Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016

ĐẠI HỘI HỘI ĐỒNG GIAM MỤC VIỆT NAM VA THƯ CHUNG - NHÀ THỜ BÌNH TRIỆU TM KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO





THÁP CHUÔNG SƠN LỘC






THÁP ÚC

ĐẠI HỘI THÁNH NHAC CHUC MỪNG ĐỨC CHA CHỦ TỊCH MỚI

NHÀ THỜ BÌNH TRIỆU






HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

WHĐ (06.10.2016) – Tại phiên họp buổi chiều ngày thứ hai trong khuôn khổ Đại hội lần thứ XIII của Hội đồng Giám mục Việt Nam (tức thứ Tư 5 tháng Mười), các Đức giám mục Việt Nam đã bầu Ban Thường vụ và Chủ tịch các Uỷ ban trực thuộc HĐGMVN cho nhiệm kỳ mới (2016-2019). Kết quả như sau:
1. Chủ tịch HĐGMVN: Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám mục giáo phận Thanh Hoá;
2. Phó Chủ tịch HĐGMVN: Đức cha Giuse Nguyễn Năng, Giám mục giáo phận Phát Diệm;
3. Tổng Thư ký HĐGMVN: Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm, Giám mục giáo phận Mỹ Tho;
4. Phó Tổng Thư ký HĐGMVN: Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục giáo phận Hải Phòng.
Các chủ tịch các Uỷ ban trực thuộc HĐGMVN:
1. UB Giáo lý Đức tin: Đức TGM Phaolô Bùi Văn Đọc, Tổng giám mục Tổng giáo phận TP. HCM;
2. UB Kinh thánh: Đức cha Giuse Võ Đức Minh, Giám mục giáo phận Nha Trang;
3. UB Phụng tự: Đức cha Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn, Giám mục phó giáo phận Bà Rịa;
4. UB Nghệ thuật thánh: Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi, Giám mục giáo phận Qui Nhơn;
5. UB Thánh nhạc: Đức cha Vinh sơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục giáo phận Ban Mê Thuột;
6. UB Loan báo Tin mừng: Đức cha Alphonsô Nguyễn Hữu Long, Giám mục phụ tá giáo phận Hưng Hoá;
7. UB Giáo sĩ chủng sinh: Đức cha Antôn Vũ Huy Chương, Giám mục giáo phận Đà Lạt;
8. UB Tu sĩ: Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ, S.D.B., Giám mục giáo phận Thái Bình;
9. UB Giáo dân: Đức cha Giuse Trần Văn Toản, Giám mục phụ tá giáo phận Long Xuyên;
10. UB Truyền thông Xã hội: Đức cha Giuse Nguyễn Tấn Tước, Giám mục giáo phận Phú Cường;
11. UB Giáo dục Công giáo: Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo, Giám mục giáo phận Xuân Lộc;
12. UB Mục vụ Giới trẻ và Thiếu nhi: Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Viên, Giám mục phụ tá giáo phận Vinh;
13. UB Văn hoá: Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, Giám mục giáo phận Phan Thiết;
14. UB Công lý và Hoà bình: Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, O.P., Giám mục giáo phận Vinh;
15. UB Mục vụ Gia đình: Đức cha Giuse Châu Ngọc Tri, Giám mục giáo phận Lạng Sơn–Cao Bằng;
16. UB Bác ái Xã hội–Caritas: Đức cha Tôma Vũ Đình Hiệu, Giám mục giáo phận Bùi Chu;
17. UB Mục vụ Di dân: Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám mục phụ tá Tổng giáo phận TP. HCM.
Cha Gioan Baotixita Ngô Đình Tiến xin ngưng công tác Thư ký Giáo tỉnh Huế vì công việc của giáo phận; cha Phêrô Trần Huy Hoàng thuộc giáo phận Nha Trang sẽ thay thế.
Đại hội vẫn tiếp tục làm việc trong hai ngày tới và sẽ kết thức vào thứ Sáu ngày 7 tháng Mười, lễ Đức Mẹ Mân Côi.
Văn phòng HĐGMVN
theo hdgmvietnam.org

 THƯ CHUNG HĐGMVN GỬI CỘNG ĐỒNG DÂN CHÚA 
và Biên Bản Đại Hội XIII
Anh chị em thân mến,
1. Chúng tôi, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, họp Đại Hội tại Trung tâm mục vụ Tổng giáo phận Thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 3 đến 7 tháng 10 năm 2016, kính gửi lời chào thân ái đến cộng đồng Dân Chúa tại Việt Nam. Bình an của Chúa ở cùng anh chị em!
Qua những bản tường trình của các giáo phận và các uỷ ban trực thuộc Hội Đồng Giám Mục, chúng tôi vui mừng trước những thành quả mà Năm Thánh Lòng Thương Xót mang lại cho rất nhiều người cũng như các cộng đoàn qua việc học hỏi giáo lý, cử hành phụng vụ, những cuộc hành hương, các việc đạo đức và những việc lành thực thi lòng thương xót. Lòng thương xót là chủ đề được nêu cao trong Năm Thánh 2016, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta chỉ sống lòng thương xót trong Năm Thánh mà thôi. Ước mong anh chị em tiếp tục sống tinh thần đó trong suốt cuộc đời, để xứng đáng là con cái của Cha trên trời, Đấng giàu lòng thương xót.
2. Với tâm tình đó, chúng tôi ước mong được chia sẻ “vui mừng và hi vọng, ưu sầu và lo lắng” của anh chị em nói riêng và người dân Việt Nam nói chung trong xã hội ngày nay. Nhìn vào tình hình đất nước hiện nay, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta không thể không có những băn khoăn, lo lắng. Làm sao không âu lo trước tình hình đạo đức xuống cấp nghiêm trọng, tội ác gia tăng không những về số lượng mà cả về mức độ dã man, phá thai và nghiện ngập tràn lan, nhất là nơi giới trẻ! Làm sao vui được trước sự hoành hành của tệ nạn tham nhũng, vốn từ lâu đã được coi là quốc nạn nhưng đến nay vẫn không hề suy giảm! Làm sao không lo lắng trước tình trạng ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long, hạn hán tại các tỉnh Tây nguyên, thảm hoạ môi trường biển tại miền Trung! Đó là chưa kể đến mối đe doạ hằng ngày từ các thực phẩm bẩn và độc hại, có thể ngay trong các quầy hàng và trên bàn ăn của mỗi gia đình!
Có những nguyên nhân khách quan và ở tầm vĩ mô đã dẫn đến tình trạng đáng buồn trên, chẳng hạn nền giáo dục quá chú trọng đến bằng cấp, nặng hình thức mà không quan tâm đủ đến giáo dục nhân cách và tâm hồn; chính sách kinh tế quá đề cao lợi nhuận và hiệu năng sản xuất mà không lưu ý đến môi trường sống của người dân; tình trạng thiếu minh bạch và yếu năng lực trong việc quản lý kinh tế và điều hành xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho tham nhũng và nhiều tệ nạn khác; khuynh hướng sử dụng bạo lực dưới nhiều hình thức để giải quyết vấn đề hơn là lắng nghe và đối thoại… Cách riêng trong những ngày này, chúng tôi nghĩ đến những đau khổ mà đồng bào bốn tỉnh miền Trung đang phải gánh chịu vì thảm hoạ môi trường biển. Ước mong nhà cầm quyền lắng nghe những nguyện vọng chính đáng của người dân cũng như những góp ý chân thành của các nhân sĩ, trí thức, để thực sự xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh mà mọi người mong ước.
3. Bên cạnh đó, không thể không nói đến những nguyên nhân chủ quan và phần trách nhiệm của mỗi người trong chúng ta. Mỗi hành động của chúng ta, dù nhỏ bé, đều góp phần tích cực hoặc tiêu cực, lành mạnh hoá hoặc huỷ hoại môi trường sống. Khi nói đến tình trạng biến đổi khí hậu qua việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên cách thiếu trách nhiệm, các giám mục Á Châu nhắc nhở người Công giáo những việc rất nhỏ như tiết kiệm nước, dùng loại đèn ít tiêu hao năng lượng, tắt điện khi không sử dụng, không đốt hoặc xả rác, không xử lý chất thải bừa bãi, không sử dụng hoá chất độc hại trong canh tác và sản xuất…Tương tự như thế, chúng ta hãy góp phần vào việc lành mạnh hoá xã hội bằng những chọn lựa và hành động nhỏ bé trong công việc và trách nhiệm hằng ngày của mình, cá nhân cũng như gia đình. Với ơn Chúa, anh chị em hãy can đảm sống theo lương tâm ngay thẳng giữa những cám dỗ, trở thành khí cụ bình an của Chúa trong mọi hoàn cảnh, thành muối ướp cho nền văn minh tình thương và văn hoá sự sống thay cho lối sống mang nặng hận thù và chết chóc.
4. Tiếp theo đây, chúng tôi muốn nói với anh chị em về định hướng mục vụ cho những năm sắp tới. Ngày 8 tháng 4 năm 2016, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã ban hành Tông huấn Niềm Vui của Tình Yêu, là kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục vềƠn gọi và sứ mạng của gia đình trong thế giới ngày nay. Tại Châu Á, Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu cũng sẽ tiến hành Đại hội toàn thể, được tổ chức tại Colombo, Sri Lanka, vào cuối năm 2016, với chủ đề Niềm vui của Tin Mừng và Gia Đình trong ánh sáng của Thượng Hội Đồng Giám Mục. Hòa với nhịp sống của Hội Thánh toàn cầu cũng như Hội Thánh Á Châu, chúng tôi đề nghị chủ đề Mục vụ gia đình cho ba năm (2016-2019) với những điểm nhấn cho từng năm:
- Năm 2016-2017: Chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân;
- Năm 2017-2018: Đồng hành với các gia đình trẻ;
- Năm 2018-2019: Đồng hành với những gia đình gặp khó khăn.
5. Trong thư này, chúng tôi muốn trình bày chi tiết hơn về chủ đề năm 2016-2017: Chuẩn bị cho người trẻ bước vào đời sống hôn nhân. Đức Giáo hoàng Phanxicô nhấn mạnh đặc biệt đến lãnh vực này. Kết hôn là một quyết định rất quan trọng, vì thế cần được chuẩn bị chu đáo hết sức có thể. Trong thực tế ngày nay, một số người trẻ chỉ quan tâm đến việc tổ chức lễ cưới thật lớn, mà không hiểu biết đầy đủ về trách nhiệm trong đời sống hôn nhân. Một số khác, vì vất vả với cuộc mưu sinh, ít có thời giờ để chuẩn bị kỹ lưỡng cho đời sống hôn nhân họ sắp bước vào. Vì thế, cần khuyến khích người trẻ tham dự những lớp chuẩn bị hôn nhân, đồng thời các giáo xứ phải tổ chức chương trình cho chu đáo. Mỗi giáo phận có thể có chương trình riêng tùy theo hoàn cảnh, tuy nhiên chúng tôi mong muốn các khóa chuẩn bị hôn nhân phải giúp cho các bạn trẻ thấy đích điểm không chỉ là ngày cưới mà là cả đời sống gia đình lâu dài sau này, do đó nên quan tâm những yếu tố sau:
- Hiểu biết ý nghĩa của ơn gọi hôn nhân trong chương trình của Thiên Chúa và theo giáo huấn của Hội Thánh, khám phá phẩm giá và vẻ đẹp của hôn nhân, ý nghĩa sâu xa của tính dục, trách nhiệm xây dựng một gia đình mới.
- Dẫn vào bí tích Hôn Phối, giúp đôi bạn đón nhận bí tích cách xứng đáng và có khởi đầu vững chắc cho đời sống gia đình. Bí tích Hôn Phối không chỉ là thời điểm cử hành hôn lễ nhưng là thực tại tác động toàn bộ đời sống hôn nhân. Vì thế, phải giúp họ cử hành bí tích Hôn Phối như một kinh nghiệm đức tin sâu xa và trân trọng ý nghĩa của từng lời nói và dấu chỉ trong cử hành bí tích.
- Tạo cơ hội cho đôi bạn thảo luận với nhau: họ mong chờ gì từ hôn nhân và từ người bạn đời; họ hiểu thế nào về tình yêu, về lời cam kết và trách nhiệm xây dựng một gia đình.
- Giúp đôi bạn tìm hiểu trước những vấn đề và khó khăn có thể xảy ra trong đời sống hôn nhân và gia đình.
Trong những lớp chuẩn bị hôn nhân, ngoài sự hướng dẫn của các linh mục và chuyên viên, thì chứng tá cụ thể của các gia đình đóng vai trò quan trọng, do đó nên mời những người sống đời gia đình chia sẻ kinh nghiệm. Ngoài ra, đừng quên rằng “những người được chuẩn bị tốt nhất cho đời sống hôn nhân là những người đã học được từ chính cha mẹ của họ thế nào là hôn nhân Kitô giáo” (Tông huấn Niềm vui của Tình Yêu, số 208). Vì thế, chính đời sống gia đình hiện nay là môi trường giáo dục và chuẩn bị tốt nhất cho cuộc sống hôn nhân mai sau của con cái trong gia đình.
6. Sau Thư Chung này, chúng tôi sẽ gửi Tâm Thư đến các gia đình Công giáo và ước mong mỗi gia đình đều nhận được một bản. Xin anh em linh mục đang làm việc tại các giáo xứ giúp chúng tôi thực hiện ước nguyện này. Chúng tôi cũng xin anh em hãy coi mục vụ gia đình là thành phần chính yếu trong công tác mục vụ của mình, vì gia đình là con đường Hội Thánh phải đi và mọi chương trình mục vụ của Hội Thánh phải đi qua gia đình.
Trong việc chăm sóc mục vụ cho các gia đình, nhiều tu sĩ nam nữ và nhiều đoàn thể tông đồ gia đình đã góp phần rất tích cực. Chúng tôi chân thành cảm ơn anh chị em, trong nhiều năm qua, đã tận tụy đồng hành và giúp đỡ các gia đình Công giáo sống đúng với ơn gọi và sứ mệnh của mình. Ước mong anh chị em quan tâm đến những định hướng mục vụ của Hội Đồng Giám Mục và đưa vào chương trình hoạt động của mình.
7. Đại Hội XIII của HĐGMVN kết thúc vào ngày 7 tháng 10, lễ Đức Mẹ Mân Côi. Ngày lễ này nhắc nhở chúng ta về sự đồng hành gần gũi và nâng đỡ ân cần của Mẹ Maria đối với Hội Thánh, đồng thời nêu cao tấm gương tuyệt hảo của Đức Mẹ, luôn tín thác vào Chúa trong mọi biến cố, nhất là trong những giờ phút bi thảm của cuộc đời. Vì thế chúng ta hãy “đem Mẹ về nhà” (Ga 19,27) và yêu mến Mẹ với trọn tình con thảo. Noi gương Mẹ, hãy vững tin vào Chúa mọi nơi mọi lúc vì “không có gì mà Chúa không làm được” (Lc 1,37). Cùng với Mẹ, hãy tích cực góp phần thực hiện điều mà Đức Giáo hoàng Phanxicô gọi là “cuộc cách mạng của tình yêu và sự dịu dàng” ngay trong gia đình mình, trong cộng đoàn Hội Thánh và giữa lòng xã hội hôm nay.

Làm tại Trung tâm mục vụ TGP. TP. HCM, ngày 7 tháng 10 năm 2016
 
                                

   
HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM
Đại Hội Lần Thứ XIII

BIÊN BẢN
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam họp Đại hội lần thứ XIII từ thứ Hai, ngày 03/10/2016 đến thứ Sáu, ngày 07/10/2016 tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng giáo phận thành phố Hồ Chí Minh, với sự tham dự đông đủ của Đức Hồng Y Phêrô, các Đức Tổng Giám mục và Giám mục đại diện của 26 giáo phận.
Hội Đồng Giám Mục hân hoan chào đón Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli, đại diện Đức Thánh Cha tại Việt Nam. Đức Tổng Giám mục vui mừng chuyển lời thăm và phép lành của Đức Thánh Cha Phanxicô tới Giáo hội tại Việt Nam, chúc mừng Ban Thường vụ mới của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, chia sẻ một số suy tư về Tông Huấn Niềm Vui của Tình Yêu (Amoris Laetitia) của Đức Thánh Cha Phanxicô .
Đại hội vui mừng chào đón thành viên mới của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, tân giám mục phụ tá Tổng giáo phận thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời, chúc mừng Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo, tân giám mục chính tòa giáo phận Xuân Lộc.
Trong dịp Đại hội lần này, Hội Đồng Giám Mục:
1. Soạn thảo và công bố Thư Chung gửi cộng đồng dân Chúa.
2. Bầu Ban Thường vụ và Chủ tịch các Ủy ban trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam nhiệm kỳ 2016 - 2019.
Ban Thường vụ gồm có:
Chủ tịch: Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh
Phó Chủ tịch: Đức cha Giuse Nguyễn Năng
Tổng thư ký: Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Phó Tổng thư ký: Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên

Các Ủy ban trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam gồm có:
1/ Ủy ban Giáo lý Đức tin
Chủ tịch: Đức Tổng giám mục Phaolô Bùi Văn Đọc
2/ Ủy ban Kinh Thánh
Chủ tịch: Đức cha Giuse Võ Đức Minh
3/ Ủy ban Phụng tự
Chủ tịch: Đức cha Emmanuel Nguyễn Hồng Sơn
4/ Ủy ban Nghệ thuật thánh
Chủ tịch: Đức cha Matthêô Nguyễn Văn Khôi
5/ Ủy ban Thánh nhạc
Chủ tịch: Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
6/ Ủy ban Loan báo Tin Mừng
Chủ tịch: Đức cha Anphong Nguyễn Hữu Long
7/ Ủy ban Giáo sĩ Chủng sinh
Chủ tịch: Đức cha Antôn Vũ Huy Chương
Phó Chủ tịch: Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng
8/ Ủy ban Tu sĩ
Chủ tịch: Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Đệ
9/ Ủy ban Giáo dân
Chủ tịch: Đức cha Giuse Trần Văn Toản
10/ Ủy ban Truyền thông xã hội
Chủ tịch: Đức cha Giuse Nguyễn Tấn Tước
11/ Ủy ban Giáo dục Công giáo
Chủ tịch: Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo
12/ Ủy ban Mục vụ Giới trẻ - Thiếu nhi
Chủ tịch: Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Viên
13/ Ủy ban Văn hóa
Chủ tịch: Đức cha Giuse Vũ Duy Thống
14/ Ủy ban Công lý - Hòa bình
Chủ tịch: Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp
15/ Ủy ban Mục vụ Gia đình
Chủ tịch: Đức cha Giuse Châu Ngọc Tri
16/ Ủy ban Bác ái Xã hội - Caritas
Chủ tịch: Đức cha Tôma Vũ Đình Hiệu
17/ Ủy ban Mục vụ Di dân
Chủ tịch: Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng
3. Chia sẻ mục vụ của các giáo phận và các Ủy ban trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
4. Chia sẻ niềm vui về ngày khai giảng khóa Cao học thần học của Học viện Công giáo Việt Nam ngày 14/9/2016 và những thao thức về nhân sự, cơ sở vật chất, ngân quỹ cho Học viện.
5. Lắng nghe Ủy ban Giáo sĩ - Chủng sinh trình bày dự án Trung Tâm Tĩnh Dưỡng Giáo Sĩ tại Đam-Bri, Bảo Lộc, Lâm Đồng.
6. Thảo luận về sinh hoạt phong phú của phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể.
7. Trao đổi và góp ý về cơ cấu tổ chức của Hội Thừa Sai Việt Nam.
Những vấn đề khác cũng được chia sẻ như:
- Việc xây dựng Vương Cung Thánh Đường tại Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ La Vang;
- Khóa bồi dưỡng cho các giám mục mới chịu chức được tổ chức tại Rôma, từ ngày 4 đến 17/9/2916;
- Đại hội tu sĩ tại Rôma từ ngày 28 đến 30/10/2016;
- Đại hội toàn thể lần thứ 11 của Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) tại Colombo, Sri Lanka, từ ngày 29/11 đến ngày 4/12/2016;
- Lễ phong chân phước tử đạo tại Vientian, Lào, ngày 11/12/2016;
- Hội nghị Kinh Thánh của Đông Nam Á sẽ được tổ chức tại Nha Trang từ ngày 17 đến 23/7/2017;
- Hoạt động của tổ in ấn.
Nhân dịp này, cha Gioan Baotixita Ngô Đình Tiến, thư ký giáo tỉnh Huế xin nghỉ vai trò thư ký vì công việc của giáo phận, cha Phêrô Maria Trần Huy Hoàng, giáo phận Nha Trang sẽ thay thế.
Hội Đồng Giám Mục ấn định Hội nghị thường niên kỳ I/2017 sẽ được tổ chức tại Tòa Giám mục Nha Trang, từ ngày 24 đến 28/4/2017.
Trung Tâm Mục Vụ TGP. TP. HCM ngày 07/10/2016

Nguồn: WHĐ
************


 CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: Xh 17, 8-13; 2Tm 3,14 – 4,2; Lc 18, 1-8

MỤC LỤC
1. Cầu nguyện
2. Cầu nguyện
3. Cầu nguyện – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Tâm hồn phải sâu rộng, cầu nguyện mới đắt lời
5. Dân chúng và linh mục cùng nhau cầu nguyện
6. Cầu nguyện với đôi tay rộng mở - McCarthy
7. Cầu nguyện không ngừng - McCarthy
8. Kiên nhẫn trong lời cầu
9. Kiên nhẫn cầu nguyện – Lm. Jos. Tạ duy Tuyền
10. Cầu nguyện
11. Cầu nguyện
12. Cầu nguyện
13. Thiên Chúa sẽ ban cho tôi điều tốt nhất
1. Cầu nguyện.
Có một bác nông phu ra tỉnh, chẳng may bị đụng xe, và trở nên mù loà. Các bác sĩ chuyên môn về mắt cho biết: Không thể nào chữa lành được nữa. Lúc đó, bác vừa tròn năm mươi tuổi và là cha của một gia đình gồm bà vợ và bảy đứa con. Dầu vậy bác không mất lòng cậy trông, trái lại bác luôn tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa, đồng thời kiên tâm cầu nguyện... Trong suốt ba năm liền, mỗi ngày bác đều tham dự thánh lễ và rước lễ. Ngày kia, sau khi rước lễ, bác cảm thấy vui mừng trong lòng và khi đứng dậy ra về, thì bỗng bác được khỏi, cặp mắt nhìn rõ mọi vật như khi trước. Nước mắt trào dâng, bác chạy lại bàn thờ quỳ gối tạ ơn Chúa.
Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng cần phải cầu nguyện luôn và đừng ngã lòng. Ngài đưa ra hình ảnh một ông quan toà không kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người ta. Thế rồi một bà goá đến tìm ông và đòi cho được xét xử công bằng lần này qua lần khác. Vị quan toà từ chối bà lần này, thì bà lại đến vào một lần khác. Sau cùng để khỏi bị quấy rầy, vị quan toà đã nghe bà và minh oan cho bà. Rồi Ngài đã kết luận: Thiên Chúa sẽ lắng nghe và nhận lời chúng ta nếu như chúng ta biết kiên tâm cầu nguyện.
Có một sự khác biệt sâu xa giữa vị quan toà bất lương và Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời là Đấng đầy lòng thương xót, đó là vị quan toà vì không muốn bị quấy rầy mà phải thuận theo lời yêu cầu để người goá phụ không tới nữa. Thiên Chúa thì khác, Ngài hằng khao khát và luôn lắng nghe lời chúng ta van xin, cho dù Ngài thường để họ phải tiếp tục kêu cầu trong một thời gian nào đó. Và như thế, kiên trì vốn là một yếu tố căn bản của lời cầu nguyện. Đừng bỏ cuộc, trái lại hãy tiếp tục cầu xin, ngay cả khi không còn hy vọng. Đó là bài học quý giá Chúa Giêsu muốn đưa ra cho chúng ta hôm nay.
Nhiều người trong chúng ta giống như chàng thanh niên đến gặp vị linh mục, khi gặp phải điều khó khăn. Vị linh mục hỏi anh đã cầu nguyện chưa, anh trả lời: Thưa cha con đã cầu nguyện. Được mấy lần rồi. Thưa cha được một lần. Vị linh mục mới nói với anh hãy tiếp tục cầu nguyện. Cầu nguyện luôn mãi đừng nản lòng như Chúa Giêsu đã dạy. Đó là lý do hối thúc người công giáo chúng ta cầu nguyện hằng ngày. Chúng ta cầu nguyện vào ban sáng, ban tối và trước mỗi bữa ăn. Chúng ta thường xuyên đọc kinh Kính Mừng như muốn nhờ Mẹ Maria cầu nguyện thay cho chúng ta lúc này và trong cơn hấp hối. Chúng ta đọc kinh Lạy Cha mỗi ngày để xin Chúa ban xuống cho chúng ta những ơn lành hồn xác. Chúng ta đi tham dự Thánh lễ ngày thường cũng như ngày Chúa nhật. Thế nhưng chúng ta đừng quên rằng: Cầu xin chỉ là một trong những tâm tình của việc cầu nguyện mà thôi, bởi vì khi đến với Chúa trong tâm tình cầu nguyện, chúng ta còn phải thờ lạy và cảm tạ Chúa nữa.
Sự cầu nguyện được ví như một chiếc máy vô tuyến thiêng liêng, nhờ đó chúng ta được liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa mà lãnh nhận được những trợ giúp cần thiết.

2. Cầu nguyện
Cô giáo trẻ, phụ trách một lớp học, trong đó có một em thật ngang bướng ngỗ nghịch, tựa hồ như một con ngựa chứng trong sân trường. Sáng hôm ấy, cô giáo đến sớm và đang ngồi viết, thì Bình, tên em học trò ngang bướng ấy, xuất hiện và hỏi: Cô viết cái chi vậy? Cô trả lời: viết lời nguyện gởi cho Chúa đây. Ngài có thể làm được mọi sự, kể cả việc nhận lời cầu xin này. Cô giáo kẹp lời nguyện ấy vào trong một cuốn vở. Lợi dụng lúc cô giáo viết bài, Bình đã chớp mẩu giấy ghi lời cầu nguyện bỏ vào trong cuốn vở của mình.
Mười hai năm sau, tình cờ trong lúc dọn nhà, Bình tìm lại được mẩu giấy ngày xưa với nét chữa đã bị nhạt nhoà...Thế nhưng, vì cô giáo dùng loại tốc ký, nên Bình không thể đọc được. Anh bỏ mẩu giấy ấy vào trong ví rồi đi đến công sở. Tại đây anh nhờ cô thơ ký đọc giùm. Cô thơ ký nói: Tôi sẽ đánh máy và để trên bàn giấy của anh vì tôi nghĩ đây là chuyện riêng tư.
Trên đường về và suốt buổi tối hôm đó, anh cứ đọc đi đọc lại lời cầu nguyện của cô giáo: Lạy Chúa, xin đừng để con bị thất bại trong nghề nghiệp con đã chọn lựa... Nhưng con không thể nào thành công nếu như em Bình cứ phá bĩnh hoài. Xin Chúa hãy thúc giục tâm hồn em, để em trở nên một người rất tốt hoặc là rất xấu.
Lời cầu nguyện này đã đánh động anh để rồi anh xoá bỏ một số hành động mờ ám mà anh đã định thực hiện. Anh tìm đến cô giáo cũ và nói cho cô hay là lời cầu nguyện năm xưa của cô đã làm thay đổi cuộc đời anh.
Từ câu chuyện trên và nhất là từ đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta rút ra được hai điểm liên quan đến việc cầu nguyện của chúng ta:
Điểm thứ nhất đó là lời cầu nguyện có một năng lực to lớn, ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời chúng ta. Bác sĩ Carel, người đã từng đoạt giải Nobel, đã viết như sau: Cầu nguyện là hình thức năng lực hùng mạnh nhất mà con người có thể phát sinh ra, ành hưởng trên tâm hồn và thân xác chúng ta, không khác gì hấp lực của trái đất.
Điểm thứ hai đó là hãy kiên trì trong lời cầu nguyện của mình. Hình ảnh của Maisen qua bài đọc thứ nhất đã là một mẫu gương cho chúng ta noi theo, mặc dù mệt mỏi, Maisen vẫn cứ kiên trì cầu nguyện, nhờ sự giúp đỡ của bè bạn ông. Một em nhỏ đã kể lại cho bè bạn biết sở dĩ cậu ta có thể kiên trì cầu nguyện mỗi ngày là vì có bà mẹ giúp đỡ. Họ đồng ý với nhau là: mỗi sáng cả hai cùng thức dậy cùng một giờ, rồi mỗi người cầu nguyện riêng 15 phút trong phòng mình, đoạn cùng nhau ăn sáng, rồi bà mẹ thì đi lo công việc của mình, còn cậu thì đi đến trường. Cậu bé nói điều đã giúp cho cậu rất nhiều, đó là biết được rằng đang khi cậu cầu nguyện trong phòng mình, thì mẹ cậu cũng đang cầu nguyện trong phòng của bà.
Để thực hiện sự kiên trì trong việc cầu nguyện, chúng ta cần có một thời khoá biểu, một chương trình sống, ấn định những giờ giấc cầu nguyện đều đặn mỗi ngày, giống như hai mẹ con cậu bé đã làm.
Để kết luận, chúng ta ghi nhận một hình ảnh về sự cầu nguyện. Chúng ta có thể nói: Cầu nguyện chính là một chiếc máy vô tuyến thiêng liêng, nhờ đó mà chúng ta liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa, để lãnh nhận được những sự trợ giúp cần thiết.

3. Cầu nguyện – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
Đây là một dụ ngôn dễ hiểu. Chúa Giêsu đưa ra hai tình ảnh trái ngược. Một bên là bà goá nghèo khổ, bé nhỏ, không có tiếng nói trong xã hội. Một bên là ông quan toà bất nhân, chẳng sợ trời mà cũng chẳng nể người. Thật là một hoàn cảnh tuyệt vọng cho người phụ nữ không có tiếng nói. Nhưng nhờ kiên trì, bà đã đạt được ý nguyện. Chúa kể dụ ngôn này với mục đích: dạy các môn đệ hãy noi gương bà goá, cầu nguyện luôn không được nản chí. Bà goá nêu gương cầu nguyện cho ta ở 4 thái độ sau:
1. Thái độ khiêm nhường. Người đàn bà này rất khiêm nhường vì bà tự biết mình bé nhỏ nghèo hèn. Bị người ta ức hiếp mà chẳng thể tự bảo vệ. Không có sức khoẻ để chống lại người ác. Không người bênh vực chống lại bất công. Không có cả tiền bạc để mua lấy sự bình an. Bà mất tất cả. Chẳng còn gì. Chẳng có gì. Nói gương bà, khi cầu nguyện ta phải rất khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết mình nghèo nàn yếu đuối, biết mình chỉ là thân phận tro bụi. Khiêm nhường biết mình đã cùng đường, không còn nơi nương tựa. Khiêm nhường biết mình bất tài bất lực không thể thoát khỏi hoàn cảnh bi đát này.
2. Thái độ phó thác. Bà goá này không còn nơi nương tựa. Chỉ còn trông cậy vào ông quan toà như lối thoát duy nhất. Bà đặt niềm tin vào ông quan toà. Đó là niềm hy vọng duy nhất và cuối cùng. Bà bám víu lấy ông quan toà. Bà phó thác vận mạng trong tay ông quan toà. Sự sống của bà ở nơi ông quan toà. Cũng thế, khi ta cầu nguyện, hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh cho Chúa. Chúa là lối thoát duy nhất. Chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp ta. Hơn nữa Chúa là người Cha toàn năng và giầu lòng thương xót. Ta là đứa con bé nhỏ, yếu ớt. Hãy đặt vận mệnh ta trong tay Chúa. Hãy tin tưởng Chúa sẽ sắp xếp cho ta những gì tốt đẹp nhất.
3. Thái độ kiên trì. Chỉ còn một con đường duy nhất để sống, nên bà kiên trì theo đuổi cho đến cùng. Thất bại không làm bà nản lòng. Bị hất hủi không làm bà bỏ cuộc. Niềm tin của bà thật lớn lao. Sự kiên trì của bà thật bền bỉ. Bà đã đi đến cùng và bà đã thành công. Cũng thế, khi cầu nguyện ta hãy kiên trì. Kiên trì chứng tỏ sự phó thác trong tay Chúa. Kiên trì chứng tỏ ta hoàn toàn yếu hèn chỉ biết trông cậy vào Chúa. Kiên trì chứng tỏ lòng ta yêu mến Chúa tha thiết. Chắc chắn Chúa sẽ dủ lòng thương ta.
4. Thái độ khao khát. Bà khao khát vì đó là con đường sống duy nhất. Bà khao khát được sống. Bà không ngồi đó chờ đợi. Nhưng làm hết cách, hết sức mình để đạt được khao khát đó. Bà không chán nản an nghỉ. Nhưng bà làm việc liên lỉ cho ước nguyện của mình. Cũng thế, khi cầu nguyện ta phải có lòng khao khát cháy bỏng. Lòng khao khát đó được biểu lộ trong hành động. Ta không ngồi chờ, nhưng đứng lên, ra đi và bắt tay hành động. Không lùi bước trước khó khăn, nhưng tìm hết cách để đạt được ước nguyện. Lòng khao khát chứng tỏ ta tha thiết với lời cầu nguyện. Lòng khao khát cùng với nỗ lực phấn đấu sẽ được Chúa thương chấp nhận.
Chiêm ngắm tấm gương của bà goá, ta nhận thấy rất nhiều khi ta chưa cầu nguyện cho đủ. Chưa thực hiện sự khiêm nhường nhận biết sự thực về mình. Chưa hoàn toàn phó thác vận mệnh trong tay Chúa. Chưa biết kiên trì đủ. Và nhất là chưa tha thiết tới mức ta tích cực làm hết sức mình cho nguyện ước đó. Hôm nay với bài học của Chúa, ta sẽ biết cầu nguyện hơn. Khi biết cầu nguyện hơn, chắc chắn lời cầu nguyện của ta sẽ đẹp lòng Chúa và đem lại nhiều lợi ích cho linh hồn ta hơn.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Kể ra những thái độ của bà goá mà ta cần noi theo khi cầu nguyện.
2. Đối với bạn Chúa là gì? Có phải là nguồn hy vọng duy nhất? Hay chỉ là một chỗ cậy nhờ như những chỗ khác?
3. Bạn có phấn đấu làm việc cho ước nguyện của mình không? Hay bạn chỉ ngồi chờ Thiên Chúa ban tặng?
4. Trong 4 thái độ cần có, bạn thiếu thái độ nào nhất?

4. Tâm hồn phải sâu rộng, cầu nguyện mới đắt lời.
(Trích dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật' – Achille Degeest)
Trong Phúc âm theo thánh Luca, dụ ngôn này đi liền sau một bài giảng của Đức Kitô về ngày tận thế, có lẽ vì vậy câu cuối đoạn Phúc Âm hôm nay là "Tuy thế, Con Người đến sẽ còn gặp được niềm tin trên trái đất nữa không?". Có lẽ nhân vật thẩm phán bạc ngược được dùng để làm nổi bật một sự tương phản. Bên này là một kẻ không có tình người, bên kia là Đấng Thượng Đế tuyệt đối nhân hậu. Nếu như kẻ bạo ngược chán chê mới nhận lời nài xin của bà goá chỉ vì muốn được yên thân với lòng ích kỷ của mình, tại sao Thiên Chúa, Đấng vô cùng nhân hậu, không tức khắc nhận lời cầu xin của con cái Người? Theo nhận xét bề ngoài, dụ ngôn nếu vấn đề thời hạn Thiên Chúa đặt ra để nhận lời chúng ta cầu xin. Vấn đề khác sâu sắc hơn: Thiên Chúa nhận lời, điều ấy nghĩa là gì? Khi chúng ta xin Thiên Chúa một điều rõ rệt, chẳng hạn xin lương thực hằng ngày, chúng ta có biết rõ tính chất sâu sắc bí ẩn của điều chúng ta xin không? Chúng ta có nhận thức không về tầm mức điều Thiên Chúa nhận lời ban cho, vì Thiên Chúa bao giờ cũng nhận lời? Chúng ta là những sinh vật sống trong giới hạn thời gian chúng ta đo bằng ngày giờ, bằng hiện tại và tương lai. Những ước vọng của chúng ta, tức là những lời cầu nguyện, hướng lên Thiên Chúa. Chúng ta sốt ruột nến phải chờ đến ngày mai, chúng ta muốn được thoả mãn ngay hôm nay, ngay tức khắc. Vậy mà Thiên Chúa nhìn chúng ta ở ngoài giới hạn thời gian ấy, Người nhận lời chúng ta tuỳ theo viễn ảnh toàn bộ định mệnh chúng ta, bây giờ và trong tương lai. Thiên Chúa vượt ra ngoài cái hiện tại trước mắt. Chúng ta ghi nhận hai điều sau:
1) Tại sao Thiên Chúa luôn luôn nhận lời? Bởi vì Người là Cha vô cùng nhân lành. Niềm tin chắc Thiên Chúa nhận lời cầu khẩn chính là một trong những cột trụ vững chắc nhất đời sống Kitô giáo. Nghi ngờ điều ấy là tội phạm đến đức cậy. Điều ấy quá đúng đến nỗi lời cầu nguyện của chúng ta không cần dài dòng vì Thiên Chúa biết trước biết rõ hơn chúng ta điều gì cần cho chúng ta. Thế mà Thiên Chúa là Cha chúng ta, luôn luôn sẵn sàng ban cho rất hậu tất cả những điều chúng ta cần. Toàn bộ Phúc Âm khẳng định sự thật ấy. Nếu vậy tại sao phải cầu nguyện? Cầu nguyện phải chăng là không cần thiết?
2) Bởi lẽ Thiên Chúa dựng nên chúng ta, những tạo vật có tự do, Người không bắt buộc chúng ta nhận lãnh ân huệ của Người cách miễn cưỡng. Thiên Chúa chỉ đáp ứng những nguyện vọng bày tỏ cách tự do. Lượng nhân hậu của Thiên Chúa đáp ứng quá lời cầu xin của chúng ta, nhưng Người muốn chúng ta phải cầu xin. Tại sao chúng ta thấy hình như Thiên Chúa rất nhiều phen để lâu mới trả lời. Sở dĩ như vậy vì nguyện vọng nung nấu và cầu nguyện bền bỉ mở rộng khả năng lòng trí chúng ta. Cầu nguyện hữu ích trước hết cho chúng ta, cầu nguyện đào sâu mở rộng tâm hồn. Thế mà Đấng nhân hậu vô biên cần có những tâm hồn sâu rộng... Hơn nữa, khi thấy Chúa mãi chưa cho, phải chăng Người có tham vọng sẽ ban chính mình Người cho chúng ta?

5. Dân chúng và linh mục cùng nhau cầu nguyện
(Trích trong 'Mở Ra Những Kho Tàng' - Charles E. Miller)
Thật là dễ dàng để bứt đứt một sợi chỉ nhưng khi đặt một ngàn sợi chỉ cùng với nhau trong một sợi dây bện thì thật khó mà cắt chúng ra làm hai. Cầu nguyện thì cũng giống như thế. Khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện, đặc biệt là trong khi cử hành phụng vụ, lời cầu nguyện của chúng ta có một sức mạnh vô song. Thiên Chúa rất hài lòng với lời cầu nguyện này. Khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện, Thiên Chúa là Cha của chúng ta sẵn sàng đoái nhìn chúng ta trong Con yêu dấu của Người, là Đầu của Thân Thể, Giáo Hội của Người. Lời cầu nguyện cùng nhau trong phụng vụ như là thân mình của Đức Kitô, là lời cầu nguyện tốt đẹp nhất.
Bài đọc đầu tiên của ngày hôm nay biểu hiện được lời cầu nguyện phụng vụ chung này, Môsê cần sức mạnh để tiếp tục cầu nguyện trong cuộc chiến đấu với người Amalếch. Bao lâu Môsê đưa hai tay lên cầu nguyện thì dân Israel chiến thắng, nhưng khi ông buông tay xuống thì người Amalếch lại phản hồi và chiến thắng. Tiếp đó, Aaron, người anh em của Môsê và Hur bạn của ông đã giúp ông giữ cánh tay luôn luôn ở trong tư thế cầu nguyện, bởi đó dân Israel đã chiến thắng cuộc chiến.
Môsê và đôi tay giơ lên trong tư thế cầu nguyện thì giống như linh mục ngày hôm nay với đôi tay dâng lên cầu nguyện trong phụng vụ của Thánh Lễ. Linh mục sẽ không còn mệt mỏi như Môsê đã mệt mỏi xưa kia vì mọi người trong Thánh Lễ đã cùng hiệp lòng, cùng nâng bàn tay và cánh tay của linh mục. Giáo dân và linh mục đã cùng cầu nguyện với nhau. Linh mục sẽ không cầu nguyện cho chính ngài, ngài là vị lãnh đạo, là chủ tịch, là người thay thế và đại diện cho giáo dân, cho toàn dân. Đó là thời gian mà linh mục và giáo dân nói hoặc hát cùng với nhau như trong kinh Vinh danh hoặc trong những lời tuyên xưng. Tiếp đó giáo dân đáp lại những lời cầu nguyện mà vị linh mục đã xướng trên mọi người. Giáo dân lắng nghe cách chăm chú và cầu nguyện trong tâm hồn họ, đặc biệt là trong suốt kinh nguyện Thánh Thể.
Tư tế linh mục là dấu hiệu hợp nhất của phụng vụ, điều đó được tỏ hiện qua lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa như là một dân duy nhất. Tất cả chúng ta như hằng ngàn sợi chỉ đã hình thành trong một sợi dây thừng. Không chỉ vị linh mục nơi Thánh Lễ, nhưng là mọi người đều cần thiết và xứng đáng để nâng đỡ những người bạn Công giáo, đặc biệt là sự trung thành trong lời cầu nguyện khi chúng ta cảm thấy Thiên Chúa không đáp lời chúng ta. Chúng ta tin rằng sự giúp đỡ của chúng ta đến từ Thiên Chúa nhưng có lúc khó mà hành động theo như niềm tin của chúng ta.
Chúa Giêsu hiểu sự yếu đuối của chúng ta. Đó là lý do vì dao Ngài đã nói với chúng ta về dụ ngôn sự cần thiết của cầu nguyện luôn luôn và đừng bao giờ mất hy vọng. Người góa phụ trong dụ ngôn là môt bằng chứng. Một bằng chứng về sự bền bỉ, bà đã bị từ chối, bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã không muốn chúng ta bỏ cuộc, không có vấn đề gì khó, hay mất bao lâu để chúng ta cầu nguyện cho một điều gì. Để chúng ta cùng nhau cầu nguyện trong suốt Thánh Lễ.
Chúng ta đến với Thánh Lễ với nhiều lý do, và có thể mọi người trong chúng ta đều được thúc đẩy bởi lý do riêng của mỗi người mà chúng ta cho là quan trọng nhưng trên hết chúng ta phải được cảnh báo để thực hành bài học của phụng vụ trong ngày hôm nay.
Là một người Công giáo, một thành phần của Giáo Hội, chúng ta có trách nhiệm hướng đến người khác. Aaron và Hur đã không bỏ rơi Môsê trong lúc ông mệt mỏi. Họ không nghĩ rằng Môsê cầu nguyện một mình hoặc họ phải chú ý tới những lời cầu nguyện riêng của họ. Thiên Chúa hài lòng với lời cầu nguyện đầy mạnh mẽ bởi vì chúng ta cầu nguyện với tất cả không phải như những cá nhân độc lập, nhưng là cùng nhau như những người Công giáo, những người của Giáo Hội được hợp nhất trong tinh thần và trong thân thể của Đức Kitô.

6. Cầu nguyện với đôi tay rộng mở - McCarthy
Đức Giêsu nói với các môn đệ và với chúng ta hôm nay "Hãy cầu nguyện không ngừng và không bao giờ nên chán nản". Từ khi còn thơ ấu, chúng ta được dạy rằng khi cầu nguyện phải chắp tay lại. Tuy nhiên, trong các kinh nguyện lớn của thánh lễ, vị linh mục mở rộng và dang thẳng đôi tay. Hai cách cầu nguyện đều tốt và có chỗ của chúng. Nhưng những cử chỉ khác nhau ấy có nghĩa là gì? Khi chắp tay lại, có nghĩa là trong lúc ấy chúng ta ngừng lại các hoạt động bình thường của chúng ta và dành thời gian để cầu nguyện Thiên Chúa. Điều này phù hợp với sự cầu nguyện riêng tư. Cầu nguyện với bàn tay mở rộng phù hợp với sự cầu nguyện chung. Cầu nguyện như thế là nhận rằng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta nghèo khó. Vì thế, chúng ta hướng bàn tay trống rỗng về Thiên Chúa như một người ăn mày hướng cái bát trống rỗng về những người khách bộ hành. Thật vậy, chúng ta đang nói: "Lạy Chúa, trước mặt Chúa, con nghèo khó như một người ăn mày. Con cầu Chúa làm đầy sự trống rỗng của con". Cử chỉ cầu nguyện với đôi tay mở rộng tạo nên một tình trạng mạnh mẽ. Tự nó là một bài thuyết giáo. Cử chỉ ấy có từ xa xưa trong Kinh Thánh. Có một ví dụ về điều đó trong bài đọc 1 của thánh lễ hôm nay. Chúng ta thấy Môsê ở trên đỉnh đồi cầu nguyện với đôi tay dang rộng trên dân Do thái, trong cuộc chiến đấu một mất một còn với quân Amalếch. Khi cánh tay ông hạ xuống, quân Amalếch thắng thế. Nhưng khi ông giữ tay giương cao, quân Do thái thắng thế. Điều đó có ý muốn diễn tả quyền lực của sự cầu nguyện. Chừng nào mà dân Do thái còn đặt niềm tin vào Thiên Chúa, họ còn tiến lên. Chừng nào họ quên không nhìn đến Thiên Chúa, họ buộc phải rút lui.
Đức Giêsu khuyên chúng ta cầu nguyện luôn và không nản chí. Nếu chúng ta ngưng cầu nguyện, chúng ta hầu như mất nhiệt tình và bỏ cuộc. Nếu chúng ta cầu nguyện liên tục, chúng ta sẽ không bao giờ mất nhiệt tình. Cầu nguyện có nghĩa là đặt chính mình và số phận của mình trong đôi tay của Thiên Chúa. Chúng ta cầu nguyện có nghĩa là chúng ta trông cậy vào sức mạnh của Thiên Chúa chứ không phải sức mạnh của chúng ta. Khi chúng ta cầu nguyện một thứ quyền lực khác trở thành có hiệu lực đối với chúng ta.
Linh mục đọc Kinh nguyện trong thánh lễ với đôi tay rộng mở. Giống như Môsê, ông cầu nguyện không chỉ nhân danh ông mà nhân danh một cộng đoàn thờ phượng. Cho dù chính chúng ta không cầu nguyện giống như thế, chúng ta có thể có cùng một thái độ trước Thiên Chúa như kinh nguyện ấy gợi ý: một thái độ khiêm nhường và tín thác.
Một lời cầu nguyện được đáp lại, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta cầu xin, nhưng khi chúng ta được ban cho cảm thức về sự cận kề của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của một bệnh nhân được đáp lại không phải bởi bì bệnh của người ấy biến mất, nhưng bởi vì người ấy có được một cảm thức về sự kề cận của Thiên Chúa, sự bảo đảm rằng căn bệnh của người ấy không phải là một hình phạt của Thiên Chúa và Thiên Chúa không bỏ rơi người ấy. Cầu nguyện có thể không làm thay đổi thế giới cho chúng ta, nhưng nó có thể cho chúng ta lòng can đảm đối diện với thế giới.
Khi chúng ta học cách cầu nguyện, chúng ta không chỉ học cách đọc lời kinh mà còn học cách mở rộng lòng mình. Chỉ cần ngồi thật im lặng và mở lòng mình và để Thiên Chúa bước vào.

7. Cầu nguyện không ngừng - McCarthy
Đức Giêsu nói với các môn đệ và với chúng ta hôm nay "Hãy cầu nguyện không ngừng và không bao giờ nên nản chí". Một số người không nhận thấy giá trị của việc cầu nguyện thường xuyên. Họ nghĩ rằng chỉ cần cầu nguyện khi họ cảm thấy hứng thú. Và câu chuyện sau đây được kể lại cho những người như thế.
Trước đây có một thị trấn nhỏ có đủ mọi cơ sở của một thành phố tự trị: một nhà tắm, một nghĩa trang, một bệnh viện và một toà án. Nó cũng có mọi loại thờ thủ công: thợ may nam nữ, thợ giày, thợ mộc, thợ nề, vân vân... Tuy nhiên, thiếu một ngành nghề: không có thợ đồng hồ.
Giờ đây, nhiều năm trôi qua, nhiều năm trôi qua, nhiều đồng hồ không còn chính xác nữa đến nỗi các người có đồng hồ để cho đồng hồ họ ngưng chạy và hoàn toàn quên chúng. Tuy nhiên, có những người khác vẫn không vất bỏ đồng hồ, và để cho chúng chạy chừng nào chúng còn chạy được. Vì thế, họ đã lên dây đồng hồ mỗi ngày dù họ biết rằng chúng không còn chạy chính xác nữa.
Một ngày nọ, một tin lan ra khắp thị trấn: một người thợ đồng hồ đã đến. Mọi người chạy đến ông ta với những chiếc đồng hồ của họ. Nhưng chỉ những đồng hồ người ta còn để cho chạy, người thợ ấy mới sửa được. Những đồng hồ bị bỏ xó bụi bặm bám đầy, ông ta không thể làm gì với chúng.
Tại sao cầu nguyện lại quan trọng? Nó làm được điều gì? Cầu nguyện làm cho hy vọng và những ý định của chúng ta trở nên trong sáng. Nó giúp chúng ta phân biệt giữa điều quan trọng và tầm thường. Nó giúp chúng ta khám phá những khát vọng chân thật của chúng ta, những ray rứt mà chúng ta không biết, những ước mơ mà chúng ta quên lãng. Cầu nguyện là một hành động thanh luyện bản thân.
Cầu nguyện dạy chúng ta phải khao khát điều gì. Nó giúp vun đắp trong chúng ta những lý tưởng mà chúng ta phải trân trọng. Sự trong sạch của miệng lưỡi hiện ra như một ý tưởng trong trí óc chúng ta, nhưng ý tưởng trở thành một sự quan tâm, một điều gì đó phải được theo đuổi, một mục tiêu phải được đạt đến, khi ấy chúng ta cầu nguyện: "Lạy Chúa, xin giữ miệng lưỡi con không nói điều xấu và môi con không nói lời xảo trá".
Cầu nguyện không thay thế cho hành động. Đúng hơn, cầu nguyện giống như một luồng ánh sáng từ chiếc đèn ở phía trước chúng ta chiếu vào đêm tối. Nó giúp chúng ta tiến lên phía trước, nó khuyến khích chúng ta hành động.
Cầu nguyện không trốn tránh cuộc đời nhưng là một hành trình đi vào trung tâm của đời sống. Chúng ta học đứng vững trên đôi chân mình trước Thiên Chúa và thế giới, và chấp nhận mọi trách nhiệm về đời sống chúng ta.
Mục đích chính của đời sống ấy là nuôi dưỡng tương quan chúng ta với Thiên Chúa. Đây là điều quan trọng nhất trong mọi sự việc, chứ không phải việc chúng ta làm. Đó là cái neo trong đời sống tâm linh của chúng ta. Đời sống tâm linh không phải là một sự khác thường. Nó là đời sống của bản thân chân thật. Vấn đề không phải chỉ là đọc kinh.
Cầu nguyện không phải là một chiến thuật dùng khi hữu sự, một nơi trú ẩn được dùng đến khi sự việc trở nên tồi tệ. Nó là nơi cư trú được thiết lập cho cái tôi thâm sâu nhất. Cầu nguyện không phải là cầu xin Thiên Chúa cái này cái nọ mà nhận lãnh điều mà Người muốn ban cho chúng ta.
Cầu nguyện tự nó là một phần thưởng. Nó làm chúng ta trở nên phong phú và có khả năng sống không những tâm linh hơn mà sâu xa hơn, viên mãn hơn và đích thực hơn.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một lần kia, có một người thợ giày rất coi trọng việc cầu nguyện mỗi ngày. Khách hàng của ông ta đều là dân nghèo, và họ chỉ có mỗi một đôi giày. Người thợ giày phải nhận các đôi giày cần sửa vào chiều tối, sửa chữa chúng suốt đêm và sáng sớm giao hàng để các chủ nhân của chúng sẵn sàng sử dụng chúng lúc đi làm.
Điều này làm phát sinh một vấn đề: Ông sẽ đọc kinh sáng vào lúc nào? Có nên cầu nguyện thật nhanh vào sáng sớm và sau đó trở lại với công việc? Hoặc cứ để giờ cầu nguyện đã định trôi đi và mỗi lần như thế, ông ngừng tay búa đóng giày và thở dài: "Khốn cho tôi, tôi chưa cầu nguyện được".
Chúng ta cũng thường gặp sự nan giải ấy vì phải lựa chọn hoặc sự hối tiếc trong lòng hoặc cầu nguyện đại khái chiếu lệ. Nhiều người trong chúng ta cố nén việc cầu nguyện thường ngày với lòng hối tiếc để chờ có được những điều kiện lý tưởng.
Nhưng sự kiềm chế, trì hoãn mãi có thể dễ dàng trở thành một thói quen. Khi giờ cầu nguyện đến, dường như miệng lưỡi chúng ta mệt mỏi, trí óc chúng ta trì trệ và cái nhìn nội tâm của chúng ta mờ tối. Vì thế, chúng ta không cầu nguyện. Chúng ta không từ khước cầu nguyện; chúng ta kiềm chế. Sự nuông chiều bản thân phù phiếm này ngăn cản chúng ta dìm mình vào sự tĩnh mịch bao quanh thế giới, sự tĩnh mịch trước lúc chúng ta sinh ra và đi theo chúng ta khi chúng ta chết.
Tại sao chúng ta không dành một giờ sống thân mật với Thiên Chúa và quay về với sự thính lặng tĩnh mịch ấy? Chúng ta ở trên ranh giới của sự mầu nhiệm mà mình không biết.

8. Kiên nhẫn trong lời cầu
Qua đoạn tin mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ hai điểm, đó là hãy cầu nguyện và cầu nguyện trong kiên nhẫn.
Trước hết là hãy cầu nguyện.
Người xưa có câu:
- Hữu cầu tất hữu ứng.
Câu này thực đúng với lời Chúa Giêsu đã nói:
- Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy và hãy gõ cửa thì sẽ mở cho.
Chỉ cần đọc lại Phúc âm, chúng ta sẽ thấy được sự thật ấy.
Ngày kia, có một viên đội trưởng đến xin Chúa chữa lành cho đứa con đau yếu tại nhà. Chúa bảo:
- Ta sẽ đi chữa nó.
Nhưng viên đội trưởng liền thưa lại:
- Lạy Thầy, con chẳng đáng Thầy ngự vào nhà con, nhưng xin Thầy phán một lời, tức thì đứa nhỏ nhà con sẽ lành mạnh.
Chúa Giêsu đã khen ngợi đức tin của ông và đã chữa lành cho đứa con của ông.
Cũng trong lúc ấy, có một người phong cùi đến quỳ dưới chân Chúa mà van xin:
- Lạy Thầy, nếu Thầy muốn, Thầy có thể làm cho con được sạch.
Và Chúa Giêsu đã nói với anh:
- Ta muốn, con hãy nên lành sạch.
Thái độ dễ dàng của Chúa Giêsu không có chi là khó hiểu vì Ngài là Đấng quyền năng và giàu lòng thương xót.
Thực vậy, là một người giàu có, sẵn tiền trong tay, đồng thời lại là người quảng đại và bác ái, nếu gặp một kẻ nghèo khổ đến xin giúp đỡ, hẳn chúng ta sẽ không ngần ngại bố thí.
Là con người xấu xa, chúng ta còn biết đối xử với nhau như vậy, huống nữa là Thiên Chúa. Ngài vừa giàu về quyền năng, lại vữa giàu về lòng thương xót. Chính Chúa Giêsu cũng đã nói cho chúng ta biết điều ấy:
- Ai trong các ngươi lại cho đá thay vì bánh, cho rắn thay vì cá khi con cái các ngươi van xin. Là những kẻ xấu xa, các ngươi còn biết đem của tốt mà cho con cái, phương chi là Cha các ngươi ở trên trời, là Đấng tốt lành vô cùng.
Và rồi Ngài đã kết luận:
- Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy và hãy gõ cửa thì sẽ mở cho.
Điều cần thiết đó là chúng ta có xin, có tìm và có gõ cửa hay không?
Tuy nhiên, Chúa còn đòi hỏi chúng ta phải kiên nhẫn trong lời cầu của mình.
Thực vậy, người đời thường bảo:
- Ngồi lâu câu bền, năng nhặt chặt bị.
Chính Chúa Giêsu cũng nói:
- Ai bền đỗ đến cùng thì sẽ được cứu rỗi.
Hẵn chúng ta còn nhớ câu chuyện về người đàn bà xứ Canaan. Bà tới xin Chúa Giêsu làm phép lạ cho đứa con gái bị quỉ ám. Lần thứ nhất, Chúa yên lặng. Lần thứ hai, Chúa cũng vẫn yên lặng đến nỗi các môn đệ phải can thiệp:
- Xin Thầy làm phứt đi cho bà kẻ bà cứ lải nhải đi theo chúng ta,
Thế nhưng, Chúa đã đáp lại bằng một câu không ai ngờ tới:
- Đừng lấy bánh của con cái mà ném cho chó.
Dầu vậy, bà vẫn không thất vọng nản chí, bà thưa lên cùng Chúa:
- Ít nữa là chó con cũng được ăn những mảnh vụn từ bàn rơi xuống.
Và Chúa Giêsu đã khen ngợi sự kiên nhẫn của bà và đã cứu chữa đứa con gái của bà.Thánh nữ Monica cũng đã từng kiên nhẫn cầu nguyện trong nức mắt và khổ đau suốt nhiều năm, cuối cùng Augustinô đã làm lại cuộc đời và trở nên một vị thánh. Hãy cầu xin và cầu xin trong kiên nhẫn, chắc chắn Chúa sẽ nhận lời chúng ta.

9. Kiên nhẫn cầu nguyện – Lm. Jos. Tạ duy Tuyền
Người có tôn giáo luôn gắn liền với cầu nguyện. Cầu nguyện là hơi thở, là sự sống của người tín hữu. Vậy cầu nguyện là gì?
Cầu nguyện theo thánh Augstinô là thưa chuyện với Chúa, như một người con hiếu thảo thưa chuyện với cha mẹ, hoặc như hai người bạn chân tình tâm sự với nhau.
Vâng, nếu hiểu cầu nguyện là một cuộc tâm sự, là một cuộc trò chuyện, thì quả thực cầu nguyện là một điều rất dễ dàng và dành cho mọi người, chứ không phải chỉ dành riêng cho các linh mục, tu sĩ hay những người trí thức.
Mỗi người trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm về những lần trò chuyện, trao đổi tâm sự với người khác. Vậy chúng ta đã thường hay nói những gì?
Tôi xin thưa:
- Nếu là bè bạn thân thích, chúng ta có thể nói tới mọi sự: sự vui cũng như sự buồn, sự trong nhà cũng như sự ngoài ngõ, sự quan trọng cũng như sự tầm phào. Nói chung nếu là bạn bè chúng ta có rất nhiều điều để tâm sự với nhau, để kể cho nhau...
Khi đến với Chúa, chúng ta cũng có thể trình bày về những niềm vui, những nỗi buồn, những đắng cay và những băn khoăn lo lắng chúng ta đã gặp phải. Và chắc chắn khi niềm vui được chia sẻ, thì niềm vui sẽ được nhân rộng hơn lên. Nỗi buồn được chia sẻ, nỗi buồn sẽ vơi đi. Chính những lời kinh xuất phát từ giữa lòng cuộc đời, từ những biến cố xảy ra hằng ngày, sẽ dễ làm cho chúng ta cầm trí và tránh đi thói quen máy móc chiếu lệ trong cầu nguyện.
Tuy nhiên, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện trong kiên trì và tín thác. Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi những ai kêu cầu Người, nhất là những người thấp hèn, bé nhỏ, miễn là biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa.
Thánh nữ Monica đã luôn cầu xin Chúa cho đứa con hoang đàng của mình là Augustinô. Hằng ngày bà khóc lóc, ăn chay và hãm mình. Một hôm quá thất vọng, bà đã đến hỏi ý kiến thánh Ambrôsiô và thánh giám mục đã trả lời:
- Bà hãy yên trí, đứa con của biết bao nhiêu nước mắt sẽ không thể nào hư mất.
Mười tám năm đằng đẵng, sau cùng Augustinô mới trở lại.
- Như vậy, cầu nguyện là một việc rất dễ dàng mà bất cứ ai cũng đều có thể và phải làm được. Nhưng cầu nguyện không phải là chúng ta đòi Thiên Chúa làm theo ý chúng ta mà là để xin được theo ý Chúa với một lòng tin tưởng cậy trông tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Đức Hồng Y Jaime Sin, Tổng giám mục Manila, Phi Luật Tân, thường trích dẫn bài thơ của một tác giả vô danh trong các bài giảng của Ngài. Bài thơ ấy như sau:
Tôi đã xin Chúa cất khỏi sự kiêu hãnh của tôi và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng không phải Ngài là người cất khỏi mà chính tôi mới là người phấn đấu để vượt thắng nó.
Tôi đã xin Chúa làm cho đứa con tàn tật của tôi được lành lặn và Chúa trả lời: "Không". Ngài nói rằng tinh thần mới lành lặn, còn thể xác chỉ là tạm bợ.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi sự kiên nhẫn và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng kiên nhẫn là hoa trái của thử thách. Ngài không ban cho tôi trái ấy mà để tôi tự tìm lấy.
Tôi đã xin Chúa ban cho tôi được hạnh phúc và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng Ngài ban ân phúc cho tôi, còn hạnh phúc hay không là tùy tôi.
Tôi đã xin Chúa gia tăng tinh thần cho tôi và Chúa đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng tôi phải tự lớn lên, nhưng Ngài sẽ cắt tỉa để tôi mang nhiều hoa trái.
Tôi đã xin Chúa đừng để tôi đau khổ và Ngài đã trả lời: "Không". Ngài nói rằng đau khổ là cho tôi được xa cách với những vướng bận trần gian và mang tôi đến gần Ngài.
Tôi đã hỏi: "Liệu Ngài có yêu tôi không" và Ngài đã trả lời rằng: "Có". Ngài nói rằng Ngài đã ban cho tôi Người Con Một, Đấng đã chết vì tôi và một ngày nào đó, tôi sẽ được lên Thiên đàng vì tôi đã tin.
Tôi đã xin Chúa giúp tôi yêu mến tha nhân như Ngài yêu thương tôi và Chúa nói: "Cuối cùng con đã xin đúng điều ta chờ đợi".
Nguyện xin Chúa ban thêm lòng tin để chúng ta luôn kiên nhẫn trong lời cầu nguyện và tín thác vào sự quan phòng của Chúa. Amen.

10. Cầu nguyện
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về một vị thẩm phán không liêm khiết khi có một bà góa đến xin ông xử việc cho mình. Kết luận của dụ ngôn là nếu vị thẩm phán bất lương đã không quan tâm gì đến bổn phận, không kính sợ Thiên Chúa và cũng chẳng sợ ai, nhưng sau cùng phải xét xử cho bà góa để khỏi bị quấy rầy nhiều lần. Chỉ có Chúa là Đấng thánh và công bình, chắc chắn Ngài sẽ nghe lời cầu xin thiết tha của con cái mình.
Một câu hỏi người thời nay thường đặt ra đối với việc cầu nguyện là: "Cầu nguyện có ích gì không?" Nếu hiểu cầu nguyện là xin ơn mà thôi thì có thể nói cầu nguyện không cần thiết. Thiên Chúa không thay thế chúng ta trong những gì chúng ta phải làm vì bổn phận và trong những gì chúng ta có thể làm được. Việc xin các ơn huệ như sức khỏe, hạnh phúc, thành công, giàu có không phải là mục đích và lý do hay nhân tố duy nhất của việc cầu nguyện. Nếu chỉ nhấn mạnh đến các khía cạnh như vậy mà thôi thì không hiểu chút gì về cầu nguyện, tức là đánh giá việc cầu nguyện theo tư lợi và ích kỷ.
Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện trong kinh Lạy Cha, Ngài dành phần thứ nhất gồm lời cầu xin cho Thiên Chúa: "Nguyện cho danh Cha được hiển vinh, nước Chúa được lan rộng và thánh ý Ngài được tuân theo". Sang phần thứ hai dành cho chúng ta, lời cầu xin có tính cách vật chất và tinh thần như xin cơm bánh hằng ngày để nuôi thể xác và xin bánh Lời Chúa và Bánh Thánh Thể để nuôi linh hồn. Còn tất cả những lời cầu xin khác đều thuộc phạm vi thiêng liêng như xin tha thứ các tội nhân, xin ơn trung thành trong các cơn thử thách và cám dỗ, nhất là trong giờ sau hết. Sau cùng là xin ơn chiến thắng sự dữ và tà thần.
Cầu nguyện theo lời Chúa dạy không những có ích mà còn cần thiết nữa, bởi vì lời cầu nguyện như vậy là của nuôi linh hồn, bồi bổ đức tin và thánh hóa trần thế. Lời cầu nguyện đích thực là lời cầu nguyện Chúa Giêsu đã thực hành và dạy lại cho mỗi người chúng ta. Lời cầu nguyện này phát xuất bởi đức tin sống động được bày tỏ ra bên ngoài bằng các việc lành, đồng thời nuôi sống đức tin bên trong. Tất cả đời sống đức tin của người Kitô hữu phải là một việc cầu nguyện không ngừng. Vì thế, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta rằng: "Hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ nhàm chán".
Qua việc cầu nguyện liên lỉ này, chúng ta tiếp tục hiệp thông với nguồn mạch sự sống. Chính Thiên Chúa là Cha chúng ta, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta trong các khó khăn, chán nản, cô đơn, thất vọng, miễn sao chúng ta cứ tin tưởng vững chắc vào Ngài.
Lạy Chúa, Chúa là Cha chúng con, Chúa luôn trung thành với lời Chúa hứa và Ngài luôn luôn nhận lời những ai cầu xin với lòng tin vững chắc. Xin hãy lắng nghe tiếng van xin của chúng con, nhất là trong cơn thử thách của cuộc đời trần thế này.
Lạy Chúa Giêsu nhân lành, chúng con xin thú thực rằng, chúng con không biết cầu nguyện. Xin Chúa dạy chúng con cầu nguyện như Chúa đã dạy các môn đệ của Ngài xưa. Xin ban Thánh Linh cho chúng con, để Ngài giúp chúng con và chỉ dạy cho chúng con biết cách phải cầu nguyện như thế nào cho hợp thánh ý Ngài.

11. Cầu nguyện
Để giúp hiểu rõ hơn đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe qua của Chúa nhật 29 quanh năm hôm nay và cũng là Chúa nhật Truyền Giáo, chúng ta hãy nhớ lại đoạn Tin Mừng này được đặt nằm trong viễn tượng cánh chung là viễn tượng Chúa trở lại trong vinh quang vào giây phút cuối cùng của lịch sử khi mọi sự được nên trọn trong Chúa Kitô.
Cuộc đời của người tín hữu Chúa trên trần gian này là một cuộc hành trình khó khăn giữa nhiều thử thách, và để an toàn đạt đến cùng đích của cuộc lữ hành thì mỗi môn đệ Chúa phải kiên trì, phải trung thành trong đức tin cho đến khi Chúa lại đến. Và để kiên trì trong đức tin cho đến cùng thì mỗi đồ đệ của Chúa cần thực hành điều căn bản và quan trọng, đó là cầu nguyện. Chính vì thế mà vào khởi đầu của đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta nghe thấy Chúa Giêsu nói về việc cầu nguyện: "Hãy cầu nguyện luôn". Nhưng rồi vào cuối đoạn Phúc âm thì chúng ta lại nghe Chúa chất vấn: "Liệu khi Con Người là chính Chúa ngự đến thì thử hỏi còn đức tin, còn ai tin vào Chúa trên trần gian này nữa hay không?"
Cuộc sống đức tin không phải là không có những nguy hiểm, những gian nan thử thách, không ngừng chất vấn và thách thức con người, khi con người chiều theo những lợi lộc mà bỏ quên Thiên Chúa. Dù ai, dù trong địa vị nào trong xã hội cũng như trong Giáo Hội, dung mạo tinh thần của mỗi người chúng ta có thể được so sánh như dung mạo của người đàn bà góa nghèo. Hình ảnh người đàn bà góa nghèo trong văn chương Do thái cũng như trong nếp sống cụ thể của người Do thái là hình ảnh của một con người cô thế, yếu đuối, không phẩm giá, không địa vị, bị bỏ rơi, bị loại ra bên ngoài xã hội, không có gì để vinh danh hay khoe khoang, nhưng chỉ sống nhờ vào lòng nhân từ của kẻ khác.
Với những tật xấu, những bất toàn của chính bản thân mình, phải chăng mỗi người chúng ta trước nhan Thiên Chúa cũng là những kẻ yếu đuối thấp hèn, không công trạng gì, sống nhờ vào lòng nhân từ của Thiên Chúa. Chỉ khi ý thức về thân phận yếu đuối của mình như người đàn bà góa kia, chúng ta mới khiêm tốn đủ để chạy đến với Chúa mà cầu nguyện để xin Chúa nâng đỡ trả lại sự công chính nguyên thủy đã bị mất đi vì tội lỗi.
Con người kiêu ngạo thì không thể sống cầu nguyện đích thực được. Như người đàn bà góa, mỗi người chúng ta có thể đã và còn đang sống trong tình trạng bị thiệt thòi trên bình diện cứu rỗi, thiếu ơn Chúa. Tình trạng không bình thường vì bị làm nô lệ cho những tật xấu của mình, và như người đàn bà góa chúng ta cần ý thức về những khuyết điểm và qua lời cầu nguyện mà chạy đến với Chúa để xin Ngài trợ giúp, phục hồi chúng ta lại trong trật tự ân sủng và trong tình yêu của Ngài.
Hình ảnh quan tòa xấu, quan tòa bất lương không phải là một dung mạo biểu tượng cho Thiên Chúa, nhưng là một dung mạo được Chúa dùng để so sánh, để làm nổi bật điều ngược lại là dung mạo khác của một vị Thiên Chúa trọn hảo hơn. Thiên Chúa là Đấng phán xét công bằng, không phải như quan tòa bất lương và chỉ mình Thiên Chúa mới là quan tòa chí công vô tư. Ngài xét xử công bằng, nhưng xét xử với tình thương nhân từ. Thiên Chúa không phải như quan tòa xấu trong câu chuyện dụ ngôn trong bài Phúc âm hôm nay, Ngài là quan tòa công bằng và nhân từ. Quan tòa xấu trong dụ ngôn hành động để khỏi bị quấy rầy, còn Thiên Chúa, Ngài hành động vì yêu thương thôi thúc.
Con người có thể lên tiếng chống đối chối bỏ Thiên Chúa, nhưng phần Thiên Chúa thì Người không bao giờ ngưng yêu thương con người. Ngài muốn thi ân trọn vẹn cho đến cùng, Ngài muốn cho mọi người được ơn cứu rỗi.
Trong cuộc sống trên trần gian này, giữa những thử thách chúng ta còn đủ khiêm tốn và sáng suốt chạy đến nhờ vào lòng nhân từ của Thiên Chúa hay không? Chúa khuyến khích chúng ta hãy cầu nguyện luôn, hãy giữ liên lạc với Ngài, tiếp xúc với Ngài qua việc cầu nguyện để đức tin được cũng cố, được kiên trì, được trung thành cho đến cùng, cho đến khi Chúa trở lại Chúa còn gặp chúng ta tỉnh thức trong đức tin, còn gặp chúng ta trung thành với đức tin vào Ngài.
Trong khung cảnh của ngày Chúa nhật truyền giáo hôm nay, đoạn Tin Mừng chúng ta vừa chia sẽ có giúp chúng ta sống sứ mạng Chúa trao phó cho mỗi người trong Giáo Hội hay không? Dĩ nhiên là có. Cầu nguyện để kiên trì trong đức tin, vì càng cầu nguyện, đức tin chúng ta càng được cũng cố, được trưởng thành hơn và do đó chúng ta mới trở nên chứng nhân của Tin Mừng.
Chính vì lý do này mà việc cầu nguyện luôn luôn được Đức Thánh Cha nhắc đến trong các sứ điệp truyền giáo của Ngài. Năm nay cũng vậy, sứ điệp truyền giáo của Đức Thánh Cha nhắc nhở mỗi người chúng ta rằng, người tín hữu nào đã chiêm ngắm Chúa Giêsu, đã cầu nguyện thì không thể, không cảm thấy bị lôi cuốn bởi ánh sáng của Chúa mà dấn thân minh chứng niềm tin của mình vào Chúa Kitô, Đấng cứu chuộc duy nhất của loài người.
Đức Thánh Cha đã giải thích thêm như sau: Sự truyền giáo là việc loan báo vui tươi về một ân huệ cống hiến cho tất cả và phải được đề nghị cho tất cả, nhưng tôn trọng hết sức sự tự do của mỗi người. An huệ mạc khải của Thiên Chúa tình yêu, Đấng đã đến trong thế gian, Đấng đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một của Người. Như vậy, Giáo Hội không thể lẩn tránh sinh hoạt truyền giáo đối với các dân tộc và điều không kém quan trọng là nhiệm vụ đầu tiên của sứ vụ truyền giáo là loan báo rằng, chính trong Chúa Kitô, Đấng là sự thật và là sự sống mà cầu nguyện được ơn cứu độ.
Sứ vụ đó đòi hỏi phải cầu nguyện và dấn thân cụ thể, đó là những lời của Đức Thánh Cha được trích từ sứ điệp của ngài cho Ngày Quốc Tế Truyền Giáo hôm nay. Bài Phúc âm một lần nữa mời gọi chúng ta hãy cầu nguyện luôn để được trung thành trong đức tin, được kiên trì cho đến cùng trong tình yêu Chúa. Chúng ta hãy dốc lòng sống đời sống cầu nguyện bắt đầu từ Chúa nhật hôm nay, ngày truyền giáo, ngày chúng ta không phải nghĩ đến truyền giáo cho anh chị em mà truyền giáo cho chính bản thân của mỗi người chúng ta. Ước chi nhờ lời cầu nguyện mà chúng ta nhờ ơn Chúa để cải tạo mỗi người chúng ta trở thành con người mới, trở thành đồ đệ trung thành của Chúa, trung thành với đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.

12. Cầu nguyện
Ngay câu mở đầu bài Tin Mừng đã cho biết chủ đích của Chúa Giêsu muốn dạy các môn đệ của Ngài, đó là phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. Rồi Chúa minh họa bằng dụ ngôn ông quan tòa bất lương gặp bà góa kêu nài.
Một viên quan tòa bất lương, không sợ trời đất nào, cũng chẳng sợ ai. Một bà góa đến kêu nài. Bà góa trong xã hội Do thái là người cô thế cô thân, bị mọi thứ thiệt thòi, không ai bênh vực. Bà chỉ còn biết kêu đến quan tòa để bênh vực bà chống lại kẻ đang ức hiếp bóc lột bà. Nhưng ông quan tòa này đã chẳng sợ trời lại không nể người thì ông đâu coi chuyện oan ức của bà góa này ra gì. Bởi vậy ông cứ giả điếc làm ngơ. Nhưng bà góa kia không đầu hàng. Bà cứ kiên trì kêu nài mãi. Cuối cùng, để khỏi bị quấy rầy, ông quan tòa đành quyết định xét xử bênh vực quyền lợi cho bà.
Kể dụ ngôn xong, Chúa Giêsu kết luận: "Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người sao?". Viên quan tòa bất chính còn biết hành sử như vậy, chẳng lẽ Thiên Chúa, là Đấng nhân lành và công bằng lại không lắng nghe lời cầu nguyện liên lỉ của những con cái Ngài hay sao? Như vậy, câu đầu tiên và câu cuối cùng của bài Tin Mừng cho chúng ta thấy ý tưởng chính là cần phải cầu nguyện luôn, đừng nản chí.
Có hai lý do thúc đẩy chúng ta phải cầu nguyện luôn: Thứ nhất, vì chúng ta luôn thiếu thốn và cần mọi sự. Tự bản chất con người ta bất toàn, thiếu thốn. Hầu hết các động vật khác, vừa sinh ra đã có đủ điều kiện sinh sống, còn con người sinh ra trong tình trạng thiếu thốn mọi sự. Về tâm hồn cũng thế. Những gì bất toàn đòi phải được kiện toàn, những gì thiếu thốn đều đòi phải được đầy đủ. Thế nên, muốn kiện toàn những bất toàn, muốn lấp đầy những thiếu thốn, muốn thỏa mãn những ước vọng chính đáng thì phải cầu nguyện luôn.
Thứ hai, chúng ta phải cầu nguyện luôn bởi vì tự sức riêng chúng ta không thể làm gì được. Nói cách khác, chúng ta hoàn toàn bất lực trong việc kiện toàn những khiếm khuyết, trong việc lấp đầy những thiếu thốn, nhất là đối với những bất toàn và thiếu thốn siêu nhiên. Những thứ đó vượt hẳn khả năng của con người, chúng ta không thể tự làm cho mình có được, như Chúa Kitô đã nói: "Không có Thầy, các con không thể làm gì được". Tuy nhiên, lòng tự ái đã ngăn cản người ta không chấp nhận mình thiếu thốn, khuyết điểm và bất lực. Cần phải có một tâm hồn đơn sơ khiêm tốn mới tự công nhận mình như thế. Có công nhận mới tín nhiệm chạy đến cầu nguyện với Chúa.
Ngoài ra. Cũng có hai lý do chính giúp chúng ta không nản chí: Thứ nhất, Chúa rất tốt lành và đầy lòng yêu thương, đồng thời Ngài lại là Thiên Chúa toàn năng. Nếu một quan tòa bất lương và vô tín ngưỡng còn biết nghe theo lời người thưa kiện, huống nữa là Thiên Chúa tốt lành vô cùng. Nhưng Thiên Chúa tốt lành ấy đâu phải là người dưng nước lã mà là chính Đấng tác thành nên ta, là Cha yêu thương ta hết tình, đến nỗi như lời thánh Phaolô dạy: "Đã ban chính con Chúa cho ta, thì lẽ nào lại không ban mọi cái khác cho ta cùng với người con ấy". Hơn nữa, Thiên Chúa lại là Đấng toàn năng, Ngài làm được mọi điều Ngài muốn. Nếu Ngài là đấng tốt lành yêu thương ta và muốn cho ta được mọi sự tốt lành, thì dĩ nhiên Ngài sẽ làm những điều đó cho ta.
Thứ đến, chúng ta không thể ngã lòng nản chí vì Chúa đã long trọng hứa rằng sẽ nhận lời ta cầu xin. Tuyệt đối mà xét thì Thiên Chúa chẳng mắc nợ ai, cho nên dầu Ngài tốt lành và yêu thương ta, nhưng chẳng ai bắt buộc Ngài phải làm điều nọ điều kia được. Tuy nhiên, khi hứa sẽ nhận lời mọi người kêu xin, thì Chúa đã tự đặt mình vào thế bắt buộc phải nghe lời ta.
Điều cần thiết và quan trọng Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn là để được trung thành với đức tin. Cuộc sống mỗi người Kitô là một cuộc sống trong đức tin và nhờ đức tin. Vì thế mỗi người đừng để mất đức tin hay giảm sút lòng tin. Nói một cách khác tích cực hơn là để trung thành với đức tin và phát triển đời sống đức tin. Chính việc cầu nguyện sẽ giúp chúng ta sống được như thế.
Quả thực, cuộc đời người tín hữu Chúa trên trần gian là một cuộc hành trình khó khăn giữa nhiều thử thách, và để an toàn đạt đến cùng đích của cuộc lữ hành thì mỗi môn đệ Chúa phải kiên trì, phải trung thành trong đức tin cho đến khi Chúa lại đến. Và để kiên trì trong đức tin cho đến cùng thì mỗi môn đệ của Chúa cần thực hành điều căn bản và quan trọng, đó là cầu nguyện. Cũng thế, cuộc sống đức tin không phải là không có những nguy hiểm, những gian nan thử thách, không ngừng chất vấn và thách thức con người, khi con người chiều theo những lợi lộc mà bỏ quên Thiên Chúa. Dù ai, dù ở địa vị nào trong xã hội cũng như trong Giáo Hội, dung mạo tinh thần của mỗi người chúng ta có thể được so sánh như dung mạo của người đàn bà góa nghèo. Hình ảnh của người đàn bà góa nghèo trong văn chương Do thái cũng như trong nếp sống cụ thể của người Do thái là hình ảnh của một con người cô thế, yếu đuối, không phẩm giá, không địa vị, bị bỏ rơi, bị loại ra bên ngoài xã hội, nhưng chỉ sống nhờ vào lòng nhân từ của kẻ khác. Với những tật xấu, những bất toàn của chính bản thân mình, phải chăng mỗi người chúng ta trước nhan Thiên Chúa cũng là những kẻ yếu đuối thấp hèn, không công trạng gì, sống nhờ vào lòng nhân từ của Thiên Chúa? Chỉ khi ý thức về thân phận yếu đuối của mình như người đàn bà góa kia, chúng ta mới khiêm tốn đủ để chạy đến với Chúa mà cầu nguyện xin Chúa nâng đỡ. Chúa khuyến khích chúng ta hãy cầu nguyện luôn, hãy giữ liên lạc với Ngài, tiếp xúc với Ngài qua việc cầu nguyện để đức tin được cũng cố, được kiên trì, được trung thành cho đến cùng, cho đến khi Chúa trở lại Chúa còn gặp chúng ta tỉnh thức trong đức tin, còn gặp chúng ta trung thành với đức tin vào Ngài.

13. Thiên Chúa sẽ ban cho tôi điều tốt nhất
Lời cầu "xin" là thái độ của người nghèo, của tạo vật cần Thiên Chúa. Đây là thái độ đúng đắn diễn tả thân phận con người, nên đẹp lòng Thiên Chúa. Lời cầu nguyện không chỉ là xin ơn, nhưng còn là lời cảm tạ và ca khen Thiên Chúa. Tuy vậy, thái độ "cần" Thiên Chúa, được diễn tả qua lời cầu "xin", là nền tảng của lời cầu nguyện.
Lời "Xin" trong Kinh Chúa dạy
"Lạy Cha chúng con ở trên trời, nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, Ý Cha thể hiện...Xin Cha cho chúng con...". Lời trong kinh Lạy Cha nói lên khao khát ước vọng của con người, về nhu cầu thiêng liêng và về nhu cầu vật chất.
Xin Cha làm cho Danh Cha cả sáng, xin Cha làm cho con người tin nhận quyền Cha, để Danh Cha cả sáng. Xin Cha làm cho Nước Cha trị đến, bằng cách làm cho con người biết yêu thương, biết sống theo luật của Đức Yêsu. Xin Cha cho chúng con lương thực cần dùng. Chúng con cần Chúa, để chúng con có lương thực hằng ngày, để chúng con được ơn tha thứ, để chúng con khỏi sa ngã phạm tội. Chúng con cần Chúa để nên thánh, để sống bình an và hạnh phúc.
Chúng ta bất lực. Chúng ta cần Chúa để làm tất cả, thế nên chúng ta xin Chúa để làm tất cả mọi điều chúng ta phải làm, ngay cả những điều như thể chỉ tuỳ thuộc nơi chúng ta. Xin Chúa cho chúng con luôn luôn tuỳ thuộc vào Chúa trong mọi chuyện.
Môsê giơ tay cầu nguyện
Sách Xuất Hành cho thấy hiệu lực lời cầu nguyện của Môsê: khi ông giơ tay lên cầu nguyện, Yosua và binh lính Israel thắng trận, khi ông hạ tay xuống, bên đối nghịch Amalek thắng trận. "Bè để qua sông, qua sông hãy quên bè". Đừng vác bè mà đi! Hãy đón nhận sứ điệp, đừng bận tâm quá những điều không cần thiết, hoặc làm mình quên mất điều chính. Sứ điệp của đoạn Lời Chúa: lời cầu xin thật hữu hiệu.
Đức Yêsu kể dụ ngôn về ông thẩm phán, không sợ Thiên Chúa, không sợ con người, nhưng chỉ sợ người ta làm phiền, nên phải làm theo lời thỉnh cầu của bà goá. Nếu con người, vì sợ bị phiền mà phải làm theo điều người ta xin, thì huống chi là Thiên Chúa, Đấng luôn luôn yêu thương con người, và sẵn sàng làm tất cả cho con người khi họ cầu xin Ngài.
Thái độ cầu xin, là thái độ của người khiêm tốn. Vì người ta chỉ xin điều mình rất muốn, mà mình không thể có được, vì nó không tuỳ thuộc mình, nó là một ơn "nhưng không" của Thiên Chúa ban cho mình. Xin cho chúng ta tin tưởng Chúa yêu thương mình, tin Ngài luôn sẵn sàng làm tất cả những gì tốt lành cho chúng ta, để chúng ta chạy đến cầu xin với Ngài.
Hãy dùng Kinh Thánh để cầu nguyện
Kinh Thánh là Lời Chúa cho con người, là sách gợi hứng và ý tưởng giúp người ta cầu nguyện. Kinh Thánh giúp người ta hiểu biết về Đức Yêsu hơn. Một thánh giáo phụ nói: không biết Kinh Thánh là không biết Đức Yêsu. Sở dĩ vậy, vì Kinh Thánh nói về Đức Yêsu, Kinh Thánh cho thấy những hành động Thiên Chúa làm trong lịch sử, vì yêu thương con người. Qua những hành vi hoạt động của ai, chúng ta biết hơn về người đó. Cũng tương tự như vậy, qua Kinh Thánh ghi lại những gì Thiên Chúa làm cho dân tộc Israel và loài người, chúng ta biết về Thiên Chúa hơn.
Kinh Thánh được viết trong một thời gian nhất định, bởi những người có một nền văn hoá riêng, nên cần biết những phong tục tập quán của họ để hiểu được những điều họ muốn diễn tả, những điều Thiên Chúa muốn diễn tả hoặc nói với con người qua họ.
Kinh nghiệm về Thiên Chúa của những người được linh ứng, là kinh nghiệm đặc biệt và được diễn tả trung thực, để những người thời sau học hỏi. Kinh nghiệm Thiên Chúa ban cho những người xưa, có thể con người ngày nay cũng được khi họ đọc và suy niệm Lời Chúa (Kinh Thánh). Khi đọc Tin Mừng của Đức Yêsu, chúng ta hãy nhìn nghe và xem Ngài sống, để mình trở nên giống Ngài hơn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Lời cầu nguyện của bạn có thường được nhậm lời không? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm về những lần cầu nguyện, mà được nhận lời.
2. Những điều bạn xin, bạn có thấy đó thực sự là điều cần thiết đối với bạn không? Tại sao bạn xin điều không thực sự cần thiết đối với bạn?
3. Theo bạn, điều nào là cần thiết nhất đối với bạn, mà bạn phải cầu xin? Tại sao đây lại là điều cần thiết nhất đối với bạn?

14. Quan tòa bạo ngược và bà góa quấy rầy


Hôm nay, Đức Giêsu phác họa một câu chuyện để nói về sự cầu nguyện.
Đức Giêsu nói: "Trong thành kia có một quan toà". Một quan tòa phương Đông, một người chẳng kính sợ Thiên Chúa, chẳng sợ hãi ma quỷ và khinh khi mọi người. Một mình làm nhiệm vụ trong một thành phố nhỏ, không có sự kiểm tra của cấp trên, có thể kéo dài vụ kiện tùy thích.
Đối đầu với ông là một bà góa thân cô thế cô, biểu tượng của những người nghèo không nơi nhờ cậy, không có tiền của, bị những người giầu có thù địch tha hồ bóc lột... Một người đàn bà không có chỗ dựa về pháp lý, không có chồng để bênh vực... Bà góa này đã nhiều lần đến xin quan tòa xử kiện. Bà quá nghèo chẳng có gì để đút lót, nhưng bà có một khí giới, bà rất đanh đá, rất đáo để, rất kiên trì, rất cương quyết. Bà tin chắc, cứ kêu nài, cứ van xin, cứ quấy rầy, thế nào quan cũng phải xử. Quan tòa không sợ ai, nhưng phải sợ sự quấy rầy của bà.
Thế rồi, bà không để cho ông được yên lúc nào, không để ông rảnh rỗi ăn chơi, làm cho ông phải đau đầu nhức óc, khổ sở vì bà. Ông muốn khỏi khổ, phải xử cho xong. Xong ở chỗ cho bà phải thắng, kẻ thù phải thua. Bà không để cho kẻ thù ức hiếp. Đúng vậy, ông quan tòa dẫu chẳng kính sợ Thiên Chúa, cũng chẳng coi ai ra gì, phải thua người đàn bà góa này. Ông đã phải xử kiện cho bà. Chúng ta đừng ảo tưởng ông đã làm điều tốt, ông đã trả lại công bằng. Không, ông là một người ích kỷ và vô liêm sỉ. Đơn giản vì lợi ích của người khác trùng hợp với lợi ích riêng của ông. Ông ta luôn luôn hành động vì mình, xử kiện cho bà góa, đơn giản để bị khỏi quấy rầy.
Đây là dụ ngôn dùng sự tương phản, trong đó bài học được rút ra "trái ngược" với ví dụ được nêu. Một quan tòa bất chính, không có lương tâm phải nhượng bộ một bà góa nghèo hèn... Phương chi Thiên Chúa tốt lành vô cùng, là người Cha vốn nhạy cảm với những lời cầu nguyện của người nghèo, lại có thể từ chối lời cầu xin của con cái Người sao? Không: "Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ thấy, hãy gõ sẽ mở cho". Dù bây giờ Thiên Chúa có trì hoãn, nhưng phải kiên trì cầu nguyện liên lỉ, không thoái nhượng, không giảm sút, không buông thả, không chán nản. "Thiên Chúa, Người sẽ mau chóng bênh vực những kẻ người đã tuyển chọn... Người sẽ mau chóng thực thi công lý".
Khẳng định này có vẻ nghịch lý, ta chẳng thấy nhiều khi cầu nguyện, chẳng thấy gì, chỉ đụng chạm sự im lặng của Thiên Chúa. Bất công vẫn xảy ra, vẫn tiếp tục tồn tại trong thế giới. Cầu cho Nước Cha trị đến, xem ra nước Cha không bao giờ đến. Thực ra, ta luôn có xu hướng đòi Chúa phải thỏa mãn điều mình xin. Những lời cầu nguyện của chúng ta, giống một thứ đòi nợ và yêu cầu Thiên Chúa phải trả. Thiên Chúa như "máy phát quà tự động", bỏ vào khe một đồng tiền, kéo cái nút và cái máy đưa ra một cái bánh Sôcôla theo yêu cầu.
Khi chúng ta có cảm tưởng lời nguyện xin không được chấp nhận. Hãy nhớ Đức Giêsu, khi xin với Chúa Cha: "Xin Cha cất chén này khỏi Con..." Đức Giêsu được nhận lời cách khác, chén đau khổ không được cất đi, nhưng qua cái chết, Người đã đến niềm vui của Phục sinh.
Tuy nhiên, nên biết điều này: Không phải lúc nào chúng ta cũng xin Thiên Chúa điều tốt nhất. Chúng ta không thể hiểu thấu tư tưởng của Chúa. Sẽ ra sao nếu như mọi thói ngông cuồng, ấu trĩ của chúng ta được nhận lời?
Chúng ta giống như mọi sinh vật và cây cỏ: Cần phải có nhịp điệu của mùa màng, có sự luân phiên của nắng mưa, của mùa hè và mùa đông, và cả những cơn gió mạnh..., để lớn lên từ hạt, đến hoa và đến quả. Một hạt mầm sẽ ra sao khi nó từ chối mọi thử thách trong dòng phát triển và muốn đòi có mùa gặt ngay sau ngày gieo hạt?
Đức Giêsu dạy ta phải vững tin và kiên trì cầu nguyện. Thế nhưng, trớ trêu thay, thực tế đã xảy ra và Đức Giêsu phải đặt câu hỏi: "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?". Nỗi đau của Đức Giêsu, nỗi đau của Thiên Chúa, thay vì có những tín hữu kêu cầu lòng nhân từ của Thiên Chúa, thì chỉ có những người vô tín ngày đêm không cầu nguyện, sẽ không còn ai hỏi: "Liệu Thiên Chúa có nhận lời cầu nguyện hay không ?". Đức Giêsu cảm thấy lo âu trước sứ mạng và sứ điệp của Người bị từ khước. Những người được tuyển chọn bị đe dọa bỏ đức tin.
Để kết luận, tưởng cũng nên kể một câu chuyện: Một đại chủng sinh đã viết: "Con lấy làm vinh dự sống trong một gia đình nghèo hèn, chỉ ăn cháo, không bao giờ biết đến bánh mì và thịt, họa may đôi ba lần trong một năm. Tuy gần 20 đứa con lớn bé đang chờ chực đĩa cháo, nhưng nếu có người đến ăn xin, mẹ vẫn mời họ ngồi ăn với chúng con". Bà mẹ đó chính là thân mẫu Đức Giáo hoàng Gioan XXIII, vị giáo hoàng vĩ đại của hòa bình, được cả thế giới mến phục, được thưởng Nobel hòa bình và là giáo hoàng của Công đồng Vatican II. Nhờ đâu, một bà mẹ quê mùa, nghèo khó đã biết dạy dỗ con nên người vĩ đại như vậy? Thưa chính là nhờ cầu nguyện với niềm tin sắt đá.
Lạy Chúa, xin cho chúng con kiên trì cầu nguyện, không chán nản, không buông thả bao giờ. Ước gì được như vậy.
Còn Lòng Tin Trên Mặt Đất Nữa Chăng
Chúa nhật 29 Thường niên C – Khánh nhật truyền giáo
Lc 18,1-8
“Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất này nữa chăng?” Đó là câu Chúa Giê-su chất vấn loài người, nhất là những người mang danh Ki-tô hữu - môn đệ Chúa. Lời chất vấn này khiến chúng ta phải suy nghĩ nghiêm túc về đời sống đạo, đời sống đức tin của chúng ta lúc này, bây giờ và mai sau.
Lời chất vấn trên của Chúa Giê-su diễn ra sau khi Chúa kể dụ ngôn người quan tòa bất nhân và cũng chẳng kính sợ Thiên Chúa đã chịu thua lòng kiên trì nhẫn nại của người đàn bà góa, để mời gọi chúng ta kiên trì, bền bỉ cầu nguyện trong niềm tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa là Cha nhân lành, luôn yêu thương con cái và sẵn sàng ban ơn cho chúng ta mỗi khi chúng ta cầu xin Người.
Trong Cựu ước, khi Mô-sê liên lỉ cầu nguyện, thì dân Israel thắng trận. Nhưng khi Mô-sê ngưng nghỉ cầu nguyện, Israel thua trận (x. Xh 17,8-13). Đời sống người Ki-tô hữu, môn đệ Chúa Giê-su cũng vậy. Họ phải kiên trì cầu nguyện: ‘cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ gặp, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho’ (Lc 11,9).
Người đàn bà góa kiên trì gõ cửa nhà ông quan tòa bất lương, cầu xin ông giúp bà tìm lại sự công bằng đã bị người ta đã cướp mất. Bà đã được như ý nguyện.
Nhưng liệu chúng ta - con cái của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương có tuyệt đối tin tưởng và luôn chạy đến với Người trong đời sống hằng ngày như bà góa đã làm với ông quan tòa bất lương không?
Không chạy đến với Thiên Chúa, không cầu xin Thiên Chúa, không tìm kiếm sự trợ giúp của Thiên Chúa, chứng tỏ chúng ta không tin tưởng vào Thiên Chúa. Vì ‘luật đức tin là luật cầu nguyện’, người ta còn cầu nguyện với Thiên Chúa là người ta còn tin vào Thiên Chúa (x. Rm10,14).
Chính vì thế, sau khi kể dụ ngôn nêu bật sự kiên trì của người đàn bà góa trước vị quan tòa ‘chẳng kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng coi ai ra gì’, Chúa Giê-su đã thốt lên: “Liệu khi Con Người ngự đến, Người còn thấy lòng tin trên mặt đất này nữa chăng” ?
Còn đức tin hay mất đức tin vào ngày Chúa trở lại trong vinh quang là băn khoăn, lo lắng của Chúa Giê-su khi chưa rời bỏ trần gian mà trở về cùng Chúa Cha.
Thánh Phao-lô được ơn Chúa mạc khải đã chỉ cho chúng ta thấy rõ cái nguyên nhân dẫn đến việc có đức tin và mất đức tin vào Thiên Chúa. Đó là thái độ đón nhận lời rao giảng hay từ chối lời rao giảng của mỗi người: “Làm sao họ tin Đấng mà họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời đã chép: Đẹp thay bước chân những sứ giả loan báo Tin mừng! Nhưng không phải mọi người đều đã vâng nghe theo Tin mừng; chính ngôn sứ Isaia đã nói: Lạy Chúa, ai đã tin khi nghe chúng con giảng. Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Ki-tô” (Rm 10,14-17).
Vâng, phải công bố, phải rao giảng, phải loan báo lời Chúa Ki-tô cho đến tận cùng thế giới! “Rao giảng Tin mừng là một sự cần thiết bắt buộc. Khốn cho tôi, nếu tôi không rao Tin mừng” (1Cr 9,16). Vì “ngoài Chúa Giê-su ra, ở dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4,12).
Ý thức được điều đó, nên thánh Phao-lô đã khuyên ông Ti-mô-thê: “Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ với tất cả lòng nhẫn nại và chủ tâm dạy dỗ. Vì tất cả những gì viết trong Sách Thánh đều do Thiên Chúa linh hứng và có ích cho việc giảng dạy... giáo dục, để trở nên người công chính” (x. 2Tm 3,14 - 4,2).
Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con luôn biết mau mắn vâng nghe và thực hành lời Chúa mà Giáo hội đã rao giảng cho chúng con, để lòng tin của chúng con luôn kiên vững trong mọi thử thách của cuộc sống.
Trong ngày cầu nguyện cho việc truyền giáo hôm nay, xin Chúa cho chúng con luôn ý thức rẳng truyền giáo là bản chất và sứ mạng của Hội thánh và của mỗi người Ki-tô hữu, để dù thuận lợi hay không thuận lợi chúng con vẫn cùng với Hội thánh sống và rao giảng Tin mừng cho tới ngày Chúa ngự đến trong vinh quang mà phán xét thiên hạ. Amen.
Linh mục Giuse Nguyễn Văn Hữu


Rao Giảng Tin Mừng Với Lòng Thương Xót
Suy niệm Khánh nhật Truyền giáo
(Is 1, 1-5; 1 Tm 2, 4 - 6; Lc 24,44-53)
Tháng 10, tháng truyền giáo
Tháng 10 tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy khám phá lại nét đẹp của lời kinh này và siêng năng đọc kinh Mân Côi cho cầu thế giới được hoà bình. Tháng 10 còn là tháng truyền giáo. Giáo hội cũng kêu gọi con cái mình dấn thân cho những công cuộc truyền giáo, bước theo Chúa Giêsu trong cuộc hành trình Ðức Tin, và có Mẹ Maria Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi Mân Côi và là Nữ Vương truyền giáo đi đầu dẫn đưa tất cả chúng ta đến với Chúa Kitô, và dạy chúng ta mang Chúa đến cho tha nhân.
Giáo hội tự bản chất là truyền giáo.
Nếu như Isaia con trai Amót được thị kiến: “Các dân nước sẽ đổ xô về núi Chúa... trong ngày sau hết” (x. Is 1, 1-5). Thánh Phaolô cho người con tình thần của mình biết rằng: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu rỗi” (x.1 Tm 2, 4 – 6). Cả bốn sách Tin Mừng đều nêu bật ý nghĩa của việc truyền giáo. Nội dung sứ vụ mà Chúa Giêsu trao cho Giáo hội, chứng tỏ bản chất của Giáo hội là truyền giáo. Chính Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với các tông đồ nơi Phòng Tiệc Ly như sau: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai các con” (Ga 20,21). Đến lượt Chúa Con cũng sai Giáo hội ra đi cho đến tận cùng trái đất. Ðây là một sứ mạng duy nhất, một sứ điệp duy nhất, phát xuất từ Thiên Chúa và được gửi đến cho mọi người, ngõ hầu họ được cứu chuộc và trở nên con cái Thiên Chúa.
“Chúa Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thư ba, từ cõi chết sống lại và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân. Chính anh em là chứng nhân về những điều ấy” (Lc 24, 46-48).
Nhân dịp Đại Năm Thánh 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã nói: “Sứ mạng của Giáo Hội kéo dài sứ mạng của Chúa Kitô. Giáo Hội không ngừng rao giảng cho thế giới Tình Phụ Tử của Thiên Chúa, bằng việc rao giảng và bằng chứng tá của những con cái mình... nhờ việc thực hành mệnh lệnh tình thương đối với Thiên Chúa và đối với anh chị em”. (Huấn Đức ngày 22 tháng 10/2000, tại Roma).
Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã nhấn mạnh: Sứ vụ truyền giáo là bổn phận của toàn thể Giáo hội, vốn bởi bản chất là thừa sai (x.Ad gentes, số 2). Trích dẫn lời Chân phước Phaolô VI, ngài tiếp: “Giáo Hội hiện hữu để truyền giáo, để giảng thuyết và giáo huấn, để làm máng chuyển quà tặng của các ân sủng, để hoà giải các tội nhân với Thiên Chúa, để trường tồn hy lễ của Chúa Kitô trong Thánh Lễ, đó là việc tưởng niệm cuộc tử nạn và phục sinh vinh hiển của Người.”
Lòng thương xót là linh hồn của truyền giáo
Thánh Phaolô viết: “Tình Yêu Chúa Kitô thôi thúc tôi” (2 Cr 5, 14). Đức Kitô thúc bách những người đã chịu phép Rửa tội nam phụ cũng như lão ấu, kể cả người đau yếu lẫn người nghèo, khi đã đón nhận tình yêu cứu độ của Thiên Chúa, có sứ mạng rao giảng và mang tình yêu cho hết mọi người, bằng lời nói và chứng tá cụ thể của Lòng Thương Xót. Truyền giáo là gì gì nếu không phải là loan báo Tin Mừng về tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa như chính Chúa Giêsu đã làm. Ngài không những đã hăng say loan báo tình yêu của Thiên Chúa cho mọi người, Ngài còn xót thương đến thí mạng để làm chứng cho tình yêu đó. Hơn thế nữa, Ngài mạc khải và nhập thể tình yêu đó nơi chính bản thân mình. Ngài là hiện thân của Lòng Thương Xót Chúa. Nơi Ngài, tình yêu và lòng thương xót chiến thắng tội lỗi và sự chết. Vì thế, sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa trở thành Tin Mừng Phục Sinh, Niềm Hy Vọng cho toàn thế giới.
Trong sứ điệp nhân ngày thế giới truyền giáo lần thứ 90 với chủ đề “Giáo hội thừa sai, chứng nhân lòng thương xót”, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: “Khi đón nhận và theo Chúa Giêsu qua Tin Mừng và các bí tích, nhờ tác động của Chúa Thánh Linh, chúng ta có thể trở nên người có lòng thương xót như Cha chúng ta trên trời, học yêu thương như Chúa yêu thương chúng ta và biến cuộc sống chúng ta trở thành một món quà nhưng không, dấu chỉ lòng nhân lành của Ngài” (Misericordiae Vultus 3).
Nhân dịp Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô đề cao vai trò của phụ nữ và các gia đình trong việc biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa rằng “Có bao nhiêu người nam nữ thuộc mọi lứa tuổi và giai tầng xã hội, đã và đang làm chứng về tình yêu thương xót của Chúa, như trong thời kỳ đầu qua kinh nghiệm của Giáo Hội. Dấu chỉ hùng hồn về tình yêu thương từ mẫu của Thiên Chúa là sự hiện diện gia tăng đáng kể của nữ giới trong thế giới truyền giáo, bên cạnh sự hiện diện của nam giới. Các phụ nữ, nữ giáo dân và các người nữ thánh hiến, và ngày nay cũng có nhiều gia đình, đang thực thi ơn gọi truyền giáo của họ dưới nhiều hình thức khác nhau: từ việc trực tiếp rao giảng Tin Mừng cho đến các dịch vụ bác ái.”
Đức Thánh Cha thêm: “Bên cạnh hoạt động loan báo Tin Mừng và cử hành các bí tích do các nam thừa sai đảm nhận, cũng có các phụ nữ và các gia đình hiểu biết một cách thích hợp hơn các vấn đề của dân chúng và biết đương đầu với các vấn đề ấy một cách thích hợp, và đôi khi một cách ”chưa từng có”: qua sự chăm sóc cuộc sống, đặc biết chú ý đến con người hơn là các cơ cấu, tận dụng mọi tài nguyên nhân bản và tinh thần để xây dựng sự hòa hợp, các quan hệ, hòa bình, liên đới, cộng tác và tình huynh đệ, trong lãnh vực các tương quan giữa con người với nhau, cũng như trong lãnh vực rộng hơn lớn của đời sống xã hội và văn hóa, nhất là việc chăm sóc người nghèo”.
Nhờ lời chuyển cầu của thánh Phanxicô Xaviê, thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu là quan thầy các xứ truyền giáo, nhất là của Mẹ Maria Ngôi Sao truyền giáo, mẫu gương loan báo Tin Mừng, cầu thay nguyện giúp cho Hội Thánh trở nên một mái nhà của tình yêu và thương xót mọi người; một người mẹ xót thương cho mọi dân tộc và là nguồn suối tái sinh cho thế giới chúng ta. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ





(1) Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. (2) Người nói: “Trong thành kia, có một ông quan tòa. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. (3) Trong thành đó, cũng có một bà góa. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: “Xin ngài bênh vực tôi chống lại kẻ kiện tôi”. (4) Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì. (5) Nhưng mụ góa này quấy rầy mãi, thì ta bênh vực mụ cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc”. (6) Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan tòa bất chính ấy nói đó ! (7) Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ? (8) Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?”
-C 1-3 : +Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn… : Câu dẫn nhập này báo trước ý nghĩa của dụ ngôn : Đức Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ kiên trì và liên lỉ cầu nguyện để chuẩn bị cho ngày Người tái lâm. +Trong thành kia có một ông quan tòa : Ông này bị coi là bất lương vì ông chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng nể nang người đời. Những quan tòa như thế có nhiều trong dân Ítraen và nhiều lần đã bị các Ngôn sứ lên án (x. Is 1,23; Gr 5,28; Am 5,7). +Trong thành đó cũng có một bà góa : Bà góa là một mẫu người nghèo thường được đề cập tới trong Thánh kinh. Các bà không có chồng bảo vệ nên dễ bị kẻ xấu chèn ép bóc lột. +“Xin ngài bênh vực tôi chống lại kẻ kiện tôi” :Bà góa này xin quan tòa giúp minh oan trước kẻ đang kiện cáo mình.
-C 6-8 : +Rồi Chúa nói : Luca nêu tước hiệu “Chúa” 20 lần trong các bài tường thuật. Qua đó ngài muốn người đọc lưu ý đến vương quyền mầu nhiệm của Đức Giêsu. +“Anh em nghe quan tòa bất chính ấy nói đó: Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn…” : Mục đích so sánh Thiên Chúa với quan tòa bất chính là để làm nổi bật sự tương phản giữa lối hành xử bất lương của viên quan tòa với lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa. Một con người ngang ngược ích kỷ vô tín mà còn biết bênh đỡ người yếu thế để tránh sự quấy rầy như vậy, phương chi Thiên Chúa nhân từ lại có thể nhẫn tâm từ chối lời cầu xin của những kẻ tin tưởng đầy lòng cậy trông nên đã được Người tuyển chọn hay sao? +Dù Người có trì hoãn : Chắc chắn Chúa sẽ can thiệp, nhưng theo cách thức của Người. Mỗi khi cầu xin mà lâu vẫn chưa được như ý, chúng ta hãy nhớ lại trường hợp Đức Giêsu trong vườn cây Dầu: đã cầu xin Chúa Cha cho khỏi uống chén đắng và đã không được Cha ưng thuận, nhưng nhờ đó mà loài người chúng ta mới được hưởng ơn cứu độ nhờ cuộc khổ nạn và phuc sinh của Đức Giêsu. Trong thực tế, có nhiều điều chúng ta cố nài xin Chúa ban cho mình, vì tưởng là điều tốt cho mình, nhưng thực ra lại có hại cho phần rỗi đời đời của ta, nên vì tình thương mà Chúa đã không ban theo ý ta như Đức Giêsu đã nói :”Có ngừoi cha nào đứa con xin bánh mà lại cho nó hòn đá ?….”. Trật tự thế giới này sẽ ra sao nếu các ước muốn ngông cuồng ấu trĩ của mọi người đều được Chúa chấp nhận ?  +Người sẽ mau chóng bênh vực họ : Ở đây cũng như ở nhiều nơi khác (x. Mt 9,1; 13,30). Đức Giêsu báo trước sẽ có một cuộc phán xét để bênh vực những kẻ Người tuyển chọn (x. Lc 17,22-37). +Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? : Trong cơn thử thách, những kẻ được tuyển chọn cũng vẫn có thể trở thành vô tín nếu không kiên trì (x. Mc 13,20-22). Vì thế Đức Giêsu khuyên các môn đệ tránh lối sống buông thả, nhưng phải vững tâm cầu nguyện, giống như bà góa trong dụ ngôn đã luôn kiên trì cầu xin trước thái độ thờ ơ của vị quan tòa bất lương. Trong thời gian dài từ khi Đức Kitô về trời đến khi Người lại đến vào ngày tận thế, các tín hữu phải “tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người” (Lc 21,36).
Một nhân viên bưu điện phi ngựa tới một ngôi nhà cửa đóng kín để phát thư. Ông gõ cửa nhưng không thấy ai ra mở cả. Ông biết trong nhà có người, vì đã thấy bóng họ thấp thóang qua khung cửa sổ. Do đó, ông vừa la lớn vừa đập mạnh vào cánh cửa. Sau khi ông đập cửa tới 5 lần thì một lỗ nhỏ trên cánh cửa được mở ra và có tiếng người trong nhà hỏi: “Ông muốn gì ?”. Ông trả lời: “Muốn gì ư ? Tôi đã kêu cửa mấy phút rồi mà không thấy ai ra mở cửa để lấy thư cả !” Bấy giờ người trong nhà mới vặn chốt mở rộng cửa ra và giải thích như sau : “Xin ông thông cảm cho. Mỗi ngày chúng tôi phải chịu đựng lũ trẻ hàng xóm đến phá quấy : Chúng cứ tới đập cửa ầm ầm, rồi khi chúng tôi ra mở cửa thì lại chẳng thấy ai cả. Khi nãy lúc đầu chúng tôi cứ tưởng là lũ trẻ đến phá rối như mọi khi, nên không ra mở cửa. Nhưng về sau thấy cửa cứ bị đập hòai, nên chúng tôi biết là có khách đến thăm thực sự”.
Tạp chí Hướng Đạo có đăng một câu chuyện thú vị về một cô giáo trẻ. Câu chuyện được tóm tắt như sau: Cô giáo Meri được điều về dạy ở một trường học nọ. Trong lớp cô phụ trách có một học sinh ngỗ nghịch tên là Bill. Em này thường gây cho cô giáo trẻ sự bực bội và biến lớp học thành một nơi bát nháo. Một buổi sáng kia, cô Meri đến lớp sớm hơn và ngồi ở bàn thầy giáo hí hoáy viết tốc ký lên một trang giấy, thì bất ngờ Bill xuất hiện. Cậu bé tiến lại gần bàn cô giáo và nói: “Cô đang viết gì vậy?” Meri đáp: “Cô viết lời cầu nguyện với Chúa đó”. Bill chế giễu: “Chúa có thể đọc được chữ tốc ký hay sao?” Meri đáp: “Người có thể làm được mọi sự. Ngay cả việc nhậm lời cầu xin này của cô!”. Nói xong, cô để mảnh giấy kia vào trong cuốn Kinh thánh, và quay lên viết bài học trên bảng cho cả lớp. Lợi dụng lúc cô giáo loay hoay viết, Bill đã lén lấy cắp mảnh giấy có ghi lời cầu nguyện của cô giáo và bỏ vào trong cuốn tập của cậu. Hai mươi năm sau, Bill đã trở thành giám đốc của một công ty lớn. Một hôm ông ta lục tìm một đồ vật cũ để trên gác xép ngôi nhà xưa của cha mẹ ông. Bill tình cờ cầm lên một cuốn sổ ghi bài học thuở nhỏ và đột nhiên thấy một mảnh giấy vàng ố rơi xuống sàn. Đó là mẩu giấy có ghi chữ tốc ký. Bill không hiểu nội dung những dòng chữ ấy. Ông gấp tờ giấy kia lại, mang đến văn phòng nhờ cô thư ký đọc giúp. Cô ta đã viết lời dịch vào một tờ giấy khác và đưa cho Bill. Ông nhận ra đó là lời cầu nguyện của cô giáo Meri năm xưa, nội dung lời cầu ấy như sau: “Lạy Chúa, xin đừng để con bị thất bại trong nghề giáo của con. Con không thể làm cho lớp con đang dạy vào khuôn khổ kỷ luật được, vì có một cậu học trò tên là Bill hay phá bĩnh. Xin Chúa hãy uốn nắn tâm hồn cậu bé này. Vì theo con nhận xét: Cậu bé ấy có thể trở thành một người hoặc rất tốt hoặc rất xấu sau này”. Câu cuối cùng như một nhát búa nện vào đầu Bill, bắt ông phải suy nghĩ. Thật ra chỉ vài giờ trước đó, Bill có dự tính lao vào một vụ làm ăn buôn lậu, hy vọng sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty. Ông cầm tờ giấy kia lên gấp lại cho vào chiếc ví để trong túi quần. Rồi trong suốt một tuần lễ kế tiếp, mỗi khi có dịp là ông lại lôi tờ giấy kia ra đọc đi đọc lại nhiều lần. Cuối cùng thì lời cầu nguyện của cô giáo được viết trước đó hai mươi năm đã phát huy tác dụng và làm thay đổi ý định buôn lậu của Bill. Mấy tuần sau, khi có dịp ngang qua nhà cô giáo cũ, ông đã tìm đến thăm cô và kể cho cô nghe về lời cầu nguyện của cô cách đây 20 năm đã có sức mạnh làm thay đổi cuộc đời hiện tại của ông ra sao.
1) Sự kiện động đất: Trong một vụ động đất lớn khiến nhiều nhà cửa trong thành phố bị sụp đổ. Có ba người bị kẹt trong văn phòng một tòa nhà của một công ty xây dựng. Bấy giờ văn phòng bị tối thui vì cúp điện và một khối bê-tông lớn từ tầng trên rơi xuống đã chắn ngang cửa sổ và cửa ra vào văn phòng. Trước tình huống này, người thứ nhất là trưởng phòng không có đức tin và đã bỏ không đến nhà thờ từ lâu. Ông ta bực tức không ngừng chửi rủa viên kỹ sư thiết kế và là chủ thi công công trình tòa nhà đã không chịu gia cố thêm sắt thép khi xây dựng chân móng và đà cột, khiến tòa nhà dễ dàng sụp đổ khi bị động đất mạnh. Người thứ hai là nhân viên vệ sinh của công ty  có lòng đạo đức bình dân, khi bị kẹt trong văn phòng liền quỳ gối lần chuỗi kinh mân côi thật sốt sắng cầu xin Đức Mẹ thương ra tay cứu giúp. Người thứ ba là nhân viên bảo trì máy móc của công ty là người có đức tin trưởng thành đã tỏ ra bình tĩnh khi gặp sự cố. Anh ta âm thầm đối thoại cầu xin Chúa như sau: “Lay Chúa, Chúa muốn con làm gì để thoát khỏi hoàn cảnh này?” Sau đó anh lấy ra búa và đục trong giỏ đồ nghề luôn mang theo và bắt đầu đục phá khối bê-tông bít lối ra vào kia. Cứ sau một lúc làm việc, anh dừng tay nghỉ mệt và lại thầm thĩ thưa chuyện với Chúa: "Lạy Chúa, xin giúp con đủ sức đục bể khối bê-tông này để cả ba người chúng con mau thoát ra ngoài". Cuối cùng anh ta đã phá được một mảng lớn bê-tông và cả ba người đã chui ra ngoài an toàn.
Bài đọc Một ghi lại câu chuyện xảy ra trong thời kỳ Xuất Hành: khi dân Ítraen vượt qua sa mạc trong thời gian 40 năm để về tới Đất Hứa dưới quyền lãnh đạo của ông Môsê. Khi tới nơi, dân Ítraen còn phải giao chiến với các dân đang định cư trong miền đất đó. Trong một trận chiến với quân Amaléc, ông Môsê đã trao trách nhiệm cho tướng Giôsuê trực tiếp giao chiến, còn ông Môsê thì ở trên núi giang tay cầu xin Đức Chúa ban ơn trợ giúp. Bao lâu Môsê còn giang tay cầu nguyện thì quân Ítraen thắng thế; Ngược lại khi ông mỏi mệt xuôi tay xuống thì quân Ítraen lại bị thua. Bấy giờ người ta để Môsê ngồi lên một tảng đá, rồi cử hai ông Aharon và Hur đỡ hai tay ông Môsê, để ông có thể giang tay cầu nguyện lâu giờ. Cuối cùng quân Ítraen đã toàn thắng. Qua đó cho thấy chiến thắng của quân Ítraen không những do sức mạnh chiến đấu của họ, mà còn nhờ vào sự phù trợ đắc lực của Đức Chúa do ông Môsê cầu xin.
Cuộc đời thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu kính ngày 1/10 hằng năm cũng cho thấy sự cần thiết phải cầu nguyện cho công cuộc rao giảng Tin Mừng. Từ năm 15 tuổi vào dòng kín và trong suốt chín năm tu luyện, Teresa đã không giảng đạo cho một người nào. Hằng ngày chị chỉ âm thầm hy sinh hãm mình để cầu nguyện cho các vị thừa sai và cho công cuộc rao giảng Tin Mừng của Hội Thánh, thế mà Hội Thánh đã đánh giá cao lời cầu nguyện của Têrêsa, tôn ngài lên làm thánh tiến sĩ của Hội Thánh và đặt ngài Hội Thánh làm bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê, là người đã dành suốt cả đời đi giảng đạo tại các miền đất thuộc Châu Á.
- Phải kiên trì cầu nguyện: Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã dạy các môn đệ: "Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí" (Lc 18,1). Người muốn các tín hữu chúng ta phải kiên trì cầu nguyện noi gương bà goá bị oan ức đã kiên trì xin ông quan toà “vốn không tin Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người đời” minh oan cho bà. Nhờ biết kiên trì mà cuối cùng bà đã được ông thẩm phán minh oan (Bài Tin Mừng). Mỗi người chúng ta cũng phải kiên trì cầu nguyện, cả những lúc xem ra Chúa im lặng không đáp ứng các yêu cầu chính đáng của chúng ta với lòng tín thác cậy trông vào quyền năng và tình thương cùa Chúa như lời Đức Giêsu: “Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn ? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ” (Lc 18,7-8a).
- Phải biết cầu xin theo ơn Thánh Thần soi dẫn: Thánh Phaolô đã dạy: "Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí sẽ cầu thay nguyện giúp cho chúng ta… theo đúng thánh ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27). Như thế, cầu nguyện không phải là chỉ biết xin ơn cách vụ lợi của chúng ta, cũng không phải là bản liệt kê những nhu cầu để yêu cầu Chúa ban theo ý của ta. Nhưng cầu nguyện là cuộc đối thoại với Thiên Chúa, trong đó, chúng ta kể ra các nhu cầu về thể xác và tinh thần của mình, và xin Ngài ban ơn theo thánh ý của Ngài, noi gương Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha trước cuộc khổ nạn: “Cha ơi! Nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha (Mt 26,39). Tuy nhiên con người vốn yếu đuối dễ nản chí, nên Đức Giêsu đã cảnh báo: "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?” (Lc 18,8).
- LẠY CHÚA GIÊSU. Điều làm cho Chúa đau lòng là nhiều người đã bị mất đức tin, trong đó có thể có cả chúng con nữa. Nhiều lúc chúng con đã không tin vào hiệu lực của lời cầu xin: Khi gặp khổ đau hoạn nạn, chúng con thường than thân trách phận, mà không cầu xin Chúa ban ơn nâng đỡ. Cũng có những lúc chúng con chỉ biết dựa vào sức riêng của mình, dựa vào thế lực của tiền bạc hay những kẻ quyền cao chức trọng… mà không biết cậy dựa vào ơn Chúa giúp. Nhiều lúc chúng con tỏ ra chán nản thất vọng vì cầu xin mãi mà không được Chúa ban theo ý chúng con. Xin giúp chúng con kiên trì cầu nguyện và đừng bao giờ nản chí buông xuôi. Xin cho chúng con luôn ý thức rằng: “Những ai tin cậy vào Chúa, sẽ không bao giờ phải thất vọng hổ ngươi” (Tv 34,6; Sir 2,10).

Suy niệm Tin Mừng Chúa nhật XXIX Năm – C
(Lc 18, 1-8)
Bài Tin Mừng hôm nay bắt đầu : “Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng”. Dụ ngôn nói về một bà goá gây phiền hà. Để trả lời cho câu hỏi “Chúng ta phải cầu nguyện bao lâu?” Chúa Giêsu trả lời, “phải cầu nguyện luôn!” (Lc 18, 1-2).
Bà góa trong dụ ngôn tin chắc vào vụ kiện của mình, khi chứng tỏ rằng bà đáng được đền bù, nên không ngại đấu tranh vì điều đó, bà có đủ lý do để khiếu kiện, vì các thẩm phán hành động không theo công lý, “họ không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta” (Lc 18, 3). Chúa Giêsu không ngại gọi ông là “vị thẩm phán bất lương” (Lc 18, 7), vị này không có ý định xử vụ bà góa kiện, ông chẳng thèm để ý đến vụ kiện của bà. May thay, câu chuyện kết thúc tốt đẹp : từ chối mãi, cuối cùng ông mất kiên nhận vì sự quấy rầy của bà, nên xét xử cho bà, để ông khỏi nhức óc.
Và Chúa Giêsu phán : “Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương đó nói”. Cuối cùng vị thẩm phán đó cũng mang lại công lý, hơn nữa chúng ta chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ nghe lời chúng ta. Chúa Giêsu tuyên bố một cách long trọng rằng : “Thầy bảo các con, Chúa lại sẽ kíp giải oan cho họ” (Lc 18, 8).
Để chúng ta yên tâm Thánh Luca giải thích rằng, “Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng (Lc 18, 1). Nguy cơ chán nản thất vọng, khiến chúng ta ngã lòng là vì Thiên Chúa nhân lành không nhận lời chúng ta ngay? Nghĩa là Thiên Chúa có thể trì hoãn đáp lời chúng ta. Đáng ngạc nhiên nhất Đức Giêsu bảo chúng ta “phải luôn luôn cầu nguyện không ngừng”, cần phải kiên trì.
Để giúp chúng ta giải quyết nghịch lý này, phụng vụ cho chúng ta đọc sách Xuất Hành (17, 8-13) có Môisen cầu bầu cho dân Israel trong trận chiến với người Amalec kẻ thù cha truyền con nối. Tình trạng của dân Israel cũng giống như bà góa trong Tin Mừng (Lc 18, 1-8). Israel chiến thắng là do tác động của Thiên Chúa chứ không chỉ bằng vũ lực của các chiến binh. Vì thế, khi nào Môisen mệt mỏi, hạ tay xuống, thì Israel thua trần, còn nếu ông cứ giơ tay lên, thì dân Israel thằng trận (Xh 17, 12). Thực tế cho thấy sức mạnh và sự kiên trì cầu nguyện là chìa khóa để chiến thắng. Môisen đã thể hiện niềm tin của mình vào Thiên Chúa công bình, khi cánh tay của ông giơ cao, dân chúng thấy sức mạnh của lời cầu nguyện. Tóm lại, Bài đọc I cho thấy niềm tin vào Thiên Chúa có thể đảo ngược những tình huống tuyệt vọng nhất. Thiên Chúa ban ơn cách mau lẹ, Ngài mau đáp lời, nhưng một cuộc chiến vẫn được thực hiện, ân sủng phải được thể hiện trong nhân loại, chúng ta cần có thời gian để khám phá. Sự kiên trì cầu nguyện của con người và sự đáp trả từ từ của Thiên Chúa không phải là mâu thuẫn.
Điểm này khai sáng trang Tin Mừng. “Thầy bảo các con” Chúa Giêsu trả lời chúng ta. Đây không phải là một câu hỏi nhưng một điều chắc chắn : Thiên Chúa nhân lành vẫn lo lắng và ban cho con cái mọi điều chúng cần. Dụ ngôn giúp chúng ta hiểu những gì Chúa quan tâm : “Nhưng khi Con Người đến, liệu sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”. Thật vậy, Thiên Chúa sẽ minh oan cho người Ngài tuyển chọn “kẻ ngày đêm kêu cầu Ngài”. Trong số những người nghe dụ ngôn, làm thế nào “kêu cầu cùng [Thiên Chúa ] ngày và đêm”? Đây là lý do tại sao chúng ta phải luôn luôn cầu nguyện và kiên trì nữa để duy trì lòng tin của chúng ta!
Sự cầu nguyện, như tình yêu, không chịu sự tính toán. Một người mẹ đâu có hỏi bà phải thường yêu con mình bao lâu, hay là một người bạn đâu có hỏi mình phải yêu một người bạn bao lâu? Có thể có những mức độ khác nhau trong sự cân nhắc đối với tình yêu, nhưng không có những khoảng cách nhiều hay ít điều hòa hơn trong sự yêu đương. Với sự cầu nguyện cũng vậy. Lý tưởng của sự cầu nguyện kiên trì này được thực hiện trong nhiều hình thức bên phương Đông và phương Tây. Kitô giáo phương Đông thực hành điều ấy với Kinh cầu nguyện Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con!”
Thánh Augustine dạy rằng bản chất của sự cầu nguyện là sự ước muốn. Nếu sự ước muốn đối với Thiên Chúa là kiên trì, thì sự cầu nguyện cũng vậy, nhưng nếu không có sự ước muốn nội tâm, bấy giờ bạn có thể la hét nhiều như bạn muốn với Thiên Chúa thinh lặng.
Bây giờ, sự ước muốn bí mật đối với Chúa, một công việc của trí nhớ, của nhu cầu đối với sự vô cùng, của sự tưởng nhớ đến Chúa, có thể vẫn sống động, cả khi người ta có những sự khác phải làm: “Cầu nguyện lâu giờ cũng không là một sự như quì gối hay chấp tay lâu giờ. Cầu nguyện đúng hơn hệ tại sự đánh thức một sự thúc đẩy kiên trì và thành kính tâm hồn đối với Đấng chúng ta cầu khẩn.”
Chính Chúa Giêsu cho chúng ta gương cầu nguyện không ngừng. Người đã cầu nguyện ban ngày, ban chiều, sớm ban mai, và thỉnh thoảng Người thức suốt đêm cầu nguyện. Sự cầu nguyện là sợi giây liên kết của toàn diện sự sống của Người.
Nhưng gương Chúa Giêsu nói với chúng ta một cái gì quan trọng khác. Chúng ta tự phỉnh gạt mình nếu chúng ta tưởng rằng chúng ta có thể cầu nguyện luôn, biến sự cầu nguyện thành một thứ hơi thở của linh hồn giữa sinh hoạt hằng ngày, nếu chúng ta không chỉ ra những thời gian ấn định cho sự cầu nguyện, khi chúng ta tránh khỏi mọi sự bận việc khác.
Lạy Chúa Giê-su, xin hướng lòng chúng con về với Chúa, giúp chúng con kiên trì cầu nguyện với Chúa không ngừng, xin Chúa dạy chúng con cầu nguyện, để linh hồn, thể xác, trí khôn chúng con luôn hướng về Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét