với những việc làm cụ thể. Việc làm cụ thể đó là tuân giữ những điều Chúa Giêsu truyền dạy.

Đó chính là bí quyết Chúa Giêsu truyền lại cho các môn đệ, trước khi người giã từ các ông để đi vào thế giới đức tin. Từ nay để gặp gỡ Người, để yêu mến Người, để sống với Người, cần phải có đức tin và tình yêu.

Tin và Yêu là đôi mắt giúp ta nhìn thấy những sự thực siêu nhiên. Người không tin và không yêu sẽ không nhìn thấy như lời Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng hôm nay: “Thầy ban cho anh em Thần chân lý, Đấng mà thế gian không thể đón nhận được vì thế gian không thấy và không biết Người”. Cũng như kiến thức ý khoa là khả năng chuyên môn giúp người bác sĩ nhận dạng được các loại vi trùng, định đúng được bệnh trạng của bệnh nhân; hoặc như kiến thức về thảo mộc của nhà thực vật học giúp họ nhận dạng phân loại và biết rõ đặc tính của những loải cây cỏ, tin và yêu cũng phải là khả năng chuyên môn giúp người môn đệ Chúa nhận ra những sự thực siêu nhiên, nhìn thấy, nhận biết và đón nhận Thiên Chúa.

Tin và Yêu, như vậy, là con đường dẫn đưa ta tới gặp gỡ Thiên Chúa.
·     Với đức tin và tình yêu, người môn đệ Chúa không còn thấy Thiên Chúa là một Đấng xa vời, mơ hồ, nhưng là một Đấng gần gũi, rất thật. Với đức tin và tình yêu ta sẽ gặp được Đức Chúa Cha, Đấng thương yêu, luôn chăm sóc cho ta, luôn mời gọi ta, luôn muốn ấp ủ ta, luôn muốn tha thứ cho ta.
·     Với đức tin và tình yêu, ta sẽ gặp được Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, trong Sách Thánh, trong những lời giáo huấn của Giáo hội và trong những anh em sống quanh ta.
·     Với đức tin và tình yêu, ta sẽ cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần khi Người đốt lên trong tim ta ngọn lửa yêu mến, khi Người thúc đẩy ta dẫn thân phục vụ, khi Người soi sáng cho ta những sáng kiến trong những hoạt động mới.

Nhưng quan trọng nhất là: Tin và Yêu là hai cánh cửa mở vào sự sống thần linh. Tin và Yêu không chỉ cho ta nhìn thấy Chúa, gặp gỡ Chúa mà còn cho ta được tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống đó là hiệp thông, như lời Chúa Giêsu nói: “Ai có và giữ các giới răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến”.

Chúa Cha ở trong Chúa Con và như Chúa Con ở trong Chúa Cha, ta sẽ được ở trong sự sống mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi và thật kỳ diệu, Ba Ngôi đến ở trong ta. Ở trong người nào tức là được người ấy yêu thương. Hiệp thông trong yêu thương là một thái độ cởi mở: mở tâm hồn ra để cho đi và nhận lãnh sự sống. Nhờ Tin và Yêu, ta mở lòng ra đón nhận Thiên Chúa, sự sống mới, sự sống sung mãn, sự sống vĩnh cửu.

Đúng như lời Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”. Ai nhắm mắt đức tin, sẽ không nhìn thấy Chúa, sẽ trở thành mồ côi. Ai đóng cửa tình yêu, sẽ không gặp được Chúa, sẽ sống trong cô độc. Nhưng người môn đệ Chúa, nhờ có đức tin và tình yêu sẽ gặp được Thiên Chúa Ba Ngôi. Và như thế việc ta đi của Chúa Giêsu không những không thiệt hại mà còn ích lợi cho ta. Sự ra đi của Người dẫn ta đi đến kết hiệp với Thiên Chúa Ba Ngôi trong sự sung mãn, sự sống dồi dào.

Nhưng để đạt tới điều Chúa Giêsu đã hứa, ta hãy nhớ lại một lần nữa lời Người căn dặn: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em hãy giữ các giới răn của Thầy”. Đức tin được thể hiện bằng tình yêu. Tình yêu được chứng minh qua hành động. Đó là chìa khoá của đời sống Kitô hữu.

GỢI Ý CHIA SẺ
  1. Theo bạn, tình yêu mến Chúa là những tình cảm bồng bột hay những việc làm cụ thể theo lý trí?
  2. Có bao giờ bạn cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa trong đời sống không?
  3. Bạn có cố gắng làm chứng cho người khác về sự hiện diện của Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện và bác ái của bạn không?


3. Anh em cũng sẽ sống

(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Marina Picasso là cháu của họa sĩ nổi tiếng Pablo Picasso. Từ năm 73-75, bà phải chịu nhiều cái tang lớn: ông nội mất, anh ruột tự tử, cha đột ngột qua đời. Đây thật là những mất mát không sao bù đắp, dù bà năm trong tay một gia sản khổng lồ.

Năm 1990, bà nhận các em bé Việt Nam làm con nuôi, và giúp cho các trẻ mồ côi được có nơi ăn học. Từ lúc ấy, bà thấy một sự thay đổi nơi nội tâm: “Nhờ giúp đỡ con em của nước này mà tôi đã tìm lại được chính mình. Giờ đây tôi cảm thấy mình như sống lại, và tôi muốn phân phát sự sống đó cho các em.”

Hẳn có những Kitô hữu đã trải qua kinh nghiệm của Marina, kinh nghiệm thấy mình được sống lại nhờ biết ra khỏi nỗi đau của mình để cúi xuống trên nỗi đau của người khác. Kinh nghiệm tìm lại được chính mình trong bình an, khi không còn bận tâm lo cho mình nữa, kinh nghiệm thấy sự sống được nhân lên gấp bội khi được đem chia sẻ tận tình.

Kitô giáo là tôn giáo của Đấng đã sống lại, Đấng đang sống sự sống tràn trề của Thiên Chúa.

Đức Giêsu phục sinh không chỉ hiện ra một đôi lần, Ngài muốn ở mãi bên chúng ta cho đến tận thế. Một sự hiện diện hai chiều, thâm sâu và mới mẻ: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em” (c.20) Một sự hiện diện đem lại sức sống dồi dào: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống” (c.19).

Kitô hữu tự bản chất là người đã được phục sinh, nhờ thông hiệp với Đấng đang sống là Đức Kitô. “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20).

Mùa Phục sinh nhắc ta nhìn lại sự sống nơi mình.
Lắm khi tôi sống èo uột, chỉ vì không dám yêu thương. Bắt đầu yêu thương là bắt đầu thấy Chúa tỏ mình, thấy sự sống Chúa bùng lên mạnh mẽ.

Thế giới hôm nay cố làm cho cuộc sống được bảo đảm hơn, tiện nghi hơn và kéo dài hơn. Nhưng thế giới hôm nay vẫn đầy nguy hiểm. Mạng sống bi đe dọa bởi chiến tranh, tội ác, đói nghèo... Cuộc sống bị héo úa vì không tìm thấy ý nghĩa. Thế giới đói khát sự sống đích thực.

Nếu chúng ta thật sự là người đang sống trong Đức Kitô, chúng ta có thể trao cho thế giới sự sống đó qua việc phục vụ trong yêu thương.

Gợi Ý Chia Sẻ
  1. Để cảm nghiệm được Thiên Chúa, cần phải can đảm sống theo lời Ngài dạy, dù phải từ bỏ và chịu thua thiệt trước mắt. Có khi nào bạn thấy Chúa thật gần gũi, vì bạn đã dám sống cho tha nhân không?
  2.  Khi tinh thần bạn sa sút vì những nỗi đau riêng tư, bạn thường làm gì để ra khỏisự sa sút đó?

Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới lại đời con.

 

4. Đấng Bảo Trợ – R. Veritas

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’)
Cuốn phim có tựa đề: “Đời Vẫn Đẹp” do Roberto đạo diễn và thủ diễn. Cuốn phim đã nêu lên câu truyện của người Do Thái cùng với vợ và đứa con trai nhỏ bị Đức Quốc Xã đưa vào trại. Nhờ tài khôi hài, ông đã giữ vững được tinh thần của đứa con khi quân đội đồng minh đến giải thoát.

Cuốn phim hẳn gợi lại kinh nghiệm của bác sĩ Victo Rey, ba năm lưu đày tại Ba-Lan và nhiều trại tập trung khác của Đức Quốc Xã, đã giúp cho vị bác sĩ chuyên gia tâm lý này khám phá được một chân lý quan trọng trong cuộc sống của con người, chân lý đó là, trong những hoàn cảnh nghiệt ngã đau thương nhất con người vẫn có thể tồn tại nếu họ có niềm tin và tìm được ý nghĩa của cuộc sống.

Bác sĩ Brand đã quan sát những phản ứng khác nhau của các bạn tù của ông, có những người trước khi vào tù thì được mọi người trọng vọng, ngưỡng mộ, thế nhưng bỗng chốc lộ nguyên hình của những kẻ hèn hạ có thể bán đứng anh em vì một chút lợi lộc nhỏ mọn. Một số khác thoạt tiên thể hiện bản lĩnh của những nhà lãnh đạo, thế nhưng liền sau đó thất vọng và ngã gục chỉ trong vài ngày. Trái lại, cũng không thiếu những người rất ít được mọi người chú ý đến, họ đã âm thầm chịu đựng cho đến cùng và được sống còn.

Tìm hiểu sự khác biệt giữa những hạng người trên đây, bác sĩ Brand khám phá ra rằng, chính mục đích và ý nghĩa của cuộc sống là sức mạnh làm cho con người tồn tại trong những điều kiện tột cùng khốn khổ của cuộc sống. Trong kinh nghiệm bản thân, bác sĩ Brand cho biết, chính tình yêu đối với vợ ông đã giúp cho ông tiếp tục tìm thấy ý nghĩa và lẽ sống trong tận đáy của hỏa ngục. Mặc dù không biết vợ mình bị giam giữ ở đâu, còn sống hay đã chết, bác sĩ Brand đã chia sẻ kinh nghiệm như sau:

Không có gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu, những ý nghĩ và hình ảnh người vợ yêu dấu của tôi, cho dẫu người ta có báo tin rằng vợ tôi đã chết thì tôi sẽ không bao giờ ngưng chiêm ngắm hình ảnh của nàng và thôi không chuyện vãn với nàng nữa. Càng lúc tôi càng cảm nghiệm được hình ảnh của vợ tôi; vợ tôi vẫn luôn ở bên cạnh tôi. Chính tình yêu đối với vợ đã mang lại hy vọng và sức mạnh giúp cho bác sĩ Brand chịu đựng mọi nghịch cảnh và tồn tại cho đến ngày được giải cứu khỏi các trại tập trung. Khám phá được ý nghĩa của cuộc sống, đây hẳn không phải là một điều xa xỉ hay phụ thuộc trong cuộc sống con người, mà là một nhu cầu hiện sinh còn quan trọng hơn cả các ăn thức uống của con người.
Ý nghĩa lẽ sống của người Kitô chúng ta chính là Chúa Giêsu Kitô, đây là điều một lần nữa hôm nay Giáo Hội muốn nhắc nhở chúng ta. Kitô giáo chúng ta không phải là một ý thức hệ; cũng không phải là một hệ thống luân lý chỉ gồm những điều luật phải tuân giữ; lại càng không phải là một xã hội theo thể chế chính trị nào đó. Kitô giáo thiết yếu là một con Người, con Người đó hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một, Ngài đã hiện diện trong giáo hội và trong cuộc sống của mỗi người chúng ta, Ngài là sức sống của mỗi người Kitô chúng ta. Thường thì một vị thánh hiền, một bậc vĩ nhân đi qua trong lịch sử nhân loại và để lại sự nghiệp của mình, nhưng với Chúa Kitô lại khác, Ngài không hiện diện như một xác chết được tẩm liệm, Ngài cũng chẳng hiện diện qua những di tích Ngài để lại, Ngài cũng chẳng để lại sự nghiệp nào, Ngài đã chết và Ngài đã sống lại, chính vì đã sống lại cho nên Ngài vẫn có đó, Ngài hiện diện một cách sống động nơi đây, trong giây phút này đây, đó là niềm tin, là sức sống, là lịch sử của Giáo Hội từ hơn 2,000 năm qua, đó cũng là lẽ sống của không biết bao nhiêu người tín hữu đã đi trước chúng ta, trong Ngài họ đã tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và để có thể vui sống, nhất là kiên trì cho đến cùng giữa những thử thách và bách hại, tất cả đều sống niềm xác tín của thánh Phaolô như ngài đã viết trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Chúa Kitô, phải chăng là gian truân, khắc khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?”

Đây là niềm xác tín mà Giáo Hội mời gọi chúng ta hâm nóng lại khi cho chúng ta lắng nghe Tin Mừng hôm nay. Trong bài diễn văn tự thuật với các môn đệ trước khi đi vào cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa Giêsu, họ được mời gọi để chuẩn bị tinh thần đón nhận cách thế hiện diện mới của Ngài, Ngài nói với các ông: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi, Thầy sẽ đến với các con.” Quả thật, sau khi đón nhận Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Giêsu, từ những con người quê mùa, dốt nát và nhát đảm, các môn đệ đã được Chúa Thánh Thần biến thành những nhà rao giảng không biết mỏi mệt và nhất là dùng chính cái chết của mình để làm chứng cho sự hiện diện ấy của Chúa Giêsu.

Hơn hai ngàn năm qua, sức sống được Chúa Thánh Thần thông ban cho các môn đệ đã tràn ngập thế giới, đã trở thành lẽ sống của không biết bao nhiêu người. Chính nhờ sức sống ấy mà các tín hữu Kitô tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sống đúng ơn gọi làm người của mình. Sống công bình, sống bác ái, sống phục vụ, sống quên mình không phải là độc quyền của người Kitô giáo. Tôn giáo nào cũng đề cao những giá trị ấy; giới răn yêu thương cũng không phải là giới răn riêng của các tín hữu Kitô chúng ta. Thế nhưng Chúa Giêsu đã ban bố giới răn ấy như một giới răn mới mẻ và là riêng của Ngài, bởi vì Ngài ban chính sức sống và tình yêu của Ngài cho các tín hữu để họ yêu thương bằng chính tình yêu của Ngài.

Chúa Giêsu chính là tình yêu, Chúa Giêsu chính là sức sống của các tín hữu. Chúng ta họp nhau cử hành thánh lễ của mỗi ngày Chúa Nhật để xin Chúa Kitô bổ sức cho chúng ta, để chúng ta tiếp tục sống, để cho mọi người thấy rằng, Ngài thật sự là Đấng đang hiện diện và tác động trong chúng ta, Ngài chính là lẽ sống mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta, Ngài là sức mạnh để chúng ta tiếp tục chiến đấu, Ngài là niềm hy vọng để chúng ta tiếp tục tiến bước.



5. Một cuộc đàm thoại liên hệ đến chúng ta

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Bài đọc này được trích từ một đoạn dài Phúc Âm theo thánh Gioan, chương 13 đến 17, được gọi là diễn từ trong bữa Tiệc Ly. Thánh Gioan thuật lại cuộc đàm thoại của Chúa Giêsu với các môn đệ trong khoảng một vài giờ trước khi chịu nạn. Một không khí thân ái mật thiết ở cường độ phi thường đã khiến đoạn Phúc Âm này thành 1 trong những bài văn tuyệt mỹ. Điều khiến chúng ta lưu ý hơn hết là giá trị, một sứ điệp liên quan đến chúng ta, vì chúng ta quả hiện diện trong tâm tưởng Chúa Giêsu khi Ngài nói chuyện với các môn đồ. Những điều Ngài nói về sự liên kết giữa họ với nhau, về việc gặp gỡ Chúa Cha, về việc Chúa Thánh Thần đến, tất cả trực tiếp liên hệ đến chúng ta và bắt chúng ta tỏ thái độ. Mỗi câu đều đáng dừng lại suy niệm. Hãy để mỗi người tìm ra câu đáp ứng, nguyện vọng và ơn nhận được. Ở đây, người ta ghi nhận các ý sau:

1) Nếu các con yêu mến Ta, các con sẽ giữ các giới răn Ta.
Mạch văn toàn thể Phúc Âm thánh Gioan cho chúng ta biết hai giới răn (mà thực chỉ là một) là kính mến Thiên Chúa như cha và yêu mến mọi người như anh em. Chính cho các môn đệ của tình yêu ấy mà Chúa Giêsu cầu xin Chúa Cha để họ được nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần được gọi là Đấng bầu chữa, vị trạng sư, Đấng trợ lực. Chúa Giêsu đã báo cho các môn đệ hay Ngài sẽ không còn hiện diện với các ông trong hình thể khả giác và vật lý như những ngày chung sống. Nhưng Ngài sẽ không bỏ các ông, Ngài sẽ hiện diện bằng một cách sâu kín hơn trước đặc biệt bằng Thần Khí của Ngài. Thần Khí sẽ bảo vệ, trợ lực, gìn giữ họ. Cả với chúng ta là những khi không được biết Chúa Giêsu trong lịch sử. Hôm nay chúng ta cũng được nghe dạy rằng, Chúa Thánh Thần trợ lực và gìn giữ chúng ta. Chúng ta có nghĩ rằng Lời Chúa phán ở một thời nhất định có giá trị sống động hiện thời đối với chúng ta hay không?

2) Thánh Thần… mà thế gian không thể lãnh nhận.
Chữ “thế gian” ở đây phải hiểu theo nghĩa chung các quyền lực phản nghịch Thiên Chúa và Đấng Kitô của Ngài. Tinh thần thế gian này chính yếu là một tâm trạng bất ổn; một không khí nhiễm độc vì sai lầm và ngu dại vì kiêu ngạo thâm căn và tự mãn ngây ngô, một khuynh hướng tâm lý và tinh thần khép kín con người tại chính mình. Thế gian ấy không tin được cả đến việc có thể có thần tính của Đức Kitô, và do đó có thể có việc Chúa Thánh Thần đến. Đàng khác, Chúa Giêsu Ngài cầu xin Cha Ngài gìn giữ các môn đệ khỏi thế gian, nghĩa là gìn giữ chúng ta hôm nay đây.

3) Ai yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu mến.
Chúng ta gặp lại ở đây một trong những chân lý căn bản thường được diễn tả trong Tân Ước nhất, trình bày một cách dễ lưu ý. Tương quan của chúng ta với Chúa Giêsu, cấu tạo tương quan của chúng ta với Chúa Cha. Tuân theo các giới răn của Chúa Giêsu, tức là tuân theo Chúa Cha, cầu khấn với Chúa Giêsu là cầu khấn với Chúa Cha; ca tụng tôn vinh Chúa Giêsu, nhìn nhận trong thán phục và vui mừng địa vị của Ngài tức là ca tụng tôn vinh Thiên Chúa; tin tưởng nơi Chúa Giêsu là tin tưởng nơi Chúa Cha. Các con sẽ chịu gian nan, nhưng hãy vững lòng, Ta đã thắng thế gian (Ga 16,33).


6. Mến Chúa yêu người

(Trích trong ‘Chia Sẻ Tin Mừng’)
Thánh Phanxicô Átsidi có lòng mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm, ngài gặp một người bạn, người này nói với ngài rằng ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa được. Đang khi hai người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què ngồi bên lề đường. Ngài dừng lại hỏi người hành khất: “Này anh, nếu tôi chữa cho anh thấy được và đi được thì anh có yêu mến tôi không?”. Người hành khất trả lời: “Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến ngài, mà tôi còn xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài”. Nghe câu trả lời của người hành khất xong, thánh Phanxicô quay sang nói với người bạn: “Đấy anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được mà còn hứa với tôi như thế huống hồ là anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn, Ngài còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh, vậy mà anh lại không yêu mến Chúa sao?”.

Yêu Chúa, đó là bổn phận của mỗi người chúng ta, nhưng như thế nào là yêu Chúa? Bài Tin mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu trả lời cho chúng ta: “Ai giữ các giới răn của Chúa là yêu mến Chúa”. Như vậy, yêu mến Chúa là giữ các giới răn của Chúa. Giữ ở đây không thể hiểu theo nghĩa thụ động, nghĩa là đem chôn giấu, nhưng phải hiểu theo nghĩa tích cực, nghĩa là có sáng kiến đem các giới răn của Chúa ra thực hành trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.Nhưng đâu là các giới răn của Chúa? Ai mà không biết đạo Chúa có mười giới răn. Nhưng điều đặc biệt là mười giới răn ấy được tóm rất gọn trong một tiếng thôi, đó là tiếng “Yêu”: Yêu Chúa với tình yêu của một người con hiếu thảo, và yêu người với tình yêu như Chúa yêu ta. Ngắn gọn hơn nữa, chính Chúa còn cho chúng ta biết: chỉ cần xét xem chúng ta có yêu người không là đủ, nghĩa là muốn biết chúng ta có yêu Chúa không và yêu Chúa như thế nào, thì chỉ cần xét xem chúng ta có yêu người không và yêu người ra sao.Tình yêu phải được thể hiện bằng việc làm, chứ không căn cứ trên lời nói suông mà thôi. Bởi vì ngôn ngữ của tình yêu là những hành động cụ thể. Ánh mắt trìu mến và âu yếm vuốt ve của người mẹ đối với đứa con có giá trị hơn bất cứ một quyển sách biên khảo nào về tình yêu. Những mồ hôi nước mắt, những hi sinh từng ngày của người cha giúp cho con cái hiểu được thế nào là yêu thương, hơn bất cứ lời dẫn giải nào về tình yêu. Và có lẽ cũng dư thừa để bảo rằng khi hai người yêu nhau, thì sự thinh lặng và cử chỉ âu yếm có sức hùng hồn hơn là những lời nói hoa mỹ nhưng trống rỗng.Thiên Chúa là tình yêu, Ngài tỏ tình, Ngài bộc lộ tình yêu với con người, không chỉ bằng lời nói suông mà bằng cả một lịch sử: Những can thiệp, những thể hiện cụ thể. Một tình yêu không được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể đối với tha nhân là một tình yêu thiếu sức thuyết phục, nếu không nói là giả hình, giả dối. Đạo Kitô của chúng ta là đạo của tình yêu, không viết lên hai chữ tình yêu bằng những hành động cụ thể đối với tha nhân, người đó chỉ là một người Kitô giả hiệu. Một đức tin không việc làm là một đức tin chết, thì một lòng mến không được thể hiện bằng hoa trái của lòng mến là một lòng mến giả tạo.Như mẹ Têrêxa đã nói: Tình yêu thương ấy cần được thể hiện với những người gần gũi với chúng ta hơn, từ những người trong gia đình chúng ta trước hết. Những người chỉ biết mơ mộng thực hiện những việc anh hùng nơi chân trời xa xăm nào đó, trong khi đó lại lãng quên những cơ hội ngay trước mắt, đó hẳn là thứ tình yêu thiếu thực tế biết bao. Nếu chúng ta thực sự yêu mến Chúa, hãy chiếu giãi tình yêu đó trong gia đình và cho những người chung quanh, hãy dùng tình yêu nồng thắm trong trái tim chúng ta để sưởi ấm cho cha mẹ, anh chị em trong gia đình và những người chung quanh.Trong một xã hội đầy những ích kỷ, hai chữ tình yêu vẫn còn rất mù mờ trong nhiều người. Sứ mệnh của người Kitô chúng ta chính là viết lên một cách rõ ràng hai chữ tình yêu. Chúng ta không chỉ viết lên bằng những lời nói suông mà bằng những cử chỉ cụ thể của lòng bác ái. Những dòng chữ được viết lên bằng mồ hôi nước mắt, bằng quên mình chia sẻ... có giá trị hơn bất cứ một quyển sách nào, cho dù quyển sách đó in bằng bạc bằng vàng. Thiên Chúa thắp lên trong tâm hồn chúng ta tình yêu của Ngài và Ngài mong muốn chúng ta chiếu tỏa tình yêu ấy đến với mọi người, như bài hát chúng ta vẫn hát: “Thắp sáng lên trong con tình yêu Chúa. Thắp sáng lên trong con tình tuyệt vời. Để con hân hoan đem tin yêu đi về muôn lối, tựa như mưa tuôn mưa hồng ân Chúa trên trần đời”.

 

7. Cặp mắt của trái tim

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Thánh Phanxicô Assisi có lòng mến Chúa và yêu người rất sâu xa. Một hôm ngài gặp một người bạn, người này nói với thánh nhân rằng ông ta không thể nào yêu mến Thiên Chúa được. Đang khi hai người đi đường thì gặp một người hành khất vừa mù vừa què. Thánh nhân hỏi người hành khất:
-       Nếu tôi chữa cho anh thấy và đi được thì anh có yêu mến tôi không?
Người hành khất trả lời:
-       Dạ thưa ngài, không những tôi yêu mến ngài mà tôi xin dâng hiến trọn phần còn lại của đời tôi để phục vụ ngài.
Nghe câu trả lời của người hành khất xong, thánh nhân quay sang người bạn đang đứng bên ngài nói:
-       Đấy anh thấy không, người hành khất này chỉ thấy được, đi được, thế mà còn hứa với tôi như thế, huống hồ là anh, anh không những được Chúa dựng nên với chân tay mắt mũi lành lặn. Ngài lại còn chịu chết để cứu chuộc anh nữa, đang khi đáng lý ra anh phải chết vì tội của anh. Vậy mà anh lại không yêu mến Chúa sao?

Thưa anh chị em, yêu mến Chúa là bổn phận của mỗi người chúng ta. Nhưng thế nào là yêu mến Chúa? trong Tin Mừng hôm nay, chính Chúa Giêsu đã trả lời cho chúng ta câu hỏi này. Trước hết, yêu là thấy. Chúa Giêsu đã nói: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống”. Thực thì ngay trong cuộc sống của xã hội con người, chúng ta cũng có thể gặp những trường hợp một người đã ra đi một chuyến đi xa, nhưng những người còn ở lại vẫn cảm thấy người đó như đang hiện diện ở đâu đây, thật gần gũi, nơi từng sự vật, trong từng căn phòng, nơi mỗi lối đi. Chính tình yêu, sự quen thuộc, sự cảm thông đã tạo nên cái điều lạ lùng này. Giữa những người thân yêu, sự vắng mặt không tạo nên sự xa cách: “Xa mặt mà không cách lòng”. Vì vậy, Đức Giêsu đã nói: “Thế gian sẽ không thấy Thầy, còn anh em, anh em sẽ được thấy Thầy”. “Cái thấy” Chúa Giêsu muốn nói ở đây không còn là cái thấy ngang qua cặp mắt của thân xác; cái thấy ấy có những giới hạn nhất định, ở ngoài tầm nhìn thì không thấy được nữa. Còn “cái thấy” ở đây là cái thấy bằng con tim, bằng sự cảm nhận, bằng sự hoà nhập. Tình yêu làm cho người xa cách trở nên gần gũi. Vì yêu mến Thầy, các môn đệ vẫn cảm thấy Thầy hiện diện ở khắp nơi.

Nguyên trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu lặp lại đến năm lần từ “yêu mến”. Yêu mến trở thành mối quan hệ giữa môn đệ và Thầy, giữa môn đệ và Thiên Chúa Cha. Yêu mến đưa đến sự hoà nhập: “Anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em”“Thầy sẽ tỏ mình ra cho anh em thấy Thầy”.

Thì ra, trái tim cũng có “cặp mắt” của nó. Cặp mắt của trái tim thấy được những cái mà cặp mắt thể xác không thể thấy được. Chính cái thấy bằng cặp mắt của trái tim sẽ giúp chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa sự hiện diện của Chúa Giêsu với cuộc đời của một người Kitô hữu và của cộng đoàn. Có yêu mến Chúa, chúng ta mới thấy được sự hiện diện thân thiết của Chúa ở giữa chúng ta.

Yêu còn là tuân giữ: Tình yêu không dừng lại ở cái nhìn thấy. Tình yêu sẽ dẫn tới hành động. Không có hành động, tình yêu chỉ là giả dối. Hành động mới là bằng chứng của tình yêu đích thực. Chúa Giêsu đã nói: “Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ các giới răn của Thầy. Ai giữ các giới răn của Thầy mới là người yêu mến Thầy”. Nói rằng: “Tôi yêu mến Chúa” thì ai cũng có thể nói được. Nhưng nếu không tuân giữ các giới răn của Chúa thì những lời nói đó chỉ là những lời nói dối.

Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm rằng: Khi yêu ai, chúng ta cảm thấy được những gì làm vui lòng người chúng ta yêu và không có gì cưỡng bức chúng ta tự nhiên làm tất cả để người yêu được vui, được hạnh phúc. Yêu mến Chúa cũng vậy. Yêu mến Chúa là sống theo ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý Chúa muốn, là giữ các giới răn của Chúa, là thực thi ý muốn của Chúa trên cuộc sống chúng ta và trên cuộc sống của xã hội loài người.

Nhưng các giới răn của Chúa là gì, thưa anh chị em?
Các giới răn của Chúa là chính Chúa Giêsu với các giáo huấn, với những chọn lựa của Ngài. Tất cả cuộc sống của Chúa Giêsu trở thành mẫu mực cho cuộc sống của người Kitô hữu. Giữ các giới răn ở đây là biến đổi chính con người của mình để có thể trung tín với Chúa trong cuộc sống. Như thế, giữ các giới răn là sống trong tình yêu của Chúa.

Chúa Giêsu đã xác định: “Ai giữ các giới răn của Thầy sẽ được Cha Thầy yêu mến. Cha và Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ đến và ở trong người ấy”. Giữ các giới răn là ta ở với Chúa và Chúa ở với ta, là lưu lại trong tình yêu của Chúa. Kitô giáo là đạo của tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu sẽ chắp cho chúng ta đôi cánh để bay lên cao. Vậy mà có nhiều người lại coi Kitô giáo như những giới răn cấm kỵ và trừng phạt, như những gông cùm tròng vào cổ hay những gánh nặng đèn lên vai. Vì vậy cuộc sống đạo của họ trở thành một bài toán khô khan và nghèo nạn, nhiều khi quá máy móc. Họ bóp méo đạo yêu thương thành đạo sợ hãi. Đạo sợ hãi làm người ta mất nhiệt tình và cởi mở, mất nét vui tươi trên khuôn mặt của những người con cái Thiên Chúa.

Anh chị em thân mến, người Kitô hữu đích thực phải sống đạo bằng con tim. Tình yêu làm cho cuộc sống đầy sức sáng tạo và năng động. Chính cuộc sống tích cực và đầy sức sáng tạo này mới thực sự là một bằng chứng về sự hiện diện của Chúa Giêsu, Đấng đã chết nhưng đã sống lại và đang tiếp tục hoạt động nơi những kẻ tin ở Ngài, và là bằng chứng của lòng tin nơi sự hiện diện sống động của Ngài. Chính đời sống yêu thương nhau chân thành, hy sinh phục vụ nhau theo mẫu mực của tình yêu Chúa yêu thương chúng ta sẽ biểu lộ cho mọi người nhận thấy sự hiện diện sống động của Chúa, Ngài đang sống và đang có mặt sống động trên trái đất chúng ta, như Ngài đã nói khi từ biệt các môn đệ: “Thầy không bỏ anh em cô độc. Thầy sẽ đến với anh em. Anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống”.

 

8. Hãy vì Chúa mà yêu mến tha nhân – Lm. Trần Ngà.

(Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Người mẹ đang thoi thóp nhìn năm đứa con khóc thút thít quanh giường, mắt bà nhoà lệ. Cha của chúng đã lìa thế từ lâu, để lại cho bà gánh nặng một mình tần tảo nuôi năm đứa con thơ. Giờ đây lại đến lượt bà nối gót chồng ra đi, vĩnh viễn xa lìa đàn con nheo nhóc. Bà không an tâm chút nào khi thấy lâu nay các con hay kình cãi, tranh chấp nhau từ chuyện nhỏ cho đến chuyện lớn, từ việc chia cá, chia cơm trong mỗi bữa ăn cho đến việc tranh nhau tấm áo manh quần. Đứa nào cũng ích kỷ chỉ nghĩ đến mình mà quên tình anh em ruột thịt. Đứa nào cũng mong chiếm cho được phần hơn mà không màng gì đến quyền lợi các em. Mai đây bà ra đi, ai sẽ là nhịp cầu nối kết chúng lại với nhau trong tình huynh đệ? Ai sẽ là trọng tài phân xử những tranh chấp bất hoà thường xuyên nổ ra giữa chúng?

Tuy nhiên, điều an ủi lớn lao cho bà là mặc dù chúng không thương nhau, nhưng đứa nào cũng thương mẹ; tuy chúng không hề biết hy sinh cho nhau, nhưng nếu vì mẹ thì chúng sẵn sàng hy sinh và làm cho mẹ bất cứ chuyện gì.

Thế nên, cậy dựa vào tình thương chúng dành cho mình, bà lấy chút hơi tàn thều thào mấy lời trăn trối: “Các con yêu của mẹ, mẹ rất buồn, rất khổ tâm khi thấy các con bất hoà bất thuận với nhau. Chốc lát nữa, mẹ sẽ vĩnh viễn xa lìa các con. Nếu mỗi người trong các con còn thương mẹ thì hãy vì mẹ mà thương yêu các anh em mình!”
Nói xong, bà ra hiệu cho từng đứa cúi xuống cho bà hôn lên trán rồi lịm vào giấc ngủ ngàn thu.
uuu

Chính Chúa Giêsu cũng có cùng tâm trạng đó. Ngài đến thế gian để nhen lửa yêu thương trên mặt đất và Ngài mong mỏi ngày đêm cho lửa ấy cháy lên. Ngài đã truyền cho các môn đệ điều răn mới là hãy yêu thương nhau như Ngài đã hết lòng yêu mến họ. Nhưng ngọn lửa yêu thương Ngài đã nhọc công nhen lên lại hắt hiu như đèn trước gió, dễ dàng bị lòng tham lam ích kỷ hận thù dập tắt đi.

Thế nên, khi sắp lìa bỏ thế gian và các môn đệ là đoàn con thân tín để về cùng Chúa Cha, Ngài nhắn nhủ họ những lời tâm huyết: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở lại với anh em một ít lâu nữa thôi.... Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm nầy: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Gioan 13, 33-35)

Biết rằng xây dựng, vun đắp tình thương giữa người với người là điều rất khó; anh em ruột thịt trong nhà chưa dễ thương nhau, huống là yêu thương người ngoài hay thù địch. May ra vì lòng yêu mến Thiên Chúa là Đấng đã tạo dựng, yêu thương và hiến mình chết thay cho họ, họ mới có thể đền đáp tình thương cao vời của Chúa bằng cách vâng lời Chúa và vì Chúa mà yêu mến tha nhân. Cần phải nại đến lòng yêu mến Thiên Chúa của con người để khuyến dụ con người vì Chúa mà yêu thương nhau.
Trong tâm tình đó, Ngài tiếp: Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ điều răn Thầy truyền... là hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương anh em.

Kế đó, sợ các môn đệ chưa chú tâm đến những lời tâm huyết của mình, Chúa Giêsu lặp lại nội dung trên theo hình thức đảo ngữ: “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy.”

Qua những lời trên, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh với chúng ta rằng nếu chúng ta thực tình yêu mến Chúa thì hãy giữ điều Chúa truyền dạy là yêu mến tha nhân; chỉ những ai giữ luật yêu thương tha nhân mới thực sự là kẻ yêu mến Ngài. Cho dù chúng ta không thể yêu mến người khác vì họ khó thương, thì chúng ta cũng hãy vì lòng yêu thương Chúa mà đón nhận tha nhân như lệnh Chúa truyền.

Đó cũng là tâm tình mà chúng ta thường bày tỏ với Thiên Chúa qua kinh kính mến, xin hãy cùng khấn nguyện với nhau:

“Lạy Chúa, con kính mến Chúa hết lòng hết sức trên hết mọi sự, vì Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành vô cùng; lại vì Chúa thì con thương yêu người ta như mình con vậy. Amen.


Mỗi khi đi tham dự đám tang của một người cha, hay của một người mẹ trẻ vừa mới nằm xưống, nhìn giải khăn xô buộc hờ hững trên mái đầu xanh, chúng ta cảm động như muốn khóc lên được. Đứa bé ngây thơ nhìn những nắm đất được ném xuống lòng huyệt lạnh. Nó chẳng hiểu gì cả. Nó đâu có biết rằng chết là ra đi vĩnh viễn, hai bờ bến ngàn trùng xa cách. Nó tưởng rằng ba nó hay mẹ nó đi thăm ông bà nội ngoại, mai mốt sẽ về và cho nó thật nhiều quà. Người khác nhìn vào sẽ cảm thấy chua xót và khóc thầm cho cuộc đời của nó. Ngày mai nó sẽ ra sao? Lớn lên, nó mới hiểu được rằng: mất cha, mất mẹ là một nỗi bất hạnh quá lớn không thể lalm cho vơi giảm, là một mất mát quá to không thể nào bù đắp.

Vì thế, người Âu châu có một ngày lễ rất đẹp vào Chúa nhật thứ hai trong tháng năm, đó là là ngày lễ của những người mẹ. Ngày lễ này được tổ chức để ghi nhớ công ơn mẹ hiền. Và những ai còn mẹ, khi đi ra ngoài đường sẽ được cài một bông hồng trên áo, để nói lên rằng người ấy thật hạnh phúc vì còn được sống bên người mẹ của mình.

Nếu có dịp ghé thăm một cô nhi viện, chúng ta sẽ thấy những em bé mồ côi quấn quít bên chúng ta, mong muốn được nói chuyện với chúng ta vì các em thiếu vắng một tình yêu thương chăm sóc.

Từ những kinh nghiệm cụ thể ấy, chúng ta dễ dàng hiểu được lời Chúa phán:
- Thầy không bỏ các con mồ côi.

Thực vậy. Trước khi từ giã các môn đệ, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cho các ông, đã căn dặn các ông những điều cuối cùng và nhất là đã trăn trối cho các ông bổn phận phải yêu thương nhau. Ngài đã phác họa cho các ông thấy cả một tương lai đen tối:
- Họ đã bắt bớ Thầy, thì họ cũng sẽ bắt bớ các con.

Tuy nhiên, để các ông được yên tâm, không hoảng sợ, không thất vọng, Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần cho các ông và nhất là đã hứa ở với các ông một cách mầu nhiệm:
- Thầy không bỏ các con mồ côi.

Bây giờ, chúng ta đi vào lãnh vực cá nhân của mỗi người. Thực vậy, đời sống giống như một mặt biển đầy bão táp. Vậy bão táp ấy là gì? Đó là những tội lỗi, những khuynh hướng xấu xa, những lo lắng về tiền bạc vật chất… Tất cả là như những con sóng mốn nhận chìm con người bé bỏng chúng ta. Thế nhưng, người Kitô hữu không hề hoảng sợ và thất vọng, bởi vì chúng ta không chiến đấu đơn độc một mình, nhưng chúng ta chiến đấu bên cạnh những người anh em khác và nhất là chúng ta chiến đấu cùng với Chúa Giêsu. Ngài luôn ở bên chúng ta. Có Ngài, chúng ta sẽ làm được tất cả. Có Ngài, chúng ta sẽ vượt qua được mọi gian nan thử thách. Có Ngài, chúng ta sẽ chiến thắng vẻ vang. Chúng ta không phải là những đứa trẻ mồ côi, lạc lõng giữa chợ đời, nhưng chúng ta bước đi trong tình thương của Chúa, một người Cha nhân từ và giàu lòng xót thương.

Người ta kể lại rằng: Sau nghi lễ đăng quang, Đức Piô XI đã trở về phòng riêng, ngồi vào chiếc ghế vị tiền nhiệm là Đức Bênêdictô XV, tự nhiên một nỗi lo âu xâm chiếm. Ngài nhìn thấy con đường trước mặt thật tăm tối: Một Giáo hội bị tấn công về mọi mặt. Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất vừa chấm dứt, nhưng chiếc ngòi nổ vẫn còn âm ỉ. Trong lúc chán nản, ngài đã làm công việc duy nhất mà một người lo âu có thể làm, đó là quì xuống cầu nguyện. Trong khi cầu nguyện như thế, tay ngài đưa ra và chạm vào một bức ảnh còn lại trên bàn giấy của đức Bênêdictô. Ngài cầm bức ảnh ấy lên xem và bổng nỗi lo sợ tan dần. Tâm hồn ngài tràn ngập an bình. Đó là bức ảnh Chúa Giêsu đang truyền cho sóng gió yên lặng. Từ đó, ngài luôn để bức ảnh ấy trên bàn và mỗi khi lo âu chuyện gì, ngài liền nhìn vào và nhớ lại rằng: Chúa Giêsu chỉ cần phán một lời là sóng yên biển lặng.

Chúa Giêsu ở trong chúng ta và Ngài đã mang lại sự bình an cho tâm hồn. Bởi đó, giữa những cơn sóng gió của cuộc đời, chúng ta hãy bắt chước các môn đệ, chạy đến với Ngài và nài xin: Lạy Chúa, xin cứu chúng con, kẻo chúng con chết mất. Chắc chắn Chúa sẽ không để chúng ta mồ côi, nhưng Ngài sẽ nâng đỡ để chúng ta vượt thắng được những gian nan thử thách và luôn trung thành phụng sự Ngài.



10. Giữ giới răn

Điều Chúa Giêsu dạy ta hôm nay là: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì sẽ giữ các giới răn của Thầy”. Lời dạy xem ra nghe không êm tai mấy, bởi vì giữa tình yêu và lề luật có vẻ như xung khắc với nhau. Tình yêu gợi cho ta cảm giác êm đềm, dịu ngọt, tình yêu làm cho đời ta vui tươi thoải mái, trong khi đó các giới răn, các luật lệ lại gây cho ta một cảm giác gò bó, trói buộc và mất tự do. Thánh Augustinô cũng đã nói: “Hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm”. Nói như thế có nghĩa là trong tình yêu thì không cần lề luật gì nữa. Vậy mà Chúa Giêsu lại ghép việc tuân giữ giới răn vào chuyện yêu thương như một điều kiện không thể thiếu. Điều này xem ra không ổn.

Tuy nhiên, nếu suy nghĩ kỹ ta lại thấy lời dạy của Chúa Giêsu rất hợp tình hợp lý và không có gì là không ổn cả. Có thể nói: Yêu mến và việc tuân giữ các lề luật chỉ là một dòng chảy duy nhất và rất tự nhiên. Tuân giữ các giới răn là sự thể hiện ra bên ngoài tình yêu ở bên trong. Chẳng hạn:
-       Vâng phục cha mẹ là cách diễn tả rất tự nhiên của lòng hiếu thảo và yêu mến mà con cái dành cho cha mẹ.
-       Chấp nhận mưa nắng dãi dầu để kiếm cơm áo cho con cái, chấp nhận gian khổ để chu toàn trách nhiệm trong gia đình là một tỏ bày tình yêu con cái của những bậc làm cha mẹ.
-       Không ngoại tình, không phản bội là một đòi hỏi đương nhiên của tình yêu vợ chồng.
-       Chính Chúa Giêsu cũng đã thể hiện tình yêu đối với Chúa Cha qua việc thi hành mọi sự theo ý muốn của Cha.
Và mọi mối liên hệ yêu thương khác cũng thế. Chỉ yêu trong lòng mà thôi thì chưa đủ, nếu không muốn nói đó chưa phải là yêu mến thật sự.

Do đó, lòng yêu mến Chúa thực đòi ta giữ giới răn của Người. Điều đó rất tự nhiên. Bởi khi yêu nhau, người ta sẵn sàng chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy sinh vì nhau. Người ta cũng sẵn sàng làm theo ý của nhau nếu đó là những ý muốn chính đáng. Điều cần nói ở đây là việc ta tuân giữ giới răn của Thiên Chúa chẳng đem lại lợi lộc gì cho Người, nhưng đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Bởi lẽ, lề luật của Chúa là một hàng rào cần thiết để bảo vệ ta được an toàn và khỏi rơi xuống vực thẳm tội lỗi. Đồng thời chúng cũng là những bảng chỉ đường giúp ta đi đúng con đường dẫn đến sự sống, đến hạnh phúc. Biết như vậy nhưng dường như ta vẫn cảm thấy khó khăn và ngại ngùng khi phải tuân giữ, phải thực thi các giới răn của Người. Phải chăng chủ trương đạo tại tâm lại chẳng phản ảnh việc chối từ thực thi giới răn của Thiên Chúa đó sao?

Chúa Giêsu cũng biết những khó khăn và ngại ngùng ấy của ta. Chính vì vậy, Người đã hứa ban cho ta Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ ở với chúng ta, sẽ trợ lực, sẽ ban sức mạnh để giúp ta sống và thực thi những điều Người đã dạy ta. Chúa Thánh Thần đã đến với ta ngày ta lãnh nhận bí tích Rửa tội và đặc biệt qua bí tích Thêm sức. Người vẫn còn ở với ta để hướng dẫn và nâng đỡ ta trong suốt cuộc đời. Chỉ có điều là ta có đón nhận sự hiện diện, sự nâng đỡ, có lắng nghe sự hướng dẫn của Người hay không mà thôi.


11. Tuân giữ

Câu chuyện kể về một cha sở mới, khi về nhận nhiệm sở, với bài giảng đầu tiên làm cho họ đạo hồi hộp và thích thú. Chúa nhật tuần sau, bổn đạo đi lễ mong chờ cha sở mới giảng dạy thêm những điều khác, ai ngờ ngài lại nói y như bài giảng tuần trước. Vào tuần lễ thứ ba, rồi Chúa nhật thứ tư, ngài cũng đã giảng y như vậy, bổn đạo hết sức buồn bã. Sau cùng, một buổi họp hội đồng giáo xứ đã được triệu tập để xin cha sở cắt nghĩa về thái độ lạ lùng của ngài. Giáo dân hỏi: “Bộ cha chỉ có một bài giảng đó thôi sao?” Ngài trả lời: “Không. Tôi có vài bài giảng, và tôi cũng còn đang soạn thêm. Nhưng vì quí ông bà vẫn chưa thi hành điều nào trong bài thứ nhất cả, nên tôi vẫn phải nhắc lại cho đến khi những lời giảng đó được thi hành”.

Bài Phúc âm hôm nay, gồm những câu trích từ bài giã biệt dài của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi Người bị bắt và chịu chết. Người hứa: “Nếu các con nhân danh Thầy mà xin điều gì, chính Thầy sẽ làm điều đó”. Với điều kiện: “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”. Đang khi dạy về luật yêu thương, Chúa Giêsu đã chứng tỏ hành vi tối thượng của tình yêu: ban chính mình Người một cách hoàn toàn, tất cả và vô điều kiện cho nhân loại. Và Người cũng ra lệnh cho mỗi người: “Hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu thương các con”. Tình yêu này phải được chứng tỏ bằng hành động, phải thật sự hiến thân để đi theo Người. Bởi Người đã trở thành khuôn mẫu của sự thánh thiện của chúng ta.

Cách đây không lâu, một bác sĩ giải phẫu người Mỹ đã vâng theo tiếng gọi của Chúa Giêsu, yêu thương tha nhân bằng cách ban tặng chính bản thân mình cho họ. Ông đã trở nên một nhà truyền giáo phục vụ trong ngành y khoa. Từ bỏ quê hương, ông đi tới một hòn đảo xa xôi trên biển Thái Bình dương, nơi dân chúng sống nghèo khổ, bệnh tật vì thiếu thuốc. Sau một thời gian, để tạo sự bất ngờ cho bác sĩ, vị mục sư ở Mỹ đã đến thăm ông mà không báo trước. Khi mục sư đến, ông bác sĩ đang sửa soạn giải phẫu cặp mắt của một em bé gái 8 tuổi. Vị mục sư đã quan sát cuộc giải phải xảy ra qua cái cửa sổ của một căn chòi nhỏ. Sau ba giờ đồng hồ, bác sĩ đi ra khỏi phòng mổ và nói: “Đôi mắt của cô bé rất tốt. Em sẽ mau khỏi bệnh”. Rồi ông đi ra gặp mục sư của mình. Khi bàn về cuộc giải phẫu vừa mới xảy ra, mục sư hỏi: “Ông sẽ được trả bao nhiêu tiền cho cuộc giải phẫu đó nếu ông giải phẫu ở Mỹ?” “Chừng 3000 đô la, tôi đoán như vậy”, bác sĩ trả lời. “Vậy ở đây người ta trả ông bao nhiêu?” mục sư hỏi. “Tôi không biết nữa, chỉ vài xu và nụ cười của Thiên Chúa” ông bác sĩ nói. Rồi đặt tay lên vai mục sư, ông lay nhẹ và nói, “Nhưng lạy Chúa, cuộc sống ở đây thật tuyệt vời!”

Món quà tình yêu của Thiên Chúa ban nhưng không cho ta qua Đức Giêsu Kitô, mặc dù là vô giá, nhưng không phải là không có điều kiện. Giống như tất cả các loại tình yêu, Tình Yêu Thiên Chúa cũng có những đòi hỏi. Và một trong những đòi hỏi nặng nề nhất của Người, một đòi hỏi thường xuyên, đó là chia sẻ tình yêu thương đó cho tha nhân. Khi chúng ta đáp lại lời mời gọi: “Hãy yêu mến nhau như Thầy đã yêu thương các con”, chúng ta sẽ có được cái cảm giác hoan lạc giống như vị bác sĩ: “Nhưng lạy Chúa, cuộc sống ở đây thật tuyệt vời!”.



12. Yêu mến Chúa

Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho biết mối liên hệ giữa lòng yêu mến Chúa và việc tuân giữ các điều răn của Chúa: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”, “Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy”. Như vậy, yêu mến Chúa thì giữ các điều răn, và ngược lại, giữ các điều răn là yêu mến Chúa.

Các điều răn Chúa nói gì? Và giữ các điều răn thế nào để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa? Hiểu theo nghĩa chật, đó là bản giao ước được ghi vào bia đá. Bản giao ước đó chính là Mười Điều răn, mà dân Do thái gọi là “Những lời của giao ước” hoặc “Mười Lời”. Hiểu theo nghĩa rộng là tất cả những điều Thiên Chúa truyền dạy. Ngày nay, đạo của chúng ta cũng dạy rất nhiều điều: nào là Tin Mừng, nào là mười điều răn Đức Chúa Trời, sáu điều răn Hội Thánh, nào là luật Giáo Hội. Trong tất cả những luật ấy, chúng ta không biết điều nào là chính điều nào là phụ, sự phân vân thắc mắc đó, ngay từ xưa chính Chúa Giêsu đã giải đáp: điều chính, điều quan trọng nhất, tóm tắt tất cả những gì mọi Kitô hữu phải giữ và thực hành, đó là điều răn yêu mến “ Mến Chúa, yêu người. Ai giữ hai điều này thì kể là giữ tất cả những điều khác, trái lại, ai giữ tất cả những điều khác mà không thực hành lòng mến Chúa yêu người thì kể như không giữ gì cả.

Tóm lại, người Kitô có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn mến Chúa yêu người. Hơn nữa, chỉ cần xét xem chúng ta có yêu người không là đủ. Nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Và tình yêu đó phải được thể hiện bằng những việc làm, những hành động cụ thể.

Truyện cổ tích Ả Rập kể rằng: Có một người bán thịt nướng rất keo kiệt và khó tính, vì tính khí khó chịu của anh ta nên cửa hàng luôn bị ế ẩm, anh đã làm đủ mọi cách để câu khách nhưng chẳng ai thèm mua. Có một người ăn xin ngồi bên lề đường, thèm thuồng nhìn những miếng thịt nướng treo lủng lẳng, rồi ông móc trong bị ra một khúc bánh mì, lẳng lặng đem hơ nóng trên khói, hy vọng khói thịt sẽ ướp vào miếng bánh. Sau đó, ông ngồi ăn miếng bánh cách ngon lành. Anh chàng bán thịt nhìn thấy, chạy ra túm áo người ăn xin đòi tiền. Người ăn xin phân trần: “Tôi đâu có mua thịt của anh, khói thịt đâu có phải là thịt”. Anh bán thịt quát lên: “Khói thịt cũng thuộc về miếng thịt, ông phải trả tiền cho tôi”. Hai người cãi nhau, không ai chịu ai và đưa nhau đến quan tòa xét xử. Vị quan tòa truyền cho người ăn xin móc ra một đồng tiền cắc và ném xuống nền nhà phát ra tiếng kêu, ông nói: “Đây là giải pháp công bằng nhất, người ăn xin hưởng khói thịt của anh ta, và anh thì hưởng âm thanh đồng tiền của ông ta. Thế là công bằng nhé”.

Nghe qua câu chuyện trên, có thể chúng ta sẽ cười chê thái độ ích kỷ, keo kiệt, vớ vẩn của người bán thịt, thế nhưng rất nhiều khi trong cuộc sống chúng ta đã cư xử với tha nhân như thế. Việt Nam chúng ta có câu chuyện về một người cha tham ăn đang nướng mấy con cá, người mẹ dỗ dành vỗ về đứa con nhỏ khóc đòi ăn: “Nín đi, để xem có con nào nhỏ rồi ba cho”. Anh chồng quát lên: “Cho cái gì? Không có con nào nhỏ cả, con nào cũng bằng nhau”.

Tình thương không chia sẻ, không liên đới là tình thương không mạnh đủ hay là tình thương không có thật. Trước những nhu cầu bức thiết của người anh em, nhiều người đã tránh né, chạy trốn bằng những câu trả lời: “Chừng nào tôi đủ ăn, dư mặc tôi sẽ cho”. Hay “Để lúc khác, bây giờ tôi không có thời giờ”. Và cái lúc khác sẽ không bao giờ đến, vì người ta có trăm ngàn lý do để biện minh cho thái độ thiếu lòng thông cảm, thiếu tình thương của mình.

Người Kitô hữu có nhiều cách để biểu lộ lòng yêu mến của mình đối với Chúa, nhưng cụ thể nhất là giữ các điều răn Chúa dạy, cách riêng là điều răn yêu người, nghĩa là muốn biết chúng ta yêu Chúa thế nào thì chỉ cần xét xem chúng ta đã yêu người ra sao. Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã chỉ cho chúng ta biết một bằng chứng, một dấu hiệu để chứng tỏ chúng ta yêu mến Chúa là tuân giữ các điều răn của Chúa, nhất là điều răn yêu người. Chúng ta hãy sống thế nào để lòng yêu mến Chúa không chỉ giới hạn trong việc thờ phượng hay trong những sinh hoạt tôn giáo, mà phải được thể hiện bằng cả cuộc sống yêu thương của chúng ta. Chúng ta hãy xin Chúa cho chúng ta luôn xác tín rằng: chỉ bằng cuộc sống yêu thương chúng ta mới thực sự làm chứng cho Thiên Chúa tình yêu.


13. Sự sống mới

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Câu lạc bộ “Bạn giúp bạn” hình thành tại Sài gòn năm 1996, do bác sĩ Nguyễn Bửu Hiền điều hành với sáu thành viên đều đã nhiễm HIV. Những “người bạn” này tự nghĩ: Cuộc đời mình dù đã tới dấu chấm hết, nhưng vẫn còn có thể có ích cho xã hội, họ đã dấn thân phục vụ bằng những việc đơn giản như an ủi, động viên và chăm sóc các bệnh nhân khác để chính họ cũng sẽ tìm thấy ý nghĩa cuộc đời.

Hiện nay, câu lạc bộ “Bạn giúp Bạn” đã có khoảng 500 thành viên tỏa mạng lưới ở khắp quận huyện. Ban điều hành gồm 12 người, trong đó có ba người Công giáo, riêng nữ tu Trần thị Kim Loan, dòng Da minh Tam Hiệp là phó chủ nhiệm phụ trách hoạt động xã hội và tham vấn cho người nhiễm HIV. Trụ sở đặt tại 43 đường Lam Sơn, quận Bình Thạnh.

Chị Kim Loan kể lại một kỷ niệm về một nhạc sĩ mất vào tháng 8 năm 1998. Trước đó, anh đã xin được chịu Bí tích Thánh tẩy với một đức tin mạnh mẽ: “Mỗi lần cùng với tôi ra vào bệnh viện Nhiệt Đới ở Chợ Quán, khi ngang qua tượng đài Đức Mẹ, anh thường đề nghị dừng lại cầu nguyện. Khi trước, mỗi đêm chơi nhạc, được bao nhiêu tiền anh đều phung phí hết. Bây giờ, anh đưa hết cho tôi vì muốn góp một phần khiêm tốn cho những bệnh nhân nghèo. Chính việc này đã giúp anh tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời còn lại, và anh đã ra đi bình an trong tình yêu của Chúa”.

Đứng trước căn bệnh thế kỷ đầy nghiệt ngã, người nhạc sĩ này vẫn mang một phong thái an nhiên tự tại, chính là vì anh đã biết thoát ra khỏi nỗi đau của mình để hôn lên nỗi đau của kẻ khác. Anh dường như đã chết đi mà nay được sống lại, chỉ vì anh không còn loay hoay với nỗi bận tâm về mình, nhưng lại biết chia sẻ với nỗi đau của những con người bất hạnh hơn anh.

Kitô hữu là người tin vào Đấng đã chết và đã sống lại. Đấng đang sống sự sống tràn đầy sung mãn của Thiên Chúa, và Người mời gọi các tín hữu hãy ở lại trong Người cũng là ở trong Cha, và Thầy ở trong anh em”. Chính khi hiện diện một cách thâm sâu trong cung lòng của Thiên Chúa mà người tín hữu nhận được sự sống mãnh liệt phong phú của Đấng Phục sinh: “Vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống”. Thánh Phaolô đã cảm nghiệm rất sâu sắc về sự sống mới này khi người viết: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.

Sức sống dồi dào ấy chỉ có thể phát huy và tăng trưởng đến mức sung mãn, là khi người tín hữu dám bước ra khỏi cuộc sống co cụm, ích kỷ của mình, để ôm lấy bao nỗi khốn khổ bất hạnh của anh em. Có yêu thương là có Chúa tỏ mình, có Chúa tỏ mình là có sức sống mới sẽ bùng lên, tuôn trào: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy”.

Nếu con người ngày nay muốn kéo dài sự sống, thì người tín hữu phải cho họ thấy đời sống trường thọ chỉ có ý nghĩa khi người ta biết sống đời phục vụ trong yêu thương.

Nếu con người ngày nay thích tiện nghi sung túc, thì người tín hữu hãy chứng minh cho họ rằng cuộc sống càng bớt hưởng thụ thì đời sống càng lành mạnh, thanh thoát.
Nếu con người ngày nay lo bảo đảm cho cuộc sống, thì người tín hữu hãy giới thiệu cho họ cái bảo hiểm an toàn nhất là sự sống nước trời.

Lạy Chúa xin tỏ mình ra cho chúng con, để chúng con được kiên vững giữa sóng gió cuộc đời. Xin ban sự sống Chúa cho chúng con, để cây đời chúng con mãi xanh tươi. Xin ban Thánh Thần Chúa cho chúng con, để cuộc đời chúng con bùng lên sự sống mới.


14. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:
1.      Đức Giêsu nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. “Các điều răn của Thầy” ở đây là những điều răn cụ thể nào? Hãy lấy Kinh Thánh chứng tỏ điều ấy.
2.      Đức Giêsu có đưa ra một tiêu chuẩn nào để dựa vào đó ta có thể biết ai là người yêu mến Thiên Chúa đích thực, là môn đệ đích thực của Ngài không?
3.      Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần cho những ai? Bạn quan niệm thế nào về Thánh Thần? Và muốn lãnh nhận Thánh Thần ta phải làm gì?

Suy tư gợi ý:
1. “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”
Người Kitô hữu, theo định nghĩa, là người có Đức Kitô nhờ theo Ngài và yêu mến Ngài. Người không yêu mến Ngài, không theo Ngài, thì không có Ngài, nên không phải là Kitô hữu đích thực. Khi yêu mến Ngài, thì ta sống trong tình trạng: “Anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em”. Thật vậy, người ta chỉ sống trong nhau, vì nhau, cho nhau, khi người ta yêu thương nhau thật sự. Vì thế, chúng ta chỉ sống trong Đức Kitô, và được Đức Kitô sống trong ta, khi ta yêu mến Ngài.

Nhưng làm sao yêu mến Ngài được, khi mà một cách hữu hình ta không hề thấy Ngài, nghe Ngài nói, động chạm đến Ngài? Ngài cho chúng ta một tiêu chuẩn để dựa vào đó mà biết mình có yêu Ngài hay không: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Nhưng điều răn của Ngài là gì? Có phải là đi lễ, đọc kinh hay cầu nguyện hằng ngày? Điều ấy chắc chắn là đúng, nhưng có thể chưa phải là điều cốt yếu. Điều cốt yếu trong giới răn của Ngài đã được chính Ngài xác định rõ ràng như sau: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 12,34). Ngài cũng xác định luôn cả mức độ yêu: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (nt). Như vậy, câu nói của Ngài “nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” có nghĩa là “nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em phải yêu thương nhau”. Nói khác đi, ai yêu thương những người lân cận hay những người chung quanh mình mới là người thật sự yêu mến Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Nói cách khác nữa, ai không yêu những người gần gũi mình, những người mình gặp gỡ hằng ngày, người ấy không thật sự yêu mến Thiên Chúa. Thánh Gioan đã diễn giải điều này rõ hơn nữa: “Nếu ai nói: “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (Ga 4,20).

2. Làm sao phân biệt Kitô hữu đích thực và không đích thực?
Đức Giêsu còn đưa ra một tiêu chuẩn để nhận ra ai là môn đệ đích thật của Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 12,35). Đọc lời Kinh Thánh trên, tôi nghĩ ngay đến những tiêu chuẩn mà tôi thường dùng để phân biệt hàng hoá nào là thật, hàng nào là giả mạo. Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều hàng giả mạo, thậm chí tiền cũng bị giả mạo nữa. Nhưng những người có kinh nghiệm nghề nghiệp vẫn luôn luôn có những tiêu chuẩn để phân biệt, nhờ vậy họ ít khi bị lầm. Chẳng hạn tôi đã có dịp so sánh hai loại tiền 50.000đ thật và giả. Loại giả thì giấy mỏng hơn, không cứng và dai bằng loại thật, màu sắc cũng không tươi nhuận bằng. Nhờ tiêu chuẩn ấy, cứ nhìn và cầm tiền giả trong tay là tôi biết ngay.

Cũng vậy, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chuẩn để mọi người có thể nhận ra ai là môn đệ đích thực của Ngài và ai là người chỉ mang danh hiệu môn đệ Ngài mà thôi. Đó là dựa trên tình yêu của người ấy đối với đồng loại, cụ thể là những người gần gũi sống chung quanh họ. Tình yêu cụ thể đối với đồng loại là tính chất đặc trưng nhất của những người theo Đức Giêsu. Hễ thấy ai có đặc trưng ấy, ta biết người ấy là môn đệ Đức Giêsu. Ai không có đặc trưng ấy, thì dù có mang danh là môn đệ Ngài, họ cũng chỉ là thứ môn đệ “hữu danh vô thực”, giả hiệu mà thôi.

Thánh Phaolô nói: “Người Do thái chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, phép cắt bì chính hiệu không phải là căn cứ vào cái thấy được bên ngoài, nơi thân xác. Nhưng người Do thái chính hiệu là người Do thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật” (Rm 2,28-29). Nếu đúng như vậy, thì một cách tương tự, không thể căn cứ vào danh hiệu Kitô hữu, vào việc có rửa tội hay không để xác định người ấy có phải là Kitô hữu đích thực hay không, mà phải căn cứ vào việc người ấy có tình yêu đối với tha nhân hay không.

3. “Thầy sẽ xin … cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác”
Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần cho những ai giữ các điều răn của Ngài là yêu thương tha nhân: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em”. Như vậy, phần thưởng lớn nhất mà Thiên Chúa dành cho những ai yêu mến Đức Giêsu, được thể hiện cụ thể bằng việc yêu thương tha nhân, chính là được Ngài ban Thánh Thần cho. Nhưng Thánh Thần là ai? Được ban Thánh Thần thì có gì đặc biệt?
Trước hết, theo Đức Giêsu, Thánh Thần là “một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”. Theo tinh thần của câu này, thì Đức Giêsu là một Đấng Bảo Trợ đến trước, còn Thánh Thần là “một Đấng Bảo Trợ khác” đến sau Ngài. Thánh Thần là “Thần Khí sự thật”. Ai yêu sự thật, muốn biết rõ sự thật, ắt hẳn sẽ thấy “Thần Khí sự thật” này rất cần thiết cho mình và xã hội, hay thế giới. Nhưng vì thế gian không yêu sự chân thật, nên Đức Giêsu mới nói Thánh Thần là “Đấng mà thế gian không thể đón nhận”.
Thánh Thần hay Thần Khí của Thiên Chúa là một thực tại được nói đến rất nhiều trong Thánh Kinh, nhất là Tân Ước. Có thể nói Thánh Thần là sức sống, là tình yêu, sức mạnh, là sự khôn ngoan, thánh thiện của Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đã ban Thánh Thần của Ngài cho Giáo Hội, cho chúng ta, nhất là cho những ai yêu mến Thiên Chúa hay Đức Giêsu, được thể hiện qua việc yêu thương tha nhân.
Đọc sách Tông đồ Công vụ, ta nhận thấy mọi hoạt động trong Giáo Hội thời ấy đều do Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn, thúc đẩy. Ngài tác động trực tiếp trên tâm trí người này người kia. Và những người được tràn đầy Thánh Thần qua việc đặt tay của các tông đồ để được biến đổi một cách kỳ diệu: họ trở nên yêu mến Thiên Chúa, Giáo Hội và sẵn sàng hy sinh cho tha nhân một cách hăng say, trở nên mạnh mẽ, can đảm, không sợ khó khăn, nguy hiểm, hay cả cái chết, trở nên khôn ngoan, sáng suốt phi thường, có thể làm nên những phép lạ. Đặc biệt họ trở nên bình an, hạnh phúc bất chấp những hoàn cảnh khó khăn bên ngoài như bị bách hại, ghen ghét. Tư cách của những người được tràn đầy Thánh Thần hết sức phi thường. Thánh Phaolô đã diễn tả những đức tính mà những người đã lãnh nhận Thánh Thần có được như sau: “Hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23).

Theo lời Đức Giêsu hứa, nếu ta tuân giữ các giới răn của Ngài, cụ thể là yêu thương tha nhân như chính Ngài đã yêu thương ta và yêu thương họ, thì ta sẽ nhận được Thánh Thần. Nhờ đó, đời sống của ta sẽ được biến đổi một cách kỳ diệu và phi thường. Và chắc chắn ta sẽ đạt được sự sống vĩnh cửu, vì “kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời” (Gl 6:8). Vậy muốn được tràn đầy Thánh Thần, ta phải yêu thương tha nhân.

CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, qua bài Tin Mừng trên, con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Cha và Đức Giêsu yêu mến, tỏ mình ra cho, đồng thời được ban tràn đầy Thánh Thần, đó là tuân giữ giới răn yêu thương của Đức Giêsu. Xin cho con xác tín rằng tình yêu của con đối với Cha hay Đức Giêsu phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xưởng thợ, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp hằng ngày. Xin giúp con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.


15. Chú giải của Fiches Dominicales.

THẦY SẼ KHÔNG BỎ CÁC CON MỒ CÔI

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Lời hứa sẽ hiện diện giữa các môn đệ.
Đoạn Tin Mừng Chúa Nhật trước kết thúc với lời loan báo rằng sứ mệnh của Đức Giêsu sẽ sinh hoa kết quả trong thời gian và không gian qua việc làm của các tín hữu “Ai tin vào Thầy sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa vì Thầy đến cùng Chúa Cha”.

- Trước tiên, câu 16 và 17 là lời hứa ban Chúa Thánh Thần: “Thầy sẽ xin Chúa Cha, và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi: đó là Thần Khí sự thật”

Thánh Thần được Chúa Cha ban xuống nhờ sự can thiệp của Chúa Con. Nhiệm vụ của Ngài là: “ở với anh em luôn mãi”. Đây cũng chính là ý nghĩa của tên Ngài. Vì thế, đây là một sự hiện diện thường xuyên, “luôn mãi”, sự hiện diện như bóng với hình bên người tín hữu và ở với họ “với anh em; bên cạnh anh em; trong anh em”.
-       Ngài được gọi là Đấng Bảo Trợ. Ngài sẽ là trạng sư của các môn đệ Chúa và là đấng bào chữa cho họ. Ngài sẽ phụ lực và giúp đỡ họ trong vụ kiện sống còn mà “thế gian” theo đuổi để chống lại Đức Giêsu và các môn đệ Ngài.
-       Ngài được gọi là Thần Khí sự thật: Ngài sẽ đào sâu đức tin cho họ, làm cho họ hiểu biết “tận đáy lòng” cuộc sống Đức Giêsu và sứ điệp của Ngài (xem Ga 14,25;16,12-15) Ngài sẽ soi rọi những hoàn cảnh mới và bất ngờ mà các môn đệ sẽ phải đương đầu.
-       Tiếp theo sau, các câu 18-20 là lời hứa ban một kiểu Hiện Diện khác của Đức Giêsu: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy, Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy vì Thầy sống và anh em cũng sẽ đuợc sống.”

Lời hứa về sự hiện diện hoàn toàn mới mẻ này sẽ trở thành hiện thực vào chính ngày lễ Phục sinh: các môn đệ sẽ thấy Đấng Phục Sinh (Ga 20, 20-25) nhưng những cuộc hiện ra trong dịp phục sinh không phải là kết thúc. Chúng mở màn cho một Sự Hiện Diện kéo dài, một sự Hiện Diện dành riêng cho con mắt đức tin. Cuộc “đăng trình” của Đức Giêsu khơi nguồn một kỷ nguyên mới “khởi đầu với vinh quang phục sinh của Chúa và kéo dài trong thời gian với Giáo Hội. trong suốt cuộc sống chúng ta, Chúa đến, chúng ta nhìn thấy Người. Đây không còn phải là thị kiến của các môn đệ trước Đấng Phục Sinh nữa mà là một thị kiến của niềm tin giúp ta ý thức về sự hiện diện và hiệp thông đời sống” (Assemblées du Seigneur số 27, p.42)

2. Cuộc sống vĩnh hằng đã khởi đầu.
Trong thời đại của Giáo Hội, Đức Giêsu hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Tiếp sau sự hiện diện lịch sử của Ngài là một kiểu hiện diện mới mang lại cho chúng ta một nếp sống mới, hợp nhất với Đức Giêsu và Chúa Cha dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Như vậy, với các môn đệ, đời sống vĩnh cửu đã bắt đầu. cuộc sống họ “ngay trên trần gian này đã tương đương với cuộc sống của Đấng Phục Sinh, đã thông phần với cuộc sống của chính Thiên Chúa, với cuộc sống của Chúa Ba Ngôi. cuộc sống họ là một sự hiệp thông, trong tình yêu, với từng ngôi Thiên Chúa đang ở trong họ.” (M.E.Boismard và A. Lamouille, “Tin Mừng thánh Gioan” Cerf, p.360) “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy, Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy vì Thầy sống và anh em cũng sẽ sống, Đức Giêsu hứa như vậy. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em.”

BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một cuộc sống mới: (G. Bessière, trong “Thiên Chúa thật gần”)

Rõ ràng, điều quan trọng ở đây là có được mối tương liên cá biệt với Đức Giêsu hay đúng hơn, được “yêu mến Ngài”. Các Phúc Âm Mátthêu, Marcô, Luca mời gọi ta tiến vào nước Trời. Phúc âm Gioan, xuất hiện trễ hơn, không đề cập đến nước Trời ấy nữa mà tập trung vào Đức Giêsu và qui kết về Ngài.

Hình ảnh cây nho và cành nho biểu hiện rõ rệt về điều đó: mỗi môn đệ đều kết hợp trực tiếp với Đức Kitô. Người ta đã có thể nói về “tính đồng đẳng” của thánh Gioan: theo Ngài, mọi người phải sống với Đức Giêsu bằng mối dây tình yêu. trong lòng cộng đoàn tín hữu, mỗi Kitô hữu trực tiếp trao đổi với Ngài.

Tình yêu này không hàm hồ. Nó không phải là một thúc đẩy cảm tính về một hình ảnh mơ hồ qua đó người ta có thể dự phóng những giấc mơ của mình. “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của thầy.” Đây là một tình yêu với những việc làm cụ thể. toàn bộ phúc âm là một bằng chứng về cuộc sống mới đã khởi đầu nơi Đức Giêsu: Phải tái sinh, phải mở mắt, phải uống nước vọt lên từ nguồn suối, phải ăn bánh hằng sống, phải để Đức Giêsu rửa chân và chúng ta phải làm đầy tớ cho nhau. Một cuộc sống khác đã khai mở, cuộc sống của chính Thiên Chúa, đúc kết nơi Đức Giêsu.

Tin mừng của thánh Gioan diễn ra trong bầu khí căng thẳng. Sự cắt đứt với với do thái giáo đã chín mùi, và sự đối đầu thật gay go. Tác giả tin mừng thứ tư hết sức cứng rắn với người do thái. Ngài nhấn mạnh đến thần tính của Đức Giêsu, Đấng từ trời xuống. Từ nay, ngoài Ngài ra, không còn con đường nào khác. Các môn đệ sẽ không ngừng đón nhận sự tự do của Ngài và cùng khám phá với Ngài cuộc sống yêu thương.

Nhưng làm sao có thể sống thân thương được với một người mà kỉ niệm đã xa mờ trong quá vãng? Khi Tin Mừng thánh Gioan được soạn thảo xong, thế hệ những chứng nhân bằng xương bằng thịt đã qua đời. chỉ còn lại những bản văn, những lời chứng, những mẩu chuyện và những lời nói uyên thâm cho phép ta không ngừng gặp gỡ Đấng vĩnh hằng. Song còn hơn thế nữa: còn có một Đấng luôn ở cạnh bên, như một trạng sư hay một Đấng Bảo Trợ, đó là Thần Khí sự thật.

Nhờ Ngài. công việc của Đức Giêsu sẽ luôn hiện thực trước những hoàn cảnh mới. Thánh Thần sẽ không lập lại những lời nói cũ mòn nhưng Ngài cách tân chúng theo dòng đời luôn luôn đổi mới.

Chính trong Ngài mà mối tương giao dấu ái với Đức Giêsu sẽ không ngừng nối kết những con người qua các thế kỷ; nó hệt như một ngọn lửa luôn chiếu sáng và sưởi ấm cõi lòng.

2. Một Đấng Bảo trợ khác
Đấng Bảo Trợ, là từ Hi Lạp, thoạt đầu, theo nghĩa luật pháp, tức là trạng sư, người trợ lí, người bảo vệ. Về sau, từ này được dùng theo nghĩa rộng để chỉ người an ủi và người can thiệp giúp. Có điều lạ là từ này được áp dụng cho Đức Giêsu (trong thư thứ nhất của thánh Ga 2,1): “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” còn hầu hết thì chỉ Chúa Thánh Thần. Vì thế, nếu gán cho Chúa Thánh Thần mọi phẩm tính trên, ta sẽ thấy, nếu chỉ có một mình, người ta sẽ khó sống trung thành với Đức Kitô tới mức nào.

Nhưng đây cũng chính là sứ điệp của Đức Giêsu: các con sẽ không mồ côi, một mình. Đức Kitô vô hình nhường chỗ cho Đấng Bảo Trợ các tín hữu, mang đến cho họ những kháng độc tố cần thiết cho cuộc sống công chính theo Tin Mừng giữa muôn vàn thử thách. Tốt đẹp biết bao khi tin rằng- từ khi Đức Giêsu ra đi trong ngày Ngài lên trời- tất cả những gì được Đức Kitô thực hiện trên trần gian này một cách hữu hình đều do những người nam và người nữ đã mạo hiểm với niềm tin dũng cảm, đôi khi phải trả giá bằng chính cái chết của mình.

Chính vì họ không đơn độc. Vị đạo diễn vĩ đại, hợp nhất toàn cả vũ trụ, hợp nhất Giáo Hội chính là Đấng Bảo Trợ vô hình, Người ân ban sức mạnh tràn trề cho những người yếu đuối nhất và lòng can đảm cho những kẻ nhát đảm nhất. Niềm ủi an của Chúa Thánh Thần sẽ như ngọn lửa lan truyền giữa các tín hữu từ đời này cho tới đời kia.


16. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

HỨA BAN THẦN KHÍ
Chú giải chi tiết
“Nếu các con yêu mến Ta, các con sẽ giữ các lệnh truyền Ta”. Gioan không bao giờ cho phép tình yêu thoái hóa thành tình cảm suông hay xúc động thuần túy. Tình yêu được biểu lộ trong sự vâng phục. Điều này cũng đúng cho tình yêu của Chúa Con đối với Chúa Cha (x. 15, 10).

“Đấng Bầu chữa khác”: Được vay mượn tư ngữ văn.g pháp luật tiếng Paraklêtos chỉ người được mời tới bên cạnh bị cáo để giúp đỡ và bênh vực cho đương sự: thành thử nghĩa đầu tiên là trạng sư, người biện hộ. Từ đó, ta thấy xuất hiện nghĩa “Đấng An ủi hãy Đấng chuyển cầu. Nơi Gioan thì ý nghĩa pháp lý thắng thế. Thần khí giúp đỡ các môn đồ trong vụ án vĩ đại mà thế gian đeo đuổi chống lại họ, nhưng những tiểu dị vừa nêu trên có thể áp dụng và nhấn mạnh tùy trường hợp. Theo nghĩa Chuyển cầu, thì Chúa Giêsu cũng là Paraklêtos như Thần khí. Vậy nếu chỉ có một trung gian duy nhất là Chúa Giêsu (1Tm 2, 5), thì vẫn có hai Đấng bầu chữa: Chúa Giêsu, “luôn sống để cầu bầu cho chúng ta” (Dt 7,23) và Thần khí, “Đấng chuyển cầu cho ta bằng những tiếng rên khôn tả” (Rm 8, 26).

“Và Ngài ở trong các con”. Nhiều chỉ cảo và thủ sao có giá trị dùng động từ này ở thì tương lai: Ngài sẽ ở. Người ta có thể đưa ra nhiều lập luận vững chắc để bênh vực cho cả hai lập trường. Tuy nhiên, phần lớn các nhà chú giải gần đây xem ra thích cách đọc: Ngài ở hơn.

“Ta sẽ không bỏ các con mồ côi” Tiếng orphanos cũng được dùng cho các môn đồ không có thầy: xem Platon, Phédon 116a, trong đó các bạn hữu của Socrate được gọi là những orphanoi khi ông chết, và xem Lucien, De morte Peregrini 6.

“Ai yêu mến Ta, sẽ được Cha Ta vêu mến”. Gioan không muốn nói riêng tình yêu của Thiên Chúa bị lệ thuộc vào sự vâng phục của con người, điều ấy sẽ mâu thuẫn với 3, 16; 13, 34; 15, 9. 12; 17, 23. Tư tưởng của ông, trong lúc này, tập trung vào mối liên hệ hỗ tương giữa Chúa Cha, Chúa Con và các tín hữu -xem 13, 34. Bởi vì các môn đồ yêu thương lẫn nhau, nên dưới mắt người đời họ là những thành phần của gia đình Thiên Chúa; tình yêu của họ đối với Chúa Giêsu và sự hiệp nhất giữa họ với Người chứng tỏ là Chúa Cha yêu thương họ trong Người. Trước đó, xét như là thụ tạo, họ đã được Chúa Cha yêu mến rồi (1Ga 4, 10); nay với tư cách là Kitô hữu, họ còn hơn là một sự ngoại trưng của mầu nhiệm Nhập thể; họ là ngoại trưng của nhân cách tập thể của Đầu Nhiệm Thể.

KẾT LUẬN
Trong thời gian của Giáo Hội, thời gian chúng ta đang sống, Chúa Giêsu vẫn hiện diện với Cha Người và với Thần khí. Sự hiện diện ấy được thể hiện cho tất cả những ai mở lòng đón nhận Ba Ngôi Thiên Chúa. Nó là sự thông giao, thông hiệp, vì không phải là một hiện diện trừu tượng, “vô tính” nhưng hiện diện hỗ tương, hiện diện theo nghĩa mạnh của hạn từ. Sự hiện diện của Chúa Giêsu đối với chúng ta bây giờ gần gũi hơn, thắm thiết hơn, hữu hiệu hơn là khi Người còn tại thế, bởi vì nay Người hiện diện như Đấng được tôn vinh, như Chúa cánh chung hằng ban cho chúng ta Thần khí và làm cho chúng ta đi vào. trong sự thông hiệp đời sống với Chúa Cha. Vì vậy chúng ta phải nói đến một sự hiện diện trong khiếm diện. Nối tiếp cách hiện diện lịch sử của Chúa Giêsu, có một cách hiện diện mới là hiệp nhất với Chúa Giêsu và Chúa Cha, dưới sự hướng dẫn của Thần khí.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trong bài Tin Mừng của phụng vụ hôm nay, Chúa Giêsu hứa sai một Đấng Bầu chữa. Danh xưng lạ lùng này, vốn không có trong cách dùng thông thường của ngôn ngữ chúng ta, là chữ phiên dịch từ một kiểu nói Hy lạp có nghĩa được kêu tới bên cạnh…”; các tiếng đồng nghĩa với nó có thể là: người trợ giúp, trạng sư, kẻ nâng đỡ... Khi Chúa Giêsu nói đến một vị Bầu chữa khác, ta có thể nghĩ rằng chính Người là Đấng Bầu chữa đầu tiên là Vị rồi đây được sai đến với các sứ đồ sẽ làm cho họ hiểu hơn về Người; Ngài sẽ là kẻ mặc khải, bảo vệ Chúa Kitô trong tâm hồn người tín hữu chống lại các cơn cám dỗ và bách hại của thế gian.

2. “Thần khí... mà thế gian không thể lãnh nhận Tiếng “thế gian” ở đây phải hiểu là toàn bộ các quyền lực phản nghịch với Thiên Chúa và Đấng Kitô của ngài Thần khí của thế gian này thiết yếu là một não trạng bất nhất, một bầu khí thiêng liêng nhiễm độc do nhiều sai lầm và ngu đại, do óc kiêu căng cố chấp và tự mãn ngớ ngẩn, một thái độ tâm lý và luân lý đóng kín con người lại. Thế gian ấy không tin cả đến sự khả hữu thần tính của Chúa Kitô và bởi thế cũng chẳng tin việc Thần khí ngự đến. Ở chỗ khác, Chúa Giêsu có nói là Người sẽ cầu xin Chúa Cha che chở các môn đồ người, tức chúng ta hôm nay, cho khỏi thế gian tội lỗi này.

3. “Ai yêu mến Ta sẽ được Cha Ta yêu mến”. Chúng ta gặp lại ở đây, dưới hình thức rõ ràng và đánh động hơn, một trong những chân lý cơ bản thường năng được trình bày trong Tân ước. Tương quan giữa chúng ta với Chúa Giêsu cấu tạo nên tương quan với Chúa Cha. Vâng giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu là vâng phục Chúa Cha; cầu nguyện với Chúa Giêsu là cầu nguyện với Chúa Cha; ca tụng Chúa Giêsu, tức nhìn nhận thực thể của Người trong niềm thán phục và vui mừng, là phó thác vào Chúa Cha.”Các con sẽ phải khốn quẫn, nhưng hãy vững lòng! Ta đã thắng thế gian” (Ga 16, 33).

4. Sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu không phải là tất cả. Sự hiện diện của Người trong nội tâm còn quý trọng hơn. Như thánh Phaolô, chúng ta không nên tiếc vì đã chẳng sống vào thời của Tin Mừng. Thật là nguy hiểm khi chỉ biết Chúa Giêsu qua những vẻ bên ngoài theo xác thịt, mà không sống mật thiết với Người trong Thần khí.

5. Thánh Thần là hồng ân được ban cho chúng ta như hoa quả mà Chúa Kitô thâu lượm được nhờ cuộc Tử nạn của Người. Chính khi làm cho chúng ta đồng hóa với Chúa Kitô mà Thánh Thần đặt trong chúng ta tâm tình con thảo mà Chúa Cha mong đợi nơi chúng ta. Như thánh Phêrô nói: “Tất cả những ai được Thần khí tác sinh, đều là con cái Thiên Chúa”. Quả thế, không phải anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nô lệ để mà phải sợ hãi; nhưng anh em đã nhận lấy Thần khí của hàng nghĩa tử làm cho chúng ta thốt lên: Abba, Cha! Chính Thần khí chứng thực cho thần hồn ta rằng: ta là con cái Thiên Chúa (Rm 8, 14- 16). “Ta sẽ không để các con mồ côi. Ta sẽ trở lại với các con”. Chúa Giêsu đã đến làm cho chúng ta thành nghĩa tử của Cha Người. Người đã đến bằng con đường nhập thể để thực hiện kế hoạch tình yêu đó.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét