Thứ Năm, 1 tháng 9, 2016

THÁNH LỄ TRUYỀN CHỨC LINH MỤC HỘI THỪA SAI VIỆT NAM & TM Chúa nhật 23 TN











































THÁNH LỄ TRUYỀN CHỨC LINH MỤC
HỘI THỪA SAI VIỆT NAM

Ngày 25/8/2016, tại nhà thờ Phú Trung, Phường 12, Quận Tân Bình. Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng – Giám mục phụ tá Tổng Giáo phận Saigon, đã về dâng lễ tạ ơn và chủ sự nghi thức truyền chức linh mục cho 11 thầy phó tế thuộc Hội Thừa Sai Việt Nam.
Cùng hiệp dâng có: Đức Tổng Giám mục Phêrô Nguyễn Văn Tốt – Sứ Thần Tòa Thánh tại Srilanka. Đức Giám mục Phêrô Trần Đình Tứ - Đặc trách Hội Thừa Sai VN và khoảng 200 linh mục của các giáo phận Saigon, Phú Cường và các linh mục Hội Thừa Sai VN . Tham dự có quý tu sĩ, đông đảo bà con thân nhân, ân nhân của các tiến chức và bà con giáo dân .

CÁC TÂN LINH MỤC:
1/ -  Vinh Sơn Phạm Văn Công.
2/ - Giuse Phạm Trung Hâu.
2/ - Phaolô Lưng Trung Hiếu.
2/ -Đaminh Nguyễn Hữu Hùng.
5/ - Gioan Nguyễn Chính HUy Khang.
6/ - Giêronimo Nguyễn Văn KHương.
7/ - Phêrô Trần Văn Lực.
8/ - Giuse Nguyễn Ngọc Thảo.
9/ - Antôn Bùi Văn Thiều.
10/ - Giuse Nguyễn Đức Tiến.
11/ - Phêrô Trần Quang Vinh.
Xin hiệp lời cầu nguyện cho các  tân linh mục được dồi dào Ân sủng cùng sức khỏe, để chu toàn với sứ vụ mới vừa được Thiên Chúa và Giáo Hội giao cho.


Chúa Nhật XXIII Thường niên - Năm C   

1.
2.
Cái giá phải trả  Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
3.
Dấn bước đi theo Chúa  Lm Giuse Đinh lập Liễm
4.
5.
6
7.
Vác thập giá vì Chúa  Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
8.
9.
10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
Chọn Chúa Kitô Niềm Vui Chia Sẻ
17.
18.
19.
Từ bỏ hết  Sưu tầm
20.
21.
Xiềng xích  Sưu tầm
22.
Từ bỏ Sưu tầm
23.
Từ bỏ  Sưu tầm
24.
Từ bỏ  Sưu tầm

LÀM MÔN ĐỆ CỦA CHÚA

ĐTGM Ngô Quang Kiệt.

Ai trong chúng ta cũng mong ước được làm môn đệ của Chúa. Ai cũng muốn theo chân Chúa. Nhưng ta có thực sự hiểu làm môn đệ Chúa là như thế nào không? Hôm nay Chúa chỉ cho ta thấy rõ điều đó.
Làm môn đệ là một việc làm nghiêm túc. Đây không phải là một cảm tính bồng bột nhất thời. Nhưng là một việc lâu dài. Chúa Giêsu ví việc làm môn đệ theo Chúa với việc “xây dựng một cây tháp” và việc “chiến đấu với kẻ thù”. Xây dựng cây tháp là một việc làm lớn lao. Chiến đấu với kẻ thù là việc làm nghiêm trọng. Vì thế cần phải ngồi xuống suy tính cho cẩn trọng, chi li. Cũng thế việc làm môn đệ của Chúa là một việc làm nghiêm túc, vừa lớn lao như sự nghiệp cả đời, vừa nghiêm trọng vì ảnh hưởng tới cả định mệnh. Vì thế phải ngồi xuống suy tính cho kỹ lưỡng để có thể theo Chúa đến cùng. Phải suy tính kỹ lưỡng vì làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng.
Làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng. Môn đệ không phải là kẻ hiếu kỳ cưỡi ngựa xem hoa. Môn đệ không phải là kẻ tài tử nay làm mai không. Môn đệ là người đi theo thày suốt đời, sống như thày trong mọi sự. Chính vì thế mà phải coi thày là thần tượng duy nhất, không yêu mến thày. Chính vì thế mà phải từ bỏ tất cả, không chỉ người thân mà từ bỏ cả chính bản thân với những ý nghĩ riêng tư. Để không những đi theo thày, sống như thày mà con ăn nói như thày, suy nghĩ như thày nữa. Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong mình. Muốn có Chúa Kitô trong mình, ta phải loại bỏ tất cả những gì không phải Chúa ra khỏi mình. Điều này chắc chắn không dễ dàng. Nhưng ta an tâm, vì Chúa Giêsu không chỉ đòi hỏi ta. Người đã đòi hỏi chính mình trước. Chúa Giêsu không chỉ đòi ta vác thánh giá. Chính Người đã vác thánh giá trước. Ta sẻ cảm thấy dễ dàng vì chỉ việc làm như Chúa Giêsu.
Làm môn đệ là làm như Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi ta từ bỏ, chính Người đã từ bỏ trước. Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người và tự nguyện chết thay loài người. Khốc liệt nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến đấu khốc liệt đã thấy trong vườn Giêtsimani, khi nhìn thấy trước cái chết đau đớn tủi nhục sắp tới, Người run sợ muốn lẩn tránh bỏ cuộc, nên đã tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén đắng này”. Nhưng cuối cùng, Chúa đã từ bỏ ý riêng, vâng theo ý Cha, sẵn sàng ra đi chịu chết: “Nhưng đừng theo ý con, xin vâng ý Cha mà thôi”.
Nhờ hoàn toàn từ bỏ ý riêng, vác thánh giá đi đến cùng, Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc của Chúa Cha trao phó, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Người môn đệ, khi hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẽ nên một với Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Làm môn đệ là gì?
2. Chúa Giêsu đã nêu gương từ bỏ thế nào?
3. Tại sao ta phải từ bỏ tất cả?


CÁI GIÁ PHẢI TRẢ

Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Ý thức cái giá phải trả khi làm môn đệ Chúa. 
"Từ bỏ mọi sự và vác thập giá theo Chúa"
(Lc 14, 25-33)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Mỗi ngày Chúa nhật khi chúng ta đến với Chúa, chúng ta đã được nghe Chúa nói với chúng ta nhiều điều, những điều rất ngọt ngào, những điều rất an ủi. Hôm nay Chúa sẽ nói với chúng ta một điều không ngọt ngào lắm: Ngài muốn chúng ta phải hy sinh, phải từ bỏ. 
Tại sao theo Chúa thì phải hy sinh và từ bỏ? Và phải hy sinh từ bỏ những gì?
Chúng ta hãy chú ý nghe Chúa giải thích. Và xin Chúa giúp chúng ta can đảm đáp lại lời kêu gọi của Ngài.
II. Gợi ý sám hối
                     Phải chăng từ trước tới nay chúng ta đi theo Chúa vì tính toán vụ lợi, nghĩa là chỉ để được Chúa ban cho ơn này ơn nọ?
                     Phải chăng chúng ta ít biết hy sinh?
                     Phải chăng chúng ta rất ngại từ bỏ?
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 9, 13-18)
Sách Khôn ngoan sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài người về những vấn đề căn bản. Đoạn trích hôm nay bàn về giới hạn của sự hiểu biết của con người:
                     Ngay cả những vấn đề thuộc hạ giới, tức là những vấn đề trong tầm tay con người mà con người cũng phải rất nhọc công mới khám phá được, thậm chí nhiều điều con người không hiểu nổi. 
                     Huống chi những vấn đề thuộc thượng giới, những vấn đề liên quan đến cuộc sống đời đời. 
                     Vì thế, con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để mà đi theo và nhờ đó được ơn cứu độ. 
2. Đáp ca (Tv 89)
Tv này triển khai những ý tưởng của bài đọc I:
                     Thân phận con người rất mỏng manh: "như cỏ đồng trổi mọc ban mai, nở hoa vươn mạnh sớm ngày, chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn"
                     Do đó con người kêu xin Chúa: "Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan"
3. Tin Mừng (Lc 14, 25-33)
a. Khung cảnh: Khi ấy "Có rất nhiều người đi đường với Chúa Giêsu": họ đang cùng với Chúa Giêsu "tiến lên Giêrusalem". Nhưng có lẽ họ cho rằng đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Để xóa tan hiểu lầm này, Chúa Giêsu nói những lời tiếp theo.
b. Đại ý Chúa Giêsu nói: Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu ("đi theo" Ngài) thì phải yêu mến Ngài hơn (diễn tả theo kiểu đặc biệt sêmít là "ghét") tất cả những gì mình tha thiết nhất, chẳng hạn cha mẹ, vợ con, anh em và cả mạng sống mình nữa.
c. Sau đó Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn: Một người xây tháp trước khi xây phải tính toán kỹ để chọn lựa quyết định có nên xây hay không. Một ông vua trước khi đi giao chiến cũng phải tính toán kỹ để chọn lựa có nên giao chiến hay không. Cũng thế, nếu biết theo Chúa Giêsu phải chấp nhận từ bỏ tất cả, thì trước khi theo phải tính toán cho kỹ.
4. Bài đọc II (Plm 9b-10. 12-17) (Chủ đề phụ)
Đây là một phần của bức thư Phaolô viết cho một tín hữu của ngài là Philêmon.
Hoàn cảnh: Khi ấy, một nô lệ của Philêmon tên là Ônêsimô bỏ nhà trốn đi có lẽ sau khi đã ăn cắp một số tiền. Do hoàn cảnh nào đó đẩy đưa, Ônêsimô gặp Phaolô đang ở tù. Ônêsimô xin theo đạo. Phaolô chấp thuận. Phaolô cũng quyến luyến Ônêsimô muốn giữ anh lại với mình, nhưng không thể được. Vì thế Phaolô quyết định gởi Ônêsimô về cho chủ. Nhưng Phaolô không gởi suông, mà cho Tychique đi kèm và còn mang theo lá thư này nữa cho Philêmon trong đó Phaolô tế nhị gợi ý Philêmon sẽ đón nhận Ônêsimô như một người anh em trong đức tin. Nhưng Phaolô không hề lạm dụng tình nghĩa của Philêmon đối với mình để làm áp lực, trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmon sẽ vì lòng tốt mà làm việc đó.
IV. Gợi ý giảng
* 1. Con đường theo Chúa
Thánh Luca mở đầu bài tường thuật này như sau:"Có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ". Trong ngôn ngữ Thánh kinh, "đi theo" có nghĩa là làm môn đệ. Chúa Giêsu là ông thầy đi trước, các môn đệ đi theo phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này Chúa Giêsu đã "quay lại bảo họ", nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ.
Điều quan trọng mà Chúa Giêsu muốn dặn dò kỹ các môn đệ là gì? Đọc tiếp đoạn Tin mừng chúng ta thấy Chúa dặn dò 2 điều: một điều tiêu cực là phải từ bỏ, một điều tích cực là phải vác thập giá. Chúng ta hãy suy nghĩ về từng điều:
1. Điều thứ nhất là từ bỏ
a/ Tại sao làm môn đệ Chúa thì phải từ bỏ? Vì đi theo Chúa giống như đi leo núi. Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến không leo nhanh được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc.
b/ Vậy phải từ bỏ những gì? Chúa Giêsu kể: phải bỏ "cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình". Qua cách nói "Cha mẹ, vợ con, anh chị em", ý Chúa muốn nói tới gia đình; còn qua chữ "mạng sống", ý Chúa muốn nói tới những gì thân thiết nhất của mình. Nhưng ta hãy hiểu cho đúng; Chúa không bảo người môn đệ phải bỏ những thứ vừa kể một cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Gia đình là tốt, mạng sống là cần. Gắn bó với gia đình và tha thiết với mạng sống không có gì là xấu cả. Tuy nhiên bất cứ khi nào mình cảm thấy 2 thứ đó trở thành bận vướng, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người môn đệ phải can đảm từ bỏ.
2. Điều quan trọng thứ hai mà Chúa Giêsu căn dặn chúng ta là vác Thập giá
a/ Tại sao muốn đi theo Chúa thì nhất thiết phải với thập giá? Vì, như đã vừa nói ở phía trên, nếu đi theo Chúa giống như đi leo núi, thì thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
b/ Điều thứ hai này có liên quan tới điều thứ nhất: chúng ta từ bỏ những thứ bận vướng là để mình có thể thong dong mà vác thập giá.
Chúng ta thường quên mất 2 việc rất quan trọng để thực sự xứng đáng làm môn đệ Chúa:
1.                 Xưa nay chúng ta quen tìm kiếm để được thêm chứ ít khi nào chủ động từ bỏ. Thỉnh thoảng có từ bỏ chỉ là vì miễn cưỡng, vì rán chịu vậy mà thôi. Thí dụ khi chúng ta bị mất tiền, mất đồ đạc, khi một người thân chết. 
2.                 Cũng thế xưa nay chúng ta không chủ động vác thánh giá. Thập giá nào Chúa gởi thì chúng ta rán mà vác vậy thôi. Nguyên việc khám phá thứ nhất này cũng cho thấy chúng ta chưa thực sự xứng đáng làm môn đệ Chúa Giêsu. Người môn đệ thật của Chúa phải chủ động từ bỏ và chủ động vác thập giá. 
* 2. Đòi hỏi của tình yêu
Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ.
Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.
Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.
Trùng Nhĩ dù sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi chúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay thật rõ ràng: "Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu động từ "dứt bỏ" không có nghĩa là cắt đứt, là từ bỏ, mà là "ít hơn". Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh hơn kém, nên khi cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu "yêu và bỏ". Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: "Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy" (Mi 10, 37).
Vậy ý của Chúa Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình.
Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.
Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn "Xây tháp" và "Cuộc giao chiến". Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính. Phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.
Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận "cầm cày mà còn quay lại sau lưng". Thật vậy, những kẻ "đứng núi này trông núi nọ" thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ "bắt cá hai tay" là những người thua thiệt nhiều nhất. Đúng như Pierre Charles đã nói về họ: "Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an hưởng ở lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi".
Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất mát.
Xin đừng bao giờ để chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những đòi hôi gắt gao của tình yêu, nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những cơ hội giúp chúng con lớn lên trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen. (TP)
* 3. Lời nói thẳng thắn
Dòng Thừa Sai Bác ái của Mẹ Têrêsa Calcutta đã rất nổi tiếng, nên có rất nhiều thiếu nữ xin gia nhập. Nhưng Mẹ Têrêsa rất thẳng thắn, Mẹ nói với họ: "Công việc người nữ tu dòng này rất cực khổ: chúng tôi phải phục vụ cho những người nghèo và những người vô gia cư. Chúng tôi phải làm việc suốt 24 giờ mỗi ngày". Mẹ Têrêsa thẳng thắn như thế để các thiếu nữ ý thức và cân nhắc cẩn thận trước khi gia nhập dòng.
Gia nhập "dòng" của Chúa Giêsu để làm môn đệ Ngài còn cực khổ hơn nhiều. Vì thế Chúa Giêsu cũng rất thẳng thắn nói rõ cho những kẻ đi theo Ngài: Ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải sẵn sàng từ bỏ tất cả và còn phải vác thập giá mà theo.
Làm môn đệ Chúa không phải là bám theo một nhân vật quyền thế để có ô dù che chở hay để chia xẻ vinh dự, mà là để sống theo gương Ngài: hy sinh tất cả vì yêu thương mọi người.
Bởi đó người muốn làm môn đệ Chúa cần phải suy nghĩ kỹ xem mình có thể đáp ứng được những đòi hỏi khó khăn ấy không. Như người xây tháp phải suy nghĩ kỹ về khả năng tài chính của mình, như một ông vua trước khi xuất chinh phải suy nghĩ kỹ về sức mạnh quân sự của mình.
Nếu chúng ta suy nghĩ kỹ về khả năng đáp ứng của mình trước hai đòi hỏi trên của Chúa Giêsu, chắc là chúng ta nản lòng không dám làm môn đệ của Ngài nữa.
Tuy nhiên gương các tông đồ là một khích lệ cho chúng ta: ban đầu các ông theo Chúa Giêsu mà không suy nghĩ gì nhiều; nhiều lúc các ông còn nghĩ rằng theo Chúa Giêsu thì sẽ được chia quyền chia thế trong nước mà Ngài sẽ thành lập. Nhưng Chúa Giêsu từ từ thanh luyện suy nghĩ của các ông. Sau ngày Chúa phục sinh, các ông mới hiểu rõ thế nào là làm môn đệ Chúa; và nhờ sức mạnh Chúa Thánh Thần các ông đã can đảm từ bỏ tất cả và vác thập giá của mình đi theo Chúa một cách hăng hái và vui vẻ.
Hiện giờ chúng ta chưa đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi của Chúa về một người môn đệ. Nhưng ít ra ý thức của chúng ta về những đòi hỏi đó cũng giúp chúng ta không đi theo Chúa vì những tính toán sai lệch. Nhìn gương các tông đồ và tin tưởng vào sự trợ giúp của ơn Chúa, chúng ta có thể can đảm từ bỏ và vác thập giá đi theo Ngài.
* 4. Người-đi-theo và người-môn-đệ
Trong đoạn Tin Mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là "đi theo" và "làm môn đệ". Thánh Luca đã xử dụng những cụm từ này rất khéo: "Khi ấy có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ... thì không thể làm môn đệ tôi. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi"... Rất đông người "đi theo" Chúa Giêsu nhưng không phải tất cả đều là "môn đệ" Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là môn đệ.
Người-đi-theo chưa hẳn là người-môn-đệ
Cũng như người-nói "Lạy Chúa lạy Chúa" chưa hẳn là người-làm theo ý Chúa. 
Cũng như người-đến-nhà-thờ chưa hẳn là người-tín-hữu. 
Cũng như người-mang-danh kitô hữu chưa hẳn là người-kitô-hữu.
Điều khiến người-nói thành người-làm, người-đến-nhà-thờ thành người-tín-hữu, người-đi-theo thành người-môn-đệ, người-mang-danh-kitô-hữu thành người-kitô-hữu-đích-thực, đó là từ bỏ và vác thập giá.
Một trong những khiếm khuyết của Giáo Hội--và là khiếm khuyết lớn nhất - đó là trong Giáo Hội có rất nhiều người-đi-theo Chúa Giêsu, nhưng rất ít người-môn-đệ thực sự của Ngài.
* 5. Trả giá
Muốn làm việc gì cũng phải trả giá cho việc đó. Việc càng trọng thì giá càng cao. Nhiều người không làm xong việc mình muốn làm là vì không dám trả giá.
Antoinette là một cô gái rất đẹp nhưng rất nghèo. Điều mơ ước duy nhất của cô là trở thành giàu có, và cô nghĩ rằng cách dễ nhất là lấy được một người chồng giàu. Nhưng rủi thay khi cô lấy chồng thì người chồng của cô chỉ là một kẻ thường dân. Thất vọng và chán nản, cô chẳng muốn làm gì nữa, cũng chẳng muốn đi đâu hết.
Một hôm, Antoinette nhận được thiệp mời đến dự một bữa tiệc gồm toàn những người quý phái. Cô mừng lắm. Nhưng cô không có y phục và nữ trang sang trọng. Tuy nhiên cô biết cách thu xếp: cô rút hết tiền tiết kiệm ra mua được một bộ áo đẹp; cô đến với Marie một bạn học cũ mượn được một chiếc vòng nạm kim cương.
Thế là Antoinette xuất hiện trong bữa tiệc với một dáng vẻ rất xinh đẹp và sang trọng. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về cô. Cô rất sung sướng. Tuy nhiên khi tiệc tàn, trở về nhà, cô hoảng hốt khi biết chiếc vòng nạm kim cương đã rơi mất. Tìm tới tìm lui nhiều lần mà vẫn không thấy.
Chẳng còn cách nào khác, cô đành phải đi vay 40 ngàn quan với lãi xuất cao để ra tiệm kim hoàng mua một chiếc vòng y như thế trả lại cho Mary. Vì hai chiếc vòng rất giống nhau nên Marie không thắc mắc gì cả.
Từ đó trở đi, Antoinette phải làm đủ mọi việc để kiếm tiền trả nợ. Sau 10 năm, cô trả xong nợ. Nhưng khi đó trông cô rất già và không còn xinh đẹp như ngày xưa nữa.
Một hôm Antoinette và Marie tình cờ gặp nhau:
- Ồ sao trông bạn già đi và tiều tụy như thế? Marie giật mình hỏi. 
- Tất cả chỉ tại bạn đó. 
- Sao lại tại tôi?
Antoinette kể rõ đầu đuôi sự việc. Nghe xong Marie nói:
- Trời ơi tội nghiệp cho bạn quá. Chiếc vòng nạm kim cương của tôi là đồ giả. Giá chỉ có 400 quan thôi.
Thế là đột ngột Antoinette được Marie trả lại 39. 600 quan. Cô đã trở thành người giàu có. Nhưng với cái giá là 10 năm làm quần quật đủ mọi thứ việc cùng với một thân xác tiều tuỵ và một bộ mặt già nua.
Phải chi Antoinette đã chịu khó làm việc ngay từ đầu thì cái giá đâu đến nỗi cao quá như vậy!
6. Chuyện minh họa
a/ Một hôm, có một người đến hỏi một giáo sư nổi tiếng về một thanh niên: "Anh ta có phải là môn đệ của Thầy không?" Vị giáo sư đáp: "Quả thật anh ta đang theo học những bài dạy của tôi. Nhưng không bao giờ anh ta là môn đệ của tôi".
b/ Một vị vua đến thăm một thiền viện. Nhà vua hỏi vị thiền sư: "Trong thiền viện này có tất cả bao nhiều người đang theo học". Thiền sư đáp "10 ngàn". Nhà vua rất ngạc nhiên. Nhưng nhà vua càng ngạc nhiên hơn nữa khi thiền sư nói tiếp: "Trong số đó, số môn đệ thật của tôi chỉ có 4 hoặc 5 người".
V. Lời nguyện cho mọi người 
Chủ tế: Anh chị em thân mến, có người nào biết được ý định của Thiên Chúa? Ai hiểu được Chúa muốn gì? Với ước mong được Chúa gan Đức Khôn ngoan và Thánh thần để giúp ta hiểu được thánh ý Người, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:
1. Hội thánh luôn bênh vực những người thấp cổ bé miệng / bảo vệ những ai cô thế cô thân / giúp đỡ những kẻ đói rách bần cùng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa nâng đỡ các công cuộc từ thiện của Hội thánh trên khắp hoàn cầu.
2. Ngày nay / tuy chế độ nô lệ không còn nữa / nhưng nhiều hình thức nô lệ khác tinh vi hơn vẫn tồn tại và phát triển / làm mất hết tự do và phẩm giá của con người / như việc buôn bán phụ nữ còn đang xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những nhà lãnh đạo các quốc gia / sớm tìm được phương thế thích hợp / để tiêu diệt tội ác đáng kinh tởm này.
3. Trách nhiệm của người Kitô hữu / là cộng tác với hất thảy mọi người thành tâm thiện chí / để xây dựng trái đất này ngày càng xinh đẹp và hữu ích hơn / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai tin Chúa / biết cố gắng thực hiện trọn vẹn bổn phận cao quý này.
4. Chúa Giêsu nói: / Ai không vác thập giá mình mà theo tôi / thì không thể làm môn đệ tôi được / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn can đảm đón nhận mọi thử thách / và trung kiên bước theo Chúa mái đến cùng.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương và mời gọi chúng con làm con cái Chúa. Xin Chúa giúp chúng con luôn sống xứng danh người Kitô hữu, để những anh chị em chưa nhận biết Chúa, nhìn vào đời sống của chúng con mà nhận ra Chúa chính là tình yêu. Chúng con cầu xin
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Tác giả đoạn sách Khôn ngoan hôm nay đã viết "ý định của Chúa ai nào biết được". Chúng ta hãy xin Chúa tỏ cho chúng ta biết được thánh ý của Ngài để chúng ta thi hành.
VII. Giải tán
Chúng ta hãy ghi nhớ lời Chúa Giêsu "Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta". Trong tuần này chúng ta hãy can đảm vác lấy những thập giá hằng ngày để theo Chúa.

DẤN BƯỚC ĐI THEO CHÚA

Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP 
          Trên đường tiến về Giêrusalem, có rất đông người đi theo Đức Giêsu. Nhiều người đi theo Ngài vì tưởng rằng Ngài đến đó để lập một vương quốc hùng cường theo nghĩa trần gian, Ngài đến đó với một vẻ huy hòang chiến thắng. Nhưng cũng có người có thiện cảm, có thiện chí đi theo để làm môn đệ Ngài. Trong bầu khí hồ hởi đó, Đức Giêsu không ngần ngại đưa ra những điều kiện khắt khe cho những ai muốn đi theo Ngài. Ngài biết trước số người đi theo thì rất đông, nhưng người trở thành môn đệ thì rất ít. Ngài đưa ra những điều kiện như vậy để họ suy nghĩ và tự quyết định con đường để theo.
          Điều kiện Đức Giêsu đưa ra cho những ai muốn đi theo làm môn đệ Ngài là từ bỏ và vác thập giá. Ngài đã nói thẳng thừng và cương quyết :”Ai theo Ta mà không dứt bỏ (ghét) cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Và ai không vác thập giá mình mà đi theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được”(Lc 14, 26-27). Như vậy, Đức Giêsu kêu gọi những ai muốn theo Ngài hãy suy nghĩ cẩn thận để quyết định : nếu yêu chính bản thân mình, hay yêu bất kỳ ai khác, hoặc tiền tài danh lợi hơn Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ của Ngài. 
          Chúng ta là những Kitô hữu. Trên nguyên tắc, Kitô hữu là người được mang tên Đức Kitô, được thuộc về Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài và làm môn đệ Ngài, nhưng trong thực tế, mấy ai sống xứng đáng với danh hiệu là Kitô hũu chính danh, xứng đáng với danh hiệu là môn đệ trung thực của Đức Kitô, nhiều khi vô tình đã trở thành những môn đệ dổm. Hôm nay chúng ta phải xác quyết lại lời hứa khi chịu phép rửa tội là từ bỏ ma qủi và quyết tâm theo Chúa đến cùng. 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. 
          +  Bài đọc 1 : Kn 9,13-18. 
          Sách Khôn ngoan là một sưu tập những suy nghĩ của nhiều thế hệ loài người chung quanh vấn đề khôn ngoan minh triết. Ngày xưa vua Salômôn chỉ xin Chúa ban cho sự khôn ngoan ấy và ông đã trở nên người khôn ngoan nhất trên trần. Vậy sự khôn ngoan đích thực là gì và từ đâu tới ? Thưa, sự khôn ngoan đích thực chỉ đến từ Thiên Chúa. 
          Đọan trích hôm nay cho biết con người có sự khôn ngoan, nhưng sự khôn ngoan ấy rất hạn chế. Ngay trong những việc thuộc trần thế nằm trong tầm tay của con người mà chưa thể hiểu nổi, phương chi là những điều thuộc thượng giới, những điều liên quan đến cuộc sống đời đời  thì làm sao hiểu thấu được. 
          Vì thế, con người rất cần được Thiên Chúa ban ơn khôn ngoan để biết đường lối của Chúa để đi theo và nhờ đó mà được ơn cứu độ. Thiên Chúa sẽ ban ơn khôn ngoan cho chúng ta nhờ Thần Khí giúp đỡ.
          +  Bài đọc 2 : Plm 9b-1012-17. 
          Trong lá thư ngắn gửi cho Philêmôn, thánh Phaolô biện hộ cho tên nô lệ Ôânêximô để gợi lên lòng bác ái Kitô giáo mà tha thứ cho anh ta. Anh Ônêximô là tên nô lệ của Philêmôn, đã trốn đi sau khi đã ăn cắp một số tiền. Sau khi anh này đã theo đạo, thánh Phaolô gửi anh ta lại cho chủ và xin ông chủ hãy đón nhận anh không phải một tên nô lệ mà là một người anh em trong Đức Kitô. 
          Tuy thế, thánh Phaolô không hề lạm dụng  tình nghĩa của Philêmôn đối với mình để gây áp lực; trái lại chỉ nhẹ nhàng gợi ý và hy vọng Philêmôn sẽ vì lòng tốt mà làm theo sự gợi ý của mình. 
          +  Bài Tin mừng : Lc 14, 25-33. 
          Trên đường tiến về Giêrusalem, có rất nhiều người đi đường với Đức Giêsu. Theo tâm lý chung của những người thời đó, Đức Giêsu sẽ thiết lập một vương quốc hùng cường, cho nên họ nghĩ rằng  đây là một sự tiến lên để giành chiến thắng theo kiểu trần gian. Nhưng để đánh tan sự hiểu lầm này, Đức Giêsu đã đưa ra những điều kiện cho nghững kẻ muốn theo Ngài. 
          Theo ý Đức Giêsu, ai muốn theo Ngài thì phải coi Ngài hơn tất cả mọi mối dây liên hệ thân ái nhất như cha mẹ, vợ con, anh chị em và kể cả mạng sống mình nữa. Theo Ngài tức là làm một đệ Ngài, và đã làm môn đệ Ngài thì phải thực hiện những điều kiện cực kỳ gay go. 
          Đồng thời, Đức Giêsu cũng khuyên nhủ mọi người phải khôn ngoan trong việc lựa chọn qua dụ ngôn người xây nhà và vị vua đi giao chiến. Việc theo Chúa là một việc trọng đại phải đắn đo suy nghĩ thật kỹ trước khi dấn thân, chứ không thể bốc đồng rồi bỏ cuộc. 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
                    Muốn làm môn đệ của Chúa.
I. GIÁO HUẤN TRÊN ĐƯỜNG ĐI GIÊRUSALEM. 
          Thánh Luca tường thuật cho chúng ta  cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem và những lời giáo huấn của Ngài. Cuộc hành trình này lại trùng với cuộc hành trình của người Do thái đi dự lễ Vượt Qua tại Giêrusalem. Vì thế, có nhiều đám đông cùng đi với Ngài. Nhưng họ không phải là những người đi qua đường mà là những người có thiện cảm với Đức Giêsu và có thiện chí muốn theo Ngài. 
          Trong ngôn ngữ Thánh Kinh, “Đi theo” có nghĩa là làm môn đệ. Đức Giêsu là ông thầy đi trước, các môn đệ đi phía sau. Thông thường ông thầy chỉ cần đi trước cho các môn đệ đi theo. Nhưng trong chuyện này, Đức Giêsu “quay lại bảo họ”, nghĩa là Ngài có điều quan trọng muốn dặn dò kỹ các môn đệ. Đức Giêsu muốn dạy những điều gì ? Theo bài Tin mừng hôm nay, chúng ta thấy có hai phần chính và một phần phụ. Phần chính là những điều kiện cho người đi theo Chúa, và phần phụ nói lên tính cách  của việc đi theo Chúa qua hai dụ ngôn người xây nhà và ông vua đi giao chiến. 
          A. PHẦN CHÍNH CỦA GIÁO HUẤN. 
          Phần này gồm có hai điều kiện : từ bỏ mọi sự và vác thập giá. 
          1. Từ bỏ mọi sự. 
          Điều kiện theo Chúa là phải từ bỏ mọi sự. Việc đi theo Chúa giống như đi leo núi. Nếu mang nhiều thứ cồng kềnh thì sẽ bận vướng nặng nề khiến không leo nhanh được, thậm chí còn có thể bỏ cuộc. Chúa bảo ta phải bỏ tất cả mọi sự. Điều này xem ra quá gay gắt, nhưng chúng ta phải hiểu ý Ngài nghĩa là Ngài không bảo người môn đệ phải bỏ tất cả cha mẹ, vợ con, anh chị em… một cách tiên thiên, mà là bỏ nếu như chúng làm bận vướng cho việc đi theo Chúa. Tuy nhiên, bất cứ khi nào mình cảm thấy những thứ đó trở thành bận vướng, hay bất cứ khi nào Chúa soi sáng cho ta thấy như vậy, thì người môn đệ phải can đảm từ bỏ. 
          2. Vác thập giá mình. 
          Ở đây Đức Giêsu muốn lưu ý rằng những ai muốn theo Ngài thì chỉ có thể theo bằng cách  vác thập giá như Ngài sẽ vác. Thập giá ở đây là những hy sinh phải đón nhận. Theo Chúa là đón nhận sự hy sinh trong việc từ bỏ, trong nỗ lực, cố gắng và thiện chí. Nếu không vậy thì không thể thành môn đệ của Ngài được. 
          B. PHẦN PHỤ CỦA GIÁO HUẤN. 
          Người muốn làm môn đệ phải biết khôn ngoan lựa chọn vì từ bỏ là điều kiện để theo Chúa và theo Chúa là một việc quan trọng có liên can đến sự sống còn của cuộc đời mỗi người. Vì vậy Đức Giêsu bảo ta phải thận trọng tính toán và kiên tâm bền chí mới có thể vượt thắng được mọi trở ngại trên đường theo Chúa. 
          Để diễn tả điều đó, Đức Giêsu đưa ra hai dụ ngôn về một người muốn xây nhà và ông vua đi giao chiến. Muốn xây nhà thì phải dự tính xem có đủ tiền không, kẻo đang xây dở dang mà hết tiền thì không có nhà ở, và ông vua không lượng sức mình thì sẽ thua phía địch. Hai dụ ngôn này nhấn mạnh rằng nếu có ý định  theo Chúa thì cần phải lượng sức mình trước, xem mình có thể từ bỏ được như Chúa đòi hỏi không. Nếu không được, thì hãy từ bỏ ý định theo Chúa, kẻo sau đó mà “giữa đường đứùt gánh” thì bỏ cả cuộc đời, đời này và đời sau. 
II. TRIỂN KHAI ĐIỀU KIỆN THEO CHÚA. 
          Những người cùng đi với Đức Giêsu tới Giêrusalem là những người đi cho vui cũng có, để thỏa mãn ước vọng cũng có và những người vì ái mộ cũng có. Thánh Luca nói rõ :”Có nhiều đám đông cùng đi với Đức Giêsu”. Nhưng trong đám đông này có nhiều người có thiện cảm, có thiện chí muốn đi theo Ngài. Từ ngữ “Đi theo” trong Thánh Kinh có nghĩa là làm môn đệ. Vậy Đức Giêsu nói cho đám đông và cách riêng cho các môn đệ của Ngài những điều kiện phải có để trở thành môn đệ của Ngài. Chúng ta tiếp tục triển khai từng điều kiện. 
          1. Điều kiện tiêu cực : Từ bỏ. 
          Đức Giêsu nói với đám đông :”Nếu ai đến với Ta mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta”(Lc 14,26). Có bản dịch là “ghét” cha mẹ. Như vậy có mâu thuẫn với giới răn thứ tư không (Lc 18,19t) ? 
 Theo Joseph Fitzmeyer, trong ngôn ngữ Hy lạp chữ “misein” có nghĩa là “ghét”, ngược với chữ “agapan” là “yêu”. Chữ “ghét” này mang một ý nghĩa ít yêu thương, chọn một cái khác ưu tiên hơn. Nó không diễn tả một tình cảm thù nghịch, mà chỉ nói lên một sự lựa chọn hơn kém. Phải “từ bỏ” tất cả mọi sự, trừ Thiên Chúa, tức là chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa hơn bất cứ sự gì khác, gồm của cải vật chất hay những liên hệ thân yêu với cha mẹ, vợ con, anh chị em trong gia đình. Nếu còn bám víu vào bất cứ ai hoặc sự gì ưu tiên hơn Thiên Chúa, chúng ta chưa xứng đáng là môn đệ của Ngài (Nguyễn văn Thái). 
          Như vậy, ghét hay từ bỏ ở đây chỉ có nghĩa là đặt ở hàng thứ yếu, không ngang hàng. Nên câu trên chỉ có ý nghĩa là phải yêu mến Thiên Chúa hơn cha mẹ, vợ con, anh chị em (St 29,30.31.33; Đnl 15,21t; Mt 10,37). 
          Những lời Đức Giêsu phán thật đáng ngạc nhiên, đến độ chói tai nữa. Thế nhưng nó chỉ có ý diễn tả một điều  : tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong tim ta, và ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy. 
         Thánh Grêgôriô Cả  giải thích câu “khó nghe” này, ngài viết :” Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải ghét những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa”. Dứt khóat là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu : Chúa trên hết. 
          Không những Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải từ bỏ những cái bên ngoài mà Ngài muốn môn đệ phải từ bỏ chính bản thân mình. Từ bỏ chính mình có nghĩa là từ bỏtham, sân, si. 
        Tham là tính tham lam : tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham quyền, tham thế. Chính cái tham ấy xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và làm khổ lẫn nhau.
       Sân là tính nóng nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân cũng là giận. Giận mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở nên hung bạo, gây tai ương và đau khổ cho người khác.
      Si là ngu muội, tối tăm, mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy luận đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành kiến sai lầm. Hơn nữa còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả dối, những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong  xấu xa, thối nát. 
          Đối với chúng ta thì từ bỏ chính mình, có nghĩa là không làm theo ý muốn ý thích của mình khi điều đó không phù hợp với ý Chúa. Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho Chúa và tha nhân.  
          Vấn đề thực hành sống đạo : Nếu “bản thân mình” là con người hiện thân của chủ thể và là sự sống tâm linh nơi chủ thể, thì  “bỏ bản thân mình” đi theo lời Chúa Kitô khuyên dạy trong Tin mừng hôm nay phải chăng chính là việc bỏ đi những ý nghĩ về mình và là việc bỏ đi ý muốn tự do của mình, dù những ý nghĩ về mình hay của mình  đó có chí lý đến đâu, và dù ý muốn của mình đó có tốt lành và hay ho đến mấy đi nữa, chẳng hạn như trường hợp Trinh Nữ Maria trong giây phút Truyền tin Lời nhập thể, hay như trường hợp của thánh Phêrô bị Thầy quở là “Đồ Satan, hãy xéo đi, vì ngươi chẳng nghĩ tưởng theo ý hướng của Thiên Chúa mà tòan là theo kiểu của lòai người”(Mt 16,23”? 
          2. Điều kiện tích cực : vác thập giá. 
          Các đám đông hâm mộ Đức Giêsu chắc hẳn xem việc Ngài đến Giêrusalem như là một cuộc tiến vào đầy khải hoàn vinh thắng, sau đó là xuất hiện vương quốc trần thế và vinh hiển của Đấng Messia. Họ tự xem mình là môn đệ Đức Giêsu và đáng được Ngài đưa đến vinh quang. Đức Giêsu không thể để ảo tưởng đó kéo dài. Ngài lưu ý những kẻ theo Ngài : họ chỉ có thể theo Ngài bằng cách vác thập giá, như chính Ngài sẽ vác sau này. Ai quyết định theo Đức Giêsu phải sẵn sàng chấp nhận mọi hậu quả của việc đó, cũng như mọi thứ đi ngược lại bản tính con người. 
          Theo Chúa thì nhất thiết phải vác thập giá. Theo Chúa là một cuộc đăng sơn, một cuộc leo lên núi Calvariô. Theo Chúa giống như leo núi, thập giá giống như cái gậy của người leo núi. Nó rất cần và có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.  Thập giá ở đây là mọi hy sinh phải đón nhận và đón nhận với tinh thần tự nguyện :”Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta được” (Lc 14,27). 
          Tuy thế, không phải cứ tự nguyện vác thập giá thì thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng, dễ chịu. Điều đó cũng đúng, nhưng không vì thế mà làm cho cây thập giá trở nên nhẹ nhàng đến nỗi không cần cố gắng nữa. Mỗi ngày một cố gắng thì sẽ thành công. 
          John Newton đề nghị với chúng ta cách vác thập giá : “Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra , rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta  một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi.  Nhiều người lại không làm như thế : chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay và còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”!
          3. Phải lượng sức mình : lựa chọn. 
          Muốn làm môn đệ Chúa, mỗi người phải suy tính cẩn thận, phải tính cái giá phải trả khi theo Ngài. Ngài minh giải điều đó bằng hai dụ ngôn người xây nhà và vị vua đi giao chiến. Cái tháp mà người định xây đó có lẽ là cái tháp của vườn nho. Các vườn nho thường có những tháp để từ trên đó có thể trông coi cả vườn kẻo kẻ trộm phá mất mùa nho. Xây tháp mà bể đổ thì thật đáng xấu hổ. Hay là ông vua điên khùng nào kéo quân ra trận mà không tính toán trước, đo lường số quân của mình với lực lượng của đối phương. 
 Đức Giêsu có ý nói rằng chẳng thà đừng bước vào đời sống tín hữu hơn là bước vào rồi thất bại. Ngài chỉ muốn người ta trước khi bước vào cuộc sống ấy đã phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự là điều kiện đòi hỏi trong khi phục vụ Chúa.  Tục ngữ Việt nam cũng nói lên ý tưởng ấy :         
          Xem giỏ bỏ thóc   Hay
        Đừng vung tay quá trán. 
          Sống là phải chọn lựa và sự chọn lựa nhiều lúc làm cho chúng ta phải băn khoăn lo lắng, day dứt, giống như ở đô thị Jeffa xứ Palestina, có một khu đất gọi là đất quyết định. Các sông ngòi chảy vào khu đất ấy lưỡng lự một lúc rồi mới chảy sang một trong hai hướng. Những sông ngòi theo một hướng thì chảy vào những khu vườn Sharon xinh đẹp. Còn những sông ngòi theo hướng kia thì chảy vào Biển Chết,  biển này không có một sinh vật nào sống nổi. Cuộc đời chúng ta cũng thế. Chúng ta phải chọn một hướng. Không ai có thể làm tôi hai chủ. 
          Sự lựa chọn đã là khó, nhưng sống theo sự lựa chọn đó càng khó hơn, đúng như người ta nói :”Đâm lao thì phải theo lao”(Tục ngữ), đã theo Chúa thì phải quyết tâm theo đến cùng vì :”Ai đã tra tay vào cầy mà còn ngoái lại đàng sau thì không xứng đáng là môn đệ Ta”. Đã theo Chúa thì sẵn sàng chấp nhập mọi bất trắc rủi ro : 
Muối mặn ba năm muối vẫn còn mặn,
Gừng cay chín tháng gừng hãy còn cay.
Đạo vợ chồng đừng có đổi thay,
Làm nên danh vọng, hay rủi ăn mày vẫn theo nhau.
                                                 (Ca dao)
          4. Đi theo hay làm môn đệ ? 
          Trong đoạn Tin mừng này, có những cụm từ rất ý nghĩa, đó là “đi theo” và “làm môn đệ”. Thánh Luca đã xử dụng những cụm từ này rất khéo :”Lúc ấy có rất đông người “đi theo” Đức Giêsu. Ngài quay lại bảo họ :Ai không dứt bỏ…thì không thể “làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá  mình mà đi theo Ta thì không thể làm môn đệ Ta”. Rất đông người đi theo Đức Giêsu nhưng không phải tất cả đều là môn đệ Ngài; chỉ những ai đi theo mà từ bỏ và vác thập giá thì mới là môn đệ. Người đi theo chưa hẳn là người môn đệ.         
          Có người nói với một giáo sư danh tiếng ở Đại học Paris về một chàng thanh niên rằng :
          - Anh ta nói với tôi rằng, anh ta là học trò của giáo sư, có phải không ?
          Vị giáo sư thẳng thắn trả lời :
          - Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi nhưng anh ta không phải là học trò của tôi. 
 Bài học của câu chuyện trên đây muốn nói một học sinh chưa chắc là “môn sinh”. Là một học sinh thì rất dễ dàng. Nó không đòi hỏi những trách nhiệm luân lý quan trọng. Học sinh có thể thay đổi giáo sư tùy theo nhu cầu bằng cấp. Một ủng hộ viên cũng có thể nay ủng hộ người này mai chạy theo ủng hộ người khác tùy theo nhu cầu cá nhân của họ. Họ là kẻ cơ hội chủ nghĩa. Châm ngôn của họ là :”Làm cái gì có lợi cho tôi”. Trái lại, một môn sinh đích thực phải có sự cam kết đoan hứa trung thành, một sự dấn thân dâng hiến hoàn toàn cho lý tưởng và thầy mình. Một môn sinh phải có một tinh thần vâng phục sâu xa và một lòng ước ao học hỏi nơi sư phụ của mình. 
          Một lần khác, khi nhà vua Trung quốc đến thăm những tu viện của đại thiền sư Lin Chi, nhà vua ngạc nhiên khi biết được rằng có hơn 10.000 nhà sư đang sống ở đó. Muốn biết rõ con số chính xác các nhà sư, nhà vua hỏi :
          - Ngài có bao nhiêu đệ tử ?
          Nhà sư Lin Chi đáp :
          - Bốn hoặc năm. 
          Lạ thật ! Với hàng chục ngàn người theo học mà chỉ có 4,5 người là môn đệ !  Nếu hôm nay có người hỏi Chúa : Ngài có chính xác bao nhiêu môn đệ ? Không biết Chúa sẽ trả lời làm sao vì nhiều người chỉ có danh mà không có thực, chỉ có tiếng mà không có miếng ! Phải tỏ ra mình là một Kitô hữu chính danh chứ không phải hư danh, phải sống đúng với địa vị của mình là Kitô hữu , đúng là :
 “Có ăn có chọi mới gọi là trâu” (Tục ngữ). 
III. LÀM MÔN ĐỆ CHÚA HÔM NAY. 
     
     Những đòi hỏi của Đức Giêsu trong Tin mừng hôm nay là quá gắt gao, người ta có thể chấp nhận được không ? Nếu Đức Giêsu làm nghề quảng cáo, chắc là Ngài sẽ thất bại. Vì không ai như Chúa, quảng cáo ơn gọi để mời gọi người ta theo mình, lại không đưa ra một tương lai sán lạn  nào, không tìm thấy bất cứ một vinh dự nào, hoặc ngay cả một sự hấp dẫn nào dù nhỏ nhoi nhất, cũng không có. Ngược lại chỉ là từ bỏ và nhận thập giá. Nghĩa là chỉ có nghèo đến trần trụi như Chúa đã không có gì cho mình từ khi bắt đầu làm người, đến lúc bước lên thập giá. Hơn nữa, theo Chúa, làm môn đệ Chúa để được gì mà phải thiệt thòi đến vậy ? Theo mà điều kiện nặng nề như thế, thì theo để làm gì ? Nhất là đối với thế giới hôm nay, con người chỉ muốn tìm cho mình  một cuộc sống tự do dễ dãi, ích kỷ, coi trọng vật chất, tôn thờ quyền lợi cá nhân…, thì với một điều kiện khắc nghiệt như thế, thật là một điều không tưởng. Lời Chúa xem ra quá lạc lõng, xa lạ ? 
          Thế nhưng không đúng ! Tất cả những suy nghĩ bên trên đều ngược hẳn với thực tế mà lịch sử Giáo hội đã ghi nhận hàng ngàn năm qua, đến hôm nay và sẽ còn mãi về sau. Bởi đã 2000 năm, những lời Đức Giêsu vẫn cứ mới nguyên, vẫn là Lời Sống  cho biết bao nhiêu anh chị em chọn làm lẽ sống của mình. Những anh chị em ấy đã quả cảm bước theo Đức Giêsu, từ bỏ mọi sự, nhận thập giá làm niềm vui của đời mình. Chính họ đã làm cho tinh thần và lời dạy của Đức Giêsu chẳng những không mai một, không lạc lõng, mà còn sống, sống mạnh và lan rộng cả thế giới, qua mọi thế hệ. Họ là ai ? Hơn hai tỷ người theo Chúa Kitô trên khắp thế giới là một bằng chứng hùng hồn (Nguyễn hữu An). 
          Vậy ý của Đức Giêsu là ai muốn làm môn đệ Ngài thì phải đặt tình yêu Chúa trên mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác, tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu : Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay chính cả bản thân. 
          Như  thế, người tín hữu khi đã chọn Chúa, làm môn đệ của Ngài, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần  thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặït lại cho mình. 
Truyện : Giới Tử Thôi. 
          Trong “Đông châu liệt quốc” có ông Giới Tử Thôi, người nước Tấn, đờøi Xuân Thu, là một bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi ấy, vua nước Tấn là Tấn Huệ Công sợ công tử Trùng Nhĩ cướp ngôi nên sai người đi ám sát. Được mật báo, Trùng Nhĩ cùng với một số bầy tôi  đi lánh nạn. Trên đường chạy trốn từ nước Địch sang nước Tề phải đi qua nước Vệ, đoàn lánh nạn bị vua nước Vệ chận lại toan bắt nên chạy càng trối chết. Chẳng may lạc đường lại hết lương thực, công tử Trùng Nhĩ không ăn được rau cỏ dại nên sinh kiệt sức sắp chết. Thấy vậy, Giới Tử Thôi liền cắt thịt ở đùi mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn mới lại sức đi đến được nước Tề an toàn. Đến lúc Trùng Nhĩ khôi phục lại được nghiệp lớn là làm vua nước Tấn thì Giới Tử Thôi lặng lẽ về quê ở ẩn không màng lãnh công. Cả khi vua Tấn  nhớ ơn người bầy tôi trung thành, muốn đền đáp công lao thì Giới Tử Thôi cõng mẹ vào rừng sống ẩn dật, nhất quyết không nhận.
                             (Võ Ngọc Thành, Nhân vật Đông Châu, 1968, tr 324) 
          Giáo hội thúc giục chúng ta hãy dấn bước theo Chúa trong cuộc đời dương thế. Hiến chế Lumen gentium ghi rõ :”Đang khi còn là lữ hành trên mặt đất, bước theo vết chân Người trong đau thương và bách hại, chúng ta cùng thông hiệp với những đau khổ của Người như thân thể kết hợp với đầu, hiệp thông với sự thương khó của Người để được cùng Người vinh hiển (Rm 8,7) (Lumen gentium đọan 7). 
          Sau cùng, chúng ta hãy bước theo Đức Giêsu với sự chia sẻ của Đức cố Hồng y F.X. Nguyễn văn Thuận qua kinh nghiệm 14 bước theo Đức Giêsu :
          . Bước lang thang ra chuồng bò ở Be lem.
          . Bước hồi hộp trốn sang Ai cập.
          . Bước bồn chồn trở về Nazareth.
          . Bước phấn khởi lên đền thánh với cha mẹ.
          . Bước vất vả suốt 30 năm lao động.
          . Bước yêu thương ba năm rao giảng Tin mừng.
          . Bước thao thức kiếm tìm chiên lạc.
          . Bước xót xa vào Giêrusalem đầm đìa nước mắt.
          . Bước cô đơn ra trước tòa không một người thân.
          . Bước ê chề vác Thánh giá lên đồi tử nạn.
          . Bước thất bại chết chôn mồ kẻ khác, không tiền không bạc, không manh áo, không bạn hữu.
          . Bước khải hòan sống lại, hãy vững lòng Thầy đã thắng thế gian.
          . Bước khổng lồ đi khắp thế gian rao giảng Tin mừng.
          . Bước liều mạng lăn xả vào thử thách, chấp nhận mọi hậu quả, vì Chúa đã dạy con liều mạng”
                             (Trích Sứ điệp Lao Tù, Vietcatholic, CD 3)

ĐẶT THIÊN CHÚA LÊN TRÊN HẾT

Cha Mark Link, S.J.
Chủ đề: "Trong cuộc đời, chúng ta phải đặt Thiên Chúa lên trên hết  và hằng ngày phải sống điều quyết định đó"
Gale Sayers, là một tuyển thủ của đội banh Chicago Bears hồi thập niên 1960, ông được coi là một cầu thủ nổi tiếng trong lịch sử banh bầu dục. Trên cổ ông đeo một huy chương vàng, trên đó có khắc hàng chữ: Tôi Là Người Thứ Ba.
Hàng chữ này trở thành đầu đề cho cuốn tự truyện bán chạy nhất của ông. Qua cuốn này chúng ta biết tại sao những chữ ấy lại rất có ý nghĩa đối với ông. Đó là khẩu hiệu của huấn luyện viên Bill Easton, người dạy môn chạy đua khi ông Gale còn là sinh viên của Đại Học Kansas.
Huấn luyện viên Easton khắc những chữ ấy trên một tấm thẻ và để trên bàn làm việc. Một ngày kia ông Gale hỏi người huấn luyện về ý nghĩa của những chữ ấy. Ông Easton trả lời, "Trước hết là Thiên Chúa, kế đến là bạn hữu, và tôi là người thứ ba." Từ ngày đó trở đi, ông Gale coi những chữ này như một triết lý sống của cuộc đời.
Trong năm thứ hai là tuyển thủ của đội Bears, ông Gale muốn đeo trên cổ một điều gì đó có ý nghĩa, như ảnh tượng tôn giáo. Bởi thế ông mua một huy chương vàng và khắc trên đó hàng chữ Tôi Là Người Thứ Ba.
Trong tự truyện, ông Gale cho biết, "Tôi cố sống theo những gì viết trên huy chương ấy. Tôi không luôn luôn thành công, nhưng nhờ những chữ ấy đeo trên cổ mà tôi không lầm lạc quá xa."
Câu chuyện của ông Gale Sayers cho thấy điều Chúa Giêsu muốn nói đến trong phần đầu của bài phúc âm hôm nay, khi Người nói:
"Ai đến với tôi đều không thể là môn đệ của tôi trừ phi họ yêu mến tôi hơn yêu mến cha mẹ..."
Nói cách khác, chúng ta phải dâng hiến các ưu tiên hàng đầu của chúng ta cho Chúa Giêsu và Cha trên trời.
Và điều đó đưa chúng ta đến điểm thứ hai mà Chúa Giêsu đã nói trong phần hai của bài phúc âm hôm nay:
"Nếu một trong các người dự định xây cái tháp, trước tiên hắn phải ngồi xuống và suy tính xem tốn phí thế nào và có đủ tiền để hoàn tất công việc hay không."
Nói cách khác, dâng hiến các ưu tiên hàng đầu của chúng ta cho Chúa Giêsu thì chưa đủ. Chúng ta còn phải sống các ưu tiên đó một khi đã quyết định.
Dĩ nhiên, đó là phần khó khăn.
Như ông Gale Sayers đã nói thật rõ ràng: "Đặt Chúa lên hàng đầu là một chuyện. Sống điều đó là một chuyện khác nữa."
Đó là lý do tại sao ông Gale đeo huy chương đó trên cổ: để nhắc nhở ông phải sống điều tiên quyết ấy. Hãy lập lại lời của ông:
"Tôi cố sống theo những gì viết trên huy chương ấy. Tôi không luôn luôn thành công, nhưng nhờ đeo trên cổ những chữ ấy tôi không sai lạc quá xa."
Một thời gian trước đây, trong tờ Los Angeles Times phóng viên Dave Smith có kể một câu chuyện cảm động. Đó là về người Kitô Hữu thời đại, giống như ông Sayers, đã đặt Thiên Chúa lên trên hết, kế đến là tha nhân, và thứ ba mới đến chính mình. Tên ông là Charlie DeLeo.
Ông từng là "một đứa trẻ ngỗ nghịch ở vùng Nữu Ước." Sau khi từ cuộc chiến Việt Nam trở về, ông kiếm được công việc làm là lau chùi bức tượng Nữ Thần Tự Do.
Ông Charlie cho người phóng viên biết một phần của công việc là coi sóc ngọn đuốc trong tay bức tượng và vương miện trên đầu bức tượng.
Ông phải đảm bảo các đèn luôn luôn sáng và 200 cửa kính trên ngọn đuốc và vương miện luôn luôn sạch.
Chỉ tay về ngọn đuốc, ông Charlie hãnh diện nói, "Đó là nguyện đường của tôi và tôi dâng cho Chúa. Khi nghỉ giải lao tôi thường lên đó cầu nguyện."
Nhưng ông Charlie còn thi hành nhiều điều khác nữa cho Chúa.
Ông nhận được lời khen ngợi của cơ quan Hồng Thập Tự khi ông hiến máu lần thứ 65.
Và sau khi nghe biết về công việc của Mẹ Têrêsa ở Ấn, ông đã tặng $12,000 cho Mẹ và những người tương tự.
Ông Charlie nói khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II nói chuyện ở công viên Battery, cách nơi bức tượng một dặm rưỡi, ông đứng ở vòng đai quanh ngọn đuốc và nghe Đức Thánh Cha nói. Từ vòng đai đó ông đã cầu nguyện cho chuyến tông du Hoa Kỳ của đức giáo hoàng được thành công.
Ông nói với phóng viên tờ Los Angeles Times:
"Tôi không giao du nhiều, không có quần áo đẹp, nhưng tôi vui. Tôi không đủ tiền để lấy vợ. Tôi không để dành đồng nào. Sau khi kiếm được công việc này, tôi bảo trợ sáu em cô nhi qua một tổ chức bác ái."
Ông chấm dứt câu chuyện với người phóng viên rằng, ông tự coi mình là "Người Giữ Ngọn Lửa" của tượng Nữ Thần Tự Do. Sau này một người làm việc trong công viên cho phóng viên biết:
"Ai ai cũng biết ông Charlie thì đặc biệt. Khi ông tự cho mình danh hiệu ấy, họ mỉm cười. Nhưng bây giờ tất cả chúng tôi không coi thường điều ấy. Đối với chúng tôi, ông thật đúng với điều ông nói: 'Người Giữ Ngọn Lửa.'"
Ông Charlie DeLeo khởi sự cuộc đời là một đứa trẻ ngỗ nghịch ở vùng Nữu Ước. Nhưng sau này, giống như ông Gale Sayers, ông quyết định đặt Thiên Chúa lên trên hết, kế đến là tha nhân, và thứ ba mới đến ông.
Quyết định đó đã thay đổi đời ông.
Ông Charlie là một thí dụ sống động về hai điểm mà Chúa Giêsu đã nói trong bài phúc âm hôm nay: quyết định đặt Chúa lên trên hết trong đời, và quyết định sống điều đã lựa chọn.
Ông Charlie còn là một cảm hứng sống động để chúng ta thi hành điều mà ông đã làm: dâng hiến các ưu tiên hàng đầu cho Thiên Chúa và với sự giúp đỡ của Người, chúng ta sống các ưu tiên đó một cách can đảm.
Đây là ý nghĩa của các bài đọc hôm nay. Đây là lời mời gọi của Thiên Chúa cho mỗi người chúng ta ở bàn tiệc Thánh Thể này.
Hãy kết thúc với lời cầu nguyện mà ông Charlie DeLeo đã viết. Nó tóm lược điều thách đố của các bài đọc hôm nay:
Ôi lạy Chúa, con không dám kỳ vọng một đức tin như của Abraham,
Ôi lạy Chúa, con cũng không dám kỳ vọng tài lãnh đạo của Môsê,
Hoặc sức mạnh của Samson, 
hoặc sự gan dạ của Đavít... 
hoặc sự khôn ngoan của Sôlômôn...
Nhưng điều con mong đợi, ôi lạy Chúa, 
là một ngày nào đó Ngài sẽ gọi con.
Ý Chúa là gì, con sẽ thi hành,
mệnh lệnh của Chúa là gì 
đó là niềm vui của con...
Và con sẽ không làm Chúa thất vọng, 
vì Ngài là tất cả những gì
con tìm kiếm để phục vụ,"
VÁC THẬP GIÁ MÌNH
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Muốn làm môn đệ Chúa, phải từ bỏ tất cả (kể cả cha mẹ, và những người thân yêu nhất). Từ bỏ như thế thì làm sao sống được trên đời? Làm sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình vô nghĩa? Cần phải hiểu hai chữ «từ bỏ» theo nghĩa nào?
2. Tại sao Đức Giêsu lại yêu cầu những người theo Ngài phải lượng sức mình: có từ bỏ tất cả mọi sự được thì hãy theo, không thì thôi?
3. Không lượng sức mình mà cứ theo Chúa, thì đã sao? Có tai hại gì đâu? Khối người theo Chúa có phải từ bỏ gì đâu, họ còn được thêm là đằng khác?
Suy tư gợi ý:
1. Muốn làm môn đệ Chúa, phải từ bỏ tất cả
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói lên một cách quả quyết, rõ ràng và dứt khoát là: muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài, phải sẵn sàng từ bỏ tất cả: người, vật, ý riêng, thậm chí những người thân yêu nhất như cha mẹ, vợ con, và ngay cả bản thân hay mạng sống mình nữa. Sự rõ ràng và dứt khoát ấy trở nên rất rõ nét nhờ hai dụ ngôn về một người muốn xây nhà và một ông vua muốn chiến đấu. Muốn xây nhà thì phải dự tính xem có đủ tiền không, kẻo đang xây dở dang mà hết tiền, thì sẽ không có nhà ở! Hai dụ ngôn này nhấn mạnh rằng nếu có ý định theo Chúa, thì cần phải lượng sức mình trước, xem mình có thể từ bỏ được như Chúa đòi hỏi không. Nếu không được, thì hãy từ bỏ ý định theo Chúa, kẻo sau đó bị dở dang «thầy không ra thầy, thợ không ra thợ», lỡ việc, lỡ cả cuộc đời, và có thể lỡ cả đời sau.
2. Cần phải hiểu «từ bỏ» theo hai nghĩa
Khi Đức Giêsu đòi hỏi những người theo Ngài phải từ bỏ, điều ấy không có nghĩa là những kẻ theo Ngài luôn luôn phải rời xa cha mẹ, vợ con, và sống như người không có gì. Hiểu theo nghĩa đen như thế không hẳn là sai, nhưng chỉ đúng với ơn gọi của một số ít người. Từ bỏ ở đây nên hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Nghĩa là người theo Chúa cần phải có tinh thần từ bỏ. Có tinh thần từ bỏ là luôn luôn coi Chúa và những việc của Chúa là quan trọng hơn tất cả mọi sự khác, nên sẵn sàng hy sinh những cái không quan trọng cho cái quan trọng khi thực tế đòi buộc như vậy. Từ bỏ không phải là không quí những điều mình từ bỏ, mà là không quí bằng một cái khác quí hơn, nên sẵn sàng hy sinh cái quí nhỏ cho cái quí to. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng vườn… đều là những thứ mà người theo Chúa phải quí trọng, thậm chí rất quí, nhưng đối với người theo Chúa, thì phải coi tất cả những thứ đáng quí ấy không quí bằng việc thực hiện Nước Thiên Chúa.
Và khi đã có tinh thần từ bỏ, thì tinh thần ấy sẽ được thể hiện thành hay hành động từ bỏ. Nếu những hành động từ bỏ không phát xuất từ tinh thần từ bỏ thì không có giá trị lắm. Tuy nhiên, nếu tinh thần từ bỏ mà không được thể hiện thành những hành động từ bỏ cụ thể, thì chắc chắn đó không phải là tinh thần từ bỏ đích thực.
3. Phải lượng sức mình khi theo Chúa
Có thể Chúa không đòi hỏi tất cả mọi người phải có tinh thần từ bỏ như thế. Nhưng Ngài đòi hỏi những ai theo Ngài phải có tinh thần ấy. Vì thế, trong hai dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa yêu cầu những ai theo Ngài phải lượng sức mình xem mình có thể có được tinh thần từ bỏ như vậy không. Nếu không có, thì đừng theo Ngài, Ngài không trách phạt những người bình thường nếu họ không có tinh thần ấy. Nhưng Ngài sẽ trách phạt những ai theo Ngài mà lại không có tinh thần từ bỏ ấy. Chính vì thế, mà cần phải lượng sức mình kẻo có hại cho sự phát triển hay vinh quang của Nước Chúa, đồng thời cho chính bản thân mình.
Rất tiếc là tinh thần từ bỏ này chưa được đặt nặng đúng mức nơi những người mang danh là theo Chúa. Trong nhiều Giáo Hội địa phương, những người mang danh theo Chúa lại được nhiều đặc quyền đặc lợi hơn những người bình thường (được hết sức kính trọng vì danh nghĩa là người theo Chúa chứ không vì tài đức bản thân, dễ dàng có quyền hành, địa vị, chức tước, tiền bạc hơn người bình thường…) Vì thế, có biết bao người theo Chúa vì những động lực trần tục ấy. Theo Chúa, thay vì từ bỏ hay mất đi nhiều thứ mình đang có, thì lại có thêm hay chiếm hữu được nhiều thứ mình chưa có. Do đó, với tinh thần chiếm hữu thay vì từ bỏ, những người mang danh theo Chúa ấy không thể thực hiện được những bổn phận hay trách nhiệm mà những người theo Chúa phải gánh vác trong những hoàn cảnh cụ thể mà Nước Chúa đòi buộc (chẳng hạn phải tranh đấu cho người nghèo, cho người bị áp bức, chống lại sự ác, bất công…) Họ không dám từ bỏ, không dám dấn thân, không dám hy sinh trong những việc đòi hỏi họ phải chấp nhận nguy hiểm đến mạng sống, đến sự an toàn bản thân, đến danh dự, đến quyền lợi… Đương nhiên họ vẫn có thể hy sinh trong những việc nhỏ, miễn sự hy sinh ấy đừng lớn hơn cái lợi trần gian họ đạt được. Cũng như một người đi buôn sẵn sàng hy sinh tiền bạc, công sức để thu vào một cái lợi lớn hơn.
Những người theo Chúa kiểu ấy sẽ rất bỡ ngỡ vào ngày sau hết, khi Chúa bảo họ: «Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!» (Lc 13,27). Và lúc ấy họ sẽ lên tiếng thắc mắc: «Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi» (Lc 13,26). Hoặc «Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?» (Mt 7,22). Chính vì thấy trước viễn tượng ấy, mà Đức Giêsu đã yêu cầu những ai muốn theo Chúa phải lượng sức mình. Nếu không thể từ bỏ mọi sự được như thế (nên hiểu theo nghĩa tinh thần), thì nên rút lui sớm kẻo vừa hại cho Nước Chúa vừa hại cho phần rỗi của mình.
4. Một đề nghị
Trong các Giáo Hội Á châu, việc Giáo Hội khuyến khích giáo dân tôn kính và dành nhiều đặc quyền đặc lợi cho những người theo Chúa có rất nhiều điều hay, nên làm, nhưng thiết tưởng cũng nên ý thức và quan tâm tới mặt trái của nó để hành xử cho khôn ngoan. Sự tôn trọng của giáo dân và những đặc quyền đặc lợi mà Giáo Hội dành cho những người theo Chúa có thể khiến cho những Ki-tô hữu không có tinh thần siêu nhiên, sẽ theo Chúa không phải vì Chúa, vì Giáo Hội hay các linh hồn, mà vì một động lực trần tục.
Thật vậy, nếu những ai mang danh theo Chúa mà lại được tôn kính, trọng vọng một cách mặc nhiên bất chấp họ có xứng đáng hay không; nếu những điều kiện sinh sống của họ cũng mặc nhiên trở nên dễ dàng gấp bội so với những giáo dân bình thường chỉ vì họ mang danh hiệu đó mà thôi, thì việc mang danh theo Chúa sẽ trở nên rất hấp dẫn đối với những ai thiếu tài đức nhưng lại ham muốn trèo cao và muốn có điều kiện sống dễ dàng hơn mọi người mà đỡ vất vả. Nếu những điều kiện để được mang danh là theo Chúa lại dễ dàng hơn những điều kiện để mang những danh hiệu khác ngoài đời, thì số người «muốn theo Chúa» với động lực trần tục sẽ đông lên gấp bội. Điều ấy sẽ ảnh hưởng rất xấu đến chất lượng của những người mang danh theo Chúa. Nếu những người theo Chúa vì động lực trần tục chiếm đa số, thì thật là tai hại cho Giáo Hội. Họ sẽ không thể dấn thân thật sự cho Giáo Hội khi Giáo Hội cần đến sự dấn thân ấy. Giáo Hội sẽ đầy gương xấu đến từ giới được coi là ưu tú nhất, và bị đình trệ không phát triển được. Và những người muốn theo Chúa thật sự (chiếm thiểu số) sẽ nản lòng và sẽ chẳng hoạt động hữu hiệu được, thậm chí sẽ không muốn vào, mà lại muốn ra khỏi hàng ngũ ấy để … khỏi bị thiên hạ đánh giá kiểu «cá mè một lứa»!
Vì thế, những người hữu trách trong Giáo Hội nên tìm cách tránh cho Giáo Hội tình trạng đồ giả lan tràn như ngoài đời. Làm đồ giả vừa thực hiện dễ dàng lại vừa kiếm được nhiều lợi nhuận hơn làm đồ thật, nên thị trường tràn lan đồ giả. Đồ giả càng tinh vi thì bên ngoài càng giống đồ thật, thậm chí nhiều loại đồ giả còn «có vẻ thật» hơn cả đồ thật. Đương nhiên chất lượng của đồ giả thì luôn luôn kém cỏi. Nếu không có biện pháp xử lý khôn ngoan, thì trong Giáo Hội cũng có thể lan tràn những người có vẻ theo Chúa, nghĩa là theo Chúa một cách «hữu danh vô thực», không có tinh thần «từ bỏ» làm bảo chứng.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin ban cho Giáo Hội ngày càng tăng số người muốn theo Cha thật sự, nghĩa là những người sẵn sàng chấp nhận tinh thần từ bỏ mà Cha đòi hỏi và mong muốn. Xin cho chúng con dù là giáo dân hay giáo sỹ, cũng có tinh thần từ bỏ đích thực để xây dựng Nước Thiên Chúa tại trần gian, đặc biệt trên quê hương con. Amen.
MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊSU
Lm. Phạm Thanh Liêm
Ai cũng được mời gọi trở thành môn đệ Đức Giêsu, nhưng không phải ai cũng là môn đệ Ngài. Để trở thành môn đệ của Chúa, phải chọn Thiên Chúa và từ bỏ những gì trái với Ngài.
Từ bỏ chính mình
Đám đông đi theo Đức Giêsu, nhưng không phải tất cả là môn đệ của Ngài: “nếu ai đi theo tôi mà không từ bỏ chính mình, thì không thể theo tôi được”.
Từ bỏ chính mình, là cách nói khác của thái độ chọn Chúa trên tất cả. Không có sự trái nghịch giữa giữa việc đi theo Chúa và đạo hiếu, vì giới răn thứ tư Chúa dạy: “thảo kính cha mẹ”; nhưng giả như cha mẹ hay bất kỳ ai đó có những đòi hỏi trái với luật Chúa, thì phải chọn Thiên Chúa trên tất cả. Thiên Chúa không muốn con người phải chết, nhưng muốn con người được sống và sống hạnh phúc với Thiên Chúa; nhưng giả như có trường hợp phải chọn giữa Thiên Chúa và mạng sống mình, chẳng hạn như trường hợp bách hại đạo, thì phải chọn Thiên Chúa trên cả mạng sống mình.
Chọn Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả. Chọn Chúa, là yêu thương cha mẹ thật sự, là giữ đạo hiếu tuyệt hảo. Thí dụ, cha mẹ của một ai đó ép con mình lấy người nó không yêu không thương; thì theo đạo hiếu “thiển cận”, người con phải vâng lời lấy người cha mẹ muốn; nhưng nếu chỉ một thời gian ngắn sau cha mẹ người đó chết mà người con phải sống khổ cả đời vì đã vâng lời cha mẹ lấy người mình không thương yêu, thì nếu cha mẹ người đó biết con mình không sống hạnh phúc, chắc cha mẹ đã không ép con mình làm như vậy; nên trong trường hợp này không làm theo ý cha mẹ, là có hiếu hơn nghe theo lời cha mẹ. Nói như vậy, không có nghĩa là coi thường ý kiến của cha mẹ về vấn đề hôn nhân cho con cái. Con cái phải trân trọng ý kiến của cha mẹ, vì thường cha mẹ chỉ muốn cho con cái mình hạnh phúc; nhưng giả như có trường hợp khác, thì phải chọn Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn tôi làm điều đúng, và Ngài muốn tôi sống hạnh phúc.
Chấp nhận chính mình
“Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi”. Con người, ai cũng có những giới hạn.
Chẳng hạn, một người không được thông mình như chúng bạn mình, một người không đẹp như bạn mình, một người có một tật nào đó về thể lý hoặc tinh thần. Nếu con người không chấp nhận chính mình, luôn càm ràm Thiên Chúa “tại sao Chúa dựng nên con xấu như vậy, tại sao con lại không được thông mình bằng người khác, tại sao răng của con như vậy, tại sao mắt của con như vậy,…”, muốn làm “tài khôn” cho Chúa, thì người đó không thể làm môn đệ của Chúa được. Chấp nhận con người mình, chấp nhận những giới hạn của mình, đó là vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu. Chấp nhận con người mình như mình là, đã là vượt qua chính mình và nên thánh từng ngày rồi. Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt, và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán “ơn ta đủ cho con” (2 Cor.12, 7-9).
Chấp nhận chính mình, là chấp nhận để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn trên mình. Đó là thái độ cần thiết để một người có thể sống hạnh phúc trên trần gian này. Nếu ai không hài lòng với chính mình, không nhận ra được gì hay nơi con người mình để tạ ơn Chúa, thì thật bất hạnh cho người đó.
Chấp nhận tha nhân trong yêu thương
Thiên Chúa là nhất đối với Phaolô. Con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên Chúa và đối với con người. Trở nên con Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, là một hồng ân vô cùng lớn mà không gì có thể so sánh và mua được.
Onesimus, người nô lệ của Philemon đã được ơn trở lại qua Phaolô. Phaolô chấp nhận Onesimus như một người với tất cả giá trị của con người, cho dù người đời có phân biệt nô lệ và tự do. Phaolô mời gọi Philemon, người môn đệ của mình, nhận ra và chấp nhận phẩm giá của Onesimus, và đối xử với Onesimus, người nô lệ của mình, như người anh em trong Chúa. Để làm được điều này, Philemon phải chọn Chúa trên hết, coi trọng người tông đồ đã rao giảng Lời Chúa cho mình, đặt nhẹ lợi lộc trần gian, và nhận ra giá trị đích thực của con người không tựa vào nô lệ hay tự do theo kiểu trần thế.
Chọn Thiên Chúa trên tất cả, chấp nhận con người của mình như mình là, từ bỏ tất cả thậm chí cả bản thân mình, là điều kiện của người môn đệ Đức Giêsu. Xin cho chúng ta được ơn trở thành môn đệ Đức Giêsu trong cuộc sống.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Có sự xung đột giữa những bổn phận đối với Thiên Chúa, cha mẹ và vợ chồng không? Xin bạn cho thí dụ và chia sẻ cái nhìn của bạn?
2. Bạn có đồng ý với quan điểm “chọn Thiên Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả” không? Đâu là quan điểm của bạn?
3. Liệu con người có thể từ bỏ chính mình được không? Tại sao?
VÁC THẬP GIÁ VÌ CHÚA
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Đôi khi để được việc nào đó chúng ta cũng phải hy sinh, phải từ bỏ rất nhiều để đạt được điều chúng ta mong muốn. Cách sống này người ta gọi là ”Khổ nhục kế”. Khổ nhục kế cũng là cách người ta dùng hy sinh, dùng nhục hình để nói lên lòng thành của mình.
Chuyện kể rằng tại lối vào một trung tâm mua sắm sầm uất ở tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) đã thực sự bị ùn tắc trước "sự cố nghiêm trọng": một thanh niên quỳ gối nhất quyết không chịu đứng lên, khiến cho mọi người xúm lại coi! Ngay cả khi cảnh sát đến can thiệp, anh chàng cũng không chịu rời vị trí để trả lại sự yên tĩnh cho đường phố!
Anh chàng cho biết bản thân đang cực kỳ đau khổ và giày vò vì đã không giữ lời hứa với người yêu mà uống rượu, khiến cô nàng tuyên bố đường ai nấy đi! Khổ thân anh chàng lếch thếch chạy theo năn nỉ và mất dấu cô bồ ở trung tâm mua sắm này. Vì thế, anh ta quyết định quỳ gối cho đến khi nào cô ấy xuất hiện mới thôi. May mà sau vài tiếng "thi gan", anh chàng đã khiến cho trái tim cô gái "chảy nước" nên cô đã đến và đưa anh ta đi.
Hóa ra để được việc đôi khi phải từ bỏ, từ bỏ danh dự, từ bỏ chính mình để được điều mình mong ước. Tựa như một cậu học sinh cần từ bỏ những niềm vui vô bổ để tập trung học hành mới mong công thành danh toại. Cuộc sống không có vinh quang nào mà không qua gian khó. Gian khổ càng nhiều vinh quang càng lớn. Quy luật cuộc đời trường tồn vẫn là thế.
Cuộc sống của người môn đệ cũng phải trải qua gian khổ, hy sinh, tập luyện và từ bỏ. Đôi khi phải hy sinh hay từ bỏ cả những cái mình quyến luyến, thích thú hay đam mê. Từ bỏ những cái mình yêu, mình thích thật là khó. Từ bỏ những cái mình gắn bó lâu dài càng khó hơn. Thế nhưng, vì Chúa chúng ta sẵn lòng. Vì Chúa chúng ta hy sinh. Vì Chúa chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Từ bỏ như thế gọi là thập giá. Thập giá vì lòng yêu mến Chúa sẽ trở thành thánh giá vinh quang.
Chúa Giê-su cũng từng đón nhận thập giá vì Chúa Cha. Thập giá của Chúa Giê-su đã biến thành thánh giá. Thánh giá vinh quang. Thánh giá đem lại nguồn ơn cứu rỗi cho nhân trần. Theo lẽ thường chẳng ai thích đau khổ. Ai cũng tìm an nhàn sung sướng. Thế nhưng, Chúa Giê-su đã chọn gian khổ, chọn hy sinh để vui lòng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha sẽ ân thưởng vương quyền thiên quốc cho những hy sinh mà Ngài đã làm cho Chúa Cha.
Là người ai cũng ham sướng sợ khổ. Nhưng chúng ta vẫn có thể đón nhận vì một hạnh phúc lớn hơn. Tựa như người mẹ mang thai nặng nhọc và còn sinh con trong đớn đau nhưng niềm vui thật to lớn khi con được sinh ra chào đời. Là người ky-tô hữu chúng ta cũng đón nhận thập giá không phải vỉ chúng ta thích đau khổ mà vì một phần thưởng thật lớn lao trên trời mà Chúa dành cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã từng nói rằng: những đau khổ đời này chẳng là gi so với hạnh phúc viên mãn đời sau. Thế nên, vì lòng yêu mến Chúa chúng ta biết đi vào cửa hẹp là từ bỏ những tham sân si, những niềm vui bất chính để được sống thanh thoát đời này và vinh hiển đời sau. Vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẵn lòng vác thập giá của bổn phận để phục vụ gia đình và tổ quốc hầu mai sau chúng ta cũng được ân thường hạnh phúc thiên đàng.
Xin cho chúng ta luôn biết đón nhận thập giá  như là hồng ân Chúa gửi đến để ta lập công trước mặt Thiên Chúa. Amen
ĐÒI HỎI CỦA TÌNH YÊU
Sợi Chỉ Đỏ
Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ.
Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.
Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.
Trùng Nhĩ sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Tử Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi cúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay thật rõ ràng: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu động từ “dứt bỏ” không có nghĩa là cắt đứt, là từ bỏ, mà là “ít hơn”. Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh hơn kém, nên khi cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu “yêu và bỏ”. Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37).
Vậy ý của Đức Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình.
Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thiết thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.
Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào, mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp” và “Cuộc giao chiến”. Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính. Phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.
Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận “cầm tay mà còn quay lại sau lưng”. Thật vậy, những kẻ “đứng núi này trông núi nọ” thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ “bắt cá hai tay” là những người thua thiệt nhiều nhất. Đứng như Pierre Charles đã nói về họ: “Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an hưởng ở lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi”.

Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất mát.
Xin đừng bao giờ để chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những đòi hỏi gắt gao của tình yêu, nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những cơ hội, giúp chúng con lớn lên trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen.
NHỮNG ĐÒI HỎI ĐỂ ĐI THEO ĐỨC GIÊSU
Chú giải của Fiches Dominicales
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Để đi đến cùng.
"Trên đường lên Giêrusalem" (l3,22), bằng một động tác có tính biểu tượng, Đức Giêsu "quay lại” phía "đám đông cùng đi đường" với Người, để dạy cho họ bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ của Người.
Chỉ "đến với" Đức Giêsu thôi không đủ. Đi theo Người bao gồm việc phải chấp nhận để chó những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng khuấy động lối sống của chúng ta: cách riêng trong phạm vi những mối liên hệ gia đình và sử dụng của cải vật chất, là đề tài quen thuộc của Luca.
Những "liên hệ gia đình":
Đức Giêsu tuyên bố không úp mở "ai đến với tôi, mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được". Ở đây, Luca dùng động từ Hy Lạp có nghĩa “là ghét bỏ" để diễn tả lối nói nguyên thuỷ bằng tiếng Aram, một thứ ngôn ngữ vốn không có từ so sánh. Một kiểu nói mạnh mà soạn giả Tin Mừng dịch là ‘dứt bỏ’ hay "tai ương ít hơn", “không thương hơn.": Tất cả những mối liên hệ nhân loại, dù chính đáng và thâm sâu đến đâu ngay cả đến "mạng sống" con người đi nữa, đều phải phụ thuộc vào mối liên hệ của họ với Đức Kitô. N. Quesson giải thích ngay. “Lẽ dĩ nhiên Đức Giêsu là một vị Ngôn sứ của tình thương chứ không phải của thù ghét.
Lối nói thẳng thừng của Người ở đây không có nghĩa là cho chúng ta được phép xem nhẹ những liên hệ gia đình. Thay vì biện minh cho tính ích kỷ Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải có một sự từ bỏ mình triệt để. Hơn nữa, còn phải mến yêu Đức Giêsu hơn cả chính mạng sống mình. Cho nên không hề dạy người ta phải đoạn tuyệt một cách ích kỷ với mọi liên hệ nhân loại thiêng liêng nhất (như lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng, tình bằng hữu...), Đức Giêsu kêu gọi mỗi người chúng ta phải nuôi dưỡng và đến với tất cả những tình cảm trên xuyên qua tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa. Quả thực, có những trường hợp người ta đành "phải" bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái "vì Nước Thiên Chúa" (Lc 18,29). Đó là sự từ bỏ của Đức Giêsu đối với chính gia đình của Người. Người đã tự nguyện làm thế trước khi đòi hỏi chúng ta, lúc Người hiến trọn thân xác và linh hồn cho sứ mạng rao giảng Tin Mừng. ("Parole de Dieu pour chaque dimanche. Năm C, Droguet Ardant, trg 268).
Ngay sau đó, Đức Giêsu nói tiếp: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được". Vấn đề là người môn đệ phải đi theo con đường của Đức Giêsu, dẫn đến Giêrusalem và dẫn đến thập giá, dù phải bỏ mạng ở đó. Bởi vì điều thiết yếu là phải đồng số phận với Thầy mình. Và đó chính là thân phận của người môn đệ.
Đối với các Kitô hữu thời thánh Luca, cũng như đối với chúng ta hôm nay sau 20 thế kỷ, lời dạy của Đức Giêsu vẫn là tiếng gọi thiết tha hãy đi theo người trên con đường Canvê, hãy đích thân chia sẻ mọi đau đớn, khổ nạn là cái chết của Người (J Seynave, “Assemblées du Seigneur", số 54, trg 70-71).
Những của cải vật chất:
Đức Giêsu kết luận: "Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được ". Từ chối không tôn thờ của cải vật chất, bằng cách sẵn sàng chấp nhận mất tất cả để trung thành với đức tin, đó chính là một đòi hỏi của Tin Mừng cho ai muốn đi theo Đức Giêsu.
R. Meynet chú thích, "Để đến với Đức Giêsu là vui sướng bước theo Người, phải tận dụng mọi phương tiện và dẹp bỏ mọi hành lý cồng kềnh vô ích. Noi gương Chúa, con người phải giải phóng mình khỏi tất cả những gì cản trữ bước chân. Chỉ có thập giá là cái phải mang theo để đi theo Người” (L'Evangile selon Saint Luc. Analyse rhétorique", tập 2, Cerf, trg 157).
2. Trước tiên phải ngồi xuống tính toán:
Sau đó, để tránh mọi hàm hồ, Đức Giêsu ngỏ với những người đang nghe hai dụ ngôn nhỏ, nhằm cảnh giác họ phải coi chừng một kiểu dấn thân hời hợt: dụ ngôn người đàn ông nọ định xây một cái tháp và dụ ngôn vị vua kia sắp đi giao chiến với một vua khác. Cả hai đều sử dụng dạng câu hỏi: Ai trong anh em muốn xây một cái tháp?... Có vua nào đi giao chiến...?, để kêu gọi người ta phải trước tiên ngồi xuống suy tính đã, rồi mới dấn thân và chấp nhận mạo hiểm bước theo Đức Giêsu.
Theo tạp chí ’Célébrer’ số 251, trang 42, chắc đây là hai dụ ngôn nhỏ vốn nằm riêng rẽ, nay được Luca xếp chung lại với nhau trong bài viết của Ngài. Trong bối cảnh quãng đời công khai của Chúa, cũng giống như một số dụ ngôn khác tương tự có thể gọi chung là "những dụ ngôn về sự quyết định”, chúng là công cụ được Đức Giêsu sử dụng để giúp cho các thính giả của người có dịp suy nghĩ, mời gọi họ cởi mở tâm hồn với Người, sẵn sàng sám hối trở về. Luca đã lấy lại hai dụ ngôn này là hướng ý nghĩa của chúng về mối bận tâm chính của ngài: phải dứt khoát rõ ràng, để làm môn đệ Đức Giêsu ở đây và lúc này. Có hai phạm vị áp dụng chính: tiền bạc và liên hệ gia đình. Cần phải suy tính đo lường giá phải trả, đừng liều lĩnh nhắm mắt đưa chân.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Động lực duy nhất hướng đến sự sống.
"Trước lúc lên đường làm một chuyến leo núi, bạn phải ngồi tính toán xem nên mang theo những gì trong bị: lương khô kẹo bánh, đường,.. Tóm lại, tất cả những gì là cần thiết, tuy nhiên chỉ những gì phải có để leo tới đỉnh núi rồi xuống. Chẳng ai dại gì ôm đồm nhiều cho nặng hay vướng vít khó đi, bỏi vì vấn đề là làm sao đi đến nơi về đến chốn an toàn. Muốn bước theo Đức Giêsu, cũng thế bạn đừng để mình vương vấn bất cứ cái gì? "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa...". Đúng là một danh sách dài! Chuyện này có khả thi hay không? Lẽ nào Đức Giêsu, một con người rất mực nhân lành, dịu dàng, lại có thể đòi hỏi một chuyện như thế? Ngộ nhận, gây vấp phạm? Không thiếu kẻ đã bị dội trước những lời yêu sách quá đáng này. Một số môn đệ và ngay cả các tông đồ đã không đi theo Người đến tận đỉnh Gôngôtha. Họ run sợ khi thấy chính quyền và dân chúng lồng lên chống lại Người. Họ nhát. Họ chẳng dám liều mạng. Phải chăng họ có lý? Hy sinh, chết để mà chết, có ích gì?
Phải đợi đến sau biến cố Phục sinh họ mới sẵn sàng đón nhận cái chết. Khi đó, họ mới hiểu rõ rằng chết không phải là uổng đời, và cái biện chứng "chết - sống" chính là động lực duy nhất đưa đến sự sống. Sống cho tình yêu phải chăng là chết đi liên lỉ mỗi ngày trong suốt cuộc đời? Yêu mến Đức Giêsu hơn cả cha mẹ, vợ con, đâu phải là chê bỏ lòng hiếu thảo, nghĩa vợ chồng? nhưng là yêu thương bằng một tình yêu mãnh liệt hơn và bao la hơn, nhân danh Đức Giêsu Kitô.
Đi theo Đức Giêsu chính là bước vào quỹ đạo của tình yêu tự trao ban đến cùng".
2. Thiên Chúa, Đấng duy nhất tuyệt đối:
Đức Giêsu đã đảo lộn tất cả mọi ý niệm về giá trị và tình cảm của chúng ta khi Người truyền phải yêu mến Người hơn cả cha mẹ, vợ con... Chúng ta vốn nhạy cảm với cái nghĩa thiêng liêng của gia đình nên không dễ gì hiểu ngay được lời mời gọi của Tin Mừng. Đối với chúng ta, cũng như đối với mọi định chế trong xã hội, có gì hiển nhiên cho bằng trước hết phải thương yêu vợ con mình? phải làm tất cả cho người thân trong gia đình mình?
Dường như Đức Giêsu đang có ý thách thức chúng ta. Người đề nghị cho chúng ta một lối đi đầy ngỡ ngàng, đòi phải có niềm tin lẫn quyết tâm. Người như muốn nói với chúng ta rằng chỉ một mình Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối mà thôi. Trước đòi hỏi gắt gao của Đức tin, chúng ta thường có xu hướng biện minh: mình phải lo cho gia đình, công việc, cửa nhà, ruộng đất... đã chứ!
Đi theo Đức Giêsu là phải dám đảo lộn lại trật tự mọi sự và mọi việc. Phải có can đảm đặt Thiên Chúa ở hàng đầu, ở trung tâm cuộc sống. Đúng chỗ của Người. Khi đó, chúng ta sẽ thấy mình yêu thương người thân cách chân thực hơn. Chu toàn mọi công việc có kết quả đích thật hơn. Lo lắng cho gia đình đúng nghĩa hơn.
Những gì chúng ta có thể làm cho mái ấm của mình, cho sự tôn trọng quyền con người, cho việc bảo vệ sự sống, cho sự nhìn nhận kẻ khác với lòng bao dung, cho cuộc đấu tranh chống lại mọi hình thức ngược đãi, cho tự do và dân chủ... chúng ta hãy qui tất cả một cách trọn vẹn vào mối tương quan với Thiên Chúa. Trong thái độ của Đức tin, chúng ta đặt Người vào trọng tâm của tất cả, ở nguồn mạch tất cả, nơi tận cùng của tất cả. Như là Đấng Tuyệt đối.
Nhận ra Thiên Chúa là cái "nền" của toàn thể nhân loại, chúng ta mới gặp gỡ được ý định của Người. Khi đó chúng ta mới phục vụ và làm thăng tiến nhân loại.


