Thứ Sáu, 27 tháng 7, 2018

HÈ HỒNG ÂN CHO THIẾU NHI H’MÔNG – 75 NĂM THÀNH LẬP DÒNG MTG HƯNG HÓA - CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN - B



              HÈ HỒNG ÂN CHO THIẾU NHI H’MÔNG 


              HỢP THỨC HÔN PHỐI 

              HỢP THỨC HÔN PHỐI 


              HỢP THỨC HÔN PHỐI 

HỒNG ÂN RƯỚC LỄ LẦN ĐẦU CHO THIẾU NHI H’MÔNG 



KỸ NĂNG SÁO

KỸ NÂNG ĐÀN

























75 NĂM THÀNH LẬP DÒNG MTG HƯNG HÓA




LÀM PHÉP NHÀ NGUYỆN VÀ BAN THỜ  DỊP 75 NĂM THÀNH LẬP DÒNG MTG HƯNG HÓA















               LÀM PHÉP NHÀ NGUYỆN MỚI NHÂN DIP 75 NĂM THÀNH LẬP HỘI DÒNG - TM   CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: 2V. 4, 42-44; Ep. 4, 1-6; Ga. 6, 1-15

MỤC LỤC


1. Cộng tác với Chúa.

Hãy cộng tác với ơn Chúa.
Thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta, Ngài cần chúng ta đồng ý và cộng tác với Ngài, bởi vì Ngài sẽ không thể cứu độ những ai không muốn. Và như thế, sự cộng tác của chúng ta dường như là một điều kiện cần thiết luôn đòi buộc mỗi người.

Hẳn chúng ta còn nhớ, trong hoang địa, ma quỷ đã cám dỗ Chúa Giêsu: Hãy làm cho những hòn đá này trở nên bánh mà ăn. Thế nhưng qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã không hành động như vậy. Ngài đã làm phép lạ từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em nhỏ, hay nói đúng hơn từ một khẩu phần khiêm tốn mà một bà mẹ khôn ngoan và đầy tình thương đã đặt vào tay em, trước khi em lên đường. Sự góp phần của em tuy nhỏ bé nhưng Chúa đã làm cho trở nên to lớn, khả dĩ hàng ngàn người được no đủ giữa một nơi hoang vắng. Đó cũng là cách thức Chúa thường làm trong dòng lịch sử.

Thực vậy, trong Cựu Ước Đavít chỉ là một cậu bé chăn chiên tầm thường, nhưng cộng tác với Chúa, cậu đã đánh thắng tước Goliat và trở nên một vị vua nổi tiếng của dân Do Thái. Cũng vậy, Giêrêmia chỉ là một cậu bé còn nói cà lăm, nhưng vâng lệnh Chúa, đã trở nên một tiên tri sáng chói.

Bước sang Tân Ước, chúng ta cũng thấy được một lề lối, một cách thức hành động như thế. Mẹ Maria chỉ là một cô thôn nữ âm thầm bé nhỏ, không được ai biết đến. Nhưng sau lời xin vâng, cộng tác với Chúa, Mẹ đã trở nên Mẹ của Đức Kitô, Mẹ của Đấng Cứu Thế, Mẹ của chính Thiên Chúa.

Mười hai tông đồ cũng vậy. Các ông phần đông chỉ là những ngư phủ quê mùa và dốt nát, đơn sơ và chất phác. Thế nhưng, một khi đã đáp trả lại tiếng gọi của Chúa, thì Chúa đã biến đổi để các ông trở thành những sứ giả Tin Mừng, những chứng nhân của tình thương và chân lý. Tiếng nói của các ông đã vang vọng khắp nơi và ảnh hưởng của các ông trải dài trong dòng thời gian.

Nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta cũng nhận thấy biết bao nhiêu kẻ tội lỗi, biết bao nhiêu kẻ tầm thường, nhưng một khi quay trở về cùng Chúa và nhất là cộng tác tích cực với Chúa, đã làm nên những việc trọng đại và kỳ diệu.

Rất có thể phần cộng tác của chúng ta thì nhỏ bé và tầm thường, nhưng dưới tác động của Chúa, nó sẽ trở nên to lớn và có một giá trị đáng kể dưới mắt Chúa. Một giọt nước lã, thì chẳng có gì đáng kể, nhưng nếu giọt nước lã ấy được hoà tan trong chén rượu, và sau lời truyền phép của vị linh mục, cũng sẽ trở nên máu thánh Đức Kitô.

Bởi đó điều quan trọng là chúng ta đã thực sự sống theo những hướng dẫn của Chúa hay chưa? Chúng ta đã thực sự cộng tác với Ngài trong việc thánh hoá bản thân cũng như cải tạo môi trường xã hội hay chưa?



2. Bánh hóa nhiều.

Ngày kia có một phụ nữ trung niên đến với những người nghèo khổ tại Ấn Độ. Nhìn thấy tình cảnh bi đát của họ, bà tự nhủ: Mình phải làm một điều gì đó mới được. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn dơ dáy. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm đám con nít đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ ấy làm phòng học dù không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết. Đó là phương thế bà đã sử dụng để chiến đấu chống lại sự nghèo dốt. Và đó cũng là câu trả lời cảm động nhất mà bà có thể thực hiện. Thế rồi điều gì đã xảy ra cho người phụ nữ và công việc của bà? Hiện nay, bà đã có tám mươi trường học được trang bị đầy đủ. Năm trăm nhà phát chẩn lưu động hiện đại. Bảy mươi bệnh viện cho người cùi. Ba mươi nhà chăm sóc kẻ hấp hối. Ba mươi viện chăm sóc những trẻ em bị bỏ rơi và hơn bốn mươi ngàn người người tình nguyện trên khắp thế giới sẵn sáng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác hơn là chính mẹ Têrêxa thành Calcutta.

Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay và chúng ta thấy: Cậu bé nọ có năm chiếc bánh và hai con cá. Chúa đã yêu cầu cậu mang đến để Ngài thiết đãi đám đông dân chúng. Cậu bé liền trao bánh và cá cho Chúa để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Cuối cùng, hơn năm ngàn người đã được no nê. Đó cũng là điều mẹ Têrêxa đã làm. Bà trao cho Chúa bánh và cá của bà để Ngài thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi điều mơ ước của bà.

Cũng trong chiều hướng đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã phát biểu: Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, chúng ta sẽ cảm thấy mình không đủ khả năng và lo sợ trước viễn cảnh tương lai. Nhưng tôi xin nói điều này: Hãy đặt cuộc đời chúng ta trong bàn tay của Chúa. Ngài sẽ chấp nhận và chúc lành cho chúng ta cũng như biến đổi cuộc đời chúng ta một cách tốt đẹp, vượt trên điều chúng ta có thể mơ ước. Giờ đây chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đã đặt vào bàn tay của Chúa bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng của chúng ta để cho Ngài xử dụng theo ý Ngài muốn. Chúng ta có dâng hiến chính bản thân và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa, như cậu bé trong đoạn Tin Mừng hôm nay hay chưa? Có lẽ lúc này Chúa cũng muốn nói với chúng ta ngày hôm nay Thầy cần đôi chân, đôi tay và môi miệng của các con. Vì ngày hôm nay, Thầy chỉ biết nhờ đôi chân các con để mang Thầy đến với những kẻ bất hạnh. Thầy chỉ biết nhờ đôi tay các con để vươn tới những kẻ yếu đuối. Thầy chỉ biết nhờ miệng lưỡi các con để nói cho mọi người về tình thương của Thầy.

Tóm lại, Ngài mời gọi chúng ta cộng tác với Ngài để thực hiện những phép lạ, y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Phúc âm. Bất cứ chúng ta trao tặng Ngài điều gì, Ngài sẽ sử dụng nó để đem lại những kết quả to lớn vượt qua sự mong ước của chúng ta.

3. Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn.

(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Có người cho rằng Kitô giáo là một thứ duy tâm, chỉ biết có đời sau, chỉ lo cho linh hồn.

Khi đọc Tin Mừng, ta thấy một điều khác hẳn. Đức Giêsu vừa rao giảng Nước Trời, vừa chữa mọi thứ tật bệnh cho dân chúng. Ngài quan tâm đến thân xác con người. Ngài đem lại ơn cứu độ cho cả hồn lẫn xác.

Đức Giêsu đã từng nếm cái đói trong hoang địa, cái khát bên bờ giếng, cái mệt khiến Ngài ngủ vùi, cái lạnh của những đêm không chỗ trọ, Ngài biết con người có thân xác và là thân xác.

Khi thấy đám đông kiên trì theo Ngài, Đức Giêsu biết lòng họ rất vui, nhưng bụng họ thì đói. Ngài muốn tặng họ một bữa ăn đơn sơ, bất ngờ, một bữa ăn tập thể ngoài trời, trên thảm cỏ xanh tươi sau những trận mưa xuân. Bữa ăn khiến niềm vui được trọn vẹn.

"Chúng ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?"
Đức Giêsu đưa các môn đệ đi vào nỗi bận tâm của Ngài. Ngài cần sự cộng tác của họ. Nhưng câu hỏi trên lại là một bài toán khó. Nó giúp các môn đệ nhận ra sự bất lực của mình. Dù có một số tiền lớn cũng chẳng thấm vào đâu.
Khi con người bất lực thì Thiên Chúa bày tỏ quyền năng. Năm cái bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ, từ tay một cậu bé con đến tay Đức Giêsu, đã trở nên lương thực nuôi năm ngàn người.

Thế giới tiến bộ hôm nay vẫn là một thế giới đói. Đừng vội nói đến cái đói tinh thần. Cái đói trên thân xác vẫn làm con người quay quắt. Đói cơm ăn áo mặc, đói nhà ở, đói thuốc men, đói chút nước sạch, rau sạch để dùng, đói an toàn và bảo hộ khi lao động, đói một bầu khí trong lành và yên tĩnh để nghỉ ngơi...

Có bao Kitô hữu đã xót xa trước cảnh đói, và đã bắt tay vào cuộc với niềm tin, dù họ chỉ có năm cái bánh và hai con cá.
Tất cả những gì giúp thăng tiến đời sống con người đều là việc thánh thiêng, việc của Chúa. Khi thân xác con người được sống xứng hợp, tâm hồn con người dễ vươn lên các giá trị tinh thần.

Thiên Chúa đã ban một trái đất đủ nuôi sống mọi người. Đừng trách Thiên Chúa đã tạo ra nghèo khổ. Chỉ nên nhận rằng bất công nằm ngay nơi lòng mình. Xã hội còn nhiều người nghèo đói vì tôi không dám chia sẻ cả điều mình dư thừa, vì tôi bị hút vào cơn lốc của thời trang và mua sắm, vì tôi xa lạ với những Giêsu quanh tôi đang đói khát, không nhà, trần trụi và đau yếu. Ước gì tôi biết yêu mến con người như Đức Giêsu.

Gợi Ý Chia Sẻ
·       Bạn có nghĩ rằng cái đói của thân xác dễ dẫn đến những hư hỏng và sa đọa không? Theo ý bạn, đâu là những điều kiện sống tối thiểu để sống cho ra người?
·       Bạn nghĩ gì về sự chênh lệch quá mức giữa người giàu và người nghèo, nước giàu và nước nghèo? Đó có phải là sự bất công không?

Cầu Nguyện
Lạy Chúa, đây là ước mơ của con về thế giới:
Con mơ ước tài nguyên của cả trái đất này là thuộc về mọi người, mọi dân tộc.

Con mơ ước không còn những La-da-rô đói ngồi ngoài cổng, bên trong là người giàu yến tiệc linh đình.

Con mơ ước mọi người đều có việc làm tốt đẹp, không còn những cô gái đứng đường hay những người ăn xin.

Con mơ ước những người thợ được hưởng lương xứng đáng, các ông chủ coi công nhân như anh em.

Con mơ ước tiếng cười trẻ thơ đầy ắp các gia đình, các công viên và bãi biển đầy người đi nghỉ.

Lạy Chúa của con, con ước mơ một thế giới đầy màu xanh, xanh của rừng, xanh của trời, xanh của biển, và xanh của bao niềm hy vọng nơi lòng những ai ham sống và ham dựng xây. Nếu Chúa đã gieo vào lòng con những ước mơ, thì xin giúp con thực hiện những ước mơ đó.

4. Đào tạo trái tim – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

Đài VTV1 đã chiếu lại bộ phim truyền hình nhiều tập “Bản Tin Sớm”. Nhân vật chính trong phim là Gary Hopson, một người thường xuyên theo dõi tin tức hằng ngày qua tờ báo “Chicago”. Khi đọc tin tức, anh thường chú ý tới những người đang gặp nạn. Mỗi khi thấy có người bị nạn, anh luôn băn khoăn tự hỏi xem mình phải làm gì để giúp đỡ nạn nhân. Và lập tức, bất kể những khó khăn, anh lên đường tìm giúp người bị nạn.

Tâm hồn người thanh niên dũng cảm và quảng đại ấy có những nét giống với tâm hồn của Đức Giêsu. Mỗi khi nhìn thấy những cảnh khổ ở đời, Đức Giêsu không sao cầm được lòng thương. Hôm nay, nhìn thấy đám đông đói khát, Người không thể để mặc họ ra về. Người cảm thấy có trách nhiệm phải lo cho họ ăn uống đầy đủ. Dù giữa nơi hoang vu không có hàng quán. Mà nếu có hàng quán cũng chẳng ai đủ tiền mua cơm bánh cho hàng chục nghìn người đang đói khát. Nên người đã làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều để nuôi dân. Qua phép lạ lớn lao này, Đức Giêsu hé mở cho ta thấy trái tim đầy tình thương xót của Người, quyền năng cao cả của Người. Nhưng đồng thời Người cũng nhân dịp này đào tạo trái tim con người.

Bài học thứ nhất mà Người muốn dạy ta, đó là lòng cảm thương phải biến thành việc làm cụ thể. Lòng cảm thương là một tình cảm tốt. Nhưng cảm thương suông thì chưa đủ. Thiếu việc làm cụ thể, lòng cảm thương nhiều khi trở thành hình thức, giả dối. Lòng cảm thương ai cũng có. Nhưng số người thực sự ra tay hành động vì lòng cảm thương lại rất hiếm. Có rất nhiều lý do: thái độ ngại ngùng, hoàn cảnh phức tạp, thiếu thốn phương tiện. Các tông đồ nại đến những lý do đó để thoái thác hành động. Nhưng Đức Giêsu bắt họ vào cuộc. Đã thấy việc tốt thì cố gắng làm. Dù khó khăn cách mấy cũng phải vượt qua. Chỉ có việc làm cụ thể mới minh chứng một lòng cảm thương đích thực. Thế là các môn đệ phải đi tìm bánh và cá mang đến cho Chúa. Các ông giúp phân phát lương thực cho mọi người. Các ông đi thu lượm những mẩu bánh còn dư. Các ông tích cực tham gia vào việc cứu đói.

Bài học thứ hai mà Người muốn dạy ta, đó là hãy cộng tác vào công trình của Chúa. Chúa có thể làm được mọi sự. Nhưng Người muốn ta cộng tác vào chương trình của Người. Người có thể biến đá thành bánh. Nhưng Người vẫn đón nhận 5 chiếc bánh và 2 con cá của một em bé. Sự đóng góp của con người tuy nhỏ bé, nhưng rất cần thiết. Đó chính là khởi điểm để Chúa làm việc. Đừng khoán trắng cho Chúa mọi việc. Hãy đóng góp phần của mình. Tục ngữ Pháp có câu: “Hãy tự giúp mình, rồi trời sẽ giúp bạn”. Sự cộng tác của ta nói lên nhu cầu thật sự bức thiết. Sự cộng tác tích cực nói lên lòng ta tha thiết mong muốn. Nỗ lực của con người là khởi đầu phải có. Rồi Chúa sẽ làm nốt phần còn lại. Ở đây ta phải ghi nhận lòng quảng đại của em bé. Có lẽ em đi bán bánh. Giữa nơi hoang vu vắng vẻ, trước một đoàn người đói khát, em có thể lợi dụng thời cơ nâng giá bánh để tìm lợi nhuận. Nhưng em đã quảng đại dâng hết cho Chúa. Chính sự quảng đại của em đã góp phần làm nên phép lạ nuôi sống hàng vạn người.

Bài học thứ ba mà Người muốn dạy ta, đó là hãy biết tiết kiệm. Đói khát và thừa mứa. Thiếu thốn và phung phí. Đó là hai trạng thái trái ngược hiện nay trên thế giới. Khi dư giả người ta dễ phung phí. Những người vừa trải qua cơn đói, nay đã vứt bừa bãi những mẩu bánh dư thừa. Đức Giêsu sai các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh thừa. Chúa dậy cho mọi người hãy biết tiết kiệm. Tiết kiệm là trân trọng những của cải Chúa ban. Tiết kiệm là ý thức của cải là của mọi người. Nếu tôi phí phạm, anh em tôi sẽ thiếu thốn. Tiết kiệm để chia sẻ. Tiết kiệm vì công bình. Tiết kiệm vì lợi ích của toàn thể nhân loại. Thế giới còn những người đói nghèo không phải là vì thiếu tài nguyên, nhưng vì phân phối chưa đồng đều, vì những người giầu có tiêu xài phí phạm.

Bài học thứ bốn mà Người muốn dạy ta, đó là phải tìm lương thực thiêng liêng. Vật chất là cần thiết cho đời sống hiện tại. Nhưng vật chất không phải là tất cả. Quá nô lệ vào vật chất, tâm hồn con người sẽ không vươn lên được. Lương thực cho thân xác là một giải quyết cấp thời. Về lâu về dài, muốn con người phát triển, cần phải giải quyết các nạn đói khác. Đó là nạn đói văn hóa. Đó là nạn đói đạo đức. Và trên hết, đó là nạn đói lương thực thiêng liêng. Nhu cầu tâm linh của con người ngày càng lớn rộng. Cơn đói khát tâm linh càng lúc càng mãnh liệt. Tìm đáp ứng nhu cầu tâm linh là một việc làm thiết thực. Nâng cao đời sống tâm linh là đưa con người tới phát triển toàn diện. Chúa bỏ trốn, không chịu để được tôn làm vua, vì Người muốn những kẻ tìm Người tỉnh ngộ, vượt thoát khỏi vòng nô lệ vật chất, vươn lên những giá trị tâm linh.

Với những bài học kèm theo việc hóa bánh ra nhiều, Đức Giêsu muốn đào tạo trái tim chúng ta. Người muốn trái tim ta hãy mở ra để cảm thương anh em đồng loại. Người muốn lòng cảm thương ấy đi đến cùng bằng những việc làm cụ thể, bằng sự cộng tác quảng đại, bằng sự tiết kiệm để giúp ích cho nhiều anh em. Người muốn trái tim ta vươn lên khao khát những chân trời cao thượng của đời sống tâm linh. Người muốn đào tạo ta nên những con người phát triển toàn diện xứng đáng là những người con của Thiên Chúa. Người muốn nuôi dưỡng không chỉ thân xác nhưng nhất là linh hồn ta.
Lạy Chúa, xin nâng tâm hồn con lên tới Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.    Hãy kể lại những bài học mà Chúa muốn dạy ta qua bài Tin Mừng hôm nay.
2.    Bạn có thể góp phần phát triển xã hội bằng cách tiết kiệm. Bạn có thấy việc đó là cần thiết không?
3.    Nhiều lần bạn đã xin Chúa cho được cơm no áo ấm. Nhưng có bao giờ bạn xin Chúa cho được nên người tốt, biết sống đạo đức hơn không?
4.    Lòng cảm thương của bạn có đi đến những việc làm cụ thể không?

5. Dịp may bỏ lỡ – Maurice Brouard.

Từ vài năm nay, những chiến sĩ của một đảng chính trị đã bỏ nhiều công sức cho chiến lược của họ: Thăm dò, họp báo, quảng cáo không ngừng, chẳng thiếu gì cả. Họ thu hút được dư luận: Càng ngày người ta càng nói đến người sẽ là vị lãnh đạo của đảng. Mặc dù có những sự thối lui trong cuộc thăm dò, nhưng cơn sốt vẫn lên cao. Và này đây một cơ hội bất ngờ: Quần chúng náo nức, họ yêu cầu người ấy làm lãnh đạo của đảng. Đến phút chót, người ấy từ chối. Các đảng viên chua xót và thất vọng vì quần chúng đã không biết nắm lấy thời cơ.

Qua dụ ngôn trên đây, tôi muốn hình dung cách mà các bạn hữu của Chúa Giêsu đã phản ứng trước sự từ chối của Ngài. Thực ra Chúa Giêsu cứ luôn luôn bỏ lỡ những cơ hội đưa Ngài tới thành công: Ngài lẩn trốn. Quả thật Ngài không sinh ra để làm chính trị.

Sự lẩn tránh của Chúa Giêsu.
Sau bữa ăn no nê ở giữa thiên nhiên, đám đông không ngớt ngạc nhiên về phép lạ mà qua đó họ nhận ra dấu chỉ đáp ứng sự chờ mong sâu xa của họ. Chúng ta biết rằng người Do Thái chờ đợi sự tái diễn phép lạ manna vào ngày tận thế – vào thời Mêsia. Họ chờ đợi một Môisê mới, một vị ngôn sứ, sẽ tái diễn phép lạ manna. Vì vậy, phản ứng của đám đông là chuyện bình thường. Nhìn thấy dấu lạ Chúa Giêsu vừa mới làm, họ nói: ông này thật sự là ngôn sứ, kẻ sẽ đến trong thế gian. Nhưng Chúa Giêsu biết họ sẽ bắt Ngài để tôn lên làm vua, vì thế Ngài lại rút lui lên núi một mình.

Tại sao phải lẩn tránh?
Tại sao Chúa Giêsu lại tránh làm vua? Bởi vì quần chúng chỉ nghĩ đến bánh, còn Ngài lại quan tâm mặc khải cho họ Thiên Chúa thật. Ngài sẽ không cho họ nhận ra được Ngài là ai: Đấng Chúa Cha sai đến mang sự sống mới cho nhân loại. Đây sẽ là bi kịch của đời Ngài. Trong diễn từ vĩnh biệt đêm tiệc ly, Chúa Giêsu tâm sự với những kẻ thân thích của Ngài: “Người Do Thái đã không nhận biết Chúa Cha và cũng không nhận biết Thầy” (16,3). Trong lời cầu nguyện với Chúa Cha, Ngài nói: “Lạy Cha Chí Thánh, thế gian không nhận biết Cha” (17,25). Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần đã không được nhìn nhận. Quần chúng chỉ quan tâm đến phép lạ, phép lạ, đến những ân huệ hoàn toàn vật chất mà thôi. Đối với Chúa Giêsu, điều chính yếu là loài người được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, và như vậy, họ sẽ cởi mở đối với Thiên Chúa, đối với niềm hy vọng về một thế giới sắp đến. Điều chính yếu trước hết là những kẻ nghi ngờ, tuyệt vọng không thấu hiểu được mầu nhiệm của đau khổ, sự dữ, sự tội và sự chết, tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha của họ. Điều chính yếu, là họ kết hợp với Thiên Chúa và cộng tác với Ngài để xây dựng một thế giới dễ thở hơn. Họ sẽ làm được điều này khi nỗ lực giải phóng anh em mình khỏi tất cả những sự dữ đang giam cầm họ trong sự nô lệ, và khỏi mọi ngẫu tượng: Tiền bạc, tiện nghi, quyền thế.

Câu hỏi.
Chúng ta tin vào Chúa Giêsu có phải là tin vào vị ngôn sứ cao cả, Đấng giải phóng đến trong trần gian để thỏa mãn những ước vọng sâu xa nhất của chúng ta (ước vọng được cứu rỗi, được sống vĩnh cửu, được hiệp thông với Thiên Chúa) và để lôi cuốn chúng ta giải phóng những người anh em đang phải nô lệ cho sự bất công, thù ghét và cho các ngẫu tượng không?

Lời Chúa và Thánh Thể.
Thánh Thể là bữa tiệc được Chúa Giêsu thiết lập để nuôi dưỡng ước muốn hiệp thông của chúng ta với Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần, và để tăng cường ý chí chúng ta muốn phục vụ hết thảy mọi người.

6. Phúc Âm đã phản ánh trong Thánh Lễ.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng” – Charles E. Miller)
Thời gian thánh Gioan đã viết Phúc Âm của Ngài vào khoảng sau mười năm sau cái chết và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, việc cử hành bí tích Thánh Thể vào Chúa Nhật đã được hình thành và thiết lập như một sự diễn tả những gì có nghĩa là một môn đồ của Đức Kitô. Thánh Gioan đã viết chương sáu của ngài theo cách để cho những người đọc mường tượng thấy ngày Chúa Nhật của họ khi suy niệm Phúc Âm của ngài. Hầu như hai mươi thế kỷ sau chúng ta vẫn còn thể thấy rõ được thực tại này.

Chương thứ sáu mở ra bằng việc kể lại sự kỳ diệu Chúa Giêsu nuôi năm ngàn người với năm chiếc bánh và hai con cá. Theo những lời của Thánh Gioan, đó là một đám đông khổng lồ. Thánh Lễ không phải là một việc sùng kính riêng, hoặc là một cuộc hành hương với một vài người. Đó là một việc cử hành với một đám đông người, xuyên qua khắp thế giới là những dân của Thiên Chúa.

Thánh Gioan đã chú ý đến lễ Vượt Qua của người Do thái thì gần đến. Đó không phải là một sự tình cờ mà là một thời gian trong năm đã được đề cập đến như là ý nghĩa của bí tích Thánh Thể. Hy tế Tạ ơn là một cuộc Vượt Qua của người Kitô giáo chúng ta, việc cử hành hy tế này đã ban cho chúng ta như môt dân của Thiên Chúa. Trong kinh nguyện thứ bốn chúng ta kêu lên rằng: “Lạy Chúa bởi thánh giá và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng con, Ngài là Đấng cứu độ thế gian.”

Thánh Gioan đã tiếp tục quan sát khi diễn ra việc nuôi sống đám đông, một cậu bé đã hiến dâng năm chiếc bánh và hai con cá cho Chúa Giêsu. Điều đó có vẻ như là không có gì khi so sánh với nhu cầu của một số đông người như thế. Trong cùng cách đó nơi Thánh Lễ, một số người đã mang rượu và bánh để bắt đầu chuẩn bị những của lễ. Họ là cậu bé của Phúc Âm và những của lễ dâng cho vị linh mục thì không ý nghĩa gì khi so sánh với những gì chúng sẽ trở thành.

Trong câu chuyện về những chiếc bánh mà Chúa Giêsu đã thực hiện những hành động hy tế. Chúa Giêsu đã cầm lấy những chiếc bánh và dâng lời tạ ơn. “Từ Eucharist có nghĩa là dâng lời tạ ơn”. Ở điểm này, thánh Matthêu trong Phúc Âm của ngài đã kể lại cho chúng ta một chi tiết rất quan trọng. Ngài kể rằng sau khi Chúa Giêsu nhìn lên trời, dâng lời tạ ơn, Ngài cầm lấy bánh bẻ ra và trao cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng. Cái nhìn này chính xác giống như những gì đã xảy ra nơi Thánh Lễ khi vị linh mục được trợ giúp bởi một vị thừa tác viên Thánh Thể đặc biệt.

Còn cá thì thế nào? Chúng không phải là một phần trong bữa ăn hy tế của chúng ta nhưng cá là một dấu hiệu rất cổ xưa mà nay vẫn còn lưu hành, biểu tượng của người Kitô hữu. Những chữ đầu trong tiếng Hy lạp là Giêsu Kitô: “Giêsu Con Thiên Chúa, Đấng cứu độ”. Là những mẫu tự đầu vẫn được đánh vần bởi tiếng Hy lạp của chữ cá: “ICHTHUS.” Vì thế mọi người đều rất thích với ý nghĩa dấu hiệu này, họ chú ý đến cá là cho họ nhớ rằng Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta đến nỗi Ngài đã ban Con duy nhất của Ngài, để cứu độ chúng ta qua hy tế mà Ngài đã dâng chính mình Ngài trên thánh giá. Hy tế Thánh Thể là một tưởng nhớ sống động của lễ hy sinh này. Trong lúc cử hành hy lễ chúng ta tuyên xưng cùng Đức Kitô: “Chính bằng sự chết Ngài đã phá huỷ sự chết của chúng ta, bằng sự sống lại, Ngài đã phục hồi sự sống của chúng ta”.

Vì Chúa Nhật thứ bốn kế đó chúng ta sẽ nghe tiếp chương thứ sáu của thánh Gioan, và mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta lại càng đi sâu hơn vào hy tế Thánh Thể.

7. Chúng ta đợi gì nơi Tin Mừng?

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest).
Phép lạ bánh hóa nhiều mà thánh Gioan kể lại trường hợp với phép lạ thứ nhất bánh hóa nhiều trong các Phúc âm nhất lãm. Xem Hc 6,30-43. Các Phúc âm Nhất lãm – nhấn mạnh đến lòng Chúa Giêsu thương xót dân chúng. Thánh Gioan lưu ý đến giá trị dấu chỉ chứa đựng trong biến cố.

Đàng khác, chúng ta thấy ở đây Chúa Giêsu sử dụng một phương pháp tâm lý. Chúa Giêsu biết rõ điều Ngài sẽ làm, nhưng Ngài làm như không biết, và Ngài đặt một vấn đề. Đặt vấn đề là một cách thức tốt để khơi dậy sự chú ý. Làm thế nào để dân chúng hỏi về đói lả? Làm sao kiếm thức ăn cho họ? Những dự kiến của vấn đề rất đơn giản người ta chỉ có 5 cái bánh mà người ăn có đến từng ngàn. Sự chênh lệch quá lớn lao. Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh sự chênh lệch vô giới hạn giữa các phương thế hành động với sự đói lả của đám đông – Những phương tiện nhân loại càng quá ít ỏi, sự can thiệp của Chúa sẽ tỏ ra thật cảm kích xét về thành quả.

Biến cố sẽ đánh động mạnh mẽ các môn đệ và đám đông. Dân chúng, sau một lúc hân hoan cảm kích, sẽ mau lẹ trở về với đời sống vất vả thường xuyên của họ. Các môn đệ ghi nhận phép lạ nhưng lòng trí chưa hiểu ngay tất cả ý nghĩa, nhưng đó sẽ là một yếu tố quan trọng trong việc giáo dục của Chúa Giêsu đối với họ. Cho được như vậy, phải đợi Chúa sống lại. Nhưng phép lạ ấy cũng đã gây ra nơi họ một ấn tượng sâu xa giúp họ trung thành với Chúa, mặc dầu những thử thách lớn họ sẽ gặp sau này.
Bài tường thuật của thánh Gioan tỏ cho thấy hai điều quan trọng:

1) Từ một trường hợp cụ thể, Chúa Giêsu đòi các Tông đồ một niềm tin tuân phục, lương tri buộc Philipphe hỏi Chúa: ‘Chúng con phải mua bánh ở đâu để có họ ăn? Chúa Giêsu đáp: ‘Hãy bảo họ ngồi xuống’. Các Tông đồ vâng lệnh Thầy và có lẽ tự hỏi sự gì sẽ xảy ra. Họ nghĩ rằng có lẽ với Thày họ, không được tìm hiểu. Chuyện kể lại: Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn và phân phát cho họ. Chắc chắn là Chúa Giêsu dùng các Tông đồ để phát cho dân chúng’ (Mc 6, 41). Điều gì xảy ra nếu các tông đồ trước sự không thể được, đã chống lại Chúa Giêsu? Chắc là họ sẽkhông phải là những người cộng tác với công việc của Chúa.

Đó là kết quả của niềm tin vâng phục. Nó làm cho kẻ tin trở nên người cộng tác với Thiên Chúa để làm những việc ấy vượt qua những phương tiện nhân loại.

Chúng ta có biết vâng lời để thi hành những nhiệm vụ mà Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta, nhất là lúc những việc ấy vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta?

2) Niềm tin vâng phục phải được sống thực sự.
Tình trạng tâm lý của các tông đồ ngay lúc đó không cho phép họ hiểu được đúng đắn dấu chỉ mà Chúa Giêsu ban cho họ.

Chúa Giêsu muốn ban cho họ một khởi điểm cho niềm tin phục sinh sau này. Còn họ, ngay lúc đó, họ phản ứng theo niềm hy vọng ấp ủ trong lòng. Họ hy vọng một Đấng Cứu thế sẽ lập lại vương quốc Israel. Một cách chân thành, nhưng cũng sai lầm, họ thấy trong phép lạ một cơ hội để tôn Chúa Giêsu lên làm vua. Ngày nay chúng ta đang sống niềm tin vào Chúa Giêsu sống lại. Nhưng chúng ta hiểu niềm tin chúng ta theo chiều hướng những tư tưởng nào, quyền lợi nào và nguyện vọng nào?

Chúng ta đợi gì nơi Chúa Giêsu và Tin Mừng?

8. Góp phần làm nên phép lạ.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Jay Kesler trong tác phẩm mang tựa đề “Những vùng đang phát triển” (Growing places) có kể một câu chuyện: Một đêm nọ ông từ máy bay bước xuống một phi trường ở Ấn Độ. Ngay khi máy bay vừa chạm đất, ông nhận thấy những bóng người đang nằm ngủ xếp lớp hai bên đường bay. Jay Kesler liền hỏi người bên cạnh thì được anh ta trả lời: đó là những kẻ sống vô gia cư. Suốt ngày đường bay hấp thụ sức nóng để về đêm trở thành máy sưởi ấm cho đám người ấy đỡ lạnh. Rời khỏi máy bay, Jay Kesler đi nhận hành lý và lên xe buýt về thành phố lân cận. Sau nửa đêm xe buýt mới đến nơi. Khi bước xuống con phố hoang vắng dẫn đến khách sạn, ông nhận thấy chung quanh ông toàn là lũ dân nghèo khổ. Thế rồi thình lình ông nghe có tiếng động kỳ lạ vang lên: Lịch kịch, lịch kịch, lịch kịch… ông liền quay lại và thấy một thằng bé có cặp giò bị cưa hầu như lên tới tận háng. Thằng bé đang cố trườn mình tới trên hai chiếc nạng bé tí. Khi đến gần Jay Kesler, thằng bé chìa tay ra xin. Jay Kesler liền cho nó tất cả số tiền lẻ trong người rồi tiếp tục đi về khách sạn. Vừa đi được thêm quãng mười bước, ông lại nghe một âm thanh kỳ lạ khác. Ông quay đầy lại nhìn thì nhận ra một vài thằng ăn xin khác đang đánh thằng bé hồi nãy bằng chính đôi nạng của nó. Chúng đang cưỡng bức thằng bé bắt nó phải trao lại cho chúng những đồng tiền mới xin được. Jay Kesler nói rằng suốt đêm ông không hề chợp mắt ngủ được.

Ngày nọ, có một phụ nữ trung niên đến với lũ người nghèo khổ, hung dữ này. Nhìn thấy tình trạng bị đát trước mắt, bà tự nhủ lòng: “Tôi phải làm một điều gì mới được”. Thế rồi bà dồn tất cả tiền bạc của mình thuê một căn nhà cũ với chiếc sàn nhà dơ bẩn. Tuy căn nhà không khang trang lắm, nhưng có thể ở được. Ngày hôm sau, bà đi khắp vùng lân cận tìm lũ con trẻ đem về dạy dỗ chúng. Bà dùng căn nhà cũ kỹ làm phòng học, dù không có lấy một chiếc bàn, một chiếc ghế. Bà dùng sàn nhà làm bảng viết phấn, bà dùng tấm vải rách nát cũ kỹ lau sạch nền rồi viết lên trên đó cho lũ trẻ học. Đó là phương cách bà dùng để chiến đấu sự nghèo dốt và hung dữ chung quanh bà và là câu trả lời gây cảm động nhất mà bà có thể thực hiện.

Thế rồi điều gì đã xẩy ra cho người phụ nữ và công việc bảo trợ của bà? Ngày hôm nay bà đã có 80 trường học trang bị đầy đủ, 300 nhà phát chẩn lưu động hiện đại, 70 bệnh viện cho người cùi, 30 viện chăm sóc người hấp hối, 30 viện chăm sóc trẻ em bị bỏ rơi và 40.000 nhân viên thiện nguyện khắp thế giới sẵn lòng giúp đỡ bà. Người phụ nữ đó không ai khác, chính là Mẹ Têrêxa thành Calcutta, vị sáng lập Dòng Thừa Sai Bác Ái.

Thưa anh chị em, 
Tôi cho rằng không có câu chuyện nào hay hơn để làm sáng tỏ chủ đề của bài đọc 1 và bài Tin Mừng hôm nay: 20 cái bánh của một nông dân góp phần cho Ngôn Sứ Êlizê nhân lên để dọn cho 100 người ăn mà còn dư thừa. Năm cái bánh và hai con cá của cậu bé góp phần cho Chúa Giêsu thực hiện phép lạ cho 5000 người ăn no nê mà còn dư đến 12 thúng.

Đó cũng là điều Mẹ Têrêxa đã làm. Bà đã trao cho Chúa khẩu phần “bánh và cá” của bà để Chúa Giêsu thực hiện điều kế tiếp. Thế là Chúa đã nhân chúng lên gấp bội vượt mọi niềm mơ ước của bà. Đó cũng là điều Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II ngỏ cùng các bạn trẻ tại Edingburgh trong lần Ngài đến thăm Scotland vào năm 1982: “Giờ đây Cha xin nhấn mạnh chủ đề này: Cậu bé trong Tin Mừng đã trao cho Chúa tất cả khả năng cậu có thể rồi Chúa Giêsu thiết đãi đám đông 5000 người ăn no nê một cách lạ lùng và vẫn còn dư. Đời sống của các bạn cũng y hệt như thế. Nếu phải một mình đối đầu với những thách đố khó khăn của cuộc sống, các viễn cảnh tương lai. Nhưng cha xin nói với các bạn điều này: hãy đặt cuộc đời các bạn trong tay Chúa Giêsu. Ngài sẽ chấp nhận và sẽ chúc lành cho các bạn và sẽ biến đổi cuộc đời các bạn một cách tốt đẹp hơn, vượt mọi kỳ vọng lớn lao nhất của các bạn”.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta nhìn lại tâm hồn mình và tự vấn xem chúng ta đang đặt trong tay Chúa Giêsu bao nhiêu phần trăm cuộc sống và khả năng chúng ta để Chúa sử dụng ý Ngài muốn? Nói rộng hơn, chúng ta có dâng hiến chính mình và mọi năng lực của mình như mẹ Têrêxa Calcutta, như người nông dân trong bài đọc 1 và như cậu bé trong Tin Mừng hôm nay đã làm chưa? Hôm nay Chúa Giêsu ngỏ lời với chúng ta: “Tôi cần tài năng của anh chị em, tôi cần lòng quảng đại của anh chị em, nói chung, tôi cần đến anh chị em: cần đôi chân, đôi tay, môi miệng của anh chị em. Vì hôm nay tôi chỉ biết nhờ đôi chân của anh chị em để mang tôi đến các khu xóm tồi tàn, các xưởng thợ và phòng làm việc ở các thành phố của anh chị em. Tôi chỉ biết nhờ đôi tay của anh chị em để vươn tới những người yếu đuối bơ vơ, những người trẻ em đường phố, những người không cửa không nhà và đang lâm và tình trạng tuyện vọng. Tôi chỉ biết nhờ vào miệng lưỡi anh chị em để nói cho các anh chị em tôi lý do tôi đã đến trên trái đất này, đã mang thân phận con người, đã chịu đau khổ và chịu chết cho mọi người”.

Tóm lại, thưa anh chị em, hôm nay Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hợp tác với Ngài thực hiện những phép lạ y hệt những phép lạ Ngài đã làm trong Kinh Thánh. Bất cứ chúng ta trao tặng cho Ngài điều gì – chẳng hạn thời gian, tài năng, tiền của, lời cầu nguyện, sự hy sinh và nguồn lực của chúng ta – Ngài sẽ sử dụng tất cả để đem lại kết quả vượt mọi kì vọng vĩ đại nhất của chúng ta. Ngài sẽ bội nhân chúng lên vượt khỏi bất cứ niềm mơ ước nào của chúng ta giống như Ngài đã bội nhân năm cái bánh và hai con cá của cậu bé trong Tin Mừng hôm nay. Cậu bé vì quảng đại, đã sẵn sàng trao khẩu phần trưa của em cho Chúa thì lại được ăn no nê, hơn nữa lại được sung sướng nhận thấy món quà nhỏ mọn của mình đã đem lại những thích thú bất ngờ cho bao nhiêu người khác. Cha Mckarns nói: “Tôi tưởng chừng như sau đó Chúa Giêsu sẽ bảo các Tông Đồ gởi về nhà cậu bé ấy vài thùng bánh còn dư để tỏ lòng biết ơn”.

Anh chị em thân mến,
Cậu bé chính là anh chị em, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Trước nỗi thống khổ của biết bao người, chúng ta thường nghĩ rằng tài sản của chúng ta chẳng thấm thía gì, quá ít. Điều đó đúng. Thế nhưng, nếu chúng ta trao tặng tài sản đó, thì như một số vốn, lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại, sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ, tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu… Làm như vậy, chúng ta đặt nền móng cho Nước Trời, Nước của những người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau. Như thế, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy chia sẻ tình yêu để chuẩn bị cho Nước Trời là tình yêu vĩnh cửu; hãy chia sẻ với lời cảm tạ để bánh trần gian được Đức Kitô biến đổi thành Bánh Bởi Trời, thành chình Ngài: Bánh ban sự sống muôn đời.

 

9. Cám ơn – Arthur Tone.

Một nông dân chở lúa mì đến kho lúa ở thành phố kế cận. Anh dừng xe lại một quán ăn và đến ngồi gần một nhóm bạn trẻ đang quậy phá, la ó người đầu bếp, chất vấn cô bồi bàn. Khi bữa ăn dọn ra trước mặt, người nông dân cúi đầu dâng lời cầu nguyện.Một kẻ ngạo nghễ trong bọn nghĩ rằng y sẽ chọc quê bác nông dân, nên y la lớn để mọi người  nghe được: Ê, Bố! Ở quê bố ai cũng làm vậy sao?”. Bác nông dân bình tĩnh quay về phía gã thanh niên và lớn tiếng đáp lại: “Không, con ơi, những con heo không biết làm như vậy!”.

Câu chuyện này có thể chạm tự ái những ai không đọc kinh trước khi dùng bữa. Nhưng nó có thể khởi đầu cho tất cả chúng ta nghĩ đến việc cám ơn Chúa vì Chúa ban của ăn. Nghĩ đến bao lợi ích, bao ơn huệ, đặc ân để dâng một lời cảm tạ khi chúng ta ngồi vào bàn ăn.

Đức Giêsu cho chúng ta một tấm gương hoàn hảo trong câu chuyện hôm nay về việc Chúa nuôi năm ngàn người ăn no vời 5 tấm bánh và 2 con cá. “Đức Giêsu cầm lấy bánh và sau khi đã tạ ơn. Người phân chia cho họ”… Chúa chúng ta cũng cảm tạ trong bữa ăn tối sau cùng. Như chúng ta nhắc lại trong lời Truyền phép mỗi Thánh Lễ.
Khi chúng ta noi gương Chúa Kitô dâng lời cầu nguyện trước bữa ăn. Chúng ta sẽ thấy rõ lòng nhân hậu của Chúa đã làm cho chúng ta có của ăn và đồng thời cũng giúp chúng ta thấy rõ sự khổ sở vì đói bụng. Cũng thế, chúng ta phải biết ơn Chúa vì của ăn thiêng liêng là chân lý của Chúa. Và bánh của Chúa. Sự rước lễ giúp ta thấy rõ lòng quảng đại của Chúa.

Năm 1976, Đại Hội Thánh Thể thế giới ở Philadelphia. Đề tài trong 8 ngày đại hội là: “Những cái đói trong gia đình nhân loại”. Nhiều người thuộc mọi quốc tịch đã hội thảo về cái đói của con người: Đói Chúa, đói bánh, đói tự do, đói công lý, đói hòa bình và chân lý. Nhất là đói Đức Giêsu, bánh ban sự sống. Ít người trong chúng ta có thể đến Philadelphia, nhưng mọi người chúng ta có thể nghĩ, cầu nguyện và giải quyết những cái đói của trái tim con người.

Việc biết ơn Chúa tại bàn ăn có thể là một bước đầu: Tôi có đủ đồ ăn và có dư nữa trong khi hàng triệu người đói lả. Tôi thật may mắn, họ thật bất hạnh. Tôi muốn hỏi câu hỏi Đức Giêsu hỏi trong bài Tin Mừng hôm nay: “Chúng ta phải mua bánh cho họ ăn làm sao?”. Chúng ta sẽ ý thức rằng chúng ta phải mua bánh chia sẻ, phải tránh hoang phí. Chúng ta phải khuyến khích, nâng đỡ những tổ chức trợ cấp người nghèo đói như Thánh bộ truyền bá đức tin, cơ quan viện trợ Công giáo hải ngoại. Chúng ta sẽ xin chính phủ nuôi người đói khát bằng mọi giá.

Còn quan trọng hơn nữa tôi phải biết ơn Chúa trong Thánh Lễ khi tôi rước Mình, Máu Chúa Kitô. Hàng triệu người không biết gì về của ăn này. Bạn có biết danh từ “tạ ơn” được dùng bao nhiêu lần trong Thánh Lễ. Hợp ý trong lời cầu nguyện đó và bạn sẽ khao khát chia sẻ bánh ban sự sống với những ai chưa có. Hợp ý với Đại Hội Thánh Thể bằng cách đọc kinh trước bữa ăn và đặc biệt bằng lời nguyện tạ ơn trong bàn tiệc Thánh Thể.
Xin Chúa chúc lành bạn.

 

10. Mua đâu ra bánh cho những người này ăn.

(Suy niệm của Noel Quesson)
Một toán du khách đi thăm dấu vết của trại Đa-sô (Dachau), một trại giam nổi tiếng của phát xít Đức thời Hitler. Người hướng dẫn khách du lịch hôm đó là một cựu tù nhân của Đa-sô xưa, ông đã bị nhốt lâu năm và may mắn thoát chết. Hôm đó là Chúa nhật, nhiều toán du lịch khách đến thăm di tích lịch sử này. Khắp nơi vương vãi những rác rưởi lẫn với đồ ăn thức uống. Gặp một mẩu bánh mì nằm bên lề đường, người hướng dẫn toán du lịch nhào tới lượm lên, ông nói giọng run run: “Một mẩu bánh mì! Tôi không thể chịu được khi thấy một mẩu bánh mì bị bỏ phí. Mấy năm thoi thóp trong tù, đối với tôi mẩu bánh mì đồng nghĩa với sự sống. Nó là ranh giới giữa sống và chết”.

Trong các bản năng Chúa trao ban cho con người, có lẽ bản năng sinh tồn là tha thiết nhất. Bất cứ ai đã có lần bị xâu xé trong cơn đói thì sẽ ghi nhớ suốt đời. Chắc Chúa Giêsu đã có kinh nghiệm trong bốn mươi ngày đêm ăn chay nơi sa mạc, nên người rất cảm thương những người bị đói. Đám dân lũ lượt đi theo Chúa vào sa mạc, có những người vì tin tưởng muốn nghe lời Chúa, nhưng cũng có người chỉ vì tò mò, vui chân theo bạn bè, họ cứ đi mà không nghĩ đến ăn uống. Giờ này, Chúa biết họ đói bụng, và Chúa nghĩ phải kiếm gì cho họ ăn. Và có lẽ qua niềm cảm thông với tình cảnh đói khát của con người như vậy, Chúa đã nghĩ tới việc lập Bí Tích Thánh Thể. Qua Bí Tích này, Chúa ở lại gần gũi với nhân loại hơn. Đồng thời cũng là để thỏa mãn phần nào sự đói khát tâm linh của tín hữu. Từ lương thực no đủ cho thân xác, con người nghĩ về Chúa như một nhu cầu thiết yếu của linh hồn mình. Chúa đã mở rộng cõi lòng và cái nhìn của ta để ta dễ tiếp nhận mầu nhiệm Thánh Thể bằng một phép lạ vĩ đại: Bánh hóa nhiều. Chúa làm cho 5 ổ bánh hóa nhiều để nuôi 5 ngàn người, cốt cho chúng ta nhớ tới Chúa là bánh thật, bánh trường sinh, là lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta. Sự đói khát Chúa khó cảm thấy, nhưng cũng gây mệt mỏi cho con người như đói cơm bánh vậy.

Tại sao Chúa phải hỏi Philipphê về việc mua bánh? Ngài có thể phán một lời là có ngay nhiều bánh nhiều cá. Tuy nhiên Chúa muốn thực hiện một phép lạ với sự cộng tác của Tông đồ và thiện chí của một em bé. Đó cũng là một qui luật tự nhiên mà Chúa hằng tôn trọng: do lòng tin mà có phép lạ. Chúng ta còn nhớ phép lạ trong tiệc cưới Cana. Chúa có thể từ không mà làm ra rượu, nhưng Chúa đã đợi người ta đổ nước lã đầy các chum. Những người giúp việc đang mệt mỏi mà phải đi múc nước từ giếng sâu, cũng là một cố gắng, có thể nói được là một hành động biểu lộ đức tin.

Lạy Chúa, vì yêu thương, Chúa đã ban lời Chúa và Thánh Thể làm lương thực nuôi sống linh hồn chúng con. Xin giúp chúng con hiểu và tin những mầu nhiệm Chúa muốn mạc khải cho chúng con. Chúng con xin tạ ơn Ngài.

11. Tình thương.

Trước đám đông đói mệt nơi hoang địa, Chúa Giêsu đã phán:
-        Ta thương dân này.
Qua Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu không bao giờ lãnh đạm trước những khổ đau của con người. Ngài đã xót thương người đàn bà góa, theo sau chiếc quan tài chôn táng đứa con duy nhất nơi cổng thành Naim. Ngài đã thổn thức trước nấm mồ Lagiarô. Ngài muốn chia sẻ nỗi đớn đau với hai chị em Matta và Maria.

Hôm nay, khi làm phép lạ bánh hóa nhiều, Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài lo lắng đến con người chúng ta, cả hồn lẫn xác. Thực vậy, trong kinh Lạy Cha, lời kinh tuyệt vời do Ngài truyền dạy, Ngài đã bảo chúng ta cầu xin với Chúa Cha ban cho lương thực hằng ngày, trước cả lời cầu xin tha thứ tội lỗi. Và như thế, Kitô giáo không phải là một tôn giáo yếm thế, chán đời, chê ghét những thực tại trần gian.

Không phải chúng ta chỉ cầu xin cho những nhu cầu tinh thần, mà còn phải cầu xin cho những nhu cầu vật chất, vì chúng ta không phải là những thiên thần, như một câu danh ngôn đã bảo:
-        Ai tưởng rằng mình là thiên thần, thì sẽ trở thành một con vật.
Trong Phúc âm Chúa Giêsu thường bảo:
-        Ta nêu gương cho các con để các con cũng làm như Ta đã làm cho các con.
Ngài đã xót thương những người đói khổ và rồi đã xoa dịu và an ủi họ. Bây giờ đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải xót thương những kẻ khổ đau chung quanh chúng ta. Cầu nguyện cho họ mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải giúp đỡ họ tùy theo khả năng chúng ta. Tiền bạc của cải chúng ta đang có là do Chúa ban và chúng ta chỉ là những người quản lý.

Bởi đó, hãy lắng tai nghe và hãy mở mắt nhìn, nhờ đó chúng ta ghi nhận được những khổ đau của những người chung quanh, rồi ra sức an ủi, khích lệ và giúp đỡ. Thật là đáng buồn, nếu trong ngày sau hết, chúng ta tiến đến cùng Chúa với hai bàn tay trống rỗng không một chút công nghiệp, và với một cuộc đời cũng trống rỗng, không một hành vi bác ái.

Thế nhưng, Chúa Giêsu không phải chỉ dừng lại ở sự túng thiếu và đói khát thể xác, mà Ngài còn tiến tới một sự túng thiếu và đói khát tâm hồn.

Phúc âm đã kể lại: ngày hôm sau, những người Do Thái đã hăng hái tìm gặp Chúa Giêsu. Cái ấn tượng của phép lạ bánh hóa nhiều còn ghi lại một cách sâu đậm trong tâm hồn họ, thế nhưng Chúa Giêsu đã phán với họ:
-        Ta là bánh hằng sống, cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Bánh ta ban là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ không phải chết. Ta là bánh từ trời xuống, ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời. Bánh Ta sẽ ban là thịt Ta cho thế gian được sống.

Khi thấy những người Do Thái bàn tán xôn xao về những lời ấy, Chúa Giêsu còn quả quyết một cách mạnh mẽ hơn:
-        Quả thật, quả thật Ta nói với các ngươi, ai không ăn thịt Ta và không uống máu Ta thì sẽ không có sự sống trong mình.

Và như thế, chúng ta đã thấy, nếu chúng ta muốn sống sự sống thần linh, chúng ta phải siêng năng rước lễ. Có siêng năng rước lễ và rước lễ một cách sốt sắng, chúng ta mới có được sự sống của Chúa trong tâm hồn.

Đồng thời khi tiến tới bàn thánh Chúa, chúng ta mới cảm thấy mình thực sự là bè bạn, là anh em với nhau cũng như cùng là chi thể trong nhiệm thể Đức Kitô.

Từ bàn thánh trở về giữa lòng cuộc đời, chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ nhau, như các tín hữu sơ khai xứng đáng với lời khen:
-        Kìa xem họ thương nhau biết chừng nào.


12. Hóa bánh.

Việc hóa năm chiếc bánh và hai con cá ra nhiều đã gây ra một tác động mạnh trên mọi môn đệ. Vì thế, biến cố này được cả bốn vị thánh sử: Matthêu, Máccô, Luca và Gioan thuật lại.

Trong sách Tin Mừng của mình, thánh Gioan có ghi lại những chi tiết mang ý nghĩa thần học. Ngài phác họa một đám đông giống như đám dân Israen trong sa mạc ngày xưa. Rồi ngài nói Chúa Giêsu đi lên núi, chi tiết này giống như ông Môsê đi lên núi để lãnh nhận từ Thiên Chúa một sinh lực quan trọng cho đời sống tôn giáo của dân Israen. Chúa Giêsu cũng thực hiện một dấu chỉ tiên trưng cho phép Thánh thể, một bí tích ban sức sống cho cuộc đời của chúng ta. Chỉ có thánh Gioan tường thuật phép lạ trong bối cảnh của lễ Vượt Qua: “Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái”. Hơn thế nữa, ngài còn viết: “Chỗ ấy có nhiều cỏ”. Quang cảnh này chỉ có thể xảy ra vào mùa xuân, thời gian cử hành lễ Vượt Qua. Phần sau của chương này sẽ nói đến Bánh Hằng Sống, tức là bí tích Thánh Thể, và chỉ có thánh Gioan dùng động từ “eucharistêsas”, tạ ơn (câu 11). Người gợi lên ý tưởng cho cả đám đông dân chúng ăn, là chính Chúa Giêsu. Người hỏi ông Philip: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Cũng như bí tích Thánh Thể sau này là sáng kiến của Chúa Giêsu. Đối với thánh Gioan. Việc hóa bánh ra nhiều là hình ảnh tiên trưng cho bí tích Thánh Thể. Trong bí tích này, Chúa Giêsu ban chính thịt máu của Người làm của ăn, của uống cho nhiều người.

Một chi tiết nữa cũng của riêng thánh Gioan, ngài nói rõ đó là bánh lúa mạch, thứ bánh của người nghèo. Chi tiết này gợi lên sự nghèo hèn, hơn nữa cũng chỉ có năm chiếc bánh thôi, số lượng ít ỏi như thế càng làm nổi bật sự bất lực của tài sức con người. Nhưng Thiên Chúa lại sử dụng sự yếu hèn như thế để thực hiện một kỳ công tuyệt diệu, vượt quá mọi sự tưởng tượng của con người. Với thứ bánh của người nghèo và chỉ có năm cái thôi, Chúa Giêsu đã cho năm ngàn người đàn ông ăn no, và số phụ nữ cùng với các trẻ em còn nhiều hơn nữa. Tương tự như vậy, Chúa Giêsu dùng bánh và rượu là những sản phẩm vật chất của con người để biến nên Thịt và Máu của Chúa, trở nên lương thực thiêng liêng cho nhiều người. Trong các bí tích khác cũng vậy, Chúa dùng các dấu chỉ vật chất để ban những hiệu quả thiêng liêng cho các linh hồn. Chúa Giêsu bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa, và họ thu lại được mười hai thúng đầy. Chi tiết này cho thấy từ những yếu hèn của chúng ta, Chúa có thể tạo nên một sự phong phú tràn đầy.

Phép lạ làm cho người ta nhớ đến lời tiên báo của ông Môsê trong Đệ Nhị Luật 18: 15-18. Thiên Chúa sẽ ban cho anh em một vị ngôn sứ giống như tôi. Vì ông Môsê nuôi dân trong sa mạc bằng Manna, còn Chúa Giêsu bây giờ nuôi dân từ năm chiếc bánh lúa mạch. Sự kiện đúng như lời tiên báo của Môsê. Quả thực, Chúa Giêsu là chính Đấng mà Môsê loan báo. Nhưng Chúa Giêsu không phải là một thủ lãnh chính trị như suy nghĩ của dân chúng. Dân chúng không hiểu đúng vai trò của Đấng Mêsia. Chúa Giêsu cũng không muốn quan niệm sai lầm của họ làm cho Người đi lệch ra khỏi đường lối mà Chúa Cha muốn Người phải đi. Nếu Chúa nhượng bộ theo ý muốn của dân chúng, thì phép Thánh thể sẽ không được thiết lập, và phép lạ tiên trưng này sẽ chẳng còn ý nghĩa gì. Chúa Giêsu thích trở nên Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng chúng ta hơn.

Lạy Chúa, xin ban lương thực hàng ngày cho những người nghèo khổ trong đất nước của chúng con. Xin Chúa cũng ban cho chúng con biết nuôi dưỡng tâm hồn mình bằng Bánh Hằng Sống là Lời Chúa và Mình Máu Chúa.


13. Cộng tác.

Có người cho rằng phép lạ Chúa Giêsu làm cho bánh hóa ra nhiều kể lại trong Tin Mừng là chuyện không có thực mà chỉ là tác dụng tâm lý, nghĩa là họ cho rằng: em bé có năm chiếc bánh và hai con cá đã chia phần ăn của mình cho người bên cạnh, và thế là theo gương em bé này, mọi người chia phần ăn của mình cho nhau, nên ai cũng đủ bánh ăn.

Nhưng sự thật không phải như vậy, vì Tin Mừng đã kể lại những chi tiết rất rõ ràng và cả bốn sách Tin Mừng đều thuật lại, đây là một phép lạ thực sự của Chúa Giêsu. Các nhà chú giải Kinh Thánh đã quả quyết: “Phải chối bỏ cả Tin Mừng thì mới có thể loại bỏ khỏi Tin Mừng sự kiện hóa bánh ra nhiều”. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải là tìm hiểu phép lạ này có thực hay không mà là tìm hiểu xem Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều gì khi làm phép lạ này. Có nhiều điều lắm, chúng ta hãy ghi nhận và suy nghĩ hai điều.

Điều thứ nhất Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta về lòng thương xót.
Trong bối cảnh của phép lạ này, chúng ta thấy có hai thứ thương xót. Các môn đệ thấy trời đã về chiều và người ta mệt mỏi rồi, các ông tội nghiệp họ và đã thưa với Chúa: “Xin Thầy giải tán dân chúng để họ vào các làng mạc mua thức ăn”. Đó là thứ thương xót như thế, thứ thương xót nhập đề, lòng thương xót này cần thiết vì là khởi điểm. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thôi thì chưa đủ, vì thế, Chúa muốn các môn đệ bước qua thứ thương xót khởi điểm đó, đem thứ thương xót nhập đề vào thứ thương xót thứ hai, thứ thương xót nhập cuộc: “Anh em hãy cho họ ăn”.

Quả thực, có tấm lòng thương xót người khác là một điều tốt rồi nhưng chưa đủ, có những lời nói thương xót người khác cũng là một điều tốt rồi nhưng cũng chưa đủ, mà cần phải có việc làm cụ thể, cần phải có hành động thương xót thực sự nữa. Chúa Giêsu đã thể hiện như thế và Ngài dạy chúng ta hãy sống như thế. Cũng vậy, có lòng trắc ẩn hay những lời nói an ủi, khích lệ, cảm thông là thái độ tốt rồi, nhưng tốt nhất vẫn là biết chia sẻ, biết san sẻ giúp đỡ. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì trong tầm tay, trong khả năng của mình, phần còn lại chúng ta sẽ được Chúa tiếp tay thực hiện. Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con Thiên Chúa, cũng là anh em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi hơn.

Điều thứ hai Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta qua phép lạ hóa bánh này là sự cộng tác.
Trước hết, chúng ta phải xác nhận chắc chắn rằng: nếu không có năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia, Chúa Giêsu vẫn có thể làm phép lạ cho hàng ngàn người ăn no nê, thoải mái. Cũng vậy, không cần có sự cộng tác của các môn đệ trong việc đi tìm bánh, Chúa Giêsu vẫn có thể làm được phép lạ dễ dàng. Nói tóm lại, một mình Chúa có thể làm được mọi sự, không cần ai cộng tác, không cần vật liệu nào cả, với quyền năng vô biên, Chúa chỉ cần phán một lời là tức khắc có ngay, tức khắc có dư thừa bánh cho mọi người ăn. Nhưng ở đây Chúa muốn cho mọi người thấy: việc hóa bánh ra nhiều không phát xuất từ số không, nhưng do sự chia sẻ đầu tiên, rất khiêm tốn, rất nhỏ nhoi của một em bé. Em có thể giữ lại những chiếc bánh và mấy con cá cho riêng mình hay cho những người thân quen. Làm như thế thì chỉ một mình em hay một vài người được ăn, nhưng em đã trao tất cả cho Chúa và Ngài đã dùng quyền năng làm cho bánh và cá hóa ra nhiều cho hàng ngàn người cùng được ăn. Như vậy, năm chiếc bánh và hai con cá của em bé kia là biểu trưng cho một sự cộng tác cần thiết để Chúa Giêsu làm phép lạ.

Cũng vậy, Chúa muốn các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh, nên Chúa bảo các ông: “Anh em hãy cho họ ăn”, nên chúng ta thấy khi các môn đệ tìm được năm chiếc bánh và hai con cá rồi Chúa mới làm phép lạ. Điều này nhắc nhở cho chúng ta biết: cần có sự cộng tác của chúng ta trong chương trình của Thiên Chúa đối với chúng ta, nghĩa là bên cạnh tình thương và ơn phúc của Chúa, cần có sự cộng tác của chúng ta để xây dựng cuộc đời mình.

Dĩ nhiên với quyền năng vô biên, Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài bằng tất cả những gì chúng ta có, kể cả sự dốt nát, hèn kém, vô dụng của chúng ta. Chúng ta đừng chỉ trông mong Chúa làm phép lạ, dĩ nhiên Chúa có thể làm, nhưng Chúa muốn chúng ta đóng góp bằng thiện chí, bằng cố gắng, bằng kiên nhẫn, bằng hy sinh, không phải chỉ trong đời thường thôi, nhưng cả trong ơn cứu chuộc nữa, như thánh Âu Tinh đã nói: “Thiên Chúa tạo dựng chúng ta, Ngài không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần có sự cộng tác của chúng ta”.

Trong cuộc sống, chúng ta hãy cộng tác với nhau và nhất là cộng tác với ơn Chúa để hoàn thành trách nhiệm đời mình và cùng nhau xây dựng cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

14. Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều – JKN.

Câu hỏi gợi ý:
1.    Đức Giêsu có quan tâm và dấn thân cho những nhu cầu cụ thể - như ăn uống, sức khỏe, sự thoải mái thể chất - của dân chúng không? Nếu không quan tâm đến những nhu cầu cụ thể ấy, Ngài có thể loan báo Tin Mừng một cách hiệu quả không? dân chúng có chịu đến để nghe Ngài dạy dỗ không?
2.    Trong một xã hội đầy bất công, áp bức, nhiều tệ nạn xã hội, người dân phải chịu đựng nhiều đau khổ, mà người tông đồ lại chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh của họ, không đếm xỉa gì đến những đau khổ, những nhu cầu cụ thể và cấp bách của họ, thì việc tông đồ ấy có kết quả không? Tại sao?
3.    Trong những xã hội đầy bất công như thế, nhu cầu cụ thể và cấp bách của dân chúng là gì? Chúng ta chỉ cần xoa dịu những đau khổ cho dân chúng hay cũng cần giải quyết tận gốc những đau khổ ấy?

CHIA SẺ
1. Đức Giêsu quan tâm tới cả nhu cầu thể chất của dân chúng
Bị cám dỗ sau khi ăn chay 40 ngày, Đức Giêsu nói với Satan: «Người ta sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra» (Mt 4,4). Nghĩa là con người không chỉ sống bằng thể chất, mà còn sống bằng tinh thần. Hành động của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay dường như muốn nói một câu đồng nghĩa như vậy, nhưng theo chiều ngược lại: Người ta sống không nguyên bởi Lời Chúa, mà còn sống bởi bánh nữa. Nghĩa là con người không chỉ sống bằng tinh thần, mà còn sống bằng thể chất. Vì con người không chỉ thuần túy là tinh thần hay thần khí, cũng không chỉ là thể chất, mà là cả hai. Nên con người vừa có nhu cầu tinh thần, vừa có nhu cầu thể chất. Đức Giêsu quan tâm tới con người toàn diện, nghĩa là quan tâm tới cả nhu cầu tinh thần lẫn thể chất.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều ấy. Mặc dù sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi, nghĩa là chủ yếu về mặt tâm linh, nhưng không vì thế mà Ngài quên đi nhu cầu thể chất của con người. Thật vậy, khi «nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình», Ngài liền hỏi môn đệ: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?» Thật ra, Ngài có thể để mặc họ trở về nhà với cái bụng lép xẹp, và chắc chắn chẳng ai lên tiếng trách móc Ngài vì đã để mặc họ như vậy. Nhưng Ngài không làm như vậy. Tình thương và sự nhạy cảm đối với đau khổ và hạnh phúc của con người đã thúc đẩy Ngài đáp ứng nhu cầu của họ. Họ cần nghe Ngài rao giảng, nhưng để có thể nghe Ngài, họ cũng cần phải no bụng. Chính vì Ngài tỏ ra yêu thương họ, quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của họ, mà họ đến với Ngài, sẵn sàng nghe Ngài dạy dỗ. Nếu Ngài không làm như vậy, sẽ có nhiều người chẳng đến với Ngài và chẳng nghe Ngài dạy bảo. Ở Việt Nam, nhiều người truyền đạo trong các tôn giáo khác cũng phần nào làm tương tự như Đức Giêsu: họ mở phòng thuốc, khám bệnh, chữa bệnh và cho thuốc miễn phí, và khi thuận tiện thì nói về đạo pháp cho những ai muốn nghe. Như vậy, Đức Giêsu không chỉ lo phần rỗi đời sau cho con người, mà còn lo cả những gì cần thiết cho đời sống hiện tại của họ nữa. Ngài cũng ra lệnh cho các môn đệ ngoài việc rao giảng Tin Mừng, còn phải giải quyết những nhu cầu thể chất và cấp bách của họ: «Anh em hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ» (Mt 10-7-8). Lo cho người ta về thể chất chính là cách biểu lộ tình thương đối với họ, đó là tạo điều kiện để lo cho họ một cách hữu hiệu về tâm linh.

2. Tình yêu đòi buộc ta phải ưu tiên đáp ứng những nhu cầu bức thiết nhất của người chung quanh ta
Nếu ta thật sự yêu thương những người chung quanh ta, ta sẽ hành xử với họ giống như ta vẫn hành xử với những người ta yêu thương. Yêu thương ai, ta sẽ đáp ứng đúng nhu cầu của họ. Cho dù ta là một thầy giáo, một giáo sư đại học, một linh mục hay giám mục, không khi nào ta thấy người thân của ta đói, khát, hoặc bị một ai đó ức hiếp, đánh đập mà ta lại tặng họ một cuốn sách hay một cuốn Thánh Kinh, cho dù những thứ đó cũng rất cần thiết cho họ. Nếu ta hành xử như vậy, mọi người sẽ nghĩ ta là người mất trí. Trường hợp đó, trước tiên, ta phải cho họ ăn, uống, hoặc nhảy vào can thiệp để người thân ta khỏi bị đánh đập đau đớn. Thế nhưng hiện nay, có biết bao người mang danh hiến thân phục vụ con người, lại chỉ biết lo cho họ về mặt tâm linh, chẳng đếm xỉa gì đến nhu cầu hết sức cụ thể, bức thiết và trước mắt của họ. Thế mà lúc nào những người ấy cũng vẫn tự hào mình đang hiến thân cho một sứ mạng cao cả là phục vụ con người.

Quả thật, trong xã hội và Giáo Hội vẫn luôn luôn có những con người «cao cả» theo kiểu đó, nghĩa là cao cả một cách phi thực tế. Họ có thể «bình tâm như vại» trước những đau khổ, thiếu thốn, trước những cảnh bất công, áp bức mà những người chung quanh mình phải chịu, trước những bàn tay giơ lên xin họ cứu giúp một cách khẩn thiết và tuyệt vọng. Nhưng những người «cao cả» này vẫn cảm thấy mình không cần phải làm gì cho những người khốn khổ ấy khác hơn là những việc gọi là tâm linh. Và một khi quan tâm lo những chuyện về tâm linh ấy, họ cảm thấy lương tâm mình bình an vì mình đã làm được những việc bác ái rất cao cả. Ngay cả khi làm những việc được gọi là bác ái cao cả ấy, có nhiều vị còn đòi hỏi đối tượng mình phục vụ phải bù đắp lại cho mình một cách cụ thể như những điều kiện phải có, nếu không thì họ sẽ chẳng làm. Nói cách khác, phải được bù đắp cụ thể họ mới chịu làm những việc «cao cả» ấy.

3. Nhu cầu bức thiết của con người trong những xã hội lầm than, nghèo khổ, đầy dẫy bất công áp bức
Trong những xã hội hay đất nước nghèo khổ, đầy dẫy những tệ nạn xã hội, những bất công áp bức, thì nhu cầu bức thiết của người dân rất là cụ thể. Là những người theo Chúa, tuy ta đặt rất nặng mặt tâm linh - đó là điều hợp lý - nhưng ta không thể hoàn toàn lãnh đạm hoặc không biết đến những nhu cầu khẩn thiết và cụ thể của người dân chung quanh ta. Thiết tưởng sống trong một đất nước càng nghèo khổ, càng đầy dẫy sự bất công áp bức, càng lan tràn những tệ nạn xã hội, thì người theo Chúa càng phải quan tâm và dấn thân nhiều hơn cho những vấn đề ấy. Nói cách khác, người theo Chúa đúng nghĩa phải quan tâm đến sự phát triển của con người, sự công bằng của xã hội, và sự tiến bộ của thế giới. Đó là một chiều kích nhân bản không thể thiếu trong việc nên thánh, hay việc nên giống Chúa Giêsu, Đấng «muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ» (Hs 6,6; Mt 9,13). Lại càng không thể thiếu trong việc tông đồ, trong việc mở mang Nước Trời.

Tông huấn Giáo Hội tại châu Á viết: «Không thể cắt đứt việc thờ phượng Thiên Chúa với việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là “cô nhi, quả phụ và ngoại kiều” (x. Xh 22,21-22; Đnl 10,18; 27,19), là những người dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa» (số 41§2). Thánh Gioan Kim Khẩu viết: «Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ thứ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng đã nói "Các ngươi thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn tiệc Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!» (Tông huấn GHTCA trích dẫn, số 41§2). Chính vì để ta dễ dấn thân cho anh em đồng loại của ta hơn, đặc biệt trong những hoàn cảnh nguy hiểm của những xã hội đầy áp bức bất công mà Đức Giêsu đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải từ bỏ nhiều thứ thế gian hằng gắn bó. Thật đáng hổ thẹn cho những người tông đồ đã từng cam kết từ bỏ mọi thứ mà lại dấn thân cho anh em không bằng những người không hề cam kết! Thật là mỉa mai khi người tông đồ chủ trương sống độc thân để dễ dàng dấn thân cho đồng loại hơn, lại không thể dấn thân mạnh dạn bằng những người có gia đình! Rất có thể tại vì họ đang sợ mất đi những gì mà họ đã từng cam kết từ bỏ khi dấn thân làm tông đồ!

Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con theo Đức Giêsu nhưng lại chẳng làm theo gương Ngài. Ngài dùng tình thương để đến với mọi người hầu dẫn họ về với Cha. Còn chúng con, chúng con chỉ muốn dẫn họ về với Cha mà không thèm đến với họ, không cần tỏ ra yêu thương và quan tâm đến những nhu cầu cụ thể bức thiết của họ. Phải chăng chúng con đang làm một chuyện vô ích? và công sức của chúng con đổ ra sẽ chỉ là «công dã tràng»? Xin giúp chúng con noi gương Đức Giêsu, biết yêu thương và quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của đồng loại trước khi muốn dẫn họ về với Cha.

 

15. Tiết kiệm.

Sau khi đã làm phép lạ, từ năm chiếc bánh và hai con cá, nuôi sống hàng ngàn người giữa nơi hoang vắng, Chúa Giêsu đã truyền cho các môn đệ đi thu lượm những mẩu bánh vụn, đừng để nó vương vãi phí hoài. Từ lệnh truyền đơn sơ vắn vỏi này, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng về sự tiết kiệm, một nhân đức rất cần thiết trong hoàn cảnh kinh tế gia đình chúng ta đang gặp phải nhiều khó khăn.

Tại sao gia đình chúng ta lại lâm vào cảnh nghèo túng? Dĩ nhiên có nhiều lý do, vì thế này, vì thế kia. Nhưng một nguyên nhân chính tạo nên cảnh nghèo túng, đó là sự thiếu cần kiệm.
Thực vậy, tục ngữ đã bảo:
Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa,
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày.
Nhiều khi chúng ta tiêu xài một cách hoang phí, theo kiểu con nhà lính, tính nhà quan, bóc ngắn cắn dài, mua sắm và ăn nhậu một cách quá lố, khiến cho công nợ chồng chất, lãi mẹ đẻ ra lãi con, lãi con đẻ ra lãi cháu, không biết đến bao giờ mới trả cho hết nợ. Trong khi đó, sự tiết kiệm lại là một điều kiện cần thiết để ổn định đời sống vật chất trong gia đình, đem lại nếu không phải sự giàu sang thì cũng là sự ấm no. Bởi vì, tiền bạc như núi, ăn hoài thì cũng phải hết. Do đó từ ngàn xưa người ta đã đưa ra những lời khuyên bảo:
- Tích tiểu thành đại.
- Tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn.
- Nhiều dòng nước nhỏ sẽ tạo nên con sông lớn.
- Đại phú do thiên, tiểu phú do cần.
Dân Ý Đại Lợi thì nói:
-        Sự sung túc có được do hai bàn tay. Bàn tay này, đó là tài năng, Còn bàn tay kia, đó là sự tiết kiệm.
Trong khi đó người Thổ Nhĩ Kỳ thì bảo:
-        Sở dĩ người ta trở nên giàu có, một là do cần cùlao động, hai là do tiết kiệm trong việc chi tiêu.
Tại nơi mở chương mục tiết kiệm ở các ngân hàng, người ta thường vẽ hình con gà mái ấp quả trứng vàng, có ý muốn nói những đồng tiền tiết kiệm bỏ vào đó sẽ sinh nhiều lợi lộc, sẽ đem lại cho chủ nhân những trái trứng bằng vàng.
Lafontaine có kể lại một câu chuyện ngụ ngôn như thế này:
Con ve sầu suốt mùa hè chỉ biết ca hát, cho nên khi mùa đông trở về và gió bấc thổi tới, liền bị chết đói. Trong khi đó giòng họ nhà kiến, suốt ngày thu tích lương thực, dè sẻn từng hạt gạo, dù có mưa bão hay lạnh giá, đời sống vẫn được bảo đảm an toàn.

Sự tiết kiệm, như người xưa diễn tả có ba cái lợi chính:
Thứ nhất, tự mình an phận không cần đến kẻ khác là giữ lấy chữ liêm. Thứ hai giảm việc phụng dưỡng cho bản thân để cấp đỡ người khác là mở cái đức. Thứ ba nhịn cái không đủ trước mắt, hầu lưu chỗ còn thừa cho tương lai, là lo đến việc phòng thân.

Có một thanh niên tới một ngân hàng xin việc, lúc đầu ông Giám đốc đã từ chối, nhưng khi chàng đi ra, ông Giám đốc thấy chàng cúi xuống nhặt một chiếc kim gút bị rơi trên đất, liền gọi lại và thâu nhận chàng, vì ông Giám đốc đánh giá chàng là một người tiết kiệm, sẽ không làm hao tốn tài sản của ngân hàng sau này.

Để kết luận tôi xin đưa ra một nguyên tắc trong việc tiêu dùng như thế này: Đối với những việc cần thiết và hữu ích, dù có phải tốn bao nhiêu cũng không xót, trái lại đối với những việc xa xỉ và thừa thãi thì một đồng, một cắc cũng không.

Đừng tiêu xài một cách hoang phí. Bởi vì, cái hôm nay không cần, biết đâu ngày mai sẽ cần. Cái chúng ta bỏ đi biết đâu lại là cái lợi ích cho người khác.


16. Chia sẻ.

Có một lần phát biểu trước quốc hội, ông Ma-ha-mát-Gan-đi, vị anh hùng dân tộc của An Độ, đã kêu gọi nhân dân dùng chính sách bất bạo động chống lại quân Anh, giành độc lập cho đất nước, đã nói: “Theo quan niệm của tôi, về một ý nghĩa nào đó, bất cứ người nào trong chúng ta đều có thể là tên ăn cắp. Bởi vì chúng ta có quá nhiều vật dư thừa, trong khi những người khác thiếu thốn những cái tối thiểu. Chúng ta có một vật nào đó không cần thiết, thì vật đó chính là của ăn cắp mà chúng ta lấy từ những nghèo khó cần đến nó”.

Những lời phát biểu trên đây có thể giúp chúng ta hiểu và sống Lời Chúa hôm nay. Bởi vì nếu muốn rút ra một câu làm lẽ sống cho ngày hôm nay, thiết nghĩ chúng ta phải chọn câu Chúa Giêsu bảo các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”. Lời đề nghị này đã đánh tan não trạng của các môn đệ muốn giải quyết vấn đề cơm bánh cho những người nghèo đói một cách dễ dàng, là cho họ về để họ đi vào các làng mua thức ăn. Hành vi giải tán đám đông là một hành vi lẩn tránh, vì giải tán thì quá dễ, Chúa và các môn đệ không còn phải bận tâm gì nữa. Nhưng Chúa không chấp nhận thái độ lánh mặt làm ngơ, bưng tai giả điếc.

Chúa muốn cho các môn đệ cộng tác với Ngài trong việc đi tìm bánh. Các ông đã tích cực cộng tác và kết quả là mọi người được no nê và phấn khởi. Đây là hình ảnh tiêu biểu cho việc Chúa ân cần dìu dắt dưỡng nuôi dân mới và sự dìu dắt ấy thành công nhờ có sự cộng tác nhiệt thành của nhóm cộng sự viên. Chính vì thế, điều này cũng nhắc nhở chúng ta đặc biệt nhớ đến các mục tử trong Giáo Hội để cầu nguyện cho các ngài; để cảm tạ Chúa đang tin tưởng vào sự cộng tác của con người trong việc dẫn dắt Giáo Hội.

Tuy nhiên, trong Đức Kitô, mọi tín hữu đều tham dự vào chức linh mục, nghĩa là mọi người đều được mời gọi để sống cho tha nhân. Chúng ta hãy góp phần của mình, dù chỉ ít oi, nhỏ bé, không đáng kể, nhưng sự đóng góp của chúng ta sẽ là những xúc tác cần thiết để Thiên Chúa tiếp tục thực hiện các phép lạ. Nói rõ hơn: chỉ cần một chút quảng đại và góp phần của con người là đủ để Thiên Chúa thực hiện những phép lạ.

Vì thế, qua phép lạ hóa bánh này, chúng ta có thể suy diễn rằng: Em bé có năm chiếc bánh và hai con cá hoặc tông đồ Anrê hay các tông đồ khác chính là bạn, là tôi, là chúng ta, là tất cả các Kitô hữu. Nhưng chúng ta đã thường có những thái độ thế nào trước những nỗi đau của con người; trước những túng thiếu của người anh em? Đành rằng ngoảnh mặt làm ngơ là thái độ dễ thực hiện hơn. Thế nhưng Lời Chúa hôm nay yêu cầu chúng ta suy nghĩ.

Hoặc là chúng ta có thể biện minh: làm sao tôi có thể giải quyết được những hoàn cảnh nghèo khó, đen tối đầy dẫy trong xã hội? Làm sao tôi có khả năng để xóa đói giảm nghèo? Điều đó vượt ngoài tầm tay của tôi. Những lời biện minh đó hay những lời biện minh khác thì cũng giống như lời biện minh xưa kia của các tông đồ: “Làm sao có đủ bánh cho từng ấy người ăn?”.

Qua phép lạ hóa bánh, một lần nữa, Chúa Giêsu giải thích cho chúng ta hiểu mỗi người phải làm gì. Chúa không đòi chúng ta những việc làm to lớn, nhưng đòi chúng ta phải biết san sẻ, phải biết cho những gì nằm trong tầm tay, nằm trong khả năng của mình. Phần còn lại, chúng ta sẽ được Chúa tiếp tục thực hiện. Hiểu như thế chúng ta mới thấy rằng: dù nghèo hèn đến đâu, ai cũng có một cái gì đó để chia sẻ. Và giá trị của quà tặng không tùy thuộc ở số lượng của vật chất mà chính là ở tấm lòng của con người. Một nụ cười thân ái, một lời nói cảm thông, một cữ chỉ tha thứ… có giá trị hơn những của cải vật chất mà một người giàu có bỏ ra như của bố thí.

Chúng ta hãy nhớ rằng: mỗi người cứ cố gắng thể hiện lòng quảng đại của mình, phần còn lại Chúa sẽ làm tiếp, nghĩa là lòng quảng đại sẽ kéo thêm lòng quảng đại; sự chia sẻ sẽ thúc đẩy sự chia sẻ; tình yêu sẽ khơi dậy tình yêu. Làm như vậy là chúng ta đã đặt nền móng cho nước trời, nước của những con người quảng đại biết yêu thương chia sẻ cho nhau.

Điều quan trọng không phải là cho ít hay cho nhiều, nhưng là ở chỗ chúng ta có con mắt đức tin đủ để nhận ra những người khác cũng là con cái Thiên Chúa, cũng là anh chị em của chúng ta. Xin Chúa cho chúng ta biết động lòng trắc ẩn trước những nỗi đau khổ của người khác. Xin Chúa tiếp tay trợ giúp chúng ta để tình yêu thương nhân ái được tỏa lan rộng rãi.


17. Bánh người nghèo.

Tưởng tượng tại một nơi nào đó trên thế giới, có một nhân vật tài ba có thể làm cho quần chúng dân nghèo hết đói khổ. Nhờ phép mầu của ông mà dân chúng sống an vui ca hát, không còn phải lo cái ăn cái mặc nữa. Chắc chắc nhân vật ấy sẽ được tôn vinh lên tận mây xanh.

Sau khi được Chúa đãi một bữa ăn no nê với những tấm bánh thơm và những con cá ngon vào một buổi chiều muộn trên bãi cỏ xanh ven hồ, dân chúng cũng đã trầm trồ thán phục và nói với nhau một cách rất thành thật rằng: "Ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!".

Đã đành một vị ngôn sứ có thể dùng phép mầu để giúp dân qua cơn túng quẫn như ngôn sứ Êlia đã làm cho một quả phụ, nhưng chỉ trông chờ vào phép màu để được cứu thì là điều Chúa không muốn. Chúa không muốn người dân lệ thuộc vào tài phép của Ngài. Ngài muốn hơn thế nữa. Có thể Chúa sẽ giải thích cho dân chúng rõ ý Ngài như thế này: "Các bạn bảo tôi là ngôn sứ và muốn tôi làm vua. Các bạn muốn lật đổ chính quyền và lên nắm quyền lực. Tôi hiểu. Đất nước ta đang gặp cơn bĩ cực. Bọn ngoại bang đang giày xéo đất nước ta về quân sự và kinh tế. Tôi biết, các bạn nghèo khổ lắm. Nhiều người không có việc làm. Nhiều tầng lớp dân chúng chỉ được chia nhau những mảnh bánh vụn rơi rớt từ bàn ăn người giàu. Nhưng tôi đến không phải để làm thay cho các bạn, cho dù tôi có thể làm cho bánh và cá có nhiều mãi mãi. Tôi đến để mang lại cho các bạn thứ bánh khác, được kêu là "bánh từ trời", tức là bánh tình thương chia sẻ. Ăn thứ bánh này, các bạn sẽ có sức vóc, sẽ tự đứng lên bằng đôi chân của mình. Các bạn sẽ đoàn kết lại và cùng nhau giải quyết các vấn đề đói nghèo trong xã hội".

Chúa không muốn mình là một người phát chẩn, một nhà từ thiện. Nên Chúa đã lánh lên núi. Là ngôn sứ, Chúa cảnh giác với cạm bẫy của vinh quang và quyền lực mà dân chúng đang muốn khoác cho Ngài. Chúa chỉ muốn dành cho dân chúng những chiếc bánh tình thương chia sẻ và những con cá của tự do và giải thoát. Thánh Gioan đã nhắc chúng ta điều đó khi ông thuật lại bối cảnh thời gian của phép lạ: "Lúc ấy sắp gần đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do Thái". Người Do Thái mừng đại lễ Vượt qua để kỷ niệm cuộc xuất hành đi tìm tự do, kỷ niệm sự giải thoát của dân tộc họ.

Những cử chỉ của Đức Giêsu: "Cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát cho những người ngồi đó" nhắc chúng ta đến bí tích tạ ơn, bí tích Thánh Thể, trong đó Chúa phân phát thân mình Ngài cho mọi người.

Biểu tượng 12 thúng đầy nhắc chúng ta đến mười hai chi họ Israel và nhắc chúng ta nhớ rằng ân huệ của Chúa luôn luôn tràn đầy dư dật cho dân tộc Israel mới là các Kitô hữu, những người theo Chúa. Chính trong mười hai thúng đầy ơn điển này, chúng ta nhận được tình thương không bao giờ cạn. Nhất là khi chúng ta đến gần bàn thờ dự tiệc Thánh Thể.

18. Chú giải mục vụ của Alain Marchabour.

HÓA BÁNH RA NHIỀU
Tương quan với sách Nhất Lãm
Bài trần thuật này là phép lạ duy nhất được cả bốn sách Tin Mừng thuật lại. Rất có thể Gioan có trước mắt một truyền khẩu rất cổ xưa, song song với truyền khẩu của các sách Nhất Lãm, đặc biệt với các phần sau đây: hoá bánh ra nhiều, đi qua biển hồ, ông Phêrô tuyên xưng đưc tin (x. Mc 8). Tuy nhiên Gioan vẫn ghi dấu ấn riêng của mình.

Dẫn nhập (cc. 1-4)
Bài trần thuật được dẫn nhập bởi một công thức mập mờ “chung chung”, quen thuộc với Gioan: “sau đó” (từ gặp công thức này trong 3,22; 5,1.14; 6,1; 7,1; 19,38; 21,1). Chúa Giêsu, các môn đệ, dân chúng (“đông đảo dân chúng”, dụng ngữ bất thường nơi Gioan), ngọn lửa bên kia Biển Hồ, thời điểm lễ Vượt Qua: các nhân vật, hoàn cảnh, địa điểm và thời gian được xác định ngay từ đầu. Đồng thời chủ đề “đi theo Chúa Giêsu” cũng được dẫn nhập vào; chủ đề này sẽ được lặp đi lặp lại trong suốt chương này. Việc sắp đến lễ Vượt Qua, việc xác định địa điểm ở trên núi, việc nhắc lại các dấu lạ (chữa lành những kẻ đau ốm), tất cả đều tạo cho các độc giả thân quen một sự gần gũi (ngày càng sẽ trở nên rõ ràng hơn) với biến cố Xuất hành và với ông Môsê.

Dấu lạ (cc. 5-13)
Ngay từ đầu, bài trần thuật tập trung vào Chúa Giêsu. Người là nhân vật điều hành mọi sự: Người nhìn thấy đám đông, hỏi ông Philipphê khi biết rõ mình sắp làm gì. Người ra lệnh cho ngồi xuống. Chính Người cũng khởi đầu việc phân phát bánh. Luôn luôn được sự thông hiểu của mình hướng dẫn, “Người biết họ sắp tôn mình làm vua” (c. 15), nên lánh mặt đi lên núi một mình.

Có hai ẩn ý liên quan đến Kinh Thánh: trước hết liên tưởng đến Elisê (2V 4,42-44), hoá bánh lúa mạch ra nhiều đến nỗi “ăn xong hãy còn dư như lời Chúa phán”, nhất là so chiếu với manna mà Thiên Chúa ban cho dân Người theo số lượng quy định. Khác hẳn với thời kỳ Xuất hành, ở đây không có định lượng (còn lại được mười hai thúng bánh), mà có sự kỳ diệu (cỏ tươi xanh tốt nhắc đến những đồng cỏ xanh tươi của Tv 23,1-2 nơi mục tử thời Mêsia sẽ chăn dắt đoàn chiên của mình. Thời kỳ Xuất hành, mà người Do Thái mong đợi cho thời cuối cùng, được lặp lại; vị ngôn sứ đang ở kia và dân chúng muốn tôn Người làm vua.

Chúng ta cũng nên thêm rằng, trong khi được biến cố Xuất hành làm sáng tỏ, bài trần thuật này thường khiến ta nghĩ đến bí tích Thánh Thể: từ ngữ này là thứ từ ngữ mà các Kitô hữu thuộc cộng đoàn của Gioan có thói quen nghe được qua việc cử hành Thánh Thể, “Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn” (c. 11). Đúng là Gioan không sử dụng công thức truyền thống mà ta gặp thấy trong các sách Nhất Lãm và quả thiếu dụng ngữ (“Người bẻ bánh ra”). Tuy nhiên nơi thánh Giuttinô ta cũng bắt gặp chính công thức đó và cũng thấy thiếu dụng ngữ đó. Cũng giống như vào buổi chiều bữa tiệc ly, chính Chúa Giêsu phân phát bánh (chứ không phải các môn đệ như trong các bản văn Nhất Lãm). “Đừng để gì phải phí đi” (c. 12): ghi chú này bộc lộ nỗi niềm lo lắng vượt quá thời kỳ lịch sử của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu trao ban dư dật (2,6) hầu cho Giáo Hội hưởng nhận ân huệ của Người. Chúa Giêsu đến “để mọi người được sống và sống dồi dào” (10,10). Cần phải có đầy đủ ân huệ cho mọi thế hệ Kitô giáo.

Bài trần thuật kết thúc bằng một sự hiểu lầm. Qua dấu lạ, Chúa Giêsu đã bày tỏ điều gì đó về căn tính của mình và về sự ăn rễ sâu của mình trong lịch sử thánh: Là ngôn sứ, Người cũng là Đấng Mêsia (4, 19.26). Gioan là người duy nhất trong các thánh sử thuật lại cho chúng ta phản ứng của dân chúng trước dấu lạ. Dân chúng đồng hoá Chúa Giêsu với vị ngôn sứ mà ông Môsê loan báo trong Đnl 18,15: “Ngay trong dân tộc mình, giữa đồng bào ngươi, Chúa sẽ gây dựng cho ngươi một tiên tri như ta: người phải theo người”. Tuy nhiên người Do Thái vào thời của Chúa Giêsu lại không thống nhất về vai trò chính xác của vị ngôn sứ này. Bởi vậy cho nên Chúa Giêsu trốn đi, vì lẽ Người không phải là vị ngôn sứ như dân chúng cầu mong trong sự đợi trông một Đấng Mêsia trần thế.

Từ bài trần thuật đầu tiên này, chúng ta ghi nhận có ba thời kỳ khác biệt được khéo léo đan xen vào nhau: thời kỳ Xuất hành lúc bắt đầu cuộc thăng trầm của Israel, cuộc gặp gỡ lịch sử với Chúa Giêsu tạo nên tiến trình của bài trần thuật và thời kỳ của Giáo Hội. Điều đó muốn nói lên rằng qua ba cảnh huống lịch sử khác nhau này, tồn tại một câu hỏi căn bản: làm cách nào để tin vào Thiên Chúa trong sa mạc (bánh manna)? Qua việc nhập thể (Chúa Giêsu)? Trong Giáo Hội (Thánh Thể)?

Mục tiêu của Chúa Giêsu trong Gioan nhằm tỏ lòng thương xót dân chúng thiếu thốn lương thực ít hơn là tỏ lộ căn tính đích thực của Người; thực hiện điều này, Gioan đặt để các môn đệ ra sau để tập trung toàn bộ bài trần thuật vào nhân cách đầy uy quyền của Chúa Giêsu, đưa dẫn đến mọi biến cố và giải thích chúng. Bài trần thuật kết thúc bằng một thất bại, thế nhưng phần tiếp theo cố gắng làm cho sự mặc khải được thành công bằng cách đào sâu biểu tượng bánh đã hiện rõ trong dấu lạ. Như vậy ta sẽ hiểu rằng Đấng ban bánh, chính Người là bánh trao ban cho mọi người.

19. Chú giải của Noel Quesson.

Trong suốt 5 Chúa nhật mùa hạ, chúng ta gián đoạn việc đọc Tin Mừng theo Thánh Maccô, để đọc chúng 6 nổi tiếng của Thánh Gioan. Đó là trình thuật về Bánh Hằng Sống: Bắt đầu bằng “sự hóa bánh ra nhiều" và tiếp tục bằng "bài giảng về Bánh hằng sống”. Gioan cho chúng ta một suy niệm về Bí tích Thánh Thể và về đức tin do chính Đức Giêsu diễn giải.

Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia biển hồ Galilê cũng gọi là biển hồ Tibêria. Có đông đảo dân chúng theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm và chữa lành kẻ đau ốm.
Đoạn cuối của câu chuyện này (Ga 6,66) cho chúng ta thấy rõ đám đông đang ham muốn xem phép lạ, là một đám đông "không tin": Họ từ chối theo Đức Giêsu trong đức tin.

Ngày nay chúng ta cũng vẫn thích "những sự lạ" như đám đông ở Galilê. Những phép lạ của Đục Giêsu, có thể trở thành một cái bẫy, một con đường sai lạc đối với đức tin chân chính. Lạy Chúa, xin giúp chúng con theo Chúa đến cùng, ngay trong đời thường và trong những cái tầm thường, không có gì lạ lùng qua cuộc sống hằng ngày. Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu được "ý nghĩa" thâm sâu những phép lạ của Chúa, vượt trên những ấn tượng trước mắt.

Lúc ấy sắp đến lễ Vượt qua là đại lễ của người Do Thái.
Ở đây ám chỉ đến công cuộc vượt qua của Chúa đã tới gần, cũng như lời chúc lành trên bánh mà lát nữa Chúa sẽ dùng ("Eucharistèsas" trong tiếng Hy Lạp) đã mang “ý nghĩa" mà Thánh Gioan muốn nói lên trong việc hóa bánh ra nhiều: Hiển nhiên Người nghĩ đến Bí tích Thánh Thể. Khi viết trình thuật này, Thánh Gioan đã cử hành Bí tích Thánh Thể, lễ Vượt qua của Kitô hữu, từ 40 hay 50 năm rồi nghĩa là từ khi Đức Giêsu đã sống Bữa tiệc Ly như một bữa ăn vượt qua.

Ngước mắt lên Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết là mình sắp làm gì rồi.
Thiên Chúa là tình yêu, Đức Giêsu giới thiệu Thiên Chúa cho chúng ta biết. Ngài thấy nhu cầu của nhân loại.
Phép lạ Người sẽ thực hiện là một nghĩa cử yêu thương. Việc trao ban Thánh Thể là một tác động yêu thương. Chúng ta hãy nghe câu hỏi của Người. Câu hỏi này luôn mang tính thời sự. Vâng, lạy Chúa, Chúa yêu cầu chúng con hãy nhìn xem con người đang đói khát, với những nhu cầu tự nhiên nhất. Chúa nói: "Hãy cho họ có cái ăn"... cho ăn, đơn giản thế thôi! Còn chúng ta, lại thường nghĩ tưởng đến một Thiên Chúa xa xôi trên các tầng mây. Chính Chúa đã đem chúng con trở về với cuộc sống "thường nhật" với lương thực hằng ngày. Đó là chúng ta phải khiêm tốn phục vụ.

Ông Philípphê đáp: "Dạ có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút". Một trong các môn đệ là ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, thưa với Người: "Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy thì thấm vào đâu!".
Trước những vấn đề lớn của nhân loại: "đói khát", “hòa bình", "công lý", chúng ta thường trả lời: "Chúng ta có thể làm gì được? Việc này quá sức chúng ta". Quả thật, một mình tôi không thể giải quyết toàn bộ vấn đề. Nhưng có vì thế mà tôi được miễn khỏi phải làm một việc nhỏ cần thiết để giải quyết vấn đề không? Tôi có được miễn khỏi phải tiếp tay với các nhóm, các hiệp hội đã hoạt động để giải quyết các vấn đề trên không?

Dù sao đi nữa, điều đáng chú ý là vào ngày hôm ấy, Đức Giêsu đã không muốn làm một hành vi sáng tạo "từ không mà có" (Người cũng có thể làm thế được lắm chứ!). Người đã dùng những thức ăn do loài người chế biến. Điều này nhắc chúng ta rằng: Thông thường Thiên Chúa không thay thế chúng ta. Vả lại còn một điều kiện cần thiết khác nữa cho việc hóa bánh ra nhiều là cậu bé đó chấp thuận cho những gì cậu đã có thể dành riêng cho cậu từ khi cậu lên đường.

Qua những chi tiết đó, ngày nay Thiên Chúa của Đức Kitô cũng kêu gọi chúng ta. Con người thường kết tội Chúa, vì để hai phần ba nhân loại phải đói khát. Chúa trao trách nhiệm đó cho chúng ta. Bình thường Thiên Chúa không thay thế cho tạo vật. Chúng ta đang thuộc về thế giới phương Tây, nơi những siêu thị đầy ắp thức ăn. Và chúng ta tiếp tục dự trữ, thu góp rồi than phiền. Chúng ta tiếp tục đòi hỏi không cùng để thêm tiện nghi, gia tăng lợi tức, lợi nhuận. Chúng ta từ chối giảm bậc lương để bớt tài sản những người giàu và tăng tài sản cho những người kém may mắn. Chúng ta có thể tán rộng trình thuật Tin Mừng này: "Thuở xưa có một cậu bé có năm chiếc bánh và hai con cá, trong khi đó 5.000 người đã không có gì ăn. Cậu ta giữ cho mình năm ổ bánh đó và đi xa khỏi đám đông để ăn bánh đó một mình, một cách vụng trộm.

Điều tệ hại là chúng ta không ăn cách vụng trộm. Ngày nay, những người bị đói trên thế giới biết chúng ta không bao giờ bị đói.

Đức Giêsu nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoản năm ngàn. Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá, Người cũng phân phát như vậy ai muốn ăn bao nhiêu tùy ý.
Theo sự khôn ngoan tự nhiên, ông An rê nói: “Với bằng ấy thì thấm vào đâu?". Trước lý trí con người, Chúa vẫn đòi hỏi thái độ vượt lên của đức tin: Đó là thái độ mạo hiểm cao đẹp, mãnh liệt tin cậy đối với một người khác. Người "tín hữu” trở thành người cộng tác với Chúa, trong những hành động vượt xa phương tiện của con người.

Đức Giêsu đã "tạ ơn" (Euchanstèsas). Người đang ở trong âm vực của đức tin, trong tương quan mật thiết với Chúa Cha. Đó là cảm tưởng của Người trong lúc đó. Diễn từ “Bánh hằng sống" tiếp theo, sẽ cho thấy Người đã nghĩ đến mầu nhiệm vô biên của bữa ăn vượt qua mà một ngày kia Người sẽ trao ban cho loài người qua mọi thời đại. Đức Giêsu không coi thường "cơn đói của thể xác" nhưng Người nghĩ đến "cơn đói Thiên Chúa" mà dưới cái nhìn của Người, còn trầm trọng hơn.

Khi họ đã ăn no nê rồi, Người bảo các môn đệ: Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi".
Đây không phải là một chi tiết phụ. Sự dư thừa này đã từng xảy ra ở tiệc cưới Cana: Đức Giêsu đã hóa ra nhiều. Hóa "bánh" và "rượu” ra nhiều? Quả thật, Đức Giêsu đã nhìn xa hơn đám đông những người Galilê hay những thực khách ở tiệc cưới Cana. Bánh và rượu của Thiên Chúa dành cho mọi người. Nhưng ai là người thực sự đói và khát? Người ta thu lại những miếng thừa. Tôi tưởng tượng những giỏ đầy (12 giỏ). Ai đã có thể có mặt ở đó để ăn những giỏ bánh này, và ai đã không có ở đấy?

Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian".
Con người ở mọi thời đại vẫn mong chờ một người “được Chúa sai đến", chờ một "giải pháp lạ lùng" có thể miễn trách nhiệm cho họ. Trong thâm tâm, chúng ta vẫn còn tư tưởng của những người thời sơ khai, hy vọng rằng những "công thức ma thuật" sẽ giải quyết khó khăn của chúng ta. Người ta không còn thi hành những nghi lễ hủ tục nhưng lại là nạn nhân của nhưng khẩu hiệu, những lời hứa điên rồ những ý thức hệ mang tính ma thuật của “tiến bộ", của "ngày mai vui tưới". Chúng ta hãy đổi cơ cấu và tất cả sẽ được giải quyết Những nhà ma thuật nói như vậy Chúa thì bảo: "Hãy thay đổi lòng dạ các ngươi ". Lúc bấy giờ những sự thay đổi cơ cấu sẽ là một cái gì khác hơn là một sự thay đổi chế độ nô lệ.

Nhưng, Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm Vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.
Cơn cám dỗ "chính trị" của những người đồng thời với Chúa không có gì là không hợp thời. Nó không phải là một hiện tượng thuộc quá khứ. Biết đến bao giờ chúng ta mới hết những cơn sốt mong đợi Đấng Mêsia giả? Bao giờ chúng mới hiểu rằng, Chúa đã luôn luôn từ chối không để cho người ta "đóng khung" Người trong những quan điểm trần thế? Không phải vì những việc trần thế không có giá trị, nhưng người ta không thể giảm thiểu con người trong chiều kích đó. Chúa vẫn không ngừng kêu lên, như triết gia Diogène, rằng: "Các người sẽ không bao giờ hạnh phúc nếu chỉ là những con heo được ăn no bụng". Cái đói cơ bản của con người không phải là đói lương thực. Các bạn đừng bỏ bê công việc trần thế, hay những quyết định chính trị, xã hội, kinh tế mà các bạn phải thể hiện. Nhưng xin làm ăn đừng quên rằng phẩm giá cao quý nhất của con người là khả năng kỳ diệu mở rộng lòng hướng tới siêu việt hướng đến Thiên Chúa. Chúa nói: Xin làm ơn cho Ta đóng vai của Ta, vai trò mà chỉ có Ta mới đóng được để “giúp các con", để xóa cơn đói cho các con. Chúa khước từ kế đồ "giải phóng" chính trị mà không người đương thời với Chúa đã muốn lôi kéo Chúa vào. Bên bờ vinh quang và thành công, "Người lui vào thanh vắng một mình", Người nghĩ về vai trò khác mà Người sẽ phải làm tròn. Sáng mai cũng với đám đông này, Người sẽ cố gắng giúp cho họ hiểu "Người là ai", là Bánh ban sự sống đích thực. Nhưng ai "đói Thiên Chúa"? Chương VI của Thánh Gioan sẽ kết thúc với nỗi cô đơn bi thiết của Chúa trước nhóm Mười Hai (Ga 6,66-71).

20. Chú giải của Fiches Dominicales.

ĐỨC GIÊSU HOÁ BÁNH VÀ CÁ RA NHIỀU
CHO ĐÁM ĐÔNG ĂN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Bánh hóa nhiều dư dật.
Tạm rời bỏ Tin Mừng Máccô, sách Bài đọc năm B hôm nay lấy ở Tin Mừng gian câu chuyện Chúa hóa bánh ra nhiều, rồi tiếp liền đó là "diễn từ về Bánh trường sinh" được phân chia để đọc liền trong bốn Chúa nhật tiếp theo.

Chỉ có phép lạ hóa bánh là được cả bốn Tin Mừng cùng tường thuật (Máccô còn tường thuật tới 2 lần ở 6,35-44 và 8,1-9). Khi tường thuật việc hóa bánh, tác giả Tin Mừng bốn đã tập trung vào Đức Giêsu như con người lèo lái hành động từ đầu đến cuối.

"Sang bên kia Biển Hồ Galilê, Đức Giêsu "lên núi " và “ngồi" đó với các môn đệ.
Người "nước mắt lên" và nhìn "thấy đông đảo dân chúng" đến với mình.
-      Hoàn toàn biết mình sắp làm gì rồi, Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây”. Câu hỏi thật lấp lửng: "Thưa có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút”.
-      Dù chẳng có sự tương xứng (5 cái bánh và 2 con cá thì thấm vào đâu với đám đông chừng 5000 người), Người vẫn nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi”.

Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát thật sự bánh đã hóa ra rất nhiều. Người bảo các môn đệ thu lại những miếng thừa.
- Sau cùng biết được ý đồ và sự hồ hởi của dân chúng sau khi đã được ăn no, Người lại lánh mặt đi lên núi một mình.

2. Manna mới trên đường xuất hành mới…
Trình thuật này tập trung vào Đức Giêsu, lại mang âm hưởng sâu xa của thời dĩ vãng xa xưa trong Cựu ước mà nay đang ứng nghiệm nơi Đức Giêsu; trình thuật cũng loan báo bí tích Thánh Thể.

Chuyện kể lấy hậu cảnh là Thánh Kinh (Cựu ước) nên cần được khai thông để có thể thấu triệt được tất cả ý nghĩa phong phú của câu chuyện.
] Tác giả trình thuật lấy hứng từ việc hóa bánh xảy ra trong thời ngôn sứ Êlisê. Cũng không có sự cân xứng 20 bánh lúa mạch cho 100 người, trong trường hợp của ngôn sứ Êlisê; 5 cái bánh và 2 con cá cho chừng 5000 người đàn ông, trong Tin Mừng.
Các người chứng kiến cùng tỏ vẻ lo lắng:
-        "Làm sao mà đủ cho 100 người được? " người đầy tớ của ngôn sứ Êlisê hỏi.
-        Thưa, có mua đến 200 đồng bạc bánh cũng chẳng đủ...", ông Phipphê trả lời.
Cùng ra lệnh bảo làm: “Cứ cho hết mọi người ăn”, Ngôn sứ Êlisê nhấn mạnh. "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi". Đức Giêsu bảo.

Bánh ăn rồi đều cùng có dư thừa:
"Họ ăn rồi mà còn dư lại”, trình thuật của sách Các Vua quyển hai. "Họ chất đầy được rnười hai thúng miếng bánh vụn”, Tin Mừng Gioan viết.

Như vậy, thánh Gioan muốn cho thấy rằng việc làm của Đức Giêsu vượt trội hơn hình ảnh mờ nhạt của Cựu ước tiên báo về thời của Đấng Thiên Sai nhiều. Và nếu bánh thừa nhiều vô vàn hơn thời kỳ ngôn sứ Êlisê còn thừa, thì chính là để ngụ ý rằng hôm đó Đức Giêsu không những bẻ bánh cho đám đông ăn, mà còn cho hết thảy mọi người nữa.

] Trình thuật của Gioan cũng ám chỉ nhiều đến những biến cố của thời Xuất hành.

Đức Giêsu đã lên “núi”, núi Sinai mới nơi đó Người là Môsê mới, sẽ ban Lời Chúa và Manna mới cho dân Người.

Tác giả xếp đặt cho cảnh xảy ra vào "ít ngày trước Lễ Vượt Qua”, đặt biến cố vào bối cảnh cuộc giải thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập có ngụ ý đây chính là một cuộc xuất Hành mới đang mở màn, một cuộc Vượt qua mới được loan báo, lễ vượt qua của Đức Giêsu (cf. Ga 2,13-20; 11,55-57).

Còn về câu Chúa hỏi Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây" chính là tiếng vang vọng lại lời của Môsê hỏi Thiên Chúa khi dân Do thái lẩm bẩm kêu trách ông trong hoang mạc: "Con sẽ kiếm đâu ra thịt mà cho dân này đây? (Ds 11,3).
Nhưng X.Léon-dufour nhận xét thêm: "Khác với Môsê có vẻ lo lắng, Đức Giêsu đã biết người sắp làm gì rồi”. Việc Đức Giêsu sắp "làm" đây sẽ không chỉ là một việc lạ lùng sắp diễn ra mà còn bao gồm luôn chính thực tại mà phép lạ ấy là dấu chỉ nưa: để cho muôn người được sống, Đức Giêsu sẽ ban không chỉ những lời nghe được từ Cha, mà cả chính bản thân Người qua cái chết nữa. Điều này còn quí trọng hơn cả những tấm bánh hứa nhau lạ lùng hôrn nay ("Lecture de l'Evangile selon saint Jean", cuốn 11, Seuil, trang 107).

Nếu Gioan thêm câu "Người nói thế là để thử ông”, thì cũng là để ám chỉ những thử thách dân Do Thái đã trải qua xưa trong cuộc hành trình qua hoang mạc vậy.

Ngần ấy hình ảnh ám chỉ như vậy, khiến tấm bánh hóa nhiều chính là Manna mới dành để dưỡng nuôi một dân mới do Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo.

Nhưng nếu trình thuật này mang âm hưởng sâu xa của thời Cựu ước xa xưa, thì đồng thời cũng báo trước Bí tích Thánh Thể.

A.Marchadour nhận xét: "Lời lẽ của trình thuật, Người cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn (c.11) chính là những lời cộng đoàn Gioan vẫn thường nghe trong những buổi cứ hành Thánh Thể.

Như ta được biết, trong bữa ăn tối trước khi chia tay, chính Đức Giêsu làm cử chỉ phân phát, (chứ không phải các môn đệ đã làm việc này theo như tường thuật của ba Tin Mừng nhất lãm). "Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí” (c.12) lời nhận xét này ngụ ý diễn tả thời điểm lịch sử của Đức Giêsu là trổi vượt, rất đáng trân trọng, nên đừng để uổng phí. Người ban dư đầy ăn huệ, để chính Giáo Hội cũng được thụ hưởng dồi dào. Đức Giêsu đến cho người ta được sống và sống dồi dào (10, 10). Phải dồi dào đủ cho hết thảy các thế hệ Kitô giáo" ("L'evangile de Jean", Centurion, trang 101)

3. Đức Giêsu là Môsê mới lãnh đạo cuộc Xuất hành mới.
Đây là trường hợp hi hữu trong Tin Mừng Gioan: Đấng làm phép lạ ấy được dân chúng hoan hô, vì họ nhận thấy Người còn hơn là vị ngôn sứ; Người là nhân vật Thiên Chúa hứa trong Nhị Luật 18,15 giống như Môsê; dân chúng nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ Đấng phải đến thế gian ".

Nhưng thay vì lấy lòng tin để mở lòng ra đón nhận Đấng mà phép lạ ấy nói cho biết, thì dân chúng lại chỉ nghĩ đến cơm bánh mà họ đã được no nê. Họ còn ra sức giam hãm Đức Giêsu trong quan niệm quá phàm trần họ vốn có về Đấng Mêsia: "Họ sắp đến bắt Người đem đi mà tôn làm vua”.

Vì thế Đức Giêsu lánh mặt đi "lên núi một mình”. Người không phải là "vi ngôn sứ" đúng như họ mong muốn khi trông đợi một Đấng Mêsia trần tục.

A.Marchadour kết luận: "Thánh Gioan đã khéo léo lồng vào câu chuyện này ba thời điểm khác nhau: thời xuất hành lúc dân Israel đã bắt đầu rong ruổi trong sa mạc, thời gặp gỡ lịch sử với Đức Giêsu làm khung cho câu chuyện, và thời của Giáo Hội. Điều đó phải muốn nói lên rằng qua ba hoàn cảnh lịch sử khác nhau này vẫn một câu hỏi căn bản còn phải được đặt ra là: Làm thế nào để sống tin tưởng vào Chúa khi ở trong sa mạc (manna)? trong lúc Chúa nhập thể ở giữa con người (Đức Giêsu)? và trong Giáo Hội (Thánh Thể)?

Trong tư tưởng của Gioan, Đức Giêsu không nhắm mục tiêu tỏ bày lòng thương xót của Người đối với đám đông đang đói cho rằng muốn mạc khải nhân tính đích thực của mình vì thế Gioan đã đẩy các môn-đệ lui vào hậu cảnh, để tâm cả câu chuyên tập trung vào con người toàn năng là Đức Giêsu, Đấng lèo lái các biến cố và làm cho các biến cố có ý nghĩa. trình thuật kết thúc bằng một thất bại, nhưng phần sau câu chuyện lại sẽ cố gắng làm cho mạc khải được sáng tỏ khi đào sâu ý nghĩa biểu tưởng của bánh vốn đã có ngay trong dấu chỉ rồi. Người ta sẽ nhận ra ngay được rằng Đấng ban lương thực, thì chính Người cũng là lương thực nuôi sống mọi người" (O.C. trang 101)

BÀI ĐỌC THÊM.
1. "Một dấu" chỉ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết"
Trong tâm tưởng của Đức Giêsu Nagiarét, đây chính là một kiểu chia sẻ lương thực mới lạ. Một dấu lạ gây được niềm hồ hởi, nhưng sẽ bị ngộ nhận. Một dấu lạ cần tìm ra ý nghĩa, một mầu nhiệm cần phải hiểu biết, mà chỉ có đức tin mới tiếp cận được. Một Bánh Trường sinh cần khám phá. Nhưng Bánh nào và sự sống nào?

Chắc hẳn chúng ta đều bị lôi cuốn muốn đọc những biến cố này một cách quá ư duy vật khi chỉ cho đó là phép lạ. Nên không đòi hỏi nhiều đức tin. Trái lại điều "người môn đệ Chúa yêu" trình bày, là thuộc lãnh vực thiêng liêng. Nên coi như phải đòi hỏi nhiều đến đức tin, bởi lẽ, đàng sau hình ảnh hay dấu chỉ là chân lý sâu xa phải đạt tới, là giáo lý Chúa dạy, là kho tàng phong phú Chúa ban cho.

Dân chúng thích được ăn “bánh ngọt" mà không quan tâm đến Đấng muốn nhân đấy tỏ mình ra là Đấng Mêsia mà đức tin cho biết là Đấng ban tặng lương thực và là chính lương thực. "Các ông đi tìm tôi, không phải vì các ông đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê" (Ga 6,26). Manna trong sa mạc xưa đã nên như biểu tượng nói lên tính cách chân thật của Lề Luật vì rằng khi Thiên Chúa thử thách dân người và thực hiện vô số những dấu lạ, thì người muốn dạy cho họ biết rằng: “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh. nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra" (NL 8.3b).

Lương thực của kẻ nghèo và vài con cá nhỏ cũng đã được coi như một Manna mới. Nhưng đàng sau những thực tại khiêm tốn của con người. Đức tin sẽ phải dần dần tìm thấy ở đấy là nghi lễ "Bẻ Bánh" tên ban đầu được dùng để chỉ cử hành Thánh Thể. Đức Giêsu là Lời và Bánh, ban mình làm lương thực cho dân mới, nơi Người đã qui tự lại để khai trương và xây dựng một vương quốc sung túc mọi bề.

Giờ đây hẳn chúng ta cũng đang ở trước "một phép lạ lịch sử gây ngỡ ngàng cảm phục, khiến chúng sẽ phải vỗ tay ca ngợi Đấng làm phép lạ và gợi cho lòng ta ước muốn tôn Người làm Vua-cứu-tinh vậy".
2. “Từ Mười Hai Thúng, chúng ta nhận lấy bánh Thánh Thể”
(Mgr. L. Daloz, trong "Nous avons vu sa gloire". DDB, trang 130).
Những kiểu nói này dùng trong kinh nguyện Thánh Thể ngày nay: Cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra, trao cho, hẳn phải làm ta nghĩ ngay đến mối liên hệ giữa bữa ăn đột xuất ngoài trời khi xưa và Bữa Tiệc Ly. Chính Đức Giêsu trao bánh cho mọi người; một cử chỉ hoàn toàn khó tin, bởi lẽ làm sao mà chính Người có thể phân phát bánh cho cả năm ngàn người? Điều đó cũng khiến ta phải nghĩ rằng tấm bánh hóa nhiều đó là dấu chỉ của Thánh Thể. Sau cùng, còn lại mười hai thúng đầy, số mười hai chỉ mười hai chi tộc Israel có nghĩa là ân huệ Chúa ban sẽ luôn dư dật cho Israel mới. Mười hai thúng cũng nói lên sự dồi dào phong phú của Chúa. Chính trong mười hai thúng này mà chúng ta được múc lấy tình yêu vô tận, không bao giờ cạn kiệt. được nhận lấy bánh, bánh từ bàn tiệc Thánh Thể, bánh đem lại phúc trường sinh.

3. “Phải vừa là người của lương thực hằng ngày, vừa là người Thánh Thể”.
(H.Vulliez, trong "Dieu si proche. Năm B", Desclée de Brouwer, tr.76-77).
Dấu lạ Đức Giêsu làm diễn ra thật vĩ đại. Nên sau đó những kẻ mục kích nhìn nhận Người là vị ngôn sứ phải đến và muốn tôn Người làm vua, âu cũng là điều dễ hiểu!

Nhưng rõ ràng cũng chính bởi tại đó nên mới xảy ra đổ vỡ. Đức Giêsu phải lánh ra và rút lui. Khi gặp lại họ ở phía bên kia Biển Hồ, Người phải giải thích nhiều để họ hiểu rằng sự sống Người đến để ban cho họ không phải là chuyện ăn uống sinh sống ở đời này. Đó là sự sống đời đời. Bánh Người chia cho ăn hôm ấy chỉ là thứ đồ ăn mau hư nát. Thực ra, đó chính là dấu chỉ của một lương thực khác, thứ lương thực "trường tồn đem lại phúc trường sinh" (6,27). Phải có được sự tỉnh táo của Đức Giêsu thì những dấu lạ Người làm cho con người mới không bị thu hẹp vào chỉ một vấn đề tìm thỏa mãn những nhu cầu trần thế mà thôi. Phải được Người gắn bó ta với sứ mệnh Chúa Cha đã trao phó cho Người.

Chúng ta cũng sẽ gặp phải cơn cám dỗ này, mối nguy hiểm này là khuynh hướng thích thu hẹp lại. Những nhu cầu cấp bách vốn dằn vặt con người khiến chúng ta phải trăn trở. Chúng ta đành phải dấn thân như Đức Giêsu để đối phó với những nhu cầu của họ. Thái độ dấn thân này, đối với lòng tin của ta, là dấu chỉ tình yêu của Chúa muốn cho con cái Người được hạnh phúc. Chúng ta không thể vô tình trước các nỗi bệnh tật, đói khát, bất công. Ta phải không ngừng mở rộng con tim và bàn tay, không ngừng bắt tay vào việc chia sẻ và xây dựng một thế giới công bằng và có tình liên đới. Việc làm ấy tham dự vào sứ mệnh của ta. Đồng thời ta phải tỉnh thực để không chỉ thu hẹp tầm nhìn vào những nhu cầu vật chất mà thôi, không say sưa vì khao khát cho công việc thành tựu, hoặc ngây ngất trước vẻ cao cả lớn lao của công trình đang thực hiện. Ta phải mở mắt nhìn vào một nhu cầu khác kín đáo hơn? vì sâu xa hơn: đó chính là sự sống đời đời, chỉ sự sống đó mới làm cho con người được phỉ chí toại nguyện. An uống no nê, con người chưa lấy làm đủ. Đây là một thế quân bình khó giữ. Chúng ta vừa phải là những con người đem lại cơm no áo ấm, vừa phải là những con người đem đến Thánh 'Thể".