Thứ Sáu, 10 tháng 3, 2017

VĂN BÀN TĨNH TÂM NIỀM VUI NẬM XÉ CÓ THÁNH LỄ CHÚA NHẬT THÁNH LỄ AN TÁNG Ô. GIUSE GIÀNG XEO CHƯ







LỄ TẠ ƠN TĨNH TÂM VĂN BÀN 
Thêm chú thích



NIỀM VUI NẬM XÉ CÓ THÁNH LỄ CHÚA NHẬT HÀNG TUẦN















THÁNH LỄ AN TÁNG Ô. GIUSE GIÀNG XEO CHƯ 1972 MÈO ĐỎ
QUA ĐỜI NẰM ĐẤT











ÔNG NGUYÊN PHÓ CHỦ TỊCH H. VĂN BÀN DỰ TĨNH  TÂM

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY A
Lời Chúa: St 12,1-4a; 2Tm 1,8b-10; Mt 17,1-9

MỤC LỤC


1. Chúa biến hình

Tại sao Chúa Giêsu chỉ mang có ba môn đệ thân tín lên đỉnh Taborê? - Ngay từ đầu đoạn Tin Mừng, thánh Matthêu đã ghi rõ: Chúa Giêsu đem ông Phêrô cùng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đi riêng với mình. Đồng thời trong Phúc Âm chúng ta cũng thấy không thiếu gì những trường hợp chỉ có ba ông này được chứng kiến một số hành động của Chúa Giêsu. Ngoài việc làm chứng nhân cho cuộc biến hình, các ông còn được độc quyền đi theo Ngài trong những giây phút hấp hối cuối cùng nơi vườn cây dầu. Độc quyền chứng kiến việc Chúa Giêsu làm cho con gái ông Giairô sống lại. Các ông cũng là những người đã hỏi riêng Chúa Giêsu về những dấu hiệu báo trước ngày sụp đổ của đền thờ.

Có thể nói: Phêrô, Giacôbê và Gioan tượng trưng cho hàng ngũ lãnh đạo trong Gháo Hội. Việc Chúa Giêsu đem những người có nhiệm vụ lãnh đạo Giáo Hội để các ông chứng kiến cho sự biến hình không phải là không có ý nghĩa cho sự sinh hoạt của Giáo Hội ngày hôm nay. Như chúng ta đã biến vấn đề quyền hành là vấn đề then chốt trong Giáo Hội bởi vì chính Ngài đã xác quyết trước mặt Philatô:
- Nếu từ trên chẳng ban cho ông, thì ông chẳng có quyền hành gì trên tôi.

Thế nhưng quan niệm về quyền hành của Chúa Giêsu hoàn toàn khác biệt với quan niệm về quyền hành của thế gian. Bởi vì theo Ngài, quyền hành là để phục vụ chứ không phải là để hống hách, chèn ép và hưởng thụ:
-      Thủ lãnh các dân ngoại thì cai trị và chuyên chế, còn giữa các ngươi thì không được như vậy, ai muốn làm lớn thì hãy trở nên rốt hết và trở nên đầy tớ cho mọi người.
Chính Ngài, trong bữa tiệc ly cũng đã nói với các môn đệ:
-      Mặc dầu các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm. Nhưng nếu Ta là Thầy và là Chúa mà còn quỳ gối rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.

Cũng trong chiều hướng đó mà các vị Giáo hoàng vốn tự xưng mình là “servus servorum”, đầy tớ của các đầy tớ. Ba vị cột trụ của Giáo Hội được chứng kiến việc Chúa biến hình, không phải là để các ông được hưởng một kinh nghiệm lý thú như Phêrô đã tưởng: Lạy Thầy, chúng con ở đây thì thật là hay quá, nhưng là để các ông sau này biết vận dụng quyền hành theo một ý nghĩa mới mà Ngài đã đề ra đó là phục vụ.

Còn chúng ta thì sao? Liệu chúng ta đã đổi mới quan niệm của chúng ta theo quan niệm của Chúa Giêsu hay chưa? Liệu chúng ta đã đổi mới cái nhìn của chúng ta theo cái nhìn của Chúa Giêsu hay chưa? Có nghĩa là chúng ta đã thực thi giới luật yêu thương, đã sống tinh thần phục vụ, đã có được những hành động bác ái an ủi, khích lệ và giúp đỡ những người chung quanh hay chưa?

Bởi vì trong ngày sau hết chúng ta sẽ không bị xét xử về địa vị xã hội, mà sẽ bị xét xử về những hành động bác ái yêu thương mà chúng ta đã làm hay không làm cho những người chung quanh. Có như vậy chúng ta mới xứng đáng được tham dự vào cuộc biến hình vinh quang trong ngày sau hết.


2. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

MẮT ĐỨC TIN, MẮT CỦA TRÁI TIM
Có nhiều điều ta nhìn mà không thấy. Ví dụ: tình yêu, tình bạn, tình mẫu tử. Ta chỉ thấy những dấu hiệu của tình yêu như: sự âu yếm, quà tặng, sự quên mình. Còn chính tình yêu thì ta không thấy. Điều chính yếu thì vô hình. Ta chỉ thấy được bằng trái tim.

Có nhiều điều ta chỉ thấy bề mặt mà không thấy bề sâu. Ví dụ như con người. Khi nhìn một người, ta chỉ thấy diện mạo, hình dáng bên ngoài. Ít khi ta thấy được tâm tư tình cảm của người khác, kể cả những người thân yêu sống kề cận bên ta. Linh hồn người ta không ai thấy bao giờ. Vì linh hồn thiêng liêng. Ta chỉ thấy được bằng đức tin.

Chúa Giêsu xuống thế làm người đã trở nên giống như một người phàm. Người che giấu thần tính vinh quang sáng láng trong một thân xác nghèo hèn, bình thường. Không ai nhận ra thần tính của Người. Ngay cả các môn đệ luôn luôn kề cận bên Người.

Hôm nay, khi Chúa tỏ mình ra các ông chới với ngỡ ngàng. Lòng các ông tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy vinh quang của Chúa Giêsu. Thần tính vinh quang phát lộ rực sáng. Và nhân tính được tôn vinh. “Diện mạo Chúa Giêsu chói lọi như mặt trời và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng”.

Thần tính Chúa Giêsu biểu lộ chứng thực Người là Thiên Chúa ẩn mình. Thì ra manh áo đơn sơ của bác thợ mộc che giấu cả một nguồn ánh sáng chói lọi. Tấm thân dân dã nghèo hèn lại là chiếc bình chứa đựng Ngôi Hai Thiên Chúa cao sang.

Ánh sáng thần tính rọi vào nhân tính đem lại cho ta bao niềm hi vọng. Vì nhân tính của Chúa Giêsu gánh lấy cả nhân loại trên mình, nên ánh sáng thần linh cũng soi rọi cả vào chúng ta, vào thế giới tăm tối của tội lỗi, yếu hèn, vào thân xác rã rời mệt mỏi của ta.

Ánh sáng ấy cho tôi hiểu rằng, Thiên Chúa đang ẩn tàng trong vạn vật. Người ở nơi thâm sâu nhất của hữu thể tôi như thánh Augustinô đã cảm nghiệm: “Người ởi bên trong, còn tôi ở bên ngoài”.

Người ẩn tàng trong mọi quan hệ, trong mọi niềm vui, trong mọi tình bạn, trong mọi tình yêu. Bởi vì hạnh phúc là gì nếu không phải đi tìm cái cốt lõi, là nguồn mạch của hạnh phúc, là chính Thiên Chúa hằng sống.

Ánh sáng ấy ngầm nói với tôi rằng: Vinh quang Thiên Chúa như hạt giống đang vùi chôn trong lòng tất cả mọi anh em sống quanh tôi. Vinh quang ấy đang bị che khuất đàng sau những mái tranh thô sơ, những thân thể gầy guộc, những ánh mắt mệt mỏi lờ đờ.

Nhận thức ấy thôi thúc tôi trở về tìm Chúa trong đáy lòng mình. Càng bóc đi lớp vỏ tội lỗi, dung nhan Thiên Chúa càng hiện rõ. Càng chìm sâu vào nội tâm thinh lặng, tôi càng tới gần Chúa.
Nhận thức ấy giúp tôi kính trọng anh em vì anh em là những cung thánh đền thờ nơi Thiên Chúa ngự trị, là những vườn ươm hạt mầm thần linh, là những bình sành chứa đựng kho tàng cao quý.

Như thế, sống Mùa Chay là thực hiện một hành trình nọi tâm: trở về đáy lòng mình để gặp được Chúa. Ăn chay là đến với anh em bằng thái độ kính trọng, là bảo vệ hạt mầm thần linh đang đâm chồi nảy lộc trong các tâm hồn.

Chương trình hành động trong Mùa Chay là tiếp tay đem ánh sáng thần linh của Chúa Kitô soi chiếu vào những mảnh đời tăm tối, những thân phận hẩm hiu. Sao cho dung nhan nhân loại chói ngời ánh sáng nhân phẩm, ánh sáng văn hoá, ánh sáng lương tâm và ánh sáng thần linh.

Như thế ta đang công tác vào việc biến hình thế giới. Như thế ta đang bước theo chân Chúa Kitô, đưa nhân loại vào hành trình phục sinh.

Lạy Chúa Kitô, xin ban cho con đức tin mạnh mẽ để con nhìn thấy Chúa trong anh em. Xin ban cho con trái tim bén nhạy để con nhìn thấy những thực tại vô hình. Amen.


3. Người biến đổi hình dạng

(Trích trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong các hình ảnh người ta vẽ Đức Giêsu, ta thường thấy Ngài có vòng hào quang trên đầu. Thật ra Con Thiên Chúa đã nên giống chúng ta. Ngài mang khuôn mặt bình thường như ta. Chính nơi khuôn mặt này mà ta thấy Thiên Chúa.
“Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9).
Khuôn mặt con người có thể phản ánh khuôn mặt Thiên Chúa. Nơi khuôn mặt Đức Giêsu, khuôn mặt như mọi người, ta có thể gặp thấy Thiên Chúa vô hình, Đấng ngàn trùng thánh thiện và vô cùng siêu việt.

Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người. Chính vì thế họ ngây ngất hạnh phúc khi thấy khuôn mặt ấy rực sáng vinh quang. Họ muốn dựng lều để ở lại tận hưởng.

Tiếng từ đám mây phán ra như một lời giới thiệu và nhắn nhủ: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” Thầy Giêsu vừa là Con, vừa là Người Tôi Trung (Is 42,1), vừa là vị ngôn sứ đã từng được Môsê loan báo (Đnl 18,15).

Phêrô không quên được kỷ niệm độc đáo này. Ông viết: “Chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người... Chúng tôi đã nghe thấy tiếng từ trời phán ra khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người” (2Pr 1,16-18).
Đức Giêsu được biến hình sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, sau khi thắng được cơn cám dỗ của Phêrô (Mt 16,23), và kiên quyết đi trên con đường Cha muốn.

Biến hình là một bừng sáng ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến. Thân xác Đức Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng. Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong ngần.

Chúng ta cần có lần lên núi cao, thanh vắng, để nhìn thấy khuôn mặt ngời sáng của Đức Giêsu, nhờ đó chúng ta dễ đón nhận khuôn mặt bình thường của Ngài khi xuống núi, và khuôn mặt khổ đau của Ngài trên thập tự.

Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng.

Sám hối là đổi tâm hồn, đổi khuôn mặt để chính tôi và cả Hội Thánh mang một khuôn mặt mới.

Gợi Ý Chia Sẻ
·        Bạn nghĩ gì về khuôn mặt của bạn, đâu là những điểm sáng và điểm tối? Bạn có dám xin một người khác góp ý về những điểm bạn chưa rõ về bạn không?
·        Bạn nghĩ gì về khuôn mặt giáo xứ của bạn, nhóm của bạn, gia đình của bạn? Trong mùa chay này, bạn có thể làm gì để khuôn mặt ấy ngời sáng hơn?

Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con, xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con rạng ngời hơn sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.


4. Ý nghĩa đời sống ta là gì? - Achille Degeest.

(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Có thể nói rằng trong câu chuyện về việc Chúa Biến Hình, Chúa Cha mặc khải Chúa Con. Để suy niệm, chúng ta sẽ dừng lại một đôi khía cạnh đảo ngược, nghĩa là một ít đường nét trong khuôn mặt của Chúa Giêsu, Đấng mặc khải Chúa Cha. Làm như thế, ta sẽ trung thành với phần kết luận của câu chuyện, theo đó thì sự chú ý của ta được hướng về cá nhân Chúa Giêsu.

Việc Chúa Biến Hình là chứng tá của Chúa Cha về Chúa Giêsu. Cả đời Chúa Giêsu là một chứng tá về Chúa Cha. Người biết mình bởi đâu đến và đi về đâu, Người từ Chúa Cha mà đến và sẽ trở về với Chúa Cha. Đến lượt ta, trong Đức Kitô và nhờ Người, ta cũng biết nguồn gốc và cùng đích ta là đâu. Sau đây là một vài tỷ dụ về khuôn mặt ‘làm con’ của Đức Kitô.

1) Một chuyển động nội tâm đem lại ý nghĩa cho đời sống Đức Kitô và soi sáng nó. Người biết mình là kẻ được Chúa Cha thánh hiến và gởi vào thế gian để đem Tin Mừng Cứu Độ đến người nghèo khó, rao giảng sự giải thoát (khỏi tội lỗi) cho người tù đầy, và mở mắt cho kẻ đui mù (Lc 4,18). Là ‘phái viên’ của Chúa Cha, Người đặt sự thành tựu con người và đời sống mình trong lòng trung tín với ý Cha. Không phải là một sự trung tín an phận trước một chuyện chẳng đặng đừng, nhưng là một sự trung tín tích cực, tự phát, quyết liệt. Nó là dấu hiệu của Thánh Thần tình yêu hoạt động mãnh liệt trong Người.

Có lẽ đã có lần ta tự hỏi: đời tôi có ý nghĩa gì? Nếu ta sống trong thánh ý Chúa và nếu ta tận tình chu toàn thánh ý Chúa Cha, thì đời ta có một ý nghĩa và như Chúa Con, chúng ta cũng được biến hình cách thiêng liêng.

2) Chúa Giêsu muốn để cho Chúa Cha hiện rõ qua con người và đời sống mình. Ý chí đó đã quy định mọi hành vi, thái độ của Người. Người nói năng thế nào? Hoạt động ra sao? Người dám nói rằng lời Người nói không phải là của Người, nhưng của Đấng đã sai Người đến. Người quả quyết Người không hành động tự ý mình, nhưng chính Chúa Cha hành động qua Người. Nhìn Chúa Giêsu mà không đếm xỉa đến tương quan của Người với Chúa Cha, ta sẽ không hiểu nổi Người. Với người Kitô hữu cũng thế. Họ phải để cho Thiên Chúa ‘lộ dạng’ qua đời sống mình, bằng cách làm như Chúa Giêsu: nghĩa là thỉnh ý Chúa Cha về việc phải làm, phải nói. Thỉnh ý qua lời cầu nguyện, qua việc chạy tới Đức Giêsu là Đấng mặc khải Chúa Cha, trong niềm tin tưởng ở Chúa Thánh Thần và sự tuân phục đối với Hội Thánh.


5. Chúa hiển dung

(Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – của Đài Phát Thanh Chân Lý Á Châu)
Trong phụng vụ Chúa nhật thứ hai Mùa Chay này, Giáo Hội cho chúng ta chia sẻ phần nào tâm tư của Chúa Giêsu và ba môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, là những người đã được Chúa Giêsu kêu gọi đầu tiên và cũng là những người được Chúa Giêsu đem theo vào vườn Giệtsêmani để cầu nguyện trước khi Người bước vào cuộc Thương Khó. Với tâm hồn tinh tế và ưu ái, Chúa Giêsu biết rõ tâm tính của các học trò mình. Người biết họ vốn là những ngư phủ chất phác, nhiệt tình nhưng khá bộp chộp. Họ hăng say đi theo Người, hết lòng cộng tác vào sứ mệnh của Người, nhưng cũng từng có những phản ứng nóng nảy, bộc phát. Trong các câu chuyện kể của Tin Mừng, chúng ta thấy không ít lần Simon Phêrô nhanh nhẩu thay mặt các đồng bạn trả lời câu hỏi của Chúa Giêsu, cho dù các lời ấy có thể làm Thầy mình buồn lòng. Thậm chí, trong một lần cản ngăn Chúa Giêsu về việc Người sẽ tự nguyện lên Giêrusalem để chịu khổ hình, và Phêrô lúc đó đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng lời như sau: “Satan, lui lại đằng sau Thầy, con cản lối Thầy, vì tư tưởng của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa mà của loài người”. Còn hai ông Gioan và Giacôbê thì cũng bộp chộp không kém, vì tính tình nóng nảy, hai ông đã được Chúa Giêsu đặt biệt hiệu là con của thiên lôi, hai ông đã bị Chúa Giêsu khiển trách vì đã muốn cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những người Samari không chịu tiếp đón Người. Vì biết rõ tâm tính của các ông, nên sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc Thương Khó của mình, Chúa Giêsu đã đem riêng các ông theo Người lên núi cầu nguyện và cho các ông chứng kiến vinh quang của Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc hôm nay, ba ông vẫn còn nguyên vẹn tính chất phác của mình, nên khi Chúa Giêsu chuyên tâm cầu nguyện thì các ông lại vô tư nằm ngủ, và Chúa Giêsu vẫn để cho các ông ngủ say. Khi các ông bừng tỉnh thì một khung cảnh huy hoàng đã bao trùm lấy các ông, các ông được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trong vẻ vinh quang sáng lạn của Người, có ông Môisê và ông Êlia xuất hiện để làm chứng rằng Người là Đấng Thiên Sai mà Kinh Thánh đã loan báo. Quá kinh ngạc vì cảnh tượng huy hoàng trước mắt, Phêrô đã nói như trong cơn mê sảng, kế đó ông lại được đám mây biểu hiện sự có mặt của Thiên Chúa bao trùm và được nghe tiếng Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Ngài.

Khi nghe đoạn kể lại Chúa Giêsu tỏ mình vinh hiển trên đây, chúng ta thấy mình cũng ngây ngất, choáng ngợp trước cảnh tượng thánh thiêng huy hoàng ấy, chúng ta khâm phục các môn đệ Phêrô, Gioan và Giacôbê, vì các ông đã được chiêm ngắm vinh quang của Chúa Giêsu. Nhìn lại mình, chúng ta thấy đời sống đức tin của chúng ta sao mà nhạt nhẽo. Chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã Phục sinh vinh hiển, nhưng dường như Người ở tận trên thiên cung xa vời. Còn chúng ta thì cứ loay hoay mãi với những chuyện đời thường nơi chốn trần gian này. Tâm trạng của chúng ta cứ buồn buồn sao ấy. Thật ra, chúng ta không chỉ mãi quẩn quanh với những thăng trầm thế sự mà thôi. Hiện giờ, Chúa Giêsu vẫn hằng quan tâm đến mỗi người chúng ta, như Người đã từng quan tâm đến các môn đệ như Phêrô, Gioan và Giacôbê ngày xưa. Người biết rõ tâm tính của mỗi người chúng ta với những ưu điểm và khuyết điểm của từng cá nhân. Bằng những cách thế khác nhau, qua những sự kiện và những dấu chỉ khác nhau, Người cũng cho chúng ta chia sẻ những giây phút vinh quang, hoan lạc của Người, để tỏ lộ cho chúng ta đại cuộc cứu độ của Người và giúp chúng ta vững bước trên đường sống đạo. Nếu chúng ta không nhận ra những lúc Người tỏ mình như thế, có thể vì chúng ta chưa đủ nhạy bén trong đời sống đức tin, hoặc vì chúng ta không nghĩ rằng mình được Chúa Giêsu ưu ái quan tâm đến thế.

Quả thật, Chúa Kitô Phục Sinh vẫn thường xuyên đến với mỗi người chúng ta dù không rực rỡ ánh hào quang như lúc tỏ lộ cho ba môn đệ ngày xưa, nhưng vẫn đủ để tạo ra những dấu ấn có sức củng cố đức tin của chúng ta. Đại thi hào Tagore đã viết về điều này trong tác phẩm Lời Dân như sau:
“Anh không nghe thấy ư?
Bước chân Người thầm lặng
Người tới, tới và luôn luôn thường tới
Người tới, tới và luôn luôn thường tới
Hàng giờ, hàng đêm, hàng ngày, hàng thời đại, anh ơi”.

Lạy Chúa Giêsu, trong cuộc sống đời thường của con, Chúa dùng muôn vàn phương cách để tỏ lộ cho con vinh quang của Ngài, nhưng nhiều lúc con chẳng nhận ra. Xin Chúa ban cho con đôi mắt biết rộng mở, đôi tai biết lắng nghe và tâm hồn biết thinh lặng để nhận ra Chúa. Xin cho con biết lưu giữ những kỷ niệm về những lần con gặp Chúa để mỗi khi gặp cơn sóng gió trong đời, con hồi tưởng lại những kỷ niệm tuyệt vời ấy mà vững tâm sống đạo.


6. Dõi theo bước Chúa

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’ – R. Veritas)
Người ta kể rằng năm ấy dù mới lên mười tuổi, cậu Chai-san đã được bố cho đi theo một đoàn lữ hành phải vượt cao nguyên trùng điệp với những đỉnh đồi, những ngọn núi vừa hùng vĩ vừa thơ mộng. Đêm đến đoàn lữ hành trú ngụ trong những chiếc lều vải thô sơ. Một đêm nọ cậu bé Chai-san cảm thấy có một sức mạnh từ bên trong thúc đầy cậu trốn ra khỏi lều. Và kìa, giữa miền núi cao, bầu trời đầy trăng sao lấp lánh như bao trùm lấy cậu. Một cảm giác hạnh phúc nhẹ nhàng xâm chiếm tâm hồn Chai-san. Cậu có cảm tưởng như cả vũ trụ xinh đẹp này đã được tạo dựng để ban tặng cho cậu, và nó đang nâng tâm hồn cậu lên với Đấng Tạo Hóa.

Bỗng chốc bầu khí yên tĩnh và an bình bị xáo trộn vì tiếng gọi của người cha: “Chai-san, mày trốn đi đâu rồi? Trở vào lều đi”. Chai-san miễn cưỡng trở vào lều và tiếc nuối nói với cha: “Bố ơi, bầu trời trăng sao đẹp quá chừng!”.

Thưa anh chị em,
Trong truyền thống Thánh Kinh cũng như trong hầu hết các tôn giáo, núi cao thường được xem như là nơi gặp gỡ giữa trời và đất, giữa Thần Linh và con người. Những mạc khải quan trọng trong Kinh Thánh đều diễn ra trên núi cao. Môsê đã được kêu mời lên núi Sinai để gặp gỡ Giavê Thiên Chúa và đón nhận lề luật cho Dân Chúa. Êlia đã ròng rã 40 đêm ngày lên núi Horeb để gặp Chúa. Êlisê cũng lên núi Carmel để gặp Chúa. Và Chúa Giêsu cũng khởi sự đời công khai bằng 40 đêm ngày chay tịnh trên núi cao, rồi trong ba năm sứ vụ, Ngài vẫn thường lặng lẽ một mình lên núi để cầu nguyện cùng Cha Ngài.

Trong Tin Mừng hôm này, Chúa Giêsu đã đưa ba môn đệ thân tín nhất lên núi Thabor để tỏ vinh quang của Ngài cho các ông. Từ trên núi cao, Phêrô, Giacôbê, Gioan đã nhận ra được con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Từ trên đỉnh cao, các ông thấy vinh quang của ngài như một lời hứa được thực hiện, như thành tựu của một sứ mệnh, như đích điểm của một con đường, con đường thập giá dẫn đến vinh quang.

Thế nhưng, thưa anh chị em, người ta không lên núi cao để ở lại đó, mà là để nhìn rõ hơn con đường phải đi. Đối với Chúa Giêsu, con đường phải đi đó chính là con đường lên Giêrusalem với cuộc tử nạn đang chờ đợi Ngài. Và Ngài đã xuống núi để giáp mặt với cuộc đời, để tiếp tục hành trình xuyên qua khổ nạn và cái chết thập giá. Từ trên núi cao, Chúa Giêsu cũng muốn đưa ba môn đệ thân tín của Ngài trở lại cuộc đời, trở lại với những thử thách, chống đối đang chờ đợi trước mắt các ông.

Thật vậy, cuộc tỏ vinh quang của Chúa Giêsu trên núi đã xảy ra sau khi Phêrô tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Lời tuyên xưng này lại gắn liền với lời Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó của Ngài và kèm theo lời mời gọi: “anh em hãy bỏ mình, vác thập giá đi theo Thầy” (Mt 16,24). Vậy là đúng vào lúc các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu là Đức Kitô, là Đấng Cứu Thế, thì trước mắt các ông hình ảnh một Đấng Cứu Thế oai hùng lẫm liệt theo các ông quan niệm, bắt đầu tan biến, để hiện ra một Đấng Cứu Thế đau khổ, bị đày đọa, bị khai trừ, bị giết chết. Hình ảnh đó thật là khó hiểu đối với các môn đệ, vì lòng tin của các ông còn mộc mạc, phàm tục. Cho nên, chẳng lạ gì, Phêrô đã lên tiếng khuyên can Chúa Giêsu đừng đi theo con đường đau khổ đó làm gì. Nhưng thật không may cho ông, vì Chúa Giêsu cứ khăng khăng một mực, lại còn quay sang mắng ông: “Satan, cút đi!”. Vì ông đã tự đồng hóa với Satan cám dỗ Chúa trong sa mạc.

Rồi bây giờ thì lại cũng chính Phêrô đã dám đề nghị cắm lều ở lại trên núi Thabor, vì ở đây sướng quá, khỏi phải đi qua con đường đau khổ mà ông đã khuyên can Thầy. Nhưng rồi, mở mắt ra, ông thấy chỉ còn một mình Chúa Giêsu trên đỉnh núi. Ánh sáng rực rỡ đã tan biến, và Chúa Giêsu còn đánh thức các ông dậy, giục các ông xuống núi, đi lên Giêrusalem với Ngài để chịu tử nạn như Thầy đã báo trước.

Chính trong giờ phút biến hình rực rỡ vừa rồi, ông Môsê và ngôn sứ Elia đã đàm đạo với Chúa Giêsu về “cuộc ra đi” Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem, và tiếng Chúa Cha phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến. Các ngươi hãy vâng nghe lời Ngài”. Lời đó chính là để công nhận, để tán thành bước đường vượt qua đau thương của Chúa Giêsu, và mời gọi các môn đệ hãy đi theo Thầy. Vì thế, mấy Thầy trò lại xuống núi. Và Phêrô cũng như các môn đệ khác phải đi theo sau Thầy qua con đường khổ nạn thập giá mới đến ánh sáng vinh quang Phục Sinh.

Anh chị em thân mến,
Không phải hông có lý do mà phụng vụ năm nào cũng đặt bài Tin Mừng Chúa hiển dung sáng láng hôm nay vào giữa Mùa Chay. Giáo Hội muốn đưa chúng ta lên núi, hé mở cho chúng ta chiêm ngưỡng một chút vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu, để chúng ta thêm tin tưởng vào Ngài, để chúng ta có những giây phút nghỉ ngơi lấy sức trước khi xuống núi, trở về với cuộc sống bình thản trên các nẻo đường phẳng lặng hay đầy sóng gió đưa đến núi Can-vê. Chúng ta cần được Chúa đến gần, đưa tay đập vào người như “đã đến gần, vỗ vào người các môn đệ”, để thức tỉnh chúng ta, để chúng ta biết chuẩn bị sẵn sàng đón nhận mọi gian nan đau khổ trên đường đời.

Con đường Thương Khó của Chúa khởi đầu từ khi Ngài xuống núi. Rồi đây, Ngài cũng sẽ biến hình “không còn hình tượng người ta nữa”, để dạy chúng ta biết phải đi qua con đường thập giá mới đến vinh quang khải hoàn sống lại. Trong ngôn ngữ La-tinh, người ta chơi chữ: “Per crucem ad lucem”, nghĩa là “qua thập giá đến ánh sáng”. Qua Thứ Sáu Tử Nạn mới đến Chúa Nhật Phục Sinh. Đường thánh giá không dừng lại ở nấm mồ, nhưng mở ra trong niềm vui tưng bừng của ngày sống lại. Đó là quy luật của muôn đời.

Thưa anh chị em,
Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta, cũng có những giây phút chúng ta được đưa lên núi cao để gặp Chúa, núi cao của Thánh lễ, núi cao của những giờ phút dành cho việc cầu nguyện. Nhưng chúng ta không lên núi để ở đó mãi, mà là để trở lại với cuộc đời với muôn thử thách, đắng cay, với những gặp gỡ từng ngày. Chấp nhận cuộc sống với tinh thần lạc quan, chấp nhận chiến đấu mà không buông xuôi bỏ cuộc, sống như thể là tiếp tục con đường Chúa Giêsu đã đi qua. Chấp nhận những người anh em chúng ta gặp gỡ trên đường đi, chấp nhận những khác biệt, những bất toàn của người anh em cùng đồng hành, sống như thể là dõi bước theo đường Chúa đã đi qua.

Xin ánh sáng Phục sinh của Đức Kitô luôn dẫn bước chúng ta trên đường, để chúng ta biết đón nhận và sống trọn từng phút giây cuộc sống. Xin ánh sáng Phục Sinh của Đức Kitô chiếu dọi và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của chúng ta được tiếp tục trên dấu chân của Ngài.

 

7. Chúa tỏ hiện vinh quang

(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ của R. Veritas)
Trong một trăm chuyện ngắn hay của Việt Nam, được hội Văn Hóa Hà Nội tuyển chọn và cho xuất bản, người ta thấy đứng đầu danh sách là chuyện có tựa đề: “Thầy Lazarô Phiền”. Đây là chuyện ngắn được một tác giả Công giáo, ông Nguyễn trọng Quảng sáng tác vào năm 1887 và được xem là chuyện ngắn đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam.

Mở đầu câu chuyện tác giả nhắn nhủ như sau:
Nếu có xuống Bà Rịa, đi ngang qua nghĩa địa ở làng Phước đến gần nhà thờ các Thánh Tử Đạo, hãy vào thăm một ngôi mộ, đây là ngôi mộ của một tu sĩ tên là Lazarô Phiền.

Tên của nhân vật có thể gợi lên cả cuộc đời của vị tu sĩ này là một chuỗi những ngày khổ đau, những phiền muộn. Mẹ ông qua đời vì bệnh dịch tả năm ông mới được ba tuổi. Năm Phien lên mười hai tuổi, cùng với ba trăm tín hữu công giáo khác, cha của cậu bé Phiền đã bị Văn Thân thiêu sống trong ngục, còn cậu bé thì tay chân bị phỏng nặng nhưng cậu bé đã cố lết ra ngoài và được cứu thoát. Một sĩ quan Pháp thương tình đưa cậu bé Phiền lên Sàigòn và giới thiệu cho một gia đình Việt Nam giàu có. Cùng với người con trai trong gia đình này, Lazarô Phiền đã được cho ăn học đến nơi đến chốn. Sau khi đã thành tài, được bổ nhiệm đi làm thông ngôn, hai người thương nhau như là anh em ruột thịt. Tình nghĩa giữa hai người bạn lại càng thắm thiết hơn khi chính gia đình của người bạn này đã đứng ra lo chuyện gia đình cho Lazarô Phiền, nhưng niềm vui của cuộc sống hôn nhân không được trọn vẹn, bởi vì có một người đàn bà khác vì yêu Thầy Lazarô Phiền nhưng không được đáp trả nên đã tìm cách hãm hại Thầy.

Qua hai lá thư giả mạo của người đàn bà này, Lazarô Phiền nghi ngờ người vợ của mình có tư tình với người bạn thân của mình, cho nên không làm chủ được cơn ghen, ông đã lập mưu giết người bạn thân và dùng thuốc độc để sát hại vợ mình. Hai cuộc mưu sát đã được tính toán một cách tài tình, cho nên kẻ sát nhân đã tránh được lưới của pháp luật. Thế nhưng về phần mình, Lazarô Phiền ngày đêm bị tòa án của lương tâm cắn rứt. Cuối cùng ông xin vào tu trong một tu viện ở Sàigòn. Sau sáu năm tu luyện, Lazarô Phiền được thực sự trở thành một tu sĩ, mọi người trong tu viện đều thầm khâm phục sự thánh thiện của thầy, nhưng riêng thầy vì không bao giờ xưng thú hành động sát nhân của mình, cho nên đêm ngày không bao giờ được sự bình an trong tâm hồn. Phải cho đến lúc lâm bệnh nặng và ngày trước khi qua đời, thầy mới xin phép nhà Dòng cho về thăm quê hương ở Bà Rịa, tìm đến vị linh mục chánh xứ để xưng tội. Chỉ sau khi cảm nhận được ơn tha thứ của Chúa, thầy mới nhắm mắt lìa đời và ra đi trong bình an.

Câu chuyện trên đây có thể mang lại cho chúng ta một ánh sáng để nắm bắt được bài đọc của việc Chúa Giêsu biến hình trên núi Taborê mà hôm nay Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe. Có trải qua đau khổ và sự chết mới được vào vinh quang phục sinh, đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn dạy cho ba người môn đệ thân tín khi cho các ông chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi. Thế nhưng cùng với bài học này, Chúa Giêsu cũng muốn bày tỏ một chân lý khác, đó là con người chỉ có thể tìm thấy hạnh phúc và bình an đích thực khi sống thực trọn vẹn với Thiên Chúa mà thôi.

“Đây là Con Ta yêu dấu, rất đẹp lòng Ta, các ngươi hãy nghe Lời Người”. Chúa Giêsu rất đẹp lòng Chúa Cha, bởi vì Ngài đã vâng phục Chúa Cha, cho nên đã đón nhận cuộc sống cùng tất cả những hệ lụy của cuộc sống đau khổ và cuối cùng là cái chết trên thập giá. Bí quyết của Chúa Giêsu chính là sống cho Chúa Cha, sống thuộc trọn về Chúa Cha, sống vâng phục Thiên Chúa Cha qua cuộc sống vâng phục và vâng phục cho đến chết.

Chúa Giêsu đã vạch ra cho nhân loại bí quyết của hạnh phúc và bình an đích thực khi sống và thuộc trọn về Thiên Chúa mà thôi. Đây là chân lý nền tảng của cuộc sống mà Giáo Hội muốn mời gọi chúng ta đào sâu mỗi khi chúng ta trở lại với Mùa Chay. Cầu nguyện, ăn chay, hãm mình, thực thi bác ái, những thực hành này không nhằm một mục đích nào khác hơn là nhắc nhở chúng ta rằng, cùng đích của cuộc sống không phải là cuộc đời tạm bợ này nhưng là sự sống vĩnh cửu, nhờ sự kết hợp với Chúa chúng ta đã có thể cảm nghiệm được ngay từ trần gian này.

Kinh nghiệm hàng ngày không ngừng nói với chúng ta rằng, tiền của, quyền bính, danh vọng, lạc thú, không bao giờ mang lại hạnh phúc đích thực cho con người. Có tất cả mọi sự nhưng thiếu vắng Thiên Chúa trong tâm hồn thì con người không bao giờ có được hạnh phúc và bình an đích thực trong tâm hồn. Trái lại, khi sống cho Chúa, sẵn sàng như Tổ Phụ Abraham, từ bỏ mọi ràng buộc để được sống trọn cho Chúa thì con người mới thực sự sống sung mãn và tìm được bình an trong cuộc sống.

Mùa Chay, chúng ta được Giáo Hội mời gọi để duyệt xét sự chọn lựa căn bản của chúng ta, trong khi mưu tìm cuộc sống, chúng ta có đặt Chúa vào trọng tâm của cuộc sống hay không? Chúng ta có sẵn sàng từ bỏ tất cả những gì làm cho chúng ta xa lìa Chúa không? Chúng ta chỉ thực sự hạnh phúc và an vui nếu chúng ta trả lời một cách khẳng định cho những câu hỏi nền tảng ấy.


8. Biến hình – Richard Gutzwiller.

(Trích trong ‘Suy Niệm Tin Mừng Matthêu’)
Quang cảnh trên núi biến hình tiên báo về Thiên đàng. Đức Kitô đã nói trước rằng: Nhiều người sẽ không chết trước khi thấy Con Người trong vinh quang. Lời này bây giờ đã hoàn toàn được thực hiện, nhưng chỉ trong khoảnh khắc, giống như một tia sáng leo lét của ánh lửa bùng lên rồi mất hút trên bờ vắng. Đoạn văn Thánh này chia làm hai phần rõ rệt:

PHẦN THỨ NHẤT: Đầy vẻ huy hoàng rạng rỡ của Thiên Chúa. Ba môn đệ được chiêm ngắm ánh sáng mỹ miều này: Trước hết Phêrô, viên chức đầu tiên của Giáo hội, người mà từ đây sẽ phải học ý nghĩa đau khổ theo Thiên Chúa và thay thế tư tưởng nhân loại bằng tư tưởng thần linh. Thứ đến Giacôbê, người tử đạo tiên khởi, hân hoan đổ máu làm chứng vì đã thấy vinh quang Chúa. Và cuối cùng Gioan, môn đệ yêu dấu sẽ phải học biết rằng, đau khổ là bằng chứng của tình yêu.

Họ thấy Chúa biến hình, mặt Ngài rực rỡ như mặt trời, áo Ngài trắng như tuyết. Hình dáng buồn tẻ của chân dung nhân loại hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả phát huy từ ánh sáng Thiên Chúa. Sau khi xác sống lại con người ta cũng mặc lấy xác thể, nhưng theo những luật sinh lý mới. Ánh sáng vẫn là vật chất nhưng chiếu tỏa với tính chất đặc biệt: Ánh sáng làm thân thể rạng ngời như người ta đã thấy nơi Đức Kitô vinh quang.

Môisen và Êlia xuất hiện. Môisen cứu dân khỏi ách nô lệ Ai Cập, hướng dẫn họ qua sa mạc, trao truyền cho họ luật pháp và giao ước của Đấng Thánh siêu phàm. Tuy nhiên, ông chỉ được phép ngắm nhìn Đất Hứa từ xa. Lúc này ông được gần Đức Kitô, chính Ngài sẽ giải thoát không những riêng dân Do Thái, nhưng toàn thể nhân loại khỏi ách nô lệ ma quỷ. Chính Ngài hướng dẫn họ cách vô ngộ qua sa mạc cuộc đời tạm gửi. Ngài ban cho họ giới răn tình yêu tân kỳ trong Giao Ước Mới của Giáo hội. Là Môisen đích thực, Ngài dẫn dắt Dân Chúa vào Đất Hứa đích thực, để thực hiện cuộc biến hình muôn thuở.

Êlia là người thứ nhất trong các đại tiên tri. Người đã cấm không được dành cho Baal là thần trái đất những quyền lợi như Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa mới là Chúa tể của trời cao và vũ trụ.

Trước hết, người đã thay việc phục vụ các ngẫu tượng bằng việc phục vụ Thiên Chúa. Với tư cách là kẻ vô địch của Thiên Chúa, người đã đương đầu với dân Do Thái. Rồi đây, Đức Kitô đến để giúp con người khỏi rơi vào thảm họa diệt vong của trần tục, vật chất, xác thịt. Ngài đem đến cho họ nước của Thiên Chúa, là Cha trên trời. Chính Ngài cũng đã đánh bại Hêrôđê và đại diện của đế quốc Rôma. Êlia làm chứng về Ngài vì theo lời Kinh Thánh dạy, đại tiên tri được nâng lên trời rồi trở lại dọn đường cho Chúa. Người đây, sẵn sàng đóng vai trò dọn đường cho Chúa lên trời, trong cảnh biến hình. Vậy luật pháp và các tiên tri cùng hòa hợp làm chứng. Từ nay Phêrô thấy trước rằng, tình trạng biến hình như được thiết lập vĩnh viễn nên đã xin dựng lều để giây lát vinh hiển được trường tồn.

Đó là một thái độ dễ hiểu, vì con người đã được tạo dựng để hưởng niềm hân hoan. Đau khổ không thể là cùng đích của con người, nhưng đau khổ chỉ là một bước đường phải qua. Mỗi lần Chúa nói tiên tri về đau khổ, Chúa đã kết thúc bằng một ám chỉ về phục sinh vinh quang. Ở đây cuộc phục sinh vinh quang đã được tuyên bố như một yếu tố nền tảng của giáo lý về đau khổ. Ánh quang chói sáng của việc biến hình, tình trạng chìm ngập trong ánh sáng, sự chiêm ngắm hạnh phúc vĩnh cửu đã truyền trao cho các môn đệ một mãnh lực giúp họ cương quyết trên bước đường đau khổ. Họ sẽ nhìn về tương lai và chờ ngày Chúa đến giữa lúc sống cuộc đời dương thế.

PHẦN THỨ HAI: Đám mây bao phủ làm tăng vẻ oai nghiêm rỡ ràng. Trên núi Sinai, cảnh trí huyền ảo là dấu hiệu sự hiện diện của Thiên Chúa. Cũng như đám mây trước kia bao phủ ngọn núi, lúc này vẻ huy hoàng của Chúa bao trùm muôn vật. Các môn đệ phải tự tìm hiểu để cảm nhận trước được vẻ uy nghiêm của Thiên Chúa. Trên núi Sinai, phảng phất đám mây giông bão; ở đây áng mây rực sáng an bình thanh thoát. Trên núi Sinai vang dội các mệnh lệnh thần linh, vì Môisen là tôi tớ Thiên Chúa mà Do Thái phải vâng lời. Còn trên núi biến hình cung giọng nhiệm mầu không chỉ thị tôi tớ nhưng là ấm tử.

Như thế, những đòi hỏi nghiêm khắc được thay thế bằng sứ điệp yêu thương: Ở núi Sinai, trước vẻ uy nghiêm Thiên Chúa, dân chúng kinh hoảng rụng rời, ở đây, các môn đệ cũng sợ hãi chúi mặt xuống đất. Chúa Giêsu nâng họ dậy, và làm cho họ hết sợ. Từ nay họ biết rằng: với Ngài chung cục thời gian đã điểm; không phải tất cả sẽ bị hủy diệt, nhưng tất cả sẽ bị vượt qua. Chắc chắn giờ cáo chung sẽ điểm, báo hiệu một tai họa: Đau khổ, sự chết, Thánh giá sẽ hiện diện. Nhưng đây cũng sẽ là khởi điểm một thời đại mới quyết liệt khai mào ánh sáng và biến hình. Đức Kitô hiện đến khai mào thời cánh chung, nhưng thời gian ấy còn kéo dài. Trong giây lát, Chúa đã cho thấy vẻ huy hoàng của giờ phút hoàn tất với đầy vẻ trang trọng để các môn đệ không bao giờ quên. Họ được lệnh phải bảo vệ bí mật về biến cố dị thường vĩ đại này, cho tới lúc Con Người phục sinh từ cõi chết. Bấy giờ người đầu tiên trong những kẻ chết sẽ thức giấc, sống đời sống mới đích thực. Những người khác theo sau và cứ thế bắt đầu viên mãn thời gian chung kết.

Đức Kitô còn cao trọng hơn ngàn lần những gì các môn đệ, và cả Phêrô đã tuyên xưng hay cảm thức về Ngài. Nhưng chỉ có sự cao trọng siêu phàm, siêu thời gian và phổ biến thực sự trong cảnh trời mới, đất mới: lúc đó thời gian biến thành vĩnh cửu, định mệnh đau thương của con người biến thành hạnh phúc; vẻ cao trọng đó đã hiển hiện huy hoàng trên núi biến hình. Từ đỉnh núi đó, vẻ cao trọng này soi sáng mọi vực thẳm tối tăm của nhân loại.

9. Con yêu dấu

Này là Con Ta yêu dấu. Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Cha đã tuyên phong Đức Kitô là con yêu dấu của mình những hai lần.

Thực vậy, lần thứ nhất là bên bờ sông Giócđan, khi Đức Kitô đến lãnh nhận phép rửa của Gioan Tiền hô. Phúc âm đã ghi lại khi Ngài lên khỏi nước, thì trời mở ra, Thánh Thần Chúa lấy hình chim bồ câu đổ xuống và từ trời có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu dấu.
Lần thứ hai là trên đỉnh Taborê như chúng ta vừa nghe đọc. Hôm ấy Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên đỉnh núi Taborê, tại đây Ngài đã biến hình trước mặt các ông, áo Ngài trở nên trắng như tuyết, rồi lại có Môisê và Êlia đến đàm đạo với Ngài. Giữa lúc ấy có một đám mây bao phủ rồi từ trong đám mây có tiếng phán:
- Này là Con Ta yêu dấu.

Thế nhưng, đâu là cái bí quyết làm cho Đức Kitô trở thành người con yêu dấu của Chúa Cha. Xin thưa:
- Cái bí quyết ấy rất đơn giản đó là Đức Kitô luôn làm vui lòng Chúa Cha, hay nói một cách khác, Đức Kitô luôn vâng theo thánh ý của Chúa Cha.

Thực vậy, vì vâng theo thánh ý Chúa Cha mà Đức Kitô đã xuống thế làm người, sinh ra giữa đêm đông giá lạnh, lớn lên trong cảnh nghèo túng cơ cực. Rồi trong cuộc đời công khai, nỗi băn khoăn số một của Ngài là tìm biết và thực thi thánh ý Chúa Cha, như Ngài đã xác quyết với các môn đệ bên bờ giếng Giacob:
- Của ăn của Ta là làm theo thánh ý Cha Ta.

Đỉnh cao tuyệt vời nhất của sự vâng phục đó là cái chết trên thập giá như lời thánh Phaolô đã viết:
- Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.

Còn đối với chúng ta thì sao? Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta được trở nên con Thiên Chúa. Chúng ta giống như Môisê, sau ngày được vớt lên khỏi nước. Thực vậy, trước kia Môisê là một người phải chết, và nếu có sống thì cũng chỉ sống một kiếp sống nô lệ đọa đầy… Còn sau khi được vớt lên khỏi nước, Môisê được nàng công chúa nhận làm con nuôi và có một địa vị sáng chói.

Cũng thế, trước khi được rửa tội chúng ta là những kẻ phải chết do hậu quả của tội Adong, nhưng sau khi được vớt lên khỏi nước do bí tích rửa tội chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa và có quyền thừa hưởng gia nghiệp nước trời.

Bởi đó chúng ta phải cám ơn Thiên Chúa vì đã dành cho chúng ta cái địa vị cao cả ấy. Chúng ta hãy suy nghĩ như bà già nhà quê mỗi khi đọc kinh lạy Cha:
- Lạy Chúa, Chúa là ai mà con là ai. Chúa là Đấng tạo hóa quyền năng, còn con chỉ là một bà lão già nua xấu xí, thế mà Chúa ban cho con một đặc ân cao cả, đó là được gọi Chúa là Cha.

Cám ơn Chúa mà thôi chưa đủ. Hãnh diện về địa ấy mà thôi chưa đủ. Điều quan trọng là chúng ta phải sống đúng cái địa vị cao cả ấy, nghĩa là chúng ta phải trở nên là những người con ngoan, là những người con yêu dấu của Chúa.

Muốn được như thế chúng ta hãy noi gương bắt chước Đức Kitô, bằng cách luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha. Một đứa con ngoan sẽ không phải là một đứa con vùng vằng cãi trả mỗi khi cha mẹ sai bảo điều gì. Trái lại, phải là đứa con mau mắn vâng nghe những lời chỉ bảo ấy.

Bởi đó, để trở thành những người con ngoan của Chúa, chúng ta cũng phải mau mắn và vui vẻ vâng theo thánh ý Chúa Cha, thánh ý ấy được biểu lộ qua tiếng nói lương tâm, qua mười giới răn, qua Tin mừng Phúc âm và qua những điều giáo huấn của Hội Thánh.

Có mau mắn vâng nghe thánh ý Chúa Cha, thì rồi Chúa Cha mới tuyên phong chúng ta như đã tuyên phong Đức Kitô trên đỉnh Taborê:
- Này là Con Ta yêu dấu.

10. Khuôn mặt

Một vị ẩn sĩ nọ suy niệm và chay tịnh đến độ suốt ngày không động đến thức ăn, ai ai cũng thấy có một ngôi sao xuất hiện giữa ban ngày, đó là dấu hiệu trời cao chấp nhận lễ hy sinh của ông.

Ngày nọ, vị ẩn sĩ quyết định leo lên núi cao. Ông muốn vươn lên cao hơn trong sự khổ chế. Vừa lúc ông đang leo núi, thì một cô bé trong làng chạy tới xin đi theo. Không thể từ chối được, vị ẩn sĩ đành để cho cô bé đi cùng. Họ ra đi khi mặt trời vừa lên. Nhưng không mấy chốc, ánh nắng mỗi lúc một chói chang, cả vị ẩn sĩ lẫn cô bé đều cảm thấy khát nước. Vị ẩn sĩ vẫn cố gắng khắc phục cơn khát của mình, nhưng ông lại giục cô bé hãy uống nước. Vị ẩn sĩ không uống nước vì lời thề của mình, còn cô gái không nỡ uống một mình.

Họ càng đi, cơn khát càng dằn vặt. Đến một lúc vị ẩn sĩ không nỡ nhẫn tâm nhìn thấy cô bé phải quằn quại trong cơn khát. Ông đành lỗi lời thề. Ông cầm lấy nước đưa lên miệng và cô bé cũng mỉm cười uống nước với ông. Sau khi đã uống nước, vị ẩn sĩ không dám nhìn lên trời cao nữa. Ông cứ đinh ninh rằng vì sao hiện ra mỗi ngày như một chứng giám cho sự khổ chế của ông, giờ đây có lẽ đã biến mất. Thế nhưng, khi ông ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Ngạc nhiên biết chừng nào, hai vì sao đang chiếu sáng như mỉm cười với ông. Sau khi đã chay tịnh nhiều ngày và chấp nhận vươn lên cao trong sự khổ chế, vị ẩn sĩ đã được trời cao chứng giám bằng cách cho một vì sao ngời sáng giữa ban ngày.

Đức Giêsu sau khi chấp nhận cuộc khổ nạn, quyết tâm thi hành thánh ý Cha, liền được “biến hình đổi dạng” trên núi cao. “Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17,2). Người còn được Chúa Cha chứng giám cho việc Người chấp nhận khổ giá vì yêu Cha và vì yêu nhân loại tội lỗi, bằng một lời ngợi khen long trọng: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người” (Mt 17,5”.

Đức Giêsu biến hình sáng láng trước mặt ba môn đệ thân tín, là để các ông cảm nghiệm được trước vinh quang Phục sinh của Người. Cũng là để dọn lòng trí các ông dễ dàng đón nhận cuộc khổ nạn cà cái chết thương đau của Người trên thập giá sau này. Vì qua đau khổ mới tới vinh quang. Có khổ nhục ngày thứ Sáu Tuần Thánh, mới rạng rỡ sáng Chúa nhật Phục sinh.

Người kitô hữu chỉ có thể biến hình đổi dạng khi họ sẵn lòng cùng vác thánh giá lên đồi Canvê với Đức Kitô. Người Kitô hữu chỉ có thể bừng sáng rạng ngời khi họ dám hy sinh bản thân để hiến dâng cho Thiên Chúa và tha nhân bằng một tình yêu trao ban vô vị lợi.

Chúng ta sẽ nhận ra khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô khi chúng ta đón nhận khuôn mặt đau khổ của anh em. Chúng ta sẽ minh họa được khuôn mặt sáng láng của Đức Kitô khi chúng ta luôn mang khuôn mặt vui tươi, an bình và hạnh phúc.

Người tín hữu thường nếm vinh quang Tabo chẳng bao nhiêu, nhưng đón nhận gian nan Núi Sọ lại rất nhiều. Tuy thế họ vẫn vui tươi và thanh thản, an bình và hạnh phúc? Phải chăng họ đã cảm nghiệm được khuôn mặt ngời sáng của Đức Kitô trong cuộc đời mình. Như người lực sĩ điền kinh nhắm chiếc huy chương vàng mà gắng sức về đích để giành phần thắng, thì người tín hữu Kitô cũng phấn đấu vượt qua những chặng đường thánh giá cuộc đời, để đạt được phần thưởng vô giá là vinh quang Phục sinh rạng ngời.

Mùa Chay là mùa sám hối và canh tân. Sám hối – Canh tân là bỏ đi con người tự mãn tự kiêu để mặc vào con người nhu mì khiêm tốn, là tháo gỡ khuôn mặt u mê tội lỗi để nhận lại khuôn mặt ngời sáng thánh thiện, là tẩy chay tâm địa ích kỷ để đón nhận tinh thần phục vụ yêu thương. Nước mắt sám hối khép lại quá khứ để mở cửa tương lai. Nước mắt sám hối luôn tẩy sạch tội lỗi. Nước mắt sám hối bao giờ cũng có giá trị trong sự tha thứ. Canh tân là lao mình về phía trước, trong niềm vui đổi mới. Lúc đó, chúng ta không cần đi tìm mùa xuân, vì chính chúng ta đang làm nên mùa xuân cho cuộc đời.


11. Núi vinh quang

Trong mùa Chay, mùa dẫn đưa chúng ta tiến về cuộc Khổ nạn, phụng vụ mang lại cho chúng ta một giây phút an ủi mà Thiên Chúa muốn đưa đến cho các tông đồ đang trong cơn rối loạn. Vào giai đoạn này của cuộc đời công khai của mình, Chúa Giêsu cảm thấy nổi lên quanh Ngài sự thù địch của những người lãnh đạo tôn giáo và sự thất vọng của dân chúng đang chờ đợi một vị Vua Cứu Thế. Từ nay Ngài sẽ dành thì giờ cho việc đào tạo các môn đệ của Ngài, nhưng chính các ngài cũng mất phương hướng. Các tông đồ nói với Ngài: “Thầy là Đấng Cứu thế!” và Ngài trả lời: “Phải, nhưng Thầy sẽ phải chịu đau khổ”. Các tông đồ thắc mắc về con người kỳ lạ này, một con người dường như nhiều quyền năng như thế mà lại nói đến việc phải chịu đau khổ.

Chính Thiên Chúa sẽ nói với các tông đồ của mình đang đứng trên bờ hoài nghi: “Con người đang hiển dung này là Con Ta!”

Việc hiển dung là một ân sủng của mạc khải. Bằng tất cả các phương tiện, văn phong hùng tráng, cái nhìn, tiếng nói, biểu tượng, tác giả Tin Mừng muốn làm cho chúng ta thấy được vinh quang của Chúa Giêsu: Ngài “là thân phận Thiên Chúa” (Pl 2,6), như thánh Phaolô đã nói. Đám mây chính là dấu hiệu của Thiên Chúa, y phục trắng và khuôn mặt chói sáng như mặt trời cũng thế. Núi, cùng với Môisê và Êlia, nhắc lại sự mạc khải trên núi Si-nai. Đấng sẽ phải chịu đau khổ đúng là một con người như chúng ta, nhưng được biến đổi do mầu nhiệm ở trong. Chúa Cha ở trong Chúa Con và Chúa Con ở trong Chúa Cha. Một chốc lát được vén mở: vinh quang của Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng Ngài đến từ trời, Ngài là Đấng Cứu thế duy nhất, Ngài sẽ tái lâm trong vinh quang này và làm cho chúng ta thành những người được biến đổi.

Đôi khi chúng ta cần phải lên đường với Phêrô, Giacôbê và Gioan hướng tới núi vinh quang. Mầu nhiệm của Chúa Giêsu, vừa là Thiên Chúa vừa là con người, sẽ luôn luôn vượt khỏi trí khôn chúng ta, nhưng lời ánh sáng này “Đây là Con Ta yêu dấu” làm cho chúng ta ngẵm nghĩ về điều cốt lõi này là chúng ta được yêu thương. “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban chính Con Một mình” (Ga 3,16). Và đây tình yêu đã làm điều này: Người Con duy nhất không những đến cư ngụ ở trên trái đất mà còn cư ngụ trong cuộc đời của chúng ta nữa. Điều đó làm cho thân phận làm người sáng giá biết bao! Chắc chắn những hình ảnh nặng nề, trống rỗng, đau khổ và thất vọng nhanh chóng hiện ra khi chúng ta nói: “Đời là thế!”. Chúng ta tìm gặp lại các hình ảnh đó khi chúng ta nói lại về việc hiển dung được Matcô và Luca chứng kiến: chúng ta bất cần Vinh quang, kẻ được biến đổi sớm muộn gì rôì cũng bị biến dạng.

Nhưng Chúa Cha long trọng tuyên bố rằng người này là Con của Ngài để chúng ta biết rằng dầu sao tất cả những gì có thể đến với Ngài và đến với chúng ta, Ngài vẫn là Mặt trời của thế giới ngay từ bây giờ, và Ngài sẽ là Mặt trời của thế giới trong tương lai. Chúa Hiển dung, bằng một tia chớp ngắn ngủi, đưa chúng ta ra khỏi những mặt trái thô ráp của cái mà chúng ta đang sống: “Hãy nhìn vinh quang của bạn trong vinh quang của Ngài”.


12. Nhỏ bé và tầm thường

Đoạn Tin mừng hôm nay kể lại rằng: Chúa Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao và tại đó, Ngài đã biến hình trước mặt các ông. Mặt Ngài chiếu sáng như mặt trời. Áo Ngài trở nên trắng tinh như tuyết. Rồi lại có Môisê và Êlia hiện ra và trò chuyện với Ngài.

Trước cảnh tượng huy hoàng ấy, Phêrô đã thốt lên:
- Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thầy muốn, con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môisê và một cho Êlia.

Qua sự việc kể trên, chúng ta nhận ra một khuynh hướng chung cho mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Đó là chúng ta vốn ưa thích những sự việc lạ lùng và khác thường.

Đúng thế, dân làng Nadarét đã khâm phục sự khôn ngoan của Chúa Giêsu, thế nhưng vì không thấy Ngài làm một phép lạ nào, nên họ đã tỏ ra bực bội tức tối và muốn xô Ngài xuống vực thẳm.

Dân Do Thái nhiều người đã muốn suy tôn Ngài lên làm vua, vì Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi sống họ trong hoang địa. Thế nhưng, sau khi nghe Chúa Giêsu nói về một thứ của ăn thiêng liêng là Mình và Máu Ngài, thì họ đã lấy làm chướng tai gai mắt, nên đã bỏ Ngài mà đi. Và cũng chính họ trước tòa án Philatô, khi nhìn thấy vóc dáng thiểu não và thân hình tiều tụy của Ngài, đã không ngần ngại kêu gào:
- Đóng đanh nó đi, đóng đanh nó vào cây thập giá.

Hêrôđê cũng vậy, ông ta muốn gặp Ngài chỉ vì tính hiếu kỳ, chỉ vì óc tò mò, mong được xem Ngài biểu diễn những trò ngoạn mục. Thế nhưng, khi thấy Ngài giữ thái độ yên lặng, thì ông đã cười nhạo và khoác cho Ngài một chiếc áo trắng để nói lên rằng Ngài chỉ là một tên điên khùng, mà trao trả Ngài lại cho Philatô.

Thái độ của Phêrô hôm nay cũng vậy. Trên đỉnh Tabôrê, ông đã say mê ngất ngây trướ cảnh tượng huy hoàng và ánh vinh quang của Chúa Giêsu. Thế nhưng, khi nghe Ngài nói về cuộc thương khó sắp xảy ra, thi ông đã lấy làm bực bội và lên tiếng can ngăn, khiến Ngài đã phải quở trách nặng lời:
-      Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì ngươi chỉ biết những việc của người đời, mà chẳng biết chi đến những việc của Thiên Chúa.
Rồi chính Phêrô trong sân nhà thầy cả thượng phẩm đã chối Chúa ba lần. Không hiểu trong lúc chối Chúa như vậy, ông có nhớ tới vinh quang Tabôrê nữa hay không?

Từ những điều vừa trình bày, chúng ta nhận thấy cách thức hoạt động của Thiên Chúa thật khác xa với cách thức hoạt động của chúng ta, đúng như lời Ngài đã nói:
-      Tư tưởng và đường nẻo của Ta không giống với tư tưởng và đường nẻo của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu, thì tư tưởng và đường nẻo của Ta cũng cao hơn tư tưởng và đường nẻo của các ngươi bấy nhiêu.
Thực vậy, đang khi chúng ta đi tìm những sự vinh quang và những việc lạ lùng khác thường, thì Chúa lại dùng chính những cái nhỏ bé, những cái tầm thường và ngay cả những khổ đau, những thất bại và ngay cả cái chết tủi nhục của mình để cứu độ chúng ta.

Lịch sử đã cho chúng ta hay biết về sự thật này. Có ai tầm thường cho bằng Đavít, một cậu bé chăn chiên, thế mà Thiên Chúa đã dùng cậu bé này để thiết lập một triều đại mới, dẫn đưa dân Do Thái tới một thời đại hoàng kim và phồn vinh.

·        Có ai khiêm nhường cho bằng Maria, một thôn nữ âm thầm, thế mà Thiên Chúa đã dùng Mẹ để khởi đầu cho chương trình cứu thế.
·        Có ai đã thất bại cho bằng Chúa Giêsu với cái chết ê chề và nhục nhã trên thập giá, thế mà Ngài lại dùng chính khổ đau của thập giá để cứu chuộc chúng ta.

Và ngày hôm nay, Chúa vẫn còn tiếp tục nói với chúng ta qua những sự việc nhỏ bé, tầm thường và khiêm tốn như thế. Tuy nhiên, điều quan trọng đó là chúng ta có biết lắng nghe và thực thi ý định của Ngài được tỏ lộ qua những sự việc nhỏ bé, tầm thường và khiêm tốn ấy hay không?


13. Phêrô

Qua đoạn Tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về thái độ của Phêrô. Như chúng ta đã thấy: trước sự hiện diện của Môisê và Êlia cùng với ánh vinh quang bao phủ, Phêrô đã vui mừng hớn hở thưa lên:
-      Lạy Thày, được ở đây thì tốt lắm. Nếu Thày muốn, chúng con xin làm ba lều.

Thế nhưng sau đó, cũng chính Phêrô đã lên tiếng can ngăn Chúa khi Ngài tiên báo về những khổ đau sẽ phải chịu, để rồi Ngài đã phải nặng lời quở trách:
-      Hỡi Satan, hãy xéo đi, ngươi chỉ biết những việc thuộc về trần thế mà chẳng biết chi những việc thuộc về Thiên Chúa.

Rồi cũng chính Phêrô trong sân nhà thày cả thượng phẩm đã chối Chúa ba lần chỉ vì câu hỏi bâng quơ của một đứa nữ tỳ. Phải chăng thái độ của Phêrô cũng là thái độ của người đời như tục ngữ đã nói:
Khi vui thì vỗ tay vào,
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.

Đúng thế, khi chúng ta có tiền và có quyền thì cũng thường có nhiều tình. Người xưa đã từng bảo:
-      Bần cư chung thị vô nhân vấn, phú tại sơn lâm hữu khách tầm. Nghèo mà ở ngay giữa phố chợ thì cũng chẳng ai thăm, còn giàu mà ở tận chỗ núi cao rừng thẳm, thì vẫn khối người tìm đến.
Hay như tục ngữ cũng nói:
-      Thấy người sang bắt quàng làm họ.
Thế nhưng khi tiền hết và quyền hết thì tình cũng thường chắp cánh bay cao:
-      Hết cơm hết gạo hết ông tôi.

Không những hết tình mà đôi khi vào lúc sa cơ thất thế, những kẻ trước kia đã hàm ơn, không chừng sẽ trở mặt, phản lại chúng ta, giậu đổ bìm leo, để rồi chính chúng ta sẽ phải âm thầm và cay đắng ghi nhận:
Thế thái nhân tình gớm chết thay,
Nhạt như nước ốc bạc như vôi.
Hay lẩm bẩm kêu trách:
- C’est la vie, đời là thế.

Tuy nhiên chúng ta đừng vội trách người cũng như đừng vội trách đời, mà hãy trách chính bản thân chúng ta trước, bởi vì đó cũng chính là thái độ của chúng ta đối với những tha nhân và nhất là đối với Thiên Chúa.

Thực vậy, kinh nghiệm cho hay: Khi gặp được may mắn và hạnh phúc chúng ta dường như cảm thấy Thiên Chúa thật gần gũi, thật dễ thương, thế nhưng khi gặp phải những gian nguy thử thách, những đớn đau buồn phiền, chúng ta lại cảm thấy Thiên Chúa thật xa vời và độc địa như lời thơ cổ:
Trẻ tạo hóa đành hanh chi ngán,
Chết đuối người trên cạn mà chơi.

Rồi từ đó chúng ta bực bội tức tối và lên tiếng nguyền rủa Thiên Chúa. Nói cách khác, chúng ta chỉ muốn bước theo Chúa lên đỉnh Taborê, chứ không muốn bước theo Chúa lên đỉnh Canvê. Chúng ta chỉ muốn cắm lều trong vinh quang, chứ không muốn đóng đinh mình vào thập giá. Chúng ta đã nhìn đau khổ qua cặp kính màu đen tuyệt vọng, chúng ta kéo lê thập giá chứ không vui vẻ vác lấy và coi thập giá như phương tiện cứu độ.

Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng:
-      Đỉnh Canvê mới chính là nơi để Chúa Giêsu chu toàn sứ mạng cứu độ của mình, mới chính là nơi để Ngài gieo mầm phục sinh cho nhân loại.

Là môn đệ của Chúa chúng ta không có một con đường nào khác ngoài con đường thập giá, như lời Ngài đã nói:
-      Ai muốn theo ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo ta.

Chúng ta không dừng lại tại thập giá và khổ đau, nhưng cùng với Đức Kitô tiến vào vinh quang và phục sinh. Vì thế, mặc dù vai vác thập giá nhưng mắt chúng ta vẫn luôn hướng tới trời cao. Trời cao, sự sống và hạnh phúc phải là điểm kết thúc cho con đường thập giá. Những hy sinh chúng ta gặp phải sẽ kết thành cây thập giá đời thường, nếu chúng ta trung thành vác lấy, cây thập giá đời thường ấy sẽ là con đường dẫn chúng ta tới vinh quang phục sinh.


14. Cõi phúc

Trong cuộc đời này, có nhiều người đã đi tìm cái chết cho mình. Trong số ấy có những người giàu sang quyền quí, và cũng có những người nghèo khổ bần cùng. Người giàu sang quyền quý sau khi hưởng thụ mọi thú vui của cõi đời, đã chỉ thấy một sự trống rỗng trong tâm hồn, một sự vô vị của cuộc sống nên tìm đến cái chết như muốn nói lên rằng họ tuyệt vọng về cuộc đời. Những người nghèo khổ bần cùng suốt đời phải làm thân trâu ngựa. Họ không đủ sức chịu đựng những nhọc nhằn, những tủi nhục của kiếp tôi mọi nên cũng đã tìm đến cái chết như tìm một sự giải thoát cho cuộc đời. Dù chết trong hoàn cảnh nào thì cả người giàu lẫn người nghèo kể trên đều có một lý do chung và lý do mạnh nhất đã đẩy đưa họ tới chỗ chào thua cuộc đời. Lý do đó là vì họ “Sống mà không có lý tưởng để vươn tới, không có niềm tin vào ngày mai ở bên kia cuộc đời”. Đối với họ, đời người chỉ thu gọn lại trong những tháng năm của cuộc sống này và chết là hết, không còn gì.

Nhưng người Kitô hữu không thể nghĩ thế. Người Kitô hữu biết rằng mình có một cõi phúc để đi về sau khi cuộc đời này chấm dứt. Cõi phúc ấy được báo trước qua cuộc biến hình đầy vinh quang huy hoàng của Chúa Giêsu. Cõi phúc ấy đã làm cho ba môn đệ của Chúa Giêsu ngây ngất đến độ ông Phêrô đã phải thốt lên rằng: “Thầy ơi, chúng con được ở đây thì sướng lắm”. Những chưa được. Cõi phúc ấy nằm ở cuối cuộc hành trình đời người, và các tông đồ cũng như mỗi người chúng ta chỉ có thể đi vào cõi phúc ấy sau khi đã đi hết lộ trình cuộc đời của mình. Khổ một nỗi hành trình cuộc đời của người Kitô hữu không phải là xa lộ thênh thang, bằng phẳng, nhưng lại là một con đường khúc khuỷu, quanh co, đầy chông gai sỏi đá. Nó giống như con đường lên núi Sọ của Chúa Giêsu. Và vì thế mà nhiều người, trong đó có cả chúng ta đã không dám bước vào. Thành công nào trong đời cũng có cái giá phải trả. Chúa Giêsu chỉ có thể bước vào vinh quang của ngày Phục Sinh sau khi đã đi vượt qua con đường đau khổ, con đường thập giá. Người đã can đảm vượt qua được con đường ấy và đã đi vào cõi phúc. Người mời gọi và chờ đợi chúng ta cùng đi vào cõi phúc ấy với Người: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi”. Không có con đường thứ hai, không có con đường tắt nào khác dẫn tới cõi phúc ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Bước sang năm mới có lẽ ai trong chúng ta cũng có một kế hoạch làm ăn, và chúng ta có thể mường tượng ra những thành công sẽ đến. Những thành công ấy sẽ là động lực thúc đẩy chúng ta làm việc, chấp nhận mưa nắng dãi dầu, chấp nhận thức khuya dậy sớm v.v… Đạt được cõi phúc trường sinh chính là một thành công lớn nhất và chung cuộc của đời sống con người, nhưng chẳng biết nó có đủ hấp dẫn để lôi kéo ta, để giúp ta chấp nhận những hy sinh, từ bỏ, chấp nhận lấy những thập giá trong đời sống mình hay không? Nếu không thì quả là đáng tiếc.


15. Thập giá

Anh chị em có biết tại sao khi nghe hai chữ thập giá, chúng ta không thấy sởn gai ốc, và có khi còn dửng dưng nữa, trong khi các môn đệ Chúa Giêsu nghe nói đến thập giá thì nổi da gà, và ông Phêrô run rẩy can ngăn Chúa đừng đi tới đó? Có lẽ vì chúng ta chỉ nhìn thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc, bằng đồng, bằng gỗ quí nhẵn bóng hay bằng xi măng tô đá rửa, đá mài, nên hình ảnh mà hai chữ thập giá gợi lên trong chúng ta không có gì đáng sợ. Còn các môn đệ Chúa thì trái lại, các ông chưa bao giờ thấy những cây thập giá bằng vàng, bằng bạc… và hai chữ này không chỉ gợi lên một cây khổ giá trần trụi, mà gợi lên hình ảnh một con người quằn quại, tuyệt vọng trong đau đớn và nhục nhã ê chề, lơ lửng giữa trời và đất, giữa sống và chết, trước những cái nhìn thù ghét và khinh bỉ, trước những con mắt tò mò và dửng dưng. Chính vì thế mà các tông đồ rùng mình sợ hãi khi Chúa Giêsu nói đến thập giá.

Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông thầy dễ dãi hay nhu nhược. Chúa vẫn nói thẳng, nói thật và Chúa đòi ai theo Chúa phải nhìn thẳng vào thập giá và chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, hãy bỏ mình đi, vác thập giá của mình hằng ngày mà đi đằng sau Thầy”. Ông Phêrô vừa thay mặt anh em tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, thì Ngài lại nói đến thập giá. Thập giá Chúa nói ở đây như mặt sau của tấm huân chương. Rồi sau đó Chúa lại đưa ba môn đệ thân tín lên núi, cho các ông thấy vinh quang chói lòa của Ngài và sự có mặt làm chứng của Môisê và Êlia: một vị đã được Chúa dùng để giao ước Sinai, còn vị kia thì được Chúa trao nhiệm vụ tái lập giao ước Sinai.
Chúng ta có thể đảo lại thế này: sau khi chỉ cho các môn đệ thấy cây thập giá làm cho các ông run sợ, Chúa Giêsu lật cho các ông thấy đằng sau cây thập giá có gì. Cũng vậy, sau này, trên đường Emmau, chúng ta thấy Chúa quở trách hai môn đệ thất vọng bỏ đi, vì các ông chỉ thấy mặt trước mà không thấy mặt sau của cây thập giá: “Chẳng phải là Đức Kitô phải chịu đau khổ để vào trong vinh quang của Ngài sao?”.

Nếu ôm lấy cây thập giá và thỏa mãn với nó thì đúng là một kẻ điên khùng hoặc bệnh hoạn. Không, Chúa Giêsu không kêu gọi chúng ta trở nên điên khùng, bệnh hoạn. Chúa đã nhận lấy thập giá như đường tới vinh quang. Đàng sau thập giá là vinh quang mà chỉ có đức tin mới cho chúng ta thấy được. Chúa không gọi chúng ta vác thập giá đi một mình, nhưng là đi theo sau Chúa, vì chỉ có đi theo Chúa, chúng ta mới tới được vinh quang ở phía sau cây thập giá.

Cuộc sống có những lúc êm đềm thanh thản, có những ngày tưng bừng hoa lá, nhưng cũng lắm khi cảm thấy tất cả nỗi ê chề của cây thập giá sù sì và những lời độc địa, chát chúa của khách qua đường. Chúng ta cảm thấy nỗi cô đơn của kẻ bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Chúng ta khát khô cổ muốn có một lời an ủi, một chút cảm thông, nhưng quanh chúng ta chỉ có thờ ơ và thinh lặng, hoặc tệ hơn nữa, chỉ có phỉ báng và xua đuổi. Những lúc ấy chúng ta mới cảm thấy tất cả sự rùng rợn của cây thập giá. Có khi chúng ta cảm thấy chán nản muốn buông xuôi tất cả. Chúng ta cảm thấy như Chúa Giêsu đã cảm thấy và phải kêu lên: “Lạy Chúa, nhân sao Chúa bỏ con…”.

Những lúc ấy chúng ta phải vận dụng sức mạnh của lòng tin, hết ánh sáng đức tin, để thấy được đằng sau cây thập giá. Chúng ta hãy nhìn thẳng vào Đấng đang vác thập giá đi đằng trước chúng ta, chớ rời mắt xa Ngài. Nhưng chúng ta đừng chờ tới lúc đó mới nhìn vào Ngài. Chúng ta phải giữ tầm nhìn luôn hướng về Ngài trong mọi nơi, mọi lúc, mọi việc. Chúng ta hãy làm tất cả với Ngài, vì Ngài và trong Ngài. Nếu chúng ta biết sống với Ngài trong niềm vui, chúng ta cũng biết sống với Ngài trong nỗi buồn. Nếu chúng ta biết sống trong Ngài khi hạnh phúc, chúng ta cũng biết sống trong Ngài lúc đau khổ. Nếu chúng ta biết sống với Ngài trong ngày hội, chúng ta cũng biết sống với Ngài giữa cô đơn. Nếu chúng ta biết sống trong Ngài lúc đầy tiền của, chúng ta cũng biết sống trong Ngài khi trắng tay…

Điều chúng ta cần ghi nhớ là chúng ta đừng mang thập giá một mình. Chúng ta sẽ không bước nổi đâu, và nếu chúng ta có đem tất cả sự kiêu hãnh của con cái Ađam mà lết đi được thì cũng chẳng ích lợi gì, cây thập giá của chúng ta chỉ là cây gỗ chết mà thôi. Bởi vì cây thập giá chỉ trở nên xanh tươi và đầy hoa trái khi nó mang con Thiên Chúa, nguồn mạch sự sống: “Nếu chúng ta cùng chết với Ngài, chúng ta sẽ sống với Ngài”.

Như vậy, Chúa Giêsu hiển dung là để củng cố đức tin của các môn đệ. Bởi vì Chúa thấy các môn đệ quá sợ các đau khổ, không chấp nhận cuộc khổ nạn của Ngài, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa cho các ông thấy để đem lại cho các ông một niềm tin và một hy vọng vào ngày mai. Do đó, việc Chúa hiển dung cũng dạy bảo cho các môn đệ biết: phải trải qua đau khổ rồi mới vào vinh quang. Chính Thầy của các ông là Con Thiên Chúa, mà còn phải chịu đau khổ mới bước đến vinh quang thì các ông cũng phải đi theo con đường đó: không thể đến cõi hằng sống mà không phải qua đau khổ, thử thách.

Sống ở đời, không ai trong chúng ta tránh được những đau khổ chúng ta gọi là những thánh giá mà Chúa muốn chúng ta vác. Dù trong bậc nào vẫn phải vác thánh giá của mình. Ngay chính lúc này, mỗi người chúng ta đều cảm thấy những lo âu, những buồn phiền, những khổ đau… Tất cả đều là thánh giá. Nếu biết vác cho nên, với một thái độ khiêm ngường, với lòng cậy tin, thì Chúa sẽ ở bên chúng ta, và sẽ thưởng công cho chúng ta. Những công phúc tuy vô hình, chúng ta không trông thấy, nhưng chúng sẽ là những hạt men, những hạt giống sẽ nở ra trong đời sau và trong thế hệ con cháu chúng ta.

16. Suy niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:
1.  Ý nghĩa của những chi tiết trong cuộc hiển dung là gì? Mục đích của cuộc hiển dung là gì?
2.  Lời Chúa Cha giới thiệu về Đức Giêsu: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!». Nội dung của lời giới thiệu này có mấy điểm? Là những điểm nào?
3.  Vâng nghe lời Đức Giêsu như Chúa Cha khuyên ta thì được lợi ích gì?

Suy tư gợi ý:
1. Ý nghĩa thị kiến hiển dung của Đức Giêsu
Đây là một thị kiến mà ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu nhìn thấy. Thị kiến này mạc khải cho ba môn đệ thấy thần tính của Đức Giêsu. Những gì thấy trong thị kiến đều có một ý nghĩa thần bí:
– ngọn núi cao: biểu tượng sự siêu việt, thánh thiện, cao cả, thanh thoát, xa rời thế tục
– chỉ có bốn thầy trò với nhau: sự mạc khải chỉ biểu lộ cho những người thân thiết nhất, mang tính riêng tư.
– sự biến hình đổi dạng: cho thấy một bản chất sâu xa bên trong, một cái gì sẽ được tỏ hiện trong tương lai. Người thường không thấy được điều ấy, họ chỉ thấy được cái gì hiện ra bên ngoài trong hiện tại.
– dung nhan chói lọi như mặt trời: biểu tượng của thần tính, hay thiên tính, đầy vinh quang, quyền lực.
– y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết.
– Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo: đây là hai nhân vật lớn nhất tiêu biểu cho Cựu Ước, hay Giao Ước cũ. Mô-sê, nhà làm luật, tượng trưng cho luật pháp, Ê-li-a, ngôn sứ lớn nhất trong Cựu Ước, đại diện các ngôn sứ. Luật pháp và các ngôn sứ là cốt tủy, là những thứ biểu trưng và thiêng liêng nhất trong Cựu Ước. Hai ông còn là hai người có thế giá nhất đã báo trước sự ra đời của Đức Giêsu. Mô-sê là tác giả của bộ Ngũ Kinh (5 cuốn đầu của Cựu Ước) đã tiên báo một đại ngôn sứ sẽ đến (x. Đnl 18,15-19). Còn Ê-li-a là nhân vật mà Thiên Chúa sai đến như một dấu chứng báo trước ngày mà chính Thiên Chúa đến trần gian (x. Ml 3,23). Trong thị kiến này, hai ông biểu tượng cho hai chứng từ sống động nhất làm chứng cho thiên tính của Đức Giêsu.
– Đám mây sáng ngời bao phủ cả ba người: tượng trưng cả ba người đều đến từ Thiên Chúa, và đang sống trong vinh quang của Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh (cũng như trong các kinh điển của các tôn giáo), đám mây tượng trưng cho mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện diện: chẳng hạn cột mây dẫn đường dân Do Thái qua biển đỏ (Xh 13,21-24), cột mây trước Lều Tạm (Xh 33,9-10; 40,34-38), hay Gia-Vê thường hiện ra với Mô-sê trong đám mây (Xh 16,10; 19,9; 20,21; 24,15-16).
– Tiếng phán ra từ đám mây: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!»: Đây là dấu chứng mạnh nhất, vĩ đại nhất mang tính dứt khoát cho biết Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, mà mọi người có thể tin tưởng và vâng phục. Chính Chúa Cha trực tiếp giới thiệu «Con Yêu Dấu» của mình. Còn lời chứng nào giá trị hơn nữa?

2. Hãy vững tin vào thiên tính của Đức Giêsu
Qua thị kiến hiển dung này, Thiên Chúa đã trực tiếp củng cố niềm tin cho ba môn đệ thân tín nhất của Đức Giêsu vào Ngài, và cũng gián tiếp củng cố niềm tin của các môn đệ khác, và cả chúng ta nữa. Thị kiến này các ông đã mang theo trong tâm trí suốt cuộc đời như một hành trang quý báu giúp các ông tin vững chắc vào Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Thiên Sai, Đấng Cứu Thế mà mọi người đều trông mong. Nhờ niềm tin vững chắc này, các ông rao giảng về Đức Giêsu một cách xác tín, và vượt qua được mọi gian lao thử thách do việc rao giảng ấy. Thánh Phê-rô đã nhắc lại biến cố này như một dấu chứng chắc chắn để mọi người tin vào lời chứng của mình: «Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Ki-tô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Đấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến”. Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người» (2Pr 1,16-18).

Nếu mục đích của sự hiển dung này là để củng cố niềm tin các tông đồ vào thiên tính của Đức Giêsu, thì nó cũng có mục đích củng cố niềm tin mỗi người chúng ta. Đức tin được càng được xác tín mạnh mẽ từ trong thâm tâm, chứ không chỉ tuyên xưng ngoài miệng, sẽ làm cho đời sống Ki-tô hữu càng thêm sâu sắc và phong phú, càng làm tình yêu và nội lực ta thêm dồi dào.

3. «Hãy vâng nghe lời Người!»
Qua biến cố hiển dung, Đức Giêsu chẳng những được giới thiệu cho chúng ta. Sự giới thiệu có giá trị hay không, và giá trị đến mức nào tùy thuộc vào thế giá của người giới thiệu. Còn ai có thế giá trong tôn giáo cho bằng Mô-sê và Ê-li-a, và nhất là còn ai thế giá trong toàn vũ trụ bằng Chúa Cha, Đấng tạo dựng nên cả vũ trụ bao la này. Chúa Cha đã giới thiệu Ngài: «Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!».

Lời giới thiệu ấy tuy ngắn ngủi nhưng nội dung rất quan trọng, gồm 3 điểm sau đây:
a) Đức Giêsu là Con Thiên Chúa: Đó là một chức vị duy nhất và cao nhất sau Chúa Cha trong toàn vũ trụ. Ngài là Con duy nhất của một Thiên Chúa độc nhất. Và Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha. Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do bản chất Thiên Chúa của Ngài.
b) Đức Giêsu rất đẹp lòng Chúa Cha: Một người đẹp lòng Chúa Cha tất nhiên hết sức hoàn hảo, không một khiếm khuyết nào. Vì thế, Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do phẩm chất hết sức cao quí của Ngài.
c) Vì thế, Chúa Cha khuyên chúng ta «hãy vâng nghe lời Người!». Lời khuyên của Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng lại đầy khôn ngoan và quyền năng ắt phải có một giá trị vô cùng lớn. Không một lời khuyên nào đối với ta có thể khôn ngoan và đem lại lợi ích cho ta như vậy. Vậy chúng ta hãy vâng nghe lời Đức Giêsu.

Thánh Phê-rô, người đã chứng kiến việc hiển dung của Đức Giêsu và đã nghe được lời giới thiệu về Ngài của Chúa Cha, đã phải thốt lên tâm tình của mình: «Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời» (Ga 6,68). Chính Đức Giêsu cũng đã xác nhận: «Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết» (Ga 8,51). «Không bao giờ phải chết» ở đây nghĩa là có được sự sống đời đời.

4. Sự sống đời đời do vâng nghe lời Đức Giêsu
Lợi ích lớn lao do việc vâng nghe lời Đức Giêsu chính là có được sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy không phải là một cái gì xa lạ mà phải qua thế giới bên kia mới cảm nghiệm được, mà là một cái gì thực tế và cụ thể, có thể cảm nghiệm được ngay ở đời này, thậm chí «tại đây và lúc này» (hic et nunc) một cách hết sức hiện sinh. Sự sống ấy đã được Đức Giêsu nói đến trong câu: «Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10). Ở đời này, sự sống đời đời được thể hiện bằng sự sống dồi dào nội lực và sinh khí để có thể sống tràn đầy bình an và hạnh phúc, trong tinh thần vị tha, quên mình, biết yêu thương và hy sinh cho tha nhân không mệt mỏi. Đó là thứ hạnh phúc đích thực của thiên đàng là nơi chỉ có yêu thương, không còn ích kỷ hay thù hận. Đó là sự bình an và hạnh phúc vô biên trong nội tâm, thứ hạnh phúc không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh hay những yếu tố bên ngoài, một thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.

Sự sống đời đời ấy ta có được là do vâng nghe lời Đức Giêsu, để chúng ta có thể nhìn cuộc đời, quan niệm mọi sự như Đức Giêsu đã nhìn và quan niệm, để ta có thể tư tưởng, nói năng và hành xử như Ngài đã từng tư tưởng, nói năng và hành xử. Ở đời này, sự sống ấy có thể ví như ở dạng hạt, và nó sẽ phát triển thành cây cổ thụ và sinh hoa kết trái ở đời sau. Chỉ khi ta có được «hạt giống sự sống đời đời» ở đời này do việc vâng nghe lời Đức Giêsu, ta mới có được «cây sự sống đời đời» ấy ở đời sau (x. Kh 22,2.14.19).

Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã giới thiệu Đức Giêsu cho con, đã khuyên con hãy vâng nghe lời Ngài. Con biết: sự sống đời đời – là điều con ao ước nhất và có khả năng làm thỏa mãn con nhất – con có thể tìm được nhờ vâng nghe lời Ngài một cách triệt để và sâu xa. Xin Cha giúp con thực hiện được điều ấy. Amen.


17. Chú giải của Noel Quession

Mỗi năm, ngay sau chuyện kể về cơn cám dỗ của Đức Giêsu, Chúa nhật thứ hai mùa Chay cho chúng ta suy niệm về câu truyện Đức Giêsu biến hình.

Chúa nhật trước, chúng ta đã ngắm xem Ngài khước từ, không lợi dụng thiên tính của mình, Người khiêm tốn và dè dặt, và khi Người đói, Người bị cám dỗ như một người thường. Hôm nay, chúng ta nhìn ngắm sự vinh quang ẩn dấu của Người, thiên tính của Người.

Ba sách Tin Mừng nhất lãm phù hợp nhau khi đặt đoạn này vào khúc quanh tác vụ của Đức Giêsu. Ban đầu nhiều đám đông đã theo Đức Giêsu nhưng lại hoàn toàn lầm lẫn về Người. Việc nhân bánh hóa nhiều. Với nỗ lực của họ muốn biến Người làm vua, đã đưa sự hiểu lầm ra ánh sáng. Thực sự Đức Giêsu đã thất bại! Người đã không thành công khi muốn đưa được đám đông đến đức tin chân thật, đồng thời tất cả “tầng lớp trí thức” tôn giáo thời Người lại khước từ Người nhân danh chính giáo lý tốt đẹp truyền thống: các kinh sư và tư tế không ngừng gương cao bẫy chơi Người và cáo giác Người là phá hủy tôn giáo (Mt 12,2; 12,14; 12,24; 12,38; 15,2; 16,1; 16,6). Nhận thấy sự thất bại về chương trình giảng dạy giáo lý của mình. Đức Giêsu từ nay tập trung vào việc đào tạo các môn đệ của Người với nhóm Mười Hai nhỏ bé, như Người loan báo thử thách lớn lao sẽ xảy đến. Người đã xa lánh miền Palestine.

Ở đó tình hình từ nay đã trở nên nguy hiểm, Người chạy sang tị nạn ở bên Li-băng, về phía miền Xêdarê Philip. Ở đó cách biệt khỏi đám đông và các kinh sư, Người đã thúc đẩy Phêrô tuyên xưng đức tin; rồi lập tức Người nói: Tôi phải sang Giêrusalem, chịu nhiều đau khổ từ phía các trưởng lão, các thượng tê và các kinh sư, bị xử tử, và ngày thứ ba sống lại (Mt 16,21). Phêrô, cũng lại ông, muốn cám dỗ Đức Giêsu khước từ cái viễn ảnh chết chóc kia. Khi đó Đức Giêsu la mắng ông và hứa rằng vinh quang sẽ đến, thực sự, nhưng sau khi chịu khổ hình thập giá: “Bởi vì Con Người sẽ đến với thiên thần của Người trong vinh quang của Con Người...” (Mt 16,27-28). Chính trong bối cảnh thê thảm này mà cảnh tượng chúng ta sắp đọc, xảy đến.

Sáu ngày sau. Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao.
Tôi thích tưởng tượng ra cái cảnh tượng này một cách cụ thể: một lối quanh co trên một con đường núi. Cả bốn người, họ đều đi chậm rãi. Không gian cứ lớn dần. Không khí trở nên tươi tắn và mát mẻ. Đồng bằng xa xa dưới thấp kia, các đám dông còn xa. Ôi, chốn cô liêu hạnh phúc biết bao trên các đỉnh cao! Người ta chỉ gặp được Thiên Chúa trong chốn thing lặng. Phải chăng tôi đã dành ra những thời gian để sống cô liêu, trong mùa Chay này?

Nhưng chúng ta cũng biết rằng núi là một chủ đề Matthêu ưu thích. Núi cám dỗ (Mt 4,8), Núi hạnh phúc và Luật mới (Mt 5,1), Núi bánh được chia sẻ (Mt 15,29), Núi Biệt ly của Đấng Phục sinh (Mt 18,16). Ở đây việc Thiên Chúa hiển linh ở núi Siani được tái hiện trên Núi biến hình; nhưng đó không phải là núi Sinai ở Giêrusalem, nơi đón nhận vinh quang của Thiên Chúa mà các ngôn sứ đã loan báo (Is 2,2; Tv 2,6); chính một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê của nhiều dân nước sẽ là chứng nhân của vinh quang của anh thợ mộc hèn mọn ở Nagiarét, xa những vẻ tráng lệ của Đền Thờ. Thiên Chúa chỉ tự cho thấy mình ẩn giấu. Thiên Chúa khước từ các danh vọng, các nghi thức, các trình diễn sân khấu: Đền Thờ do bàn tay con người làm sẽ bị phá hủy (Mt 24,1-3; 26,61). Còn tôi, tôi sẽ đi gặp Thiên Chúa ở đâu?

Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng.
Matthêu, hơn hai tác giả Tin Mừng kia, nói về ánh sáng. Cũng như thế, Mô sê, tại Sinai, đã tiếp nhận tia sáng phản chiếu của vinh quang Thiên Chúa, và da mặt người tỏa sáng (Xh 34,29-35). Cũng như thế, Con Người (Đn 7,9) được mô tả bằng những hình ảnh có tính khải huyền: tia sáng, màu trắng. ánh sáng, lửa… Động từ Hy Lạp được Matthêu sử dụng ở đây, “metamorphoun” có nghĩa chữ là “biến dạng”; đó là một sự biến hình sâu xa hơn là chỉ biến hình cái mặt mà thôi. Đức Giêsu hiện ra với một hình thái khác. Và người ta nhớ đến đoạn văn nổi tiếng mà Phaolô tả cho chúng ta một tác động trái ngược: “Ngài khi ấy ở trong hình dạng Thiên Chúa,... đã lấy hình dạng con người đầy tớ... (Pl 2,6-7). Nhưng làm thế nào nói được những thực tại không thể nói được này? Thế thì càng phải dùng thật nhiều hình ảnh về ánh sáng. Tôi dành thời gian để chiêm ngắm.

Và bỗng các ông thấy ông Môsê vâ ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người.
Từ muôn thuở, người đã lưu ý rằng ba môn đệ đã được đặc ân về mạc khải siêu nhiên này lại chính là ba người sẽ phải đụng chạm gần gũi nhất với “hủy dạng” của Đức Giêsu khi Người hấp hối tại Ghết-sê-ma-ni (Mt 26,37). Đức Giêsu như thế đã cho họ trước một kinh nghiệm về sự vinh quang sẽ đến của Người, để cố ngừa cho họ khỏi bị cái gương mù về sự hạ mình của Người.

Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: lạy Ngài chúng con ở đây thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê một cho ông Êlia.
Phêrô, là người mà quyền ưu tiên của ông vừa được nhìn nhận, sáu ngày trước, sau khi tuyên xưng đức tin của mình, lên tiếng và nói “tôi” đầy quả quyết, hăng hái, quảng đại, ông đã nhìn nhận Đấng Mêsia được chờ đợi qua hai nhân vật chủ chốt của Kinh Thánh đi theo Người: Môsê và Êlia: luật pháp và các Ngôn sứ… Môsê là người đã khởi dẫn dân Chúa trong sa mạc trên núi Sinai, và Êlia, người phải trở về để chuẩn bị giai đoạn mới, chấm dứt các thời đại tiên báo về Đấng Mêsia (Mt 17,10-13).

Hoàn toàn vui mừng về sự khám phá của mình, Phêrô có lẽ muốn ngưng lại cái khoảnh khắc hạnh phúc này và có thể nói là cố định lại nó trong cái phút hạnh phúc và vinh quang này: “Tôi sẽ dựng nhiều lều...”. Chúng ta cũng thế, nếu chúng ta có thể bắt được hạnh phúc và cố định nó lại!

Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông.
Đám mây này, biểu tượng của sự hiện diện Thiên Chúa (Tv 18,12; Xh 40, 34-35; 1V 8,10-12), cắt ngang lời nói của Phêrô. Không phải Phêrô sẽ xây một ngôi nhà cho Thiên Chúa; mà là chính Thiên Chúa đến xây nhà của Người. Đám mây. Có lẽ chúng ta ngạc nhiên về sự liên kết kỳ lạ này: một đám mây sáng ngời lại tạo ra bóng che. Chúng ta ở đó thêm một lần nữa, đứng trước một ngôn từ biểu tượng qua đó chứng minh rằng chúng ta không thể nào hiểu những từ này như thể chúng chỉ mô tả một cảnh tượng. Động từ ‘lấy bóng mình bao phủ’ bằng tiếng Hy Lạp “Episkiazô”, chỉ xuất hiện hai lần trong toàn bộ Tân ước; ở đây và vào ngày lễ Truyền Tin, khi Thánh Thần lấy bóng mình bao phủ Maria (Lc 1,35). Theo các nhà chú giải từ này ám chỉ đến một trong các từ Do Thái nổi tiếng nhất “shékinah”, nghĩa là “nhà ở”, “Hiện Diện” của Thiên Chúa.

Và có tiếng từ đám mây phán rằng: “Đây là con yêu dấu Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!”.
Cái từ ‘Đây là’, bề ngoài có vẻ không quan trọng. “Đây là” chính nó cũng mang đầy ý nghĩa. Trong chuyện kể nó được lặp lại ba lần: “đây là một sự hiện ra... đây là một đám mây... đây là một tiếng nói...”. Trong Kinh Thánh, đó là dấu chỉ có một sự can thiệp siêu hình được áp đặt. Đây là! Chính ở đó! Chính là thế đấy! Chúng ta ở đó chẳng để làm gì cả.

Tiếng của Thiên Chúa này lặp lại sự mạc khải về phép Rửa của Đức Giêsu: Đức Giêsu còn “hơn” cả một người, Người là Con Độc Nhất và Yêu Dấu. Nhưng điều đã được nói, trong sự thân tín, đối với một mình Đức Giêsu, Người khởi đầu tác vụ của Người... bây giờ được nói lại cho các môn đệ với một hậu quả đi theo.

Lạy Chúa, trong thời gian đặc ân của mùa Chay này, xin giúp chúng con sẵn sàng nghe tiếng Chúa, với cái nghiêm túc mà chúng con đôi khi biết sống nó là nghe một số những sứ điệp quan trọng cho chúng con.

Nghe vậy các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống. Bấy giờ Đức Giêsu lại gần chạm vào các ông và bảo: Trỗi dậy đi, đừng sợ.
Trong khi gục mặt xuống đất bái lạy (từ ưa thích của Matthêu) các môn đệ nhận ra rằng họ đang ở trước một sự hiển hiện của Thiên Chúa: phản xạ tôn giáo của con người ở trước một thực thể linh thánh! Thờ phượng! Tôi có biết thờ phượng không? Đó là hành vi tối thượng của con người. Sống, Yêu, Thờ Phượng. Con người không được tạo dựng để thu mình lại với chính mình trong một thứ tự huỷ. Con người được tạo dựng để mở ra cho người khác bằng tình yêu. Và sự hoàn thành của nó được thực hiện khi nó mở ra cho Đấng Tha Thể bằng thờ phượng. Và điều đó luôn luôn mang hình thực một thứ hư vô hóa chính mình: phải chết trước khi được sống. Phải chết cho chính mình đã, để yêu mến, tha thứ. Nhưng nếu con người tự hư vô hóa, mặt cúi xuống đất để tới gần Thiên Chúa, thì chúng ta thấy Đức Giêsu tới gần, đụng chạm, vực các bạn hữu của Người dậy. Những cử chỉ yêu thương. Những cử chỉ cùng quyền năng Thiên Chúa mà chúng ta lát nữa sẽ thấy ý nghĩa biểu tượng.

Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa chỉ còn một mình Đức Giêsu mà thôi. Đang khi thầy trò từ trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông rằng: đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”.
Sách kinh lễ không dám dùng từ chính xác. Bởi vì, một cách có chủ ý, Matthêu đã sử dụng cùng một từ Hy Lạp “Egeirein”, “vực dậy”, để nói rằng Đức Giêsu đỡ các bạn hữu mình dậy và làm cho sống lại. Nếu Thiên Chúa nói từ đám mây, thì đó không phải để đè bẹp con người, như chết, dưới đất... mà để làm cho con người sống lại. Nhưng trong khi chờ đợi, Phêrô và các bạn hữu của ông phải xuống núi lại. Và họ sẽ phải, nếu họ muốn, biến hình kiểu thường ngày. Phêrô sẽ sống những ngày đều đều, những ngày cực khổ, những thất bại và những bách hại. “Nhưng, suốt đời, ông sẽ nhớ lại cái khoảnh khắc thoáng qua này, ở đó ông nghe thấy tiếng gọi này đến từ trời, từ trên núi thánh (2 Pr 1,16-18). Mỗi một lần thể hiện nhiệm tích Thánh Thể là một trạm dừng lại để được tưới mát trên núi với Đức Giêsu. Nhưng phải đi lại, vươn tới những nhiệm vụ của chúng ta, với kỷ niệm...

 

18. Chú giải của Fiches Dominicales

ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH TRÊN NÚI MẠC KHẢI VỀ MẦU NHIỆM “NGƯỜI CON YÊU DẤU” VÀ BÁO TRƯỚC VINH QUANG PHỤC SINH
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
l. Mối liên lạc chặt chẽ với lời báo trước khổ nạn:
Bị đám đông lòng dạ thất thường ở Galilê trở mặt và thường xuyên bị những kẻ thù kiếm chuyện gây rối, Đức Giêsu phải liên tục di chuyển. Người lên tận miền Césarée Philipphe, nơi đầu nguồn sông Giođan, và ở lại đó tập trung vào việc huấn luyện các môn đệ của mình.

“Người ta nói Con Người là ai?” Đức Giêsu thăm dò trước. Sau đó Người mới hỏi ngay họ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai. Phêrô lên tiếng thay cho nhóm anh em: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Đức Giêsu đáp lại bằng một lời chúc phúc: “Này anh Simon, con ông Giona, anh thật là người có phúc. và đồng thời một uỷ thác sứ mạng: “Anh là Phêrô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Rồi “từ lúc đó”, thánh sử Matthêu ghi rõ, Đức Giêsu bất đầu báo cho các ông biết trước điều khiến Phêrô phải lấy làm xúc phạm, và phải lãnh nguyên lời quở trách của Chúa: “Satan, lui lại đằng sau Thầy. Đó là con đường đau khổ mà Con Người sẽ phải đi: “Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và các kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (16,21). Và Chúa tiếp tục cho biết con đường của các môn đệ cũng không thể là gì khác: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (16,24).

Đúng vào thời điểm quan trọng này, thánh Matthêu cho biết rõ: “sáu ngày sau” - chúng ta liên tưởng đến chuyện ông Môsê dẫn theo ba người bạn lên núi Sinai (Xh 24,9), để nhận lãnh mạc khải của Thiên Chúa “sáu ngày sau” đó (Xh 24,16), và cuối cùng diện mạo ông biến đổi khác thường (Xh 34,29) - Theo các tác giả Tin Mừng đó là lúc xảy ra biến cố biến hình trên núi. Jean Potin viết: đây là một câu chuyện “chắc chắn dựa vào sự kiện xác thực”, và được ba thánh sử nhất lãm ghi chép lại “bằng một thứ ngôn ngữ biểu tượng, vay mượn một số những yếu tố chính từ cuộc thần hiện (Thiên Chúa tỏ bày thần tính) trên núi Sinai” (“Giêsu, lịch sự thật”, Centurion, trang 330).

2. Cuộc biến hình trên núi cao:
a. Ba nhân chứng được tách riêng trên núi:
“Chỉ có ‘các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê’ được Đức Giêsu gọi riêng đi theo Người. Là chứng nhân mục kích cuộc biến hình của Chúa hôm nay, rồi đây, cũng chính họ sẽ được chứng kiến cảnh khuôn mặt Chúa bị “biến dạng” tàn tạ trong vườn Cây Dầu (26,37). Chi tiết “ngọn núi cao”, nơi sẽ xảy ra cuộc biến hình, mang ý nghĩa thần học hơn là tính chất địa lý. Trong Kinh Thánh, núi thường là cho cho những cuộc mạc khải của Thiên Chúa. Ở đây nó khiến nhớ lại núi Sinai, ngọn núi lẫy lừng nhất trên trái đất, vì là nơi xưa kia Thiên Chúa đã hiện ra và phán truyền cho con người. J.Potin nhắc nhớ lại: “Chính trên ngọn núi này Môsê đã được đám mây bao phủ, khiến dung mạo ông ngời sáng. Đây cũng là núi mà vị ngôn sứ vĩ đại Êlia đã đặt chân tới để dưỡng sức, lấy lại can đảm trong cuộc chiến đấu chống lại tội thờ ngẫu tượng của dân chúng. Đến lượt chính Đức Giêsu cũng lên núi này” (Sđd trang 330).

b. Đức Giêsu biến hình, đứng giữa Môsê và Êlia:
“Như ông Môsê khi xuống núi Sinai, sau khi đã có cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa của Giao ước, “dung mạo Đức Giêsu bỗng rực rỡ như mặt trời, và y phục Người trắng tinh thư ánh sáng”. Trong trường hợp của Môsê, thì đó chỉ là sự phản chiếu trong chốc lát ánh hào quang của Thiên Chúa; còn đối với Đức Giêsu, thì lại là sự lan toả của chính hữu thể của Người, là sự chiếu giãi của “vinh quang” Người (xem Lc 9,32). Cả 3 Phúc âm nhất lãm đã ghi nhận có hai nhân vật cùng hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Đây là hai con người đầy uy lực là hiện thân cho cả Cựu ước Môsê là biểu tượng của Lề Luật; Êlia đại diện cho hàng ngũ các ngôn sứ. Người ta tin rằng ông này sẽ trở lại vào thời sau hết, để đi trước dọn đường cho Đấng Messia ngự đến. Hai nhân chứng hiện ra rồi chợt biến mất, muốn chỉ rằng giáo ước cũ nay đang được hoàn thành nơi Đức Giêsu Kitô. Vào khoảnh khắc tái diễn lại cảnh thần hiện Xuất Hành, J.Potill giải thích, có sự tham dự của hai nhân vật lớn của lịch sử Israel, cả hai đều đã từng đặt chân trên ngọn Sinai. Họ chính là hiện thân cho Lề Luật và các ngôn sứ, và từ bao thế kỷ, đã loan báo và chuẩn bị cho Con Người đến. Hai vị đã trò chuyện với Đức Giêsu và qua đó nhìn nhận Người là Đấng phải đến (Sđd trang 330-331).

Cũng với ý chống lại cuộc khổ nạn của Đấng rnà ông xưng là “Messia”, Phêrô chỉ muốn giây phút này trở thành vĩnh cửu: “Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, Ngài một cái, ông Môsê một cái, và ông Êlia một cái.

c. Từ đám mây có tiếng phán:
Người môn đệ còn đang nói thì bản thân ông và hài môn đệ kia bị bao phủ trong một “đám mây sáng ngời”. Trong Cựu ước đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa Dân Người qua sa mạc (Xh 13,21). Từ nay, Đức Giêsu sẽ là sự hiện diện đích thực ấy của Thiên Chúa giữa loài người. Từ đám mây, vang lên một “tiếng phán”. Ở dây chúng ta thấy lặp lại từng chữ trong tiếng phán với một mình Đức Giêsu khi người chịu phép rửa tại sông Giođan: “Đây là Con Yêu Dấu của Ta, Ta hài lòng về Người, nhưng thêm: “Hãy vâng nghe lời Người. Điều này gợi nhớ lại lời kêu gọi của Thiên Chúa đối với dân chúng khi loan báo vị Môsê mới sẽ ngự đến (Đnl 18,15). J.Potin giải thích: “Đức Giêsu không chỉ là vị ban lề luật không chỉ là ngôn sứ, Người chính là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa, là Con Người đứng ở bên ngai Thiên Chúa. Từ nay, phải vâng nghe lời Người. Điều Người nối làm ứng nghiện những gì, Lề Luật và các ngôn sứ đã tiên báo xưa” (Sđd trang 331).

d. Xuống núi:
Biết mình đang chứng kiến một cuộc hiển linh của Thiên Chúa, các môn đệ “sấp mặt xuống đất”. Đức Giêsu “lại gần”, “chạm vào các ông”, và trong một cử chỉ như để cứu chữa, Người thúc giục các ông hãy “chỗi dậy” (động từ mà những thế hệ Kitô hữu đầu tiên dùng dể chỉ sự phục sinh): sức mạnh phục sinh của Chúa đã khởi đầu trong cuộc sống và đức tin của các môn đệ.

Bây giờ chỉ còn lại “một mình Đức Giêsu”. Khi xuống núi, Chúa truyền cho các ông phải giữ kín những điều vừa xảy ra, “cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy”. Cuộc tiếp xúc của các ông với Thiên Chúa chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, J.Potin kết luận liền sau đó, họ thấy Đức Giêsu đã trở lại với trạng thái bình thường của phận làm người phải chết. Tuy nhiên, cốt lõi của sứ điệp đã được công bố, phải vâng nghe lời của Người Con Yêu Dấu, cho dù đôi khi lời ấy xem ra rất nghịch thường. Bóng đen u ám của cuộc khổ nạn đã đè nặng ngay trên ánh quang của cuộc Biến hình. Thánh sử Luca đã cho: thấy rõ điều đó khi thêm chi tiết là Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu về “cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem” (Lc 9,31), nghĩa là về cái chết của Người. Máccô (và Matthêu) cũng hướng sự chú ý của các nhân chứng tới cuộc hy sinh sắp tới của Đức Giêsu khi đề cập đến lệnh Người truyền cho các ông ‘đừng nói cho ai hay những gì mình thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết chỗi dậy’. Mặc dù cuộc biến hình dường như loại trừ khả năng phải chết của Đức Giêsu, bởi nó mặc khải Người là Con Người đến từ trời, nhưng các môn đệ chỉ nắm bắt được ý nghĩa của nó sau khi Chúa đã sống lại (Sđd trang 331).

BÀI ĐỌC THÊM
“Trên đường đời ta đi, Thiên Chúa vẫn ở bên”
“Cuộc biến hình của Chúa dạy cho chúng ta nhiều bài học: Thứ nhất, chúng ta đừng thích mơ tưởng đến những mặc khải lạ lùng của Thiên Chúa. Người dành cho ai Người muốn: ở đây Đức Giêsu chỉ đem theo ba môn đệ, và dặn họ không được tiết lộ cho ai về thị kiến cho đến khi Người sống lại. Vậy mà đến giờ phút khổ nạn, các ông này vẫn là những môn đệ bỏ Thầy, thậm chí chối Thầy như thường! Thứ đến, đó là con đường bình thường người môn đệ của Chúa phải đi, luôn ngang qua bóng tối Đức Tin của đời thường. Phêrô cảm thấy quá sung sướng được ở trên núi. Ông đề nghị dựng ngay ba lều và định cư ở đây chúng ta cũng thường thích ở lại nơi đâu mọi sự xảy ra cỏ vẻ như ý, nơi đâu đức tin và đời sống đạo của mình xem ra an toàn, vô sự, và chúng ta cảm thấy như Thiên Chúa rất gần. Chúng ta nghĩ rằng chính khi đó chúng ta mới thực sự là Kitô hữu. Thực ra Thiên Chúa không kém gần gũi với chúng ta trong giờ phút khó khăn của sa mạc hơn là trong những lúc dịu êm dưới bóng mát của ốc đảo! Hơn nữa, sự ham muốn tìm kiếm một sự hiện diện khả giác của Thiên Chúa thực ra rất hàm hồ và chính Đức Giêsu cũng chẳng muốn ba môn đệ mình kể lể về thị kiến họ được hưởng. Nhưng lần hiện ra của Chúa sau khi Người phục sinh, cũng giống như cuộc biến hình này, đều chỉ là chút ánh sáng vụt tắt. Chúng ta cần phải bước đi trên con đường mà Đức Giêsu đã đi qua để đạt tới hoàn toàn và vĩnh viễn sự mạc khải của Thiên Chúa, chúng ta hãy đối diện với cuộc sống và cái chết của mình. Môsê và Êlia là những kẻ đi tìm Thiên Chúa và đã từng được thấy hôm nay họ là nhân chứng của Đức Giêsu biến hình, chính họ đã chẳng từng phải vất vả lê bước trong sa mạc? Sứ điệp của Biến hình chính là trên đường đời ta đi Thiên Chúa vẫn ở bên.

19. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

BIẾN HÌNH
CÂU HỎI GỢI Ý
1.  Đâu là mối liên lạc giữa cuộc Biến hình và những điều xảy ra trước?
2.  Hãy tìm các chủ đề Kinh thánh Cựu ước tiềm ẩn trong đoạn văn này.
3.  Vị trí của Chúa Giêsu thế nào so với Môisen, Êlia và Gio-an Tẩy giả? So sánh với cảnh Phép rửa (3, 13-17) để tìm ra những gì giống nhau cũng như những điểm mới trong đoạn văn này.
4.  Đâu là ý nghĩa của cảnh này? Nó có ý nghĩa Kitô học không?
5.  Đoạn văn lưu tâm đến ai, đến Chúa Giêsu hay Thiên Chúa?
6.  Hãy ghi nhận việc hiện tại hóa cảnh này nhằm chủ đích hộ giáo trong 2Pr 1, 16-17
¯¯¯
1) Chết và sống lại, nhục nhã và quang vinh, hai diện ấy của mầu nhiệm cứu rỗi, Chúa Giêsu chẳng hề tách biệt; các lời tiên báo của Người không phân rời hai biến cố sẽ xảy ra. Tuy nhiên, bao lâu chưa có Phục sinh và Hiện xuống, nghĩa là bao lâu Chúa Giêsu chưa sống cảnh ô nhục này và Thánh Thần chưa được trao ban, thì giáo huấn đó vẫn vô hiệu, và Chúa Giêsu lại không thể dẹp bỏ sự ô nhục được.

Nhưng Chúa Cha có thể hé mở câu trả lời và, trước khi biến cố Vượt qua xảy đến, Ngài đã cho ba môn đồ ưu ái được chiêm ngưỡng, trong một khoảnh khắc thoáng qua, chính vinh quang của Con Ngài. Kinh nghiệm đó đã không được loan báo cách bí nhiệm trong câu chuyển mạch giữa giáo huấn về việc phải đồng chịu khổ nạn với Chúa Giêsu và giai thoại Biến hình đó sao? “Quả thật, Ta bảo các ngươi: trong những kẻ có mặt đây, có người sẽ không nếm biết cái chết trước khi thấy Con Người đến trong nước của Người. Và sáu ngày sau...” (Mt 16, 28-17, 1a). Đó là lời Chúa Giêsu hứa cho nếm trước phần thưởng được dành vào ngày sau hết, tiền nếm bằng việc chiêm bái trước vinh quang của Con Người. Và các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm đều thấy trong câu nói bí nhiệm ấy lời tiên báo trực tiếp về cuộc Biến hình; đa số các giáo phụ cũng nghĩ như vậy. Cho dù xét về nguồn góc, câu văn có thể nhắm đến cuộc Quang lâm nó cũng liên hệ với giai thoại này bằng một vài điểm móc nối có tính cách văn chương. Đặc biệt, chữ “một số người” có thể ám chỉ ba môn đồ được biệt đãi; việc Quang lâm của Con Người mà thiên hạ sẽ thấy đến trong Vương quốc, cũng đã được thực hiện cách tượng trưng trong “thị kiến” (17,9) trên núi; câu chuyển mạch thời gian “sáu ngày sau”, rất hiếm trong trình thuật về cuộc đời công khai, xem ra được chủ ý thêm vào để làm nổi bật mối liên hệ giữa lời loan báo và việc thực hiện.

Xét theo mạch văn, thì cuộc Biến hình có mục đích cho các môn đồ ưu ái thấy trước Vinh quang của ngày sau hết, vinh quang nay đang tập trung trong con người Giêsu đang sống thường ngày với họ. Thiên Chúa phán với các môn đồ đầy sợ hãi rằng họ có thể và phải nghe cùng vâng lời, tín thác cùng đi theo Chúa Giêsu trên đường đẫn tới Giêrusalem, tiến đến vinh quang bằng thập giá.

2) Các chủ đề Kinh thánh xuất hiện trong đoạn văn này có một ý nghĩa rộng lớn đến nỗi phải gắn liền chúng với cao điểm của trình thuật, nghĩa là, theo ý kiến chung của các nhà chú giải, với lời phán từ trời. Lời thần tính này, từ trời phán ra, nhắc lại lời Chúa Cha phán lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa (3,17). Nhưng tiếng nói từ trời còn thêm vào lời công bố tử hệ thần linh của Chúa Giêsu một mệnh lệnh cho các môn đồ: “Hãy nghe Người”. Lời đó mặc khải ba khía cạnh của Chúa Giêsu: Con Thiên Chúa, Tôi tớ được Thiên Chúa sủng ái, Ngôn sứ tuyệt hảo.

Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Thành ngữ “Con yêu dấu” có nghĩa là “Con duy nhất”. Đối với các nhà biên soạn Tin Mừng, thành ngữ đó không những chỉ Đấng Messia, Đấng được tuyển chọn, mà còn chỉ Chúa Con tiền hữu; dầu không có nội dung chính xác theo như định nghĩa của các công đồng, tước hiệu Con Thiên Chúa, phát xuất từ Tv 2,7, vẫn có một ý nghĩa mới như việc cộng đoàn sứ đồ giải thích lại Tv này. Dù các môn đồ, trong cuộc Biến hình, hiểu lời đó thế nào chăng nữa, thì đối với các tác giả Tin Mừng, hình như chắc chắn Lời này công bố sự tiền hữu của Chúa Giêsu. Chính Thiên Chúa đáp lại lời Chúa Giêsu vừa loan báo về cuộc khổ nạn của mình. Trong phép rửa, khi Chúa Giêsu đến với Gioan Tẩy giả dưới dáng vẻ một tội nhân như một người Israel đương thời, thì Thiên Chúa đã công bố rằng Người đích thực là Con yêu dấu. Trong cuộc Biến hình, Thiên Chúa đã xác quyết với các môn đồ vừa nghe Chúa Giêsu tự gán cho mình số phận người Tôi tớ đau khổ, rằng Người quả thực là con riêng của Ngài.

Chúa Giêsu là Tôi tớ Thiên Chúa; Thiên Chúa hài lòng về người Con yêu dấu đó. Qua tiểu chú thứ hai này, Mt gợi lại cuộc thần hiển xảy ra lúc Chúa Giêsu chịu phép rửa, và cho thấy Thiên Chúa muốn giới thiệu Chúa Giêsu như là người Tôi tớ mà Isaia đã loan báo: “Này đây Tôi tđ của Ta mà Ta nâng đỡ; Tuyển nhân của Ta mà Ta sủng mộ” (Is 42,1). Khi gọi Chúa Giêsu như là “người được tuyển chọn”, người được sủng ái tiếng nói từ trời đã áp triện thần linh trên thái độ của Đấng Messia “hiền lành và khiêm nhượng trong lòng” này (11, 29), là Đấng không nỡ bẻ cây sậy bị dập” (Is 42,2 – được Matthêu áp dụng cho Chúa Giêsu trong 12, 18-21), là Đấng người ta có thể đến học đòi bắt chước mà chẳng chút sợ hãi lo âu.

Chúa Giêsu là Ngôn sứ: Mệnh lệnh “Hãy nghe Người” đã làm nổi bật giai thoại so với trình thuật Phép rửa. Nó áp dụng vào Chúa Giêsu lời loan báo có tính cách sấm ngôn của Đệ Nhị Luật được trích dẫn trong Cv 3, 22: “Từ giữa các anh em ngươi Chúa của ngươi sẽ cho chỗi dậy một ngôn sứ như ta; các ngươi sẽ nghe Người trong tất cả mọi điều Người phán” (Đnl 18,15). Trong diễn từ cho dân chúng tại Giêrusalem, Phêrô cho thấy khi phục sinh Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã bày tỏ Chúa Giêsu như một Môisen mới, như Vị Ngôn sứ thiên hạ đợi trông trong thời cánh chung (x.Cv 7,37; Ga 6,14; 7,40). Sự đảm bảo thần linh này, Thiên Chúa đã ban cho Chúa Giêsu lúc Người biến hình để tỏ cho các môn đồ thấy rằng hôm nay quả thực Người là Vị ngôn sứ tuyệt hảo và phải nghe Người, “nếu không sẽ bị loại ra khỏi lòng dân tộc? (x.Cv 3,23; Lv 23,29), rằng ơn cứu độ cũng như sự sống vĩnh cửu đều tùy thuộc về Người, sự sống vĩnh cửu mà Người vừa hứa ban cho ai vác thập giá đi theo.

3) Mỗi một dấu hiệu biểu trưng trong cuộc thần hiển - núi, vinh quang, các nhân vật Môisen và Êlia, lều trại, đám mây - đều được sáng tỏ dưới ánh sáng văn mạch và lời nói từ trời. Mệnh lệnh phán từ trời đã chỉ Chúa Giêsu như là vị Môisen mới. Thế mà trong Cựu ước, ngọn núi Thiên Chúa thường dùng để mặc khải, ngọn núi mà Môisen đến nhận lãnh các bảng Lề luật (Xh 31, 18) và Êlia có lần trèo lên (1V 19,8), là núi Sinai. Do đó ngọn núi nơi Thiên Chúa đến nói chuyện với Con của Ngài đang biến hình, là núi Sinai mới. Các yếu tố khác trong trình thuật thần hiển đều qui chiếu về lối giải thích đó đặc biệt là ánh vinh quang, các nhân vật Môisen và Êlia, đám mây sáng rực; và cũng có lẽ cả chi tiết “sáu ngày” trước khi xảy ra cuộc Biến hình của Chúa Giêsu và lời công bố của tiếng nói từ trời? Môisen đã chẳng phải chờ đợi, trong 6 ngày, lời của Giavê đó sao (Xh 24, 15-16)?

CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Chúa Giêsu đem theo mình Phêrô, Giacôbê và Gioan”: Khi lên núi Sinai, Môisen cũng đi với nhiều bạn hữu trong số đó có ba người được ghi đích danh ở một trong các bài trình thuật (Xh 24,9). Phêrô, Giacôbê và Gioan sẽ ở với Chúa Giêsu trong vườn Ghetsêmani (26.37); họ cũng sẽ bỡ ngỡ vì biến cố như ở đây. Đoạn cuối trình thuật (17,9) và 2Pr 1,16 giải thích cho biết sự hiện diện của các sứ đồ đó là cần vì sau Phục sinh, cần phải rao giảng, làm chướng cho Vinh quang của Chúa Giêsu trước mặt dân chúng. Thế mà “có miệng hai hay ba nhân chứng thì việc mới vững” (Đnl 19,15).
“Trên một núi cao”: Thành ngữ này không gặp ở chỗ nào khác trong Matthêu ngoài trình thuật Cám dỗ (4,8.). Nó nói lên tương quan giữa cuộc Biến hình và Cám dỗ. Quả thực, Chúa Giêsu vừa mới đẩy lui cuộc cám dỗ quỷ quái của Phêrô (16, 23). Để đáp lại lòng tùng phục của Người, Chúa Cha đã biến đổi Người cách vinh quang và như vậy tiên hứa cho Người quyền năng trên toàn thế giới (“Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Ta”: 28, 18), quyền năng này Người đã từ chối nhận lãnh cách quá sớm từ tay Satan (4.8) và chỉ sẽ nhận lãnh sau ngày Phục sinh.

“Và Người đã biến hình trước mặt họ”: Biến hình (Hy ngữ: metamorphôthê: nghĩa tự nguyên: “thay đổi” hình dạng, vẻ mặt), có nghĩa là có một dung mạo khác với dung mạo thường ngày; cũng thế, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đồ Emmau dưới một hình dạng khác, hình dạng người lữ hành (Mc 16,12). Việc Chúa Giêsu biến hình đã đáp ứng niềm hy vọng thấy trong văn chương Khải huyền Do thái. Vào thời sau hết, khuôn mặt của các người công chính sẽ biến đổi và trở nên sáng láng, rạng rỡ kiều diễm như mặt các thiên sứ, tràn ngập vinh quang (Khải huyền của Baruch 51, 3-10). Dựa trên một sự kiện của quá khứ - da mặt Môisen chiếu rọi vinh quang vì đã được trò chuyện với Giavê (Xh 24,39), niềm trông đợi cánh chung đó diễn tả sự vinh hiển tương lai của những kẻ được chọn như sau: các hiền nhân sẽ sáng chói như ánh quang vòm trời, và những kẻ đã giảng dạy sự công chính cho nhiều ngươi sẽ rạng rỡ như tinh sao muôn đời muôn kiếp” (Đn 12,3). Hôm nay, trên núi này, qua con người Chúa Giêsu, dưới mắt các môn đồ được biệt đãi, niềm hy vọng đã trở thành thực tại. Nếu lời thiên quốc giới thiệt Con Thiên Chúa tiền hữu, thì sự kiện biến hình mặc khải con người Chúa Giêsu trong ánh vinh quang sau cùng và dứt khoát của Người.

“Mặt Người sáng láng như mặt trời, áo Người trắng phau như ánh sáng”: ánh sáng rực rỡ này biểu trong các thực tại thiên quốc (Đn 7,9; Mt 28,3; Cv 9,3) và cánh chung (Kh 1, 13- 14; 4, 4; 14,4; 19, 11, 20, 11). Vinh quang mà Chúa Giêsu loan báo cho thời sau hết, khi Con Người sẽ đến trong vinh quang của Cha Người với các thiên sứ” (16,27), vinh quang mà Giacôbê và Gioan mơ ước (20, 20-23), giờ đây xuất hiện trước mắt ba nhân chứng. Nó không phải là một phản ảnh đơn thuần của vinh quang Giavê (Môisen), nhưng là một ánh sáng chói lọi mặc khải hữu thể sâu xa của Chúa Giêsu: Người là chính Thiên Chúa. Sau này các sứ đồ sẽ minh xác điều đó: “Chúa Giêsu là sự tỏa chiếu vinh quang Thiên Chúa, là ấn tượng của bản tính Ngài” (Dt 1, 3); trên mặt Người là vinh quang Thiên Chúa (2 Cr 4, 6); Người là Chúa vinh quang” (1 Cr 2, 8). Anh vinh quang thiên quốc này đã sáng rực lên trong đêm Sinh nhật, bao trùm các mục đồng (Lc 2, 9-10), hôm nay vinh quang đó phủ lấy con người này, và mặc khải trước thời gian trạng thái tương lai người đó sẽ đạt đến, khi được đưa vào vinh quang” (1Tm 3, 16), khi được Thiên Chúa phục sinh và ban cho vinh quang (1Pr 1, 21), khi Thiên Chúa tôn vinh Tôi tớ của Ngài (Cv 3, 13). Têphanô sẽ thấy Người trong vinh quang của Người như thế (Cv 7, 55) và Saolê, trên đường đi Đamas, sẽ bị đui mù vì ánh sáng của Người (Cv 9,3). Vinh quang này của Chúa Kitô sau cùng sẽ bừng sáng trên chính tín hữu (2Cr 3, 18). Và trong khi chờ đợi ngày được tôn vinh, người Kitô hữu, vốn đang sống trong đêm tối mà không thuộc về đêm tối (1Tx 5,5-6), đã thấy trong cuộc Biến hình một nguồn sáng rực rỡ.
“Và này có Môisen và Êlia hiện ra cho họ”: Không có giả thuyết nào về ý nghĩa hai nhân vật thiên quốc này làm ta xác tín thỏa mãn. Người ta thường xem Môisen như là biểu tượng của Lề luật, cùng Êlia như là người đại diện các ngôn sứ; nhưng thông phán từ trời (Hãy nghe Người) cho thấy tiền ảnh của Vị Ngôn sứ tương lai là Môisen chứ không phải Êlia: Vả lại dưới mắt Israel, Môisen chẳng những là nhà lập luật, mà còn là vị ngôn sứ nữa (Hs 12, 14) là là vị ngôn sứ mà sau này trong Israel sẽ chẳng có vị nào tương đương” (Đnl 34,10). Thỉnh thoảng người ta cũng xem Môisen và Êlia như là tiền ảnh của hai nhân chứng sách Khải huyền giối thiệu mà không nêu danh: Êlia là kẻ có quyền đóng cửa trời và Môisen là người có quyền gõ vào mặt đất (Kh 11, 3.6); một vài bản văn của các giáo sĩ Do thái: còn xem Êlia như là hình ảnh của Đấng Messia đau khổ: trong cuộc chuyện trò ngay sau giai thoại biến hình, Êlia được xem là hình ảnh của Gioan mà người ta đã ngược đãi (Mt 17, 12-13). Quả vậy, xét theo truyền thống (Mt 3, 23-24) mà Chúa Giêsu ám chỉ cho các môn đồ trong một 17, 10-11, có thể Êlia là tiền hô của Đấng Messia, và điều này đã được thực hiện trong con người Gio-an Tẩy giả. Vậy sở dĩ Êlia có mặt trên núi, đó là với tư cách tiền hô của Đấng Messia; có lẽ vì thế mà Mc đã ghi tên ông trước Môisen, dù sau đó ông ta ghi lại theo thứ tự ưu tiên của truyền thống (Mc 9,5). Có một bản văn của các giáo sĩ Do thái ghi chép thế này: “Johannan ben Zacchai đã nói. Thiên Chúa phán cùng Môisen: khi Ta sẽ sai ngôn sứ Êlia, cả hai ông phải cùng nhau đến “ (Dt rabba 3). Có lẽ toàn thể biểu tượng cựu truyền về hai nhân vật này đã liêm nhiễm quan niệm về Đấng Messia của các tác giả Tin Mừng: ngôn sứ Môisen đến chào Vị ngôn sứ đích thực; cùng đi với ông, còn có Êlia, vị tiền hô của Messia. Dù sao, hai nhân vật này của Cựu ước, ngày xưa đã từng trèo lên núi Sinai, tiên báo qua việc họ lên núi Sinai mới này rằng: với Chúa Giêsu, thời gian đã hoàn tất.

“Tôi sẽ dựng ba lều”: Đối với truyền thống Do thái, nơi ở thiên quốc được biểu trưng bằng các nhà tạm đời đời” (Lc 16,9). Quả vậy, người ta biết rằng trong thời sau hết, Thiên Chúa sẽ ở giữa dân Ngài (Ed 37, 27; Hs 12, 10) trong lều của Vinh quang Ngài, rằng dân chúng sẽ cắm lều quanh Đấng Messia của họ (Ít nhất theo Hênoc 71,16; Ga 1,14: Người đã dựng lều Người giữa chúng tôi, và chúng tôi đã thấy vinh quang của Người”) và các dấu lạ của thời Xuất hành sẽ tái diễn. Phêrô tưởng thời sau hết đã tới và cho rằng đã đến lúc thiết lập thiên đàng ở trên trái đất, để cuộc hiện ra trong một ngày sẽ kéo dài mãi mãi. Khi đề nghị làm ba lều, ông muốn khai mào sự “nghỉ ngơi” cánh chung vậy.

“Thì này một đám mây sáng ngời rợp bóng trên họ”: Đó là câu Thiên Chúa trả lời đề nghị của Phêrô. Lều có vai trò che chở, còn mây thì đến phủ bóng: lều được bàn tay loài người dệt nên, còn mây thì do trời; lều tìm ta trong bóng tối, còn mây lại chiếu sáng rạng ngời. Điểm tương phản mà văn mạch trực tiếp gợi lên ấy, đã được xác định và xác quyết qua hình ảnh đám mây của Kinh Thánh.

Trong truyền thống Thánh Kinh, mây dấu chỉ thần hiện đi theo các cuộc xuất hiện khác nhau của người thiên giới. Ở đây không phải là đám mây chỉ theo một nhân vật như Con Người của thời cánh chung (Đn 7, 13; Mt 24.30), song là đánh mây rợp bóng và bảo vệ đám mây một cách nào đó dựng lều cho chính Thiên Chúa: Thiên Chúa đã lấy mây để làm lều trại cho mình (Tv 18, 12). Tuy nhiên hình như biến cố này thực hiện một sấm ngôn trong truyền thống Do thái, liên hệ đến thời sau hết: Và bấy giờ Chúa sẽ tỏ bày các điều ấy ra, và vinh quang Chúa cũng như đám mây sẽ xuất hiện, như đã hiển hiện dưới thời Môisen và khi Salomon cầu xin cho đền thờ được huy hoàng tác thánh” (2Mcb 2,8). Cũng như ngày xưa Lều Hội họp (Trướng Tao phùng) đã được đám mây bao phủ và nhà tạm được tràn ngập vinh quang Giavê (Xh 40,34-35), như đền thờ của Salomon được Đám mây và Vinh quang bao phủ (1V 8,10-12), thì trong thời cánh chung cũng như vậy: Vinh quang dã rời bỏ Đền thờ (Ed 10, 3-4) sẽ trở lại cùng với Đám mây. Trên núi Biến hình, được chiếu sáng bới vinh quang đang tỏ hiện nơi dung mạo Chúa Giêsu và nơi y phục Người, Mây đã ngự xuống làm dấu chỉ có Thiên Chúa hiện diện. Mây rợp bóng bao trùm các nhân vật cũng tương tự quyền năng của Đấng Tối cao đã “phủ bóng” trên trinh nữ Maria trong ngày Truyền tin (Lc 1,35): động từ episkiazô chỉ xuất hiện ở Tân ước trong hai trường hợp này để nói lên sự can thiệp đặc biệt của Thiên Chúa.

Ý nghĩa biểu trưng của Mây còn có thể được xác định thêm. Nó không chỉ phủ bóng trên ba nhân vật, mà còn trên ba môn đồ nữa; chỉ Luca ghi nhận điểm ấy, nhưng văn mạch cũng nói lên điều đó trong Matthêu và Macco. Tiểu tiết này thật quan trọng: nó cho thấy rằng các môn đồ không chỉ làm khán giả, song còn nhập cuộc vào một biến cố dĩ nhiên là vượt tầm sức họ, nhưng cũng liên quan đến họ. Lời ngôn sứ vừa nhắc trên đây cho thấy Vinh quang và Mây xuất hiện trong hoàn cảnh nào: nơi cất dấu các đồ phụng tự “sẽ không được ai biết đến cho tới khi nào Thiên Chúa thâu họp dân lại và dủ lòng thương đoái” (2Mcb 2, 7). Nếu nhớ lại văn mạch tổng quát của giai thoại biến hình chúng ta đang nghiên cứu, tức là việc thành lập cộng đoàn môn đồ để tiên báo và thể hiện Giáo Hội, ta sẽ dễ dàng chấp nhận rằng Thiên Chúa đã bắt đầu thâu họp dân Ngài. Khi nối kết hai nhóm - trời và đất - cho đến lúc đó hãy còn tách biệt, đám mây đã công nhận việc thâu họp các môn đồ quanh lời Chúa Giêsu, việc thâu họp mà Người đã bắt đầu thực hiện. Không phải Chúa Giêsu biến hình cho riêng Người, nhưng còn cho các môn đồ: họ sẽ nhờ đó khám phá ra nguồn gốc thần linh của lời giáo huấn mà họ phải vâng nghe; một khi đã được vào trong đám mây thiên quốc, họ sẽ biết rằng từ đây họ đang lập thành một cộng đoàn với Chúa Giêsu và cả với thiên quốc, bao lâu họ còn lắng nghe lời Người.

“Các môn đồ ngã sấp mặt xuống đất... Chúa Giêsu đụng đến họ”. Đối diện với Thiên Chúa đến viếng thăm, con người cảm thấy xâm nhập bởi một nỗi sợ hãi linh thánh. Không ai có thể nhìn thấy Thiên Chúa mà không chết (Xh 19, 21; 33, 20; Lc 16, 2; Ds 4, 20). Trong thị kiến đầu tiên, Isaia cảm thấy như muốn chết (Is 6, 5) vì đã tiếp xúc với Thiên Chúa. Ở đây, các môn đồ cũng cảm nghiệm cùng một nỗi sợ hãi như chết đó khi đứng trước vinh quang Chúa Giêsu. Vì thế Chúa Giê-su đã thực hiện một cuộc phục sinh tượng trưng. Người đụng đến họ, và cử chỉ chữa bệnh đã từng phục sinh con gái ông Giairô (9, 25) giờ đây cũng “phục sinh” các môn đồ.

“Các con không được nói cho ai hay thị kiến ấy cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết”: Chắc hẳn Chúa Giêsu ban mệnh lệnh này để tránh mọi xáo động có tính cách chính trị thiên sai trong dân chúng; sau Phục sinh, mối quản ngại này không còn nữa, vì giữa cuộc Biến hình và Phục sinh, thập giá đã dẹp bỏ một lần thay cho tất cả các ước mơ về quyền lực thiên sai rồi.

KẾT LUẬN
Tất cả các yếu tố của đoạn miêu tả này đều cho thấy ràng niềm trông đợi của Israel đã được thực hiện, một cách bất ngờ nhưng chắc chắn. Môisen và Êlia đến chuẩn bị dân chúng và biến họ thành một cộng đoàn thánh thiện. Nhờ đám mây, cụộc tập họp vĩ đại được thực hiện (2 Mcb 2, 7); khuôn mặt sáng láng của Con Người mà Đaniel tiên báo (Đn 7 và 10) giờ đây đang đứng trước mặt các môn đồ; còn họ thì tượng trưng cho cộng đoàn cánh chung. Tất cả những gì Israel hy vọng nay đang thành thực tại. Điểm mới mẻ, chính là nhân vật biến hình. Người không đến từ trời, nhưng trời xuống trên trái đất. Người không nói, nhưng là tiếng nói từ trời vang lên. Sau cùng và đặc biệt, Đấng mà giờ đây ta phải vâng nghe, không còn chỉ là Giavê (“Hãy nghe hỡi Israel”: Đnl 6,4 - khởi đầu của kinh nguyện được gọi là Shema), nhưng là Chúa Giêsu đang đứng đó. Người là Đấng mặc khải, là chính Chúa của dân.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Nhật I Mùa Chay đã dẫn chúng ta lên núi cám dỗ, là nơi mà Chúa Giêsu đã từ chối không chịu quỳ lạy dưới chân tên Cám dỗ để được nó ban cho một quyền lực mà chỉ mình Thiên Chúa mới có thể ban (Mt 4, 8-10). Để đáp lại lòng trung thành sơ khởi này đối với Thiên Chúa, hôm nay có tiếng nói từ trời được phán ra trên núi Biến hình, trong Chúa nhật II Mùa Chay này. Khi công bố Chúa Giêsu là Con Tiền hữu, tiếng nói từ trời làm cho ta tin vào giáo huấn mới về số phận mà Thiên Chúa đã đặt định cho Tôi tớ Ngài: không phải là đường uy quyền trần thế, mà là đường vinh quang thiên quốc đi qua nhục nhã khiêm hạ. Rồi quyền tối thượng trên trời duỗi đất mà Chúa Giêsu đã lãnh nhận từ Thiên Chúa, Người đã ủy thác lại cho các môn đồ quậy tụ trên núi Thăng thiên (28, 18-20). Cũng vậy, Giáo Hội sẽ có thể thực thi quyền đó nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã hứa ở cùng Giáo Hội cho đến khi Người trở lại vinh quang, nếu Giáo Hội, theo gương Thầy chí thánh, không nghe lời Satan, mà bỏ con đường đưa đến vinh quang ngang qua thấp giá.

2) Việc biến hình của chúng ta hệ tại ở việc chúng ta trở nên giống Chúa Kitô bằng sự tiến bộ không những trong đường thiêng liêng (2 Cr 3, 18) và, sau cuộc vượt qua cái chết với Chúa Giêsu (Pl 3,10-11) bàng việc tôn vinh toàn hữu thể chúng ta, kể cả thân xác (Pl 3, 21). Việc Phục sinh của Chúa Kitô kéo theo việc phục sinh và biến hình toàn diện chúng ta như vậy đó.

3) Cũng như các sứ đồ trong cuộc sống âm thầm thường nhật, chúng ta phải biết gặp “một mình Chúa Giêsu” (c.8), Chúa Giêsu của mọi ngày, Chúa Giêsu nền tảng của cuộc sống nội tâm và tông đồ của chúng ta (Pl 1, 21), nhất là khi chúng ta mất hết mọi tình bằng hữu hoặc mọi nương tựa nơi người đời.

4) Đừng sợ hãi khi phải cùng với người và trong đám mây (c.5). Vì đây là một “đám mây sáng ngời” sẽ rợp bóng trên chúng ta. Đây là một sự hiện diện kín đáo trong đời sống cầu nguyện hay trong dời sống đức tin tinh ròng.
5) Chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng Chúa Kitô trong vinh quang của Người trên trời, sẽ thấy Người trong vẻ đẹp kiều diễm sáng láng (Kh 1,13- 18), và sẽ được ở cùng với Người muôn đời (1Tx 4, 17). Trong khi chờ đợi ngày khải hoàn vinh phúc đó, ta hãy sống trong đức tin là tuân phục: ta hãy vâng nghe Người.

6) Việc Chúa biến hình trong phép Thánh Thể không nhằm tỏ hiển vinh quang người ra bên ngoài, nhưng nhằm che dấu vinh quang đó dưới các hình sắc bí tích. Tuy nhiên, nếu trung thành lắng nghe tiếng của Con yêu dấu, Đấng đã giáo huấn chúng ta về mầu nhiệm đó chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện của Người tiềm ẩn trong hình bánh hình rượu, và chúng ta sẽ kêu lên: Lạy Chúa, được ở đây thì tốt lắm”. Và rồi chúng ta sẽ có can đảm phục vụ người trong cuộc sống bình thường mọi ngày đời ta.





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét