Thứ Sáu, 29 tháng 12, 2017

LỄ GIỖ BÀ CỐ MARIA TẠI QUY HẬU – LỄ MỞ TAY LM GIOAN KIM THỌ, GX. AN NGẢI –TM THÁNH GIA








MỞ TAY LM GIOAN KIM THỌ, GX. AN NGẢI 



MỞ TAY LM GIOAN KIM THỌ, GX. AN NGẢI 







MỞ TAY LM GIOAN KIM THỌ, GX. AN NGẢI 





GIANG SINH TẠI PHÁT DIỆM





































                                LỄ THÁNH GIA
Lời Chúa: Hc 3,3-7.14-17a (hay Hl 3,2-6.12-14); Cl 3,12-21;
Mt 2,13-15.19-23


MỤC LỤC


1. Những Hêrôđê thời nay

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại câu chuyện thánh Giuse đem Chúa Giêsu trốn sang Ai Cập, để thoát khỏi sự bách hại của Hêrôđê và sau đó quay về Israel. Đặt bối cảnh câu chuyện trên trong Chúa nhật lễ Thánh Gia, chúng ta có thể hiểu đây là một lời nhắc nhở đến bổn phận của người làm cha làm mẹ đối với con cái.

Quả thực là ngày nay, không còn có những Hêrôđê dám công khai ra lệnh tru diệt hàng loạt trẻ nhỏ, những hình ảnh gần gũi nhất với Chúa. Nhưng nói thế không có nghĩa là không còn những Hêrôđê hiện đại tàn ác có khi còn hơn cả ngày xưa nữa. Không kể đến những Hêrôđê chuyên giết chết trẻ em ở Brasil, những Hêrôđê chuyên bắt cóc trẻ em để bán làm mãi dâm ở Bangkok... trong cuộc sống thường ngày, vẫn có thể có những Hêrôđê đang rình rập để phá hoại trẻ em: Một nền văn hoá không lành mạnh, với những phim ảnh, sách vở và báo chí khiêu dâm, một xã hội thiếu những giá trị đạo đức, luôn cổ võ cho bạo lực, khủng bố.

Ngay trong bầu khí gia đình, những Hêrôđê thời nay có thể là chính những người cha, những người mẹ đã tàn nhẫn giết chết con mình từ trong trứng nước bằng những hành động ngừa thai và phá thai mà mỗi ngày một gia tăng.

Những Hêrôđê thời nay có thể là những người cha, những người mẹ đã không biết nhường nhịn chịu đựng lẫn nhau, để rồi đã phá huỷ bầu khí gia đình bằng cách ly dị, đẩy con cái vào chốn bơ vơ lạc lõng.
Những Hêrôđê thời nay có thể là những người cha, những người mẹ không sống gương mẫu, dù chỉ là một hành vi nhỏ mọn, cũng có thể tác hại đến con cái của mình, ít nữa là về phương diện tinh thần. Không phải chỉ khi nào làm các em đau đớn về thể xác hay tinh thần, mà ngay cả khi nuông chiều một cách thái quá và vô lý... cũng đã là một cách đẩy các em vào chỗ chết. Và trong cuộc sống hiện nay không thiếu những trường hợp như thế, để cuối cùng các em trở thành những tội phạm.

Vì thế, thái độ tỉnh táo của thánh Giuse trước cuộc sống để bảo vệ Hài nhi Giêsu vẫn là tấm gương cho các bậc phụ huynh noi theo trong việc chăm sóc và giáo dục con cái mình.

Lập trường của Chúa Giêsu trong vấn đề này thật là quyết liệt như chúng ta đã từng thấy Ngài tuyên bố: Ai làm gương mù gương xấu cho một trong những trẻ này, thì thà cột cối đá vào cổ nó mà quăng xuống biển còn hơn.

Hãy cần xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết ý thức và chu toàn bổn phận giáo dục con cái, để gia đình chúng ta có được một bầu khí yêu thương và đạo đức như Thánh Gia ngày xưa.

2. Một kiểu vâng lời luôn hợp thời

Những việc nhỏ mọn xảy ra hằng ngày trong đời sống của một đứa bé đều quan trọng đối với bậc cha mẹ, nhưng những người chung quanh ít để ý và mau quên lãng. Tuổi thơ ấu của Chúa Giêsu được đánh dấu bởi một ít việc khác thường, nhưng khi thánh Mátthêu viết Phúc Âm (chắc chắn số người biết rõ tuổi thơ ấu của Chúa đang sống tản mác hoặc đã từ trần rồi), thánh nhân chỉ phác vẽ lại cách giản dị kỷ niệm về các sự việc ấy và tán dương chúng bằng cách chiếu rọi lên chúng ánh sáng của Thánh Kinh. Cũng nên nói thêm rằng trong trường hợp này, tác giả giải thích Thánh Kinh một cách rất tự do. Trong sách tiên tri Ôsê (11,1), đứa con được gọi từ Ai Cập về chính là Israel. Thật ra chiều sâu của thực tại thiêng liêng mà Mátthêu nêu lên, vượt xa trình độ của câu chuyện kể lại. Nhắc đến việc từ Ai Cập trở về, là nhắc đến biến cố Phục Sinh mang lại ơn cứu độ nhờ Đức Giêsu Kitô. Ngoài ra, ta nhận thấy thánh Mátthêu nói nhiều đến thánh Giuse trong các câu chuyện về thời niên thiếu của đức Kitô. Đối với người gia trưởng của Thánh Gia, tuổi thơ ấu của Đức Kitô không trôi qua trong bầu khí thơ mộng mà các nhà nghệ sĩ đã phổ vào tác phẩm của họ. Nó bi thiết lắm. Giuse là người di cư, là người đi tìm một nhà ở, là người thợ lo lắng tìm ra nghề để nuôi sống gia đình. Giuse xuất hiện với chúng ta như một con người sau khi đã chấp nhận dấn thân vào một định mệnh do Thiên Chúa đề nghị, vẫn trung thành với lời cam kết dù gặp khó khăn thử thách. Cái chìa khóa giúp ta hiểu thánh Giuse là lòng tuân phục Chúa. Ta nên lưu ý tới câu “Giuse chỗi dậy”. Câu này chỉ ba điều:
1.    Sự tuân phục Thiên Chúa gây xáo trộn cho con người. Cứ tưởng tượng Giuse mới vất vả cất được căn nhà nhỏ ở Bêlem rồi ở Ai Cập. Thế rồi Chúa đến quấy rầy người. Hãy chỗi dậy! Câu chuyện này xảy ra trên bình diện đời sống gia đình đối với Giuse, vẫn thường xảy ra trên bình diện thiêng liêng cho mọi Kitô hữu có Đức Kitô trong cuộc sống mình. Đức Kitô thích phá tan những ‘tòa nhà’ ý tưởng, nhân đức tiện nghi tinh thần của ta. Phải sẵn sàng đứng dậy, nghĩa là để Chúa quấy rầy ta về trí thức cũng như luân lý.
2.    Giuse chỗi dậy, nghĩa là vâng lời lập tức. Người vâng lời mau mắn vì Người yêu mến. Yêu mến Chúa Giêsu và Đức Mẹ. Vì lợi ích của các Đấng, người không thể trì hoãn. Ta khó vâng lời vì ta thiếu mất một cái gì: thiếu tình yêu.
3.    Giuse đặt tin tưởng nơi Thiên Chúa. Lòng tín thác là sự triển nở của đức tin chân chính. Chúa quấy rầy Giuse, đẩy người vào trong xa lạ. Người không bàn cãi, không hoảng hốt, người hành động.

Người có thể nêu ra bao nhiêu thứ câu hỏi về tương lai. Nhưng người hành động ngày này qua ngày khác, luôn luôn vâng lời Thiên Chúa. Ý nghĩ về ngày mai, người đặt vào trong đức tin nơi Thiên Chúa. Một lòng tín thác như thế vẫn phải trả giá rất đắt đối với mọi người cha gia đình ngày hôm nay, họ phải có đức tin mạnh để vượt qua những khó khăn lớn lao.

Ngày 08/12/1870, Đức Thánh Cha Piô IX đã chọn thánh Giuse làm bổn mạng Đại Gia Đình Giáo Hội. Ta hãy cầu nguyện như Đức Gioan XXIII: “Lạy thánh Giuse, xin lấy tinh thần bình an, lặng lẽ và hoạt động của Ngài phụng sự Hội Thánh, mà tăng cường sinh lực cho chúng con luôn mãi”.

3. Trốn sang Ai Cập

Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng trên đây kể lại một biến cố không vui. Con Thiên Chúa bị Hêrôđê đe dọa tính mạng. Được mộng báo, đang đêm Giuse phải đem gia đình đi trốn.

Đất Ai cập vẫn được coi là chỗ trú ẩn an toàn? Nhưng ngay cả khi vua Hêrôđê lìa đời, mối đe dọa vẫn còn tồn tại. Archelao kế nghiệp vua cha, là người tàn ác không kém, khiến Thánh gia chẳng dám về ở vùng Giuđê, mà phải trở về quê nhà ở Nadarét.

Như thế cuộc sống của Thánh gia chẳng phải là êm ả. Đâu phải có Chúa là tránh được căng thẳng, long đong. Chỉ có một điều Thánh gia đã không để mất, đó là niềm tín thác vững vàng vào Thiên Chúa, ngay giữa những hiểm nguy từ phía bạo quyền, đó là tình yêu thương gắn bó với nhau, giữa những lúc khó khăn chồng chất. Rồi mọi sự sẽ qua, rồi bình an sẽ trở lại.

Nhìn lại cuộc sống Thánh gia, ta thấy có nhiều sóng gió. Có lúc tưởng như tan vỡ, khi thánh Giuse định rút lui? Có lúc bối rối khi ở Bêlem không tìm ra chỗ trọ. Có những ngày đôn đáo tìm con trong nước mắt. Có lúc họ hàng tưởng Đức Giêsu mất trí, nên đi bắt về. Và nhất là có lúc Mẹ phải đứng bên xác con?

Thánh gia chẳng được hưởng một chút ưu đãi nào.
Một gia đình vô cùng thánh thiện và gương mẫu cũng phải chịu bao khổ đau và nghịch cảnh, nhờ đó mọi gia đình Kitô hữu khác có thể yên tâm đứng vững giữa những lúc mây mù.
Các gia đình hôm nay cũng bị đe dọa. Có những gia đình quá nghèo túng và nợ nần. Có những trẻ thơ bị thất học, bị bỏ rơi, bị lạm dụng.

Mối đe dọa lớn nhất là thiếu vắng tình yêu.
Có những xung đột giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái. Kết quả là nạn phá thai, ngoại tình, ly dị. Gia đình chẳng còn là dòng suối ngọt ngào, nơi mọi người lớn lên nhờ yêu và được yêu. Nhờ kiên nhẫn lắng nghe, nhờ dịu dàng đối thoại, nhờ bầu khí cảm thông khiến người ta dám chấp nhận nhau.

Trong một cuộc phỏng vấn, mẹ Têrêsa phát biểu: "Tôi nghĩ rằng không phải ai cũng ý thức về tầm quan trọng của gia đình. Nếu chúng ta đưa tình yêu trở lại gia đình, thế giới này sẽ đổi khác."

Thế giới băng hoại vì gia đình thiếu tình yêu. Giới trẻ nghiện ngập và hư hỏng vì bơ vơ, buồn chán. Ước gì mỗi gia đình Kitô hữu đều là một mái ấm, đầy ắp tình yêu, đầy ắp Thiên Chúa.

Gợi Ý Chia Sẻ
·        Theo ý bạn, ngày nay điều gì đang đe dọa hạnh phúc gia đình, điều gì đang gây khó khăn cho việc giáo dục con cái?
·        Gia đình Kitô hữu là một Giáo hội nhỏ. Theo ý bạn đâu là những nét nổi bật của một gia đình Kitô hữu gương mẫu? Chúng ta có thể học được gì nơi Thánh gia?

Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm sống dưới mái nhà ở Nadarét, Chúa đã thành một người chín chắn và trưởng thành, sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.

Bầu khí yêu thương đã góp phần không nhỏ trong việc hình thành nhân cách của Chúa.

Chúa đã học nơi thánh Giuse sự lao động miệt mài, sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa, sự âm thầm chu toàn trách nhiệm đối với gia đình.

Chúa đã học nơi mẹ Maria sự tế nhị và phục vụ, sự buông mình sống trong lòng tin phó thác và nhất là một đời sống cầu nguyện thâm trầm.

Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt, biết yêu thương tha thứ, biết cầu nguyện và phục vụ.

Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn, Giáo hội chúng con thánh thiện hơn, nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn ngoan và tràn đầy ơn Chúa.

4. Lễ Thánh Gia

Nhân vật nữ được tuần báo Time chọn làm người của năm 1996 là công chúa Diana của Anh Quốc. Trong phỏng vấn dành cho đài BBC, công chúa đã không ngần ngại bộc bạch hết câu chuyện đổ vỡ của gia đình bà. Sự đổ vỡ của gia đình vương giả này khiến nhiều người phải tiếc xót. Bởi vì, nếu xét theo những tiêu chuẩn thông thường, thì quả thực cặp vợ chồng này có mọi sự để được hạnh phúc, như danh vọng, tiền tài, địa vị. Thế nhưng tại sao họ không tìm được hạnh phúc trong gia đình? Đâu là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ này? Có lẽ họ còn thiếu một cái gì đó mà sự giàu sang phú quý không thể mua được cũng như khiến họ không thể vượt qua được khó khăn thử thách.

Hôm nay Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh Gia thất để múc lấy bí quyết hạnh phúc gia đình. Cũng như bao gia đình khác. Thánh gia cũng đã trải qua nhiều sóng gió, thử thách. Chúng ta hãy nhìn lại cảnh bối rối mà có lẽ ít có đôi vợ chồng trẻ nào phải trải qua: vợ sắp sinh đi tìm một quán trọ để qua đêm nhưng không có, cuối cùng phải vào một chuồng súc vật và sinh con ở đó, và rồi sau đó đã phải vội vã đi lánh nạn trong một cuộc hành trình cam go và sống giữa những người xa lạ. Bí quyết đã giúp Đức Maria và thánh Giuse vượt qua khó khăn thử thách, đó là có Chúa Giêsu bên cạnh. Sự hiện diện của Chúa Giêsu chính là nền tảng của gia đình Nagiarét.

Cũng như Thánh gia thất, ngày nay các gia đình Việt Nam cũng đang trải qua bao khó khăn thử thách. Trước tiên là cái nghèo và rồi từ nghèo khổ sinh ra dốt nát, dốt nát kéo theo bao hệ lụy khác. Tuy nhiên, nhìn vào gương Thánh gia thất, chúng ta thấy rằng nghèo khổ không đương nhiên gây nên bất hạnh và đổ vỡ cho gia đình. Tỷ lệ những đổ vỡ của các gia đình tại các nước công nghiệp tiên tiến là bằng chứng cho thấy giầu có chưa hẳn đã là một bảo đảm cho hạnh phúc gia đình.

Không những trải qua cảnh nghèo. Thánh gia thất còn phải đương đầu với bạo chúa Hêrôđê nữa. Ngày nay, các gia đình cũng phải đương đầu với nhiều thứ bạo chúa, như các phương tiện truyền thông quảng bá lối sống đồi phong bại tục nhằm lung lạc và đầu độc giới trẻ, hoặc những luật pháp áp đặt những luật lệ nhằm phá đổ chính nền tảng thánh thiêng của gia đình, chẳng hạn luật cho phép phá thai, ly dị…

Thánh gia thất đã vượt qua được sóng gió nhờ niềm tin vững chắc vào sự hiện diện của Chúa trong gia đình. Đó cũng là bí quyết mà Giáo Hội đề ra cho chúng ta khi mời gọi chúng ta chiêm ngắm Thánh gia thất. Lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là mặc lấy tâm tình từ bi, nhân hậu, tha thứ cho nhau; lấy sự hiện diện của Chúa Giêsu làm nền tảng vững chắc cho gia đình chính là lấy sự cầu nguyện trong gia đình làm mối giây liên kết mọi người: một gia đình cầu nguyện chung với nhau là một gia đình đứng vững, và đó là điều chúng ta phải cầu xin cho nhau.

5. Chú giải của Noel Quesson

Sau khi các nhà chiêm tinh đến thăm Bê-lem.
Nếu bạn có một sách Tin Mừng tại nhà bạn và nếu các bạn có chút hiếu kỳ thiêng liêng, hãy đọc lại những câu truyện này.
1.    Trong gia phả, Đức Giêsu được gọi là Con Đa-vít, Con Abraham.
2.    Trong tin báo cho Giuse, chính hài nhi này bắt đầu thực hiện những lời hứa trong Kinh Thánh, và được mạc khải như Thiên Chúa cứu độ, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi
3.    Rồi theo Mátthêu, tiếp ngay đến cuộc thăm viếng của các nhà chiêm tinh; không có những mục đồng Do Thái Giêrusalem, dẫu thế, được báo cho biết trước về chuyện đang xảy ra trong vùng ngoại ô kế cận (Bê-lem cách độ 8km!) vẫn không động tĩnh... trong khi những người nước ngoài từ Phương Đông đến từ xa, phục lạy trước hài nhi, được gọi khi ấy là “vị đứng ra sẽ chăn dắt Do Thái dân của tôi".

Khi các nhà chiêm tinh đã ra về, thì sứ thần Chúa hiện ra báo mộng cho ông Giuse
Trong trang mà chúng ta sắp đọc, tên Giuse được kêu lên bốn lần. Đó là người duy nhất được gọi tên như thế. Giuse là vai trung tâm của câu truyện. Chủ gia đình, ông chịu trách nhiệm nhóm nhỏ, luôn luôn được giới thiệu vô danh cho hai nhân vật khác là Hài nhi vâ Mẹ của Hài nhi. Chúng ta cũng sẽ lưu ý rằng trên trang này, Giuse có tầm quan trọng lớn lao, ông không nói một lời. Chính ông lâ người ở phần trước sân khấu, là người nhận trực tiếp các sứ điệp trên trời, lại không nói... mà ông hành động.

Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập
Ôi, cái tiếng ‘dậy đi!’
Tất cả những người nghiên cứu tiếng Do Thái sẽ nhận ra kiểu nói rất hay gặp trong Kinh Thánh. "Khum! "Dậy đi”. Cái thể mệnh lệnh, cái động từ chỉ tất cả những lời kêu gọi. Ap-ra-ham (St 13.1), Elia (IV 19,5). Nàng yêu dấu của Diễm Ca (2.10), Giôna (Gn 1,2), Giêrusalem (Is 60,11), Đanien (10,11). Tiếng "Dậy đi!” đầy dẫy trong Tán ước: Mát-thêu 2,13; 2,20; 9,5; 17,7; 26,46; Mc 10,49; Lc 17,19; 22,46; Ga 5,8; Cv 3,6; 8,26; 9,34; 9,40; 12,7; 14,10...
Nếu tôi biết lắng nghe, tôi sẽ nghe thấy, cả tôi nữa.

Thiên Chúa lặp lại "Dậy đi!".
Thiên Chúa muốn con người đứng dậy. Thiên Chúa đẩy những con người năng động.
Trong cuộc sống gia đinh mà chúng ta mừng lễ hôm nay, có biết bao nhiêu cơ hội có thể đưa chúng ta đến chỗ khước từ, đầu hàng, chạy trốn, từ nhiệm... Và đây là tiếng gọi của Chúa, trong đáy đêm tối của chúng ta, trong tình huống bức bách đè nặng trên vai chúng ta, nói lại với chúng ta: "Đứng lên! Dậy đi!".

Có một thứ hình ảnh Thánh Gia hiền dịu, êm ả vả bị sai lạc. Máng cỏ bằng giấy đá, quá “hợp môi sinh", những mục đồng xinh xắn và những con cừu nhí, những tràng hoa ánh sáng... có cái nguy làm cho chúng ta coi "chuồng bò lừa nới Thiên Chúa sinh ra (đó là một cái sườn mái!) là một nơi nóng nực và rất tiện nghi. Và với cái vẻ dịu hiền hay với thái độ chiếu cố, người ta tìm được cái chuyện thần tiên hợp với khẩu vị các trẻ em. Nhưng đấy không phải là Giáng sinh thật. Có thể tai hại nhiều nếu máng cỏ cổ truyền chỉ là một sự trung tín với quá khứ, trong khi nó là một sự kỳ vọng cho hiện tại và tướng lai. Gia đình mâ bạn nhin ngắm với sự hiền dịu trong cái hang hốc nhà quê, có lẽ bạn quên rằng nó đã bị liệng đi trên các nẻo đường lưu đầy chăng? Khi đó bạn đã dựng lên một "thánh gia" không có thực. Và bạn nói liều: "Thật quá đẹp... nhưng ở nhà chúng tôi không giống như thế, nơi mái ấm của chúng tôi, gia đinh của chúng tôi buộc phải sống giữa những âu lo: sức khỏe, tranh chấp, ngân sách, những khó khán định hướng, những cuộc đối thoại không thể có được...".

Những mái ấm trẻ... hay những mái ấm nào khác...
Tồi dám chắc với các bạn, các bạn có thể nhìn xem gia đình của Giuse, có Hài nhi và Mẹ người. Và hãy tỉnh ngộ! Giống như mọi gia đinh, gia đinh ấy cũng biết đến những giằng xé, những khắc khoải, nó cũng bị cuốn trong những cơn lốc của lịch sử. Và chúng ta nhớ lại câu nói nổi tiếng của Charles Péguy "Những người cha và người mẹ này "' những kẻ phiêu lưu vĩ đại của thế giới hiện đại này!”

Cứ ở đó cho đến khi tôi báo lại, vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi đấy!
Hình ảnh thực, như thế đấy. Một đôi lứa trẻ trung,đó là một cáp vợ chồng không bếp không nhà. Số phận thê thảm của những người tị nạn, những người bị xua đuổi trốn chạy về nới vô định, bị đuổi khỏi nhà họ vì chiến tranh, đói ăn, thất nghiệp, hay ý thức hệ đàn áp. Những trẻ em Việt Nam, Libăng Cambốt, Áp-ga-nít-tăng,... và nhiều nới khác. Những hình ảnh không cầm lòng được đang lảm xáo động sự yên ổn của chúng ta. A, không, máng cỏ năm nay không đẹp... Thế thi bạn hãy nghĩ, họ đã có ý tưởng, trong giáo xứ, chúng tôi làm máng cỏ bằng tre mục... hay bằng vải lưu cho những trại tị nạn... hay bằng gạch nén gợi ra những nơi trú ngụ đáng thương của những kẻ xấu số trong những vụ động đất... và họ đã để Hài nhi trên rơm, thứ rơm rác thật!
“Hê-rô-đê sắp tìm giết Hài nhi đấy..."
Họ muốn giết trẻ con... Than ôi, vâng, hiện nay...

Ông Giuse liền trỗi dậy, và đang đêm, đưa Hài Nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập
Để nhấn manh đến sự vâng phục của Giuse, sự thi hành ý muốn của Thiên Chúa được diễn tả chính xác trong những lời lẽ của sứ điệp nhận được từ trên cao.

Đi ngay ban đêm!
Đi trong đức tin: làm thế nào? Cần phải cứu Hài nhi cứu độ? Người đã được loan báo như Thiên Chúa Cứu Độ, Thiên Chúa ở cùng chúng ta? Và cần phải che chở Người ngay bây giờ? Nghịch lý của Thiên Chúa tự đặt mình vào trong tay chúng tôi? Thiên Chúa không tự bênh vực. Cần phải “cứu"! đức tin... ban đêm... Thiên Chúa được đặt lại trong tay những người tin.

Ông ở đó cho đến khi vua Hê-rô-đê băng hà, để ứng nghiệm lời Chúa phán xưa qua miệng ngôn sứ: Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập
Trong mùi tử khí tự trị, một sự cứu thoát bộc phát, Chúa nói: Con ta!
Trên cái nền bi thảm của các biến cố xảy đến trong gia đình này, có sự gì khác tác động: một ánh sáng chiếu soi tình hình... một dự tính của Thiên Chúa,... được bộc lộ trong những lời sấm của ngôn sứ.. một khuôn mật ẩn giấu, đầy hy vọng. Nghịch lý mới của Thiên Chúa: chính lúc mà người ta cảm thấy phải đi, thì đúng là lúc Tin Mừng trích dẫn một tiết Kinh Thánh ở đó vấn đề đặt ra là trở lại...

Người ta chỉ nói về sự lưu đày để nói về việc xuất hành. Người ta chỉ gợi ra cái chết để nói về sự sống... Còn bạn, trong cuộc sống của bạn, bạn được mời gọi nhìn thấy mặt bị che khuất của điều xảy đến với bạn.

Toàn thể gia đinh và chạm với những cái bất an. Việc chúng ta tìm kiếm những sự an toàn là điều bình thường. Giuse thậm chí còn nhận lệnh của Chúa thì sự tìm kiếm những của cải tạm thời, chẳng phải càng được chúng ta đặt bên dưới việc làm tròn lời Kinh Thánh sao? sống Tin Mừng, hoàn thành các ý muốn của Thiên Chúa, kiên trì trong cái mà Thiên Chúa đòi hỏi tôi. Mỗi Kitô hữu, mỗi gia đình... hoàn tất một phần của lịch sử thánh, một dự tính huyền nhiệm của Thiên Chúa. Và đó không phải là trong lúc đi ra khỏi các tình huống của chúng ta, thậm chí khó khăn, thậm chí mong manh, nhưng bằng cách khám phá ở đó các mặt bị che khuất mà đức tin bày tỏ ra cho chúng ta.

Sau khi vua Hê-rô-đê băng hà, sứ thần Chúa lại hiện ra với ông Giuse bên Ai-cập, báo mộng cho ông rằng: "Này ông, dậy đem Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel, vì những kẻ tìm giết Hài Nhi đã chết rồi." Ông liền trỗi dậy đưa Hài Nhi và mẹ Người về đất Israel
Những kẻ muốn tìm giết Hài nhi? Con số nhiều lạ lùng. Cho đến đây, người ta chỉ nói đến Hê-rô-đê... Nhưng Mátthêu nghĩ đến một trường hợp có trước trong Kinh Thánh và miệt mài đưa tất cả câu truyện của ông vào việc gợi ra số phận của Môsê, mà Pharaon tìm cách giết chết (St 2,15). phải trốn sang Ai Cập và trở về, bởi vì tất cả những người muốn tìm giết đều đã chết (Xh 4,19-20). Khoa chú giải Do Thái, trong các giáo đường, luôn luôn sử dụng phương cách, mà người ta gọi là "midrach", nhằm làm sáng tỏ một đoạn Kinh Thánh bằng những biến cố của thời sự...để chứng minh rằng ý đồ của Thiên Chúa cứ tiếp tục. Đức Giêsu, trong bản thân của Người, tái hiện lịch sử dân tộc Israel: bạo vương muốn khử trừ cậu Môsê được Thiên Chúa sai đến để cứu dân Người... bạo vương tung ra cuộc tàn sát các trẻ nhỏ (St 1,10)... nhưng lại không thể làm gì được chống lại người mà Thiên Chúa che chở và trở nên Đấng Cứu độ dân Người... dẫn dắt dân này về Đất Hứa.

Ngày nay lịch sử này vẫn luôn luôn tiếp tục. Không gì mà Thiên Chúa không thể làm được. Người tiếp tục viết thật thẳng trên những đường cong của chúng ta. Ý đồ của Người vẫn tiến lên, bất chấp mọi sự.

Nhưng vì biết A-khê-lau đã kế vị người cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giuđê, nên ông sợ không dám về đó. Mãi sau khi được báo mộng, ông lui về miền Galilê, và đến ở một thành kia gọi là Nadarét để ứng nghiệm lời, các ngôn sứ rằng: Người sẽ được gọi bằng Na-da-rét.

Bản văn này nói cho chúng ta biết rõ ràng là trước hết Giuse đã có ý định trở về Giuđê. Nhưng tất cả những kẻ muốn tìm giết Đức Giêsu, chưa biến mất hết. Mặt khác, một ngày kia, Đức Giêsu sẽ trở lại trong chính miền Giuđê này, và về đó để bị giết chết. Cuộc thụ nạn diễn ra ở cuối cuộc hành trình này. Cái chết luôn luôn ở đó. Tin Mừng ngày hôm nay đầy chết chốc. Chính vì cần thiết mà Đức Giêsu đến sống tại Galilê miền xa xôi, một nửa ngoại giáo, khá xa đất Thánh Giêrusalem. Đối với Mát-thêu, miền Galilê ngoại giáo này (Mt 4,12-16) là biểu tượng của thế giới phổ quát, nơi mà sứ vụ của Đức Giêsu được thực hiện, nơi mà Đấng đã sống lại hiện ra nhiều lần, và từ đó mà sứ vụ khởi phát. Và bạn nữa, phải chăng bạn không sống trong những miền Galilê loại mới ư?

 

6. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

TỪ BÊLEM ĐẾN NAGIARÉT
I. Giải thích từ ngữ.
*c.13 Ai Cập:
Ai Cập là nơi lánh nạn xưa nay của những người do thái bị bắt bớ (x. 1V 11,40; 2V 25,26). Từ thế kỷ 6 trước công nguyên ở Ai Cập đã có một diaspora Do Thái đông đảo. Có lẽ Giuse đã đến tạm trú tại Aris. Như thế là an toàn bởi vì từ năm 31 trước công nguyên xứ Ai Cập nằm dưới quyền cai trị trực tiếp của đế quốc Rôma. Từ Bêlem sang Ai Cập chỉ tốn chừng 5-6 ngày đi bộ.

* Vì vua Hêrôđê sắp tìm giết Hài Nhi:
Động từ "tìm giết" cũng là động từ được dùng trong Xh 2,15 khi nói về Môisen (Pharaon tìm giết Môisen).
-      Động từ "chạy trốn" (anachôrein) cũng được dùng trong Xh 2,15 (Môisen chạy trốn).
-      Chữ "Vì" có nhiều ý nghĩa: Đức Giêsu phải bỏ nơi này sang nơi khác chính vì người ta từ chối không tin Ngài. Mt hay dùng động từ anachôrein mỗi khi muốn nói ý tưởng Israel từ chối không tin Đức Giêsu (x. 4,12; 12,15; 14,13; 15,21).
* c.14 "Ngay giữa đêm khuya":
chi tiết này cho thấy sự vâng lời mau mắn của Giuse. Còn một chi tiết đầy ý nghĩa nữa là Thiên sứ không chỉ rõ là phải đi đến đâu và ở đấy cho tới      ngày nào mà chỉ nói "cho tới ngày tôi lại báo tin": dù mù mờ vậy nhưng Giuse cũng vẫn vưng lời mau mắn.

* c.15 "Ta đã gọi con Ta từ Ai cập về":
Mt trích dẫn Ôsê 11,1: "Từ Ai Cập Ta đã gọi con Ta". Ôsê viết câu này với ngụ ý nói về    cuộc Xuất Hành. Mt trích dẫn lại với ngụ ý xem Đức Giêsu là Israel mới làm một một cuộc xuất hành mới.

* c.20 "Những người tìm giết Hài Nhi đã chết rồi":
Những người là số nhiều, không tương ứng với vua Hêrôđê tìm giết Hài Nhi (số ít). Ở đây Mt trích dẫn cách mặc nhiên Xh 4,19 Lời Giavê nói với Môisen "Hãy trở về Ai cập vì những kẻ tìm hại mạng ngươi đã chết rồi". Sự không tương ứng này cho thấy Mt không muốn nói tới Hêrôđê mà muốn ám chỉ đến Môisen: xưa kia những người tìm giết Môisen là Pharaon và dân Ai cập còn nay những người tìm giết Đức Giêsu là Hêrôđê và dân Israel.

* c.22 Archélaus: ông này cai trị miền Giuđê từ năm 4 trước công nguyên đến năm 6 sau công nguyên. Ông này tuy không xảo quyệt bằng Hêrôđê Cả là cha ông, nhưng cũng tàn bạo không kém. Do đó Giuse không về Giuđê mà đi định cư ở vùng Galilê thuộc phạm vi của Hêrôđê Antipas.

* c.23 "Thiên hạ sẽ gọi Ngài là người Nazaret": Tất cả các nhà chuyên môn đều xem chi tiết này Mt ghi lại nhằm cho thấy Đức Giêsu làm ứng nghiệm lời các ngôn sứ. Nhưng lời ngôn sứ nào đây? Chữ Nazaret có gốc là nésèr nghĩa là "chồi non của một cây". Cựu Ước có nhiều chỗ nói tới "chồi non" như Is 4,2 Gier 23,5 33,15 và nhất là Is 11,1 "Một chồi sẽ xuất từ gốc Ysai".

II. Ý nghĩa thần học.
1) Những câu 2,13-23 gồm ba chuyện đều mang hình thức văn chương giống nhau: khởi sự là tường thuật rất ngắn gọn sự kiện đã xảy ra và kết thúc bằng một trích dẫn Cựu Ước. Điều này cho thấy chủ ý của Mt không phải là tường thuật cho bằng chứng minh rằng Đức Giêsu làm trọn lời tiên báo của các ngôn sứ. Qua ba câu chuyện này Mt cũng đưa ra luận đề chính sẽ được lặp lại nhiêu lần trong toàn tác phẩm, đó là: Kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện, không chỉ là bất chấp lòng dạ ác độc của loài người, mà còn bằng chính sự ác độc đó.

2) Với lối trích dẫn Cựu Ước khi thì minh nhiên khi thì mặc nhiên, Mt còn ngụ ý trình bày một cuôc xuất hành mới: cũng có một ông vua giết những hài nhi Do Thái, cũng có Môisen mới (Đức Giêsu) thoát khỏi tàn sát đó, và Môisen mới ấy cũng đã xuất hành khỏi xứ Ai Cập.

3) Câu chuyện thứ nhất (Trốn sang Ai cập 13,15): trọng điểm không phải là thuật lại cuôc chạy trốn mà là cuôc trở về từ Ai Cập. Điều này hiện rõ khi Mt trích Ôsê 11,1 "Từ Ai cập Ta gọi con Ta trở về". Có như thế mới lộ rõ ý tưởng về cuộc Xuất Hành mới.

4) Câu chuyện thứ hai (Tàn sát hài nhi 16-18): trọng điểm là so sánh Hêrôđê với Pharaon ngày xưa đã giết trẻ em Do Thái. Nhưng có vài khó khăn về sử tính:
a. Cần gì phải giết hết các hài nhi vì vua Hêrôđê thừa phương tiện để tìm ra đúng căn nhà mà các đạo sĩ đã đến thăm? Nhưng lịch sử cũng ghi nhận rằng Hêrôđê (Cả) hay có những cơn điên bất ngờ phi lý như vậy, nhất là vào những năm cuối đời của ông, mà câu chuyện này xảy ra đúng vào những năm ấy.

b. Một sự kiện quan trọng như vậy mà sao các sử gia (chẳng hạn Flavius Joseph) không ghi lại? Thực ra sự kiện này cũng chẳng quan trọng gì, vì một đàng số trẻ em bị giết cũng không nhiều: theo ước tính của Busy dựa vào dân số của Bêlem thời đó thì số trẻ em từ 2 tuổi trở xuống của làng này chỉ vào khoảng 20, và đàng khác Hêrôđê trong những cơn điên cũng đã từng giết chóc như vậy nhiều lần. Sử gia chỉ ghi tính khí hung hãn bất thường của ông chứ không cần ghi lại hết những nạn nhân của ông.
Chi tiết tiếng khóc Rachel là Mt trích dẫn Gier 31,15 trong bối cảnh vương quốc phía Bắc bị đế quốc Assyria tàn phá và dân bị bắt đi đày: Bà Rachel, mẹ của Giuse (hai chi tộc Ephraim và Manassê) và Benjamin khi ấy đang ở trong mồ (đã chết) mà cũng chỗi dậy để khóc thương cho cảnh khổ của con cái mình. Nhưng muốn hiểu hết ý của Mt thì phải đọc Gier cho tới các câu sau nữa (Gier 31,16-17): Giavê an ủi Rachel "Thôi im đi tiếng khóc và mắt hãy ráo lệ vì... chúng sẽ từ xứ quân thù trở về", và tiếp đó nữa (Gier 31,31 tt) Giavê lại hứa sẽ ký với dân Ngài một giao ước mới. Như vậy ngụ ý của Mt qua câu trích dẫn này là Đức Giêsu từ Ai Cập về hoàn thành lời tiên tri này, Ngài sẽ thực hiện Giao Ước mới.

5) Câu chuyện thứ ba (Trở về Nazarét 19,23): trọng điểm là trình bày Đức Giêsu như một Môisen mới thực hiện một cuộc xuất hành mới. Vì nhắm ý tưởng so sánh này nên Mt mới trích dẫn cách mặc nhiên Xh 4,19 với thuật ngữ "những người tìm giết" ở số nhiều.

III. Kết luận
- Hãy nhìn lại bố cục chung của tác phẩm (trang 17): các chương 1-2 là phần tiền ngôn nhằm giới thiệu mầu nhiệm về nhân vật Giêsu.
- Phần tiền ngôn này gồm 4 tường thuật:
          . Gia phả.
          . Truyền tin cho Giuse.
          . Chuyện các đạo sĩ.
          . Từ Bêlem đến Nazarét (tường thuật chúng ta vừa phân tích trong bài này).

Qua bốn tường thuật Mt đã chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng mà các ngôn sứ tiên báo, Ngài châm rễ vào lịch sử Israel và đưa lịch sử ấy hoàn tất mặc dù gặp bao chống đối của dân mình, nhưng chính Thiên Chúa đã dùng những chống đối ấy để hoàn tất chương trình cứu rỗi của mình.
- Cách riêng tường thuật cuối (Từ Bêlem đến Nazaret) một lần nữa, làm lộ rõ so sánh Đức Giêsu với Môisen mới (các chi tiết về Xuất Hành) và Con Đavít (chi tiết thành Bêlem).

7. Chú giải của Fiches Dominicales

CON ĐƯỜNG CỦA KITÔ HỮU THEO CHÂN ĐỨC GIÊSU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một truyện kể tỉ mỉ về thời thơ ấu.
Việc báo tin cho Giuse mà ta đọc Chúa nhật trước vẫn còn rõ như in trong trí nhớ, nên ta dễ liên hệ đến bài Phúc âm Chúa nhật này: cũng thiên thần hiện ra trong giấc ngủ truyền cho Giuse một mệnh lệnh liên hệ đến Maria và trẻ thơ sắp sinh ra; cũng trích dẫn những lời tiên tri được thực hiện; cũng thái độ im lặng đón nhận và mau mắn thi hành của Giuse. Hơn nữa, bài Phúc âm hôm nay sử dụng 2 lần cùng một lược đồ: ta có thể xếp thành 2 cột song song như sau:
1. Bối cảnh:
Sau khi các đạo sĩ đi rồi.
2. Thiên thần hiện ra với Giuse và truyền lệnh Giuse.
3. Giuse mau mắn thi hành.
4. Trích dẫn Kinh Thánh
1. Bối cảnh:
Sau khi Hêrôđê băng hà.
2.Thiên thần hiện ra với Giuse và truyền lệnh Giuse.
3. Giuse mau mắn thi hành
4. Trích dẫn Kinh Thánh

"Thế là ứng nghiệm…”
Dưới hình thức ngây thơ, Phúc âm Thời thơ ấu theo thánh Matthêu thực ra đã được chuẩn bị rất trí thức và giàu ý nghĩa.
Đừng quên rằng Matthêu nói với các Kitô hữu gốc Do Thái, tâm hồn thấm đẫm Kinh Thánh và được nuôi dưỡng bằng những bài chủ giải Kinh Thánh trong các hội đường. Không lạ gì khi thấy thánh sử, vì muốn minh chứng rằng Đức Giêsu qui tụ tất cả niềm hy vọng của Israel và đã làm ưng nghiệm các lời Kinh Thánh, thường xuyên trích dẫn các bản văn Kinh Thánh và các lời chú giải. Về vấn đề này, ta có thể đọc những trang sách rất khúc chiết của Charles Perrot trong "Cahiers - Evangile số 18" trang 11 và kế tiếp. Không như Luca, Matthêu không tìm kích thích trí tưởng tượng hoặc thoả mãn óc tò mò của ta bằng một vài chi tiết lịch sử kỳ thú. Ông chỉ muốn cho ta hiệp thông với các Kitô hữu tiên khởi trong cuộc truy tìm, say sưa niềm tin vào “Đức Giêsu, Con Thiên Chúa”. Ánh sáng Phục Sinh soi rọi tới tận ngọn nguồn làm ta khám phá và cùng với cộng đoàn sơ khai tuyên xưng Con Thiên Chúa và Đấng Cứu độ gian trần trong con trẻ sinh bởi lòng đức Maria. Những biến cố thời thơ ấu đã cho thấy trước những điều mà cái chết và sự Phục Sinh khai mở về Đức Giêsu: vị tiên tri người "Galilê" (“người Nadarét", “Giêsu” (Thiên Chúa cứu) là “Emmanuel” (Thiên Chúa ở cùng ta). Người là "Con", con David sinh tại Bêlem và Con Thiên Chúa; Người là Môsê mới khai mạc cuộc Xuất hành mới.

2. Môsê mới xuất hành mới.
Nếu chú ý, ta sẽ thấy bản văn này song song một sách kỳ lạ với truyện về Môsê.
* Ngày xưa Pharaô đôi lúc đã truyền tiêu diệt trẻ nam sơ sinh của dân Do Thái. Chúa Giêsu vừa sinh ra thì Hêrôđê độc dữ cũng truyền "tàn sát mọi trẻ nam từ 2 tuổi trở xuống tại Bêlem và các vùng phụ cận”.
* Ngày xưa, Môsê đã được cứu thoát cách kỳ diệu và đã chạy trốn ra nước ngoài trước khi đương đầu công khai và sau khi được tấn phong làm tiên tri tại "bụi gai cháy đỏ" (Ex 3,l-12).
Đức Giêsu cũng đã trốn thoát khỏi tay bạo chúa, đã chạy trốn sang Ai Cập, trở lại quê nhà rao giảng Tin Mừng sau khi được tấn phong làm Messia lúc chịu phép rửa tại sông Giođan.
* Ngày xưa, Môsê quay trở lại Ai Cập khi cơn nguy hiểm đã qua "vì những kẻ muốn hại ông đều đã qua đời (Ex 4,19-20). Cái chết của Pharaô tạo cơ hội cho việc giải phóng dân Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng trở lại quê hương khi nguy hiểm đã hết, "vì Hêrôđê đã băng hà. Cái chết của Hêrôđê tạo cơ hội cho Chúa Giêsu trở về và công cuộc giải phóng dân mới bắt đầu.
* Ngày xưa, Môsê vâng lời Thiên Chúa: "Vậy, Môsê đem vợ con cỡi lừa (việc Chúa Giêsu cỡi lừa trốn sang Ai Cập phát xuất từ truyện Môsê) và trở lại Ai Cập (Ex 4,19-20).

Trong Phúc âm thời thơ ấu của Chúa Giêsu, Giuse lúc nào cũng nêu gương vâng lời. Sự im lặng mà Matthêu ghi nhận làm nổi bật đức tin trong hành động của Ngài "Giuse chỗi dậy, đem con trẻ và mẹ Ngài trốn sang Ai cập” “Giuse chỗi dậy, đem con trẻ và Mẹ Ngài trở lại Israel”.

Câu kết của phần I đoạn Phúc âm rất đậm đà ý nghĩa "Từ Ai Cập, Ta đã gọi con Ta về”. Câu này mượn trong Osê(11,1) để ca tụng tình thương Thiên Chúa Người đã đưa Israel "đứa con đầu lòng" (Ex 14,23) ra khỏi Ai Cập. Khi làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Đức Giêsu tái tạo lịch sử dân người. Là Môsê mới, ngài đến khai mở một cuộc Xuất hành mới và vĩnh viễn cho một dân tộc mới.

"Ai Cập tượng trưng cho sự áp bức, Cl. Tassin chú giải. Đó là khởi điển của cuộc xuất hành, từ con đường giải phóng tiến về miền Đất Hứa. Qua đoạn tường thuật vốn tắt này, Đtíc Giêsu trở nên liên đới với dân người khi đảm nhận lịch sử đầy thử thách của dân, như lời dẫn tiên tri Osê đã chú thích... Tuy nhiên, phải làm quen với kiểu người Do Thái trích dẫn Kinh Thánh ở đây. Nếu có ai nói: "Lũ chuột nhảy múa", ta sẽ tự nhiên nghĩ đến vế đối thứ 1: "Khi mèo ra đi". Cũng vậy, các độc giả người Do Thái của Mattheu sẽ dùng trí thớ bổ túc đoạn văn của Osê: “Khi Israel còn thơ, Ta đã yêu quí nó và từ Ai Cập, Ta đã gọi con Ta về. Như thế ý nghĩa mới trọn vẹn: trẻ thơ Giêsu chính là trẻ thơ Israel: Ngài thâu tóm nơi bản thân ơn gọi và vận mệnh của dân nước tuyển chọn, trước khi đoạn Phúc Âm kế tiếp mạc khải Ngài là Con, hơn hẳn dân bị áp bức mà Thiên Chúa nói với Pharaô "Con đầu lòng của tôi, đó là Israel..". Hãy để con ta ra đi!" (Ex 4,22-23) (Mt, Centusion, 1991, trang, 33-34).

3. Một dân tộc sẽ có tầm cỡ hoàn vũ.
Tuy vậy, cuộc xuất hành này không hướng về Giuđêa, nơi không bị đa thần giáo xâm phạm, trái lại hướng tới "Galilê, nơi giao lưu các dân ngoại" (Mt 4,15), xứ sở dân cư pha tạp, đất vãng lai, bị khinh miệt: Dân mới mà Đức Giêsu vừa thiết lập, là một dân liên kết các dân ngoại ngoan ngoãn lắng nghe Phúc âm vào với dân Do Thái.

Chính tại Galilê mà Đức Giêsu sẽ bắt đầu sứ vụ công khai (4,15-18) và cũng chính tại đây, Đấng phục Sinh đã hẹn gặp các tông đồ để trao phó cho họ sứ mệnh có tầm cỡ hoàn vũ: "hãy đi, hãy làm cho mọi dân tộc thành môn đệ Ta..." (28,18). Đối với Matthêu và các độc giả của Ngài, việc trở về Galilê đã tiên báo việc mở cửa Giáo Hội cho dân ngoại. Dân mới không còn bị giới hạn vào biên cương Israel, nhưng sẽ có tầm vóc hoàn vũ. (Vậy, Đức Giêsu đã chuẩn bị cho sứ mệnh hoàn vũ của mình" (Cl. Tassin p.36).


8. Thánh Gia

Có một câu chuyện kể lại rằng: Giữa đường chạy trốn sang Ai Cập, để tránh khỏi sự tàn sát của Hêrôđê, Thánh Gia đã gặp phải một bọn cướp và bị chúng bao vây. Vừa khi chúng định nhào tới trấn lội đôi vợ chồng trẻ, thì một tên trong bọn tên là Dismas, bỗng nhận ra đôi tay Mẹ Maria có ẵm một Hài Nhi.

Quá xúc động trước nét mặt vô tội củaHài Nhi, hắn đã khuyên can đồng bọn để cho Thánh Gia ra đi được an toàn. Trước khi rút lui, hắn đã nghiêng mình trên Hài Nhi Giêsu và nói:
-      Xin hãy nhớ đến tôi và đừng bao giờ quên giây phút này.
Truyền thuyết kể tiếp: Về sau tên cướp ấy đã trở thành người trộm lành, bị đóng đinh cùng với Chúa Giêsu trên thập giá. Và chính Ngài đã nói với anh ta:
-      Ngày hôm nay, con sẽ được ở cùng Ta trên thiên đàng.
Dĩ nhiên đây chỉ là một truyền thuyết, nhưng từ đó, chúng ta có thể tìm thấy được một kết luận quan trọng. Đó là khi trốn sang Ai Cập, Thánh Gia đã gặp phải rất nhiều hiểm nguy.

Thời xưa, hầu như mọi người đều đi thành từng đoàn, bởi vì nhiều quãng đường thường bị những bọn cướp kiểm soát, uy hiếp và trấn lột. Điên rồ lắm mới đi một mình, trừ khi vì khẩn cấp như trường hợp của Thánh Gia hôm nay. Thánh Gia cũng là một gia đình bình thường như gia đình của chúng ta, nghĩa là cũng đã phải gánh chịu những khổ đau và cay đắng.

Đầu tiên đó là việc Mẹ mang thai bởi quyền phép Chúa Thánh Thần mà Giuse không hay biết, khiến ông đã tính từ bỏ Mẹ một cách kín đáo. Rồi cuộc hành trình từ Nagiarét xuống Bêlem để đăng ký nhân hộ khẩu giữa lúc Mẹ đang bụng mang dạ chửa. Không tìm được quán trọ, Mẹ đã phải sinh Chúa trong cảnh khó nghèo của máng cỏ Bêlem. Hài nhi Giêsu mở mắt chào đời chưa được bao lâu, hai ông bà đã phải vội vã đem con trốn sang Ai Cập. Làm sao kể cho hết những hiểm nguy trên đường chạy trốn, cũng như những khó khăn vất vưởng nơi đất khách quê người. Rồi những năm tháng âm thầm vất vả nơi xưởng thợ Nagiarét. Và nỗi khổ đau khi lạc mất Chúa vào dịp lên đền thờ dự lễ vượt qua.

Thế nhưng, có một điều chúng ta cần phải học hỏi nơi Thánh Gia đó là đứng trước mọi biến cố khổ đau và bất hạnh, thánh Giuse và Mẹ Maria đều coi đó như là thánh ý Chúa gửi đến trong đời, để rồi các ngài đã mau mắn chu toàn, mà không một lời ca thán, mà không một tính toán hơn thiệt. Vì thế, lúc nào mái ấm của các ngài cũng ngập tràn hạnh phúc và bình an.

Còn chúng ta thì sao? Phải nhận rằng gia đình nào cũng có những vấn đề. Gia đình nào cũng có những lo lắng những khổ đau của mình. Gia đình nào cũng đã từng gặp phải những tai ương hoạn nạn. Tuy nhiên điều quan trọng là thái độ của chúng ta khi đứng trước những khổ đau gặp phải. Rất có thể chúng ta đã phẫn uất, đã bực bội và tức tối, để rồi khổ đau chúng ta vẫn phải chịu mà chẳng đem lại lợi ích gì, mà hơn thế nữa, còn trở nên là một thứ chất độc làm hại tâm hồn chúng ta. Trái lại, nếu chúng ta coi đó như là một thập giá, như là thánh ý Chúa gửi đến và cố gắng chu toàn trong lòng cuộc đời, lúc bấy giờ những khổ đau dù bé nhỏ và tầm thường nhất, cũng có được một giá trị to lớn, chúng sẽ trở thành những sợi chỉ vàng dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.

9. Gương gia đình hạnh phúc - ĐTGM Ngô Quang Kiệt

Ngày lễ Thánh Gia là ngày lễ của các gia đình. Để làm khuôn mẫu cho các gia đình, ta tưởng Giáo Hội sẽ đưa ra hình ảnh một gia đình đầm ấm, vợ chồng con cái sum họp quanh bàn ăn, quanh chiếc ti vi. Hoặc chí ít cũng là cảnh thánh Giuse làm thợ mộc với sự giúp đỡ của Chúa Giêsu. Bên cạnh là Đức Maria đang ngồi khâu vá hoặc nấu nướng. Nhưng không, Giáo Hội mời gọi ta chiêm ngắm cảnh Thánh Gia chạy trốn bạo vương Hêrôđê giữa đêm hôm khuya khoắt.

Thánh Gia đã biết đến những hiểm nguy đe dọa hạnh phúc gia đình. Nhưng các Ngài đã biết cách gìn giữ gia đình bình an qua cơn dông tố. Các bài sách thánh đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay trình bày cho ta những bí quyết mà Thánh Gia sử dụng để giữ được hạnh phúc gia đình.

Bí quyết thứ nhất đó là vâng nghe Lời Chúa. Thánh Giuse vâng lệnh Chúa truyền một cách mau mắn và tuyệt đối. Dù lệnh truyền ban ra giữa đêm khuya, Ngài thức giấc thi hành tức khắc. Dù lệnh truyền rất khó khăn Ngài vẫn mau mắn vâng lời. Đức Maria và Chúa Giêsu cũng có một thái độ vâng phục tuyệt đối như thế. Thánh ý Thiên Chúa luôn luôn là mệnh lệnh tuyệt đối. Lời Chúa dạy luôn luôn là kim chỉ nam. Thiên Chúa chính là người điều khiển gia đình các Ngài. Vì thế, dù gặp nhiều gian nan thử thách, gia đình các Ngài vẫn giữ được hạnh phúc.

Bí quyết thứ hai đó là coi con cái là vốn quý nhất. Con cái là vốn quý nhất nên các Ngài đã đem hết sức lực ra bảo vệ. Khi có những nguy cơ đe dọa, các Ngài đem con cái chạy trốn tránh xa. Vì con cái là vốn quý nhất, nên các Ngài sẵn sàng hy sinh tất cả: thời giờ, nhà cửa, tài sản, nghề nghiệp và công việc làm ăn, mong đem con cái đến nơi an toàn. Vì con cái là vốn quý nhất, nên các Ngài không ngần ngại nâng niu phục vụ. Hình ảnh thánh Giuse đi bộ dắt lừa cho Chúa Giêsu và Đức Maria là hình ảnh của một người chủ gia đình hết lòng nâng niu phục vụ vợ con. Vì con cái là vốn quý nhất, nên các Đức Maria đã dõi theo con đến cùng, nhẫn nhục đứng bên thập giá chia sớt đau khổ với con.

Bí quyết thứ ba đó là con cái luôn hiếu thảo với cha mẹ. Chúa Giêsu là một người con hiếu thảo. Tin Mừng tóm tắt cuộc sống thơ ấu của Người bằng một câu ngắn gọn: “Sau đó Người đi xuống cùng với cha mẹ trở về Nadarét và hằng vâng phục các Ngài” (Lc 2,51). Sự hiếu thảo của Chúa Giêsu được thấy trong tiệc cưới Cana. Khi đám cưới thiếu rượu, Đức Maria xin Người giúp. Tuy chưa đến thời điểm, nhưng Chúa Giêsu vẫn làm phép lạ cho nước biến thành rượu để giúp đám cưới theo yêu cầu của Mẹ. Cảm động hơn hết là giây phút cuối đời, khi bị treo trên thập giá, Chúa Giêsu vẫn quan tâm đến Mẹ nên đã gửi gấm nhờ thánh Gioan, môn đệ yêu quý, chăm sóc Mẹ.

Ngày nay, nhiều gia đình đang trong tình trạng báo động. Từ thời mở cửa, gia đình Việt Nam đã biến chuyển mãnh liệt theo chiều hướng nguy hiểm. Số cặp vợ chồng ly dị tăng nhanh một cách đáng sợ. Con cái không còn vâng lời cha mẹ như xưa. Theo đà tiến triển kinh tế, nhiều gia đình trở nên giàu có hơn, nhưng con cái lại bỏ bê học hành, lao vào con đường ăn chơi, vướng vào tệ nạn xã hội, làm cho cha mẹ buồn lòng, gia đình tan nát.
Để bảo vệ gia đình trước làn sóng văn minh vật chất, hưởng thụ và cá nhân chủ nghĩa, ta hãy học hỏi mẫu gương Thánh Gia.

Trước hết, cha mẹ phải coi con cái là vốn quý nhất Chúa ban cho gia đình. Vốn này cần được quan tâm chăm sóc không phải chỉ bằng tiền bạc, phương tiện vật chất mà quan trọng hơn, bằng tình thương, sự săn sóc, dạy dỗ uốn nắn ngay từ khi còn thơ, sự hiểu biết, cảm thông khi đến tuổi trưởng thành. Dù thành công trong xã hội mà con cái hư hỏng thì vẫn là thất bại cả cuộc đời. Vì thế, phải bảo vệ con cái khỏi các bạo vương Hêrôđê thời đại. Đó là sách báo phim ảnh xấu. Đó là bạn bè xấu. Đó là tệ nạn xì ke ma túy. Nếu cần phải đem con cái trốn chạy khỏi nanh vuốt của bạo vương, tìm nơi an toàn để cho con cái sinh sống, ăn học và giữ được đạo đức.

Đáp lại, con cái phải có lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu thảo vừa là một đức tính của người có lương tri vừa là một thái độ khôn ngoan của người khiêm tốn. Có lương tri và có sự khôn ngoan, người trẻ mới tiến xa và trở nên hữu ích cho xã hội.

Sau cùng, cả gia đình phải sống theo Lời Chúa dạy. Lời Chúa là nền tảng của gia đình. Sống theo Lời Chúa là xây dựng gia đình trên nền đá vững chắc. Gia đình sống theo Lời Chúa sẽ vững vàng qua mọi bão lốc thời đại.

Gia đình Công Giáo sống theo Lời Chúa không những giữ được hạnh phúc cho gia đình mà còn đóng góp vào việc xây dựng xã hội trong hoàn cảnh đạo đức đang xuống cấp hiện nay.
Lạy Thánh Gia, xin giúp gia đình chúng con sống theo gương lành của các Ngài. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)   Đâu là những nguy cơ đang đe dọa hạnh phúc gia đình hiện nay?
2)   Thế nào là một gia đình gương mẫu?
3)   Gia đình bạn quyết tâm làm gì trong tuần này để noi gương Thánh Gia?

 

10. Lễ Thánh Gia

“Hãy đem con trẻ và mẹ Ngài”. Mục tiêu giờ đây lại vẫn là Giuse. Chúng ta đã thấy người bối rối, bây giờ chúng ta thấy người là con người quyết định nhanh chóng. Ngay khi hiểu sứ mạng của mình là làm người cha hợp pháp của Đức Giêsu, người biết rằng từ nay về sau cuộc đời của người có một mục đích rõ ràng đó là chăm sóc con trẻ và mẹ Ngài.

Đây là một công việc lý tưởng, Giuse không giàu. Vào dịp lễ thanh tẩy Đức Mẹ và dâng Con Trẻ trong Đền Thánh, người chỉ có chim gáy để làm của lễ chứ không có chiên. Sự nghèo khó này cùng với một tấm lòng nghèo khó thực sự mới làm cho người ta hết sức tự do trong việc dâng hiến chính mình.

Yên lặng cũng là đặc tính tốt khi phải lắng nghe ý Chúa. Phúc Âm hôm nay cho ta thấy người là người lắng nghe đến độ nào. Thiên Chúa (“Thiên Thần Chúa” chỉ Thiên Chúa) nói với người trong giấc mộng, Ngài thâm nhập tận thâm sâu Giuse, vào lúc mà Giuse thụ cảm nhất. Cho nên Chúa dùng mệnh lệnh ngắn gọn đủ để nói với một người hoàn toàn sẵn sàng và thông minh: “Hãy chỗi dậy...Trốn...Ở đó...Lên đường...Chọn Nadarét”.

Ngay khi nắm được ý định của Chúa, Giuse thi hành ý định đó với một sự nhanh chóng rất hiệu quả. Không nhiều lời. Sau đó, khi sứ mạng đã hoàn tất, người ta không nói đến người nữa. Chúng ta chỉ biết rằng người đã biết gợi ra cho con trẻ sự ngưỡng mộ những điều tốt đẹp. Người ta đoán ra điều này do cách mà Chúa Giêsu nói đến công việc.

Tóm lại, chỉ vỏn vẹn gần sáu mươi hàng nói về Giuse, nhưng những hàng này cho chúng ta thấy loại người mà Thiên Chúa có thể tin tưởng được. Người chồng trẻ Giuse phải có sự quân bình, sự tự chủ biết bao khi nghe người ta (yêu cầu) đòi hỏi: sống và yêu thương Maria mặc dù không quan hệ xác thịt. Có nhiều người hiện nay chống lại ý tưởng rằng đây là số phận của Giuse, nhưng các cặp vợ chồng vẫn xin Ngài giúp đỡ để sống tình yêu đầy khó khăn của mình.

 

11. Vai trò của gia đình

Mừng lễ Thánh gia hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu về vai trò của gia đình trong đời sống cá nhân và xã hội.
Như chúng ta đã biết hệ thống tổ chức của xã hội loài người khởi đi từ cá nhân, rồi đến gia đình, làng xóm và sau cùng là quốc gia và cộng đồng quốc tế.
Tự bản tính, con người không thể nào sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo hay như một pháo đài biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác trong một cộng đoàn.
Những người trước nhất chúng ta sống với chính là những người thân yêu cùng cư ngụ dưới một mái nhà. Và như vậy, cộng đoàn đầu tiên chúng ta tiếp xúc chính là gia đình.

Vì thế, Công đồng Vaticanô II đã xác quyết:
-      Gia đình là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người.
Ai trong chúng ta cũng đều có những kỷ niệm êm đẹp về gia đình mình. Bình thường chúng ta chẳng mấy khi để ý tới, thế nhưng đến lúc phải rời xa, chúng ta mới nghiệm ra rằng:
-      Gia đình chính là chiếc nôi cho chúng ta khôn lớn. Được sống trong gia đình là điều quí hóa.

Tôi không thể nào quên được những lần nghịch ngợm đã bị ba tôi sửa phạt, cũng như không thể nào quên được những lời khuyên thấm thía của ba tôi mỗi khi tôi phải lên đường, rời xa gia đình trong một khoảng thời gian nào đó.

Tôi không thể nào quên được những chăm sóc nhỏ nhoi nhưng thấm đượm yêu thương của mẹ tôi: từ củ khoai lang và những chiếc bánh mỗi khi đi chợ về đến ánh mắt lo âu khi tôi đau yếu.
Tất cả những yêu thương trìu mến ấy đã góp lại và tạo nên con người tôi hôm nay.

Đúng thế, gia đình chính là mái trường đầu tiên dạy cho chúng ta những bài học làm người cũng như chuẩn bị cho chúng ta những hành trang cần thiết để bước xuống cuộc đời. Hơn thế nữa, gia đình còn là nền tảng của xã hội, còn là con tim của nhân loại. Gia đình có ổn định thì xã hội mới được phát triển. Gia đình có hòa thuận và yêu thương thì nhân loại mới được lành mạnh.

Tìm hiểu vể tệ trạng thanh thiếu niên đi bụi đời và phạm pháp, chúng ta thấy đa số đều đã gặp phải những bất ổn trong gia đình. Có thể vì cha mẹ họ thường xuyên cãi vã. Có thể vì mẹ họ không còn trung thành với nhau theo kiểu ông ăn chả bà ăn nem. Có thể cha mẹ họ vì quá mải miết chạy theo tiền bạc, không còn lưu tâm tới họ nữa…Họ không tìm thấy trong gia đình một tình thương chân thành, một nơi nương tựa vững chắc. Và từ đó, họ chán nản bỏ nhà ra đi, nhúng tay vào tội ác, làm cho xã hội phải điêu đứng.

Gia đình là nền tảng của xã hội. Nền tảng ấy đã lung lay, thì xã hội sẽ bị chao đảo, nếu không muốn nói là đi dần tới chỗ sụp đổ.

Chính vì thế, người xưa đã bảo:
-      Phải tu thân và tề gia trước đã, rồi sau đó mới trị quốc và bình thiên hạ.
Muốn làm lớn ngoài xã hội, thì trước hết phải lo tu sửa bản thân và ổn định trong gia đình. Hay như ca dao cũng đã diễn tả:
-      Tu đâu cho bằng tu nhà,
 Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Thứ nhất thì tu tại gia,
Thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa.
Dưới ánh sáng của Kinh thánh, chúng ta cũng thấy được những ý nghĩ như vậy.
Đúng thế, ngày từ thuở đời đời, Thiên Chúa đã không sống cô độc lẻ loi, nhưng đã sống trong một hình thức gia đình, có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Khi nhập thể, Ngài đã không một mình bước vào cuộc đời, nhưng đã sống trong một gia đình, có mẹ là Đức Maria, có cha nuôi là thánh Giuse. Trong quãng đời công khai, Ngài không sống cô độc, nhưng đã sống trong một cộng đoàn, quây quần chung quanh Ngài có mười hai tông đồ và các môn đệ.

Trong Cựu ước, chúng ta thấy khi tạo dựng nên con người, Ngài không dựng nên họ cô đơn vò võ, nhưng đã dựng nên một người nam và một người nữ. Đó là mái ấm gia đình đầu tiên, đặt nền tảng cho xã hội loài người. Chính vì thế, Ngài đã phán:
-      Người nam sẽ lìa bỏ cha mẹ để kết hiệp với vợ mình và cả hai sẽ trở nên một xương một thịt.
Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã nhắc lại lập trường kể trên khi Ngài nói về chuyện ly dị. Thánh Phaolô còn dùng hình ảnh hôn nhân để nói lên tình yêu và sự kết hiệp giữa Đức Kitô và Giáo hội. Thánh nhân cũng đã nhiều lần đề cập đến những bổn phận trong lãnh vực gia đình:
-      Hỡi những người vợ, hãy phục tùng chồng mình trong Chúa cho phải phép. Hỡi những người chồng, hãy yêu thương vợ mình như Đức Kitô yêu thương Giáo hội và đã nộp mình vì Giáo hội.

Xin Chúa luôn gìn giữ mái ấm của chúng ta trong yêu thương và hòa thuận, để tình yêu gia đình chúng ta sẽ là một phản ảnh sống động cho tình yêu Thiên Chúa.


12. Giáo dục

Khi con người luôn cảm thấy được Thiên Chúa yêu thương và săn sóc, họ sẽ đặt Ngài vào chỗ nhất trong cuộc sống của họ. Và dĩ nhiên khi đặt Thiên Chúa vào chỗ nhất trong cuộc sống, con người sẽ suy nghĩ, cư xử, hành động thêm một bậc thang trong đó có các giá trị tinh thần và đạo đức luôn đặt vào chỗ cao nhất, lúc đó thay vì hận thù con người sẽ chọn lựa yêu thương, thay vì nguyền rủa con người sẽ lựa chọn tha thứ, thay vì giam mình trong vỏ ốc ích kỷ con người sẽ tìm đến với người khác, thay vì thất vọng bỏ cuộc, con người sẽ tiếp tục tin tưởng và phấn đấu.

Chỉ có một chọn lựa như thế mới làm cho cuộc sống mỗi ngày có ý nghĩa, sống như thế nào để mỗi ngày sống thực sự mới mẻ, đó là điều mà cha mẹ cần nhắc nhở cho con cái bằng lời nói và nhất là hành động. Mỗi ngày cha mẹ có thể chứng tỏ cho chúng thấy rằng đánh động người khác bằng những cố gắng rất đơn giản như một nụ cười, một cái gật đầu, một lời nói tử tế, một lời cầu nguyện cho người khác… những cử chỉ tử tế ấy luôn mang lại hoan lạc cho tâm hồn. Để có một ngày sống có ý nghĩa người ta không cần phải làm những hy sinh hay thay đổi lớn lao trong cuộc sống, mỗi một ngày sống đều có vô số những cơ hội kỳ diệu để sống tử tế.

Chúng ta không thể hiểu được các bí ẩn và những vấn đề trong cuộc sống, nhưng chúng ta phải tin rằng cuộc sống của mỗi người đều có một mục đích và tất cả chúng ta là một thành phần của một chương trình rộng lớn được Thiên Chúa quy định. Chúng ta không thể giải quyết tất cả mọi vấn đề của thế giới, chúng ta cũng chẳng giúp đỡ được tất cả mọi người nhưng trong tầm tay của mỗi người, trong môi trường sống mỗi người đều có cơ hội để sống tử tế với người khác.

Chính những cử chỉ tử tế hằng ngày đó mang lại ý nghĩa cho cuộc đời. Một món quà nhỏ nhưng được trao tặng với tất cả tự do và yêu thương luôn mang lại ánh sáng cho một ngày tăm tối. Cha mẹ nên tập cho con cái có thói quen tặng quà cho người khác một cách nhưng không, không tính toán. Tặng quà cho một người thân quen mang lại cho chúng ta niềm vui thỏa đã đành, nhưng giúp đỡ cho một người vô danh, một kẻ lạ mặt mà không đợi một sự đáp trả nào lại càng mang lại một niềm vui lớn lao.

Hằng năm tại Hoa kỳ có nhiều ngày rất đặc biệt, một trong những ngày đặc biệt nhất hẳn phải là ngày 17.2 được Quốc hội Hoa kỳ tuyên bố là ngày của những hành động tử tế nhưng không. Trong ngày đó người dân Mỹ được kêu gọi hành động tử tế một cách vô danh và nhưng không, nghĩa là không cần được biết đến và cũng không mong được một sự đáp trả nào. Quả thật xã hội càng thừa mứa của cải vật chất, tình người càng khô cạn, nội tâm con người cũng càng trống rỗng, do đó chỉ có những cử chỉ nhỏ bé mà con người thực thi cho nhau với tất cả quảng đại quên mình, mới có thể làm cho nội tâm được phong phú và mang lại ý nghĩa cho cuộc sống mỗi ngày.

Để có thể khơi dậy và phát triển lòng quảng đại nơi con cái, cha mẹ không những phải tập cho chúng giúp đỡ những người túng thiếu trong môi trường sống của chúng, mà còn phải mở rộng tầm nhìn của chúng để có thể đến những vấn đề rộng lớn hơn và phục vụ thế giới. Hằng năm tại một số nước Tây phương, như Đức chẳng hạn, các em thiếu nhi tự động quyên góp để giúp đỡ cho các trẻ em tại các nước nghèo. Đây là một trong những chiến dịch giúp cho những trẻ em sống bác ái. Bác ái không chỉ là cho những đồng tiền dư thừa. Bác ái thiết yếu là giúp đỡ người khác vì yêu thương. Tự nhiên đứa trẻ nào cũng có tinh thần bác ái, cha mẹ còn nuôi dưỡng tinh thần ấy bằng cách qua những cử chỉ hàng ngày và tạo cơ hội cho chúng tham gia vào những chiến dịch rộng rãi hơn, những cuộc quyên góp giúp đỡ cho các thiên tai hay người nghèo chẳng hạn, là cơ hội tốt nhất để cha mẹ khơi dậy và nuôi dưỡng tinh thần bác ái đích thực nơi con cái.

Ngày nay truyền hình không phải là một phương tiện giải trí, mà còn cần cho cha mẹ xem như là một trường hợp thực tế nhất để khơi dậy tinh thần bác ái của con cái. Ngoài những chương trình có nội dung giáo dục nhân bản, truyền hình còn cho chúng ta tiếp cận với không biết bao nhiêu người khổ đau trên khắp thế giới, các nạn nhân của thiên tai, những người tị nạn của chiến tranh và bao nhiêu người khốn khổ khác trên khắp thế giới. Những hình ảnh mà truyền hình mang lại cho chúng ta mỗi ngày cần được cha mẹ xem như là những cơ hội để khơi dậy những đau khổ cảm thương, lòng quảng đại và tinh thần bác ái nơi con cái. Cùng với sự cảm thông và lòng quảng đại, một trong những thái độ cần thiết cho một đời sống nội tâm dồi dào và vững chắc mà cha mẹ cần vun trồng nơi con cái, đó là cái nhìn tích cực về người khác. Tất cả chúng ta, trẻ con cũng như người lớn đều dễ dàng rơi vào thói quen khiển trách, phê bình, chỉ trích, kết án người khác, thái độ tiêu cực này làm cho chúng ta bất mãn và làm cho nội tâm chúng ta trống rỗng.

Quả thật, những lời kết án thường làm cho các quan hệ của chúng ta với người khác trở thành vẩn đục đen tối, một cách cụ thể cha mẹ nên nhắc nhở con cái những khác biệt hay thiếu sót, nhất là sự tàn tật của người khác. Tựu trung, dạy cho con cái rằng cuộc sống đều có một mục đích và mỗi người đều có một giá trị thánh thiêng là tập cho chúng nhìn người khác bằng chính ánh sáng của Chúa. Nhìn trong ánh sáng của Thiên Chúa là chỉ nhìn thấy điều tích cực nơi người khác, nhìn trong ánh sáng của Thiên Chúa là xuyên qua những bất toàn của người khác, nhận ra mỗi người là đối tượng thể hiện tình yêu của mình.

 

13. Đạo đức

Tại miền bắc nước Pháp, người ta thường kể lại một câu chuyện cổ tích sau đây: có một gia đình nọ gồm cha mẹ và một đứa con sống rất hiệp nhất yêu thương nhau. Nhưng một đêm kia, đang lúc mọi người ngủ say, một trận giông bão chưa từng xảy ra bao giờ, chỉ trong mấy giờ đồng hồ cả vùng đều lụt lớn, nhà cửa sập cả, thây người và vật trôi bồng bềnh. Người cha của gia đình cõng vợ trên vai mình và bà vợ tay bế đứa con. Nước càng lúc càng dâng lên cao, chẳng bao lâu ngập đầu cả hai vợ chồng. Dù ngộp thở và vô cùng mệt mỏi, bà mẹ cố giơ cao hai cánh tay nâng cao đứa con lên khỏi mặt nước để đứa bé khỏi chết ngộp. Hai vợ chồng sẵn sàng chờ chết, nhưng chỉ mong có ai cứu được đứa bé khỏi chết. Vừa lúc đó, có một thiên thần bay ngang qua, trông thấy cái đầu bé tí nhô khỏi mặt nước, vội cầm lấy kéo lên và dính chùm theo là cả cha mẹ đứa bé. Thế là nhờ yêu thương hiệp nhất mà cả gia đình được thoát nạn.

Có lẽ chưa bao giờ gia đình lại khủng hoảng trầm trọng trong thế giới như chúng ta đang sống hiện nay. Rất nhiều gia đình trong xã hội là những gia đình què quặt, tan nát, nạn ly thân, ly dị và phá thai, và những gia đình chia ly vì chiến tranh, bạo lực, áp bức của các chế độ vô nhân. Những gia đình bất hòa vì nạn thất nghiệp, vì nạn kinh tế khó khăn, eo hẹp hay vì nạn cờ bạc rượu chè, ma túy, thuốc xái và ham mê buông thả trong lạc thú. Vì thế, những người phải trả giá mắc mỏ nhất cho hậu quả của các cuộc khủng hoảng này là con cái, là trẻ em và giới trẻ. Làm sao con người có thể hạnh phúc tươi vui khi phải sống trong gia đình như thế? Làm sao thế giới có thể an bình thịnh vượng khi các tế bào nòng cốt của xã hội bị bệnh hoạn như vậy? Qua ngày lễ Thánh Gia, Mẹ Giáo Hội kêu mời chúng ta suy tư nghiêm chỉnh trở lại ý nghĩa cuộc sống gia đình và đề nghị với chúng ta một mẫu gương, đó là mẫu gương của tổ ấm gia đình Naxareth xưa, gia đình của Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giuse. Chương ba sách Đức Huấn Ca là một bài quảng diễn điều răn thứ tư của mười giới luật, dạy con cái phải thảo hiếu cha mẹ. Ngoài những lý do luân lý tự nhiên như câu ca dao Việt Nam nêu lên:
“Công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.

Tác giả sách Đức Huấn Ca còn nhấn mạnh đến lý do tôn giáo nữa. Đó là thái độ sống thảo hiếu với cha mẹ, với những người đã dày công mang nặng đẻ đau sinh thành, dưỡng dục chúng ta. Thiên Chúa sẽ nghe lời những người con hiếu thảo khi họ kêu khấn lên Ngài.

Suy tư trên đây là một thí dụ điển hình cho thấy người sống đạo, người đạo đức như tác giả sách Đức Huấn Ca, biết nhìn ra ý nghĩa sâu thẳm siêu việt nằm trong chính cái nhân loại tầm thường của cuộc sống mỗi ngày. Thiên Chúa không xa vời đối với Chúa Giêsu nhưng Ngài luôn hiện diện ngay trong cái tầm thường nhất của mỗi ngày sống chúng ta. Bởi vì Ngài đã đến sống giữa con cái loài người, đồng hành với con người, chia sẻ mọi buồn vui, mọi âu lo khó nhọc của cuộc sống con người. Khi biết nhìn thực tại bằng đôi mắt của lòng tin thì mọi sự trong thế giới hữủ hình này đều được biến đổi và nói lên được sứ điệp mà Thiên Chúa muốn nhắn gởi chúng ta: Một gia đình trong đó mọi thành phần biết kính sợ Thiên Chúa, biết yêu thương tôn trọng lẫn nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau và sống vì nhau thì sẽ là một gia đình được tràn đầy phúc lành và sức sống thiên linh của Thiên Chúa.

 

14. Đạo đức

Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa đã giáng sinh trong một gia đình cụ thể, có cha có mẹ là thánh Giuse và Mẹ Maria. Vì thế, trong bầu khí vui tươi của lễ Giáng Sinh, chúng ta có thể cùng nhau chia sẻ về đời sống gia đình. Mầu nhiệm Giáng Sinh sẽ giúp chúng ta hiểu sâu xa hơn về thực tại gia đình. Mầu nhiệm Giáng Sinh làm cho gia đình Thánh Gia trở thành mẫu gương cho các gia đình trên thế giới.

Các bài đọc lễ Thánh Gia đều hướng về một chủ đề chung là mô tả hoàn cảnh sống của một gia đình có Chúa hiện diện và liên kết mọi thành phần lại với nhau.

Trước hết, bài đọc I sách Huấn Ca, nhắc lại bổn phận thảo hiếu của con cái đối với cha mẹ, vì Thiên Chúa suy tôn người cha trong con cái và củng cố quyền lợi của người mẹ trên người con. Vai trò và trách nhiệm của cha mẹ trên con cái là do ý muốn của Thiên Chúa và dựa trên ý muốn của Ngài.
Bài đọc II trích từ Côlôsê ghi lại các lời khuyên của thánh Phaolô cho các thành phần trong gia đình: “Hãy đối xử với nhau theo qui luật của đức bác ái”, vì tình yêu tự nhiên giữa các thành phần trong gia đình không đủ. Tình yêu tự nhiên đó được triển nở thành tình thương bác ái, một tình thương đã được tình yêu của Thiên Chúa thanh luyện cũng cố, và tình thương bác ái đó được thể hiện trong những hành động cụ thể chứ không dừng lại ở lời nói suông qua môi miệng. Những lời khuyên này có thể được ta xem như là một hiến chương xây dựng hạnh phúc gia đình. Nếu chúng ta thực hiện được những điều này thì quả thật gia đình chúng ta sẽ được hạnh phúc biết bao.

Tâm tình bác ái của gia đình là sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn của mỗi thành phần trong gia đình, đó là sự liên kết mọi thành phần trong gia đình lại với nhau như là cầu chúc của thánh Phaolô trong thơ gửi tín hữu Côlôsê: “Nguyện cho bình an của Chúa làm chủ trong lòng anh em. Nguyện cho Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong lòng anh em”. Để thực hiện điều này, chúng ta hãy đặc biệt lưu ý đến hai việc đạo đức sau đây:
1) Việc đọc kinh chung với nhau trong gia đình.
2) Việc gia đình đọc Lời Chúa chung với nhau.

Gia đình cầu nguyện chung với nhau thì sống hiệp nhất với nhau. Gia đình Thánh gia Nagiarét được diễm phúc hơn mọi gia đình khác, vì có chính Chúa Giêsu hiện diện giữa các ngài. Nhưng nếu xét cho cùng thì cũng không phải là chuyện dễ dàng hơn, vì Chúa hiện diện trong gia đình Thánh gia với một hình thức hạ mình sâu thẳm nhất, qua hình thức của một con trẻ yếu đuối như bao trẻ thơ khác để cho mẹ Maria và thánh Giuse chăm sóc. Cần phải có đức tin sâu xa và vững mạnh lắm thì Đức Maria và thánh Giuse mới có thể chu toàn trọn vẹn vai trò của mình.

Việc cụ thể thứ hai là việc đọc Lời Chúa trong gia đình. Chúng ta hãy lấy mẫu gương gia đình Thánh Gia Nagiarét như một khởi đầu cho một sinh hoạt mới trong gia đình, và kể từ nay về sau, mỗi gia đình hãy chăm chỉ thực hiện việc đọc Lời Chúa trong gia đình: “Nguyện cho Lời Chúa cư ngụ dồi dào trong anh em”. Mỗi gia đình Kitô cần có một quyển Kinh Thánh để có thể đọc Lời Chúa hằng ngày chung với nhau, và nếu không hằng ngày được thì ít ra là mỗi tuần một lần. Phải giữ mức độ thường xuyên đều đặn, không nên để tùy hứng.

Sau cùng một khía cạnh khác được nói lên trong bài Tin mừng hôm nay, đó là thử thách mà gia đình Nagiarét gặp phải, đó cũng là thử thách mà mọi gia đình kitô chúng ta ngày nay cũng có thể gặp phải. Sự hiện diện của Chúa không mang lại đặc quyền đặc lợi cho gia đình, mà ngược lại có thể làm cho Đức Maria và thánh Giuse bị phiền phức nữa là khác, vì cảnh sống nghèo nàn bị lãng quên vẫn như cũ, nhưng Đức Maria và thánh Giuse đã vượt qua được thử thách với đức tin vững vàng, khiêm tốn chấp nhận dù không hiểu việc Chúa làm. Đó là mẫu gương cho tất cả mọi gia đình Kitô giáo hôm nay.

 Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong niềm tin và phát triển đức tin của mỗi người chúng ta, ban cho gia đình chúng ta được ơn hiệp nhất với nhau, sống yêu thương nhau, nâng đỡ nhau để chu toàn ơn gọi của mình.


15. Gia đình

Quả là điều thật đáng mừng khi đời sống con người mỗi ngày một văn minh hơn. Nhưng sự văn vinh là một con dao hai lưỡi, bởi nó có thể nâng cao đời sống con người lên, nhưng nó cũng có sức hủy diệt con người một cách kinh khủng, tùy theo con người tiếp nhận nền văn minh ấy như thế nào.

Thật vậy, trong thực tế nhiều người đã tiến bộ rất xa, đã phát triển rất mạnh cả về tinh thần lẫn vật chất nhờ vào nền văn minh mà con người đã xây dựng được. Bên cạnh đó, cũng có rất nhiều người đã bị chết chìm vì làn sóng văn minh này phủ lấp. Nhiều người chạy theo làn sóng văn minh một cách mù quáng mà không biết phân biệt điều hay điều dở. Một trong những điểm tiêu cực của nền văn minh thời đại hôm nay là não trạng hưởng thụ. Để hưởng thụ, nhiều người giàu có đã vung vãi tiền bạc ra ăn chơi xả láng, thỏa mãn mọi khát vọng. Họ hưởng thụ và ăn chơi bất tận không có điểm dừng, đến độ không còn nhớ mình là con người nữa. Để hưởng thụ, những người không có tiền đã tìm đủ mọi cách để kiếm tiền kể cả phải bán rẻ lương tâm, bán rẻ nhân phẩm của mình…

Nhưng ai còn tha thiết với vận mệnh của con người, với sự tồn vong của xã hội sẽ không thể không lo ngại trước sự xuống cấp càng ngày càng trầm trọng về mọi mặt của đời sống con người. Cứ nhìn vào cuộc sống xã hội hôm nay ta sẽ thấy điều đó: Cướp giật, đâm chém, lừa đảo, mại dâm, phá thai, nạo thai, ly dị, sì ke, ma túy, tham nhũng, hối lộ, bóc lột, bụi đời v.v… Hàng trăm ngàn thứ tệ đoan, hàng vạn vạn thứ tội ác đang diễn ra hằng ngày ởi khắp nơi.

Có nhiều nguyên nhân dẫn tới những hiện tượng xã hội bi đát kể trên. Một trong những nguyên do quan trọng đó là sự xuống cấp cách đáng sợ nơi nhiều gia đình. Có lẽ chưa có thời đại nào người ta thấy có nhiều cha mẹ giết con, nhiều con cái giết cha mẹ như thời đại hôm nay. Có lẽ chưa có thời đại nào người ta thấy có nhiều đứa con bất hiếu bắt cha mẹ già lê lết đầu đường, xó chợ xin sự bố thí của người khác để kiếm tiền vể nộp cho con như thời đại hôm nay. Có lẽ chưa có thời đại nào có nhiều cha mẹ tàn nhẫn đến độ bán con đi làm gái mại dâm, bắt con đi ăn xin hoặc cho mướn con để người khác đao đi ăn xin trong khi cha mẹ nhởn nhơ ở nhà như thời đại hôm nay. Có lẽ chưa có thời đại nào mà các gia đình, những tổ ấm của các trẻ thơ lại biến thành những hang ổ để người lớn mua bán tình dục nhiều như thời đại hôm nay. Có lẽ chưa có thời đại nào đời sống hôn nhân bị coi rẻ, đời sống vợ chồng bị phản bội và đổ vỡ nhiều như thời đại hôm nay. Vợ chồng đánh đập nhau như hai con thú dữ, chửa rủa nhau bằng những ngôn từ hạ đẳng. Người ta lấy nhau đó rồi cũng bỏ nhau đó. Người ta ăn ở với nhau đó rồi cũng đá đít nhau đó. Người ta thề hứa chung thủy đó, nhưng cũng bất trung đó v.v…

Những điều nói trên tưởng không thể có, nhưng chúng đã và đang xảy ra. Vì chúng đã và đang xảy ra nên ta không thể nhắm mắt làm ngơ, cũng không thể né tránh không đề cập đến chúng. Làm nơ để cho sự dữ hoành hành cũng là một trọng tội. Do đó, cần can đảm đối diện với chúng và kiên quyết loại trừ chúng ra khỏi đời sống gia đình. Gia đình có lành mạnh thì xã hội mới lành mạnh. Chính trong môi trường lành mạnh của gia đình và xã hội, con người mới có thể phát triển một cách quân bình.

Thưa quý ông bà, quý anh chị đang được diễm phúc làm cha, làm mẹ. Quí vị có nghe thấy tiếng kêu gào nức nở trong tuyệt vọng của những thai nhi, của những trẻ thơ, con cái của vị không?

Cha ơi, mẹ ơi, cha mẹ đã tác tạo nên con, xin hãy cho con được sống. Xin đừng giết con đi khi con chưa kịp nhìn thấy ánh mặt trời. Cha mẹ ơi, xin cho con một mái ấm gia đình. Xin đừng biến nhà mình thành địa ngục. Xin đừng biến nơi nương náu của con thành một nơi nhầy nhụa tội lỗi. Cha mẹ ơi, xin cha mẹ đừng bỏ nhau. Hãy ở lại với nhau để con là người có cha, có mẹ, để con có thể gọi lên những tiếng thân thương: Cha ơi, mẹ ơi. Xin cha mẹ đừng bắt con phải một mình lang thang vất vưởng giữa chợ đời muôn ngàn cạm bẫy này. Cha mẹ ơi, hãy cho con học hành để con có thể ngửa mặt với đời khi con lớn khôn. Xin đừng bắt con cứ phải cúi gằm mặt xuống mà đi, đừng bắt con mai này phải đi làm tôi cho người khác hút máu mủ con. Cha mẹ ơi, xin hãy cho con sự giáo dục đứng đắn để con có thể lớn lên thành người. Xin đừng bỏ mặc con như một con thú hoang v.v…

Còn nữa, còn nữa và còn rất nhiều lời van xin thống thiết khác nữa. Các trẻ thơ hôm nay đang van xin những người lớn, van xin chúng ta, những người cha, người mẹ của chúng nhiều điều chính đáng lắm. Chúng ta có nghe thấy những tiếng kêu gào nức nở ấy không, thưa quý ông bà và anh chị em?


16. Suy niệm của JKN

Nghịch cảnh và đau khổ trong gia đình có thể là phương tiện thánh hóa của Thiên Chúa
Câu hỏi gợi ý:
1.    Việc Đức Giêsu bị bách hại khiến Thánh Gia phải trốn sang Ai Cập là do lòng độc ác của vua Hêrôđê, nhưng có phải cũng nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa không? – Những hoạn nạn của ta do lòng độc ác của người khác có tương tự như thế không?
2.    Thiên Chúa muốn Đức Giêsu và Thánh Gia Thất bị hoạn nạn đau khổ như thế để làm gì? do Ngài thương yêu hay ghét bỏ Thánh Gia Thất? Nếu do yêu thương, thì phải giải thích thế nào?
3.    Khi gia đình ta gặp đau khổ thử thách, thì cách khôn ngoan nhất để gia đình vẫn có thể bình an và hạnh phúc là gì?

Suy tư gợi ý:
1. Đau khổ mà Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu và Thánh Gia
Bài Tin Mừng cho thấy ngay khi vừa sinh ra, Đức Giêsu đã trở thành đối tượng bị bách hại, là nạn nhân thoát chết của sự độc ác nơi con người. Thật vậy, vừa sinh ra, Ngài đã bị vua Hêrôđê tìm giết, chỉ vì ông tưởng rằng trong tương lai Ngài sẽ chiếm mất ngai vàng của ông. Thánh Gia cũng gặp biết bao thử thách ngay khi vừa mới thành lập, do sự vô tình, hiểu lầm và vô lương tâm của con người. Thật vậy, khi Giuse và Maria vừa thành gia thất, hai người đã phải chịu búa rìu của dư luận về việc Maria mang thai khi chưa chính thức làm đám cưới; và việc Giuse chấp nhận lấy Maria làm vợ dù con trong bụng nàng không phải là của mình. Rồi vừa mang thai được mấy tháng thì phải về tận Bêlem để đăng ký hộ khẩu, và do nghèo mà không được ai giúp đỡ, Maria đã phải sinh con trong chuồng súc vật. Thật nhục nhã và đau lòng! Chưa hết, vừa sinh con ra, hai ông bà đã phải vượt biên trốn sang Ai Cập, chịu bao đắng cay và khổ nhục!

Những khổ nhục ấy không chỉ do con người gây ra, mà còn do sự sắp đặt của chính Thiên Chúa trong kế hoạch của Ngài nữa. Phải nói rằng con người mà Thiên Chúa Cha yêu thương nhất chính là Đức Giêsu! Nhưng chính Ngài lại là con người bị Thiên Chúa đày đọa nhiều nhất: «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ» (Dt 5,8). Cũng vậy, gia đình mà Thiên Chúa lưu tâm nhất chính là Thánh Gia Nadarét. Nhưng đó cũng là gia đình mà Thiên Chúa thử thách và làm cho đau khổ nhiều nhất! Thật kỳ diệu, khó hiểu và đầy mâu thuẫn! Nhưng đó chính là thánh ý của Ngài! Thiên Chúa có điên chăng? Không, Ngài rất khôn ngoan, nếu chúng ta không hiểu được chính vì sự khôn ngoan ấy vượt quá khả năng suy nghĩ và hiểu biết của chúng ta!

2. Nhưng đau khổ lại là nguồn hạnh phúc và vinh quang
Nhìn lại kết quả của những thử thách ấy, ta thấy: Đức Giêsu và Thánh Gia hiện nay đang được tôn sùng nhất, cao sang nhất, vinh quang nhất không chỉ ở dưới đất mà còn cả trên trời nữa! Nhìn thế ta mới thấy rõ sự ưu ái mà Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu và gia đình của Ngài. Một sự ưu ái đầy công bằng khiến cho không ai trên trần lẫn trên trời có thể ganh tị được! Sự công bằng của Thiên Chúa đòi hỏi phải có sự tỷ lệ thuận giữa đau khổ và hạnh phúc, giữa nhục nhã và vinh quang, giữa tự hạ và được nâng lên… Thiên Chúa luôn luôn dùng đau khổ để thánh hóa và tinh luyện tình yêu của con người, dùng nhục nhã để đưa con người đến vinh quang. Tuy nhiên, những đau khổ chịu ở đời này quả là quá nhỏ bé so với hạnh phúc và vinh quang mà Thiên Chúa ban thưởng vì những đau khổ ấy: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18).

Vấn đề quan trọng và tùy thuộc nơi con người là: con người có chấp nhận luật công bằng đó hay không, có chấp nhận để Thiên Chúa thánh hóa và tinh luyện tình yêu của mình không. Nghĩa là khi chịu đau khổ, con người có nhận ra đó là thánh ý Thiên Chúa để vui lòng chấp nhận không? Thiếu sự vui lòng chấp nhận này, thì hạnh phúc và vinh quang không thể thành tựu được. Thánh Phaolô viết: «Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ sống với Người; nếu ta cùng đau khổ với Người, ta sẽ thống trị với Người» (2Tm 2,11-12a), nhưng ngài cũng thêm: «Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta» (2Tm 2,12b).

3. Hãy thực hiện thánh ý Chúa trong mọi tình huống của gia đình
Trong đời sống gia đình, ta cũng sẽ gặp thử thách và đau khổ do sự thiếu tình thương, vô tình, hiểu lầm, tính ích kỷ và độc ác của người khác, thậm chí của chính những người trong gia đình mình. Chính ta cũng gây ra những thử thách và đau khổ tương tự như thế cho tha nhân, và cho cả những người trong gia đình mình. Nhưng những thử thách đó đều nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa nhằm thánh hóa và tinh luyện tình yêu nơi bản thân ta cũng như những người thân trong gia đình ta. Điều quan trọng là ta phải nhận ra thánh ý Thiên Chúa trong những thử thách đó, và luôn luôn sẵn sàng làm theo thánh ý Ngài. Gia đình Nadarét xưa cũng gặp rất nhiều đau khổ, nghịch cảnh như gia đình chúng ta đã gặp. Có biết bao hoàn cảnh khiến người trong gia đình hiểu lầm nhau, tạo nên những xung đột, v.v… làm cho nhau đau khổ, và đòi buộc mọi người phải chịu đựng, tha thứ lẫn nhau. Chính trong thử thách và đau khổ, con người mới chứng tỏ được tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và tha nhân, đặc biệt đối với những người trong gia đình mình.

Nếu Thiên Chúa đã để cho Đức Giêsu, cũng như Đức Maria và Thánh Giuse phải đau khổ để thánh hóa, tinh luyện tình yêu các Ngài hầu ân thưởng bội hậu các Ngài, thì Thiên Chúa cũng đang thực hiện như vậy đối với ta và gia đình ta. Nên nhớ rằng: «Vinh quang sẽ đến sau những đau khổ đó» (1Pr 1,11). Thiên Chúa muốn dành cho ta những hạnh phúc và vinh quang lớn lao. Nhưng sự công bằng của Ngài đòi hỏi ta phải ít nhiều xứng đáng với hạnh phúc và vinh quang ấy, nên Ngài phải thử thách ta chút ít để ta chứng tỏ được tình yêu của ta. Vì thế, hãy lấy làm vui mừng khi được Ngài thử thách: «Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu, anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện, anh em cùng được vui mừng hoan hỷ» (1Pr 4,13).

Điều quan trọng là chúng ta phải có tình yêu đích thực đối với tất cả mọi người trong gia đình ta. Và biểu hiện của tình yêu đích thực – tức «hoa quả của Thần Khí» – là «bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ» (Gl 5,22-23). Nếu «yêu nhau không phải là nhìn nhau, mà là cùng nhau nhìn về một hướng» như Saint-Exupéry nói, thì trong gia đình, hướng chung đó phải là cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình, hạnh phúc chung của mọi thành viên trong đó. Muốn thực hiện được hạnh phúc ấy thì điều cần thiết là mọi người đều phải đặt thánh ý Thiên Chúa là tối quan trọng, và luôn luôn thi hành thánh ý Ngài. Mà thánh ý Ngài chính là mọi người trong gia đình yêu thương và hy sinh cho nhau (x. (Ga 13,34)-35).

Hạnh phúc gia đình phải được xây dựng trên nền tảng là cùng nhau thực hiện thánh ý Thiên Chúa thì mới vững bền. Cổ nhân nói: «Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong» (=thuận theo Trời thì còn, thì hạnh phúc, nghịch với Trời thì mất, thì đau khổ). Câu này đúng trong mọi trường hợp, đặc biệt trong mọi tình huống của gia đình. Nếu không quan tâm thực hiện thánh ý Ngài, con người càng tìm hạnh phúc thì càng gặp đau khổ.

Nếu vì chính bản thân ta không hy sinh và nỗ lực tạo hạnh phúc cho gia đình mình nên gia đình ta không hạnh phúc, thì ta nên xét lại cách cầu nguyện và cách sống đạo của ta. Rất có thể ta đã cầu nguyện và sống đạo một cách sai lạc, không đẹp lòng Thiên Chúa. Cần sám hối và sửa sai. Đừng tưởng cứ cầu nguyện cho nhiều là làm đẹp lòng Thiên Chúa! Cần cầu nguyện cho có phẩm chất hơn là cầu nguyện cho nhiều. Cầu nguyện có phẩm chất đòi hỏi lòng chân thành và tình yêu thật sự, hay ít nhất là hướng đến việc gia tăng tình yêu trong lòng mình. Hiệu quả tất yếu của việc cầu nguyện đích thực là tình yêu trong lòng mình ngày càng gia tăng. Dựa vào đó, ta có thể biết mình có thật sự cầu nguyện hay cầu nguyện đẹp lòng Chúa hay không.

CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, đời sống gia đình có biết bao khó khăn, thử thách và đau khổ, chẳng những đến từ ngoại cảnh, từ xã hội, mà còn đến từ chính những người trong gia đình. Xin cho con nhận ra mọi đau khổ thử thách đều là những phương tiện Cha dùng để thánh hóa, tinh luyện tình yêu của bản thân con và gia đình con, để chúng con có được những cơ hội quý giá chiếm được những phần thưởng vô cùng lớn lao mà Cha muốn dành cho chúng con. Xin ban cho con mọi người trong gia đình con đủ tình yêu để gia đình con trở thành một tổ ấm hạnh phúc, thành một hình ảnh của thiên đàng mai sau.