Thứ Hai, 25 tháng 4, 2016

LE CUOI JOS. TRAN XUAN BIEN & MARIA VU THI THU - CN VI PS








ĐỨC CHA THĂM CAM ĐƯỜNG























































HANH HUONG SAPA




























ĐỨC GIÁO HOÀNG GIẢI TỘI




                     CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm C
Lời Chúa: Cv 15,1-2.22-29; Kh 21,10-14.22-23; Ga 14,23-29


MỤC LỤC   



1. Chơi trò hoà bình

Một ông nhà văn ngồi trên ghế đá công viên, đưa mắt quan sát nhìn xem mấy em nhỏ đang chơi đùa với nhau nơi thảm cỏ. Ông lên tiếng hỏi:
- Này các em, các em đang chơi trò gì thế?
Các em trả lời:
- Chúng cháu đang chơi trò chiến tranh. Chúng cháu đang chơi trò đánh nhau.
Nghe thế, ông hơi cau mặt, gọi các em lại và giải thích:
- Tại sao các em lại cứ thích chơi tró chiến tranh, chơi trò đánh nhau. Chiến tranh và đánh nhau thì có gì là tốt đẹp. Vậy tại sao các em lại không chơi trò hoà bình.

Cả bọn tụm đầu vào nhau và bàn tán. Thấy chúng đón nhận ý kiến của mình, ông nhà văn mỉm cười hài lòng và bước đi. Tuy nhiên, chưa bước đi được bao xa, các em đã đuổi theo và hỏi:
- Bác ơi! Chơi trò hoà bình là như thế nào? Chúng cháu không biết.

Phải, làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi các em chỉ thấy người lớn chơi trò chiến tranh. Làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi trên báo chí, truyền thanh và truyền hình, các em chỉ thấy hình ảnh những người lớn bắn giết nhau. Làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi tại gia đình các em chỉ thấy các anh các chị và đôi khi ngay cả cha mẹ cũng lớn tiếng cãi cọ và mắng chửi lẫn nhau, nhiều lúc còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau nữa.

Rồi trong thực tế, bầu khí người lớn tạo ra để cho các em được phát triển, không phải là một bầu khí hoà bình, mà là một bầu khí chiến tranh. Đến bao giờ người lớn mới thực tâm tìm phương thế giải quyết những mâu thuẫn, những bất đồng với nhau. Mỗi ngày trên thế giới, người lớn đã bỏ ra hằng tỷ mỹ kim cho việc nghiên cứu và trang bị vũ khí, đang khi đó có tới tám trăm triệu người sống trong cảnh nghèo đói và túng thiếu, có tới hơn sáu trăm triệu người mù chữ. Chỉ có bốn trong số mười em sinh ra là được cắp sách đến trường cho hết bậc tiểu học. Và cứ mười em được sinh ra trong cảnh cơ hàn, thì đã có hai em bị chết đói trong năm đầu tiên.

Thế giới người lớn phải bắt tay ngay vào việc loại trừ chiến tranh, nếu họ muốn cho các em thiếu nhi noi gương họ mà chơi trò hoà bình. Đồng thời, phương thức để loại trừ chiến tranh và xây dựng hoà bình, không gì hữu hiệu hơn cho bằng sống tinh thần hoà giải.

Thực vậy, hoà bình chỉ là kết quả đương nhiên của việc hoà giải mà thôi. Chúng ta phải hoà giải với Thiên Chúa bằng việc sám hối ăn năn và lãnh nhận ơn tha thứ. Đồng thời chúng ta còn phải hoà giải với anh em bằng việc lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Chính vì thế, trong đêm giáng sinh, các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:
- Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

Và sau khi sống lại, lúc hiện ra với các môn đệ, sau lời chào chúc bình an, thì lập tức Chúa Giêsu đã trao ban cho các ông quyền cầm buộc và cởi mở. Hay nói đúng hơn, Ngài đã trao ban cho các ông quyền tha thứ, quyền hoà giải:
- Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ
Để kết thúc, chúng ta hãy cùng nhau ghi nhớ và suy gẫm lời kinh Hoà bình của thánh Phanxicô Assie:
- Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.

 

 

2. Đến và ở lại

Suy Niệm
Khi được hỏi Đức Kitô hiện diện ở đâu, chúng ta thường nghĩ ngay tới nhà thờ, nhà Tạm. Tiếc thay lắm khi chúng ta dừng lại ở đó. Chúng ta ít nghĩ đến một lối hiện diện khác của Ngài. Không phải chỉ là ở với, ở bên, ở trước mặt, mà còn là ở trong con người yếu đuối của ta. Chúng ta ít nghĩ, vì chúng ta không dám tin vào hồng ân quá đỗi lớn lao đó.

Chính vào lúc sắp chia tay các môn đệ để về với Cha, Đức Giêsu đã long trọng loan báo chuyện Ngài ở lại: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy,Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Chúng ta sẽ đến với người ấy và sẽ làm nhà nơi người ấy” (Ga 14,23).

Đại từ Chúng Ta ở đây để chỉ Chúa Cha và Chúa Con, mà ở đâu có Chúa Cha, Chúa Con thì cũng có Thánh Thần.

Vì yêu Đức Kitô, tôi được đón nhận thế giới Ba Ngôi. Vì yêu tôi, Ba Ngôi muốn đến thăm tôi và cư ngụ tại đó. Trong tình yêu hai chiều này, thiên đàng chớm nở. Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng tôi. Thiên đàng ấm áp ở nơi nghèo hèn, bé nhỏ, nơi tâm hồn biết yêu Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài.
Đôi khi tôi cần tự hỏi Thiên Chúa có ở trong tôi không. Tôi có cảm nghiệm được chút nào sự hiện diện đó chăng? Có bao giờ tôi thờ lạy sự hiện diện đó của Ngài không?

Kitô hữu không chỉ là bạn hữu của Đức Kitô, mà còn là người có Đức Kitô nơi chính mình. Họ là những cung thánh, những nhà thờ lưu động. Họ không chỉ chứa đựng Đức Kitô như một Nhà Tạm, họ còn nên một với Ngài trong tình yêu.

Các bí tích chúng ta lãnh nhận đều nhằm mục đích làm cho tình yêu giữa ta với Đức Kitô được lớn lên. Trước khi tôi rước lễ, Đức Kitô đã ở trong tôi rồi. Sau khi tôi rước lễ, Ngài cũng chẳng bỏ tôi. Nhưng mỗi lần rước lễ, sự hiện diện Ngài lại tăng trưởng. Ngay cả khi không thể đến nhà thờ, tôi vẫn có thể gặp Đức Kitô nơi cung lòng mình. Chỉ cần để lòng mình lắng xuống, là tôi có thể gặp Ngài và bước vào cuộc đối thoại. “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”
Yêu mến Đức Kitô không phải chuyện dễ. Yêu một người ta chưa gặp mặt và sống xa ta 20 thế kỷ.
Giữ lời Đức Kitô chẳng phải chuyện dễ. Lời đòi chúng ta ra khỏi mình và bay lên cao. Chính Thánh Thần sẽ giúp ta thấy Đức Kitô thật gần để có thể say mê Ngài, thấy Lời Tin Mừng trở nên sống động và bừng sáng để giải quyết những vấn đề mới nảy sinh. Hội Thánh của chúng ta sẽ là một Hội Thánh vô hồn, nếu chẳng có sự hiện diện của Chúa nơi lòng các tín hữu.

Gợi Ý Chia Sẻ
·        Trong thánh lễ, linh mục chúc bình an cho giáo dân và mời họ chúc bình an cho nhau. Bạn thấy mình có bình an hơn nhờ tham dự thánh lễ không? Theo bạn, thế nào là người có tâm hồn bình an?
·        Bạn có quen ai mà bạn tin là có Chúa ở trong người ấy không? Dựa vào đâu mà bạn tin như vậy?

Cầu Nguyện
Ngài đã xuống tận đáy lòng con, xin cho con chỉ tập trung vào tận đáy lòng con.
Ngài là thượng khách của lòng con, xin cho con bước vào nhà là chính đáy lòng con.
Ngài chọn cư ngụ trong lòng con, xin cho con biết ngồi yên ngay tại đáy lòng con.
Duy Ngài ở lại trong con, xin cho con biết chìm sâu xuống tận đáy lòng con.
Duy Ngài hiện diện trong lòng con, xin cho con biết xóa mình khi Ngài ở bên con.
Khi con đã gặp Ngài, không còn con và Ngài nữa.
Con chẳng là gì cả, và Ngài là tất cả.


3. Trong và ngoài tình yêu - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Trong những năm qua, nước ta phải trải qua hai thiên tai khốc liệt. Thiên tai gây nên những thiệt hại trầm trọng về vật chất và tinh thần. Nhưng cũng chính trong thiên tai đã xuất hiện những nét đẹp của tình người.

Qua báo đài, tôi đã thấy nhiều Đức Giám mục, Linh mục mặc quần soọc áo may-ô chèo thuyền đi thăm viếng, khích lệ các nạn nhân. Nhiều cao tăng hoà thượng vận động tín đồ Phật tử tham gia công tác cứu trợ. Nhiều nữ tu đứng ra tổ chức công việc cứu trợ có khoa học và hiệu quả. Nhiều nhà thờ, nhà chùa, tu viện trở thành nơi tiếp đón các gia đình lâm nạn. Biết bao bộ đội, công an xả thân, liều lĩnh vượt qua sóng to gió lớn để cứu hộ các nạn nhân. Cả nước hướng về những nơi hoạn nạn đã đành. Cả những anh chị em ở nước ngoài cũng đau đớn khi khúc ruột trong nước đau đớn. Nên Việt kiều ở nước ngoài cũng đã vận động quyên góp, tổ chức những đoàn cứu trợ về thăm viếng và uỷ lạo các nạn nhân bão lụt. Nhiều cơ quan thiện nguyện nước ngoài cũng nhập cuộc. Tất cả mọi người, không phân biệt tôn giáo, màu da, ngôn ngữ, khuynh hướng chính trị, giai cấp đang quy tụ lại để khắc phục thảm hoạ. Toàn cầu hoá với sự bùng nổ thông tin đang làm cho các nước xích lại gần nhau. Gần gũi không chỉ về không gian, nhưng nhất là về tấm lòng. Mọi người liên đới với nhau trong việc chống lại cái ác và cùng nhau đề cao sự thiện, lòng nhân ái. Đó là dấu chỉ cho thấy Lời Chúa đang được thực hiện.

Tuần trước kh Chúa Giêsu nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con thương yêu nhau”, Người đã cấp thẻ quốc tịch cho những kẻ thuộc về Người. Căn tính của những kẻ thuộc về Người không phải là mầu da, ngôn ngữ hay phong tục tập quán, nhưng là trái tim. Người ta nhận ra thần dân của Người không phải bằng chiều cao, sức nặng, nhưng bằng tình yêu.

Hôm nay, khi nói: “Ai yêu mến Thầy thì giữ Lời Thầy. Và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”, Chúa Giêsu đang vẽ nên biên cương Nước Chúa. Biên cương này không xác định bằng rừng núi, sông biển, nhưng bằng tấm lòng. Chúa Giêsu không giới hạn Nước Chúa trong 4 bức tường nhà thờ vì Nước Chúa là Tình Yêu. Vì thế, điều quan trọng không phải là ở trong hay ngoài nhà thờ, nhưng là ở trong hay ở ngoài tình yêu. Ai ở ngoài nhà thờ mà ở trong Tình Yêu thì người ấy đã ở trong Nước Chúa. Trái lại, những ai ở trong nhà thờ mà không có Tình Yêu, thì người ấy vẫn còn ở ngoài Nước Chúa.

Rồi xã hội sẽ chẳng còn phân biệt hữu thần với vô thần. Nhưng sẽ chỉ có một phân biệt duy nhất: hữu tâm và vô tâm. Người hữu tâm là người có trái tim rộng mở, biết chạnh lòng thương xót, biết chia sẻ, phục vụ. Người vô tâm là người lòng chai dạ đá, trái tim khép chặt, chỉ biết trau chuốt bản thân. Người vô thần mà có trái tim nhân ái thì đã thuộc về Chúa. Hữu thần mà tâm hồn tàn nhẫn độc ác thì đã bị loại trừ ra khỏi Nước Chúa rồi.

Nhìn như thế, Nước Chúa thực là rộng lắm. Những người thuộc về Nước Chúa thực là đông đảo. Những người có trái tim yêu thương tạo nên thành Giêrusalem mới như ta nghe trong bài đọc thứ I hôm nay. Thành Giêrusalem mới có cửa mở ra 4 phương tám hướng để đón nhận mọi người từ khắp nơi tuốn về. Thành không có Đền Thờ vì thành được xây bằng yêu thương. Mà ở đâu có yêu thương thì ở đó có Thiên Chúa ngự trị. Thành không cần đèn đuốc vì Thiên Chúa tình yêu là ánh sáng cho thành. Gạch xây thành là những trái tim chan chứa yêu thương nên thành trở nên một khối pha lê trong suốt, như một viên ngọc quý toả ánh sáng tới khắp muôn dân.

Trong số những người có trái tim, xây dựng nên thành Giêrusalem mới ấy, tôi thấy có nhiều người trong anh chị em. Trong những năm qua số người tham gia công tác từ thiện bác ái ngày càng đông. Người âm thầm, kẻ công khai. Người góp của, kẻ dâng công. Tôi thấy rõ là anh chị em đang phấn đấu để ở trong tình yêu. Tôi thấy rõ là anh chị em đang rèn luyện để trở nên người hữu tâm.

Xin tình yêu Chúa thanh luyện trái tim ta không ngừng, để mỗi trái tim chúng ta trở thành một viên gạch trong suốt như pha lê, góp phần xây dựng thành Giêrusalem mới cho tình yêu Thiên Chúa ngự trị. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.    Chỉ đi lễ, đi đọc kinh thôi, đã đủ làm công dân trong Nước Trời chưa? Bạn có quan tâm giúp đỡ những người kém may mắn chung quanh bạn không?
2.    Bạn có phấn đấu để hãm dẹp tính ích kỷ, chia rẽ và phát triển tình yêu thương tha thứ trong tâm hồn bạn không?
3.    Bạn nghĩ gì về những người ngoại đạo tốt? Họ có phải là con Chúa không?
4.    Trong và ngoài Giáo Hội. Trong và ngoài tinh thần. Bạn quan tâm tới điều nào hơn?



4. Ân huệ Chúa không quan niệm được - Achille Degeest

Đoạn Phúc Âm của thánh Gioan đặt chúng ta vào vị trí vượt khỏi tất cả những quan niệm loài người về Thiên Chúa. Lý trí con người chỉ có thể quan niệm về Thiên Chúa theo hai cách. Hoặc Thiên Chúa là vị thần vô định biểu lộ thần uy trong những sức mạnh vật chất như bão táp, mặt trời, v.v… và con người bày đặt ra nhiều cách thờ phụng. Hoặc quan niệm Thiên Chúa là Thưỡng đế vượt trên mọi hiểu biết mà loài người có được, là Đấng Tối Cao của những nhà hiền triết, quá cao siêu, quá huyền bí, con người vĩnh viễn không thể lý hội được. Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là AI. Chúa nói với chúng ta những điều trí không loài người không bao giờ có thể nghĩ tới. Thiên Chúa là sự Tuyệt đối, nhưng Người là Cha, Người can thiệp nhiều nhất như một sự hiện diện thân thiết và hay thương. Kẻ nào yêu mến Đức Giêsu Kitô, Đấng mạc khải vềtch, nếu kẻ ấy giữ lời, nghĩa là dâng hiến Chúa niềm tin và tuân giữ những điều Chúa dạy, kẻ ấy trở nên ngai toà Chúa ngự. Thiên Chúa đến với kẻ ấy, đối với kẻ ấy Thiên Chúa từ nay không chỉla2 một quyền năng vô biên sáng tạo, Thiên Chúa phát động tình yêu tương giao giữa Người và kẻ ấy. Thiên Chúa đến với con người, nghĩa là Thiên Chúa thức tỉnh lương tri con người về hai điều. Thiên Chúa nói: “Con người kia, ngươi có một bản ngã, Ta là Thiên Chúa, có bản ngã riêng biệt, một Thiên Chúa có Ba Ngôi vị: Cha, Con và Thánh Thần. Giữa ngươi là một con người và Ta là Thiên Chúa, có một sự trao đổi sống động về hiểu biết và ân huệ, tức là có sự trao đổi tình yêu”. Điều ấy phải được Đức Giêsu Kitô mạc khải, chẳng có trí khôn nào của nhân loại ý niệm được.

Để chấp nhận một mạc khải trọng đại như vậy, một điều dạy dỗ từ ngoại giới có đủ không? Chúng ta thấy ngay rằng không đủ. Đức Giêsu nói với các tông đồ: Ta nói với các ngươi lúc còn lưu lại giữa các ngươi, nhưng Thánh Thần sẽ dạy các ngươi mọi sự… Các tông đồ chung sống với Đức Giêsu nhiều năm tháng. Các ông thừa thì giờ để thấm đượm giáo huấn khi nghe Người giảng dạy và quan sát cách cư xử của Người. Các ông có được một sự hiểu biết do tri thức, ở tầm các ông, nhưng sự hiểu biết do hành vi tin thì chưa có. Thật ra, điều sau đây có thể đối với chúng ta là không ngờ được: trong bữa Tiệc Ly các tông đồ chưa có được niềm tin đích thật vào Đức Giêsu. Muốn cho các ông có được hành vi tin ấy, thì phải có biến cố Phục Sinh, phải có Chúa Thánh Thần hiện xuống.

Chúng ta tự chất vấn:
1) Sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa là gì? Nếu ngày nay chúng ta không dễ theo cám dỗ thờ thần tượng, có thể dễ ngà vào một thứ chủ nghĩa tri thức thúc giục chúng ta đại khái xếp Thiên Chúa vào một ý thức hệ thuộc trật tự triết lý, chính trị, xã hội, v.v… hoặc đơn giản thuộc trật tự thực tiễn giữa những tiện nghi phàm tục của chúng ta. Chúng ta có tìm biết Thiên Chúa như Đức Giêsu Kitô mạc khải cho chúng ta, một Thượng đế thân thiết ở giữa cuộc đời chúng ta không?
2) Chúng ta có chú ý đến Chúa Thánh Thần không? Năng đọc năng nghe Phúc Âm không đủ giúp chúng ta biết Đức Giêsu Kitô. Chúng ta phải chú ý trong thâm tâm, một cách ngay thẳng, để nhận lấy giáo huấn của Ngôi Ba Thiên Chúa. Một phương thế tốt để làm công việc đó là khi gặp một đoạn Phúc Âm cho chúng ta thấy một chân lý, chúng ta hãy cố gắng ứng dụng tức khắc. Hành động này cũng phải kể là sự thành thật ngay thẳng trong tình yêu.


5. Hoà bình, hồng ân của Thiên Chúa

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Tháng 2 năm 1991 sau khi quân đội đồng minh đổ bộ lên Kouweit được ba ngày, thế giới đã thở phào một cái nhẹ nhõm vì mối đe dọa của một cuộc chiến tranh nguyên tử đã qua đi và nền hòa bình đã trở lại với thế giới. Hiểu như thế thì hòa bình hay bình an là không có chiến tranh. Nhưng không có chiến tranh chưa chắc là đã có hòa bình.

Sau thế chiến thứ hai, thế giới đã chia làm hai phe: Tư Bản và Cộng Sản. Trong khoảng từ năm 1945 đến năm 1990 không có một cuộc chiến tranh nào với tính cách quy mô giữa hai phe Tư Bản và Cộng Sản. Vậy mà thế giới vẫn nơm nớp lo sợ một cuộc chiến tranh. Lý do là vì cả hai phe đều chạy đua vũ trang. Tình trạng đó được gọi bằng một cái tên là “chiến tranh lạnh”. Năm 1989 sau khi khối Cộng Sản sụp đổ ở Đông Âu, người ta đã họp nhau lại tại Paris để tuyên bố cuộc chiến tranh lạnh đã kết thúc.

Như vậy trong gần một nửa thế kỷ, tuy thế giới không có một cuộc chiến tranh nào trên quy môn lớn, nhưng con người vẫn phải sống trong sự bất an. Mới đây (ngày 8/5/1995) thế giới vừa mừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng phát xít Đức và kết thúc thế chiến thứ hai. Nhưng người ta lại lo sợ trước chủ nghĩa “Phát xít mới”, trước nạn khủng bố lan tràn và các cuộc xung đột chủng tộc… Người ta nói nhân loại đang sống trong một nền “hòa bình nóng”!

Thưa anh chị em, Chúa Giêsu đã để lại cho chúng ta hòa bình của Ngài từ gần hai ngàn năm nay rồi. Vậy mà tại sao loài người lại không được sống trong hòa bình?
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng”.

Chúa Giêsu đã coi sự bình an như một ân huệ Ngài để lại. Ngài ban bình an của Ngài cho các môn đệ. Ngài không cầu chúc, nhưng Ngài để lại, Ngài ban tặng bình an. Ngài không ban như người ta, vì người ta không thể ban cho ai bình an, chỉ có thể cầu chúc, ước muốn được bình an mà thôi.

Vậy thì bình an của Chúa Kitô là gì? Bình an của Chúa Kitô không phải là tình trạng yêu ổn không bị khuấy động vì chống đối, vì chiến tranh. Bình an ở đây là sự sống trọn đầy, là ân huệ gồm tóm mọi ân huệ của thời đại Chúa Cứu Thế. Chính vì vậy, bình an nầy gắn liền vớ Chúa Giêsu và sự hiện diện của Ngài: “Chúa Giêsu là sự bình an của chúng ta” (Ep 2.14). Sự bình an mà Chúa Giêsu trối lại hay là chia sẻ cho chúng ta là sự bình an mà Ngài thực sự có được và nghiệm thấy một cách trọn vẹn, khi Ngài đã chiến thắng được sợ hãi đứng trước tử thần. Đó là sự bình an của Đấng đã yêu thương đến cùng (Ga 13,1), nghĩa là chấp nhận hy sinh mạng sống cho những kẻ mình yêu thương (Ga 15,13). Nói khác đi, đó là bình an mà Chúa Giêsu đã có thể chia sẻ cho chúng ta, sau khi Ngài đã thực sự chia sẻ chính thân mình Ngài cho chúng ta.

Thánh Phaolô gọi sự bình an đó là “bình an của thập giá”: “Nhờ máu Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và muôn vật trên trởi” (Cl 1,24). Bình an của thập giá là bình an mà Chúa Giêsu đã phải trả bằng chính máu của Ngài để giao hòa nhân loại với Ngài và nhân loại với nhau. Nói khác đi, Chúa Giêsu đã lấy cái chết của mình để xóa bỏ tội lỗi nhân loại, đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét, khiến cho nhân loại từ nay được hòa giải với Thiên Chúa và trở nên một thân thể duy nhất. Bởi vậy mà Chúa Giêsu xứng đáng được gọi là “Bình an của chúng ta” (Ep 2,14-18).

Anh chị em thân mến,
Bình an là khát vọng của mọi người, ở mọi nơi và mọi thời. Nhưng thực ra có lẽ chưa bao giờ nhân loại được hường một sự bình an toàn diện và phổ quát. Người ta có thể dập tắt ngọn lửa chiến tranh, có thể áp đặt một nền hòa bình, ký kết những bản hòa ước. Nhưng không ai có thể hiểu thấu lòng người để có thể đem lại được sự bình an vào tận cõi sâu thẳm bên trong; bởi vì ít có ai có được bình an thực sự trong lòng mình để có thể chia sẻ cho người khác. Con người chỉ có thể xây dựng hòa bình bên ngoài, nhưng không có khả năng chế ngự, điều khiển được những đợt sóng ngầm vẫn luôn sôi sục trong đáy lòng của mỗi cá nhân. Bởi vậy, hòa bình trên thế giới từ trước đến nay thường chỉ là những nền hòa bình giả tạo, mong manh, tạm thời. Dĩ nhiên có được hòa bình đó vẫn còn tốt hơn là không.

Người Kitô hữu phải là những người tác tạo và tái tạo hào bình, những người làm chứng cho hoàn bình trong thế giới bằng cuộc sống không bạo lực và bằng cách sống đồng tâm nhất trí với nhau. Điều kiện cần thiết là phải tin vào Chúa Giêsu Kitô là Ngôi Lời được Cha sai đến loan báo Tin Mừng bình an (Cv 10,36), phải tuân giữ Lời Chúa, và như vậy chúng ta sẽ có được sự hiện diện của Chúa trong chúng ta, như Chúa Giêsu đã tỏ cho biết: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ Lời Thầy, Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến ở trong người ấy” (Ga 14,23). Có Chúa hiện diện trong chúng ta, chúng ta sẽ không còn lý do nào để phải lo lắng, sợ hãi. Sợ hãi, lo lắng, chứng tỏ một tâm hồn xao xuyến, chưa được ổn định, chưa được bình an và là một tâm hồn không có Chúa ngự trị.

Muốn xây dựng hòa bình của Chúa, chúng ta phải là những con người hiếu hòa, đã được ổn định và bình an trong tâm hồn. Nếu chúng ta còn để cho dục vọng làm chủ mình; nếu chúng ta còn khư khư bám víu sự sống mình một cách ích kỷ; nếu chúng ta còn có sợ mất mát những của cải, hoặc phải bảo vệ chúng để hưởng thụ; nếu chúng ta còn muốn thống trị kẻ khác, làm sao chúng ta có thể gieo rắc bình an và xây dựng được hòa bình? Muốn xây dựng hòa bình ở bình diện lớn, thiết tưởng phải bắt đầu từ những bình diện nhỏ, vừa tầm tay, từ cá nhân, trong gia đình, đến xã hội, đất nước và lan tỏa đến toàn thế giới.

Cuối cùng, phải chăng Thánh lễ là một lời cổ vũ mạnh mẽ cho hòa bình và là một sự thúc đẩy người Kitô hữu dấn thân xây dựng hòa bình? Khi chúng ta chia sẻ bình an của Chúa cho anh chị em, chúng ta cam kết sống an hòa, yêu thương và dấn thân đem lại hòa bình, an vui, hạnh phúc cho mọi người. Và lời chúc cuối lễ của vị chủ tế là chúc anh chị em ra đi với sự bình an của Chúa Kitô, ra đi mang theo một cái gì đó của Nước Thiên Chúa cho mình và cho kẻ khác.


6. Ơn bình an

Suy Niệm 1. BÌNH AN Ở GIỮA SỰ RỐI LOẠN
Trong cuốn sách Go Down to the Potter’s House của Donagh O’Shea, ông có một câu chuyện về một ông vua có hai hoạ sĩ trong triều là hai đối thủ gay gắt. Một ngày nọ, nhà vua nói: “Trẫm quyết định một lần này cho xong để biết ai trong hai khanh là hoạ sĩ giỏi nhất. Hai khanh phải vẽ cùng một đề tài và như vậy, trẫm sẽ ở giữa để phán xét. Và đề tài là bình an”.

Hai người hoạ sĩ đồng ý, và một tuần sau trở lại với các bức tranh của họ.
Hoạ sĩ thứ nhất giới thiệu bức tranh của mình. Nó cho thấy một phong cảnh thơ mộng với những ngọn đồi đều đặn kề bên nhau và một mặt hồ không gợn sóng. Toàn bộ phong cảnh nói lên sự hài lòng, bình an, tĩnh lặng. Tuy nhiên, khi nhà vua nhìn vào bức tranh, ngài không thể giữ cho mình khỏi ngáp. Rồi quay lại hoạ sĩ, ngài nói; “Bức tranh của khanh đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ”.
Kế đó, hoạ sĩ thứ hai đã trình bày công trình của mình. Nó cho thấy một thác nước chảy ầm ầm. Lối vẽ hiện thực làm cho người ta như nghe thấy tiếng gầm của nước khi va vào các tảng đá ở bên dưới hàng trăm thước.
“Nhưng đây không phải là một cảnh bình an như trẫm đã ra lệnh”, nhà vua tức giận nói. Hoạ sĩ không đáp lại nhưng xin nhà vua tiếp tục xem. Rồi nhà vua nhận ra một chi tiết mà trước đó ngài không để ý: ở giữa các tảng đá bên dưới thác nước, có một bụi cây mọc lên với một tổ chim trên cành. Khi nhìn kỹ, nhà vua thấy có một con chim trong tổ: một con se sẻ đang ấp trứng, đôi mắt lim dim. Nó đang chờ các con nó được sinh ra, một hình ảnh bình an hoàn hảo.
Nhà vua rất thích thú khi nhìn vào điều đó. Quay lại người hoạ sĩ thứ hai, ngài nói: “Trẫm rất thích bức tranh khanh đã chuyển tải một điều rất quan trọng về bình an, đó là có thể sống trong bình an cả khi ở giữa cảnh ồn ào hỗn loạn của đời sống”.

Đức Giêsu đã nói về sự bình an trong suốt bữa Tiệc Ly. Người nói với các tông đồ: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng. Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi”.

Quả là một thời điểm lạ lùng để nói về sự bình an vì mọi sự đang rối loạn ở xung quanh Người. Làm thế nào mà lúc đó Người có thể nói về sự bình an? Bởi lẽ bình an là hiệp thông với Thiên Chúa. Và Đức Giêsu đã ở trong sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa. Vì thế, Người có thể nói về sự bình an cả khi các kẻ thù đang siết chặt vòng vây xung quanh Người và cái chết đang ở một góc tối nào đó.

Bình an không giống như sự yên tĩnh. Yên tĩnh thuộc về ngoại giới. Bình an chủ yếu thuộc về nội giới. Bình an là một tình trạng của sự tĩnh lặng nội tâm và chỉ rõ những mối quan hệ đúng đắn với Thiên Chúa và với những người khác. Một thành phần chủ yếu của bình an là sự chính trực. Vì thế đối với kẻ xấu, không có sự bình an.

Bình an là kết quả của việc người ta tín thác vào Thiên Chúa và khi ước muốn làm vui lòng Người là việc quan trọng nhất trong đời sống của người ấy. Đó là điều mà người ta có thể có cả khi ở giữa sự xáo trộn, xung đột và những vấn đề chưa giải quyết được.
Đức Giêsu ban bình an của Người cho chúng ta: “Thầy để lại bình an cho anh em”. Bình an mà Người ban cho chúng ta không phải là thứ bình an để chúng ta trốn tránh thực tại. Nó là một điều rất thâm sâu và độc lập với những hoàn cảnh bên ngoài. Bình an ấy vượt qua mọi sự hiểu biết, bình an mà thế gian này không thể ban cho và không một ai có thể lấy mất của chúng ta.

Suy Niệm 2. ĐỂ NGƯỜI RA ĐI
Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu nói về sự ra đi của Người. Không bị bất ngờ, các Tông đồ chìm sâu vào sự đau buồn trước viễn cảnh mất Người. Họ không muốn Người đi, họ muốn giữ Người lại. Bạn không dễ dàng chấp nhận Người mà bạn yêu thương ra đi. Ngay cả một đồ vật hoặc một con thú cưng của bạn cũng thế.

Một ngày nọ, một cậu trai trẻ thấy một con chim nhỏ run lẩy bẩy nằm dài trên mặt đất, bên dưới một cái tổ. Cảm thấy xót xa trong lòng vì chim, cậu đem chim và nhà và đặt gần lò sưởi, ở đó chim từ từ hồi sinh. Tuy nhiên, thay vì trả chim về tổ, cậu làm một cái lồng cho chim. Trong lồng, cậu cho chim nhiều thức ăn, nước uống và hơi ấm.

Chim nhỏ mau lớn và bắt đầu bay quanh lồng. Kế đó, nó bắt đầu hót. Cậu trai run lên vì sung sướng. Nhưng một ngày kia nó bắt đầu đập cánh vào cạnh lồng. Cậu liền hỏi ông cậu điều đó có nghĩa gì.
“Nó không hạnh phúc”, ông cậu đáp.
“Cháu không hiểu”, cậu trai hỏi: “Nó không có mọi thứ nó cần trong lồng hay sao?”.
“Mọi thứ ngoại trừ một điều mà chim nào cũng mong ước?”.
“Điều đó là điều gì?”
“Tự do” ông cậu đáp.
“Ông muốn nói là cháu phải cho nó tự do, nó muốn rời bỏ cháu”.
“Nó chỉ muốn được tự do, vì thế nó mới có thể giống như những con chim khác”.
“Nhưng làm sao cháu có thể để nó đi?” Cậu khẩn khoản. “Nó không biết gì về những nguy hiểm đang chờ nó trong thế gian. Nó có thể bị giết chết hoặc chết đói”.
“Đó là một sự liều lĩnh mà cháu phải có”.
“Nhưng cháu yêu nó nhiều đến nỗi cháu không thể để nó đi”.
“Nếu cháu thật sự yêu nó, cháu phải để nó đi”.

Cậu bé trở nên thinh lặng. Nó nhìn con chim và con chim vẫn tiếp tục vỗ cánh vào lồng. Và với mỗi cái đập cánh, nó dường như muốn nói: “Trả tự do cho tôi! Trả tự do cho tôi!”. Không thể chịu nổi nữa, cậu quyết định để chim đi.

Khi nó bay ra ngoài cửa số, nó mang theo nó một mảnh hồn của cậu. Cậu nhìn theo qua cửa sốt mở rộng một lúc lâu. Rồi thình lình, cậu nghe tiếng chim hót ở một cây gần đó. Tiếng hót này dường như vui tươi và ngọt ngào hơn trước đây. Và đây là lần đầu tiên trong nhiều tháng, cậu cảm thấy tự do: hạnh phúc và bình an.

Các tông đồ không muốn để Đức Giêsu ra đi. Nhưng khi làm thế, họ không nghĩ đến Người mà nghĩ đến họ. Người đã nói với họ như thế. Người nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14,28). Đối với Đức Giêsu, trở về với Chúa Cha là mục đích của đời sống Người. Cố giữ Người ở lại là tỏ ra không yêu mến Người.
Tình yêu chiếm hữu rất thường gặp. Một số cha mẹ có tinh thần chiếm hữu rất mạnh trong tình yêu đối với con cái họ. Đã ban cho con cái họ đời sống, họ từ khước để cho chúng sống đời sống ấy theo cách của chúng. Sự việc tương tự cũng xảy ra trong một số cuộc hôn nhân. Người ta không sẵn lòng để cho người phối ngẫu có đời sống riêng của họ.

Tình yêu chiếm hữu gây ra nhiều đau khổ và thiệt hại. Mặt khác tình yêu không chiếm hữu làm nên điều kỳ diệu cho cả đôi bên.

Sự trưởng thành, tiến bộ, thay đổi đòi hỏi một sự để cho đi, một sự buông bỏ điều gì đó mà chúng ta đang có và coi là thân thiết. Nhưng sự buông bỏ ấy là để đạt được một điều mới mẻ và tốt đẹp hơn.

Khi rời xa các Tông đồ, Đức Giêsu xác nhận rằng Người không bỏ rơi họ. Người nói với họ: “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em. Thật vậy, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16,7). Và Người làm đúng như lời Người đã nói. Khi chúng ta sẵn lòng để Người khác ra đi, người ấy có thể rời xa chúng ta mà không làm cho chúng ta cảm thấy bị bỏ rơi. Và chúng ta cởi mở lòng mình để đón nhận một điều mới mẻ mà nếu không ra đi người ấy sẽ không đem lại cho chúng ta.

CÂU CHUYỆN KHÁC
Một số người thường hay tức giận trong lòng và kết quả là họ thiếu sự bình an trong trí óc và sự thanh thản trong linh hồn. Nhưng có những người khác có được sự bình an nội tâm và họ làm cho đời sống của họ khác hẳn.
Hai người láng giềng, James và John cày đất trên hai cánh đồng sát liền nhau. Mặt trời chói chang trên họ và trên mặt đất cứng, nhiều đá sỏi. James có tính khí hắc ám. Ông quất roi da vào lưng con ngựa. Tuy nhiên, sự đánh đập ấy càng làm cho con ngựa thêm ương ngạnh và không chịu hợp tác với chủ của nó. James tin chắc rằng lúa mì của người láng giềng sẽ mọc cao hơn của ông. Và cứ mỗi lần ông nhìn qua người láng giềng, ông có cảm tưởng rằng ông này đang cười nhạo ông.

Trái lại, John có tính khí trầm tĩnh. Ông im lặng làm việc và làm tốt, mặc dù cực nhọc và đau đớn. Thỉnh thoảng, ông dừng lại cho ngựa được nghỉ ngơi. Ông nhìn qua người láng giềng và thầy rằng ông này ở tình trạng rất dao động, ông muốn giúp đỡ người láng giềng, nhưng ông biết rằng khi ông tất bật như thế thì tốt hơn nên để ông ta làm một mình.

Sự khác nhau giữa hai người láng giềng không do những điều kiện bên ngoài của đời sống họ mà do tình trạng bên trong của tâm trí họ. Chúng ta nhìn thế giới và người khác, không được như bản chất của họ nhưng theo bản chất của chúng ta: suy bụng ta ra bụng người. John vui sống với sự bình an và thanh thản nội tâm. Còn James sống trong tình trạng rối loạn nội tâm. Không có trở ngại nào lớn hơn trong mối quan hệ tốt đẹp với người khác bằng việc mình khó chịu với chính mình.

Đức Giêsu đến để mang lại cho chúng ta sự sống và giải phóng chúng ta khỏi chính mình. Người trấn an những nỗi sợ hãi của chúng ta, và chữa lành những lo âu cùng thù hận của chúng ta, nhờ thế Người làm chúng ta có thể nhìn thế giới với một tấm lòng bình thản và một tâm hồn rộng mở.


7. Chú giải của Noel Quesson

Chúng ta tiếp tục suy niệm “diễn từ giã biệt” của Đức Giêsu vào chiều Thứ Năm Thánh. Đoạn văn mà chúng ta sắp đọc được Gioan giới thiệu như câu trả lời của Đức Giêsu trước câu hỏi của Giuđa: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Toàn thể văn chương Do Thái thời Đức Kitô đều minh chứng cho ta thấy, những người động thời với Người luôn ngóng đợi một Đấng Mêsia mạnh về chính trị, có thể chiến thắng cách hiển nhiên mọi quân thù và cưỡng bức các đối thủ phải phục lụy. Đó cũng là nỗi mong chờ của các tông đồ. Và chúng ta cũng không lường ước mong như thế nào?

Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy.
Đó là cách biểu lộ duy nhất mà Thiên Chúa đã quyết định thể hiện: người đến cư ngụ giữa những kẻ tiếp đón Người và tin tưởng nơi Người. Nói cách khác, Người chỉ được người ta nhận ra Người “hiện diện”, nhờ những kẻ yêu mến Người. Tình yêu không cưỡng chế ai, không thúc ép ai.

Cảm nghiệm về một sự hiện diện thân mật nào đó của một người, tuy “vắng mặt” về thể lý, chúng ta cũng có thể nhận ra trong khung tình yêu nhân loại, nếu chúng là chân thực: bất giác chúng ta sẽ nhận thấy đang khi nói, trong một cuộc đối thoại nội tâm, với người yêu, với bạn hữu, con cái, hôn phu, người chồng.

Đó là sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có kẻ yêu thương mới nhận ra.
Chúng ta vẫn thường phàn nàn về sự vắng mặt của Thiên Chúa, về thái độ im lặng của Người. Người tín hữu luôn đụng chạm với lời thách đố của kẻ vô thần: “Thiên Chúa của bạn ở đâu?” (Tv 42,4). Nhưng ngày nay, câu chất vấn đó có chiều hướng đi tới một chối từ Giáo hội, phủ nhận nếp sống cộng đoàn của Giáo hội: người ta cảm phục Đức Giêsu như một mô hình của nhân loại; người ta không chống đối Người điều gì; nhưng người ta gạt Người sang một bên, như thể không có Người, bằng cách khỏa lấp qua một lời tuyên bố quá dễ dãi: “Tôi tin nhưng không hành đạo”. Do đó, rõ ràng là có một ranh giới thực sự giữa “người môn đệ đích thực của Đức Giêsu với mọi người khác, dù họ rất có cảm tình với nhân vật Giêsu Nadarét. Đức Giêsu mạnh dạn quả quyết rằng, Người không chỉ là một kẻ chết, dù là tuyệt vời, của lịch sử xa xưa, cũng không chỉ là mẫu người đẹp mà sứ điệp có thể làm người ta phải suy nghĩ. Nhưng Người là một con người đang sống đang hoạt động, hôm nay vẫn còn hiển nhiên. Nhờ sự Phục sinh, Đức Giêsu Nadarét, con người lịch sử, đã bước vào thế giới xác định của Thiên Chúa: điều đó minh chúng. Người cũng trở nên kẻ đồng thời với mọi người.
“Đức Kitô của bạn ở đâu?”.
Chính Đức Giêsu trả lời: Đức Giêsu của bạn, chưa khi nào chúng tôi đã gặp thấy.

Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.
Đức Giêsu quả quyết, từ giờ trở đi Người đang hiện diện nhờ những kẻ yêu mến Người, nhờ các tín hữu đích thực mà Người đang cư ngụ trong họ.

Khi Đức Giêsu tuyên bố những lời đó, quả thực chỉ còn ít giờ nữa là Người sẽ phải chết. Người là Đền thờ mới, được dựng lại nội trong ba ngày (Ga 2,19-22), Đền thờ mà ở đó người Do Thái thường cảm thấy một sự hiện diện thực sự của Thiên Chúa. Nhưng ở đây, Đức Giêsu còn đi xa hơn. Người dám quả quyết rằng, kể từ lúc Người ra đi, thì sự hiện diện không diễn tả thành lời này, chắc chắn bị che giấu, nhưng sẽ được bảo chứng nhờ các Kitô hữu.

Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy.
Giữa những người yêu thương nhau, cần có sự lắng nghe, đối thoại, nói năng, trao đổi. Trong tình yêu của chúng ta, không cố gì tệ hại hơn là “không biết lắng nghe”, không chịu nói năng.

Ở đây Đức Giêsu mạc khải cho ta một trong những chìa khóa mở tới đời sống Kitô hữu đích thực: Suy niệm Lời Chúa, như một dấu chỉ của sự Hiện Diện. Đó là một sự kiện. Chúng ta không có sự hiện diện thể lý hữu hình của Đức Giêsu, nhưng đối với kẻ yêu mến Người, thì thật là kỳ diệu, họ đã nhận được tư tưởng, lời nói của Người. Chúng ta cần ghi nhận, Đức Giêsu không chỉ nói đến một lời được đón nhận trong tâm trí, mà là một lời ta phải tuân giữ một lời phải đưa ra thực hành, một lời nhờ luôn “sống động” sẽ giúp kẻ ban lời cũng thực sự hiện diện. Sự hiện diện của Đức Kitô Phục sinh, sống động... có thể được “nhận biết” cách cụ thể (điều đó hẳn là thế được!) trong đời sống của các môn đệ đích thực.

Cũng như Đức Giêsu Nadarét là nơi thể hiện sự hiện diện và lời của Chúa Cha (“Lời anh em nghe thấy không phải là của Thầy”), cũng vậy từ giờ trở đi, các Kitô hữu, Giáo hội chính là nơi đó. Thật là trách nhiệm lớn lao.
Các điều đó Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy. Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
Đúng vậy, Lời của Đức Giêsu không phải là một “sự vật” nhưng là một “con người nào đó”. Dù Đức Giêsu đã ra đi, nhưng vẫn có một “Đấng khác” đến để tiếp tục Lời của Chúa Cha, một thầy phụ đạo thần linh, một thầy nội tâm, được Chúa Cha sai đến nhân danh Đức Giêsu.

Thánh Thần không thêm gì cho Đức Giêsu, cũng như Đức Giêsu không thêm gì cho Chúa Cha. Đó là ba, nhưng chỉ một! Không có “ba Thiên Chúa”. Thiên Chúa là một. Người Israel vẫn nói như thế. Và Hồi giáo sẽ lặp lại như vậy. Dù có những khác biệt không tránh khỏi trong ngôn ngữ diễn tả, nhưng Kitô hữu không thể nói ngược lại đức tin cốt yếu trên đây. Chúa Cha, chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình của Người. Đức Giêsu, cũng chính là Thiên Chúa, đã hiện diện, nói năng và hành động để cứu chuộc con người. Thánh Thần, cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Đức Giêsu và Chúa Cha.

Thánh Thần... Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy.
Chúng ta chiêm ngắm trong tâm hồn họa phẩm Chúa Ba Ngôi do Rublev vẽ một cách tuyệt đẹp, hiện được lưu giữ trong bảo tàng viện Trétiakov tại Mát-cơ-va và người ta từ thắp nới trên thế giới thường đến tham quan. Ba Ngôi vị đều có cánh, thông hiệp với nhau rất mật thiết, chung quanh một cái bàn kỳ diệu, làm nên một trong vòng tròn duy nhất và hoàn hảo, do ba đường chu vi của chúng tạo nên Chúa Cha, “vượt trên tất cả”, hiện diện sau chiếc bàn, đang ngắm nhìn đắm đuối Người Con dấu của mình, ngồi ở bên hữu và thông ban tất cả. Chúa Con, mặc áo màu da người hồng đỏ, đang để cho màu xanh của thiên tính Chúa Cha xuyên qua lấp lánh cũng nhìn đắm đuối Thánh Thần và thông ban tất cả. Nhưng mầu nhiệm của mối hiệp thông yêu thương giữa Ba Ngôi không dừng lại ở đó. Ôi, kỳ diệu thay! Trong Thánh Thần, vòng tròn tự mở ra, vì chính Thánh Thần đang ngắm nhìn và chỉ ngón tay về phía trái đất để thông ban cho trái đất tất cả. Chúa Ba Ngôi, đó là mỗi tình yêu thương mật thiết vĩnh cửu giữa ba mà chỉ là một: Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ở trong Chúa Cha, trong cùng một Thánh Thần. Do đó, Đức Giêsu đã đến dẫn đưa các môn đệ của Người vào trong “gia đình” đó nhờ Thánh Thần.

Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều. Và làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
Theo Đức Giêsu, Thánh Thần là Đấng sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của 'Thiên Chúa cho nhân loại, khi giúp cho con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó là chính Đức Giêsu, Ngôi lời của Chúa Cha. Thánh Thần sẽ dạy dỗ và làm cho nhớ lại... Chính các Tông đồ tuy đã sống nhiều tháng năm với Đức Giêsu, cũng chưa có một đức tin đích thực nơi Người, vào lúc Người ra đi. Gioan thú nhận rằng, sau này ông mới nắm bắt được những gì Đức Giêsu đã nói (Ga 2, 17-22; 13, 6-19). Khi Đức Giêsu ra đi, trong một ý nghĩa nào đó, thì chưa có gì là hoàn tất, là cố định. Chính Thánh Thần sẽ giúp Giáo hội dần dần hiểu biết “điều đã được mạc khải”. Một số người nghiêm khắc đã vội ngạc nhiên vì Giáo hội “thay đổi”. như họ phản đối. Nhưng rõ ràng đối với Đức Giêsu,. Giáo hội còn phải thay đổi nhiều hơn do ảnh hưởng của Thánh Thấn. “Thánh Thần sẽ dạy anh em và sẽ làm cho anh em nhớ lại..”. Phần lớn những Lời của Đức Giêsu chỉ được bày tỏ khi được suy gẫm và cầu nguyện trong ký ức của Giáo Hội trong nhiều thế kỷ. Mọi tín điều kinh Tin kính đã có một quá trình lịch sử và chỉ được định tín sau một thời gian dài để cho chín muồi. Và tình trạng đó vẫn còn tiếp tục. Chúng ta có thực sự tin Thánh Thần hiện diện trong Giáo hội không? Tại sao Thánh Thần lời có thể ngừng hoạt động ở thế kỷ thứ III hay thế kỷ XV? tại Công đồng Ni-xê hay tại Công đồng Trentô? Ngày nay, hiển nhiên Thánh Thần vẫn đang làm việc. Đức Giêsu đã nói: “Thầy ở với anh em cho đến tận thế”. Giáo hội vẫn còn nhiều điều phải hiểu biết, phải khám phá, phải sống động. Và điều, đúng thực sự với Giáo hội, cách tổng quát, với lịch sử của mình trong thời gian vẫn còn đúng thực, cách riêng biệt, với mỗi người chúng ta: Thánh Thần còn phải giúp tôi khám phá ra nhiều điều! Trong tôi vẫn có một khả năng lãng quên không thể tưởng. Như thế, khi lời Tin Mừng được chiếu sáng cho tôi, được Thánh Thần tác động vật soi sáng, tôi đừng chần chờ thực hành và tuân giữ lời đó để sớm hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa và con người.

Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng, Lòng anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. Anh em đã nghe Thầy bảo: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”.
Bình an! Shalom! Đó là lời chào chúc quen dùng tại Israel. Nhưng ở đây, đó là lời chào chúc Phục sinh của Đức Giêsu sống lại: bình an phát xuất từ sự hiện diện của Đấng được coi là Vắng Mặt, nhưng Đấng đó không ngừng trở lại đối với những kẻ yêu mến Người... Một thứ bình an mà thế gian không thể nào nhận ra được, vì thế gian không nhận ra sự hiện diện đầy an ủi đó.

Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đến cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Bây giờ Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để anh em tin khi sự việc ấy xảy ra.
Trong khi thi hành sứ vụ tại trần gian, Đức Giêsu chỉ có thể hiện diện với tất cả những giới hạn của không gian và thời gian: đó là những giới hạn của “thân phận con người”. Đức Giêsu nhận biết điều đó: “Vì là con người, nên Thầy thấp kém hơn Chúa Cha!”. Một kiểu nói cần phải hiểu cho đúng, vì nó không phủ nhận những kiểu nói khác nhằm quả quyết Đức Giêsu ngang hàng với Chúa Cha. Chính các tông đồ cũng không hiểu biết gì vào chiều hôm đó.

Lạy Thánh Thần, xin hãy đến!

 

8. Suy niệm của nhóm Nha Trang

“Thánh Thần sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.

I. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay được trích trong bài Chúa Giêsu từ biệt các Tông Đồ. vì lúc sắp ra đi, để trấn an các Tông Đồ, Chúa Giêsu đã hứa, dầu ra đi, người cũng vẫn hiện diện và hứa ban bình an cho các ông.

II. SUY NIỆM:
1. “Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy”
“Chúa Giêsu không muốn thứ tình yêu trừu tượng hoặc thuần tình cảm, Người chủ trương một tình yêu bằng việc làm là tuângiữ các giới răn Người đã truyền.
“Cha Người sẽ yêu mến người ấy”: tình yêu ở đây là một tương quan có tính cách hỗ tương: Yêu mến Thiên Chúa thì có tương quan cá nhân với Người.
“Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”: kiểu nói “đến”và “ở” không có ý diễn tả một nơi chốn cho bằng có ý nhấn mạnh đến một thực tại có thật và chắc chắn của tình yêuBa Ngôi Thiên Chúa đối với những ai yêu mến Người bằng cách thực hành các giới răn của Người.

2. “Kẻ không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy”
Ở đây có ý nhắc lại dưới hình thức tương phản để nhấn mạnh tính cách thực hành tình yêu đối với Thiên Chúa.

3. “Lời các con nghe không phải là của Thầy”
Ở đây Chúa Giêsu có ý chứng minh việc giữ lời Chúa là yêu mến Chúa vì lời đó không phải là lời bình thường của người phàm nhưng là lời của chính Thiên Chúa, Đấng đã sai Chúa Giêsu, ngôi lời nhập thể (Ga 1,1) xuống thế gian để cứu chuộc loài người.

4. Ở đây Chúa Giêsu có ý chứng minh việc giữ lời Chúa
Khi còn ở thế gian Chúa Giêsu đã ban bố những lời của Thiên Chúa cho loài người.

5. “Nhưng đấng phù trợ là Thánh Thần”
Nay Chúa Giêsu ra đi, sự lưu truyền của Thiên Chúa trong Giáo Hội không phải là một sự tồn kho bất động, bởi vì chính Chúa Thánh Thần, đấng mà Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Chúa Giêsu, làm nên sự lưu truyền này bằng cách dạy dỗ và nhắc nhở cho Giáo Hội tất cả những gì Chúa Giêsu đã ban bố khi còn ở thế gian.
Chúa Giêsu đã loan báo (Ga 14,16) là sẽ xin Cha sai Thánh Thần, đấng bào chữa đến với các Tông Đồ. người cũng thêm là cha sẽ sai đến nhân danh Người. cả hai cách nói có tính cách tương đương và tạo nên một trong những công thức chính xác Chúa ba ngôi hiện diện trong người tínm hữu, có cùng một mục đích là làm cho họ nhận biết lời của Thiên Chúa và cho họ tham dự vào mầu nhiệm sự sống Thiên Chúa.

6. “Thầy để lại bình an cho các con”:
Theo phong tục Do Thái, khi từ giã nhau, người ta thường chào nhau bằng lời “bình an”, nhưng ở đây sự bình an của Chúa Giêsu để lại, không có ý nghĩa như lời chào từ biệt thông thường vì thế gian chỉ có thể chúc bình an chứ không tự mình ban bình an được, còn Chúa Giêsu chính Người ban bình an riêng của Người.
Sự bình an này, bình an của Chúa Phục Sinh (Ga 20,29;21,26) hệ tại chiếm hữu sự hiện diện đích thực của Thiên Chúa, một sự hiện diện dưới hình thức mà thế gian không trông thấy, nhưng những ai tin vào Người mới thấy được (Ga 14,18-21). Ơû đây cho thấy sự hiện diện đích thực nhưng vô hình của Chúa Giêsu Phục Sinh trong Giáo Hội.

7. “Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi”:
chính việc tin nhận sự hiện diện đích thực nhưng vô hình của Chúa Giêsu Phục Sinh trong Giáo Hội sẽ bảo đảm sự bình an cho các Tông Đồ và đồng thời giúp các ông thoát khỏi mọi chướng ngại trong đời sống Tông Đồ tại trần thế này.

8. “Thầy đi rồi sẽ trở lại với các con”:
“Thầy đi: Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết.
Thầy trở lại: Chúa Giêsu trở lại bằng nhiều trạng thái khác nhau:
+ Bằng sự sống lại là việc xảy ra rất gần.
+ Đến trong ngày tận thế còn xa vời.
+ Đến trong thời gian bằng cách mầu nhiệm trong các tâm hồn.
+ Đến trong Thánh Thể.
+ Đến bằng sự can thiệp vào dòng lịch sử.

9. “Nếu các con yêu mến Thầy thì các con sẽ vui sướng”:
Chúa Giêsu trở về với Chúa Cha, là Đấng đã sai Người là Đấng cao trọng hơn Người.
Kiểu nói “Cao trọng hơn” có ý nhắm đến ngôi lời nhập thể, xét theo phương diện bản tính loài người nơi Chúa Giêsu, thì Chúa Cha trọng hơn Chúa Giêsu. vì thế nói trở về với Chúa Cha là nói bản tính loài người của Chúa Giêsu được cất nhắc lên và được tôn vinh. Nếu các môn đệ hiểu được như vậy thì sự ra đi của Chúa Giêsu là niềm vui cho các ông.

10. “Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra”:
Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ về việc người ra đi chịu chết để khi việc xảy ra thì các ông không nản lòng. Hơn nữa, được vững dạ, vì biết rằng tất cả mọi sự đó đã được trù liệu trong chương trình của Thiên Chúa, và như thế người sẽ được vinh hiển hơn và chính các môn đệ nhờ đó sẽ được ích lợi hơn.

III. ÁP DỤNG:
A/ Áp dụng theo Tin Mừng:
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Giáo Hội muốn chúng ta nhận ra rằng Chúa Giêsu Phục Sinh đã từ bỏ đời sống trần thế là đời sống đã làm cho người có thể được nhận biết một cách khả giác, nhưng khi người được nâng lên trong vinh quang Thiên Chúa hiệp nhất các mầu nhiệm với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần thì người đã vượt qua mọi giới hạn hẹp hòi của không gian và thời gian để nhờ đó người luôn luôn hiện diện cách vô hình đối với những ai tìm kiếm người với niềm tin.

B/ Áp dụng thực hành:
Nghe lời Chúa nói:
1/ Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy: Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu mến Chúa không bằng tâm tình trừu tượng nhưng bằng việc làm cụ thể là tuân giữ những lời Chúa truyền dạy. Thực hành lời Chúa trong đời sống hằng ngày là cách tỏ lòng yêu mến Chúa thật tình.
2/ “Chúng Ta sẽ đến và ở trong người ấy” càng yêu mến Chúa bằng cách thực hành lời Chúa thì càng được Chúa ban nhiều ơn vì có Chúa ở cùng Cha chúng ta. Kinh nghiệm cho thấy càng kiên trì trong việc thực hành lời Chúa thì càng dễ nhận ra ý Chúa và hoạt động của Chúa trong mỗi sự việc và trong mỗi biến cố trong đời sống
3/ Thầy đã nói với các con những điều này khi còn ở với các con: lời Chúa được lưu tồn trong thánh kinh. Chính Chúa Thánh Thần sẽ dạy dỗ và nhắc nhở cho chúng ta về lời của Chúa mỗi khi chúng ta tiếp xúc với lời Chúa trong thánh kinh. Vậy muốn hiểu lời Chúa để thực thi chúng ta phải được Giáo Hội, dụng cụ hoạt động của Chúa Thánh Thần hướng dẫn, và phải cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng bằng lời cầu nguyện trước khi đọc, học và suy niệm lời Chúa.
4/ Thầy để lại bình an cho các con: chính Chúa Giêsu là sự bình an cho chúng ta. Vì vậy chúng ta sẽ được bình an thật, khi chúng ta biết tin nhận sự hiện diện của Chúa trong quyền năng, sự quan phòng và tình thương của Người.
5/ Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi: niềm tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ giúp chúng ta tìm lại được an bình trong xáo trộn của cuộc ồng và tăng thêm can đảm để vượt qua những gian lao thử thách trên đường đời.
6/ Thầy đi rồi Thầy trở lại với các con: Chúa trở lại với chúng ta bằng nhiều hình thức:
Bằng sự sống lại để chuẩn bị sự sống đời đời cho chúng ta.
Bằng cách đến trong ngày phán xét để đem chúng ta vào vào trong sự sống đời đời.
Bằng phép Thánh Thể để nuôi dưỡng sự sống đời đời cho chúng ta (Sự sống thiêng liêng phần hồn).
Bằng ơn thánh để tăng trưởng sức sống thiêng liêng cho tâmhồn chúng ta.
Bằng cách can thiệp vào dòng lịch sử để tỏ bày quyền năng và sự quan phòng của Chúa hầu gây nền niềm tin cho ta.
7/ “Giờ đây Thầy nói với các con trước”:
Lời Chúa sẽ giúp chúng ta giải thoát mọi vấn đề xảy ra nơi bản thân, ngoài xã hội và trong thiên nhiên.

 

9. Chú giải của Fiches Dominicales

“THẦY BAN CHO ANH EM SỰ BÌNH AN CỦA THẦY. THẦY RA ĐI VÀ TRỞ LẠI VỚI ANH EM”.

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Loan báo một sự hiện diện khác.
Sách Bài đọc Chúa nhật này trích trong chương 14 của Tin Mừng Thánh Gioan, một đoạn xoay quanh chủ đề “ra đi”, chủ đề được diễn tả bởi những từ được lặp đi lặp lại.: “ ra di”, “đi “, “trở về”, “con đường”... Tin Mừng ám chỉ hành trình nào? Đức Giêsu trở về với Chúa Cha. Rõ rồi. Nhưng, đây cũng còn là hành trình của các môn đệ được người hướng dẫn về với Cha.
Với Đức Giêsu, sự ra đi của Người đã đến gần. Các môn đệ ưu phiền vì viễn tượng này người nói với họ rằng Người đi, rồi trở lại với họ, để bắt đầu giữa họ và trong họ một cách hiện diện khác, nhiệm mầu, chỉ dành cho những ai trung tín với lời người. Người không có ý đề cập đến sự trở lại với hình dạng thể lý, cũng không phải sự trở lại huy hoàng ngày thế mạt; nhưng, ngay từ bây giờ. là sự hiệp thông nghĩa thục với Thiên Chúa trong mầu nhiệm Ba Ngôi “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy chúng ta sẽ đến và ở lại với người ấy”.

Một thời kỳ đã kết thúc, thời kỳ người ta thấy được bằng mắt, nghe được bằng tai. Với biến cố phục sinh, một thời kỳ mới bắt đầu, một cách thế khác cho liên hệ giữa Người với các môn đệ. Thời kỳ của Chúa Thánh Linh mà “Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy”. Người sẽ dẫn các ông tới chỗ hiểu thấu đáo lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu.

X. Léon-Dufour giải thích rằng: “ Tiếp theo thời kỳ mạc khải của Đức Giêsu Nadarét, là thời kỳ của Đấng Bầu Chữa. Người tỏ lộ cùng một mạc khải, nhưng đầy đủ, trọn vẹn. Sứ vụ trần gian của Đức Giêsu kết thúc, nhưng đối với các môn đệ, Chúa Thánh Linh còn rọi sáng những lời Đức Gìêsu dạy rõ hơn “ khi các ông nghe lúc trước” (“Lecture de l'Evangile selon Jean”, Seuil, trg 129).

Hai từ ngữ chỉ chức vụ: đã được uỷ thác cho Chúa Thánh Linh, Đấng Bầu Chữa: “dạy dỗ “, “nhắc lại “.
- Người sẽ dạy dỗ họ tất cả những gì Đức Giêsu thừa lệnh Chúa Cha thông truyền cho nhân loại. Như vậy, những gì mà các ngôn sứ loan báo sẽ thực hiện ngoài sự trông đợi: “mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo” (Is 54,13; xem thêm Giêrêmia 31,33ss).
- Người sẽ nhắc họ nhớ lại tất cả những gì Đức Giêsu đã nói với họ. Không phải chỉ là ôn lại, nhưng theo cách nói của Kinh Thánh, là chấm phá ra ý nghĩa những lời nói và cử chỉ của Đức Giêsu dưới ánh sáng của biến cố Phục sinh.

X Léon-Dufour chú giải: “Khi nhắc các môn đệ nhớ lời của Đức Giêsu, Chúa Thánh Linh không chỉ lặp lại giọng điệu của Thầy cho những trí nhớ quá tệ, nhưng Ngài còn giải nghĩa dưới ánh sáng Phục sinh cho các ông nắm bắt được ý nghĩa mà, cho tới lúc này còn rất tối tăm đối với các ông. Nhiệm vụ giải thích của Chúa Thánh Linh liên quan tới sứ điệp của Ngôi Con, nhằm làm cho cộng đoàn thành nơi mạc khải luôn được tiếp tục và hiện thực một cách sáng tạo trong đời sống các tín hữu. Như thế lời Đức Giêsu luôn sống động qua thời gian” (Sđd, trg l32).

2. Ơn bình an
Rồi để từ biệt những người thân của mình, và vào lúc sắp sửa vượt qua thung lũng Cédron để tới Giếtsêmani, như báo trước lời đầu tiên của Đấng phục sinh, Đức Giêsu ban bình an cho các các môn đệ.

Bình an, đối với người quen thuộc Thánh Kinh, không phải chỉ là sự vắng bóng bạo hành, tĩnh lặng trong tâm hồn, mà chính là sức khỏe, sự thịnh vượng, hạnh phúc sung mãn, ơn cứu độ. Và chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này. Vì đó là phúc lộc cứu độ tuyệt vời nhất: “Lúc đó, sự công chính nở rộ và bình an lớn lao tới khi mặt trăng khuất bóng “ (Tv 72, 7).

Đức Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến, là Đấng trung gian của sự bình an này, nên Người có thể gọi đó là sự bình an của mình: “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”.
Không phải là thứ bình an giả tạo mà nhiều lần các ngôn sứ đã cảnh báo và Đức Giêsu đã từ chối đem xuống trên mặt đất nhưng là bình an đích thực của Thiên Chúa, mà để ban cho thế gian, Đức Giêsu đã hy sinh mạng sống.

Hiệu quả của ơn bình an này là: các môn đệ không còn xao xuyến nữa, dù trước viễn tượng Đức Giêsu sẽ khuất dạng, hay trước nhiệm vụ đang chờ họ, chính họ sẽ là những người đem Tin Mừng cứu độ vào giữa lòng thế giới.

BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một tạm biệt cho hôm nay
Lời tạm biệt của Đức Giêsu không để đành tới ngày mai, nhưng là ngày hôm nay người ta suy diễn từ sự hỗn độn trong cách dùng thì của động từ (ngôn ngữ Tây phương rõ rệt hơn).

Có lúc Đức Giêsu nói trong thì hiện tại: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh em” (14,28), nhưng chỉ một lúc sau đó, Người lại nói ở thì tương lai: “Chúng Ta sẽ đến ở lại với người ấy” (14,23); và rồi, Người lại dùng thì hiện tại: “Thầy ra đi và trở lại cùng anh em” (l4,28). Đức Giêsu đến làm đảo lộn thời gian chúng ta vẫn quen: Điều này có nghĩa là Đức Giêsu đến từ một thế giới khác, nhưng cũng có nghĩa là Người làm chủ tiến trình lịch sử: với kẻ tin, Đức Giêsu còn thực hiện những công trình lớn lao hơn những điều người đã thực hiện khi còn sống đời dương thế, và qua hành động này của Đức Kitô, các môn đệ cảm nghiệm được sự hiện diện của Đức Giêsu. Đấng luôn ở với họ. Có thể suy diễn như thế về những người đã ra đi trước chúng ta không? Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã can đảm nêu lên: “Tôi muốn rời trời cao để đi gieo hạnh phúc cho trái đất”. Đối với chị, những bậc “chân phước” không thể làm ngơ trước thân phận con người còn tại thế. Người chết hiện diện trước mắt ta, một sự hiện diện như chính sự có mặt của Đức Kitô. Dĩ nhiên, chúng ta không có ý đề cập đến lời nói và chữ viết cầu cơ. Sự hiện diện này tương tự với sự hiện diện của Thánh Linh do Chúa Con sai đến. Mầu nhiệm của sự hiệp thông sâu xa này chắc chắn không được tỏ lộ rõ ràng; đó là mầu nhiệm mà thần học gọi là “các thánh cùng thông công”.

2. Chìm ngập trong Thánh Linh Đấng Bầu chữa
(Henri Denis, trong “100 từ ngữ diễn tả đức tin”, DDB, trg 161-162).
Đấng Bầu chữa, đó là từ dịch từ tiếng Hy Lạp, lúc đầu có nghĩa tố tụng là trạng sư, người bênh vực, trợ giúp. Rồi nghĩa rộng là Đấng an ủi, chuyển cầu. Điều hơi lạ là lúc đầu, chữ này dùng chỉ Đức Kitô (Trong thư thứ nhất của thánh Gioan 2,1) “nếu có ai phạm tội, chúng ta có Đấng Bầu Chữa trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng công chính”. Nhưng phần nhiều dùng chỉ Chúa Thánh Linh. Và nếu hiểu về Chúa Thánh Linh với tất cả những đức tính nêu trên, chúng ta sẽ nhận ra rằng: ở trần gian này, không thể một mình mà trung tín với Đức Kitô được. Tuy nhiên, Đức Giêsu đã tiên liệu một phương thế: các con sẽ không cô độc đâu. Đức Kitô khuất dạng đã nhường chỗ cho Đấng biện hộ. Ngài đem đến cho các Kitô hữu một liều thuốc kháng độc cần thiết để họ sống đúng đời Tin Mừng giữa trần gian nhiều thử thách.

Thật là đúng khi tin tưởng rằng - từ khi Đức Giêsu ra đi, tức lúc Người lên trời - Tất cả những gì Đức Kitô thực hiện cách tỏ tường trong thế giới này đều được thực hiện bởi những người dám liều mình vì đức tin, nhiều khi hy sinh cả mạng sống nữa.
Họ không cô độc là thế? Đấng thi công vĩ đại, khi hợp nhất mọi người, hợp nhất chính Giáo Hội, chính là Đấng Bầu chữa vô hình. Người đem sức mạnh đổ xuống tràn đầy trên người yếu đuối, đem dũng cảm đổ xuống tràn đầy trên người sợ sệt. Đó là ơn an ủi của Chúa Thánh Linh, như một ngọn lửa cháy lan từ Kitô hữu này sang Kitô hữu nọ, từ thế hệ này sang thế hệ kia.

Để kết thúc, đề nghị bạn cùng tôi đọc những câu đầu trong thư thứ hai của thánh Phaolô gởi tín hữu Côrintô (1,3-7) và thay những từ trạng sư, bênh vực, an ủi, bằng chính từ Hy L.ạp paraclitos. Bạn sẽ cảm thấy một ấn tượng kỳ lạ. Như lặp lần nữa đi (chín lần), Bạn sẽ hiểu chúng ta thực sự chìm ngập trong Paraclitos, Thánh Linh-bầu Chữa.

“Chúc tụng Thiên Chúa là thân phụ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Người là Thiên Chúa mọi niềm an ủi; Người đã ban Đấng Bầu chữa cho chúng ta trong mọi nỗi gian truân, để chúng ta có thể trở thành kẻ bầu chữa cho tất cả những ai trong cơn hoạn nạn nhờ Đấng Bầu Chữa mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn nỗi khổ ải của Đức Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi. Chúng tôi phải chịt gian nan ư? Chính là dể anh em được ủi an và cứu độ. Chúng tôi nhận lãnh Đấng Bầu chữa ư? Cũng là để anh em được nhận lãnh Đấng Bầu chữa. Chúng tôi lấy làm an tâm về anh em, vì biết rằng anh em thông phần thống khổ với chúng tôi thế nào, thì cũng được thông phần an ủi như vậy”.


10. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

SỰ HIỆN DIỆN LIÊN TỤC CỦA CHÚA GIÊSU
1. Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ đừng bối rối trước viễn ảnh ra đi của Ngài (c.1): Chúa Cha sắp gởi đến cho họ một đấng phù trợ khác trong ngôi vị Thánh Thần (c.16-17); còn Ngài, Ngài sắp trở lại với họ dưới một hình thức mà thế gian không thấy, nhưng những ai tin vào Ngài mới thấy (c.18-21).

Việc Thiên Chúa đến ở đây khác xa với ý nghĩ của những người Do thái cũng như của các môn đệ. Được nuôi dưỡng bằng những câu chuyện Cựu Ước, các thị kiến tiên tri, các quang cảnh có tính cách Khải huyền, họ mơ đến một cuộc thần hiện dị thường, chói lòa vinh quang Thiên Chúa (Is 60), một cuộc phán xét toàn diện chấm dứt dòng lịch sử để thiết lập vương quyền Thiên Chúa và các thánh (Đn 7). Giuda bày tỏ sự ngạc nhiên của tất cả các môn đệ: “Thưa Ngài tại sao có thế này: là Ngài chỉ tỏ mình ra cho chúng tôi, chứ không cho thế gian?” (c.22). Ông ta mơ đến một cuộc hiển hiện khả giác. Ông không hiểu rằng việc Chúa Giêsu và thánh linh chỉ được nhận biết trong đức tin.

Thoạt nhìn, câu trả lời của Chúa Giêsu (c.23) như bất biết câu hỏi và sự ngạc nhiên của Giuda. Thực ra Ngài trực tiếp trả lời câu hỏi đó, khi loan báo sự mạc khải mầu nhiệm của Ngài và nói lên nguyên nhân khiến thế gian không hiểu được mạc khải ấy. Ngài bỏ qua mọi viễn tượng cánh chung, để chỉ nói việc Thiên Chúa đến trong Giáo hội và trong thời gian. Đó là một quan điểm hoàn toàn mới mẻ được đưa vào nhân câu hỏi của Giuda.

Để tiếp đón Thiên Chúa, phải tin nhận lời Ngài và đáp trả bằng tình yêu. Tất cả truyền thống Thánh kinh đã tuyên bố như vậy. Biết Thiên Chúa là có tương quan với Ngài trong nội tâm và tình yêu. Tám thế kỷ trước Chúa Giêsu, Ôse đã loan báo sự cứu độ Israel như là cuộc đính hôn và biểu thị đặc tính của nó bằng sự “nhận biết” Thiên Chúa: “Ta sẽ đính hôn với ngươi muôn thuở, cưới ngươi trong công bình, chính trực, dịu hiền và yêu mến; Ta sẽ đính ước với ngươi trong chung thủy, và ngươi sẽ biết Giavê” (Os 2,20-22). Theo kiểu nói phúc âm, các môn đệ biết rằng yêu Chúa Giêsu đầu tiên cốt tại “giữ lời Ngài” (c. 15 và 21), nghĩa là nhận ra trong sứ điệp của Ngài những đòi hỏi và những ân huệ của tình yêu Thiên Chúa và đáp trả bằng sự dấn thân cả đời sống cách đích thực và quảng đại.

Đối với những ai yêu Ngài như thế, Chúa Giêsu hứa hẹn rất tuyệt diệu Ngài không nói đến tình yêu mà NGÀI đương nhiên dành cho họ, nhưng Ngài loan báo cho họ tình yêu và hồng ân kỳ diệu của Chúa Cha: đó là cùng với Chúa Con (c.18-21), chính Chúa Cha sẽ đến ở với các tín hữu. Các Ngài sẽ đến cư ngụ trong họ như trong đền thờ của mình (x.4,21-24).

Cựu Ước đã biết việc Thiên Chúa đến, ví dụ việc Ngài đến thăm Abraham dưới cây sồi Membré (St 18,1-15), nhưng đó chỉ là một sự gặp gỡ tạm thời dưới hình dáng bên ngoài. Các tiên tri đã loan báo một cuộc thần hiện vinh quang vào thời cánh chung (Is 60), nhưng sự thể hiện kỳ diệu này không để chỗ cho sự thân mật sâu xa giữa Thiên Chúa và tín hữu Ngài, với lại không có vấn đề cho cuộc sống này. Còn Chúa Giêsu hứa ban cho các người của Ngài, ngay từ đời này, được kết hợp thân mật cá vị với Thiên Chúa trong chốn sâu thẳm của đời sống Ba Ngôi. Ngài không dùng chữ “tỏ mình” nữa (c.21) vì trong câu hỏi của Giuda, chữ đó dễ gây hiểu lầm (c.22). Việc Thiên Chúa đến mà Ngài loan báo vượt lên trên tất cả những mơ tưởng của Do thái giáo và những kỳ vọng của các tiên tri: đó là sự hiện diện trực tiếp của chính Thiên Chúa trong nội tâm và tình yêu; lời hứa tuyệt vời của phúc âm là vậy.

Những ai chối từ tình yêu Thiên Chúa (c.24) thì không thể thấu triệt việc Thiên Chúa Ba Ngôi đến cách vô hình mà Chúa Giêsu vừa loan báo cho những ai yêu mến Ngài. Họ không “biết” Chúa Giêsu vì đã khước từ sứ điệp của Ngài. Họ không thể “biết” Chúa Cha, nguồn sứ điệp này (3,31-34; 5,37-38; 7,16-17; 8,47; 12,48-50). Ở đây, Giuda tìm thấy lời giải đáp cho câu hỏi của ông: chỉ biết được Chúa Giêsu nhờ đức tin (1,9-12), Ngài chỉ tỏ mình ra cho những kẻ tin (14,19).

Đã có một thời gian Chúa Giêsu hiện diện cách hữu hình với môn đệ; họ có thể nghe lời Ngài qua giác quan (c.25). Nhưng bây giờ thời gian này không còn nữa, và phục sinh sắp mở đầu một thời gian mới trong đó tương quan giữa thày và trò thay đổi cách thức (Lc 24,44). Sự lưu truyền lời chúa phán trong cuộc đời tại thế vẫn còn. Và chính sự lưu truyền này phát sinh ra phúc âm. Tuy nhiên nó sẽ được đổi mới hoàn toàn.

2. Thật vậy, sự lưu truyền lời Chúa Giêsu trong Giáo hội không phải là một sự tồn kho bất động, một việc sưu tập những lời cổ kính, bởi lẽ chính Thánh Thần làm nên sự lưu truyền này (c.26). Theo các lời từ biệt khác của Chúa Giêsu, Thánh thần là đấng bàu chữa công lý bênh vực Chúa Giêsu và môn đệ của Ngài trước tòa án của thế gian này (15,16; 16,7-11; Mt 10,20; Mc 13,11; Lc 12,12). Ở đây cũng như trong các tiên tri, Ngài (Chúa Thánh Thần) là đấng linh ứng lời Thiên Chúa. Trong sứ mệnh tại thế, Chúa Giêsu đã nói được “những lời của Thiên Chúa, Đấng ban dư đầy THÁNH THẦN cho Ngài” (Ga 3,34) những lời này là “thần trí và là sự sống” (Ga 6,63). Và nếu Thánh Thần được ban cho môn đệ trong ngày phục sinh (Ga 20,22; 7,37-39), đó là để đặc biệt nhắc nhở họ nhớ lại sứ điệp. Không phải một việc ghi vào ký ức cách vật chất; thánh Gioan hai lần ghi chú trong phúc âm là các môn đệ chỉ thấu triệt ý nghĩa lời Chúa Giêsu cũng như các hành động của Ngài khi “nhớ lại” chúng dưới ánh sáng phục sinh (Ga 2,22; 12,16), nghĩa là dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh thần, Đấng giúp họ quán triệt ý nghĩa thâm sâu. (Vai trò soi chiếu của Thánh Thần đã được phác họa trong Ga 16,12-14).

Chúa Giêsu đã loan báo trong diễn từ (14,16) là sẽ xin Cha sai Thánh Thần bàu chữa đến với họ. Ở đây Ngài cũng thêm là Cha sẽ sai đến nhân danh Ngài. Cả hai cách nói tương đương và tạo nên một trong những công thức chính xác rõ ràng nhất về thần học Thiên Chúa Ba Ngôi trong Tân Ước. Thiên Chúa Ba Ngôi hiện diện trong tín hữu, có cùng một mục đích là làm cho họ nhận biết sứ điệp Thiên Chúa và cho họ thông hiệp vào mầu nhiệm sự sống của Ngài.

3. Khi đã bảo đảm cho họ về một ánh sáng sống động sắp đến, Chúa Giêsu mới có thể từ giã họ. Ngài từ giã theo phong tục người Do thái, với lời chào: Shalôm: bình an. Tuy nhiên đây không phải là một lời từ giã thông thường: “Ta ban bình an của Ta cho các con”. Thế gian chỉ có thể chúc bình an, còn Ngài ban bình an, bình an riêng của Ngài. Theo não trạng người Hy Bá, chữ “bình an” diễn tả một cái gì còn hơn sự an tĩnh của tâm hồn. Nó bao gồm tất cả những thiện hảo mà người ta có thể cầu chúc; đó chính là sự an lạc. Nhưng sự bình an của Chúa Phục sinh (20,19.21.26) còn hơn sự an lạc vật chất hay hạnh phúc nhân bản. Bình an hệ tại việc chiếm hữu chân lý (theo nghĩa đã giải thích ở trên) với sự hiện diện viên mãn của Thiên Chúa. Sự chiếm hữu này làm cho các môn đệ thoát khỏi những thăng trầm của cuộc sống này, bằng cách bảo đảm cho họ rằng họ sẽ vượt qua tất cả các chướng ngại vật thế gian gây ra cho các việc chứng nhân của họ: “Hãy vững lòng, Ta đã thắng thế gian” (16,33). Lời từ biệt này có thể làm cho họ bối rối (14,1), nhưng họ chẳng có gì phải sợ, vì sự ra đi này không phải là một sự chia cách.

4. “Cha lớn hơn Ta”. Các giáo phụ và các thần học gia, nhất là những vị đã từng tranh luận về Thiên Chúa Ba Ngôi, đã bối rối vì mấy chữ đó, và đã dựa vào chúng để bàn cãi sôi nổi về mối liên hệ giữa Ngôi Cha và Ngôi Con, cũng như việc phân biệt hai bản tính trong Đức Kitô và về nguồn gốc của Chúa Con. Nhưng những cuộc bút chiến này, nếu không đi sai đường, thì cũng đi vào ngõ cụt. Tình yêu của môn đệ chỉ nhằm đến vẻ bề ngoài của con người Chúa Giêsu. Họ còn yêu Ngài trong mức độ họ còn có thể đụng chạm Ngài dưới hình thức nhân loại của Ngài và tùy theo địa vị mà họ ao ước nắm giữ trong vương quốc thiên sai. Họ đã phán đoán và yêu Ngài từ bên ngoài. Nhưng con người của Ngài bám chặt cách thâm sâu vào Chúa Cha, Cha trở nên hữu hình trong Ngài (x.14,9). Cái quan trọng không phải là cái mà họ đã nắm chắc được nơi Ngài cho tới bây giờ, nhưng là Chúa Cha qua Ngài. Chính trong nghĩa này mà Gioan đã có thể viết mà không sợ đụng chạm đến đức tin tí nào: “Cha trọng hơn Ta”, có nghĩa là trọng hơn cái mà các con đã thấy nơi ta. Chúa Giêsu kém cao trọng xét như là người mạc khải Cha. Sự phân biệt đó không nhằm đối chiếu bản tính loài người và bản tính Thiên Chúa (như truyền thống đã cắt nghĩa) nhưng nhằm đối chiếu cái môn đệ hình dung, trình bày về Ngài (sa “prêsentation humaine”) (trong tư thế một vị thiên sai) với ý nghĩa thiện linh trọn vẹn của Ngài (sa pleine signification divine) là mạc khải Chúa Cha. Đây là vấn đề nhận biết Chúa Cha trong Chúa Giêsu. Khi các môn đệ nhận biết điều đó rồi, thì không còn vấn đề hơn thua, vì Cha và Ngài chỉ là một.

KẾT LUẬN
Nhờ suy tư sau khi gần hoàn tất phúc âm, thánh Gioan ngày càng thấu triệt khiếm diện và hiện diện của Chúa Giêsu trong các môn đệ. Từ lúc Chúa chết trên thập giá, ông đã sống trong sự khiếm diện siêu việt của Chúa. Ông có thể kết luận cuốn phúc âm của mình: “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,29). Vì ông kinh nghiệm rằng sự hiện diện của Chúa Giêsu đối với các môn đệ không cốt tại các thị kiến phi thường, cũng không phải trong các lần hiện ra ngắn ngủi và dành riêng cho một vài nhân chứng sau khi sống lại, nhưng sự hiện diện luôn có đối với những ai tìm kiếm Ngài với niềm tin. Được nâng lên trong vinh quang Thiên Chúa, hiệp nhất cách mầu nhiệm với Cha và Thánh Thần, Đấng Phục sinh đã từ bỏ đời sống trần thế, là đời sống đã làm cho Ngài có thể nhận biết một cách khả giác. Nhưng khuất mắt ta để từ đây luôn luôn hiện diện với chúng ta theo cách thế của Thiên Chúa (Mt 28,20)

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Trái ngược với việc tuân giữ cách máy móc và mệt nhọc những giới luật tỉ mỉ, không sống động, thích hợp chút nào với tâm hồn tín hữu, Chúa Giêsu thiết lập các tương quan giữa Ngài với các môn đệ trên mối liên lạc tình yêu. Để thấy Chúa Giêsu, để sống nhờ Ngài, với Ngài, thì phải “giữ lời Ngài” (c.24). Sự sống này, như Chúa Giêsu xác định, là chính sự sống của Ngài nhận từ Cha, sự sống mà Ngài có với Cha, nghĩa là mối dây tình yêu.
2. Lúc sắp lìa xa các môn đệ, lúc sắp được nâng lên, Đức Kitô loan báo cho họ biết Ngài hằng hiện diện luyôn mãi qua lời Ngài. Bài giã từ trong chương 14 của Gioan không mang một mục đích nào khác ngoài việc tỏ cho biết sự hiện diện mới mẻ này.

Đối với người Semit, lời nói là cái gì cụ thể; cũng như tên gọi, lời nói là biểu thức của một hữu thể, một ngôi vị; hơn tất cả các phương tiện khác, nó bảo đảm được mối giây liên lạc sống động mà mỗi người cố nối kết với tha nhân; đó là cơn mưa đưa sự sống đến cho trái đất, làm nẩy mầm những hạt lúa sẽ trở thành cơm bánh (Is 55,8-11)

Sự hiện diện của Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc đời các tông đồ khi đi sâu vào trong những xác tín của họ. Lúc Chúa Giêsu rời bỏ họ, họ nhớ lại kinh nghiệm đặc biệt mà họ vừa có mà Chúa Giêsu tóm lại trong một chữ: Lời ta. Bằng ấy nói lên tất cả con người của Ngài đối với họ (x.1Ga 2,23; 4,15; 2Ga 9).

Sự hiện diện này sẽ sinh hiệu quả trong họ như sự hiện diện của Thiên Chúa đã sinh hiệu quả suốt lịch sử Israel. Sự hiện diện đó là Shékinah đã theo dân trong sa mạc, đã bao phủ đền thờ trong ngày Salomon cung hiến, đã nâng đỡ những người bị lưu đày, đã hoàn lại sự sống cho “nhóm còn lại”, đã ngập tràn tâm hồn mỗi người trong niềm mong chờ sự hiện diện sung mãn.

Khi theo Chúa Giêsu, các tông đồ đã sống lại lịch sử dân Do thái và thấy mình được kêu gọi sống thông hiệp thân mật với Đấng đã nói với Môisen “như bạn nói với bạn” (Xac 33,11).

Việc khám phá ra sự hiện diện cao quí vô giá sẽ Giáo hội được thực hiện hàng ngày, qua kinh nghiệm của cuộc sống thường nhật, dưới sự phù trợ của Thánh Thần, Đấng làm sống lại tạo vật mới đang thoát dần khỏi bóng tối của sự bách hại, sự chia rẽ và sự chết. Không gì có thể lay chuyển được sự hiện diện đó do Thánh Thần ban.

3. Sự ra đi của Đức Kitô, tức cuộc tử nạn, Phục sinh của Ngài, là cần thiết để các tông đồ khám phá một cách rõ ràng Chúa Giêsu là ai: là nhân chứng đặc biệt của Cha và của tình yêu Ngài. Họ phải khám phá thấy tình yêu đó còn lớn hơn tất cả những gì họ đã khám phá ra nơi Đức Kitô. Như vậy, Chúa Giêsu mời gọi họ khám phá ra điều họ đã tiên cảm. Làm sao họ lại không vui cho được.

4. Sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu không phải là tất cả. Sự hiện diện vô hình trong tâm hồn cao quí hơn nhiều. Cũng như thánh Phaolô, chúng ta không nuối tiếc vì đã không sống vào thời phúc âm. Thật là mối nguy hiểm nếu chỉ nhận biết Chúa Giêsu qua ngoại diện (theo xác thịt) mà không sống kết hiệp nội tâm với Ngài theo Thánh thần (2Co 5,16).

5. Tuần tới, chúng ta sẽ cử hành lễ Chúa Thăng thiên, một cuộc ra đi cần thiết để ban Chúa Thánh Thần xuống cho ta. Ngay từ bây giờ, chúng ta hãy tin tưởng mong đợi Chúa Thánh Thần. Để được như vậy, chỉ cần biết chấp nhận bình an của Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài, nghĩa là tin và để lời đó phát sinh trong ta hoa trái đã được Chúa loan báo trước. Chúng ta sắp thông phần với hy tế của Ngài, sắp lãnh nhận Ngài làm của ăn; ước gì sự hiện diện sống động của Ngài là sức mạnh và kiên nhẫn cho chúng ta. Chớ gì bình an vượt quá mọi sự của Ngài tràn ngập chúng ta.


11. Ánh sáng soi đường - Lm. Phạm Thanh Liêm

Chúng ta đang ở Chúa Nhật thứ sáu phục sinh, thứ năm tới là lễ Chúa Thăng Thiên nếu nơi đó không dời vào Chúa Nhật tới, và Chúa Nhật tới nữa là lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

Ai yêu Ta thì giữ Lời Ta
Theo Tin Mừng, Đức Yêsu nói với các tông đồ rằng: “Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta, Cha Ta sẽ yêu mến người đó, và chúng ta sẽ đến và ở với người đó”.

Yêu mến ai, thì vâng lời người đó, làm theo điều người đó muốn. Không vâng lời ai, là không yêu người đó, ít nhất là không yêu đến độ bỏ ý riêng mà vâng lời. Thánh Y-nhã nói: “tình yêu hệ tại ở việc làm hơn tại lời nói”. Chúa Yêsu đã nói: “không phải những người nói ‘Lạy Chúa, lạy Chúa’ là được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Thiên Chúa” (Mt.7, 21).

Ai vâng nghe Lời Chúa, được Thiên Chúa ở cùng, và người đó trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện cho người khác nữa.

Thánh Thần sẽ dạy các con mọi sự
Đấng Bầu Chữa, Thánh Thần được Thiên Chúa Cha gởi tới nhân danh Chúa Yêsu, sẽ dạy các tông đồ mọi sự, và sẽ nhắc nhớ các tông đồ những gì Đức Yêsu đã nói với các ngài.

Chính trong Thánh Thần và nhờ Thánh Thần, Đức Yêsu ban bình an của Ngài cho chúng ta. Bình an Chúa Yêsu ban cho chúng ta, không ai có thể cướp được, ngay cả những người quyền thế có thể giết người, cũng không thể cướp được bình an ấy. Bình an Chúa ban, là hậu quả của xác tín được Chúa thương yêu vô cùng. Người có ơn bình an Chúa ban, cảm nhận Chúa là tất cả đối với mình. Ngài là Đấng không gì có thể đánh đổi được, Ngài là “mối lợi tuyệt vời” mà người được ơn nhận ra.

Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta. Ngài dạy chúng ta mọi sự, Ngài giúp chúng ta làm những gì làm đẹp lòng Thiên Chúa. Thánh Thần giúp chúng ta tự do với tất cả. Trong bài đọc thứ nhất, một số Kitô hữu gốc Do Thái đòi các Kitô hữu gốc dân ngoại phải cắt bì, vì họ cho rằng có như vậy, các tín hữu dân ngoại mới được cứu độ. Để bảo vệ và làm sáng tỏ Tin Mừng, Phao-lô vàBarnabas đã quyết làm sáng tỏ vấn đề: Kitô hữu được cứu độ không do cắt bì nhưng do tin vào Đức Yêsu. Và “quyết định dưới tác động Thánh Thần” của các tông đồ đồ, là các Kitô hữu không phải cắt bì. Thánh Thần giúp chúng ta sống trong bình an và tình yêu, chứ không sống trong sợ hãi hay nô lệ. Thánh Thần Thiên Chúa, làm chúng ta tự do đích thực.

Ánh sáng soi thành là Con Chiên
Để có thể nhìn thấy vật gì đó, vật đó cần ánh sáng chiếu rọi và hình ảnh được phản chiếu vào mắt, nhờ vậy người ta có thể nhìn được. Con Chiên là đèn soi thành, Đức Yêsu là ánh sáng, là tiêu chuẩn giúp người ta nhận định được đâu là điều hay để làm và điều xấu để tránh.

Thế gian có tiêu chuẩn riêng của nó, và những người theo thế gian sống theo tiêu chuẩn thế gian: tiền bạc, danh vọng, địa vị. Hậu quả của việc đi tìm tiền bạc, danh vọng, không là hạnh phúc đích thực. Tiền bạc, danh vọng, khoái lạc, có “xiềng xích” riêng của nó, nó có thể trói buộc con người và biến con người thành nô lệ.

Ước gì mỗi người nhận ra Đức Yêsu là “đường, sự thật và sự sống”, và để Chúa trở thành tiêu chuẩn và ánh sáng cho từng người, để chúng ta được tự do đích thực.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo Chúa, bạn được giải phóng khỏi nô lệ điều gì?
2. Bạn có kinh nghiệm Thiên Chúa gần gũi với bạn không? Xin bạn chia sẻ.
3. Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta! Điều nào Chúa dạy khó nhất đối với bạn? Tại sao?

 

12. Suy niệm của Lm. Thu Băng

THÁNH THẦN SẼ NHẮC NHỞ CÁC CON MỌI ĐIỀU THẦY ĐÃ NÓI VỚI CÁC CON
Lời Chúa hôm nay được trích trong Tin Mừng Thánh Gioan trong bữa tiệc ly sau khi Giuđa phản bội ra đi nộp Ngài. Chúa Giêsu thoải mái nhắn nhủ các môn đệ thâm tín (Ga 14,23-29).
- Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người đó và chúng ta sẽ đến và ở trong họ;
- Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy và Đấng Bảo Trợ sẽ đến và ban bình an cho họ.

Có câu chuyện kể rằng: Một thanh niên chân thành muốn đi tìm thầy để học đạo. Anh từ giã cha mẹ để lên đường. Cha mẹ khuyên anh ở nhà để học theo gương cha mẹ cho đắc đạo. Nhưng anh không muốn những đạo lý thông thường cha mẹ dạy mà muốn học hỏi cao siêu hơn. Trên đường đi anh gặp một đạo tặc đầy uy tín, ra lệnh một lời là người ta phăm phắp nghe theo. Nhưng một hôm đi hành nghề, vị đạo tặc lại chạy trốn một toán quân của nhà vua đang tầm nã, khiến anh đâm ra nghi ngờ vị đạo tặc này cũng không có uy thế bằng quân lính nhà vua. Anh liền bỏ vị đạo tặc và đi theo xin phò nhà vua.

Cũng chẳng được bao lâu, nhân dịp nhà vua mở một lễ tế tôn phục thượng đế nhân vụ mùa màng Thượng đế cho tốt đẹp. Anh nghĩ đức vua cũng còn thua vị Thượng Đế này nên anh xin phép được đi suy phục Thượng Đế. Đi một hồi, anh đến đồi Thánh Giá, thấy Chúa Giêsu treo trên đó. Ngài phán: “Ai yêu mến Ta thì giữ lời Ta. Cha Ta và Ta sẽ yêu mến và chúng ta sẽ ở trong người ấy và tâm hồn họ sẽ được bình an thư thái”..

Anh suy phục Chúa và xin làm môn đệ. Chúa truyền cho anh trở về làng và gặp bất cứ ai đi chân đất, tay cầm tràng hạt và sống công chính, giữ luật và an vui với cuộc sống thì hãy theo người đó mà học đạo.

Anh trở về, trên đường anh để ý quan sát có người nào giống như vậy không để bái phục, nhưng chẳng thấy. Gần tới nhà thì trời đã xẩm tối, anh đành phải về xin trọ đêm. Vừa gõ cửa nhà cha mẹ, ông bà đang đọc kinh tối, nghe tiếng gõ cửa, bà liền chạy ra không kịp đi dép, tay cầm cỗ tràng hạt đọc kinh với dáng vẻ bình an thư thái. Anh liền hiểu ra lời Chúa dạy trên Thánh Giá. Cha mẹ đạo hạnh giữ lời khuyên của Chúa, yêu mến Chúa hết lòng, thi hành đức bác ái yêu thương.... Anh suy phục cha mẹ học đạo làm người theo gương Chúa dạy.

·        Tuân giữ lời Chúa bằng việc giữ lời khuyên dạy của cha xứ, vị đại diện Thiên Chúa.
·        Tuân giữ lời Chúa bằng việc chu toàn bổn phận thờ phượng Chúa mỗi ngày Chúa Nhật.
·        Tuân giữ lời Chúa bằng việc giữ bổn phận thờ Chúa trong gia đình.
·        Tuân giữ lời Chúa bằng việc nghe lời giáo huấn của Giáo Hội.
·        Tuân giữ lời Chúa bằng giữ đức công bằng và xa tránh các tội lỗi, đam mê, ham ước cách bất công.
·        Tuân giữ lời Chúa bằng việc sống đạo hạnh, nhân từ thương yêu đồng loại...

Được như vậy Chúa Ba Ngôi sẽ ngự trị trong gia đình, trong tâm hồn, ơn Chúa sẽ đổ tràn cho chúng ta. Chúng ta sẽ được bình an, được thảnh thơi thư thái, được sống trong ơn Chúa soi động mỗi ngày, mỗi việc, được sống hạnh phúc và an hòa.

Gia đình yêu mến Chúa thì giữ lời Chúa, chu toàn giới luật của Chúa, siên năng cầu kinh thì gia đình sẽ được bình an.


13. Tuân giữ lời Chúa

Vào một buổi chiều mùa đông, thánh Antôn đang quì cầu nguyện trong căn phòng nhỏ bé của mình, thì bỗng nghe thấy tiếng gõ cửa. Thánh nhân đứng dậy và ra mở cửa. Thấy một em bé có khuôn mặt sáng sủa đang đứng đó với chiếc bị trên vai. Thánh nhân liền hỏi:
- Em là ai?
Em bé trả lời:
- Ta là con của đức vua.
Thánh nhân hỏi tiếp:
- Vậy em từ đâu mà đến?
Em nói:
- Ta từ trời cao mà đến.
Thánh nhân tò mò:
- Thế em định tìm gì trên mặt đất này?
Em bé chớp chớp đôi mắt và trả lời:
- Ta đi ăn xin tình yêu của loài người.

Em bé ấy chính Chúa Giêsu Hài đồng, đã hiện ra với thánh Antôn. Với chúng ta cũng vậy. Mặc dù Chúa Giêsu Hài đồng không hiện ra một cách cụ thể dưới hình ảnh một em bé với khuôn mặt sáng sủa và chiếc bị trên vai, nhưng Ngài hiện ra trong tâm hồn chúng ta. Ngài đang đứng đó và gõ cửa. Ngài chờ chúng ta đứng dậy và ra mở cửa để van xin chúng ta một tấm tình yêu. Ngài sẽ hỏi chúng ta như ngày xưa đã hỏi Phêrô:
- Con có yêu mến Thầy không?
Dĩ nhiên, chúng ta cũng sẽ hăng hái thưa lên với Chúa như Phêrô ngày xưa:
- Có chứ, con yêu mến Chúa là cái chắc.
Thế nhưng, chúng ta phải làm thế nào để biểu lộ được tình yêu chúng ta dành cho Chúa? May mắn thay, qua đoạn Tin mừng hôm nay, chính Ngài đã chỉ cho chúng ta một phương thế chắc chắn nhất và bảo đảm nhất. Ngài nói:
- Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ những lời Thầy truyền dạy.
Thực vậy, có lần Ngài đã kể lại câu chuyện về một người cha có hai đứa con trai. Vào một buổi sáng đẹp trời, ông nói với đứa anh:
- Con hãy vác cuốc ra làm vườn nho cho cha.
Đứa anh vâng vâng dạ dạ, nhưng sau đó nó vào trong buồng và nằm ngủ miết. Ông lại nói với đứa em:
- Con hãy vác cuốc ra làm vườn nho cho cha.
Đứa em lúc đầu tỏ ra ngần ngại, nhưng sau đó nó đã vác cuốc ra vườn làm cỏ. Như thế, đứa em đã yêu thương cha nó hơn đứa anh. Một người con ngoan trong gia đình chắc chắn không phải là một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì, trái lại phải là một đứa con mai mắn, vui vẻ vâng lời cha mẹ. Đối với Chúa cũng vậy. Để yêu mến Chúa, chúng ta phải tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.

Chúng ta có nhiều cách để nói lên tình yêu thương dành cho một người nào đó. Chẳng hạn khi yêu thương ai, chúng ta có thể cầu nguyện cho họ, nghĩ tốt về họ và thầm mong cho họ được nhiều may mắn. Thế nhưng, ý nghĩ và tư tưởng thì trừu tượng, khó mà kiển chứng. Chẳng hạn khi yêu thương ai, chúng ta có thể ca tụng họ và nói tốt về họ. Thế nhưng, lời nói nhiều khi trở thành bôi bác và giả hình. Tuy nhiên, có một phương tiện chắc chắn nhất để biểu lộ tình yêu thương, đó là việc làm. Đức tin không việc làm, thì chỉ là một đức tin đã chết. Tình yêu không việc làm thì cũng chỉ là một tình yêu đã chết mà thôi. Chúng ta không thể chỉ cho người khác thấy một tình yêu không việc làm. Trái lại, căn cứ vào những việc làm, người ta sẽ đánh giá được tình yêu thương của chúng ta. Và đối với Chúa, việc làm đẹp lòng Ngài hơn cả, chính là tuân giữ những điều Ngài truyền dạy.
Thiên Chúa đã cho mặt trời mọc lên để soi sáng và sưởi ấm, đã cho mưa xuống để ruộng đồng được xanh tươi. Thế nhưng, muốn có được cơm gạo, bác nông phu đã phải làm lụng vất vả suốt ngày dưới ánh nắng gay gắt. Cũng vậy, để được Chúa yêu thương, chúc phúc và cứu độ, chúng ta cần phải cộng tác với Ngài, ít nữa bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, bởi vì chính Ngài đã xác quyết với chúng ta qua đoạn Tin mừng hôm nay: Ai yêu mến Thầy, thì tuân giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy.

 

14. Bình an

Cách đây khoảng năm, mười năm tại Manila, hầu như mọi người lớn tuổi cũng như giới trẻ, ai ai cũng nói đến truyện phim khoa học giả tưởng có tựa đề là “Người ngoài hành tinh trái đất”. Với dung mạo kỳ dị khác mọi người trong trái đất này, nhưng lại có một tâm hồn hiền lành, tràn đầy tình yêu thương. Người ngoài hành tinh này bị đi lạc vào trái đất, và những con người mà người hành tinh được dịp tiếp xúc trên mặt đất này đều tỏ ra nghi kỵ, lo sợ, không hiểu và không chấp nhận những cử chỉ yêu thương của người hành tinh, chỉ có một em bé xem ra như đã vượt qua được sự ngăn cách, cảm thông được với người ngoài hành tinh. Nhưng sự cảm thông này cũng không đủ để giữ người ngoài hành tinh này ở lại trái đất, và người ngoài hành tinh sẽ tìm mọi cách để trở về với thế giới của mình, thế giới ở bên kia, khác với thế giới con người.

Truyện phim khoa học giả tưởng này có thể gợi ý cho chúng ta phần nào để lĩnh hội sứ điệp của Chúa Giêsu được nhắc đến trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu một cách nào đó có thể được so sánh như một người ngoài hành tinh, ngoài trái đất này. Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, sống trong thế giới khác biệt với thế giới chúng ta, một thế giới của Thiên Chúa Ba Ngôi từ cõi đời đời, thế giới của tình yêu thương, của sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa. Nhưng khác với người hành tinh, Chúa Giêsu Con Thiên Chúa đã không bị đi lạc vào trong thế giới của chúng ta, nhưng Ngài đã cố ý đến với thế giới chúng ta, trở thành con người như chúng ta để cứu rỗi chúng ta, biến chúng ta trở thành giống Người nhiều hơn, sống sự sống của Người trong yêu thương. Trọn cả cuộc đời của Ngài trên trần gian là để dạy sứ điệp tình thương.

Người ngoài hành tinh rời trái đất trở về thế giới khác, để lại cậu bé trong niềm luyến tiếc, vì em bé này biết rằng mình vĩnh viễn sẽ không bao giờ gặp lại người bạn tốt này nữa. Chúa Giêsu thì lại khác, Ngài từ giã các tông đồ để trở về lại cùng Thiên Chúa Cha không phải để vĩnh viễn xa chúng ta luôn mãi, nhưng là để dọn chỗ cho chúng ta. Nơi Ngài đi chúng ta cũng sẽ tới, nếu chúng ta chấp nhận cuộc sống của Ngài, đó là cuộc sống yêu thương như Ngài đã dạy. Ngài biết chúng ta đã được dựng nên bằng gì? Có những yếu đuối như thế nào? Người đã không giảng dậy xuông mà còn thực hiện qua hành động cụ thể để ban cho chúng ta chính sức mạnh của Người, đó là ban Chúa Thánh Thần để hiện diện và hướng dẫn chúng ta luôn mãi. Ngài chỉ nài nỉ một điều duy nhất là hãy ở lại trong tình yêu Ngài, hãy duy trì sự hiệp nhất với Ngài.

Giữa thế giới của người ngoài hành tinh và thế giới của chúng ta không có sự liên lạc nào là hoàn toàn xa cách và người ngoài hành tinh hãy trở về lại với thế giới của mình. Thế giới của Thiên Chúa tuy khác với thế giới của mỗi người chúng ta, nhưng không hoàn toàn cách biệt, vì giữa hai thế giới này có sự liên hệ mật thiết với nhau và mỗi người chúng ta có thể bước vào trong thế giới của Chúa, nếu chúng ta chấp nhận sống giống như Chúa, sống kết hiệp với Chúa, chu toàn giới răn yêu thương của Chúa.

Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta được ơn khiêm tốn đủ để đón nhận lời dạy của Chúa và xin Ngài cũng ban cho chúng ta được ơn can đảm để sống những gì Chúa truyền dạy. Chúng ta đừng chỉ đứng nhìn trời, chỉ mơ ước Thiên Chúa làm mọi sự cho chúng ta hưởng dùng, nhưng hãy nhìn vào anh chị em xung quanh, hãy nhìn vào thế giới chúng ta đang sống với muôn vàn thử thách với tâm hồn tràn đầy xác tín, tuân phục giáo huấn của Chúa, tràn đầy tình thương và sức mạnh của Ngài để thực thi giáo huấn của Ngài.

Đây là cách hữu hiệu nhất để chúng ta bước vào trong thế giới của Thiên Chúa, bước vào Nước Chúa trong hiện tại, ngay bây giờ và trong tương lai vĩnh cửu của nước hằng sống. Xin Chúa thương ban cho mỗi người chúng ta được ơn bước vào trong thế giới của Chúa. Xin Chúa thương nâng đỡ sự dấn thân của chúng ta và nâng đỡ đức tin của chúng ta mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.



15. Lo âu

Nếu có một người nào đó hỏi chúng ta: “Ông bà, anh chị có yêu mến Chúa không?”. Chắc chắn ai trong chúng ta cũng trả lời được ngay. Không những trả lời được mà còn cho người đó hỏi một câu dư thừa, vớ vẩn. Nhưng nếu người đó hỏi thêm một câu nữa: “Làm sao ông bà, anh chị biết được mình yêu mến Chúa, hay dựa vào bằng chứng nào để tôi biết được ông bà, anh chị yêu mến Chúa?”. Câu hỏi này anh chị em trả lời được không? Dĩ nhiên là được. Nhưng có lẽ sẽ có nhiều câu trả lời khác nhau.

Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã trả lời thay cho chúng ta, Chúa đã chỉ dạy cho chúng ta một dấu hiệu, một bằng chứng, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa hay không?: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy”. Một câu Kinh Thánh đó thôi đủ định nghĩa thế nào là người yêu mến Chúa, nghĩa là dấu hiệu hay bằng chứng để chúng ta biết được hay người khác biết được chúng ta yêu mến Chúa là chúng ta tuân giữ lời Chúa. Và đây cũng là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa nhiều hay ít, đó là chúng ta tuân giữ lời Chúa nhiều hay ít. Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu xem: Chúa bảo chúng ta tuân giữ lời Chúa, vậy lời Chúa ở đâu? Và chúng ta phải tuân giữ Lời Chúa thế nào?

Lời Chúa ở đâu? Nếu trả lời một cách ngắn gọn, chúng ta có thể nói: Lời Chúa chứa đựng trong sách Thánh, tức là trong Kinh Thánh. Nhưng nếu hiểu rộng ra, chúng ta có thể nói: Lời Chúa còn chứa đựng trong thánh truyền, tức là một phần mạc khải được lưu lại dưới hình thức truyền khẩu và trong giáo huấn của các giáo phụ. Lời Chúa còn chứa đựng trong phụng vụ, tức là những gì Giáo Hội sống và thể hiện trong sinh hoạt phụng tự. Và Lời Chúa còn chứa đựng trong đời sống của Giáo Hội, tức là những giáo huấn của các công đồng, các Đức Giáo hoàng, các giám mục. Tóm lại, Kinh Thánh, thánh truyền, phụng vụ và giáo huấn của Giáo Hội, đó là những kho tàng chứa đựng lời Chúa. Nhưng thông thường và cụ thể, mỗi khi nói đến Lời Chúa, chúng ta thường hiểu là Kinh Thánh, nhất là Tin Mừng.

Tại sao chúng ta phải giữ lời Chúa và giữ lời Chúa thế nào? Chúng ta giữ lời Chúa để chứng tỏ lòng chúng ta yêu mến Chúa. Yêu mến ai, chúng ta muốn ở gần người đó, tâm sự trò chuyện quan hệ mật thiết với người đó, thì chúng ta đối với Chúa cũng vậy, và còn hơn thế nữa, là để chúng ta nên giống Chúa. Tục ngữ có câu: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Gần bạn hiền sẽ nên hiền. Và tục ngữ Tây phương cũng nói: “Anh nói cho tôi biết, anh đọc sách gì, anh bầu bạn với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là người thế nào”. Chúng ta cần tâm sự với Chúa Giêsu, chúng ta muốn nên giống Chúa, nay Chúa đã khuất mặt, thì chỉ còn một cách là đọc lời Ngài, suy gẫm cuộc đời Ngài, chúng ta sẽ học được những ý tưởng, những tâm tình của Ngài. Vì thế, ai muốn quan hệ mật thiết với Chúa, muốn nên giống Chúa, chỉ còn một cách là luôn luôn đọc lại bộ Tân ước, nhất là Tin Mừng, để thấy rõ chân tướng của Chúa Kitô mà học hỏi bắt chước.

Cũng thế, người ta thường nói: “Có đầy trong lòng mới trào ra ngoài miệng”. Do đó, muốn suy nghĩ, nói năng, hành động, phản ứng như Chúa, thì điều quan trọng là phải có đầy Chúa trong tâm hồn, phải thấm nhiễm tinh thần của Chúa, phải in sâu hình ảnh dịu hiền của Chúa, những gương sáng Chúa đã thực hiện, lời Chúa dạy dỗ, giáo huấn vào đầu óc của mình. Để được như vậy, chỉ có cách duy nhất là hằng ngày chăm chỉ đọc Lời Chúa trong Kinh Thánh và suy niệm. Nhờ đó Lời Chúa dần dần chi phối đời sống chúng ta và trở thành nguyên tắc hướng dẫn mọi hành vi, cử chỉ của chúng ta và biến đổi chúng ta nên giống Chúa.

Tuy nhiên, chúng ta đọc và suy niệm lời Chúa là rất tốt rồi, nhưng điều quan trọng hơn nữa, là chúng ta phải áp dụng, phải thực hành lời Chúa, vì đây là thước đo lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa: chúng ta sẽ là kẻ không yêu mến Chúa khi chúng ta làm không đủ tiêu chuẩn như lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là người ghét Chúa khi chúng ta làm sai lời Chúa dạy. Chúng ta sẽ là kẻ phản bội lời Chúa nếu chúng ta tránh né, coi thường hay lười biếng không làm những việc đáng phải làm. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không tuân giữ lời Chúa, thì có khác gì đứa con gọi dạ bảo vâng, nhưng không chịu làm theo lời cha mẹ dạy. Đó là thứ tình yêu giả hình và là thứ tình yêu đầu môi chót lưỡi mà thôi. Tình yêu phải được thử thách, phải được chứng nghiệm bằng việc làm… Vì thế, yêu Chúa thì phải thực hành lời Chúa. Thực hành lời Chúa dù ở nhà thờ hay ở nhà mình, nơi làm việc hay ngoài đường phố, chợ búa. Nếu như mọi người đều nhiệt tình áp dụng và thực hành lời Chúa thì nhân loại này yêu thương nhau biết mấy. Nhưng đáng tiếc, lời Chúa dạy: “Các con hãy yêu thương nhau”, chúng ta chưa thực hành đến nơi đến chốn.

Yêu mến Chúa là giữ lời Chúa truyền dạy. Giữ ở đây không hiểu theo nghĩa thụ động, nghĩa là đem chôn giấu lời Chúa, nhưng phải hiểu theo nghĩa tích cực, nghĩa là có sáng kiến đem lời Chúa ra thực hành trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Nhưng lời Chúa là lời nào? Tất cả lời của Chúa gồm tóm rất gọn trong một tiếng này, đó là “yêu”. Yêu Chúa với tình yêu của một người con hiếu thảo và yêu đồng loại với tình yêu như Chúa đã yêu chúng ta.
Đàng khác, sống ở trần gian, ai cũng phải trải qua những giây phút lo âu. Lo âu về tương lai, về gia đình, về con cái, về tiền bạc, về công việc làm ăn, về sức khỏe… Lời Chúa hôm nay an ủi và khích lệ chúng ta đừng xao xuyến và sợ hãi. Chúng ta hãy dâng lên Chúa mọi lao công vất vả, mọi lo lắng buồn phiền. Chúng ta hãy phó thác cuộc đời mình cho Chúa và xin Chúa ban sự bình an. Bởi vì có Chúa thì màng nhện cũng sẽ trở nên tường thành. Còn không có Chúa thì tường thành cũng chỉ là màng nhện mà thôi.

 

16. Bình an

Trên những chuyến xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”, người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.

Những vấn đề vừa nêu trên cho thấy bình an luôn luôn là nhu cầu thiết yếu của con người dù không nói ra. Có nhu cầu bình an tất nhiên cũng cần phải kiếm nơi cung cấp nhu cầu bình an.

Vấn đề được đặt ra là những ai đứng ra cung cấp nhu cầu bình an, cung cấp như thế nào và liệu có thực sự đem lại bình an cho thân chủ hay không?

Nếu chỉ dựa trên qui luật “cung cầu”, bất cứ ai cũng có thể có được bình an miễn là có tiền, chỉ cần bỏ tiền ra thuê một vài vệ sĩ ở các “công ty dịch vụ vệ sĩ” là có thể có bình an. Bình an theo cách này chẳng khác nào lời Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng “bình an thế gian ban tặng”. Bình an dựa trên qui luật cung – cầu có thực sự bình an không?

Trong tháng 1- 2001 tổng thống Kabila của cộng hòa dân chủ Công-gô, dù được bảo vệ, canh phòng rất cẩn thận, nhưng ông vẫn bị ám sát; người ám sát ông không phải ai xa lạ hay tổ chức chính trị đối lập, mà chính cận vệ thân tín của ông, người có nhiệm vụ bảo vệ ông và luôn sát cánh bên ông.

Điều này càng cho thấy sự bình an dựa trên qui luật cung cầu, quy luật mua bán trao đổi hay nói theo lời của Đức Giêsu “bình an thế gian ban tặng” xem ra chẳng có gì bảo đảm, nói không sai là rất mong manh. Rốt cuộc bình an luôn là ước mơ, nhu cầu sống còn của con người.

Vẫn biết bình an là nhu cầu sống còn của con người, nhưng cách thức ban bình an của Đức Giêsu trái ngược hoàn toàn với cách thức của con người, bình an trong những tình huống bất an.

Trong khi người đời cần phải có phương tiện bên ngoài, tỷ như có vệ sĩ bảo vệ… mới được bình an. Đức Giêsu hứa ban một thứ bình an như lời Ngài khẳng định “… không như thế gian ban”. Bình an Đức Giêsu không có gì bảo đảm bên ngoài mà chỉ dựa vào lời hứa của Đức Giêsu “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi”. Đây mới là sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Đức Giêsu ban tặng”.

Thật vậy, bài Tin Mừng cho thấy một bối cảnh thật xúc động, Thầy Giêsu chuẩn bị chia tay với các môn đệ. Trước đó các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại mỗi lần Đức Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, còn cửa vẫn đóng kín vì sợ người Do thái. Khi Đức Giêsu hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ cũng tan biến và ngược lại.

Như thế, nguyên nhân khiến các ông sợ hãi là không thấy sự hiện diện bằng thể lý của Đức Giêsu. Chính trong lúc không còn gì để bám víu, để lệ thuộc, mà chỉ tin vào lời hứa của Đức Giêsu: “Thầy ra đi và đến cùng anh em”, Thầy ban bình an của Thầy cho anh em”, lúc đó các ông mới cảm nhận sự bình an Đức Giêsu ban cho. Nói như Phaolô “Bình an của Thiên Chúa là bình an không ai hiểu thấu”. Bình an Đức Giêsu ban bất chấp sự đe dọa bên ngoài. Bình an Đức Giêsu ban không có gì khoa trương bên ngoài rất âm thầm, sâu lắng nhưng rất mãnh liệt… làm cho chúng ta bình an thật sự dù có bị tối tăm vây quanh, dù có bị sóng gió cuộc đời quật ngã ta vẫn không bị tiêu diệt… cũng chính Phaolô đã nói lên kinh nghiệm xương máu của ông trong các cuộc hành trình truyền giáo “Chúng tôi bị dồn ép tư bề nhưng không bị đè bẹp; hoang mang nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không tiêu diệt”. Đơn giản vì Phaolô luôn mang trong mình lời hứa bình an của Đức Giêsu. Bình an Đức Giêsu hứa ban không chỉ dành riêng cho các môn đệ mà còn cho tất cả những người tin vào Đức Giêsu – các Kitô hữu. Vậy làm thế nào để có được sự bình an này?

Đứng trước những thách đố, sóng gió trong đời sống gia đình, tỷ như thiếu gạo, tiền đóng học cho con, tiền điện nước… ta chỉ ngồi đó than thân trách phận, “đóng cửa” lại như các môn đệ để tìm bình an sao? Đó không phải là bình an của Đức Giêsu, bình an của Đức Giêsu là “bung ra”, làm ăn chân chính, làm hết sức mình để lo cho gia đình dù kết quả không như mong muốn, ta vẫn thấy sự bình an của Đức Giêsu hiện diện. Sự bình an của Đức Giêsu được thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui trong gia đình, đôi khi ta không nhận ra.

Hoặc là đứng trước những chọn lựa sống, sống không ngay thẳng trong làm ăn buôn bán làm ta giàu hơn, còn sống trung thực đôi khi lại làm ta mất đi những món lợi lớn. Bình an của Đức Giêsu ở đây chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật. Thiết tưởng thước đo để xét xem ta có sự bình an của Đức Giêsu hay không đã nằm sẵn trong bài Tin Mừng “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”.

Một vị ẩn sĩ già có hai môn sinh, ông hướng dẫn họ sống lời Chúa, sau một thời gian người thứ nhất cảm thấy vui tươi hạnh phúc, đường tu trì có nhiều tiến bộ, còn người thứ hai luôn buồn bực và nhăn nhó. Khi được hỏi lý do, người thứ nhất trả lời: “Con giữ lời Chúa dạy vì con yêu mến Chúa” và sự bình an của Đức Giêsu ở trong anh. Còn người thứ hai cho biết: “Con giữ lời Chúa dạy vì thầy dạy phải giữ như vậy”, thật ra anh không có lòng yêu mến. Sau một thời gian ngắn người thứ hai bỏ vị ẩn sĩ già để ra đi, vì anh không có được sự bình an trong đường tu trì.

Lời hứa ban bình an của Đức Giêsu là lời bảo đảm chắc chắn nhất cho những ai tin tưởng vào Ngài. Xin cho sự bình an của Đức Giêsu luôn ngự trị trong tâm hồn chúng ta.



17. Bình an

(Trích trong “Sợi Chỉ Đỏ”)
Trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai người là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.

Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoảiû mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ quá”. Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà nãy giờ ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã đặt tác giả của nó là người họa sĩ hạng nhất của triều đình.

Chúa Giêsu đã nói: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con không theo kiểu thế gian. Lòng các con đừng xao xuyến, các con đừng sợ hãi”. Những lời này Ngài nói giữa bữa tiệc ly. Phải chăng đây là một thời điểm không thích hợp để nói về bình an, vì khi ấy hoàn cảnh bên ngoài rất là xáo trộn? Không, trái lại rất thích hợp. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.

Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.

Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.

Đó chính là thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng được.



18. Vắng mặt

(Trích trong “Sợi Chỉ Đỏ”)
Có một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông đã gặp tổ kén lạ. Ông liền bứt cành cây đem kén bướm về nhà. Ít ngày sau, ông thấy nhúc nhích bên trong kén, nhưng con bướm vẫn chưa phá kén bay ra.

Hôm sau, kén lại nhúc nhích, nhưng chẳng có gì khác lạ. Lần thứ ba, vẫn thấy như trước, ông liền lấy dao rạch kén, thế là con bướm bò ra ngoài. Tuy nhiên, bướm không tăng trưởng và chẳng bao lâu thì chết.

Sau này, ông được người bạn là nhà sinh vật học cắt nghĩa như sau: Thiên nhiên đã xếp đặt cho con bướm phải đấu tranh mới thoát ra khỏi cái kén, vì nhờ đấu tranh gian khổ mà nó có thể phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.

Muốn làm cánh bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, bướm phải làm kiếp sâu lặng lẽ, cô tịch trong vỏ kén lặng lờ, khuất nẻo. Muốn làm con bướm bay trong bầu trời xanh ngắt, bướm phải là con sâu đen đủi xấu xa, vặn vẹo đau đớn trong tổ kén đợi chờ.

Để trở nên những tín hữu Kitô vững mạnh, tăng trưởng về đường thiêng liêng, chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ để tiến triển về mặt tâm linh, chúng ta cũng phải vượt qua đấu tranh thử thách. Nhưng trong những thời điểm ấy, Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta, cho dù chúng ta không nhìn thấy Người.

Lúc sắp sửa ra đi, để trấn an các tông đồ, Chúa Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Người vẫn luôn hiện diện giữa các ông và ban bình an cho các ông. Sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những kẻ yêu nhau mới nhận ra mà thôi. Từ sau biến cố Phục sinh, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại.

Người hiện diện trong những kẻ yêu mến Người: “Ai yêu mến Thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy”.

Người hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”.

Người hiện diện không chỉ đơn độc, nhưng là hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người.

Nếu Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người; và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Chúa Giêsu và Chúa Cha.

Vì thế, Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu lời Thiên Chúa, Lời đó chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha: “Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.
Với lời hứa này, kể từ ngày lễ Hiện Xuống đầu tiên, Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn Giáo Hội hiểu thấu triệt lời Chúa trong Kinh Thánh, để trình bày một cách sáng tỏ hơn, và để giải quyết những vấn đề mới mẻ cho từng thời đại. Vì thế mà các Công đồng liên tiếp được triệu tập dưới sự bảo trợ của Thánh Thần.