TỪ BỎ HẾT


Chú giải của Noel Quesson
Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ
Chúng ta vẫn đang trên con đường lên Giêrusalem, ở đó Luca đã tập hợp các tài liệu gốc mà ngài đã thu thập bởi các nguồn thông tin của riêng ngài. Người ta có thể nói rằng đây không chỉ là một bài tường thuật cụ thể mà hơn thế nữa là lịch sử cao cả của Đức Giêsu Kitô trong mọi thời đại. Những “đám đông người" cùng đi với Đức Giêsu không chỉ là vài trăm người ở Palestine trong thời đại đó, mà là vô số người, đàn ông có, đàn bà có đã bắt đầu đi theo Đức Giêsu qua bao thế kỷ. Vậy ngày hôm nay, Đức Giêsu hướng về phía chúng ta để đặt cho chúng ta một vài câu hỏi: "Anh em nói rằng anh em là những môn đệ của Thầy nhưng anh em có biết điều đó có nghĩa gì không? Anh em có biết đi theo Thầy sẽ dẫn anh em đi tới đâu không?".
Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được
Yêu sách đầu tiên của Đức Giêsu đúng là làm người ta phải hốt hoảng và nếu cần một lần nữa minh chứng rằng Giêsu Na-da-rét có ý thức Người không phải là "một người bất kỳ nào đó". Vậy thì Người là ai, nếu không phải là một người điên, lại yêu cầu toàn thể nhân loại phải dứt bỏ tình cảm đến như thế, để gắn bó với bản thân của Người?
Ai có thể hiểu được ngôn ngữ của các vì sao,
Ai có thể nhận ra âm nhạc của các linh hồn,
Ai với trái tim có đủ tự do
Sẽ biết yêu mến Thầy trên hết và đi theo sau Đấng, Lời của sự sống?
Tấm lòng cần phải rất tinh tế để hiểu biết Đức Giêsu.
Dĩ nhiên Đức Giêsu là ngôn sứ của tình yêu chứ không phải của lòng thù hận. Công thức gay gắt của Người không có nghĩa chúng ta bỏ rơi những mối liên hệ gia đình. Không nhằm biện minh cho thói ích kỷ, trái lại Đức Giêsu kêu gọi một sự từ bỏ triệt để bản thân mình. Vả lại, cần phải yêu mến Đức Giêsu hơn cả mạng sống mình. Như thế, thay vì phá vỡ một cách ích kỷ mọi quan hệ nhân bản thiêng liêng nhất của chúng ta (tình yêu phụ tử, hôn nhân, bằng hữu), Đức Kitô mời gọi chúng ta, mỗi người phải làm cho tình cảm ấy được sinh động và xuyên suốt bởi tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa... Và trong trường hợp hạn chế, thật vậy, vẫn phải là: “bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa” (Lc 18,29). Và chính Đức Giêsu đã buộc mình phải dứt bỏ gia đình riêng trước khi yêu cầu điều đó với chúng ta, khi Người hiến dâng cả hồn và xác cho việc rao giảng Tin Mừng (Lc 8,19-21; 11,27-28).
Mỗi Người, tùy theo hoàn cảnh và ơn gọi của mình, phải vui lòng đón nhận yêu sách phi thường ấy trong đời sống cụ thể. Những từ bỏ tuyệt đối nào được đặt ra cho tôi để phục vụ Nước Thiên Chúa?
Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được
Ở đây có hai công thức: Vác thập giá và đi theo Đức Giêsu. Vậy vấn đề trước tiên không phải là từ bỏ mà là tình yêu. Người nào đã thật sự tìm thấy Đức Giêsu, Người ấy đã tìm thấy giá trị phát triển nhất trong mọi trường hợp. Tất cả những gì làm chúng ta đau khổ, có thể trở thành "sự hiệp thông của tình yêu”. Mọi người vác thập giá đi theo Đức Giêsu là đi theo Đấng đã vác thập giá đi đầu. Nếu chúng ta suy nghĩ thấu đáo, khi chúng ta lảo đảo dưới sự thử thách thì Đức Giêsu đã ở đó, kề bên chúng ta, đi trước chúng ta, chính Người cũng đang lảo đảo trên con đường thập giá dẫn Người đến niềm hoan lạc của sự sống lại! Simon, gốc Kyrênê, được đặt thập giá lên vai vác theo sau Đức Giêsu là hình ảnh của người môn đệ chân chính (Lc 23,26). Ai đã khám phá điều đó, đã tìm ta một bí mật; bí mật của một hạnh phúc mà không gì có thể phá hủy được. Không gì. Phúc cho người nào có cái nhìn xuyên thấu điều vô hình để tìm kiếm khuôn mặt của Người!
Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: "Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc!".
Dụ ngôn này là của riêng Thánh Luca: "Bổn phận phải ngồi xuống!" Dụ ngôn này nói lên khó khăn to lớn mà người ta phải chấp nhận khi cồ quyết định bắt đầu đi theo Đức Giêsu. Đây là một cuộc phiêu lưu dài ngày; và phải có thể đi đến cùng!
Đức Giêsu đã không bao giờ tìm cách quảng cáo, khi tạo ra tâm lý thành công giả tạo ở xung quanh Người. Thay vì che giấu những nguy cơ của công việc, Người nhấn mạnh chúng như để làm nản lòng ngay tức khắc những nhiệt tình bồng bột và chóng qua; như thể sự rút lui dọc đường còn tệ hơn là chưa bao giờ khởi sự? Điều này phải làm chúng ta suy nghĩ một cách thật nghiêm túc tính chất trầm trọng của việc từ bỏ đức tin khi việc từ bỏ này cố tình và có ý thức. Thôi không theo "Đức Giêsu nữa, khi người ta đã bắt đầu đi theo Người...” phải chăng trầm trọng hơn việc chưa từng biết Người? Trách nhiệm vô cùng của việc Tuyên xưng Đức Tin là thế. Nếu không nghiêm túc thì đừng làm? Trước khi tuyên hứa phải ngồi xuống, dùng thời gian mà suy nghĩ.
“Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa".
Hai dụ ngôn này "xây tháp" và "chiến đấu để thắng trận" là thành phần của các bản văn mà Luca đã có chủ ý tập hợp trong "đường lên Giêrusalem". Hai câu chuyện này đặt song song, dễ nhớ, với văn phong nói và lặp lại. Cùng một bài học được làm nổi rõ, được gấp đôi để không ai quên: Đời sống Kitô hữu chính là "xây dựng" và "chiến đấu”. Hai công việc gian nan đòi hỏi phải suy nghi và kiên trì. Chúng cũng yêu sách sự tiên liệu và tổ chức. Anh em phải ngồi xuống để suy tính!
Một đôi khi tôi có hoàn thành lời yêu cầu này của Đức Giêsu không?
Tôi có dùng thời gian để suy nghĩ cuộc đời tôi về những cam kết của tôi? Chúng ta đều biết làm các bảng tổng kết, tính toán, tiên liệu cho các công việc của con người vậy có khi nào chúng ta dừng lại một mình hay trong nhóm với những người khác để nhận định xem chúng ta đã thật sự sống những công việc của con Người trong đường lối của Đức Kitô? Đó là mục đích của việc "xét lại đời sống": Hãy nhìn, phán đoán, hành động, cầu nguyện trong ánh sáng của Tin Mừng.
Đi nghỉ hè về, lời mời gọi của Đức Giêsu đến đúng lúc. Một năm mới đây rồi, trước mặt chúng ta. Tất cả sẽ lại tiếp tục: Nghề nghiệp, trường học, tập đoàn, hiệp hội. Để không sống hời hợt với mình và với mọi việc, nguyện gẫm là bí quyết cửa đời sống sâu sắc và thật sự hiệu quả. Ngày hôm nay Đức Giêsu yêu cầu chúng ta không nên sống một cách hời hợt nông cạn.
Lạy Chúa, người nào mà Thần Khí Chúa cư ngụ, người ấy sẽ tiếp nhận những bí mật của Chúa Cha.
Trong ba năm của đời sống hoạt động, Đức Giêsu hầu như đã làm nhiều hơn mọi người hoạt động của thế gian.
Một bà mẹ trẻ trong gia đình, bề bộn công việc, một ngày nọ nói với tôi: "Những ngày nào con càng phải làm nhiều việc thì con càng cảm thấy nhu cầu phải ngừng lại, phải ngồi xuống mười phút để nguyện gẫm: và con được lời thời gian!”
“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
Vậy đây là lần thứ ba trong ít dòng trở lại cùng một điệp khúc sắc bén như dao thái thịt: "Không thể làm môn đệ của tôi được".
Và đối với Luca, điệp khúc như là kết luận của hai dụ ngôn nói trên. Cũng chính vì thế mà cần phải "ngồi xuống”. Người ta không theo Đức Giêsu trong sự dễ dãi. Ai không sẵn sàng đi đến cùng tốt hơn đừng nên khởi sự: Hãy từ bỏ tìm kiếm chính mình trong tình cảm, từ bỏ đời sống của riêng mình, từ bỏ của cải... bởi tình yêu. Lời mời gọi sự lột bỏ triệt để này, để sống nghèo khó, không phải là một "lời khuyên" dành riêng cho những Kitô hữu thượng hạng, các tu sĩ nam nữ như đôi khi Người ta thường hiểu như thế... Sự từ bỏ chính là điều kiện của mọi đời sống Kitô hữu như Đức Giêsu đã nói. Phải như thế để trở thành một “môn đệ đơn sơ". "Anh em không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền bạc" (Lc 16,13). Một lần nữa, thay vì phải quan niệm những lời ấy của Đức Ki tô như những lời quá đáng, hãy dùng thời gian để cảm nhận chúng như những lời thật sự giải phóng và làm triển nở. "Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà cho em trở nên giàu có" (2Cr 8,9).
Nhưng để hiểu được điều đó, dĩ nhiên Thiên Chúa phải tràn ngập trong một tâm hồn. Chúng ta có tiếp tục hướng về "cái có" một cách tham lam hay không? Chúng ta có khám phá và nghĩ ra một cách sống sung sướng trong tình bạn, sự chia sẻ và tính đơn sơ không?
"Xã hội tiêu thụ không làm cho con người hạnh phúc".
Đức Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ ở Công viên các Hoàng Tử. Họ đã vỗ tay tán thưởng. Họ đã đồng ý. Nhưng thế thì sẽ có những kết luận thực hành nào về phương diện mua sắm, nhịp độ của đời sống và sử dụng tiền bạc... để được tự do hơn. Và thật đơn giản, để "đi theo Đức Giêsu”, để giống Người đôi chút.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Anh Nghèo, vinh quang đời đời của Thiên Chúa ở nơi Ngài!


MỜI GỌI TỪ BỎ

Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Hoạt cảnh hoàn toàn thay đổi. Cuộc hành trình tiếp tục. Các địch thủ tạm khuất dạng một chốc lát; nói với đám đông người cùng đi đường với Ngài, Chúa Giêsu dạy cho họ một bài giáo lý về điều kiện phải có để làm người môn đệ. Những lời dạy của Ngài tương phản với dụ ngôn ở trên, bởi vì chúng nêu lên trước một đề tài lúc đó được hiểu ngầm: những ai đón nhận lời mời đi vào Vương Quốc phải tuân thủ một số đòi hỏi.
Giáo huấn được mở đầu bằng hai lời liệt kê những điều kiện để trở thành môn đệ; thực thế, đến với Chúa Giêsu chưa đủ (cc.26-27). Điều thứ nhất đòi hỏi người ta ghét gia đình và cả đến mạng sống mình nữa (c.26). Chắc hẳn trong Do Thái giáo có nhiều trường hợp những người đã cưới vợ bỏ tất cả để theo phục vụ một ông thầy và học hỏi Lề Luật với ông, mà một trong những việc phục vụ là đi theo Thầy khắp nơi (x. đã có Êlisê đi theo và phục vụ Êlia, 1V 19-21). Tính cách độc đáo của lời Tin Mừng gồm có hai điểm. Trước hết, với một ngôn ngữ triệt để (“ghét”) người ta được yêu cầu phải từ bỏ, theo gương Chúa Giêsu (8,19-21; 11,27-28), mọi quyến luyến với gia đình là thứ gây cản trở (trường hợp người vợ mới cưới, x. 14,20). Mọi liên hệ hoàn toàn chính đáng này cũng như tình yêu hợp lý đối với chính mạng sống mình, không được chiếm chỗ ưu tiên. Điều mới mẻ thứ hai: rời bỏ gia đình không có mục đích là học luật nhưng để gắn bó với chính bản thân Chúa Giêsu và theo Ngài lên Giêrusalem để chia sẻ số mệnh của Ngài. Chỉ là môn đệ đích thực những ai có khả năng có được quyết định triệt để và khó khăn này: loại bỏ tất cả những gì ngăn cản họ bắt chước Chúa Kitô. Tiếp theo đó là giáo huấn về con đường khổ giá, giáo huấn này đưa ra hai điều kiện: vác thập giá mình và đi theo Chúa Giêsu. Như trong giáo huấn song song ở 9,23, có một ám chỉ đến cách thức mà Chúa Giêsu sẽ phải chết. Không có một chỗ nào khác trong Luca, Chúa Giêsu nói về việc Ngài bị đóng đinh.
Hai dụ ngôn, được gắn liền với những gì đi trước bằng một từ kiên quyết”quả thế”, mời gọi suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh: không có vấn đề dấn thân một cách nhẹ dạ theo Chúa Giêsu hay làm việc nửa vời, phải đảm bảo có thể tiếp tục công trình cho đến hoàn thành (cc.28-32). Các hình ảnh rút từ cùng môt lĩnh vực: vấn đề về xây cất (một cây tháp) và về lực lượng vũ trang; trở thành môn đệ cũng gần như gia nhập một đạo binh trong thời chiến…
Khi nói về việc áp dụng dụ ngôn, có một lời giáo huấn đưa ra một điều kiện mới rất được Luca yêu thích: người môn đệ phải từ bỏ hết những gì mình có (cc.26.27.33). Ai không quyết định từ bỏ mọi sự, kể cả chính mạng sống mình, sẽ thất bại một cách nhục nhã. Tính toán đến tài nguyên và sức lực của mình chính là, một cách nghịch lý, vất bỏ tất cả những gì gây trở ngại.
Bài diễn từ kết thúc bằng một câu châm ngôn bình dân (cc.34-35). Trong thời thượng cổ muối vừa được dùng để bảo tồn thức ăn vừa là gia vị. Vì có thể giữ thức ăn khỏi bị hư thối, nó tượng trưng cho sự bền vững; bởi vậy nó rất cần thiết cho việc hy tế (Lv 2,13). Ở Palestin người ta thường dùng muối có phẩm chất kém, pha trộn nhiều tạp chất, nên nó thường bị mất mặn đi sau một thời gian. Mà muối, dùng để ướp thức ăn cũng như của lễ chẳng hạn, thì chính nó không thể được ướp bằng thứ muối nào nữa, nếu nó mất khả năng ướp măn thì chẳng có muối nào làm nó mặn lại được. Vậy mà, giáo huấn về muối này lại được nói ở phần cuối của một bài giáo lý về điều kiện phải có của người môn đệ. Do bởi ý nghĩa kép của từ Aram tiềm ẩn, câu của Luca có nghĩa”nếu chính muối đã điên rồ” (nhưng”nhạt” ở Mc 9,50) và màu sắc tâm lý này làm cho việc áp dụng giáo huấn được dễ dàng. Nếu những liên hệ giữa môn đệ và Chúa của mình lỏng lẻo, thậm chí bị cắt đứt, thì làm sao tái lập được? Người tín hữu lạt lẽo là kẻ điên rồ; kẻ vô tích sự này bị quẳng đi bởi vì họ bị mắng không thể là môn đệ (c.33). như thế đừng theo Thầy thì tốt hơn là theo cách lừng khừng hay ngừng lại giữa đường (xc. 28-32). Như Chúa Kitô nói trong sách Khải huyền:”Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi ‘lạnh hẳn hay nóng hẳn’, nhưng vì ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,15-16).


KÊU GỌI và LỰA CHỌN


Chú giải của R. Gutzwiller
Dụ ngôn sau cùng về bữa tiệc hiển nhiên ám chỉ cuộc sống vĩnh cửu. Người ta hiểu được như vậy căn cứ vào lời một thực khách: ‘phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong Nước Thiên Chúa’. Đức Giêsu soi sáng vấn đề những kẻ được chọn trong Nước trời đã thành hình khi Ngài kể dụ ngôn các thực khách dự tiệc cưới.
1. Mời gọi.
Trong tất cả các dân tộc, Israel là dân tộc được mời dự tiệc cưới trước tiên. Câu ‘xin mời đến vì mọi sự đã dọn sẵn’, hàm chứa lời mời của Chúa khi Ngài đến nhập thể làm người. Những gì có trước đó chỉ là chuẩn bị. Giai đoạn chuẩn bị đã chấm dứt, bữa tiệc đã sẵn sàng. Thời chuẩn bị đó chính là việc xuất hành khỏi Ai cập để về Canaan và chinh phục đất hứa; là giao ước trên núi Sinai, là toàn bộ lề luật, là sấm ngôn quan trọng của các tiên tri, là đền thờ. Ngoài ra còn là hình ảnh của những vị vua tiêu biểu, là những khổ nhục thời lưu đầy, rồi là vị Tiền Hô, sau cùng là những lời giảng thuyết và phép lạ của chính Đức Giêsu.
Giờ đây, mọi sự đã sẵn sàng. Đức Giêsu tiến về Giêrusalem để nhận quyền làm chủ thành thánh. Ngài tự hỏi: không biết với những cái chuẩn bị đó, dân của Ngài đã thực sẵn sàng chưa?
Giáo Hội với công việc của mình, cũng là một sự chuẩn bị. Dĩ nhiên, đây là giai đoạn hoàn tất giao ước cũ, những vẫn là chuẩn bị đối với sự ứng nghiệm dứt khoát. Phép rửa, một cuộc tái sinh, chuẩn bị cho đời sống mới bắt nguồn từ biến cố Phục sinh. Tiệc Thánh Thể chuẩn bị cho tiệc vĩnh cửu trên trời.
Cho nên, chúng ta cử hành tiệc Thánh Thể cho tới khi ‘Chúa lại đến’. Bí tích Hôn phối chuẩn bị đi đến một cộng đồng vĩ đại, sống và yêu thương dưới quyền quản trị của Thiên Chúa. Bí tích Thống hối chuẩn bị việc Chúa đến, ân sủng chuẩn bị cho vinh quang. Sau cùng, đau khổ chuẩn bị cho cuộc khải hoàn thêm vĩ đại và cái chết chuẩn bị cuộc sống chân thực.
Giáo Hội chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa, hay đúng hơn Giáo Hội là Nước Thiên Chúa còn phôi thai.
2. Những người kiếu từ.
Trong dụ ngôn, các thực khách được mời không sẵn sàng. Vì cho rằng còn có những việc còn quan trọng hơn, họ đã khước từ việc thiết yếu. Họ lo lắng đến những điều phụ thuộc và vì thế bỏ qua việc chủ chốt.
Lời thoái thác của người thứ nhất biểu hiệu não trạng duy vật. Một miếng đất mới tậu đối với y còn giá trị hơn một lời mời danh dự. Israel muốn có một vị Thiên Sai đem lại cho họ của cải vật chất. Đối với dân chúng, cơm bánh và vui chơi quan yếu hơn cả Tôn giáo. Trong Giáo Hội cũng có rất nhiều người lấy việc thủ đắc đất đai quan hệ hơn thủ đắc Nước Thiên Chúa. Đất đáng giá hơn trời, tiền bạc hơn tinh thần, tạm bợ hơn vĩnh cửu.
Người thứ hai viện cớ bận việc. Họ phải thử mấy cặp bò mới tậu. Đúng ra, họ có thể nhận lời nhưng phải là lúc khác. Bây giờ, họ rất bận bịu. Chúng ta thấy hạng người này ở nhiều nơi, nhiều lúc. Họ bị nô lệ cho công việc; tâm hồn không có lúc nào thư thái.
Bị lôi cuốn vào guồng máy hoạt động họ không còn thì giờ và thảnh thơi để lo đến việc trọng đại đời đời và nghĩ đến vận mệnh đích thực của mình.
Sau cùng, những nhu cầu của tình yêu và xác thể được người thứ ba đưa ra để kiếu từ. Nơi nhiều người, tình dục thắng lướt cả những nhu cầu thiêng liêng, và bản năng đã ràng buộc họ. Họ hoàn toàn chìm đắm trong dục tình và không còn gì là linh thiêng nữa. Với họ, tôn giáo hình như là một vùng đất xa xăm, một thực tại lạ lùng.
3. Những người được tuyển chọn
Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa cuối cùng cũng phải thành hình. Điều mà Đức Giêsu đòi hỏi gia chủ trong đoạn trên thì chính Ngài sẽ thực hiện. Những người ‘ăn xin, què quặt, mù loà và bất toại được mời vào dự tiệc’. Hạng người đáng thương bị các luật sĩ khinh bỉ có cơ hội ở trong Nước Thiên Chúa. Những người bị các biệt phái bài bác, thực tế lại là những kẻ được chọn.
Lời mời được tống đạt một lần nữa, dọc theo đường đi và các bờ rào mà đến với những người không quen, những người ở xa, những người chẳng có liên hệ gì cả. Trường hợp của Israel đã đưa đến biện pháp hoạt động sứ vụ nơi dân ngoại. Họ gia nhập từng đoàn. Trong thư gửi tín hữu Rôma, th. Phaolô bình luận mầu nhiệm này:
Theo lối so sánh của thánh nhân thì: ngành cây Israel đã bị chặt khỏi thân cây Ô-liu (tượng trưng cho Đức Kitô). Nhưng gốc cây không mất sinh lực. Ngành cây dân ngoại được tháp vào đó và như thế cây Ô-liu đã sinh hoa kết trái không ngờ. Ở đây, mầu nhiệm Thiên Chúa chọn lựa được bày tỏ rõ ràng.
Đó cũng là điều khích lệ các Kitô hữu. Trong tiệc cưới trên Nước trời, người ta sẽ thấy có những người vắng mặt: giáo hoàng, giám mục, linh mục, đan sĩ, tu sĩ, giám đốc hội đoàn, các chức sắc trong Giáo Hội, những người nhiệt tâm hoạt động; việc họ không có mặt khiến người ta ngạc nhiên, nhưng có tìm cũng vô ích thôi.
Bù lại, người ta thấy có những kẻ không ngờ, họ không gia nhập Giáo Hội hữu hình, nhưng nối kết với Đức Kitô trong tâm hồn mà không ý thức, như vậy cũng là thuộc về Giáo Hội. Trong Giáo Hội, có những người bề ngoài chưa được tốt, nhưng vì có ý thức tội lỗi của mình nên đã tìm được con đường về với Thiên Chúa nhờ hối cải và sám hối.
Cũng có những người đơn sơ, ngây thơ, sống âm thầm mà vác thánh giá, đồng thời cố gắng chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống thường nhật. Những kẻ được chọn thực sự lại khác với những người thiên hạ thường nghĩ. Và nhà của Chúa cũng sẽ đầy người…
Trong khi Chúa tiến về Giêrusalem, và cảm thấy sức đề kháng của quần chúng. Lời huấn dụ của Ngài ngày càng có tính chất trang trọng và nghiêm khắc, tuy nhiên vẫn có mầu sắc lạc quan. Vì căn nhà Chúa đến để xây dựng thì Ngài sẽ dành cho những người biết đền đáp tình thương của Ngài.


TỪ BỎ (14, 25-33)


Nếu trong đoạn trước, khung cảnh bên ngoài của bữa tiệc khiến đoạn văn được thống nhất, thì ở đây, mọi lời Chúa nói đều quy về một ý niệm sâu xa là sự thoát ly và từ bỏ.
Nhiều đám đông dân chứng dấn bước theo Thày. Họ tưởng là noi gương Thày cũng dễ thôi, và trong lúc hăng say nhất thời, mọi chuyện họ đều coi là thường. Chính vì lẽ đó, Chúa Kitô, một cách từ tốn nhưng không kém phần nghiêm trọng, đã đặt ra cho thính giả đang nghe Ngài, là các môn đệ, một điều kiện gắt gao.
1. Yêu sách
Người nào muốn theo Ngài hẳn phải cởi bỏ mình khỏi những gì ràng buộc mình nhất. Người đó phải cắt đứt liên hệ với gia đình,, tức là những liên hệ huyết nhục: ‘cha mẹ, vợ con, anh chị em’. Tình gia tộc huyết thống đã được ghi khắc trong bản tính loài người, và thêm đậm đà thắm thiết nhờ những tháng dài chung sống với nhau.
Thế nhưng Thiên Chúa còn quí giá hơn gấp bội, và hết thảy mọi quyền lời phàm nhân đều phải nhường bước trước những quyền lợi Thiên Chúa. Quyền lợi của Thiên Chúa ràng buộc con người đến độ mọi thứ liên hệ khác hoá ra vô hiệu.
Theo kiểu diễn tả lạ kỳ của Kinh Thánh, thì Chúa là Thiên Chúa hay ghen. Tình yêu mà Ngài đòi hỏi phải toàn diện và tuyệt đối, để về phần Ngài, tình yêu của Ngài cũng làm mãn nguyện những kẻ được tuyển chọn. Người ta chỉ có thể hiểu được bí nhiệm trọng đại đó, chỉ có thể tiến sâu vào ngôi thánh điện này một khi hoàn toàn thoát ly khỏi tạo vật. Người ta chỉ vào phòng loan với Chúa một thân một mình mà thôi.
Còn hơn thế nữa: con người đó lại phải từ bỏ ‘chính bản thân mình’. Thân phận con người hoàn toàn tự nhiên, với những ước muốn, những nhớ nhung, bản năng tự cao tự đại, lòng ham sinh uý tử, địa vị của mình trong xã hội và đồng loại, tất cả những cái đó phải được từ bỏ hoàn toàn.
Như cánh bướm kia thoát thân từ caí kén, con người mới sẽ một lần nữa rời bỏ cung lòng người mẹ để tái sinh trong cuộc sống mới. Đức Kitô còn đòi hỏi hơn nữa: con người đó phải ‘ghét’ tha nhân cũng như chính mình vậy. Như thế không chỉ có ý nói đến sự xa cách về không gian, sự chấp nhận những thua thiệt, sự từ bỏ tiệm tiến và hầu như không cảm thấy, nhưng đây là một sự từ khức mãnh liệt, có ý thức, đớn đau ở mọi nơi mọi thời.
Khi gặp phải chống đối hoặc ngay cả khi Thiên Chúa hay những nhu cầu linh thiêng coi như dửng dưng xa cách, lúc đó con người sẽ phải lựa chọn, phải quyết định trước một ngã ba đường nan giải.
Còn phải đi xa hơn nữa: ‘Ai không vác khổ giá mình, ắt không thể là môn đệ Ta’. Bị đóng đinh có nghĩa như bị xã hội coi như là nguy hiểm và đại ác. Thập giá đem lại cái gì? Thưa, bị bạo lực nghiền nát, bị hành hạ, xua đuổi, chết chóc, một cuộc đời kết thúc ô nhục và đẫm máu.
Trên tất cả, có một lời soi sáng và biện minh cho yêu sách tiệm tiến đó: ‘Kẻ nào theo Ta, kẻ nào muốn làm môn đệ của Ta’. ‘Ta’ và ‘của Ta’ ở đây ám chỉ Chúa Kitô. Theo Ngài là bước đi trong con đường của Ngài, là được làm môn đệ của Ngài, là được dõi bước theo Ngài. Ngài là một vị Thày thật cao cả, tình yêu thương của Ngài quá mạnh mẽ,những điều Ngài đòi hỏi quả chính đáng, uy thế của Ngài mãnh liệt đến độ mọi cái khác đều phải lùi bước.
Khi đã tận hiến hoàn toàn cho Chúa, không thể nào sống dễ dãi, tiện nghi nữa, mà chỉ còn Thiên Chúa độc quyền đòi hỏi và tình yêu hướng về đối tượng độc nhất.
2. Soi sáng
Giáo huấn này thật là quan trọng, khiến Chúa Giêsu phải soi sáng bằng ba ví dụ. Thứ nhất: việc xây tháp. Cũng như không thể xây một cái tháp mà không có một đồng xu dính túi, thì người ta chẳng thể xây dựng đời sống theo Đức Kitô một cách tươi vui khi không có sự từ bỏ hoàn toàn. Sự hy sinh phải được coi là điều kiện tiên quyết, một giả thuyết nền tảng.
Thí dụ thứ hai là cuộc chiến. Ông vua cần có binh lính mới chinh phục được chỗ này chỗ nọ; người môn đệ cũng cần phải có sự từ bỏ để chiến đấu chống lại thù địch của Thiên Chúa. Trong trận chiến trần gian, binh giáp là điều kiện tiên quyết thì hy sinh cũng là điều kiện rất cốt thiết cho cuộc chiến đấu thiêng liêng: ‘Ai trong anh chị em không từ bỏ hết thảy của cải mình đi thì không thể làm môn đệ của Ta’. Trong hai thí dụ trên đây có một sự đảo lộn giá trị. Tiền bạc là một động lực hữu hiệu để xây tháp cũng như muốn chiến tranh cần phải có ba quân chiến sĩ.
Ta cũng phải kết luận rằng: muốn phục vụ Đức Kitô, con người cần phải có những giá trị tích cực. Nhưng hai hình ảnh lại có ý nghĩa trái ngược. Đối với thế gian, chiếm hữu là cơ bản; còn trong việc theo gương Chúa Kitô, sự không-chiếm-hữu, sự từ bỏ mới chính là điều quan trọng hơn hết. Chúa Kitô là và phải là tất cả. Từ bỏ đối với Đức Kitô không nghĩa là một tặng phẩm với hậu ý được đền đáp.


TỐNG KHỨ TẤT CẢ


Suy niệm của William Barclay
Trong khi Chúa Giêsu đi hướng về thành Giêrusalem, dân chúng đi theo càng ngày càng đông và sự náo nhiệt phấn khởi càng tăng. Dân chúng tưởng rằng Ngài sắp lập một nước vinh quang đầy quyền uy, họ mong được dự phần trong vinh hiển ấy. Để đánh tan hiểu lầm, Chúa Giêsu quay lại phán bảo họ những điều kiện chính yếu để làm môn đệ Ngài. Bằng cách rất sinh động, Ngài bảo họ rằng theo Ngài không phải là để được quyền thế và vinh quang của thế gian này, nhưng phải có lòng trung thành đến độ sẵn sàng chịu khổ như sự thống khổ của kẻ bị treo trên cây thập giá. Chúng ta không nên hiểu lời Chúa Giêsu theo một nghĩa đen lạnh lùng, thiếu óc tưởng tượng. Ngôn ngữ Đông phương bao giờ cũng sinh động tới độ cao nhất của trí khôn loài người. Khi Chúa Giêsu bảo chúng ta phải ghét những kẻ gần gũi và thân thiết với mình là Ngài không có ý nói theo nghĩa đen. Ngài chỉ muốn nói rằng tình không có tình yêu nào trên đời này có thể so sánh với tình yêu mà chúng ta có đối với Ngài được. Có hai chân lý nổi bật trong đoạn này:
1. Có thể là người theo Chúa Giêsu mà vẫn không phải là đầy tớ của Ngài, có thể là kẻ theo trại quân mà vẫn không phải lính của vua, có thể là kẻ bám víu vào một đại sự mà vẫn không dấn thân gì cả. Có người nói với một giáo sư về một chàng thanh niên rằng: “Anh ta nói với tôi rằng anh ta là học trò của ông”. Vị giáo sư thẳng thắn trả lời: “Anh ta có thể đã ngồi trong lớp học của tôi, nhưng không phải là một trong số học trò của tôi”. Có sự khác biệt giữa một người trong lớp và thực sự làm học trò. Thật rất đáng buồn cho Hội Thánh khi trong Hội Thánh có quá nhiều kẻ theo Chúa cách xa xa và có quá ít người thực sự là môn đệ Chúa.
Những lời Chúa phán thật đáng ngạc nhiên, đến độ nghe chói tai nữa. Thế nhưng nó chỉ có ý diễn tả một điều: tình yêu Chúa phải chiếm chỗ nhất trong trái tim ta, và ta phải gỡ bỏ tất cả những gì cản trở tình yêu ấy. Thánh Grêgoriô Cả giải thích câu “khó nghe” này, ngài viết: “Ở đời này hãy yêu tất cả, kể cả kẻ thù, nhưng ta phải ghét những ai ngăn cản ta trên bước đường dẫn tới Chúa, dầu đó là người thân. Như vậy ta phải yêu người lân cận, phải có lòng bác ái đối với tất cả, với kẻ gần và người xa, nhưng không được vì yêu họ mà ta xa tình yêu Chúa”. Dứt khoát là phải giữ bậc thang giá trị trong tình yêu: Chúa trên hết.
Thật ra những lời này cũng chỉ là lặp lại yêu sách mà Đức Giêsu đã đặt trong toàn bộ giáo huấn của Ngài (x. Lc 6,27-35). Đây quả là lời đanh thép. Dầu động từ ghét hay khinh thì cũng không diễn tả đúng được ý của Chúa, nhưng dầu sao những lời của Chúa cũng rất mạnh, và không thể giản lược vào “ít yêu hơn” như có người muốn để cho nó nhẹ đi. Lời rất khủng khiếp không phải vì nó được diễn tả trong thể phủ định, nhưng vì Đấng nói ra cũng là Đấng từng yêu tha nhân như chính mình và là người hiến mạng vì loài ngừơ. Lời Ngài chỉ phải hiểu đơn giản rằng đối với Chúa không có thái độ nửa vời. Người ta có thể diễn dịch lời Chúa bằng yêu hơn, yêu nhiều, hay đừng yêu bằng, một tình yêu vị kỷ cũng đừng yêu nửa vời: chúng ta phải yêu bằng chính tình yêu của Thiên Chúa” (Escriva). Chính Công Đồng Vaticanô II cũng dạy các tín hữu: “Phải chuyên lo làm đẹp lòng Thiên Chúa hơn đẹp lòng người ta, luôn sẵn lòng bỏ mọi sự vì Chúa Kitô và chịu bách hại vì sự công chính”. (TĐ 4) và trong hiến chế Mục vụ Công Đồng dạy: “Chịu đau khổ cho chúng ta, không những Ngài nêu gương để chúng ta theo vết chân Người, nhưng Người còn mở đường mới để nếu chúng ta theo thì sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới” (MV 22). Đường của người Kitô hữu đi là theo chân Đức Kitô, là nên giống Ngài. Không có con đường nào khác để theo Ngài ngoài con đường gúp Ngài vác thập giá. Kinh nghiệm cho hay rằng đau khổ luôn có sẵn và bất hạnh cũng kèm theo nếu thiếu một phản ứng với tinh thần đạo Kitô. Thập giá đâu phải là tấn bi kịch, thập giá là phương pháp sư phạm Chúa dùng để thánh hóa ta qua đau khổ, để liên kết ta vào Chúa Kitô và để ta được xứng đáng với vinh quang. Thế nên Đấng Đáng Kính Escriva đã reo lên: “Chúc tụng đau khổ! Đáng yêu thay đau khổ! Thánh thay đau đớn!”
2. Phải tính cái giá phải trả khi theo Chúa. Không muốn làm nản lòng những kẻ theo Ngài, nhưng Ngài bảo họ phải tính toán trước cho kỹ. Ngài minh giải điều đó bằng hai hình ảnh về người xây tháp và vị vua lâm chiến. Cái tháp mà người định xây đó có lẽ là cái tháp của vườn nho. Các vườn nho thường có những tháp để từ trên đó có thể trông coi cà vườn kẻo trộm phá mất mùa nho. Xây tháp mà bể đổ thì thật đáng xấu hổ. Hay là ông vua điên khùng nào kéo quân ra trận mà không tính toán trước, đo lường số quân của mình với lực lượng của đối phương. Chúa Giêsu có ý nói rằng chẳng thà đừng bước vào đời sống tín hữu hơn là bước vào rồi thất bại. Ngài chỉ muốn người ta trước khi bước vào cuộc sống ấy đã phải sẵn sàng từ bỏ mọi sự là điều kiện đòi hỏi trong khi phục vụ.
Qua những hình ảnh minh họa này, Chúa cho chúng ta thấy nếu con người khôn ngoan cần phải tiên liệu các rủi ro đi kèm theo với bất cứ công việc nào, thì người Kitô hữu còn có lý do hơn để mà tự tình và quảng đại ôm lấy thập giá, vì nếu không thế sẽ không theo Chúa Kitô được: “Người này bắt đầu mà lại không hoàn thành nổi”. Lời phẩm bình không ai muốn nghe, mà nếu bạn muốn bạn sẽ không bao giờ là đối tượng, vì bạn có đủ mọi phương tiện để hoàn thành việc nên thánh: “ơn dư dật của Chúa và ý chí của bạn” (Escriva).
Nếu trước đó Chúa có nói tới việc ghét cha mẹ và đến hiến mạng sống, thì giờ đây cũng vẫn đòi hỏi cao độ ấy với sự từ bỏ của cải vật chất. Câu này là phải được áp dụng cho cả hai dụ ngôn nêu trên. Cũng như một vua nhất định giao chiến dầu biết tình hình ít quân là thiếu khôn ngoan, cũng thế một người đến theo Chúa mà lại không từ bỏ của cải là điên khùng. Từ bỏ của cải ở đây phải thực tiễn và cụ thể: tấm lòng phải cởi bỏ mọi trói buộc của cải trần gian mới có thể bước theo Chúa như Chúa nói sau này một người không thể vừa thờ Chúa vừa thờ tiền bạc (Lc 16,13). Không thiếu trường hợp Chúa đòi hỏi một số người sống đời nghèo khó tuyệt đối và tự nguyện; còn đối với tất cả, Chúa mong muốn một sự từ bỏ thực sự và quảng đại trong sử dụng. Nếu người Kitô hữu còn phải sẵn sàng từ bỏ đến cả mạng sống, còn nói chi đến việc từ bỏ của cải: “Nếu bạn là người của Chúa. Phải khinh chê của cải một cách cố chấp cũng như người thế gian ngoan cố trong việc tìm kiếm nó” (Escriva).
Ngoài ra vì tâm hồn muốn được đầy tràn Chúa, trước hết cần phải tống khứ ra ngoài tất cả những gì cản trở: giáo lý Con Thiên Chúa đến trần gian dạy là phải khinh chê tất cả các tạo vật, để thích ứng ta tiếp nhận Thần Thiên Chúa. Bao lâu tâm hồn ta không từ bỏ được các tạo vật, thì không thể nào đón nhận được Thần Linh Ngài và không thể biến đổi ta trong Ngài” (Gioan thánh giá, Montre du Cormel). Nhưng nếu có ai sợ hãi trước tất cả những đòi hỏi ấy thì nên nhớ rằng mình không phải chiến đấu cô đơn đâu, Đấng đã kêu gọi chúng ta vào con đường hẹp, sẽ đi cùng chúng ta trên con đường đó, và Ngài sẽ ở cùng cuối đường để đón tiếp chúng ta.


TRẢ GIÁ


McCarthy
Có những người hoài bão những mục tiêu lớn trong đời, nhưng họ sẽ không bao giờ hoàn thành những mục tiêu ấy. Tại sao lại không? Bởi vì họ không muốn trả giá.
Có một câu chuyện về một cô gái tên Antoinette, cô rất xinh đẹp nhưng rất nghèo. Cô chỉ có một mục tiêu trong đời trở nên giàu có. Hy vọng duy nhất của cô là lấy được một người giàu sang. Nhưng cuộc sống đưa đẩy cô lấy một viên chức nhà nước. Chồng cô cố gắng làm cho cô được hạnh phúc nhưng không thể đáp ứng những điều mà cô mơ ước – quần áo đẹp, nữ trang, một căn nhà với đầy đủ đồ đạc cao cấp, và v.v…
Cô từ chối đi làm ở bên ngoài, và sống những ngày khốn khổ và tuyệt vọng. Cô than phiền rằng vợ chồng cô chưa bao giờ đi đâu. Một lần kia, chồng cô được mời đến dự một bữa tiệc của tiểu bang, nhưng rồi cô lại than phiền cô không có trang phục thích hợp để mặc. Vì thế chồng cô phải gom góp hết tiền tiết kiệm khiêm tốn ở ngân hàng. Với số tiền đó, Antoinette mua được một chiếc áo mới. Sau đó cô còn mượn một chuỗi hạt của một người bạn học cũ tên Marie, rất hợp với chiếc áo mới.
Và thế là cô đã đi dự tiệc. Cô là người phụ nữ đẹp nhất ở đó và vui hưởng mọi sự chú ý mà cô có được. Tuy nhiên, khi họ về đến nhà vào lúc trời gần sáng, cô kinh hoàng khám phá chuỗi hạt đã mất.
Họ tìm kiếm chuỗi hạt khắp nơi nhưng không tài nào tìm được. Cô không có can đảm nói với Marie sự thật. Vì thế họ mua một chuỗi hạt khác hoàn toàn giống với chuỗi hạt đã mất. Nó giá 40.000 quan Pháp, một món tiền mà họ phải đi vay với lãi suất rất cao. Khi họ trả chuỗi hạt ấy cho Marie, cô này không bao giờ nhận ra sự khác nhau. Thật vậy, cô ta nhét chuỗi hạt vào ngăn kéo mà không nhìn đến nữa.
 Giờ đây Antoinette biết cái nghèo thật sự là gì, nhưng cô quyết định góp phần để trả món nợ của họ. Họ trả lại căn phòng ở tầng trên và dọn xuống tầng hầm. Họ cho cô đầy tớ nghỉ việc. Antoinette tự mình làm việc nhà và còn đi làm việc ở bên ngoài. Họ xin xỏ và dành dụm từng đồng. Họ phải mất mười năm để trả hết món nợ nần. Giờ đây Antoinette trông giống một bà già. Một ngày kia tình cờ cô gặp lại Marie trong đường phố.
“Ôi, sao bạn già đi nhiều thế!” Marie nói.
“Tôi đã trải qua những thời gian rất khó khăn kể từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, và tất cả là vì bạn”, Antoinette đáp.
“Vì tôi ư? Tôi không hiểu”.
Rồi Antoinette nói với Marie về việc cô đánh mất chuỗi hạt và việc hai vợ chồng cô đã làm việc bấy nhiêu năm để trả lại món tiền. Nghe đến đây Marie nói: “Bạn định nói rằng bạn đã mua một chuỗi hạt bằng kim cương để thế vào chuỗi hạt của tôi?
“Vâng” Antoinette đáp, “và bạn không bao giờ nhận ra đâu”
“Ôi, Antoinette đáng thương của tôi!” Marie kêu lên. “Tại sao lại như vậy, chuỗi hạt của tôi chỉ là một sản phẩm nhái lại. Cùng lắm, nó chỉ đáng giá 400 quan”.
Nếu ngay từ lúc đầu, Antoinette chỉ cần bỏ ra phân nửa nỗ lực cho những gì mà cô mong ước trong đời, thì cô đã có thể đạt được mà không phải phung phí những năm quí giá ấy. Trái lại, cô đã dùng thời gian ấy của cô để nhìn ra cửa sổ và mơ mộng.
Đức Giêsu đã có một mục đích cao cả trong đời, tức là thực hiện sứ vụ mà Cha Người đã giao cho Người, sống vì điều đó và đã muốn trả bất cứ cái giá nào để hoàn thành mục tiêu. Tin Mừng cho chúng ta thấy Người đang tiến về Giêrusalem. Người đã biết điều gì đang chờ Người ở đó. Đau khổ, sự loại trừ và cái chết đợi sẵn ở cuối cuộc hành trình ấy. Tuy nhiên Người mong muốn đối mặt với tất cả những điều đó.
Và Người mong muốn các môn đệ của Người cũng phải như thế. Người nói về cái giá của việc làm môn đệ. Khi Người nói họ phải ghét cha mẹ mình, Người không định nói theo nghĩa đen. Người nói với họ rằng nếu cần họ phải sẵn sàng hy sinh những vật thân yêu nhất trong đời. Trong một số trường hợp (hiếm hoi), họ phải chọn giữa Người và các người thân của họ.
Hai dụ ngôn ngắn làm nổi bật việc theo Chúa là một ơn gọi nghiêm khắc, nó có thể có ý nghĩa của sự bách hại và chết chóc. Trong lãnh vực này, cũng như trong bất cứ lãnh vực nào của đời sống (như kinh doanh và chính trị), người ta không thể bước vào một cách mù quáng. Người ta phải tính toán cái giá phải trả trước khi bắt đầu, và rồi xem mình có sẵn sàng đối mặt với nó hay không.
Mục tiêu mà Đức Giêsu đặt ra trước chúng ta thì đáng giá – mục tiêu của một lối sống trung thực ở đời này và của sự sống vĩnh cửu đời sau. Không có mục tiêu nào cao hơn mục tiêu ấy. Điều đó không dễ dàng gì. Không một ai có thể là một môn đệ mà không vác thập giá. Nhưng Đức Giêsu biết sự mỏng giòn của chúng ta. Người rộng ban ân sủng của Người cho những người cố gắng đi theo Người một cách chân thành.


THEO THẦY


Trong Tin Mừng chúng ta thấy Đức Giêsu không giấu giếm các tông đồ thực tế. Người chỉ rõ những khó khăn, gian khổ và những hy sinh mà Người đòi hỏi nơi những ai đi theo Người. Bằng những lời lẽ rõ ràng, Người nói với họ rằng công việc đó không phải dễ dàng gì. Vì thế sau này họ không thể than phiền “Ôi chúng tôi đã không bao giờ nghĩ rằng sự việc nó lại như thế này”.
Người ta có thể là một người theo Đức Kitô nhưng không phải là môn đệ của Người. Bởi lẽ người ta có thể đi dân công nhưng không phải là một chiến sĩ của đức vua. Người ta có thể không phải gánh vác nặng nề mà vẫn đóng vai của mình. Người ta chỉ là một người xí phần trong việc lớn. Người ta có thể là người chỉ biết nói giỏi mà không làm.
Một lần nọ, có người đến gần vị giáo sư danh tiếng để hỏi về một thanh niên: “Dù sao xin ông nói cho tôi biết anh ta có phải là một sinh viên của Ông. Đúng không?” và vị giáo sư trả lời: “Anh ấy dĩ nhiên có nghe tôi giảng, nhưng xin ông tin tôi, anh ấy không bao giờ thật sự là sinh viên của tôi”.
Một trong những cản trở to lớn của Giáo Hội là trong Giáo Hội có nhiều người theo Đức Kitô với một khoảng cách an toàn, nhưng rất ít người thật sự là môn đệ, tức là những người đang thực hiện lời Người.
Chúng ta hãy đối diện với điều đó. Là một môn đệ của Đức Kitô không dễ dàng gì. Vai trò môn đệ có một số yêu cầu thực tiễn mà người ta không thể tránh né nếu không muốn phản bội lại Tin Mừng. Tuy nhiên có nhiều người đi nhà thờ một cách thoải mái nhưng ít người quan tâm đến những người khốn khổ, nghèo túng và tiếng rên rỉ của người nghèo. Ngày nay cũng thế, người Kitô hữu được kêu gọi từ bỏ nhiều điều mà người khác coi là việc đương nhiên họ phải có.
Một vài môn đệ tan biến đi khi họ được yêu sách, như tuyết tan dưới mặt trời. Những người khác bị sự chống đối và phê bình tàn phá, giống như ngọn lửa chập chờn bị cơn gió mạnh đầu tiên thổi tắt.
Khi nhà vua Trung Quốc đến thăm những tu viện của đại thiền sư Lin Chi; nhà vua ngạc nhiên khi biết được rằng có hơn mười ngàn nhà sư đang sống ở đó. Muốn biết rõ con số chính xác các nhà sư, nhà vua hỏi: “Ngài có bao nhiêu đệ tử?”
“Bốn hoặc năm” Lin Chi đáp.
Đức Giêsu nói rằng muốn đi theo Người, người ta phải suy xét với lương tri bình thường, với sự thận trọng và tính toán cái giá phải trả. Chúng ta không thể gánh vác quá khả năng của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không biết trước mình có khả năng gì. Chúng ta có thể đánh giá cao hoặc đánh giá thấp chính mình. Chúng ta cần có sự thách đố để điều tốt nhất trong chúng ta xuất hiện.
Chúng ta có thể rút ra từ gương sáng của các tông đồ một sự khích lệ. Tin Mừng cho chúng ta thấy họ phải chiến đấu ở mọi điểm để đi theo Đức Giêsu. Tuy nhiên, Người không loại bỏ họ. Chỉ sau khi Đức Giêsu từ sự chết sống lại, họ mới thật sự là những môn đệ của Người.
Khi nhìn vào các tông đồ, chúng ta khám phá sự bất toàn của chúng ta. Tin Mừng ban niềm hy vọng cho những Kitô hữu thất bại. Sự sám hối và một cơ may thứ hai luôn luôn có thể có. Đức Giêsu bằng ân sủng của Người luôn luôn quảng đại với những người cố gắng đáp lại lời kêu gọi của Người.


CHỌN CHÚA KITÔ


Niềm Vui Chia Sẻ
Odette, một cô gái xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình quý tộc ở nước Bỉ. Năm 17 tuổi, cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ cô đến bắt trở về. Từ lâu, cha mẹ đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon ở một lâu đài gần đó.
Vốn biết cô con cái cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô đã chuẩn bị hôn lễ một cách kín đáo. Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vèn màn nhìn qua cửa sồ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu đàu. Hỏi đầy tớ, cô mới biết người ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Họ đưa cô xuống nhà nguyện của lâu đài. Nơi đây, có đông đủ quý khách, và linh mục tuyên úy của lâu đài cũng đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Nghi lễ đến phần giao ước. Vị chủ tế hỏi Odette có muốn nhận Simon là chồng theo luật Giáo Hội không? Cô đã dõng dạc tuyên bố “Con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin của con đã hiến dâng hco Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào, cho dù sự hăm dọa có thể tách con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời con”.
Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng cô. Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đáu đớn nhìn con và hiểu ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp của cô. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô thản nhiên đáp: “Như thế sẽ không ai cấm cản con đi theo Chúa Kitô nữa”.
Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó, nữ tu Odette được chị em chọn làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.
Thưa anh chị em,
Cử chỉ táo bạo và xem ra như điên rồ của Odette là bằng chứng hùng hồn nhất về lòng tin và tình yêu của cô đối với Chúa Kitô. Và để trung thành tuyệt đối với tình yêu ca cả đó, cô đã sẵn sàng hy sinh tất cả: cha mẹ, tiền tài, danh vọng, chức quyền, sắc đẹp và chính đời sống của cô nữa.
“Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được”.
Cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa. Những chọn lựa đan thành đời riêng của mỗi người. Đối với người kitô, chọn lựa là đáp lại tiếng Chúa đang vang lên trong lòng mình từng giây phút trong cuộc sống. Đôi khi nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường chọn mình: sở thích của mình, hạnh phúc của mình, tự do của mình. Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Trong khi Kolbe chọn chết thay cho bạn tù torng trại tập trung Đức Quốc Xã, Cha Đamien chọn hiến thân cho người phong cùi ở đảo Molokai, Mẹ Têrêsa chọn săn sóc cho những người hấp hối ở Calcutta. Và chúng ta hãy chọn cho mình một cách sống để diễn tả niềm tin và tình yêu vào Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh.
Chọn lựa là phải từ bỏ. Người ta không thể bắt cá hai tay. Người ta không thể phục vụ hai chủ. Cũng không được đặt Chúa ngang hàng “cá mè một lứa” với tất cả những cái khác để chọn lựa. Chúa phải được đặt trên tất cả. Chọn Chúa la phải từ bỏ tất cả những cái khác. Không được coi những liên hệ tình cảm gia đình hơn Chúa. Không được coi tiền của vật chất hơn c. không được coi mạng sống mình hơn Chúa. Chúa đòi hỏi những người theo Chúa phải dành cho Ngài quyền ưu tiên trên tất cả mọi cái khác. Bất cứ điều gì đi ngược lại hoặc ngăn cản quyền chọn lựa ưu tiên đó đều phải bị loại trừ. Không thể đi theo Chúa, nếu chúng ta không yêu Chúa hơn tất cả những người thân yêu của chúng ta, dù là cha mẹ, anh chị em, và yêu Chúa hơn cả chính bản thân mình, hơn cả mạng sống mình nữa: “Ai muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ cứu được sự sống” (Lc 9,24).
- Một người con tốt nghiệp Đại học Sư phạm muốn đi phục vụ những con người như bị bỏ rơi ở một nơi xa thành thị, đường đi khó khăn, trắc trở, thiếu thốn đủ thứ, từ cái ăn đến nước uống… Người mẹ khóc lóc cản ngăn, sợ con cực, con khổ…
- Một công nhân làm trong một xí nghiệp. Người công nhân biết rất rõ nội vụ tiêu cực làm thiệt hại nặng nề tài sản của nhân dân. Im lặng để được yênt hân hay tố giác theo tiếng nói của lương tâm, của lẽ phải, nhưng lại liều mình chuốc họa vào thân…
Theo Chúa trong những trường hợp nầy là một thử thách, là thập giá. Nhưng đằng sau thử thách, đằng sau thập giá là cuộc sống mới trong vinh quang.
Anh chị em thân mến,
Khách quan mà nói, lời mời gọi của Chúa Giêsu thật là ngược đời và khó chấp nhận. Những lời đó vẫn làm khó chịu không ít người. Nhưng cũng những lời tuyên bố ngược đời đó vẫn không ngừng lôi cuốn bao người khác dấn thân vào một cuộc phiêu lưu không biết đâu là giới hạn.
Chúng ta có thể hiểu và sống theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, khi chúng ta khám phá ra được tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu đó bao la, vô điều kiện, vô vụ lợi. Khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu đó bằng chính cuộc sống đời thường của một con người, thì lúc đó chúng ta mới thấy Chúa Giêsu có lý. Và chúng ta cũng có lý khi dấn thân vào việc thực hiện những hy sinh, từ bỏ. Vì tình yêu và chỉ vì tình yêu mà thôi, những từ bỏ, hy sinh tự nguyện của chúng ta mới có giá trị vĩnh cửu. Nói cách khác, nếu chúng ta yêu Chúa thật sự thì chẳng những chúng ta không ngần ngại mà còn sung sướng được chia sẻ thập gái với Chúa Giêsu. Vui sướng chấp nhận từ bỏ, hy sinh, khước từ của cải, danh vọng, quyền lực, để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa thật sự, không giả dối “tình yêu không có hy sinh, chưa phải là tình yêu thứ thiệt”.
Tuy nhiên, thưa anh chị em,
Cần phải suy nghĩ, đắn đo cẩn thận trước khi quyết định theo con đường Chúa Giêsu mời gọi. Vì đây là một chọn lựa hết sức quan trọng. Nó liên hệ đến cả cuộc đời chúng ta. Đã bước chân theo Chúa thì phải theo đến kỳ cùng. Không chấp nhận bỏ cuộc, dừng lại hay thối lui. Theo Chúa cần phải bền gan vững chí đến cùng mới được, như Chúa đã nói: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ”.
Theo Chúa không phải là vấn đề của lợi lộc trước mắt mà là vấn đề của tình yêu. Yêu là trung thành. Yêu là cho đi, cho đi từ từ, cho đi mại, cho đi cả mạng sống. Đó mời là tình yêu lớn nhất, xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là biện chứng của Tin Mừng: cho đi là nhận lãnh, quên mình là tìm lại mình, chết là sống, tử nạn là phục sinh muôn đời.


MỘT ĐÒI HỎI NHÂN BẢN...


Achille Degeest
Trước hết chúng ta minh định danh từ để tránh hiểu lầm. Đức Kitô không bao giờ phán rằng muốn theo Chúa phải ghét cha ghét mẹ …… Ở đây là một sự sắp hạng, quan hệ tình cảm thông thường phải đặt sau quan hệ tình cảm siêu nhiên. Tình nghĩa gia đình phải đứng sau tình yêu mến Thiên Chúa. ‘Ghét’ ở đây phải hiểu theo nghĩa ‘giảm bớt tình quyến luyến’. Chúng ta ngạc nhiên thấy những đám rất đông đi theo Đức Giêsu trên đường hành đạo của Người, mà con số những kẻ rời bỏ gia đình trở nên môn đệ Chúa chẳng được là bao. Nhưng chúng ta hiểu ra khi thấy Chúa nói lên những điều Chúa đòi hỏi. Không bao giờ chỉ vì muốn lấy lòng dân chúng mà Chúa che giấu những đòi hỏi của Người. Với bất cứ ai, Chúa có một cung cách quý mến là không đề nghị một thái độ đồng lõa với yếu hèn, trái lại Người kêu gọi lòng hào hiệp của người ta. Tới ngày đông đảo dân chúng bỏ Chúa, nộp Chúa cho quân dữ giết, Người không kết án dân chúng vì Người muốn hy sinh mạng sống cho họ. Tới lúc đó, Chúa sẽ có những môn đệ xứng đáng với sự đòi hỏi của Người, họ sẽ trở lại trong dân chúng làm chất men trong bột. Bài đọc hôm nay của thánh Luca cho thấy Phúc Âm gần gũi đời sống tới mức nào.
1) Bất chợt Đức Giêsu đến với con người trong đời sống cụ thể, trong khung cảnh sinh hoạt gia đình. Chúa đem đến một sự việc cực kỳ mới lạ. Những tình cảm gia đình sâu đậm là thế, chính đáng là thế, nay con người thấy còn có một điều quá lớn vượt lên trên tình nghĩa gia đình. Do đó, hễ quyết tâm theo Đức Giêsu thì cũng quyết tâm mở rộng đời sống cụ thể đón lấy một thực tại sâu rộng hơn, hiện thân hơn những liên hệ gia đình cố hữu. Thánh Phanxicô, đấng thánh tôn trọng Phúc Âm rất nghiêm chỉnh, nhờ kinh nghiệm sống theo Phúc Âm của ngài mà thốt ra hai tiếng ‘cha’ và ‘mẹ’ khi ngài nói về Đức Kitô, trong miệng ngài từ ngữ ‘anh em’ mang nặng tình nghĩa đậm đà vượt xa tình huynh đệ thế gian. Tuy không ý thức rõ rệt, ngài vẫn diễn tả được cao độ phẩm chất nhân bản trong đời sống theo khuôn mẫu Phúc Âm. Phúc Âm vượt lên trên những tình cảm gia đình thông thường nhưng không hủy bỏ chúng. Có thể nói rằng, mặc dầu cái khuôn mẫu tình cảm thế gian vẫn được tôn trọng, có những liên hệ gia đình mới lạ được thiết lập qua một sự thăng hoa, ở một chiều cao hơn. Chúng ta có thể thực tình nói đến ‘gia đình trong Đức Kitô’.
2) Đòi hỏi của Đức Kitô không có gì là phi nhân. Nghe nói đến ‘thập giá’ phải mang vác, người ta có thể cho đó là một đòi hỏi quá sức con người. Muốn có một sự hiểu biết đúng đắn, thì trong đầu chúng ta thập giá phải đi liền với một tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng, nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Tôi chọn lấy thập giá của Chúa thay vì tình yêu theo nhân tính tự nhiên nhất, chính đáng nhất, là bởi vì thập giá phát xuất từ một tình yêu thượng đẳng, nó thấm đượm sâu đậm cái điểm nhân tính nhất trong tôi, đó là sự tự do lựa chọn, là tâm hồn dâng hiến. Thập giá Đức Kitô là bằng chứng và cũng là bề nổi tình yêu của Chúa. Thập giá Chúa, tức là hy sinh của Chúa. Có tình yêu nào mà không cần đến ngôn ngữ của hy sinh? Ở đây, chúng ta chẳng đang đứng trước một đòi hỏi nhân bản sâu đậm nhất ư?


(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Đằng sau bài đọc thứ hai ngày hôm nay là một khoảng thời gian thích thú. Một người nô lệ có cái tên là Onesimus đã trốn thoát khỏi chủ của mình là Philêmôn, và anh chạy tới chỗ Thánh Phaolô để được an toàn. Thánh Phaolô đã nồng nhiệt bảo vệ cho người nô lệ bỏ trốn này, nhưng thánh nhân nhận biết một điều gì đó có giá trị cao hơn là sự tự do của Onesimus đã được hoàn thành. Thánh nhân đã kêu gọi Philêmôn, chủ của người nô lệ, hãy hành động như một môn đệ thật của Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Phaolô dễ dàng che giấu Onesimus hoặc nhân danh Đức Kitô đòi Philêmôn trả lại sự tự do cho người nô lệ. Thay vào đó Thánh Phaolô đã gởi Onesimus về với Philêmôn và những gì tôi tưởng tượng ra là sự tủi nhục của người nô lệ và sự ngạc nhiên của người chủ. Qua người nô lệ, Thánh Phaolô đã gởi cho Philêmôn một bức thư mà chúng ta đã nghe một phần trong bài đọc ngày hôm nay. Điểm chính của bức thư là Phaolô đã không muốn cưỡng bách Philêmôn thực hành nhân đức, thay vào đó thánh nhân chỉ muốn mời gọi ông hãy quảng đại. Tha thứ cho người nô lệ có nghĩa là phó mặc cho quyền sở hữu rất giá trị thời đó. Đó là một thách đố cho Philêmôn. Thánh Phaolô đã kết luận bức thư bằng cách nói rằng;”Tôi viết thư này cho anh với niềm tin tưởng là anh sẽ nghe theo vì tôi biết rằng việc anh sẽ làm còn làm hơn những gì mà tôi xin nữa”.
Thật sự chúng ta không biết chắc Philêmôn đáp trả như thế nào, ông có giải phóng người nô lệ hay không? Philêmôn có lẽ đã nhắc nhở Thánh Phaolô rằng việc nô lệ là hợp pháp và ông ta có quyền để giữ người nô lệ của mình? Có phải ông đã phàn nàn rằng Thánh Phaolô đã thật sự không hiểu về hoàn cảnh kinh tế của ông và người nô lệ thì cần thiết cho sự thành công tài chính của ông không? Chúng ta không biết Philêmôn có đáp trả như Thánh Phaolô mong đợi nơi ông như là người môn đệ của Chúa Giêsu hay không?
Chúng ta biết thế nào là môn đệ Chúa Giêsu và chúng ta được kêu gọi hãy trở nên quảng đại trong việc đáp trả của chúng ta, không phải là sống nhỏ giọt hoặc tìm kiếm những miễn trừ mà những người Công Giáo phải làm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cảnh cáo chúng ta qua ví dụ xây tháp và đi đánh nhau, chúng ta phải được sửa soạn cho kinh nghiệm Kitô giáo của chúng ta. Nước Trời đã là một tài sản được hứa ban trong tương lai. Trong lúc còn trên mặt đất này, chúng ta được mong đợi trở thành những môn đệ trung thành, những người lắng nghe và chăm chú vào những lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không đáng làm môn đệ của Ta”.
Có lẽ thánh giá của chúng ta là những đau khổ có liên quan đến việc phải từ bỏ những nô lệ của chúng ta như là thói nghiện rượu, nghiện thuốc, hoặc là say xỉn, thánh giá của chúng ta có thể giữ chăm chú kỷ luật mà chúng ta cần để lướt thắng những chuyện đồn nhảm, để tha thứ những người nào đã đối xử bất công, hoặc là tử tế hay là nghĩ tốt cho những người luôn luôn cho chúng ta là điên rồ.
Thiên Chúa không cưỡng bách chúng ta trở nên đạo đức như Thánh Phaolô đã không cưỡng bách Philêmôn phải tha thứ cho nô lệ của ông. Ngay khi điều xấu xảy ra với chúng ta, Thiên Chúa cũng không cưỡng bách chúng ta phải chấp nhận nó như một thánh giá. Chúng ta phải nỗ lực làm việc để thấy được chúng ta có thể quay trở một điều đáng sợ trở thành một điều có giá trị, bằng việc kết hợp những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Đức Kitô.
Trong mọi Thánh Lễ chúng ta tưởng nhớ sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, như vậy qua bí tích Thánh Thể, sự hy tế của Ngài là một thực tại trước chúng ta trên bàn thờ. Khi chúng ta nghe những lòi: “Đây cũng là mình con nữa, cùng với Con Cha, con xin dâng chính mình con cho Cha”. Khi đó chúng ta sẽ nghe những lời: “Đây là chén Máu Ta”, chúng ta sẽ nói: “Đây là máu của con, con ước mong nó được đổ ra vì yêu Cha, nếu Cha muốn như vậy”. Chúng ta phải được chuẩn bị để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu Kitô.


THẬP GIÁ ĐỜI THƯỜNG


SƯU TẦM
Khi ngắm đàng thánh giá, giữa mỗi chặng chúng ta thường đọc:
- Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô. Vì Chúa đã dùng thánh giá Chúa mà chuộc tội cho thiên hạ.
Và hôm nay, qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu cũng bảo:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Ta.
Điều Chúa muốn là mỗi người hãy ngồi lại để nhận rõ đâu là thập giá của mình để vác theo Chúa, để không còn than thân trách phận, để không còn trốn chạy và bỏ cuộc.
Nói thế chúng ta cứ tưởng là một điều gì xa vời nhưng trái lại, đó là một điều thật gần gũi, bởi vì trong chương trình cứu độ, Chúa bao giờ cũng để thập giá vừa tầm tay mỗi người. Chu toàn bổn của mình hằng ngày đó chính là cây thập giá đời thường mà mỗi người phải trung thành vác cho đến cùng, mặc dù nhiều khi cũng cực nhọc, vô vị và đơn điệu lắm.
Dầu muốn dầu không, một khi đã sống trên cõi đời này, chúng ta vẫn phải kề vai vác lấy thập giá của mình. Chi bằng hãy can đảm vác lấy với Chúa và theo Chúa, lúc đó chúng ta sẽ cảm thấy được bình an trong tâm hồn, và tìm thấy được những giá trị cao cả hơn.
Người ta hỏi một anh đạp xích lô như thế này:
- Anh đạp xích lô để làm gì?
- Tôi đạp xích lô để kiếm tiền.
- Vậy anh kiếm tiền để làm gì?
- Tôi kiếm tiền để mua gạo ăn?
- Mua gạo ăn để làm gì?
- Để đạp xích lô.
Và chúng ta gọi đó là một chiếc vòng luẩn quẩn. Phải, cuộc đời mỗi người chúng ta cũng thế. Nếu không cố gắng vươn lên, chúng ta cũng sẽ mãi mãi ở trong chiếc vòng luẩn quẩn ấy. Tuy nhiên đối với chúng ta thì không phải chỉ có vậy, bởi vì chúng ta phải vươn lên tới những giá trị siêu nhiên. Thực vậy, nếu chúng ta đạp xích lô để chu toàn bổn phận Chúa trao phó là lo lắng cho cuộc sống của mình và của gia đình, như lòng Chúa mong ước, nói cách khác, nếu chúng ta biết làm những công việc nhỏ bé tầm thường ấy vì lòng yêu mến Chúa, thì đó là chúng ta đang vác thập giá mình với Chúa và theo Chúa.
Như vậy, chúng ta có thể nói cuộc đời chúng ta chồng chất những thập giá bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi niềm đau chẳng hạn như bệnh hoạn tật nguyền, chết chóc tang tóc... đều là một thập giá. Tuy nhiên, cùng với Chúa chúng ta sẽ không thất vọng chán nản, trái lại chúng ta sẽ vui mừng và phấn khởi, bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi niềm đau sẽ là một sợi chỉ vàng dệt thành tấm vải cuộc đời chúng ta và làm cho tấm vải cuộc đời ấy thực sự có một giá trị siêu nhiên cao quý trước mặt Chúa.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không đi vào ngõ cụt vô nghĩa, sẽ không đi vào sự chết, nhưng sẽ tiến đến vinh quang phục sinh muôn đời với Chúa.


TỪ BỎ HẾT


SƯU TẦM
Sống là chấp nhận từ bỏ.
Có những điều xấu phải từ bỏ như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn: chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc. Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng. Tắt Tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình. Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn. Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con. Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả, chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền, chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể. Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Kitô hữu là người đã chọn theo Đức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự, trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Đức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta, đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Đức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Đức Kitô.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài, chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pizza.
Điều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Điều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cầu từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận, vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Đức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo kinh nghiệm của bạn, từ bỏ điều gì là khó hơn cả? Bạn hãy cho biết lý do tại sao.
Có lần bạn đã rất vui khi làm một hy sinh, và bạn cảm thấy mình nhận nhiều hơn cho, được nhiều hơn mất. Bạn hãy kể lại.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.


VÁC THẬP GIÁ THEO CHÚA


SƯI TẦM
AI KHÔNG VÁC THẬP GIÁ THEO TÔI, THÌ KHÔNG ĐÁNG LÀM MÔN ĐỆ TÔI
Suy Niệm
Chẳng ai có thể đi một lúc hai con đường.
Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn, mà chọn là từ bỏ.
Từ bỏ trở thành quy luật để sống và lớn lên.
Thai nhi không thể ở mãi trong bụng mẹ, dù đó là chỗ an toàn, êm ấm.
Đứa bé chẳng thể nào trưởng thành, nếu nó sống mãi bằng sửa mẹ.
Từ bỏ thường là những cắt đứt đau đớn, như mổ một khối u.
Có nhiều người không có can đảm từ bỏ, nên suốt đời bị giằng co, ray rứt.
Trong đoạn Tin Mừng trên đây, Đức Giêsu đã nói ba lần câu: "thì không thể làm môn đệ tôi được."
Chúng ta đã trở nên môn đệ Đức Giêsu, nhưng để tiếp tục là môn đệ của Ngài, ta cần phải đặt Ngài lên trên mọi giá trị khác.
Người Kitô hữu lớn lên nhờ chọn lựa và từ bỏ.
Trung tâm điểm là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Mọi giá trị trở nên tương đối trước Đấng Tuyệt Đối.
Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là những giá trị tinh thần. Mạng sống là một giá trị trổi vượt. Nhưng ngay cả những giá trị đó cũng phải được hy sinh khi cần, để tôi chọn Đức Giêsu, Giá Trị của mọi giá trị.
Các thánh tử đạo đã chọn lựa như thế.
Dĩ nhiên chúng ta yêu gia đình, yêu bè bạn, yêu trái đất nâng ta, yêu bầu trời che chở ta, yêu cuộc sống làm người với bao niềm vui và nước mắt. Nhưng ta phải yêu tất cả trong Chúa và dưới Chúa, để khi phải chọn lựa một trong hai, chúng ta chọn Chúa.
Như thế, tuy người Kitô hữu gắn bó với tạo vật nhưng vẫn giữ một khoảng cách nào đó, để luôn sống trong tự do, bình tâm.
Vấn đề là dám chọn và tiếp tục chọn, không để cho tháp đã xây bị dở dang, không để cho cuộc tiến quân bị ngừng trệ.
Vấn đề là dám đi tới cùng, để tiếp tục trung tín với một Tình Yêu.
Phải cởi bỏ mình khỏi những điều xấu, nhưng cũng phải tách mình khỏi nỗi đam mê lệch lạc một điều tốt: yêu nó ngoài Chúa và trên Chúa.
Ước gì chúng ta tự cởi trói mình mỗi ngày và nhờ ơn Chúa, chúng ta được tự do.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, giới trẻ hôm nay dễ bị lôi cuốn bởi thú vui nào? Đâu là những nguy hiểm của thú vui đó?
Bạn có kinh nghiệm gì về sự cám dỗ của một điều vốn là tốt, nhưng sau đó lại làm bạn bị nô lệ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.


XIỀNG XÍCH


SƯU TẦM
Dostoyevsky chỉ mới 20 tuổi khi ông viết cuốn sách đầu tiên nan đề Người Nghèo. Cuốn này đạt được thành công lớn. Ông đã mau chóng trở thành nổi tiếng. Sự tâng bốc này có thể dẽ dàng làm ông trở nên ngông cuồng nhưng cũng do sự kiện ấy, không bao lâu sau, ông đụng chạm với chính quyền. Bị buộc tội một cách sai lầm là một người vô chính phủ, ông bị bắt giữ và cùng mấy người khác bị kết án tử hình. Tuy nhiên, bản án giảm xuống thành án tù và cùng với các bạn, ông bị đày đến Xibêri. Dostoyevsky trải qua bốn năm lạnh lẽo ở đó. Mười năm trôi qua trước khi ông cầm bút trở lại.
Kinh nghiệm ấy, thay vì làm ông cay cú và tàn phá đời ông, đã làm ông phong phú rất nhiều. Giờ đây, ông đã có mười năm đau khổ để rút tỉa sức mạnh và quyền bính cao cả. Bất cứ lúc nào có người đến gặp ông và nói: “Ông lấy quyền gì để nói thay cho dân chúng?” Thì ông chỉ việc
kéo ống quần cao lên và chỉ cho người ta thấy những vết sẹo mà xiềng xích còn để lại. “Đây là quyền của tôi” ông nói. Và những người đã hỏi ông phải im lặng.
Đối với những người tỏ vẻ ái ngại về mọi đau khổ mà ông đã chịu đựng, ông nói “Nhà tù đã cứu tôi. Vì có nhà tù, tôi đã trở thành một con người hoàn toàn mới. Xibêri và sự giam giữ đã trở thành một niềm vui to lớn đối với tôi. Chỉ ở đó, tôi mới có thể sống một đời sống thanh khiết và hạnh phúc. Chỉ ở đó, tôi mới nhìn thấy mình rõ ràng và đó là nơi tôi học biết Đức Kitô. Đó là một trường học tốt. Nó làm đức tin tôi mạnh mẽ và làm tỉnh thức lòng yêu thương những người phải chịu đau khổ với lòng nhẫn nại. Nó cũng làm mạnh mẽ tình yêu của tôi đối với nước Nga, và mở mắt tôi để tôi thấy những phẩm chất cao cả của dân tộc Nga”.
Phaolô cũng khoe mình về lòng tin của một môn đệ Đức Kitô. Ông cũng bị giam cầm và buộc phải mang xiềng xích (Bài đọc 2). Điều này đã cho ông quyền bính khi ông nói về việc đi theo làm môn đệ Đức Kitô.
Khi các thanh niên đến gặp mẹ Têrêxa và bày tỏ ước muốn gia nhập cộng đoàn, mẹ không giấu giếm những việc mà họ sẽ phải tham gia. Mẹ nói: “Công việc của chúng tôi rất nặng nhọc. Chúng tôi phục vụ người nghèo và người không nhà hai mươi bốn giờ mỗi ngày”.
Cùng một cách ấy, Đức Giêsu đã không giấu giếm những khó khăn, gian khổ và hy sinh mà Người đòi hỏi nơi những ai đi theo Người. Bằng những lời lẽ rõ ràng. Người nói với họ rằng công việc đó không dễ dàng gì. Vì thế sau này họ không thể than phiền: “Ôi, chúng tôi không bao giờ nghĩ rằng nó lại như thế này”.
Có cái gì đó giống như lòng can đảm của người mù. Nhưng Đức Giêsu không biện hộ cho điều đó. Thật vậy, Người làm cho người ta nản lòng. Người nói, khi đi theo Người phải suy xét với lương tri, với sự thận trọng, tính toán cái giá phải trả, nhận định xem mình có thể đảm nhận được việc gì.
Việc quan trọng nhất khi bắt đầu là tự biết mình. Chúng ta không thể đảm nhận công việc vượt quá khả năng của mình. Dĩ nhiên, chúng ta không biết trước mình có khả năng gì. Chúng ta có thể đánh giá cao hoặc đánh giá thấp chính mình. Và chúng ta cần có thách đố để điều tốt nhất trong chúng ta xuất hiện.
Chúng ta có thể rút ra từ gương sáng của các tông đồ một sự khích lệ. Tin Mừng cho chúng ta thấy họ phải chiến đấu ở mọi điểm để tin theo Đức Giêsu. Tuy nhiên, Người không loại bỏ họ. Và rõ ràng họ đã học hỏi từ những sự thất bại của họ. Chỉ sau khi Đức Giêsu từ sự chết sống lại, họ mới thật sự là những môn đệ của Người.
Khi nhìn vào các tông đồ, chúng ta khám phá sự bất toàn của chúng ta. Tin Mừng ban niềm hy vọng cho những Kitô hữu thất bại. Sự sám hối và một cơ may thứ hai luôn luôn có thể có. Đức Giêsu bằng ân sủng của Người, Người luôn luôn quảng đại với những người cố gắng đáp lại lời kêu gọi của Người.


TỪ BỎ


SƯU TẦM
Nếu có dịp đọc kỹ các sách Tin Mừng chúng ta thấy: Một trong những đòi hỏi dường như khó khăn nhất của Chúa Giêsu đối với những môn đệ hay những kẻ theo Ngài có lẽ là việc từ bỏ. Quả thật, từ bỏ một ít, hay từ bỏ những cái phụ thuộc bên ngoài xem ra còn dễ, nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đòi hỏi những ai theo Ngài không những phải từ bỏ những tình cảm sâu xa nhất, tình nghĩa ruột rà máu mủ, mà còn phải từ bỏ cả chính bản thân của mình: “Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể là môn đệ của Ta”. Chắc hẳn đây là một thách đố rất lớn và thật khó hiểu đối với mỗi người chúng ta, mặc dù chúng ta là những người đã dấn thân theo Đức Kitô. Thế thì chúng ta phải hiểu lời Chúa Giêsu nói hôm nay như thế nào?
Trước tiên, chúng ta thấy những lời Chúa Giêsu nói hôm nay được lồng vào cuộc hành trình lên Giêrusalem, và bằng một động tác có tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía đám đông cùng đi đường để dạy họ bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ Ngài.
Thật vậy, chỉ đến với Đức Giêsu thôi chưa đủ. Đi theo Ngài bao gồm phải chấp nhận để cho những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng khuấy động lối sống của chúng ta: cách riêng trong phạm vi những mối liên hệ gia đình, và sử dụng của cải vật chất là đề tài quen thuộc của Luca. Ở đây, chúng ta sẽ nói tới “liên hệ gia đình”.
Về vấn đề này, Đức Giêsu tuyên bố không úp mở: Những ai đến với Ngài mà không ghét bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ngài. Ở đây, Luca dùng động từ Hy Lạp có nghĩa là “ghét bỏ” để diễn tả một lối nói nguyên thủy bằng tiếng Aram, một thứ ngôn ngữ vốn không có từ so sánh. Một kiểu nói mạnh mà soạn giả Tin Mừng dịch là dứt bỏ, hay “thương ít hơn”. Như thế từ ghét bỏ ở đây không có nghĩa thù ghét, loại trừ như chúng ta quen dùng, nhưng ghét bỏ ở đây có nghĩa là “thương ít hơn”. Thánh Matthêu nói cách rõ ràng hơn: “Kẻ nào yêu cha mẹ, yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta”.
Như vậy tất cả những mối liên hệ của nhân loại dù chính đáng và thâm sâu đến đâu, ngay cả đến mạng sống con người đi nữa, đều phải phụ thuộc vào mối liên hệ của họ với Đức Kitô.
Hiểu như thế, chúng ta thấy việc từ bỏ để đi theo Đức Kitô không phải là gánh nặng, không phải là một sự liều lĩnh đến nỗi phải đi ngược lại với tình cảm tự nhiên vốn có nơi con người. Điều Đức Giêsu đòi hỏi ở đây là phải dành cho Người địa vị ưu tiên hàng đầu, ưu tiên số một, nghĩa là phải yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đòi hỏi của Đức Giêsu ở đây không cho phép chúng ta xem nhẹ những liên hệ gia đình, liên hệ giữa người với người, nhưng Ngài muốn kêu gọi mỗi người chúng ta phải nuôi dưỡng và đến với tất cả những tình cảm đó xuyên qua tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa.
Như thế, trở lại với cuộc sống đời thường, mỗi người Kitô hữu chúng ta cần có thái độ như thế nào và tâm tình gì trước lời mời gọi của Chúa Giêsu hôm nay?
Chúng ta biết rằng: Kitô hữu là những người đã chọn con đường bước theo Đức Giêsu, chấp nhận đi theo Ngài là chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường từ bỏ. Ngài đòi hỏi chúng ta đặt mọi sự dưới Ngài, yêu Ngài trên hết mọi sự, trên những người thân yêu, trên cả của cải, tinh thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại và tương lai. Những điều này thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Kitô hữu là người phải sống từ bỏ như Đức Giêsu: “Ngài vốn là Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế”. “Ngài đã vâng phục ý Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết ô nhục trên thánh giá: “Nếu có thể được thì xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”.
Ngoài ra khi nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có biết bao tấm gương khác đã đi trọn con đường từ bỏ này: một Phanxicô Assisi, một con người có thể nói được là sống trên nhung lụa, nhưng đã từ khước tất cả, cả ý định của người cha, và cuối cùng dám lột bỏ cả y phục của mình trả lại người cha để bước theo tiếng gọi của Đức Giêsu. Hay là như một Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng vượt qua biết bao khó khăn gian khổ, để theo đuổi lý tưởng tận hiến cho Đức Kitô, và cuối cùng đã trở thành một vị đại thánh của Giáo Hội. Gần và cận kề chúng ta hơn có lẽ phải nói tới vị anh hùng tử đạo Việt Nam, thánh Nguyễn Hy Mỹ, trước tòa án Nam Định, các quan dùng tình nghĩa vợ chồng con cái để làm lung lạc tình yêu ngài, nhưng vị tử đạo trả lời: “Vợ con tôi, tôi yêu thật, song tôi còn hy vọng sum họp với gia đình thân yêu trên thiên đàng”.
Tất cả mỗi người chúng ta đang hiện diện nơi đây, chắc chắn mỗi người có hoàn cảnh riêng, khả năng riêng, và một sở thích riêng… không ai giống ai, nhưng mỗi người chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi để dấn bước theo Ngài. Chắc chắn Chúa không đòi hỏi chúng ta làm gì vượt quá sức của chúng ta. Điều mà Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta hãy sống tốt giây phút hiện tại của đời mình trong tương quan với thế giới, và với mọi người xung quanh xuyên qua tình yêu của Ngài.
Cầu chúc tất cả anh chị em luôn sống trong tình yêu Chúa, và lấy Chúa làm đích điểm cho đời mình, để trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có thể thốt lên như lời của thánh tông đồ Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.


TỪ BỎ


SƯU TẦM
Con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý. Một trong những cái nghịch lý là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta biết điều kiện đó, là phải từ bỏ tất cả: của cải, cha mẹ, vợ con, anh chị em và chính bản thân mình. Đó là điều kiện gắt gao, cho nên cần phải tính toán, suy xét thật cẩn thận. Điều kiện này không phải Chúa chỉ nói với các môn đệ mà với tất cả đám đông đang nghe Chúa giảng dạy. Và như vậy đây là điều kiện cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong hoàn cảnh của nền văn minh vật chất hiện nay.
Trước hết, Chúa Giêsu cho biết: muốn đi theo Chúa, muốn làm môn đệ Chúa phải từ bỏ tất cả, nghĩa là phải chọn Chúa trên hết mọi sự, trên cả những tình cảm thân thương nhất, cả chính bản thân cũng như vinh quang và của cải trần gian này. Đây là một đòi hỏi mang tính chất khác thường, ngược đời và khó chấp nhận, nên Chúa đã đưa ra hai dụ ngôn để minh họa và giải thích: Cũng như người muốn xây tháp hay xây nhà: trước khi xây phải tính toán cẩn thận: có xây hay không? Xây lúc này hay xây lúc khác? Xây ở đâu? Để làm gì? Rồi vấn đề tiền bạc, công thợ, vật liệu thế nào? Có giải quyết được những vấn đề đó mới nên khởi công, bằng không thì thôi. Thà đừng xây còn hơn là xây rồi mà bỏ dở dang. Cũng vậy, một ông vua hay một ông tướng sắp lâm trận, phải biết lượng sức mình, đánh giá đúng khả năng của mình: so đo lực lượng hai bên, phải biết tinh thần quân sĩ, phải nắm vững tình thế: thiên thời, địa lợi, nhân hòa… Có nắm vững được những yếu tố thuận lợi cho mình mới nên cất quân đi đánh giặc, bằng không phải tính toán cách khác, kẻo cất quân đi đánh mà bị thua thì vừa mất quân vừa thiệt hại.
Những người muốn đi theo Chúa cũng vậy, phải biết tính toán cẩn thận và chọn lựa dứt khoát. Tại sao vậy? Bởi vì con đường theo Chúa là con đường từ bỏ: từ bỏ hết, từ bỏ tất cả, từ bỏ hoàn toàn. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn xây tháp, xây nhà phải có tiền. Muốn thắng trận, phải có lính. Muốn theo Chúa, không cần có gì hết, nhưng phải từ bỏ mọi người ruột thịt và mọi của cải mình có. Từ bỏ tất cả để theo Chúa, nghĩa là coi Chúa hơn tất cả mọi người, hơn tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa mà thôi.
Điều kiện này có khó quá không? Dĩ nhiên là khó. Nhưng không phải là không thực hiện được. Bằng chứng là các tông đồ Chúa kêu gọi, các ông mau mắn, dứt khoát đi theo Chúa, dù phải bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp. Tiếp theo các tông đồ, từ xưa cho đến nay, biết bao nhiêu người đã sống đời tận hiến, bước đi theo Chúa trong ơn gọi linh mục, tu sĩ, cống hiến cả cuộc đời cho Chúa và tha nhân… Có biết bao người đã sẵn sàng chịu đau khổ, thử thách và hy sinh cả mạng sống vì danh Chúa Kitô như các thánh tử đạo.
Nhưng đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ của cải, cha mẹ, gia đình, vợ con, nghề nghiệp để đi tu. Nhưng Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết từ bỏ mình. Từ bỏ mình không có nghĩa là hành hạ mình, nhưng là từ bỏ cái tôi, từ bỏ những ước muốn xấu của ý chí, những lời nói cay chua của cơn tức giận, những tư tưởng kênh kiệu độc đoán của thái độ tự phụ bất chính. Nói khác đi, từ bỏ chính mình có nghĩa là từ bỏ tham, sân, si. Tham là tính tham lam: tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế. Chính cái tham ấy xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và làm khổ lẫn nhau. Sân là tính nóng nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân cũng là giận. Giận mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở nên hung bạo, gây tai ương và đau khổ cho người khác. Si là ngu muội, tối tăm, mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy luận đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành kiến sai lầm. Hơn nữa, còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả dối, những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong xấu xa, thối nát. Đối với nhà Phật, phải diệt tham lam, diệt sân nộ, diệt mê si. Diệt là dứt bỏ, dứt bỏ dần dần và rồi hủy bỏ dứt khoát. Đối với chúng ta là từ bỏ chính mình, có nghĩa là không làm theo ý thích ý muốn của mình khi điều đó trái với ý Chúa. Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho Chúa và tha nhân.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm: sống là lựa chọn, mà lựa chọn tức là từ bỏ những cái mình không chọn. Thái độ từ bỏ và dứt khoát đó lại càng cần đối với việc chọn Chúa, chọn nước trời, chọn những việc đẹp lòng Chúa và làm chứng cho Chúa. Bấy lâu nay chúng ta có thái độ dứt khoát đó không hay chúng ta muốn ôm đồm tất cả và cũng tiếc rẻ tất cả? Bấy lâu nay có phải chúng ta đã theo Chúa để tìm lợi cá nhân, tiền bạc, danh vọng hoặc địa vị và một số những cái lỉnh kỉnh khác, chứ thực sự chưa có thái độ lựa chọn dứt khoát vì Chúa, vì tình thương, vì tình người, vì nước trời… có phải vậy không?
Trong xã hội chạy theo văn minh vật chất và thích hưởng thụ này, có những người giàu, có chức vị, có tiền của, có nhiều phương tiện, nhờ có tinh thần từ bỏ mình, quên mình, đã biết lợi dụng những cái đó để làm ích cho kẻ khác, để xây dựng công ích, để mở Nước Chúa. Trái lại, cũng trong hoàn cảnh như vậy, kẻ không có tinh thần từ bỏ, quên mình, thì đã lợi dụng của cải, tiền bạc, tự do, tiện nghi, để hưởng thụ cho chính bản thân mình, đã không làm lợi cho kẻ khác, cho Hội thánh, cho đồng bào, cho đất nước… Chúng ta vào số người nào?
Để từ bỏ được chính mình như thế, cần phải có thật nhiều ơn Chúa và một sự can đảm vô bờ. Vì khi từ bỏ là chúng ta sẽ cảm thấy như bị thua thiệt rất nhiều ở đời này. Vì thế, từ bỏ được mình, quên mình, nói thì dễ nhưng thực hành thì không dễ dàng, nếu không có ơn Chúa trợ giúp thì không ai có thể thực hành được. Cho nên, chúng ta phải cầu xin Chúa và cố gắng rất nhiều.


TỪ BỎ


SƯU TẦM
Lời Chúa qua đoạn Tin mừng vừa nghe xem ra như có vẻ chói tai và khó chấp nhận.
Thực vậy, theo lẽ thường khi thâu nhận các môn đệ, người taluôn hứa hẹn những điều tốt đẹp, nhưng Chúa Giêsu thì ngược lại, Ngài đòi hỏi những ai muốn làm môn đệ Ngài phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh chị em, thậm chí còn phải “ghét” cả bản thân mình nữa. Rồi lại còn phải từ bỏ của cải trần gian và vác thập giá mình hằng ngày.
Đòi hỏi như thế, phải chăng là quá đáng, không phù hợp với lòng người và cũng không thể thực hiện được?
Con người thời nay bị ảnh hưởng bởi não trạng thực dụng và hưởng thụ, nên rất dị ứng với sự từ bỏ và thập giá.
Vì thế, có người đã coi lời Chúa là lỗi thời và nên để nó chìm vào quên lãng. Có người chỉ muốn tìm trong lời Chúa những gì êm ái, ngọt ngào, dễ nghe và dễ chấp nhận. Có người cố gắng cắt nghĩ lời Chúa sao cho phù hợp với ý riêng của mình để bề dễ thực hiện.
Nhưng thực ra, lời Chúa vẫn là lời Chúa. Lời Chúa như một con dao sắc bén,cắt đứt thịt da và đâm thấu tận tâm can. Lời Chúa luôn có tính cách đòi hỏi con người không được thỏa hiệp, không được nửa nạc nửa mỡ, cũng không được lấp lửng bắt cá hai tay và đi nước đôi, nhưng phải dứt khoát chọn lựa, phải quyết liệt thi hành cũng như phải triệt để dấn thân.
Như thế, lời Chúa có mâu thuẫn với lòng từ bi nhân hậu của Ngài hay không?
Thực vậy, Thánh Kinh cho biết vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban cho con người có cha có mẹ, cũng như có anh, có chị và có em để cùng chung sống dướii một mái ấm gia đình. Cũng vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự cho con người được hưởng dùng.
Nếu vậy thì đòi hỏi từ bỏ có nằm trong chương trình của Thiên Chúa hay không? Nó có mâu thẫun với sự tốt lành của Ngài hay không?
Chắc chắn là không, bởi vì nếu chúng ta tin rằng Ngài là đường, là sự thật và là sự sống, thì chúng ta cũng tin rằng chính Ngài vừa dạy chúng ta phải biết yêu thương và tôn trọng những sự vật trần thế, nhưng đồng thời cũng dạy chúng ta phải biết từ bỏ.
Trong Phúc âm, đề tài từ bỏ cũng được Chúa quan tâm không kém đề tài yêu thương. Và cả hai đều nằm trong chương trình của Ngài.
Thực vậy, vì yêu thương nên mới từ bỏ và từ bỏ để rồi được yêu thương nhiều hơn. Chính Ngài cũng đã làm gương trước cho chúng ta noi theo và bắt chước.
Đúng thế, thánh Phaolô đã diễ tả: vì yêu thương, Đức Kitô đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang để mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân…Ngài vốn giàu sang, nhưng đã tự ý trở nên nghèo hèn, để lấy cái nghèo hèn của mình mà làm cho chúng ta được trở nên giàu sang.
Rõ ràng sự từ bỏ của Chúa đã được liên kết với tình yêu, một tình yêu luôn muốn sự tốt lành cho người khác. Ngài trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu. Ngài tự hạ để chúng ta được nâng lên. Ngài đã chết để chúng ta được sống.
Đó là một nghịch lý, một nghịch lý hồng phúc như thánh Phanxicô Assie đã diễn tả:
- Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Là Kitô hữu, chúng ta không có một con đường nào khác để bước theo Chúa, ngoài con đường từ bỏ, ngoài con đường thập giá. Và đó cũng chính là bí quyết giúp chúng ta đạt tới ơn cứu độ muôn đời.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét