Thứ Tư, 10 tháng 8, 2016

GX. LÀO CAI ĐI LÀM TỪ THIỆN VÀ THĂM DÂN BỊ NẠN BÃO LỤT CÁC CHA TỪ TÒA GIÁM MỤC VÀ GX. LÀO CAI ĐI THĂM GIÁO DÂN MƯỜNG KHƯƠNG. TM LỄ MẸ LÊN TRỜI & CN 20 TN






ĐỨC THÁNH CHA GẶP KITO HỮU TRUNG PHI



TRẺ EM ĐÓI Ở TRUNG PHI 


GX. LÀO CAI ĐI LÀM TỪ THIỆN VÀ THĂM DÂN BỊ NẠN BÃO LỤT



































NHÀ THỜ CAM ĐƯỜNG SẼ LÀ NHÀ THỜ CHÍNH TÒA GP. LÀO  CAI

NHÀ NGUYỆN CỐC MỲ

NHÀ NGUYỆN CỐC MỲ










NƯỚC NGẬP 





BÙN TRÊN ĐƯỜNG PHỐ SAU TRẬN BÃO







BÙN TRÊN ĐƯỜNG PHỐ SAU TRẬN BÃO

















LÀO CAI CẦU NGUYỆN CHO MƯỜNG KHƯƠNG BỊ ĐÀN ÁP TÔN GIÁO






LÀO CAI CẦU NGUYỆN CHO MƯỜNG
 KHƯƠNG BỊ ĐÀN ÁP TÔN GIÁO







CAM ĐƯỜNG LÀO CAI CẦU NGUYỆN CHO MƯỜNG KHƯƠNG BỊ ĐÀN ÁP TÔN GIÁO






CÁC CHA TỪ TÒA GIÁM MỤC VÀ GX. LÀO CAI ĐI THĂM GIÁO DÂN MƯỜNG KHƯƠNG




CÁC CHA TỪ TÒA GIÁM MỤC VÀ GX. LÀO CAI ĐI THĂM GIÁO DÂN MƯỜNG KHƯƠNG




CÁC CHA TỪ TÒA GIÁM MỤC VÀ GX. LÀO CAI ĐI THĂM GIÁO DÂN MƯỜNG KHƯƠNG. CAC CHA  THƯỜNG DÂNG LỄ TẠI HÈ NHA NAY VÀ CHỦ NHÀ LUÔN BỊ XÁCH NHIỄU. (CHỦ NHÀ ÁO NÂU DỰA CỘT)


KO BIÊT TỰ PHÁT HAY CHỈ ĐẠO MÀ CÁC “TÊN ĐẦY TỚ” LÀM CHÔNG CÔNG BINH NÉM VÀO XE CÁC CHA TỪ TÒA GIÁM MỤC VÀ GX. LÀO CAI LÀM THỦNG BA LỐP XE KHI ĐI THĂM GIÁO DÂN MƯỜNG KHƯƠNG

CÁC “TÊN ĐẦY TỚ” LÀM CHÔNG CÔNG BINH GÓI VÀO BỊCH NILONG NÉM VÀO XE CÁC CHA RỒI BỎ CHẠY

CÁC “TÊN ĐẦY TỚ” LÀM CHÔNG CÔNG BINH NÉM VÀO XE CÁC CHA RỒI BỎ CHẠY ( HAI TÊN  ĐINH TĂC NÀY CÓ THỂ ĐI RẢI CHÔNG )


KO BIÊT TỰ PHÁT HAY CHỈ ĐẠO MÀ CÁC “TÊN ĐẦY TỚ” LÀM CHÔNG CÔNG BINH NÉM VÀO XE CÁC CHA TỪ TÒA GIÁM MỤC VÀ GX. LÀO CAI LÀM THỦNG BA LỐP XE KHI ĐI THĂM GIÁO DÂN MƯỜNG KHƯƠNG

KO BIÊT TỰ PHÁT HAY CHỈ ĐẠO MÀ CÁC “TÊN ĐẦY TỚ” LÀM CHÔNG CÔNG BINH NÉM VÀO XE CÁC CHA TỪ TÒA GIÁM MỤC VÀ GX. LÀO CAI LÀM THỦNG BA LỐP XE KHI ĐI THĂM GIÁO DÂN MƯỜNG KHƯƠNG



GX. LÀO CAI THẮP NẾN CẦU CHO MƯỜNG
KHƯƠNG BỊ ĐÀN ÁP TÔN GIÁO

Tối Chủ nhật XVII; XVIII; XIX TNC, giáo xứ Lào Cai thắp nến cầu nguyện cho cộng đoàn công giáo tại Mường Khương.
Trong những ngày vừa qua, người Công giáo tại thị trấn Mường Khương không được tự do sinh hoạt tôn giáo. Chính quyền thị trấn đã cản trở mạnh mẽ các linh mục dâng lễ và cầu nguyện. Đội ngũ công an viên, dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa phương, đã giải tán và bắt bớ một số giáo dâng khi họ đang dự lễ và cầu nguyện tại gia. Tòa Giám mục, các linh mục đã kêu gọi bà con kìm chế và dùng giải pháp đối thoại nhưng đến nay chưa mang lại kết quả khả quan. Vì thế, tối Chúa nhật XVII, XVIII, XIX TN (ngày 24; 31 / 07 và 07 /08 năm 2016) giáo xứ Lào Cai dâng Thánh lễ và thắp nến cầu nguyện cho những người anh chị em đang gặp nạn ở Mường Khương -  tại nhà thờ Cốc Lếu, nhà thờ Bắc Cường và nhà thờ Cam Đường. Xin anh chị em là những người Công giáo thêm lời cầu nguyện cho cộng đoàn Công giáo tại thị trấn Mường Khương nói riêng và huyện Mường Khương nói chung.

Một số hình ảnh tại 
CÁC GIÁO HỌ: CÔC LẾU; BẮC CƯỜNG, SƠN MÃN  và CAM ĐƯỜNG trong giáo xứ Lào Cai:




LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
Kh 11,19a;12,1-6a.10ab; 1Cr 15,20-27; Lc 1,39-56
MỤC LỤC

1. Mẹ lên trời
2. Một bản thánh ca bắt đầu vang lên.
3. Mẹ lên trời
4. Cảm nghiệm ơn Chúa – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Đức Maria: địa chỉ trên cao – ĐGM. Vũ Duy Thống
6. Mẹ Lên Trời là hy vọng của chúng ta
7. Niềm an ủi
8. Theo Đức Mẹ lên trời – ĐGM. Bùi Tuần
9. Vinh quang
10. Lòng tự trọng
11. Ai hy sinh hơn ai?
LỄ ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI
1. Mẹ lên trời
Tại nhiều giáo xứ bên Ý, vào ngày lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời, người ta có tục lệ rước kiệu như thế này:
Một kiệu Đức Mẹ từ cuối làng đi lên. Còn một kiệu Chúa Giêsu từ đầu làng đi xuống. Cả hai sẽ gặp nhau tại sân nhà thờ. Người ta sắp đặt để cả hai tượng đều cúi đầu chào nhau ba lần, rồi sau đó cũng tiến vào nhà thờ, tượng trưng cho việc Chúa Giêsu dẫn đưa Mẹ Ngài vào quê hương Nước Trời. Nghi thức này tuy đơn sơ nhưng lại gây một ấn tượng mạnh mẽ nơi những người người tham dự. Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy niềm tin vào việc Đức Mẹ hồn xác lên trời đã được manh nha từ một thời rất xa xưa. Thực vậy, vào năm 457, Đức Giám Mục Giêrusalem đã viết như sau: Mẹ Maria qua đời, có các tông đồ vây quanh. Nhưng rồi sau khi chôn cất được ít lâu, ngôi mộ bỗng được mở ra, các tông đồ nhận thấy nó hoàn toàn trống rỗng và rồi các ông đã kết luận Mẹ đã được đưa về trời cả hồn lẫn xác.
Đúng thế, Chúa Giêsu đã không muốn để Mẹ Ngài phải chịu một giây phút nào dưới quyền lực của Satan và tội lỗi, nên đã ban cho Mẹ đặc ân vô nhiễm nguyên tội. Đồng thời Ngài cũng không muốn thân xác tinh tuyền của Mẹ phải chịu cảnh mục nát trong mồ, nên đã ban cho Mẹ đặc ân được về trời cả hồn lẫn xác. Thiên Chúa Ba Ngôi cùng với triều thần thánh trên trời mừng rỡ chúc tụng Mẹ.
Đó là niềm hạnh phúc của những người thân yêu gặp lại nhau. Và đó cũng là niềm hạnh phúc mà mỗi người chúng ta đều có thể mong đợi. Đúng thế, trong ngày lễ Mẹ về trời chúng ta có thể nghĩ tưởng tới ngày chúng ta cũng sẽ được bước vào quê hương Nước Trời, sau một cuộc đời trung thành phụng sự Chúa. Chính tại quê hương Nước Trời này, chúng ta sẽ được gặp lại những người thân yêu đã ra đi trước chúng ta.
Đồng thời chúng ta cũng có thể suy nghĩ về sự chết. Thực vậy, cái chết không còn là một ngõ cụt, một chấm dứt, như nhiều người thường bảo: chết là hết. Trái lại đối với chúng ta, những người có đức tin, thì chết là giây phút chúng ta được trở về nhà Cha, được sinh ra cho cuộc sống vĩnh cửu, được gặp lại những người thân yêu như lời kinh nguyện Thánh Thể chúng ta vốn thường nghe đọc: Xin cho chúng con được đồng hưởng sự sống đời đời cùng với Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ Thiên Chúa và toàn thể các thánh.
Chúng ta hãy sốt sắng đọc kinh Kính Mừng và đặc biệt chú ý tới lời kêu xin: Cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi, khi này và trong giờ lâm tử.
Vì thế, hãy cầu nguyện và ra sức uốn nắn những sai lỗi để đổi mới cuộc đời, nhờ đó trong ngày sau hết chúng ta cũng sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương Nước Trời.
2. Một bản thánh ca bắt đầu vang lên.
Phúc âm thuật lại những ân huệ đặc biệt Thiên Chúa ban cho Đức Maria, nhấn mạnh nhiều nhất về Đức Maria gương mẫu đức tin. Phúc thay cho bà, vì bà đã tin ... Nghĩ về chúng ta, Thiên Chúa đã muốn rằng Mẹ Thiên Chúa phải được thỉnh mời đáp bằng một tiếng vâng đối với điều vượt quá trí khôn Mẹ. Đức Maria luôn luôn trả lời bằng một niềm tin toàn diện. Hiệp thông với dân tộc, với thời đó, với Giáo hội tương lai, Đức Maria ca lên kinh Magnificat. Giáo hội nhận ra mình trong bản kinh ấy. Chúng ta hãy hợp nhất với niềm tin của Người. Đức Maria khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa, kiên quyết trong thử thách, đóng vai kẻ tôi tới bệnh cạnh loài người, sống bằng suy niệm và luôn vui sống.
Để hợp với bầu khí Mông Triệu, chúng ta suy niệm về một câu trích trong bản kinh Magnificat tuyệt vời này.
1) Thần trí tôi nhảy mừng.
Ca khúc Magnificat giờ đây vang trên thiên quốc với tất cả âm điệu tiết tấu. Nhưng Đức Maria đã hát lên ca khúc ấy lần đầu tiên trong một giai đoạn cuộc đời dưới trần thế của Người, ở khoảnh khắc một mạc khải vừa được hé mở. Đức Maria thoáng nhìn thấy định mệnh nhân bản của mình được thành toàn trong cơ thể và thần trí. Thật vậy, Thiên Chúa mặc lấy xác phàm trong lòng Đức Maria, ngõ hầu nâng cao con người, ban cho con người phẩm giá thần linh. Sự sống lại vinh hiển giống như hạt thóc vùi trong lòng đất nay hoá thành bông lúa chín vinh quang dưới ánh mặt trời. Trong kinh Magnificat, ngay ở lúc khởi sự mầu nhiệm Nhập thể, Đức Maria đã ca ngợi trước về niềm vui Phục sinh sau này. Trong con người Đức Giêsu, Đức Maria thoáng nhận thấy Thiên Chúa muốn có một lịch sử ấy, định mệnh ấy chỉ có thể là tuyệt diệu. Hơn nữa, đích thân Thiên Chúa đến đổi mới lịch sử thân xác nhân loại bằng cách hướng nó về Tình yêu của Thiên Chúa. Vẫn tiếng la lên vì sung sướng chào mừng lúc khai mạc, sau này trở thành bản thánh ca phấn khởi trong ngày hoàn tất. Cũng vậy, trong đời sống rất thực của chúng ta, trong thực tại xác phàm, mặc dầu đau khổ, chúng ta hãy vui sướng nhận rõ điều gì chúng ta có thể dâng lên Thiên Chúa để Người thánh hoá. Chớ quên rằng thân xác chúng ta được mời gọi để trở nên một cơ thể được 'Kitô hoá'.
2) Trong Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc tôi.
Đức Giêsu cứu chuộc chúng ta bằng quyền năng Thiên Chúa của Người, Chúa cứu chuộc toàn bộ con người chúng ta cả xác lẫn hồn. Toàn thể thân xác sẽ được cứu chuộc chừng nào chúng ta tham dự trạng thái hiển vinh của cơ thể Đức Kitô. Nhưng không được quên rằng Đức Kitô cứu chuộc chúng ta ngay từ bây giờ. Đức Kitô phục sinh hiện hữu, sống trong trạng thái đặc biệt, Chúa ở trong mỗi chúng ta như linh hồn ở trong mỗi phần nhỏ cơ thể. Những giới hạn của bất cứ vật thể hữu hình nào không còn nữa đỗi với cơ thể Đức Kitô. Kitô hữu kết hợp với Đức Ki-tô thì mang trong mình lời kêu gọi sống lại vinh hiển. Điều này đúng vô cùng đối với Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Chúng ta hãy cầu xin Đức Mẹ cho chúng ta được 'hợp tác' với sức mạnh cứu độ của Cơ thể quang vinh Đức Giêsu hiện diện trong chúng ta. Chừng đó, chính chúng ta cũng sẽ ca lên bản kinh Magnificat.
3. Mẹ lên trời
Từ tín điều Mẹ hồn xác lên trời, được mừng kính hôm nay, chúng ta rút ra được những kết luận nào.
Kết luận thứ nhất, đó là Mẹ đã được đưa về trời, nơi mà một ngày kia chúng ta cũng sẽ đến.
Thực vậy, sở dĩ Mẹ đã được đưa về trời một cách kỳ diệu vì Mẹ không hề phạm tội, nên thân xác Mẹ không bị huỷ hoại tiêu tan, cũng như thân xác Chúa Giêsu. Thân xác Mẹ trực tiếp đi từ tình trạng dương thế qua tình trạng vinh quang mà không phải nếm mùi mục nát. Sự hiện diện của Mẹ trên trời là lời hứa hẹn cho chúng ta, bởi vì một ngày kia chúng ta cũng sẽ được ở đó với Mẹ.
Tuy nhiên, vì mang thân phận tội lỗi, nên chúng ta sẽ không chuyển trực tiếp từ tình trạng dương thế qua tình trạng vinh quang, nhưng sẽ phải trải qua một thời kỳ huỷ hoại, một thời kỳ mục nát. Chúng ta giống như cây phượng. Khi mùa hè trở về, nó trổ bông đỏ rực. Nhưng khi mùa thu tới, nó bắt đầu rụng lá để rồi chỉ còn lại những cành cây trơ trụi vào mùa đông.
Cuộc sống của chúng ta cũng giống như vậy. Khi mùa thu cuộc đời trở lại, chúng ta mất đi toàn bộ vẻ đẹp thân xác, để rồi sẽ bị rữa thối trong lòng đất lạnh, một khi chúng ta nằm xuống cùng với một cái chết. Thế nhưng khi giờ phút sống lại đã điểm, thì một thân xác mới mẻ và xinh đẹp sẽ nở tươi trên đống tro tàn bụi đất, như lời thánh Phaolô đã diễn tả: khi gieo một hạt giống vào lòng đất, nó sẽ không mọc lên nếu không bị chết đi. Và hạt giống chúng ta gieo, há chẳng phải là một cây đầy đủ mà sau này sẽ lớn lên sao. Thân xác của chúng ta lúc bấy giờ sẽ như thế nào? Thánh Phaolô diễn tả:
- Thân xác hay chết này sẽ mặc lấy sự không hay chết và thân xác mục nát này sẽ không còn mục nát nữa.
Kết luận thứ hai việc Mẹ được đưa về trời còn là nguồn trợ lực cho chúng ta khi chiến đấu để chiếm lấy niềm vinh thắng mà Mẹ đang vui hưởng.
Vì thế, chúng ta hãy tin tưởng chạy đến kêu cầu cùng Mẹ.
Douglas Hyde là một đảng viên Cộng sản, chủ bút một tờ báo lớn ở Anh Quốc. Ông đã kể lại sự mình trở về với Giáo hội như sau:
Ngày nọ, tình cờ ông bước vào một nhà thờ Công giáo. Ngồi ở hàng ghế sau cùng, ông đưa mắt quan sát và nhận thấy có một thiếu nữ bước vào, vẻ mặt đầy âu lo. Cô ta đến trước bàn thờ Đức Mẹ, quỳ cầu nguyện một hồi lâu, sau đó đứng dậy ra khỏi nhà thờ. Lúc cô ta đi ngang qua, ông nhận thấy vẻ mặt đầy lo âu khi trước đã tan biến, nhường chỗ cho một vẻ mặt phấn khởi và hy vọng.
Thế là ông cũng mon men đến bên bàn thờ Đức Mẹ và trình bày câu chuyện đời mình, nhưng ông không biết phải bắt đầu như thế nào. Sau này khi nhớ lại, thì hình như ông ta đã nói với Mẹ:
- Lạy Mẹ dịu dàng và đáng yêu, xin hãy tỏ ra nhân từ và khoan dung với con. Nhờ Mẹ giúp đỡ, cuối cùng ông đã được ơn ăn năn trở lại.
Hãy tin tưởng chạy đến với Mẹ, bởi vì xưa nay chưa từng nghe có người nào kêu cầu Mẹ, mà Mẹ chẳng nhận lời.
4. Cảm nghiệm ơn Chúa – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Nếu có ai hỏi: Làm thế nào để tiến bộ trên đường đạo đức, thay đổi nếp sống cũ, biết dấn thân mến Chúa yêu người hơn? Tôi xin thưa: điều quan trọng nhất khởi đầu cho một nếp sống mới là: cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong đời mình. Khi đã nhận biết mình được Thiên Chúa yêu thương, ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là mong muốn đáp lại tình yêu ấy.
Tình yêu kêu gọi tình yêu. Tình yêu đáp trả tình yêu. Chúa Thánh Thần, nguồn tình yêu của Thiên Chúa, sẽ giúp ta nhận biết tình yêu Thiên Chúa và soi sáng thúc giục ta đáp lại tình yêu ấy.
Sau khi Đức Mẹ ngoan ngoãn nói lên lời "xin vâng", Chúa Thánh Thần xuống tràn đầy tâm hồn Đức Mẹ. Đức Mẹ mở rộng tâm hồn đón nhận và để mặc Người hướng dẫn cuộc đời mình. Tứ đây, cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn biến đổi. Đức Mẹ trở nên một dụng cụ ngoan ngoãn trong tay Chúa Thánh Thần, hiến dâng trọn vẹn tâm hồn và thân xác để đáp lại tình yêu vô biên của Thiên Chúa.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy những tác động của Chúa Thánh Thần trên Đức Mẹ.
Tác động thứ nhất: sự vội vã.
Vội vã đây không phải là sự vội vàng hấp tấp. Cũng không phải là nôn nóng lo âu. Sự vội vã ở đây có nghĩa là sự nhiệt tình hăng hái. Cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa trong tâm hồn, Đức Mẹ mau mắn, tha thiết muốn đáp trả. Nếp sống của cô thôn nữ Maria đã thay đổi. Từ một thôn nữ dịu dàng, sống êm đềm trong cuộc đời bình dị, Đức Mẹ giờ đây trở nên linh hoạt, nhanh nhẹn, hăng hái đền đáp lại Tình Chúa Yêu Thương. Từ một thôn nữ vui với công việc nội trợ, khép mình trong làng xóm, Đức Mẹ đã mở cửa ra đi. Sự mở cửa ra đi làm ta nhớ tới tác động của Chúa Thánh Thần trên các Tông đồ.
Tác động thứ hai: tâm tình tạ ơn.
Cảm nghiệm được tình Chúa thương yêu, lòng Đức Mẹ tràn đầy niềm cảm mến biết ơn. Niềm tri ân cảm tạ đầy ứ trong lòng chỉ chờ dịp tuôn ra thành lời. Cảm nghiệm về ơn lành vô biên của Thiên Chúa cũng là cảm nghiệm về sự thấp hèn bất xứng của mình. Hai cảm nghiệm song song đó càng nâng cao, càng đào sâu niềm tri ân cảm tạ. Cảm nghiệm ấy đã biến đổi Đức Mẹ, từ một cô gái kín đáo, âm thầm trở nên một thi sĩ, một ca sĩ lớn tiếng ca tụng Tình Yêu Thiên Chúa đối với kẻ nghèo hèn. Chúa Thánh Thần đã biến Đức Mẹ thành ngòi bút thi sĩ như lời Thánh vịnh: Tim tôi dâng ý thơ tuyệt diệu. Dệt bài ca dâng tiến Đức Vua. Lưỡi tôi tựa bút rung vạn điệu. Trong tay những thi nhân anh tài. Khi nghe bà Isave chào, Đức Mẹ đã ứng khẩu tán tụng Chúa bằng bài kinh ca ngợi tuyệt diệu.
Tác động thứ ba: thái độ chia sẻ.
Tình yêu Thiên Chúa bao la đã đổ vào tâm hồn Đức Mẹ tràn đầy niềm vui. Niềm vui thánh thiện và lớn lao đã thúc đẩy Đức Mẹ mau mắn lên đường đi thăm bà Isave. Đức Mẹ không đến để khoe khoang, nhưng để chia sẻ. Nhờ Đức Mẹ đến mà bà Isave và thánh Gioan Baotixita được chúc phúc. Đức Mẹ cũng đến để chúc mừng bà chị họ đã được Chúa đoái thương. Tâm hồn được Chúa chiếm hữu đã khiến Đức Mẹ trở nên quảng đại và hiệp thông, sẵn sàng chia vui sẻ buồn với những người chung quanh.
Tác động thứ bốn: dấn thân phục vụ.
Niềm tri ân cảm tạ, niềm vui thánh thiện thực sự sẽ không dừng lại ở những bài ca trên môi miệng. Cảm nghiệm về Tình Yêu Thiên Chúa trong trái tim sẽ mau chóng biến thành hành động. Sự đền đáp tình yêu sẽ thúc đẩy người được yêu dấn thân phục vụ trong những việc làm cụ thể. Chính vì thế Đức Mẹ đã không ngần ngại ở lại phục vụ bà chị họ trong ba tháng.
Mừng lễ Đức Mẹ lên Trời một cách có ý nghĩa nhất, đó là ta hãy noi gương Đức Mẹ: xin Chúa Thánh Thần đến tràn ngập tâm hồn ta như Người đã đến trong lòng Đức Mẹ, giúp ta con người được những ơn lành Chúa ban và giúp ta mau mắn đáp lại tình yêu thương đó.
Xin Đức Mẹ giúp chúng con biết ngoan ngoãn vâng theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng: để vội và ra đi, để hân hoan tạ ơn, để quảng đại chia sẻ và để dấn thân phục vụ anh em. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa trong đời bạn không?
2. Sẵn sàng làm theo ơn Chúa Thánh Thần soi sáng, bạn có mong muốn điều này không?
3. Lên trời, dứt khỏi trần gian. Đây có phải là một bước nhảy vọt không? Hay chỉ là tiếp nối của quá trình từ bỏ chính mình trên trần gian?
5. Đức Maria: địa chỉ trên cao – ĐGM. Vũ Duy Thống
Cách đây ít lâu, khi đọc báo hằng ngày, tình cờ tôi ghi nhận được một mẩu tin là lạ. Đó là mẩu bố cáo đăng ký địa chỉ trên cung trăng. Ai muốn đứng tên chủ quyền một thửa đất trên gương mặt chị hằng bảo đảm có bằng khoán giấy tờ công chứng đường hoàng, hãy mau mau đăng ký, chọn vị trí trên bản đồ và nộp tiền đầy đủ. Bảo đảm, chỉ vài ngày sau là được trao tận tay sổ hồng sổ đỏ, để cứ mỗi đêm trăng sáng là có quyền vác kính viễn vọng ra ngắm nghía chỉ trỏ giới thiệu với bạn bè về dự án tương lai địa chỉ trên cao của mình.
Thấy mẩu tin ngồ ngộ, tôi ghi nhận, và hôm nay lễ Đức Maria Mông Triệu, nghe vẳng bên tai bài hát "Như một vầng trăng tuyệt vời, muôn ngàn tia sáng lung linh chốn thiên cung" ca ngợi Đức Maria, bỗng dưng nhớ lại và liên tưởng: mỗi tín hữu cũng có một địa chỉ trên cao, địa chỉ ấymang tên Maria.
1. Đức Maria: một địa chỉ thiết định cho lòng tin.
Đây không phải là điều huyền hoặc do trí tưởng tượng con người bịa ra trong một giờ cao hứng, đây cũng không phải là sản phẩm mang nặng cảm tính do lòng đạo đức của giới lớp bình dân, đây càng không phải là do nhất trí đồng ý giơ tay tán thành theo kiểu vào hùa mà không cần biết đến có tự do hay không.
Không phải thế, mà là kết quả suy tư lâu dài tìm kiếm của đời sống Giáo Hội. Trước năm 1950, người ta có quyền bán tín bán nghi, tin hay không tin cũng chẳng hề hấn gì, như thánh Tôma tiến sĩ; nhưng kể từ ngày lễ Các Thánh năm 1950, khi Đức Giáo Hoàng công bố sự kiện Đức Maria Mông Triệu như một tín điều, người ta không còn có thể dửng dưng được nữa, mà nhất thiết phải reo lên vui mừng, vì đã sáng tỏ: trên cao, Đức Maria chính là địa chỉ của lòng tin Công Giáo.
Thật vậy, Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, nên không thể chịu hậu quả của Tội nguyên tổ là phải chết. Mẹ trọn đời Đồng Trinh nên cứ lý cũng trọn đời trinh nguyên tồn tại. Mẹ cung cấp chất liệu xác thân cho Ngôi Hai Thiên Chúa bước xuống đồng hành với con người trong kiếp phận loài người, thì khi Phục Sinh về trời vinh quang, Thiên Chúa cũng giữ gìn cho Mẹ mình thoát khỏi cảnh hư nát thân xác. Mẹ là Đấng đầy ơn phúc, nếu đã được Thiên Chúa yêu thương gìn giữ từ thuở đời đời bằng đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, thì cũng được Thiên Chúa giữ gìn cho đến muôn đời bằng đặc ân Mông Triệu tuyệt diệu hơn mọi người trần.
Cách khác, Mẹ Hồn Xác Lên Trời là một ngôn ngữ mang tính dấu chỉ dễ đọc của một địa chỉ trên cao, vốn đã có sẵn trong mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô.
2. Đức Maria: một địa chỉ thiết thân của đời tín hữu.
Ngày nay có thể có người nghĩ rằng: Đức Mari Mông Triệu chỉ là một tín điều, nghĩa là một điều được Giáo Hội xác lập như đối tượng phải tin; lại nữa, cũng chỉ được định tín cách nay chưa lâu, mới từ năm 1950, có chi mà quan trọng?
Giữa cộng đoàn, xin được cùng với Giáo Hội nhắc lại rằng: đây không phải là chuyện thuần tuý quy ước, mà đúng là chuyện thiết thân với mọi con người. Khi gọi một chiếc xe là "xe máy" thì nó là "xe máy" dù chẳng có chút máy móc nào mà chỉ là "xe đạp". Đó là quy ước. Thế nhưng, khi tín điều thiết định thì khác, vì ở đó cả vận mệnh đời sống của những kẻ tin cũng được định hình theo.
Đức Maria về trời, nhưng không về với đôi tay trắng, mà là nặng trĩu vận mệnh của cả Giáo Hội, Đức Kitô là Đầu, mà vinh quang của Đầu tiến đến đâu thì vinh quang của Thân Mình cũng tỏ hiện đến đó, nhưng qua việc Đức Maria về trời, tín hữu nhận thấy rõ hơn vận mệnh đời mình.
Mẹ là người đi đầu cho ta được tiếp bước. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là tiền đề cho lòng tin người tín hữu: nếu sống như Mẹ, họ cũng sẽ được về trời với Mẹ. Mẹ như người đi trước cho ta được theo sau. Mẹ được đưa về trời là khuôn mẫu cho niềm hy vọng: bên kia địa chỉ trần thế này là một địa chỉ trên cao của cuộc sống phong phú đời đời. Mẹ là người đi mau cho ta được níu kéo dắt dìu. Mẹ về trời xác lập một hướng đi cho lòng yêu mến: yêu trung thành hôm nay sẽ được dẫn tới bến bờ yêu thương tinh ròng vĩnh phúc. Thế đó, Đức Maria địa chỉ trên cao thiết thân cho mệnh đời tín hữu.
3. Đức Maria: một địa chỉ thiết thực cho mỗi cảnh đời.
Vấn đề được đặt ra ở đây không chỉ là chuyện hiểu biết và tin tưởng, nghĩa là dừng lại trong nhận thức, cho dẫu đó là bước đầu không thể thiếu được, nhưng quan trọng hơn, là hỏi xem địa chỉ trên cao kia có để lại âm hưởng gì trong đời sống hằng ngày? Có một bài hát "Kinh Tin Kính" kết thúc bằng câu quyết tâm "Tin những gì Hội Thánh dạy con". Tốt lắm, nhưng nghe sao vẫn cứ ngờ ngợ, tin tất cả mà không lo chuyển hoá niềm tin vào cuộc sống thiết thực, thì tự nó đã hàm chứa một nguy cơ của sự cả tin. Giống như một cha sở cử hành Bí tích Xức Dầu cho một nữ bệnh nhân tân tòng trọng tuổi, với những công thức tuyên tín dài dòng, bệnh nhân ấy trong cơn đau đớn đã thốt lên: "Cha nói thánh tướng nào con cũng tin cả". Thành thử, hôm nay, khi tuyên xưng Đức Maria hồn xác về trời chính là lúc ta phải nỗ lực tổ chức xây dựng đời sống nơi địa chỉ trần thế sao cho phù hợp tương thích với địa chỉ trên cao mà ta tin yêu hy vọng.
Làm sao có thể về trời thanh nhàn khi cuộc đời này chưa thanh sạch tâm hồn, chưa thanh bạch nếp sống, chưa thanh luyện ý chí, chưa thanh thoát tư duy, chưa thanh cao tình cảm, chưa thanh thản nỗi đau đời và chưa thanh thoả nhiệm vụ người người với nhau? Làm sao có thể về trời thênh thang khi cuộc sống hôm nay vẫn còn bận bịu bỏ neo nơi những khuynh hướng đam mê sùng bái, như là dục vọng buông lơi lòng tham không đáy hay quyền bính vô độ? Và làm sao có thể về trời với Mẹ khi ta hằng ngày vẫn còn gặp mình trên những lo toan tính toán làm ăn không chỉ dừng lại ở mức "lương thực hằng ngày" "cầu vừa đủ xài" của Kinh Lạy Cha, mà còn mong có mọi sự nhiều thêm nữa, trừ một sự là có điểm dừng?
Muốn có địa chỉ trên cao, hãy tích cực đăng ký xây dựng ngay từ địa chỉ trần thế này.
Qua một bài báo về kỹ thuật hàng không, được biết rằng người ta đang tính tới chuyện bay cao bay xa và bay nhanh hơn. Điều này đòi hỏi phải giải quyết ba thông số kỹ thuật: giảm nhẹ thân tàu, tăng cường sức đẩy động cơ và trang bị bộ phận định hướng tốt. Bất giác tôi nghĩ đến chuyến bay đời người về địa chỉ trên cao, cũng cần trút nhẹ lo toan, gia tăng ơn thánh, và nỗ lực định hướng theo gương Đức Mẹ. Như vậy, chuyến bay ấy chắc chắn sẽ cao xa nhanh an toàn.
Chúc mọi người luôn biết dâng cao tin yêu hy vọng, để làm quen với địa chỉ trên cao ngay từ cuộc sống xem ra còn nhiều lũng thấp hôm nay.
Đức Maria địa chỉ trên cao, dạy cho con biết qua bao tháng ngày, biết đường sống thánh từ nay, ngày mai sẽ được thẳng bay về trời.
6. Mẹ Lên Trời là hy vọng của chúng ta
Tại một số thành phố trong nước Ý có một cách mừng Lễ Mẹ Lên Trời thật đơn sơ nhưng có ý nghĩa: Họ bắt đầu không phải ở nhà thờ nhưng ở đường phố chính. Việc cử hành gồm hai cuộc rước.
Cuộc rước tượng Đức Mẹ bắt đầu từ ngoại ô thành phố tiến vào trung tâm thành phố. Cuộc rước này tượng trưng cho cuộc hành trình của Đức Mẹ từ cuộc sống trần gian tiến về trời.
Cuộc rước khác là cuộc rước tượng Chúa Giêsu qua các đường phố lớn. Ý nghĩa cuộc rước này là Chúa Giêsu đi đón Đức Mẹ khi Đức Mẹ tiến vào thiên đàng.
Giây phút nổi bật là khi hai cuộc rước gặp nhau tại một cổng chào được trang hoàng lộng lẫy. Chúa Giêsu và Đức Mẹ cúi chào nhau ba lần nói lên rằng Chúa Giêsu chào mừng Đức Mẹ tại cổng thiên đàng.
Sau nghi thức này, tất cả mọi người kiệu Chúa Giêsu và Đức Mẹ vào nhà thờ. Ý nghĩa việc rước này là Chúa Giêsu đưa Mẹ Ngài lên toà vinh quang trên trời. Khi mọi người vào nhà thờ thì Thánh Lễ được bắt đầu.
Theo phương diện thần học, Lễ Mẹ Lên Trời nói với chúng ta rằng cả hồn và xác Mẹ Maria đang ở trên thiên quốc. Vì Đức Mẹ không vướng mắc tội lỗi, giống như thân xác Chúa Giêsu, thân xác Mẹ không hư nát. Thể chất trần gian của Mẹ biến sang thể chất thiên đàng.
Theo phương diện thực hành, Lễ Mẹ Lên Trời nhắc nhở rằng chúng ta một ngày nào đó cũng được ở trên thiên đàng cả hồn và xác.
Có khi chúng ta quên rằng chúng ta cũng có thân thể trên thiên đàng. Dĩ nhiên, nó không phải là cái xác hay chết này như là thân thể thiêng liêng giống như thân thể Chúa Giêsu sau khi sống lại.
Nói về loại thân thể của chúng ta trên thiên đàng, chúng ta tìm đọc Thư thứ I Thánh Phaolô gửi cho Corintô: "Kẻ chết sống lại thể nào? Lấy thân xác nào mà đến?" Thánh Nhân so sánh thân xác dưới đất này với hạt giống và thân thể trên thiên đàng với cây lớn lên từ hạt giống đó: "Vật ngươi gieo nào phải là thân hình tương lai, nó chỉ là cái hạt, như lúa mì hay thứ khác chẳng hạn... Thiên Chúa cho nó hình thể nào tuỳ ý, mỗi hạt đều được hình thù riêng... Có hình thể thuộc về trời, có hình thể thuộc về đất. Việc kẻ chết sống lại cũng như thế: đã gieo sẽ mục nát, sống lại rồi thành bất hủ. Gieo xuống là nhục, sống lại là vinh, gieo vào đau yếu, sống lại mạnh khoẻ. Gieo thể xác sinh vật, sống lại thân hình thiêng liêng." (I Cor 15:36-44).
Lễ Mẹ Lên Trời nhắc nhở chúng ta một điểm thực hành nữa là Đức Mẹ ở trên trời là để giúp chúng ta. Đức Mẹ không ngồi nghỉ, chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa, chờ đợi chúng ta lên trời. Thật ra, Đức Mẹ luôn quan tâm đến mỗi người chúng ta. Đức Mẹ luôn giúp đỡ chúng ta trong cuộc chiến đấu tiến về quê trời. Đức Mẹ trên trời có thế lực để giúp chúng ta.
Đó là tin mừng cho chúng ta khi mừng Lễ Đức Mẹ. Phần thưởng Đức Mẹ nhận lãnh cho cuộc đời phục vụ, hứa hẹn cho chúng ta cũng được thưởng công cho cuộc đời vất vả của chúng ta. Chúng ta chắc chắn được hưởng cùng Đức Mẹ trên nước thiên đàng. Chúa Giêsu đón mừng Đức Mẹ lên trời cũng sẽ chào đón chúng ta về thiên đàng.
Chúng ta cùng cầu nguyện, dùng lời kinh của lễ hôm nay: "Lạy Chúa chí thánh, hôm nay, Đức Trinh Nữ, Mẹ Thiên Chúa, được đưa về trời. Người là khởi đầu, là hình ảnh của Hội Thánh viên mãn, là niềm an ủi và hy vọng tràn trề cho dân thánh trong cuộc lữ hành trần thế. Chúa không muốn Người chịu cảnh hư nát trong mồ, vì đã sinh hạ Con Cha yêu quí là Đấng ban sự sống cho mọi loài." Xin cho chúng con được cùng Đức Mẹ, một ngày nào đó trên thiên đàng, ca tụng Chúa muôn đời.
7. Niềm an ủi
Hôm nay, chúng ta mừng kính một tạo vật đầu tiên đã được khải hoàn và bước vào quê hương nước trời. Tạo vật ấy chính là Mẹ Maria.
Bàu khí phụng vụ mang một sắc thái vui tươi với những lời ngợi khen và chúc tụng Đức Trinh Nữ lên trời hiển vinh, để rồi nắm giữ vai trò quan trọng nhất, vai trò Nữ vương trời đất, cũng như chiếm lấy một địa vị cao cả nhất, thật gần với Thiên Chúa và trổi vượt trên mọi tạo vật, địa vị làm Mẹ Thiên Chúa và làm Mẹ nhân loại.
Thực vậy, sau những ngày tháng khổ đau, giờ đây Mẹ được vui hưởng niềm hạnh phúc bất diệt như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
- Mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe và trái tim chưa một lần cảm nhận được những gì Thiên Chúa đã sắm sẵn cho những người yêu mến Ngài.
Trong ngày mừng kính Mẹ hồn xác về trời, chúng ta không phải chỉ ngợi khen và chúc tụng, mà còn phải tìm lấy cho mình một niềm vui mừng và hy vọng.
Thực vậy, kể từ khi Mẹ bước vào quê hương Nước Trời, chúng ta cảm thấy được an ủi và khích lệ rất nhiều, bởi vì tình mẫu tử, một thứ tình cảm đẹp đẽ và tinh ròng nhất của trái tim con người, đã được cụ thể hoá nơi Mẹ Maria trước ngai toà Thiên Chúa.
Nó không phải chỉ mang lấy vẻ dịu hiền của tình thương, mà còn mang lấy vẻ uy nghi của quyền năng, nhờ đó Mẹ sẵn sàng ra tay nâng đỡ và trợ giúp chúng ta trên đường lữ thứ trần gian.
Đúng thế, trên đỉnh đồi Canvê, Đức Maria đã trở nên Mẹ của nhân loại, cũng như trở nên Mẹ của mỗi người chúng ta, qua lời trăn trối của của Chúa Giêsu:
- Này là Mẹ con... và này là con Mẹ.
Qua lời xin vâng trong hoạt cảnh truyền tin, Mẹ đã cưu mang chúng ta. Đồng thời, qua những đau khổ phải chịu, nhất là khi đứng dưới chân cây thập giá, Mẹ đã sinh chúng ta trong đời sống ơn sủng. Và bây giờ ở trên trời, với tước hiệu là Mẹ chúng ta, Mẹ vẫn nhớ đến từng người và Mẹ sẽ dùng tình thương của một người mẹ và uy quyền của một vị nữ vương để bầu cử và giúp đỡ chúng ta trước mặt Thiên Chúa.
Chúng ta có thể nói được rằng:
- Mẹ nắm giữ số phận của mỗi người chúng ta trong lòng bàn tay yêu thương và quyền năng của Mẹ.
Vì thế, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ trong những phút giây hạnh phúc để cảm tạ, cũng như hãy chạy đến với Mẹ trong những tháng ngày đau khổ để xin Mẹ chở che.
Trong cuộc sống dương thế, Mẹ đã trải qua biết bao nhiêu cay đắng, nên Mẹ sẽ hiểu biết và chia sẻ với chúng ta hơn ai hết, bởi vì "đoạn trường ai có qua cầu mới hay". Có khổ đau, thì mới dễ dàng cảm thông với người đau khổ. Nếu chúng ta kêu cầu Mẹ, chắc chắn Mẹ sẽ trợ giúp và dẫn chúng ta đến cùng Chúa.
Douglas Hyde là một người cộng sản, chủ trương tờ nhật báo "Công Nhân" tại Anh, đã trở lại Công giáo trong một hoàn cảnh như thế này:
Sáng hôm ấy, đứng trước cổng một nhà thờ Công giáo, ông ta nhìn thấy một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, khuôn mặt chất đầy những khổ đau. Cô ta bước vào nhà thớ và quỳ cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ, nhưng khi cô ta ra về, thì dường như những nét khổ đau đã được xoá tan, không còn để lại một dấu vết nào cả.
Tò mò, ông ta cũng bước vào và đến bên tượng Đức Mẹ. Ông ta thắp lên một ngọn nến và quỳcầu nguyện. Thế nhưng, đầu óc thì trống rỗng, ông ta không thể nhớ nổi một câu kinh mà hồi còn nhỏ ông ta đã thuộc lòng. Cây nến cứ giảm dần, giảm dần. Sau cùng, ông ta nghe như có một tiếng nói thì thầm bên tai, nhưng cũng không được rõ.
Sau khi ra khỏi nhà thờ, ông ta cố gắng nhớ lại. Rồi ông ta đã mỉm cười, bởi vì trong lúc cầu nguyện, ông ta đã khẽ hát một bản tình ca đang thịnh hành lúc bấy giờ:
- Nàng xinh đẹp quá, xin hãy nhớ đến tôi...
Nhưng Mẹ Maria đã thấu suốt cõi lòng ông ta và đã dẫn đưa ông ta về cùng Chúa.
Với tình thương của một người mẹ, Đức Maria sẵn sàng nâng đỡ chúng ta và với uy quyền của một bậc nữ vương, Đức Maria có thể làm được tất cả những gì chúng ta kêu cầu.
Chúng ta vốn thường đọc:
- Xưa nay chưa từng nghe có người nào chạy đến cùng Đức Mẹ xin bầu chữa cứu giúp, mà Đức Mẹ từ bỏ chẳng nhận lời.
Phải chăng đó là chính là niềm an ủi và khích lệ chúng ta gặp được khi mừng kính Mẹ hồn xác lên trời ngày hôm nay?
8. Theo Đức Mẹ lên trời – ĐGM. Bùi Tuần
Sắp đến lễ Đức Mẹ hồn xác lên trời. Lên Trời là lên thiên đàng. Mẹ Maria lên trời là một sự kiện đầy hân hoan. Sự kiện vui mừng này gợi lên trong chúng ta khát vọng chính chúng ta cũng được lên trời.
Nhưng, để theo Đức Mẹ lên trời, ta không thể tự mình lên được. Ta phải tuân theo chỉ dẫn của Mẹ. Chỉ dẫn của Mẹ rất đơn sơ: Hãy sống vâng phục thánh ý Chúa (Lc 1,18).
Thánh ý Chúa về ta là thế nào? Tôi thiết nghĩ: Trong một nơi đặt truyền giáo là ưu tiên như tại đây, thì thánh ý Chúa về ta là lời Chúa Giêsu truyền dạy các môn đệ Người, trước khi Người về trời: "Các con hãy là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem... cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8).
Lời truyền dạy đó phải được coi là rất cần hiện nay. Nó phải được áp dụng một cách sống động. Nghĩa là đối với mỗi người chúng ta, ai cũng phải làm chứng về Chúa tại nơi mình đang sống, trong những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống mình. Làm chứng cho Chúa tại nơi mình sống phải được coi như một nhiệm vụ sống còn. Vì thế tôi thường nghĩ: "Làm chứng cho Chúa" tại đây lúc này là con đường tôi phải đi, để được lên trời với Đức Mẹ.
Với ý nghĩ đó, tôi xin phép chia sẻ vài suy tư, để xét mình, nhân dịp mừng lễ Mẹ lên trời.
Làm chứng cho Chúa
Làm chứng cho Chúa là làm chứng cho Chúa Giêsu. Chúa Giêsu phán: "Các con hãy là chứng nhân của Thầy" (Cv 1,8). Làm chứng cho Chúa Giêsu là làm chứng Người là Đấng Cứu thế. Người cứu độ nhân loại bằng chịu khổ hình và sống lại. Phúc Âm ghi rõ nội dung làm chứng: "Bấy giờ Người mở trí cho các môn đệ hiểu Kinh Thánh, và bảo: "Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính các con là chứng nhân của những điều này" (Lc 24,45-48).
Chắc chắn chúng ta có làm chứng cho Chúa Giêsu theo chứng từ trên đây. Làm chứng như thế cũng đã là việc tốt. Nhưng điều tốt hơn, mà mục vụ và truyền giáo mong muốn nơi ta, là chúng ta làm chứng Chúa Giêsu đã và đang cứu độ ta, trong chính cuộc sống cụ thể của ta, một cuộc sống có vô vàn phức tạp. Hơn nữa, ta cũng làm chứng rằng: chính ta cũng đã và đang cộng tác với Chúa Giêsu trong việc cứu độ những người xung quanh, cả đồng bào ta.
Hôm nay, nếu tôi và nhiều người khác biết sám hối, bỏ được tội lỗi, trở về đàng lành, giải quyết được nhiều vấn đề, thì chính là nhờ ơn cứu độ của Chúa, Đấng đã chịu nạn và phục sinh cho tôi và cho mọi người. Tin Mừng qui chiếu vào hiện tại, vào hôm nay, vào cuộc sống và vấn đề của chúng ta. Tôi có kinh nghiệm như vậy. Những bước đường làm chứng một cách cụ thể như thế sẽ không dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ thực hiện được nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần
Khi sai các tông đồ đi làm chứng, Chúa Giêsu đã hứa: "Các con sẽ nhận được sức mạnh của Chúa Thánh Thần" (Cv 1,8).
Kinh nghiệm cho tôi hiểu lời đó thế này: Chúa Giêsu cứu độ thường đến với ta qua sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Sức mạnh ấy được thể hiện nhiều cách, nhất là ơn đổi mới tâm hồn.
Chẳng hạn, trước đây có những người dễ chạy theo những thú vui hưởng thụ thế gian, thì nay họ trở thành dửng dưng với những thứ đó, để hăng say chìm đắm trong sự bình an của ơn Chúa hiện diện. Trước đây, có những tính tình rất tự phụ tự mãn, coi như đã ximăng-hoá rất vững trong chất kiêu căng, nhưng nay họ trở thành khiêm tốn nhã nhặn, từ các suy nghĩ, đến các cử chỉ thái độ và lời nói.
Các đổi mới như thế thường rất sâu xa, nhưng lại rất âm thầm. Nơi từng cá nhân, nơi cả một tập thể.
Tôi coi những đổi mới như thế là sức mạnh của Chúa Thánh Thần.
Nhiều khi, nhìn thấy những sự lạ lùng mà Chúa Thánh Thần đã và đang thực hiện tại đây trong các tâm hồn giữa những hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, tôi có cảm tưởng công việc Ngôi Lời nhập thể vẫn đang tiếp tục. Rất lặng lẽ, rất ẩn dật, nhưng Chúa Thánh Thần đang đưa ơn cứu độ vào lịch sử từng người và từng địa phương.
Chính tôi đã cảm nghiệm được sự kiện đó. Chúa hiện diện trong đời tôi, nhất là trong những giai đoạn tăm tối nhất. Người hiện diện để ủi an, để nâng đỡ, để soi sáng, để thứ tha, để chia sẻ, để cải hoá, để thanh luyện.
Từ kinh nghiệm bản thân, tôi có thể tiên đoán được sự chuyển biến tốt của lịch sử đang diễn ra âm thầm, qua những đổi mới các tâm hồn, do sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Tôi càng có lý để tin điều đó, khi nghĩ đến sự Đức Mẹ đang đồng hành với chúng ta trên đường truyền giáo.
Nhờ Mẹ Maria cầu bầu
Trên thánh giá, Chúa Giêsu đã trối Đức Mẹ cho thánh Gioan: "Này là mẹ con" (Ga 19,26). Tôi coi lời trối quí giá đó cũng dành cho mọi người sẽ được sai đi làm chứng cho Chúa.
Xin tạm bỏ qua lý thuyết cắt nghĩa lời đó. tôi chỉ xin dựa vào kinh nghiệm. Kinh nghiệm làm chứng điều này: Đức Mẹ giữ một địa vị rất quan trọng trong việc chúng tôi làm chứng cho Chúa.
Nhiều người biết Đức Mẹ, trước khi biết Chúa. Nhiều nơi cầu nguyện với Đức Mẹ, trước khi cầu nguyện với Chúa. Đức Mẹ là nơi ẩn náu của những ai tội lỗi, là nguồn an ủi cho những ai lo buồn. Đặc biệt, Đức Mẹ là hy vọng của những ai bé nhỏ, mọn hèn.
Riêng với những người làm chứng cho Chúa, Đức Mẹ dạy cho họ cách riêng tinh thần khiêm tốn, khó nghèo. Bởi vì, để làm chứng cho Đấng cứu thế là Đấng rất khiêm tốn, khó nghèo, người ta không thể phản chứng bằng đời sống của mình trái ngược với khó nghèo khiêm tốn.
Hơn nữa, Chúa chỉ ban ơn biết làm chứng về Chúa cho những ai có tinh thần khiêm tốn. Như lời Chúa Giêsu đã nói với Chúa Cha: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mạc khải cho những người bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha" (Lc 10,21). Người sống bé mọn với Chúa, luôn là người sống bé mọn với Đức Mẹ và với Hội Thánh của Chúa.
***
Trên đây là một thoáng nhìn về con đường tôi theo Mẹ lên trời. Tôi thấy rõ tôi không đi một mình. Chúng tôi đi với nhau, trong tình hiệp thông và phấn đấu, luôn tìm vâng phục thánh ý Chúa, để làm chứng cho Đấng Cứu độ. Người là Tin Mừng cho mọi người. Loan báo Tin Mừng, sống Tin Mừng là con đường Mẹ đã đi để lên trời. Con cái Mẹ cũng theo Mẹ mà đi trên con đường đó, để về trời.
9. Vinh quang
Ngày lễ Thăng thiên, chúng ta cử hành sự kiện Chúa Giêsu được tôn vinh, còn hôm nay ngày lễ Mông triệu, chúng ta cử hành sự kiện Mẹ Maria được tôn vinh. Chúng ta được lãnh nhận ơn Cứu độ từ Chúa Giêsu, nhưng chúng ta được lãnh nhận Chúa Giêsu từ Mẹ Maria.
Có một câu chuyện kể về cách thức người Da Đỏ Comache đã từng cầu nguyện để cho có mưa "Lạy Thầy Linh vĩ đại, xin nói cho chúng tôi biết chúng tôi đã làm điều gì sai trái, khiến cho ngài tức giận. Xin nói cho chúng tôi biết chúng ta phải làm gì, để ngài sẽ cho mưa xuống một lần nữa, và phục hồi sự sống cho mảnh đất của chúng tôi". Họ cứ cầu nguyện như thế trong vòng ba ngày, nhưng vẫn không hề có mưa. Trẻ con và người già bắt đầu chết.
Thế rồi những người lớn tuổi trên bộ lạc đi lên các ngọn đồi, để lắng nghe tiếng gió thổi, mang theo giọng nói của Thần Linh. Khi trở về, họ nói với dân chúng "Cảnh hạn hán gây ra là do tính ích kỷ của chúng ta. Từ bao năm qua, chúng ta đã lấy đi đủ thứ từ mặt đất, mà không hề trả lại gì cả. Tất cả chúng ta phải làm của lễ toàn thiêu, để dâng lên Thần Linh những tài sản giá trị nhất của chúng ta. Chúng ta phải rải tro trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên mặt đất. Rồi mưa sẽ đến, và sự sống sẽ trở lại trên địa cầu".
Dân chúng cảm ơn Thần Linh về thông điệp đó. Nhưng khi trở về nhà, và nhìn vào những tài sản giá trị nhất của mình, họ lại lưỡng lự, và bắt đầu tìm cách thoái thác. Thay vì hy sinh những tài sản giá trị nhất, họ chỉ hy sinh một số thứ khác thay thế vào đó. Bây giờ, một cô bé tên là Miriam, có một con búp bê màu xanh, mà cô bé yêu quý trên hết mọi thứ khác. Vì là một đứa trẻ duy nhất còn sống sót, cô bé nhận ra rằng mình cũng phải hy sinh. Thế là một đêm kia, cô bé bò ra khỏi căn lều, đem theo con búp bê và một cây quy diêm, rồi đi lên đỉnh đồi. Tại đó, cô bé châm lửa đốt con búp bê. Vừa khóc, cô bé vừa nhìn con búp bê biến thành tro bụi. Sau đó, cô bé dùng bàn tay thu gom đống tro lại, và ném lên không trung. Sao cho gió sẽ rải đám tro đó lên mặt đất. Rồi cô bé lăn ra ngủ vùi ngay tại đỉnh đồi.
Sáng hôm sau khi thức dậy, cô bé nhìn khắp mặt đất, và thấy mặt đất phủ đầy những bông hoa màu xanh, khắp cả một vùng xa tít tắp mà tầm mắt của cô bé có thể thấy được. Dân chúng rất vui mừng khi nhìn thấy sự kiện xảy ra. Ngay tức khắc, họ nhận ra được điều mình phải làm. Họ cảm thấy xấu hổ vì tính ích kỷ của mình, mỗi người đều lấy số tài sản mà họ đã cất giữ rất cẩn thận, hi sinh đốt đi, và rải đám tro đó lên mặt đất. Một lần nữa, họ bắt đầu cầu nguyện với Thần Linh, và lần này Thần Linh đã nhận lời họ. Chẳng bao lâu, một cơn mưa bắt đầu chút xuống. Khi nhìn thấy sự kiện đó, họ ôm cô bé Miriam, người đã làm cho họ hổ thẹn, vì đã không làm theo yêu cầu của Thần Linh.
Câu chuyện nhỏ này giúp chúng ta hiểu được vai trò của Đức Maria, và nhận ra được tại sao Giáo hội tôn vinh ngài trong ngày hôm nay. Chính thông qua sự hy sinh Con của ngài, mà ơn tha thứ, bình an và yêu thương của Thiên Chúa đã tuôn đổ xuống trên mặt đất, và mang lại sự sống cho chúng ta, Đức Maria đóng một vai trò sống còn trong của lễ hy sinh đó.
Mẹ đã sẵn lòng đem Đức Giêsu đi vào trong thế giới này. Mẹ hết lòng yêu thương Người, và quý trọng Người vượt lên trên tất cả mọi thứ sở hữu khác. Nhưng khi công trình Cứu Độ toàn dân đòi hỏi rằng chính Đức Giêsu phải hy sinh, thì Mẹ vẫn đứng về phía Người, ngay cả mặc dù nỗi đau khổ giống như một lưỡi gươm sắc nhọn, đã đâm thâu qua trái tim Mẹ.
Hôm nay, chúng ta mừng kính ngày Mẹ được tôn vinh trên trời, có nghĩa là Mẹ được chia sẻ trọn vẹn vinh quang của Đức Kitô. Đây là một ngày dành cho niềm vui và ca ngợi. Mẹ sẽ thúc giục chúng ta phải quảng đại hơn trong việc đi theo Con của Mẹ, và trong việc hy sinh những gì chúng ta quý giá, để mang lại sự sống cho những người khác.
Đức Maria được chúc phúc vì Mẹ là mẹ của Đức Giêsu. Nhưng Mẹ còn được chúc phúc hơn vì, giống như cố bé Miriam, Mẹ đã lắng nghe và vâng phục lời của Thiên Chúa. Mẹ sẽ giúp đỡ chúng ta cũng biết vâng phục Lời Chúa, và từ đó, chúng ta được đi theo Đức Giêsu trên đường dẫn tới vinh quang.
10. Lòng tự trọng
Bà Elisabét nói với Đức Maria "Em được chúc phúc nhất trên tất cả mọi phụ nữ". Quả thật đó là một lời khen ngợi vĩ đại. Lời khen ngợi này nói lên vị trí đứng đầu của Đức Maria. Nhưng điều gì đã xảy ra Mẹ có khước từ lời khen ngợi này một cách nhẹ nhàng, nhưng quy tất cả mọi sự về Thiên Chúa, và về lòng từ ái củ Người đối với Mẹ "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao nhiêu cao cả".
Có thể chúng ta đã được dạy dỗ rằng sự khiêm tốn bao hàm sự tự đánh giá thấp bản thân mình. Nhưng đức khiêm nhường trái ngược với điều đó. Đây là sự nhận ra điều tốt đẹp nơi bản thân mình với lòng biết ơn, nhưng thừa nhận rằng điều tốt đẹp đó là một ân sủng của Thiên Chúa.
Ngày nay, về mặt tâm lý trị liệu, người ta nhấn mạnh rất nhiều vào lòng tự trọng. Sự tự ti mặc cảm đưa đến tình trạng bất hạnh cho tất cả mọi người, còn lòng tự trọng cao độ đem lại hạnh phúc cho tất cả mọi người. Chúng ta được hướng dẫn rằng điều quan trọng là cảm thấy bản thân mình tốt đẹp, yêu mến mình, có khả năng để nói rằng "Tôi là người tốt".
Về một mặt nào đó, đây là một phương pháp tốt. Tự trọng là điều tốt đẹp. Thật quan trọng khi có được một hình ảnh tốt đẹp về bản thân, nhưng sự tự ý thức này phải được xây dựng trên sự thật, nếu không, đó chỉ là một việc xây dựng trên cát.
Chúng ta có lý do để nên có lòng tự trọng cao độ. Mỗi người trong chúng ta đều có thể nói rằng "Tôi có giá trị lớn lao, một nhân cách vĩ đại. Thiên Chúa đã tạo dựng tôi theo hình ảnh Người, Người gìn giữ và yêu thương tôi, vì tôi có tư cách là con cái của Người". Do đó, chúng ta có quyền cảm thấy hài lòng về bản thân mình được đón nhận mọi sự từ nơi Thiên Chúa. Từ đó, chúng ta không nên chần chừ trong việc đọc lời kinh thật tươi đẹp và vui mừng của chính Đức Maria "Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa... Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả".
Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đúng sự thật đối với chúng ta. Chúng ta cũng có mặt tối, khiến cho chúng ta bị sự dữ chế ngự, và vì thế, chúng ta cần được cứu độ. Tâm lý học sẽ không cứu nỗi chúng ta. Tâm lý học lại còn không thừa nhận rằng chúng ta cần được cứu độ. Chỉ duy nhất một mình Thiên Chúa có thể cứu độ chúng ta. Chúng ta không được e sợ khi nhìn vào khía cạnh tối tăm của bản thân mình.
Sự tự trọng không đúng cách làm cho chúng ta bối rối ngay với chính mình, và do đó khiến chúng ta chỉ tập trung vào bản thân. Mặt khác, lòng tự trọng đích thực lại giúp chúng ta biết quên mình, và làm cho chúng ta biết yêu thương hơn, có nhiều khả năng tiếp cận với người khác hơn. Chúng ta nhận thấy điều này nơi Đức Maria.
Sau khi nghe được những lời khen ngợi tuyệt vời của bà Elisabét, Mẹ có thể trở về nhà ngay tức khắc, và sự phô bày mình ra dưới ánh nắng của sự tự khen ngợi mình, mong đợi người khác phục dịch mình. Nhưng thay vào đó, Mẹ ở lại với người chị họ lớn tuổi trong vòng ba tháng, để giúp đỡ bà trong thời kỳ mang thai.
Hôm nay, chúng ta ca ngợi vinh quang của Đức Maria. Bởi vì Mẹ đã chia sẻ cuộc đời, sự thương khó, và sự chết của Đức Giêsu khi còn tại thế, điều này phù hợp với việc Mẹ được chia sẻ vinh quang của Người trên Nước Trời. Nhưng chúng ta không được nghĩ rằng mọi sự đều dễ dàng đối với Mẹ. Sự thật gần như trái ngược lại. Mẹ cũng phải sống cuộc đời của mình trong bóng tối đức tin. Đối với Mẹ, không hề có con đường tắt nào cả. Mẹ đã không chỉ lắng nghe lời Thiên Chúa, mà còn thực hành nữa.
Chúng ta cũng được mời gọi chia sẻ vinh quang của Chúa Giêsu. Đức Maria người mẹ thiêng liêng của chúng ta, sẽ giúp đỡ chúng ta trong những giây phút chán nản và thất bại. Mẹ ở trên trời không có nghĩa là Mẹ không thể giúp đỡ chúng ta trên trái đất này. Nói một cách chính xác, chính vì hiện nay Mẹ đang được ở cùng Thiên Chúa, mà Mẹ càng có thể giúp đỡ chúng ta hơn nữa.
11. Ai hy sinh hơn ai?
Có vị bề trên một tu viện nổi tiếng thánh thiện và hạnh phúc. Một tu sinh dưới quyền ngài, khi biết được sự từ bỏ ít người làm được, và thấy đời sống hết sức thánh thiện của ngài, bèn thốt lên:
- «Thưa Cha, đời sống Cha thật là tuyệt vời, Cha đã từ bỏ mọi sự giàu sang sung sướng để tìm Thiên Chúa, và để dạy cho chúng con sự khôn ngoan của Ngài».
- «Con đã nói phản lại sự thật rồi! - Vị bề trên trả lời - Cha chỉ bỏ có vài cuộn giấy bạc và những thú vui trần tục để chinh phục một niềm phúc lạc vô biên. So với cái kho tàng tâm linh quí báu này thì đó có thật là một sự hy sinh chăng? Trái hẳn lại, chính những người thế gian đã từ bỏ và hy sinh những kho tàng tâm linh vô giá trên đường Đạo để chạy theo những của cải vật chất giả tạm vô thường.
«Những vị khổ tu tuy áo quần đơn sơ thô thiển, trong người không giữ riêng một đồng bạc, lại trở thành những phú ông về tâm linh. Còn những người tỷ phú kiêu hãnh lại là những kẻ đáng thương về tâm linh mà không hay biết. Đó chính là điều mâu thuẫn về sự dứt bỏ và hy sinh».
Vì thế, trong đời sống Ki-tô hữu hiện nay, chúng ta cần xác định một lần cho rõ ràng và dứtkhoát mục đích cuộc đời ta là gì, ta chọn cái lợi lớn hay cái lợi nhỏ, loại hạnh phúc ta mong muốn là loại nào: ngắn hạn hay dài hạn, đích thực hay giả tạm, tuỳ thuộc hoàn cảnh bên ngoài hay độc lập với mọi hoàn cảnh, v.v... Một khi đã xác định rồi thì ta chỉ cần sống theo sự lựa chọn nền tảng đó. Lúc đó ta không còn nghĩ là mình phải hy sinh cái này hay cái kia, nghĩ như thế là chỉ nghĩ đến cái ta bị mất mà không nghĩ đến cái ta sẽ được. Thánh Phao-lô nói: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18). Nếu cái được lớn hơn cái mất thì làm sao gọi là hy sinh được? Còn nếu cái mất lớn hơn cái được thì mới đáng gọi là hy sinh, và nếu lựa chọn như thế thì thật là ngu xuẩn!
Sự khôn ngoan như thế thật đáng khâm phục, nhưng nó vẫn phảng phất mùi vị kỷ: lo cho hạnh phúc của mình, cho dù là hạnh phúc vĩnh cửu. Sự thánh thiện của Mẹ Ma-ri-a không dừng lại ở sự vị kỷ «cao cả» đó, mà vượt lên cao nữa, vượt khỏi những gì là vị kỷ của mình. Theo niềm tin Công giáo, Mẹ đã được Thiên Chúa giữ gìn khỏi mọi tội lỗi và khỏi vòng kiềm toả của tội lỗi. Vì thế, nhờ ơn Chúa và nỗ lực bản thân, Mẹ đã thắng vượt mọi hình thức ích kỷ cho dù vi tế nhất. Điều đó không có nghĩa là Mẹ không bị cám dỗ về tính vị kỷ, nhưng Mẹ luôn luôn chiến thắng. Động lực khiến Mẹ luôn luôn chiến thắng chính là tình yêu mạnh mẽ đối với Thiên Chúa và tha nhân. Mẹ yêu Thiên Chúa vì Thiên Chúa, yêu tha nhân vì tha nhân, chứ không phải vì mình. Chính vì thế, Mẹ không còn đặt nặng hạnh phúc - cho dù là vĩnh cửu - của mình, mà đặt nặng vinh quang và thánh ý của Thiên Chúa. Chính vì thế, Mẹ trở nên người đạt được hạnh phúc vĩnh cửu ở mức độ cao nhất, trọn vẹn nhất. Đúng như lời Đức Giêsu nói: "Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy" (Mt 16,25; x. Mc 8,35; Lc 9,24; Ga 12,25). Mẹ đã sống tinh thần câu Tin Mừng này một cách trọn hảo nhất.
Mẹ đã được Thiên Chúa thưởng vì sự chọn lựa đầy khôn ngoan và sáng suốt đó. Mẹ đã đạt được hạnh phúc đích thật và vĩnh cửu vì Mẹ đã sống phù hợp với sự chọn lựa đó suốt cả cuộc đời, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Viec Mẹ là người duy nhất trên trần gian được về thiên đàng cả hồn lẫn xác cùng với Đức Giêsu là một ơn xứng đáng với sự lựa chọn căn bản rất tuyệt vời của Mẹ. Chúng ta hãy bắt chước Mẹ trong cách chọn lựa căn bản của chúng ta.
Sưu tầm 



CHÚA NHẬT 20 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: Gr 38,4-6.8-10; Dt 12,1-4; Lc 12,49-53

MỤC LỤC
1. Gây chia rẽ
2. Lửa
3. Ánh sáng và bóng tối – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Suy niệm của André Sève
5. "Ta muốn lửa ấy cháy lên" – Veritas
6. Lửa trên mặt đất
7. Phải chi lửa ấy đã bùng lên
8. 'Ai ở gần Ta, là ở gần lửa' – Achille Degeest
9. Phong trào Thánh Thần trong thời đại của chúng ta
10. Người giữ ngọn lửa
11. Lửa trên mặt đất – McCarthy
12. Ngọn lửa tình yêu – Thiên Phúc
13. Lửa
14. Lửa tình yêu – Lm. Phạm Thanh Liêm
15. Suy niệm của JKN
16. Phân rẽ
17. Tình yêu
18. Dấu chỉ
19. Ném lửa
20. Sứ mạng của Đức Giêsu – Lm FX Vũ Phan Long
21. Lửa và Bình An – Lm. Jos Nguyễn Cao Luật

1. Gây chia rẽ
Đức Kitô đến để ban bình an hay để chia rẽ? Cứ nhìn vào cục diện của Giáo Hội, vào bộ mặt của thế giới ngày nay, thì khách quan mà nói: Đức Kitô đúng là đã gây chia rẽ. Ngài chia rẽ những kẻ tin và không tin. Rồi ngay giữa những kẻ tin thì cũng còn có chuyện Công giáo, Chính Thống, Tin Lành và Anh giáo. Rồi giữa người công giáo với nhau, hiện nay cũng có phe nọ phe kia, và phe nào thì cũng lấy Chúa ra để biện minh cho lập trường của mình. Người ta đã chẳng chia rẽ nhau vì Chúa đó ư? Quả thật đúng như lời ông già Simêon đã nói: Trẻ nhỏ này sẽ nên cớ cho nhiều người vấp ngã.
Thực ra vấn đề không phải là Đức Kitô đã gây chia rẽ bằng cách xúi giục người ta ghen ghét hận thù nhau, hay là khích bên này chống lại bên kia. Chúa đến thực sự để đem lại sự bình an, để xây dựng một thế giới có công lý và tình thương, nền tảng của hoà bình. Nhưng hoà bình đó, đúng như Ngài đã nói, không phải là loại hoà bình kiểu thế gian, nghĩa là hoà bình của một sự thoả hiệp vì hèn nhát hay vì áp lực. Bình an của Ngài là bình an nhờ giá máu thập giá, nghĩa là bình an được xây dựng trên công lý, một công lý mà người ta phải đấu tranh, phải hy sinh, phải liều mạng mới có thể đạt được.
Hoà bình phải là thành quả của công lý, nhưng có được công lý, hay nói đúng hơn thực hiện được công lý, không phải là chuyện dễ. Người ta có thể dễ dàng kết bầu kết bạn với nhau để ăn nhậu, để chơi bời, nhưng tìm người hợp tác làm ăn thì không phải bao giờ cũng dễ. Ăn cho đều, kêu cho sòng, là nguyên tắc không phải bao giờ cũng thực hiện được, bởi vì khi làm thì ai cũng muốn phần ít, nhưng khi hưởng lợi thì lại muốn phần nhiều. Như thế, ngồi nhà mát, mà được ăn bát vàng, phải chăng đã là cái thói thường của người đời.
Thế nhưng Chúa Giêsu đã lên án thứ công lý ăn gian ấy, Ngài đấu tranh cho người nghèo, đem công lý đến cho những kẻ tội lỗi, bởi vì họ mới chính là những người đáng thương. Công lý của Chúa là bớt chỗ dư, bù chỗ thiếu. Là hạ bệ những ai quyền thế và nâng cao những kẻ khiêm nhu, là kẻ khó nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có lại đuổi về tay trắng. Chính vì lý do ấy mà Ngài đã gây chia rẽ bất đồng. Nói khác đi, những ai theo đúng đường lối của Chúa, thì sẽ không thể nào đứng chung hàng ngũ với những người chà đạp và bóc lột những kẻ nghèo túng và thấp cổ bé miệng.
Vì thế, những ai đứng về phe Chúa thì cũng phải đứng về phía những người nghèo hèn khốn khổ. Chính Ngài đã đến với họ, sống với họ, chết như họ và cho họ. Tuy nhiên liệu chúng ta có can đảm đứng về phía Ngài và cùng bước đi với Ngài hay không.

2. Lửa
Ta đem lửa xuống trần gian và chỉ mong cho lửa ấy bừng cháy lên.
Nhìn vào một ngọn lửa, chúng ta ghi nhận được những gì? Có thể là chúng ta đã ghi nhận được nhiều thứ lắm, nhưng tôi chỉ xin giữ lại nơi đây hai điểm đó là ánh sáng và sức nóng.
Ánh sáng được dùng để làm gì, nếu không phải là soi chiếu mà phá tan tăm tối. Sức nóng được dùng để làm gì, nếu không phải là để sưởi ấm những người lạnh giá và đốt cháy những gì nhơ nhớp.
Chúa Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của Ngài. Ngài đã rao giảng Tin Mừng để soi chiếu cho những người còn ngồi trong bóng tối sự chết, để sưởi ấm cho những tâm hồn giá băng cũng như để thiêu huỷ mọi tội lỗi của nhân loại.
Tuy nhiên Ngài cũng đã mời gọi mỗi người chúng ta hãy tiếp tay với Ngài để cho sứ mạng của Ngài được chóng hoàn tất. Chính vì thế mỗi người chúng ta cũng phải là một ngọn lửa truyền nóng và chiếu sáng cho những người chung quanh bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.
Thực vậy, đời sống của chúng ta phải nóng bằng cách có sự thánh thiện, có ơn Chúa ở trong mình, đồng thời đời sống chúng ta cũng phải sáng bằng những gương mẫu gây ảnh hưởng tốt cho người chung quanh. Chúng ta đừng bao giờ để cho ngọn lửa ấy phụt tắt trong tâm hồn và trong cuộc đời. Đó là điều Chúa Giêsu luôn mong mỏi nơi mỗi người. Chúng ta có thể gọi thánh Phaolô, thánh Phanxicô là những tâm hồn lửa. Tại sao thế? Vì các ngài đã thực sự có Chúa trong tâm hồn và hăng say đem Chúa đến cho những người chung quanh.
Để kết luận, tôi xin kể lại câu chuyện của một tâm hồn đầy lửa, đó là Ozanam, vị sáng lập hội Bác ái Vinhsơn, mới 17 tuổi mà đã trở thành một tông đồ nhiệt thành bênh vực cho Chúa.
Vào năm 1843, thành phố Paris bị xáo trộn bởi những cuộc cách mạng. Đạo Công giáo bị đe doạ, các cơ sở bị cướp phá. Năm ấy Ozanam đang học luật. Dầu còn thanh niên, cậu đã dùng ngòi bút và việc làm để phản công. Cậu siêng năng đọc Phúc Âm và rước lễ. Cậu được thụ huấn với một giáo sư nổi tiếng đó là Ampère về mặt học thức cũng như về mặt đạo đức. Cậu mạnh mẽ bênh vực Giáo Hội. Cùng với Ozanam, các sinh viên trước kia rụt rè lo sợ bao nhiêu thì nay lại nhiệt thành và hăng say bấy nhiêu. Các giáo sư cũng phải kiêng nể. Cậu tổ chức những buổi diễn thuyết, những cuộc nói chuyện làm sống lại một bầu khí đạo đức. Về phía dân chúng, cậu đã cùng 6 anh em khác lập hội Bác ái Vinh sơn để giúp đỡ những người nghèo túng. Năm 18 tuổi, cậu đã thề hứa: Nhất quyết hy sinh đến hiến mạng sống mình vì dân nghèo. Ozanam đã trở nên một ngọn lửa của Đức Kitô. Giáo Hội hôm nay cũng cần nhiều tâm hồn tông đồ hăng say như Ozanam.
Hãy trở nên một ngọn lửa sưởi ấm bằng đời sống thánh thiện và đạo đức. Hãy trở nên một ngọn lửa chiếu sáng bằng những hành động bác ái và yêu thương.

3. Ánh sáng và bóng tối – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Một đạo sĩ Ấn Độ hỏi các đệ tử: "Này các con, các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện không?". Các môn đệ thi nhau trả lời. Có người hỏi: "Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi mà nhìn một đoàn vật từ xa người ta có thể phân biệt được con nào là con bò, con nào là con trâu không?". Thày lắc đầu: "Không phải". Một đệ tử khác lại hỏi: "Thưa Thày, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui, là khi từ xa nhìn vào vườn cây người ta có thể phân biệt cây nào là cây xoài, cây nào là cây mít không?". Thày vẫn lắc đầu. Không đệ tử nào trả lời được câu hỏi. Lúc đó, đạo sĩ mới từ từ nói: "Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nhìn vào mặt nhau, người ta nhận ra nhau là anh em".
Thật kỳ lạ. Chúng ta đã biết nhiều loại ánh sáng như ánh sáng mặt trời, mặt trăng, ánh sáng đèn điện, đèn pin, ánh sáng đèn dầu, đèn cầy. Cả những ánh sáng tinh vi như tia hồng ngoại, tia X. Tất cả chỉ soi sáng cho thấy sự vật như nó là. Không có ánh sáng nào soi vào mặt một người xa lạ có thể biến người đó thành anh em mình cả. Thứ ánh sáng ấy ở đâu?
Mẹ Têrêxa có thể trả lời câu hỏi này. Một hôm, Mẹ ghé thăm một người đàn ông tội nghiệp. Ông sống trong một túp lều tồi tàn, lụp xụp. Bên trong lều là cả một bãi rác mênh mông. Mùng mền, chăn chiếu, quần áo hỗn độn, rách nát và hôi hám. Nhà cửa, đồ đạc phủ một lớp bụi dầy. Thế mà ông lão tự giam mình trong đống rác ấy. Ông ghét bỏ mọi người nên không lui tới với ai. Ông sống cô độc. Mẹ Têrêxa và các chị vào chào ông. Ông làm thinh không đáp. Thấy căn lều hỗn độn, bụi bặm, các chị xin phép ông dọn dẹp, ông không trả lời. Mặc kệ! Các chị cứ bắt tay vào dọn dẹp, xếp đặt, lau chùi. Thấy trong góc lều có một cây đèn, mẹ Têrêxa lấy ra lau chùi. Chùi sạch lớp bụi, mẹ kêu lên: "Ồ, cây đèn đẹp quá!". Ông lão bỗng lên tiếng: "Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi nhân dịp đám cưới". – Ông không thắp đèn lên sao?". – Không, từ khi vợ tôi qua đời, tôi không bao giờ thắp đèn". – Thế ông có muốn chúng tôi tới thăm ông mỗi ngày và thắp đèn cho ông không?". Thấy các nữ tu tử tế, ông đồng ý. Từ đó, mỗi chiều các chị đều ghé thăm, truyện trò và thắp đèn cho ông. Dần dà, ông trở nên vui vẻ yêu đời. Ông nói chuyện cởi mở với các nữ tu. Ông đi lại thăm viếng hàng xóm. Mọi người đến với ông. Căn lều hiu quạnh trở lại ấm áp. Trước kia, căn lều tăm tối không phải vì ông không thắp đèn, nhưng vì ngọn lửa trong trái tim ông lịm tắt. Nay căn lều sáng lên niềm vui không phải vì ánh sáng ngọn đèn dầu, nhưng vì ánh sáng trong trái tim ông bừng lên. Trước kia ông thù oán, xa lánh mọi người vì ánh lửa trong trái tim tàn lụi. Nay nhờ các nữ tu nhen nhúm, ngọn lửa trong trái tim ông bừng lên và ông cảm thấy tha thiết yêu mến mọi người và mọi người cũng tha thiết yêu mến ông.
Thứ ánh sáng kỳ diệu ấy phát xuất từ trái tim. Ánh sáng ấy ta thấy thấp thoáng khắp các trang sách Tin Mừng. Khi người xứ Samaria nhân hậu cúi xuống băng bó vết thương cho người bị nạn, ánh sáng bừng lên. Hai người xa lạ nhìn vào mặt nhau và nhận ra nhau là anh em.
Chúa Giêsu mang ánh sáng này xuống trần gian. Và Người ước mong cho ngọn lửa yêu thương cháy bừng lên soi sáng cho thế giới: "Thày đã đến ném lửa vào trái đất, và Thày những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!". Lời ước mong thật tha thiết nhưng có pha lẫn ngậm ngùi. Phải chi lửa ấy đã bùng lên có nghĩa là lửa ấy chưa bùng lên cao, chưa lan ra xa.
Thật vậy, nhìn vào tình hình thế giới, chiến tranh không lúc nào ngơi. Thế kỷ 20 đã biết đến hai cuộc thế chiến với biết bao thiệt hại về người về của và nhất là về tình đoàn kết. Trong thập niên 80, chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây chấm dứt, người ta tưởng rằng giấc mơ hoà bình thế là đã thành sự thật. Nhưng không, chiến tranh vẫn tiếp diễn ở Rwanda, Kosovo, ở Trung Đông... ánh sáng vẫn chưa soi tới những vùng chiến tranh. Bóng tối hận thù vẫn còn vây phủ. Những người anh em vẫn còn chém giết nhau.
Nhìn vào bản thân mình, ta thấy trong ta cũng còn nhiều vùng mà ánh sáng Tin Mừng chưa soi dọi tới. Trong lòng ta vẫn còn những ngõ ngách chứa đầy bóng tối ghen ghét, hận thù. Nên ta nhìn ra chung quanh mà ít gặp được anh em mình.
Lời Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà yêu thương.
Lạy Chúa, xin hãy nhóm lên trong trái tim con ngọn lửa yêu thương của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Bạn đang sống trong ánh sáng hay bóng tối?
2) Bạn có muốn góp phần đem ánh sáng của Chúa đi gieo rắc khắp nơi không?
3) Bạn bắt đầu chiếu sáng bằng cách nào?

4. Suy niệm của André Sève
(Trích dẫn từ 'Tin Mừng Chúa Nhật')
DỆT NÊN HÒA BÌNH BẰNG NHỮNG SỢI LEN CHIẾN TRANH
Chúng ta yêu hòa bình biết bao, bằng bất cứ giá nào! Cho đến độ vì thế mà trở thành những kẻ yếu hèn. Nhưng nếu chúng ta mơ ước có tâm lòng thanh thản, cuộc sống hòa bình, môi trường sống an lành (gia đình, cộng đoàn, công việc, làng xóm hay khu phố, cho đến đất nước và thậm chí thế giới), bài suy niệm hôm nay sẽ nói với chúng ta rằng chúng ta không tìm thấy những điều đó nơi Chúa Giêsu: "Ta không ban hòa bình cho các con như thế gian cho" (Ga 14,27)
- Thầy đến mang lửa xuống, nhưng trước hết Thầy phải chịu phép rửa bằng lửa. Các con đừng tưởng Thầy đến để thiết lập sự bình an trên trái đất, mà là đem sự chia rẽ.
Nếu lời này đụng chạm đến chúng ta và thậm chí làm chúng ta phẫn nộ, chúng ta phải tự kiểm tra: nỗi lo sợ chia rẽ của chúng ta có lành mạnh, cao cả, hoặc chỉ là một ước muốn an thân khá tầm thường? Mác đã nói: một dân tộc khốn khổ tạo ra, cùng với tôn giáo, một loại thuốc phiện. Có bao giờ chúng ta rút ra từ Tin Mừng đôi chút thuốc an thần nào chưa? Và đây là thuốc an thần hiệu quả nhất dưới mắt chúng ta: "Các ngươi hãy thương yêu nhau", các ngươi hãy làm dịu tất cả các xung đột của các ngươi.
Dĩ nhiên, điều đó không xuôi chảy. Vì lý do là việc muốn yêu thương như Chúa Giêsu (chúng ta thường quên xác định) dẫn chúng ta đi đến chỗ làm chia rẽ, giống như Ngài. Và dẫn đến việc chính chúng ta bị chia rẽ. Chúng ta thường kinh nghiệm điều này. Chính ngày mà chúng ta chọn thực sự để yêu thì những xung đột gay gắt nhất nổi lên. Tại văn phòng của chúng ta, để tỏ ra huynh đệ với đồng nghiệp, chúng ta phải tố cáo bất công của cấp trên. Để yêu thương người Palestin chúng ta quay lưng lại gia đình của chúng ta. Để giúp đỡ những người hàng xóm nghèo nàn, chúng ta xung đột với vợ và mẹ vợ: "Ông bố làm thế là hy sinh các con của mình!". Để lãnh đạo một cuộc đấu tranh nghiệp đoàn, một trong những người bạn của tôi đã thất bại trong việc tiến thân và các cô con gái của ông ta đối xử với ông ta là... ông già thảm hại. Trong khi chia sẻ số phận với những người bị áp bức tại một nước nọ ở Châu Mỹ La tinh, một linh mục xung khắc với Giám mục bảo thủ của mình và linh mục đó tự hỏi ai là người có lý. Trong một cộng đoàn người ta biết rằng trở lại một vấn đề công bằng, nghèo nàn hoặc ý nghĩa của Tin Mừng là sẽ châm ngòi lại những xung đột. Người ta im lặng nhưng trong những con tim bị xem là nhát đảm, sự an bình đã bị phá vỡ.
Do lời này phải đi vào tận thâm tâm của chúng ta. Chúa Giêsu sẽ luôn luôn là sự chia rẽ bởi vì tâm lòng của chúng ta xấu xa. Khi chúng ta muốn yêu thương và đấu tranh cho tình yêu, chúng ta chỉ làm điều đó do sự vụng về, sự hăng hái hoặc sự sợ hãi của chúng ta. Trước mặt chúng ta những người Kitô hữu tốt nhất, trong đó có các thánh, cũng yêu thương chúng ta theo khả năng của họ, cũng với con người tội lỗi của họ.
Những người như chúng ta, chúng ta không ngừng có nguy cơ tạo ra những hòa bình pha tạp: hòa bình của người cai trị làm im lặng cả thế giới và thiết lập sự yên tĩnh một cách gượng gạo; hòa bình của những người bị ám ảnh do tình thương yêu huynh đệ tránh sự xung đột nhỏ nhặt nhất bằng cách để các hoàn cảnh trở nên tệ hại; hòa bình của những người đấu tranh đơn thuần vì công bằng là người xếp loại người ta và bình thản tiến bước giữa những người tốt và những người xấu. Chúa Giêsu đâm lưỡi gươm chia rẽ vào trong các hòa bình sai lạc này.
Hòa bình nào đây? Một nền hòa bình hay đặt vấn đề, nóng bỏng và yêu thương xen vào giữa các xung đột và ở lại đó. Hòa bình đó không tìm kiếm những cái hồ yên tĩnh, mà là muốn làm cho có thể sống được trong các phong ba bão táp.
Đối với một người con của Tin Mừng, không có sự an bình nếu không nói là ở nghĩa trang mới có một công việc kiến tạo hòa bình kiên trì và thông minh có thể có ở khắp nơi; trong tâm lòng bị xuyên qua của chúng ta, trong nhóm của chúng ta nơi đó nổ ra một cuộc đấu tranh cần thiết, trong Giáo Hội nơi đó luôn luôn sẽ có những người duy trì trật tự và những người suy nghĩ ra cái mới.
Chính ở giữa chúng ta là những người bất toàn và tội lỗi phải làm lại những hòa bình tạm bợ của chúng ta, các hòa bình này sẽ bị phá hủy khi thì do những kiêu ngạo của chúng ta, khi thì do lưỡi gươm Tin Mừng. Sẽ phải can đảm bắt đầu lại mà không nghĩ đến những kết thúc hoàn toàn của cuộc chiến đấu. Người ta chỉ có thể trở thành một người thợ xây dựng hòa bình bằng cách dệt nên hòa bình bằng những sợi len chiến tranh.

5. "Ta muốn lửa ấy cháy lên" – Veritas
(Trích dẫn từ 'Hãy Ra Khơi')
Bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay là một trong những đoạn khó nhất, vì Chúa Giêsu đã sử dụng những từ ngữ mà xem ra có một ý nghĩa khác với ý nghĩa chúng ta thường hiểu. Lửa, Phép Rửa, sự chia rẽ và Chúa xác nhận đây là sứ mạng không thể bỏ qua được của Ngài khi xuống trần gian: "Thầy đến để mang lửa xuống thế gian và Thầy thật ao ước biết chừng nào cho lửa ấy cháy lên. Thầy còn một Phép Rửa phải chịu, anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình, không phải thế đâu nhưng là đến đem sự chia rẽ".
Thật là những quả quyết khó hiểu nếu không phải do chính chúa nói ra, và nếu chúng ta có quyền thay đổi Lời Chúa thì có lẽ chúng ta đành bỏ đi những lời khó hiểu này rồi. Chúa Giêsu nói đến lửa nào đây? Ngài nhắc đến phép rửa sắp phải chịu, Phép rửa nào đây? Con người khao khát hòa bình, nhưng Chúa lại nói sứ mạng của Ngài mang đến sự chia rẽ, vậy sự chia rẽ nào đây?
Trong vài phút chia sẻ này chúng ta không thể thực hiện một công việc bác họ chú giải, nhưng chỉ cố gắng nhìn tổng quát những Lời Chúa muốn nói với chúng ta. Lửa trong ngôn ngữ Kinh Thánh Cựu ước chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Môisen được Thiên Chúa Toàn Năng hiện ra nơi bụi gai dưới hình thức lửa bốc cháy. Lửa này có sức mạnh biến đổi, thanh luyện con người để hình ảnh của Thiên Chúa được chiếu sáng rõ ràng hơn nơi chính mình.
Sức mạnh cứu rỗi của Chúa Giêsu trên trần gian này không khác gì hơn là làm cho Thiên Chúa được hiện diện trong cuộc sống con người, là biến đổi và thanh tẩy con người khỏi vết nhơ tội lỗi, để con người được tỏa chiếu sáng hơn hình ảnh của Thiên Chúa: "Thầy đến để mang lửa" hay đúng hơn "để gieo lửa". Hành động gieo lửa nổi lên một sự tích cực nhiều hơn là từ ngữ "mang". Chúa Giêsu không chỉ mang xuống mà Ngài còn ra sức tận dụng hết sức mình, tận dụng hết khả năng của Ngài để gieo rắc lửa đó xuống trần gian giữa những gian nan thử thách, chống đối không tin của con người. Sứ mạng này Chúa phải chu toàn, không thể nào tránh né được.
Chúng ta còn nhớ vào khởi đầu sứ mạng rao giảng Tin Mừng, ma quỉ đã đến cám dỗ Chúa hãy quì xuống tôn thờ ma quỉ để rồi mọi vinh quang, mọi vương quốc trên trần gian này được trao cho Chúa. Nhưng Chúa Giêsu đã mạnh mẽ không để cho ma quỉ làm Ngài lạc hướng, vì mục đích đời Ngài chỉ làm cho con người tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi. Sứ mạng của Chúa lúc nào cũng phải là làm cho Thiên Chúa được nhìn nhận, được tôn thờ và được tôn vinh nơi con người, dù phải trả giá thật đắt là phải hy sinh chính mạng sống mình trên thập giá.
Cái chết của Chúa, cuộc thương khó của Ngài, đó là Phép Rửa mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay: "Thầy còn một Phép Rửa phải chịu". Chúng ta nhớ trên đường lên Giêrusalem để thực hiện cuộc vượt qua trong đau thương, hai môn đệ Giacôbê và Gioan nhờ mẹ mình đến xin Chúa Giêsu cho được ngồi bên tả, bên hữu Chúa và Chúa Giêsu đã có phản ứng như sau: "Các ngươi không biết điều các ngươi xin. Các ngươi có uống nổi chén Thầy sắp uống hay chịu được Phép Rửa Thầy sắp chịu hay không? Chén Thầy uống các con cũng sẽ uống và Phép Rửa Thầy chịu các con cũng sẽ chịu".
Rõ ràng, Chúa Giêsu nói đến cuộc thương khó của Người qua từ ngữ "Phép Rửa". Chúa Giêsu phải đi vào cuộc thương khó, phải thực hiện cuộc hy sinh trên thập giá để có thể gieo lửa tình yêu Thiên Chúa xuống trần gian, nhất là gieo tình yêu đó vào trong tâm hồn con người. Đây không phải là sứ mạng dễ dàng, một sứ mạng đòi hỏi nhiều hy sinh, một sứ mạng đòi Chúa phải hy sinh chính mạng sống mình và đổ máu mình ra trên thập giá và Ngài mời gọi các môn đệ hãy đi qua, đi ngang con đường này.
Trong một ngôn ngữ dễ hiểu hơn, Ngài đã mời gọi: "Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình vác lấy thập giá mình hằng ngày mà theo Ta. Ai không vác lấy thập giá mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta". Thật là những lời vừa mời gọi, vừa cảnh tỉnh mà chúng ta không thể nào lơ là bỏ qua được.
Cuộc đời theo Chúa, đón nhận lửa Chúa gieo xuống và lãnh nhận Phép Rửa Chúa chịu. Cuộc đời theo Chúa này là một cuộc đời đầy hy sinh từ bỏ, chấp nhận tách rời ra khỏi những gì cản trở ta trở nên giống Chúa và đây là sự chia rẽ mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Theo Chúa, sống trung thành với Lời Chúa, lãnh nhận lửa tình yêu của Chúa trong tâm hồn và chấp nhận hy sinh như Chúa đã hy sinh trên thập giá, chấp nhận chịu Phép Rửa của Chúa. Theo Chúa như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ được bình an thật Chúa ban cho, nhưng đồng thời chúng ta cũng bị chia rẽ, bị tách rời ra khỏi kẻ khác, nhất là khi những kẻ khác đó a dua hoạt động cho ma quỉ chống lại chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Người đồ đệ của Chúa không thể nào đi con đường khác con đường mà Chúa đã đi qua, và sứ mạng mà Chúa muốn cho mọi người đồ đệ thực hiện cũng là sứ mạng gieo lửa xuống trần gian qua cuộc đời chịu đóng đinh với Chúa, chịu Phép Rửa của Chúa. Thử hỏi chúng ta có sẵn sàng chưa? Chúng ta có đủ can đảm chưa? Và chúng ta muốn theo Chúa, chúng ta xin được theo Chúa trọn đời nhưng chúng ta có biết rõ điều chúng ta xin hay không?
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, cho mỗi người chúng ta được sẵn sàng hơn để đón nhận lửa Thiên Chúa đến trong tâm hồn và để cho lửa đó đốt cháy những tật xấu nơi con người chúng ta. Xin Chúa cho mỗi ngày chúng ta được trở nên giống Chúa hơn, cho chúng ta được sẵn sàng chịu phép rửa của Chúa, chấp nhận hy sinh, chấp nhận từ bỏ, chấp nhận chia rẽ, tách rời khỏi những gì cản trở ta theo Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.

6. Lửa trên mặt đất
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Tin Mừng hôm nay là lời tâm sự của Đức Giêsu, Ngài khẳng định mục đích của đời mình là ném lửa trên mặt đất và Ngài mong muốn phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Lửa Đức Giêsu mang lại là lửa nào?
Phải chăng là thứ lửa trời đã thiêu hủy Sôđôma, hay thứ lửa mà Giacôbê và Gioan định sai xuống để thiêu hủy một ngôi làng Samari? (Lc 9,55)
Phải chăng là thứ lửa mà cây không trái (Mt 3,10), hay những cành nho khô héo bị quăng vào (Ga 15,6)?
Lửa này có phải là lửa kinh khủng của ngày phán xét?
Trong cái nhìn của thánh Luca, lửa mà Đức Giêsu muốn làm bùng lên trên toàn cầu, chắc là thứ lửa của Phép Rửa trong Thánh Thần (Cv 1,5). Lửa này đã ngự xuống từng người vào lễ Ngũ Tuần (Cv 2,3).
Lễ Ngũ Tuần quả là Phép Rửa trong lửa, nhưng đó mới chỉ là một khai mở ban đầu. Còn cần vô số những lễ Ngũ Tuần khác trên thế giới.
Trái đất này càng lúc càng nóng lên. Nhưng lòng con người lại nguội lạnh như hai môn đệ Emmau. Chúng ta cần cảm thấy chút lửa ấm (Lc 24,32) của người đồng hành xa lạ, nói cho ta về Lời Chúa.
Chúng ta cần cảm thấy ngọn lửa trong tim như Giêrêmia, thúc bách ông phải nói Lời Chúa dạy (x. Gr 20,9).
Đức Giêsu đã bắt đầu nhóm lửa trên địa cầu. Đừng làm tắt đi ngọn lửa ấy, nhưng hãy để nó lan ra.
Lửa thiêu hủy những cằn cỗi. Lửa thanh lọc những ô nhơ. Lửa làm ấm lại cõi lòng băng giá. Lửa sáng soi trên bước đường kiếm tìm sự thật.
Chúng ta cần làm cho mong muốn của Đức Giêsu thành tựu.
Nhưng trước hết chúng ta phải là người mang trong tim ngọn lửa của Thánh Thần tình yêu.
Đức Giêsu chia sẻ cho ta điều đang đè nặng trên Ngài. Ngài linh cảm về thử thách lớn lao Ngài sắp chịu. Đúng là Ngài đang lên đường đi gặp nó. Ngài gọi đó là Phép Rửa mà Ngài phải chịu.
Đức Giêsu can đảm đón nhận Phép Rửa đáng sợ này. Ngài thấy mình sẽ bị nhận chìm thật sâu trong đó.
Đức Giêsu tiếp tục nói điều phải nói, làm điều phải làm. Ngài dám trả giá cho sự trung tín của mình. Nỗi khổ đau và cả cái chết là điều không thể tránh khỏi, nhưng điều đó chẳng làm Ngài chùn bước.
"Các anh có thể chịu Phép Rửa mà Thầy sẽ phải chịu không?"
Ngài đã hỏi các con ông Dêbêđê như thế (Mc 10,38), và Ngài cũng hỏi từng người chúng ta như thế.
Chẳng có Phép Rửa nào khác ngoài Phép Rửa Ngài đã chịu. Chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Ngài đã đi.
Tin Mừng Đức Kitô dành cho người hiền hòa, chứ không nhu nhược.
Chúng ta phải có cùng một mong muốn và khắc khoải như Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thế giới hôm nay đầy đau khổ do con người gây ra cho nhau chỉ vì trái tim đóng băng lạnh giá. Theo ý bạn, làm sao để làm nóng lại trái tim con người?
Sống là chấp nhận trăn trở, khắc khoải. Bạn thấy mình hay trăn trở về điều gì? Bạn có trăn trở về Hội Thánh?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Xin cho chúng con ngọn lửa trong Trái Tim Chúa, ngọn lửa của tình yêu Cha và nhân loại.
Xin làm tim con ấm lại mỗi ngày, nhờ được nghe Chúa nói như hai môn đệ về Emmau, và được Chúa nuôi bằng bánh ban sự sống.
Xin soi sáng chúng con bằng ngọn lửa rực rỡ mỗi khi chúng con cầu nguyện hay quyết định.
Xin thanh luyện chúng con bằng ngọn lửa hồng của những thất bại đắng cay trên đường đời.
Ước gì chúng con luôn có lửa nhiệt thành để hết lòng phụng sự Nước Chúa, lửa tình yêu để vượt qua những hận thù đố kỵ.
Lạy Chúa Giêsu, thế giới hôm nay vẫn bị tối tăm, lạnh lẽo đe dọa.
Xin ban cho chúng con những lưỡi lửa để chúng con đi khắp địa cầu loan báo về Tình Yêu và gieo rắc Tình Yêu khắp nơi. Amen.

7. Phải chi lửa ấy đã bùng lên
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Nhiệt độ của trái đất có chiều hướng nóng dần lên. Đó là một điều đáng sợ. Nhưng điều đáng sợ hơn lại là sự lạnh lùng giữa người với người.
Con người cần cơm bánh và giải trí, nhưng con người còn cần sự nâng đỡ cảm thông.
Nhân loại sống được là nhờ tình thương ấm áp. Vậy mà băng giá của lạnh đạm dửng dưng vẫn tồn tại khắp nơi trên mặt đất. Băng giá nằm ngay nơi lòng con người.
Đức Giêsu đã khẳng định sứ mạng của Ngài: Ngài đến để ném lửa trên mặt đất, và Ngài ước mong, phải chi lửa ấy đã bùng lên.
Ngọn lửa Đức Giêsu muốn nhóm lên không phải là ngọn lửa của án phạt và hủy diệt, không phải là thứ lửa từ trời mà Gioan và Giacôbê định xin đổ xuống trên một làng của xứ Samari. Đây là ngọn lửa vẫn bừng cháy trong tim Ngài, lửa của Thánh Thần, lửa của yêu thương, lửa hâm nóng hai môn đệ Emmau đang tuyệt vọng.
Chúng ta cần được ngọn lửa của Đức Giêsu chạm đến, cần được Ngài làm bừng sáng lên những sức mạnh tiềm ẩn nơi ta, để chúng ta trở thành ánh lửa cho thế giới.
"Phải chi lửa ấy đã bùng lên!"
Chúng ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong mà Đức Giêsu đã suốt đời ôm ấp, đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau.
Gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng là chấp nhận bị từ khước và đe dọa. Đức Giêsu linh cảm những gì sẽ xảy ra cho đời mình. Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng, sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau.
Hôm nay, Ngài mời chúng ta ném lửa trên mặt đất và chấp nhận đối đầu với sức mạnh của bóng tối.
Khi Đức Giêsu bị treo trên thập tự, khi Ngài bị giam trong mồ tối, bóng tối tưởng như đã nuốt chửng được Ngài. Nhưng ngọn lửa phục sinh đã bừng lên giữa đêm đen.
Đó là niềm hy vọng của chúng ta, những người vẫn còn phải hăng say chiến đấu để đẩy lui bóng tối ra khỏi mọi nơi, mọi chỗ, bóng tối của bất công, sa đọa và tuyệt vọng, bóng tối của hận thù, của nạn mù chữ, bóng tối của nghèo nàn lạc hậu... Bóng tối do khép lại cánh cửa của lòng mình. Bóng tối ở ngay trong lòng tôi.
Có lúc chúng ta sợ hãi bóng tối dầy đặc, mà ngọn lửa của mình lại yếu ớt.
Nếu một tỷ Kitô hữu đều là những ngọn lửa thì bóng tối sẽ bị đẩy lùi khỏi mặt đất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thế giới hôm nay vẫn còn nhiều bóng tối. Theo ý bạn, đâu là những bóng tối đáng được chúng ta quan tâm hơn (những bóng tối nơi gia đình, ngoài xã hội và trong Giáo Hội)?
Bạn có kinh nghiệm gì khi phải đương đầu với bóng tối của sự dữ, ở ngoài bạn và ở trong bạn? Có khi nào bạn thắng được bóng tối không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu thương mến,
Xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi.
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa,
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được
Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.
(Mẹ Têrêxa Calcutta)

8. 'Ai ở gần Ta, là ở gần lửa' – Achille Degeest
(Trích dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Lửa trong Cựu Ước tượng trưng cho quyền năng tối thượng, tác động thanh luyện và sự hiện diện đáng sợ của Thiên Chúa. Tiến xa hơn, Tân Ước nhìn thấy trong lửa biểu tượng của tình yêu vô biên và làm biến đổi của Thiên Chúa đối với loài người. Nói về lửa Người mang đến thế gian, Chúa nghĩ nhiều nhất đến sứ mạng của Người giữa nhân loại. Chúa đem đến một sự hiện diện mới mẻ của Đấng Tối Cao. Thiên Chúa không chỉ là Đấng tạo nên khởi nguyên đầu tiên, Người là Toàn thể Tình yêu đến biến đổi con người bằng một sáng tạo mới. Origênê, một tác giả thời đầu Giáo hội, gán cho Đức Giêsu dụ ngôn này: Ai ở gần Ta là ở gần lửa. Làm sao có thể khác được? Trong các ngôn ngữ khắp địa cầu, tình yêu bao giờ cũng chọn lửa làm phương cách diễn tả huống hồ là Tình yêu nóng cháy vô cùng của Thiên Chúa so sánh với một lò lửa đỏ rực. Đức Kitô là sự mạc khải về Tình yêu ấy. Không thể đến gần Đức Kitô mà không thấm được ánh sáng và sức nóng. Khi Chúa phán thêm rằng Người phải nhận lãnh một sự thanh tẩy (Chúa ám chỉ sự thanh tẩy do Thương khó và Phục sinh), Đức Giêsu vạch rõ sự thể Người đến tạo ra một khởi nguyên mới. Thực tại trước kia nay biến đổi nhờ được ghép thêm một thực tại cao quý hơn, con người được nâng lên hầu tham gia sự Tuyệt Đối. Theo hướng suy niệm ấy, chúng ta chú ý đến hai việc:
1) Ngọn lửa bên trong Đức Giêsu Kitô không chỉ là sự thanh khiết tuyệt đỉnh trong tâm hồn và sự tự do thiêng liêng thượng đẳng. Loài người hằng cố gắng đạt tới cao độ thanh khiết và tự do ấy, chúng ta thấy trong lịch sử hoặc xung quanh chúng ta có những cố gắng biểu lộ một tấm lòng thật sự cao quý. Nhưng điều mà Chúa mang đến không phải là thành quả nỗ lực nhân loại. Đây là một điều gì từ cõi cửu trùng ban xuống, thấm đượm con người. Bài tường thuật về sáng tạo cũ bắt đầu bằng câu: Lúc khởi nguyên. Lịch sử cuộc đời Đức Kitô mở đầu bằng một câu tương tự: Lúc khởi nguyên đã có Đức Giêsu Kitô. Điều này đúng cho toàn bộ lịch sử nhân loại do Đức Kitô đảm nhiệm, và pahỉ đúng cho mỗi Kitô hữu. Cuộc đời mỗi Kitô hữu đều có một khởi điểm là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta nói thêm, nếu Chúa có ở lúc bắt đầu, tất phải có ở lúc giữa và lúc kết thúc.
2) Ngọn lửa bên trong Đức Giêsu Kitô phải thấm đượm điều gì tốt nhất trong chúng ta, khiến nó thành vững chắc, lâu bền, trong sạch. Chúng ta biết, trong Chúa chúng ta tiến lên đời sống siêu nhiên, - do đó chúng ta rút ra những hệ luận thực tiễn. Yêu thương anh em, ra sức hoạt động cải thiện thế giới, vẫn chưa đủ – xả thân cho hạnh phúc nhân loại, vẫn còn thiếu, vì chung cục có gì là chắc? Chỉ còn lại cái Bước đầu như trên là cần, nhưng phải tiến xa hơn nữa. Phải yêu mến Đức Kitô, sống Đức Kitô. Theo mức độ ân huệ nhận được, Kitô hữu có trách nhiệm làm cho tình yêu của Đức Kitô hiện diện trong thế giới. Kitô hữu phải tin chắc điều này: Thế giới cần được ơn trên soi sáng để hiểu rõ tại sao có mình, hơn là cứ mỗi thế kỷ lại nêu ra không biết bao tham vọng mỗi lần dưới một bộ mặt đổi khác, muốn tự tổ chức thành thiên đường hạ giới, mơ tưởng xây dựng một thiên đường tình yêu. Kitô hữu phải đóng góp vào những nỗ lực cải thiện thế giới, có trách nhiệm lái những nỗ lực ấy theo phương hướng Chúa muốn.

9. Phong trào Thánh Thần trong thời đại của chúng ta
(Trích dẫn từ 'Mở Ra Những Kho Tàng' – Charles E. Miller)
Ngày hôm nay "căng thẳng" là một từ vựng rất quen thuộc với nhiều người. Chúng ta nhận biết rằng, căng thẳng ở nơi công việc, căng thẳng trong hôn nhân, căng thẳng trong lần gặp gỡ nhau cuối cùng. Sự căng thẳng xảy ra khi sức mạnh chuyển đến những hướng đối nghịch. Một thí dụ đơn giản là một sợi dây cao su. Khi kéo sợi dây theo hướng đối nghịch bạn cảm thấy căng thẳng. Nếu sự căng thẳng tiếp tục tăng lên sợi dây sẽ đứt, Chúa Giêsu cảnh báo rằng giáo lý của Ngài sẽ mang đến những sự căng thẳng và sẽ tận cùng bằng chia rẽ ngay cả những người trong gia đình.
Trong gia đình Giáo Hội có sự căng thẳng, đặc biệt là trong nhiều nơi đối với phụng vụ. Chúng ta phải trở thành sống động giống như một gia đình hạnh phúc, luôn hợp nhất và bình an, nhưng những lực kéo đang kéo tới hướng đối nghịch, một số ước vọng hướng tới việc phục hồi Công đồng Vatican II, còn những người khác lại muốn trở lại thần học và những thực hành thuở ban đầu.
Đây là một cuộc nói chuyện thẳng thắn. Sự chuyển động trở lại phía sau thì không đúng hướng. Nhiều người muốn tin rằng Đức Giáo Hoàng thì bảo thủ cực đoan và hối hận vì Công đồng Vatican II đã dẫn Giáo Hội đến không phải chỉ những ước muốn vô vọng; và là một sỉ nhục cho Chúa Thánh Thần. Đực Giáo Hoàng có vẻ như đã bác bỏ những tiếng nói mạnh mẽ phàn nàn chống lại Công đồng, ngài không đồng ý với ý hướng của họ.
Tại một cuộc gặp gỡ quan trọng của các Hồng Y trên thế giới vào mùa hè năm 1994, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tuyên bố: "Phụng vụ không nghi ngờ gì là trung tâm của đời sống Giáo Hội. Tiến trình canh tân phụng vụ trong tinh thần của Công đồng Vatican II vẫn luôn tiếp tục dưới sự hướng dẫn và giám sát của thánh bộ phượng tự và kỷ luật của các bí tích".
Đức Giáo Hoàng đã hành động theo lời tuyên bố trang trọng trong Hiến chế về phụng vụ của Công đồng. Một tuyên bố sẽ linh hứng cho mọi người trong Giáo Hội và phải hướng dẫn mỗi Giám mục, linh mục:
"Nhiệt thành trong việc đề xướng và canh tân phụng vụ phải được xem như một dấu chỉ sự xếp đặt quan phòng của Thiên Chúa trong thời đại của chúng ta, như là một chuyển động của Thánh Thần trong Giáo Hội của Người. Sự kiện này còn là một đặc điểm nổi bật của đời sống Giáo Hội cũng như mọi cách thế suy tư và hoạt động đầy tinh thần đạo giáo của thời đại chúng ta" (số 43).
Các bạn đã chia sẻ những đau buồn khi đọc những bài viết tấn công của những người Công Giáo về Công đồng Vatican II: "Công đồng Vatican II đã mở cửa cho những sự dữ bước vào Giáo Hội, bởi vì Công đồng đã làm một cuộc cách mạng tầm cỡ thế giới chống lại trật tự của Thiên Chúa". Nếu các bạn đã tham dự vào điều đó, cám ơn Chúa vì sự nhiệt thành này. Nếu các bạn có buông thả bởi bất cứ sự thay đổi nào, hãy loại bỏ chúng như là một sự dữ. Theo lời khuyên của thư Do Thái: "Hãy để chúng ta luôn nhìn ngắm vào Chúa Giêsu, Đấng luôn luôn linh hứng và hoàn hảo đức tin của chúng ta".
Dĩ nhiên có những lạm dụng chống lại phụng vụ nhưng không thể thứ lỗi cho việc tấn công vào chính việc phục hồi phụng vụ. Chúng ta không thể loại bỏ hệ thống tòa án của xứ sở chúng ta bởi vì những quan tòa và bồi thẩm đều thất bại khi hành động theo sự công chính. Sự lạm dụng không phải là hệ thống mà là một sự đối nghịch lại với hệ thống. Đừng chấm dứt nơi mặt sai chống lại Thiên Chúa như đã làm bởi những hoàng tử làm với tiên tri Giêrêmia, vị tiên tri của Thiên Chúa là đưa ông tới sự chết. Sự thúc đẩy và phục hồi phụng vụ thánh là công việc của Thiên Chúa qua Thánh Thần. Đừng trở nên nguyên nhân gây ra sự căng thẳng trong Giáo Hội. Hãy bảo đảm là các bạn đang cố gắng trong cùng một hướng với Chúa Thánh Thần.

10. Người giữ ngọn lửa.
(Trích dẫn từ 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Cách đây ít lâu, tờ Los Ageles Times có đăng một câu truyện của phóng viên Dane Smith, về một Kitô hữu tên là Charlie Deleo.
Sau khi từ Việt Nam trở về Charlie kiếm được chân giữ tượng Nữ Thần Tự Do. Anh kể cho phóng viên rằng, một phần công việc của anh là lo chăm sóc ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do và cái mũ triều thiên trên đầu bức tượng. Anh phải lo làm sao cho các tia hơi nước có chất natri luôn hoạt động, đồng thời 200 cửa sổ bằng kính nơi ngọn đuốc và mũ triều thiên lúc nào cũng phải sạch sẽ.
Chỉ vào ngọn đuốc trong tay bức tượng Nữ Thần Charlie hãnh diện nói:
"Đó là nguyện đường của tôi. Tôi dâng hiến nó cho Thiên Chúa và thường lên đó suy niệm vào lúc rảnh rỗi nghỉ ngơi". Ngoài ra, Charlie còn làm cho Chúa những điều khác nữa. Anh đã nhận được bằng khen của Hội Chữ Thập Đỏ từ sau khi anh hiến nửa lít máu lần thứ 65. và sau khi nghe biết công việc của Mẹ Têrêsa ở Ấn Độ, anh đã gởi tặng Mẹ trên 12 ngàn đô la.
Charlie kể rằng, khi Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II nói chuyện tại công viên Battery cách bức tượng Nữ Thần Tự Do hơn hai cây số, thì anh đứng trên lối đi nhỏ viền quanh ngọn đuốc và lắng nghe bài nói chuyện của Đức Thánh Cha. Tại lối đi nhỏ ấy, anh cũng sốt sắng cầu nguyện cho chuyến viếng thăm mục vụ của Ngài được thành công.
Charlie vẫn sống độc thân và sau khi kiếm được việc làm, anh đã bảo trở cho 6 trẻ mồ côi thông qua các tổ chức xã hội, không giữ lại đồng làm của riêng. Cuối cùng, Charlie kể cho phóng viên rằng, anh thường tự cho mình là "người giữ ngọn lửa".
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đã đem ngọn lửa xuống trần gian. Ngọn lửa tình yêu vĩnh cửu bốc cháy trong trái tim Ngài. Khi hiến mạng sống cho con người chỉ vì quá yêu thương con người, Ngài đã châm ngọn lửa yêu thương vào lòng con người. Và Ngài thốt lên với tất cả nỗi lòng khắc khoải: "Thầy đã đến đem lửa xuống trần gian. Nào Thầy có mong muốn gì hơn là mong cho lửa ấy cháy bùng lên". Cháy bùng lên, không phải để rồi tắt ngấm. Nhưng cháy lên để tiếp tục cháy mãi.
Mỗi Kitô hữu chúng ta đều đã được Chúa Kitô châm ngọn lửa tình yêu của Ngài vào lòng. Ngọn lửa tình yêu ấy cần phải được chăm sóc, giữ gìn và làm cho cháy sáng hơn mãi.
Anh Charlie trong câu chuyện trên thật là một mẫu gương sáng ngời cho chúng ta. Anh đã biết giữ ngọn lửa tình yêu, tình yêu Thiên Chúa, tình yêu tha nhân, luôn cháy sáng như chính ngọn lửa của ngọn đuối trong tay bức tượng Nữ Thần Tự Do mà ngày đêm anh có bổn phận canh giữ. Cách sống của anh cũng mời gọi cho chúng ta hãy là những người giữ lửa. Giữ cho ngọn lửa tình yêu trong lòng mình luôn cháy sáng trước nhan Thiên Chúa và giãi tỏa hơi nóng sưởi ấm con tim anh chị em chúng ta, nhất là những người đau khổ và bất hạnh.
Tuy nhiên, ngọn lửa tình yêu Chúa Giêsu đem xuống trần gian chỉ bùng cháy và lan rộng cùng khắp khi có máu đổ ra trên Thập giá. Máu đổ ra là dấu hiệu của tình yêu của Thiên Chúa đổ xuống trên chúng ta. Thiên Chúa đã cứu độ chúng ta, đã thanh tẩy chúng ta sạch mọi tội lỗi bằng ngọn lửa và Máu của Ngài: "Thầy sẽ phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất". Phép rửa nầy là phép rửa nào? Phải chăng là phép rửa bằng máu của cuộc tử nạn thập giá? Như lửa thử vàng, lửa phải thấm vào bên trong làm cho cả khối kim loại "đỏ như lửa", trở nên tinh tuyền hơn, chất lượng cao hơn.
Đứng trước tình yêu và cái chết thập giá của Chúa Giêsu, chúng ta phải tỏ thái độ dứt khoát, thưa anh chị em. Hoặc theo Chúa hoặc chối bỏ hay chống đối Ngài. Không thể có thái độ lưng chừng hay trung lập được: "Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết, không phải thế đâu, nhưng đúng là để gây chia rẽ". Bởi vì Lời Chúa luôn chất vấn, hạch sách chúng ta, đòi hỏi chúng ta phải thay đổi não trạng, cách suy nghĩ, lối sống. Và mỗi lần thay đổi, chúng ta đều phải chấp nhận có sự xáo trộn, sự bất đồng ý kiến, chia rẽ nội bộ.
Nhiều khi chúng ta sợ gây xáo trộn, sợ mất lòng nhau, sợ bất hòa nên đã tránh né đặt lại vấn đề một cách chính xác, sửa đổi một thái độ, một lối sống sai trái của mình hay của anh em. Cần phải tranh đấu nội bộ giữa cá nhân, giữa tập thể để sửa đổi những lỗi lầm, sai trái, mặc dù biết rằng phải qua những bất hòa, xáo trộn, nhưng rồi sẽ đi đến chỗ đổi mới tốt đẹp hơn, phù hợp với ý muốn của Chúa hơn.
Nhiều khi chúng ta nhân danh sự hòa thuận, sự hiệp nhất trong cộng đoàn, trong giáo xứ, trong Giáo Hội, hoặc vịn cớ không muốn gây hoang mang, chia rẽ, để duy trì một lối cử hành phụng thụ động, nhàm chán, một lối sống đạo vụ lợi, hình thức, một quan niệm lệch lạc về đạo. Người ta cũng đã từng nhân danh sự hiệp nhất để phủ nhận những nỗ lực đấu tranh cho công bằng, đấu tranh giải phóng những kẻ bị áp bức. Sự hiệp nhất đó chỉ là sự đồng lõa, hiệp nhất trong tội lỗi...
Những ai theo Chúa Giêsu phải quý trọng công bình, quý trọng tình thương yêu đích thực, coi trọng con người và chấp nhận đấu tranh cho những giá trị cao quý đó, dù có phải vì đó mà phải chống lại những người trong gia đình của mình, chống lại bạn bè và cả những người đồng đạo với mình.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã đem lửa tình yêu để thiêu đốt, thanh luyện những thứ bình an, hiệp nhất giả tạo che đậy những bogn1 tối tội lỗi, Ngài là con người gây xáo trộn, gây chia rẽ; bởi vì Ngài luôn luôn là ánh sáng áng chiếu soi vào trong bóng tối. Ngài muốn cho trong lòng mọi người đều bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu nhiệt thành của Ngài để đổi mới, để sống cho cái mới mà Ngài gọi là Nước Trời. Phải đấu tranh mãi để thế giới luôn tốt hơn, con người luôn hạnh phúc hơn. Người Kitô hữu không bao giờ được phép bằng lòng với nguyên trạng, cho dù trong đạo hay ngoài đời, bởi vì tất cả đều phải tiến đến Trời Mới Đất Mới.

11. Lửa trên mặt đất – McCarthy
(Trích dẫn từ 'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng')
Suy Niệm 1. NGÔN SỨ LÀ "NGƯỜI GÂY RỐI LOẠN"
Đức Giêsu rõ ràng là một con người tinh tuyền lành thánh, cho nên chúng ta vẫn mong rằng Người phải được mọi người yêu mến. Tuy nhiên Người đã gây "rối loạn" đến nỗi bị ghét bỏ và sau cùng bị đóng đinh. Làm thế nào mà điều ấy đã xẩy ra? Bởi vì Đức Giêsu là một ngôn sứ, một ngôn sứ tôn giáo, và một ngôn sứ luôn luôn là một Personna non grata đối với quyền lực hiện hành. Phần lớn các ngôn sứ đều bị bách hại và một số bị giết chết.
Giêrêmia là một ví dụ. Ông được kêu gọi để trở thành ngôn sứ từ khi còn nhỏ tuổi. Ông sống ơn gọi của mình một thời kỳ đầy biến động. Người ta chứng kiến sự thất bại của Israel và sự tàn phá Giêrusalem và Đền Thờ. Ông là lương tâm của đất nước ông. Ông yêu thương tha thiết dân tộc ông và không bao giờ đánh mất niềm tin và quyền năng của Thiên Chúa cứu chuộc dân Người. Tuy nhiên ông bị kết án là một kẻ làm loạn và ông sống trong sự đe doạ thường xuyên đối với mạng sống mình.
Các ngôn sứ là "những người gây rối loạn" theo nghĩa tốt nhất của từ ấy. Không có kẻ khuấy rối sự bình an nào lớn hơn người rao giảng công lý và sự thật. Hãy lấy trường hợp của Martin Luther King ở Mỹ. Ông là một con người của hoà bình. Tuy nhiên, khi đứng lên kêu gọi chấm dứt nạn kỳ thị chủng tộc đối với người da đen, ông đã gây ra nhiều biến động hơn bất cứ người nào khác cùng một thế hệ với ông ở Hoa Kỳ. Hãy lấy trường hợp nhà bác học Nga Andrei Sakharov, ông cũng bị chính quyền cộng sản gán cho nhãn hiệu "kẻ gây rối" khi ông kêu gọi chấm dứt sự đàn áp những người không có cùng quan điểm và sự phát triển các vũ khí hạt nhân.
Một đôi khi điều chúng ta gọi là hoà bình thực ra không phải là hoà bình. Bất cứ hoà bình nào không xây dựng trên nền tảng công lý đều là một hoà bình giả hiệu. Cố Tổng Giám Mục Helder Camara ở Braxin đã mô tả nó như thứ ánh sáng giống ánh sáng mặt trăng trên đầm lầy. Đức Giêsu đã đến để đem lại hoà bình nhưng không phải loại hoà bình ấy. Giống như hoà bình giả hiệu, cũng có sự hiêp nhất giả hiệu trong đó người ta bao che cho sự phân biệt, kỳ thị và bất công.
Khi nhà văn Nam Phi Laurens Vander Post được phóng thích từ một trại giam các tù nhân chiến tranh ở Nhật Bản, ông hầu như phẫn nộ bởi những tàn bạo của thời bình mà ông đang sống không khác gì ông đã phẫn nộ trước những tàn bạo của chiến tranh. Còn Solzhenitsyn nói rằng khi những người lính trở về đời sông dân sự, họ kinh hoàng bởi cách mà người ta đối xử nhau tàn nhẫn nhất trong con người họ khi đem lại cho họ cơ hội phục vụ một chính nghĩa cao cả hơn bất kỳ sự theo đuổi nào của lợi ích bản thân.
Những sự việc như thế được chấp nhận là bình thường thì quả là bất thường. Ví dụ như những bất công trong xã hội, khoảng cách giữa cái nghèo không được giúp đỡ và cái giàu xấc xược. Chúng ta đã quá quen với điều đó nên không còn cảm thấy phẫn nộ. Chúng ta cần có người lay động chúng ta ra khỏi giấc hôn mê và sự thờ ơ đó.
Đức Giêsu nói Người đến để đốt lửa trên mặt đất này. Đây chỉ là một hình ảnh, một ẩn dụ, nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Lửa không phải là một vật mà người ta có thể thờ ơ với nó. Nó không phải là một vật yếu đuối, nhợt nhạt, không sức sống. Lửa sưởi ấm và an ủi. Nhưng nó cũng đốt bỏ những gì vô dụng và thanh lọc những gì ô uế.
Sứ điệp của Tin Mừng là lửa, nó là men của thế gian Chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu phải là những người giữ gìn ngọn lửa ấy.
Suy Niệm 2. CHẠY ĐUA
Vào thời đại hôm nay, chúng ta chứng kiến một hiện tượng lạ lùng nhưng kích động. Đó là hiện tượng chạy đua. Chúng ta thường thấy mười hoặc có khi hai chục ngàn người tham gia vào các cuộc chạy Maratông trong thành phố và trên khắp thế giới. Một vấn đề đặt ra: chạy Maratông một mình hay chạy với người khác, trường hợp nào cho là dễ hơn. Câu thành ngữ: "Người chạy đường dài cô độc" nói lên tất cả.
Một vận động viên chạy một mình trước một khán đài chật ních các cổ động viên reo hò cổ vũ, người ấy lấy hết nghị lực và mọi sức lực để chạy vượt quá khả năng thông thường của người ấy.
Chúng ta lấy hết sức lực để chạy khi thấy xung quanh mình cũng có những người khác đang chạy. Điều này đặc biệt đúng như chúng ta không quan tâm đến việc được xếp vào số những người về đích trước tiên mà chỉ quan tâm đến việc hoàn thành cuộc chạy. Lúc đó, chúng ta coi những người cùng chạy như bạn hơn là những đối thủ. Chúng ta coi họ như những người nâng đỡ. Điều này làm chúng ta có thể rút ra sức mạnh gương sáng của họ. Họ tạo thành một dòng người đưa chúng ta đi như trong một dòng chảy mạnh mẽ.
Điều gì trở ngại cho một vận động viên khi chạy? Bất cứ điều gì làm hỏng hoặc sự yếu đuối nào. Nhưng cũng do thiếu động lực. Khi người ta có động lực cao, họ muốn thực hiện những hy sinh to lớn bằng cách cống hiến thời gian, ăn kiêng, nỗ lực v.v...
Chạy Maratông không phải là để chiến thắng. Cuộc chạy mới đáng kể. Chạy Maratông tự nó là một biến cố. Mọi người đều chiến thắng. Điều quan trọng là sự tham dự và dấn thân. Và qua việc tham dự, chúng ta giúp đỡ những người khác bằng gương sáng của chúng ta: chúng ta có đóng góp một phần nhỏ.
Không phải chỉ khi chạy đua người ta mới rút ra được sức mạnh của tình đồng đội. Tác giả sách Do Thái khích lệ các độc giả của ông phải kiên trì trong đức tin bất chấp cái giá phải trả. Ông nói họ phải rút ra sức mạnh của "đám mây vô số nhân chứng" đã đi trước họ. Ông đã dẫn chứng các thánh nhân trong Cựu Ước là những người đã chạy đua trước họ.
Các Kitô hữu ý thức mình là một phần của một chuỗi các nhân chứng thánh thiện kéo dài từ các thánh Tông đồ. Trong cuộc chiến đấu để giữ lòng trung tín, họ luôn luôn tìm lại những gương sáng đầy cảm hứng của các ngôn sứ, nhân chứng và thánh nhân. Chúng ta rút ra niềm hy vọng và lòng can đảm từ những "anh hùng của đức tin", các ngài duy trì lòng trung tín bất chấp việc các ngài chưa được nhìn thấy lời hứa hoàn thành trong đời sống các ngài. Và khi chúng ta cảm nghiệm sự mệt mỏi cùng cảm giác thất bại và không hiệu quả, các ngài nói với chúng ta: "Chúng tôi ở với các bạn. Đừng bỏ cuộc".
Như một phi công tiền phong đã nói: "Một đôi khi bão tố và sương mù chụp xuống bạn. Nhưng bạn hãy nghĩ đến tất cả những người đã băng qua sương mù, bão tố trước các bạn, và bạn chỉ cần tự nhủ: "Họ đã làm được điều đó, nên điều đó có thể được thực hiện lại".
Nhưng đặc biệt chúng ta phải hướng mắt nhìn về Đức Giêsu. Lòng trung tín của Người đã dẫn đưa Người đến thập giá và sau thập giá đến vinh quang. Người là một gương sáng cao cả toàn thể đám mây các gương sáng trong Cựu Ước.
Sứ điệp ấy thật rõ ràng! Giống như Thầy chúng ta, các Kitô hữu chúng ta phải sẵn sàng chiến đấu vượt qua mọi vật trở ngại trên con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đây không phải là cuộc chiến đấu đơn độc, nhưng là một cuộc chiến đấu mà chúng ta cùng nhau thực hiện. Chúng ta cùng nhau chạy trong một cuộc đua cao cả nhất dành cho tất cả mọi người.

12. Ngọn lửa tình yêu – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ 'Như Thầy Đã Yêu')
Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền An giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.
Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.
"Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên". Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.
Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vẫn bừng cháy trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn người tín hữu giữa đêm tăm tối, cũng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí khôn các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.
Nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm.
Nếu lòng hai môn đệ Emmau đã bừng cháy lên khi nghe lời Chúa, thì nhân loại sao chẳng rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?
Lời yêu thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian.
Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho trần thế.
Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ.
Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.
Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: "Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh".
Lạy Chúa, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những kẻ đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.

13. Lửa
Có một cô gái, mặc dù được sinh ra trong một gia đình đạo đức, thế nhưng vì hoàn cảnh, đã sống một cuộc đời bê tha tội lỗi. Số là vào năm mười tám tuổi, ba của cô thì bị mất việc làm, còn má của cô thì đau yếu triền miên. Và thế là hằng đêm, cô phải la cà vào các hàng quán để mồi chài khách khứa.
Sau một thời gian, cuộc sống thác loạn này đã gieo vào lòng cô một nỗi chán chường, khiến cho cô chỉ muốn nghĩ đến cái chết. Thế rồi, trong một bài giảng, cô được nghe nói về tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta. Tình yêu ấy dạt dào đến độ Ngài tha thứ tất cả với điều kiện là chúng ta phải hoàn toàn phó thác trong vòng tay của Ngài.
Bài giảng được minh họa bằng những sự kiện cụ thể, qua đó, Chúa đã tha thứ cho người đàn bà Samaria, cho Mađalêna, cho người thiếu phụ ngoại tình, cho Phêrô và cho tên trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá.
Bài giảng này đã tác động mạnh mẽ trong tâm hồn cô gái, khiến cô rưng rưng như muốn khóc. Sau đó cô gái đã dọn mình lãnh nhận bí tích giải tội và quyết tâm làm lại cuộc đời. Giờ đây cô như một em nhỏ, đặt mình vào bàn tay Chúa và để Ngài dẫn dắt. Bởi vì Chúa luôn yêu thương những kẻ bé mọn và yếu đuối. Ngài yêu thương chúng ta với tất cả những khổ đau và vấp ngã của chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta phải biết chạy đến với Ngài vì Ngài là tình yêu.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay với lời xác quyết của Chúa:
- Ta mang lửa đến trần gian và chỉ mong sao cho lửa ấy bừng cháy lên.
Theo các thánh giáo phụ thì ngọn lửa Chúa Giêsu đem vào thế gian là ngọn lửa của Chúa Thánh Thần, đã bừng lên trong ngày lễ Hiện xuống... Chính ngọn lửa này đã làm phát sinh ra Giáo hội, là dụng cụ mà Ngài dùng để thanh lọc và thánh hóa nhân loại.
Thế nhưng chúng ta cũng có thể hiểu ngọn lửa nói đây là ngọn lửa tình yêu mà Ngài đã thắp lên trong cõi lòng mỗi người.
Chính ngọn lửa này đã bùng cháy trong tâm hồn hai môn đệ đi Emmaus trong ngày Phục sinh, để các ông nhận biết Chúa. Và cũng ngọn lửa ấy đã bùng cháy lên trong tâm hồn cô gái tội lỗi, khi cô được nghe biết về tình thương của Chúa, để rồi dứt khoát với dĩ vãng tăm tối của mình.
Với chúng ta cũng vậy, Chúa cũng đã đặt để trong cõi lòng chúng ta ngọn lửa tình yêu của Ngài giống như ngọn nến chúng ta lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Thế nhưng ngày hôm nay, ngọn lửa đó đã tắt ngấm hay chỉ còn leo lét như một ngọn đèn thiếu dầu?
Chính vì thế chúng ta hãy cầu xin Chúa gia tăng sức mạnh, để ngọn lửa tình yêu của Ngài được bùng cháy trong tâm hồn, nhờ đó mà bản thân chúng ta được sưởi ấm và cuộc đời chúng ta tìm thấy đường nẻo phải đi.

14. Lửa tình yêu – Lm. Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu nói với các môn đệ: "Thầy mang lửa xuống trần gian, thầy mong ước gì, nếu không phải là muốn lửa ấy cháy lên". Nhóm lên, và làm ngọn lửa tình yêu bừng cháy, là sứ mạng của Đức Giêsu và của mỗi người môn đệ Ngài.
Phải chọn lựa giữa Đức Giêsu và thế gian
Đừng tưởng thầy tới mang hòa bình, nhưng ngược lại, thầy tới mang chia rẽ. Chia rẽ ở đây hiểu theo nghĩa, người ta phải chọn lựa giữa Chúa Giêsu và giá trị trần gian. Những ai theo trần gian, có thể có ngày họ phản bội và làm hại thậm chí cả anh em hay cha mẹ mình; còn những ai theo Đức Giêsu, phải sống theo luật tình yêu. Qua Đức Giêsu, con người phải chọn lựa, phải có thái độ dứt khoát. Theo nghĩa này, Đức Giêsu mang chia rẽ.
Ở một chỗ khác Đức Giêsu nói: "Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban bình an cho anh em. Bình an Thầy ban cho anh em, không như thế gian ban tặng". Bình an của Đức Giêsu, không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra; đúng hơn, bình an là thái độ sống mà không gì có thể làm mất được. Bình an do xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mình, và Ngài làm những điều tốt nhất cho mình, Ngài biến cả những điều xấu người khác làm cho mình trở thành ích lợi cho mình.
Bình an Đức Giêsu ban tặng, người ta tìm thấy nơi các tông đồ. Dù bị bách hại nhưng các ngài vẫn kiên vững loan truyền Tin Mừng cứu độ "Thiên Chúa yêu thương con người". Bình an này các thánh tử đạo là những người cảm nghiệm và làm chứng bằng chính cuộc sống của các ngài.
Lửa tình yêu đã thiêu đốt Giêrêmia
Giêrêmia đã nhân danh Chúa nói với dân chúng những điều mà những người lãnh đạo cùng chính dân chúng không ưa thích. Và điều này đã làm cho tiên tri bị ghét, và người ta tìm cách hãm hại tiên tri.
Đã có lúc tiên tri bỏ cuộc, không muốn nói nhân danh Chúa nữa, những lúc đó lòng tiên tri bừng bừng như lửa thiêu đốt, và cuối cùng tiên tri đã trở lại với Chúa, để tiếp tục sứ mạng Ngài trao phó. "Vì nhiệt thành với luật Chúa, mà con phải thiệt thân". Thiên Chúa ban lửa tình yêu cách đặc biệt nơi một số người, để họ thành chứng nhân của Chúa, để họ trở thành dụng cụ làm bùng cháy ngọn lửa tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với con người nơi nhiều tâm hồn.
Lửa tình yêu với Thiên Chúa trong lòng Giêrêmia, lửa tình yêu đối với con người nơi người đến xin vua Zedekiah giải cứu Giêrêmia, và ngọn lửa tình yêu nơi tâm hồn vua, đã làm tất cả những người này hành động theo tình yêu, theo lương tâm, theo Lời Chúa. Giêrêmia sống theo lửa tình yêu thúc đẩy, và chính Giêrêmia cũng được cứu bởi lửa tình yêu.
Lửa Thánh Thần tình yêu
Thánh Thần là lửa tình yêu. Thánh Thần tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, làm nhiều người can đảm đáp trả tiếng Chúa mời gọi, sẵn sàng sống chết cho tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người. Trên đường trần không thiếu những gai góc và gian nan vất vả, nhưng với tình yêu của Thánh Thần, biết bao người đang tiếp nối sứ mạng của Đức Giêsu, đang nỗ lực làm bừng cháy lên ngọn lửa tình yêu. Nhìn lên Đức Giêsu như người mẫu và lý tưởng, Kitô hữu hiên ngang sống giữa đời, đem tình yêu đến với mọi người bằng sống yêu thương, ngay cả với những người thù ghét mình.
Tình yêu chiến thắng hận thù. Yêu thương làm cuộc đời đẹp hơn, tươi hơn, thoải mái và hạnh phúc hơn. Lửa tình yêu Đức Giêsu mang xuống trần đã bùng cháy trong tim mỗi người, và mỗi người được gọi để làm ngọn lửa tình yêu lan rộng mãi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Theo bạn, có khi nào không còn tình yêu trên trần gian nữa không? Tại sao?
2. Dựa vào đâu để bạn nói Đức Giêsu yêu thương con người?
3. Đức Giêsu làm lửa tình yêu bùng cháy bằng cách nào?

15. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Nếu bạn triệt để sống tinh thần Tin Mừng vượt mức bình thường của mọi người, hoặc hăng say dấn thân làm việc cho Thiên Chúa, nhân loại và Giáo Hội đến nỗi phải hy sinh rất nhiều, thì thái độ của những người chung quanh bạn thế nào? khen ngợi hay chê bai? ủng hộ hay chống đối?
2. Đức Giêsu nói: Ngài đến không phải để đem lại hòa bình mà là sự chia rẽ, điều đó có đúng trong thực tế không? Xin đan cử vài trường hợp cụ thể.
Suy tư gợi ý:
1. Tâm lý chung của con người
Những ai đã từng sống cuộc đời sa đọa, bê bối, hoặc dưới trung bình về mặt đạo đức, chắc chắn sẽ được những người thân (cha mẹ, thầy cô, vợ con, anh chị em, bạn bè...) chung quanh mình nâng đỡ, vực dậy, kéo ra khỏi vũng bùn. Nhưng những người đã từng sống một cuộc đời vượt hẳn mức trung bình, chẳng hạn muốn triệt để sống theo tinh thần Tin Mừng, muốn hy sinh, quên mình thật sự để phục vụ tha nhân, hoặc triệt để sống phó thác vào Chúa, thì sẽ bị những người chung quanh khuyên can, lôi mình xuống. Nếu khuyên can không được, họ sẽ nói mình dại dột, khùng, «mát»... thay vì nể phục. Nhiều vị thánh, khi quyết tâm triệt để sống theo lời khuyên của Tin Mừng, thì bị chính những người thân mình nhất cản trở, như trường hợp thánh Phan-xi-cô Khó Khăn. Khi ngài quyết tâm từ bỏ đời sống giàu sang, bán mọi thứ mình có để bố thí, chấp nhận sống nghèo khó hầu hòa mình và phục vụ những người khốn khổ, thì cha mẹ ngài cản trở. Cản không được, hai ông bà bèn cho gia nhân chửi mắng Ngài là đồ khùng, ngu xuẩn, và cho phép họ ném cà chua, đồ dơ vào ngài mỗi khi ngài đi ngang qua nhà.
2. Tâm lý ấy bất lợi cho các ngôn sứ
Tâm lý của con người là như vậy. Mình xuống thấp thì họ nâng mình lên, điều đó thật là tốt! Nhưng mình lên quá cao thì họ lôi mình xuống. Các ngôn sứ của Thiên Chúa đều cảm nghiệm đươc tâm lý này nơi những người thân mình. Khi ý thức được tiếng Chúa gọi mình làm chứng cho Ngài, cho chân lý, công lý và tình thương, đồng thời muốn đáp trả ơn gọi ấy một cách quảng đại, can đảm, người ngôn sứ sẽ phải đối phó hoặc chiến đấu với chính những người thân yêu nhất của mình, những đồng đạo của mình. Chính điều này làm cho người ngôn sứ trở nên hết sức đơn độc, và nỗi khổ tâm chủ yếu của người ngôn sứ không phải ở chỗ phải hy sinh những điều mà Chúa trực tiếp đòi hỏi cho bằng phải chịu sự bách hại của chính những người thân yêu mình: cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè. Nhiều khi càng là người thân thì lại càng cản trở mình mạnh hơn. Tuy nhiên, người ngôn sứ không thể vì sự chống đối của người thân mà bực bội hay ghét bỏ họ, vì họ không thể làm gì khác hơn điều họ nghĩ.
Như thế, người ngôn sứ phải hy sinh nhiều mặt:
– Những hy sinh đến từ sự đòi hỏi của Thiên Chúa, của ơn gọi, của lương tâm: Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi người ngôn sứ phải hy sinh và chịu đau khổ cao độ hơn người khác;
– Những hy sinh đến từ những bách hại của những người có hành vi sai trái mà người ngôn sứ cảm thấy phải lên tiếng cảnh báo;
– Những hy sinh đến từ những người thân yêu nhất của mình: những người này rất yêu thương mình, sẵn sàng hy sinh cho mình, nhưng lại không chấp nhận cho mình dấn thân ở mức độ mà họ cho là quá mức cần thiết. Vì sự dấn thân bị coi là quá mức ấy có thể gây thiệt hại cho họ (khiến họ bị liên lụy, bị mất quyền lợi, phải lo lắng và buồn phiền nhiều chuyện, phải khổ tâm khi thấy mình khổ, hoặc phải lo sợ cho sự an nguy của mình). Chẳng hạn, một người chồng muốn dấn thân cho Chúa nhiều hơn làm sao tránh được tình trạng buộc người thân mình cũng phải phần nào chấp nhận hy sinh, thiệt thòi và cực khổ nhiều hơn vì mình? Một linh mục hay một tu sĩ muốn làm ngôn sứ làm sao tránh được chuyện làm phiền hà các bề trên mình, tập thể của mình (linh mục đoàn, nhà dòng), và những người mình có nhiệm vụ chăm sóc?
3. Chúa và ơn gọi có thể là nguyên nhân gây chia rẽ
Người ta thường nghĩ Đức Giêsu hay các ngôn sứ là những người đem lại bình an cho tâm hồn con người, và là nguyên lý nối kết mọi người lại với nhau. Điều đó rất đúng, nhưng chỉ đúng một mặt, vì xét trên một bình diện khác, thì chính Đức Giêsu và các ngôn sứ lại là những người đem lại sự bất ổn cho tâm hồn, và là nguyên lý gây nên chia rẽ giữa mọi người.
– Đem lại bất ổn, vì các ngài luôn luôn đặt mọi người trước một vấn đề lương tâm buộc họ phải có một thái độ: hoặc theo tiếng lương tâm, hoặc không theo. Theo tiếng lương tâm thì phải hy sinh nhiều thứ, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải sống cao thượng, anh hùng... nhưng tâm hồn được bình an. Còn không theo tiếng lương tâm thì không bị thiệt thòi hay đau khổ gì, nhưng lại bị chính lương tâm mình cắn rứt, dày vò, và cũng có thể bị dư luận chê trách.
– Gây chia rẽ, vì trước sự đòi hỏi của Đức Giêsu, của tiếng lương tâm, con người sẽ có nhiều thái độ khác nhau. Những người không nghe theo lương tâm vì sợ phải hy sinh và đau khổ sẽ có đủ những lý lẽ biện minh cho thái độ của họ, để tự đánh lừa lương tâm mình hầu được bình an. Và để chứng tỏ mình hành động đúng, họ có thể kết án những người kia là thiếu khôn ngoan, dại dột, quá khích, là gây hại, gây chia rẽ... Chính ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong bài đọc I cũng bị nhiều người đồng thời đánh giá: «Những luận điệu của ông ta đã làm nản lòng các binh sĩ còn lại trong thành này, cũng như toàn dân. Thật vậy, con người ấy chẳng mưu hoà bình cho dân này, mà chỉ gây tai họa». Thế là vì lời mời gọi của Chúa, của tiếng lương tâm mà trong nội bộ gia đình, đoàn thể, Giáo Hội... có sự chia rẽ, xung đột, tranh đấu, chống đối nhau. Đương nhiên phần thua thiệt đau khổ sẽ nghiêng về những người làm đúng theo sự đòi hỏi của ơn gọi, của lương tâm.
4. Sự chia rẽ đến từ những nhận thức khác nhau
Do cách nhìn cao thấp, rộng hẹp, nông sâu khác nhau, và do mức độ dấn thân khác nhau, mà có sự mâu thuẫn và xung đột giữa những người cùng dấn thân theo Chúa, phục vụ xã hội hay Giáo Hội. Sự khác biệt là tất yếu: người biết hoặc quảng đại ở mức 100 không thể thấy và hành động cùng một cách với người ở mức 50, và người ở mức 50 không thể giống với người ở mức 10. Người biết 100 điều này không thể có cùng một cách nhìn và hành động với người biết 100 điều kia.
Có những người nhìn thấy những giá trị lớn mà xa, có những người chỉ thấy được những giá trị nhỏ trước mắt. Vì thế, người trước chủ trương hy sinh giá trị nhỏ trước mắt để đạt được giá trị lớn về sau, và được thúc đẩy làm như vậy. Còn người sau nhận thấy không nên «thả mồi bắt bóng», nên quyết tâm bảo thủ những giá trị đang nắm trong tay, không quan tâm tới những gì chưa thấy. Vậy là cùng theo đuổi và quyết tâm thực hiện điều tốt, nhưng người ta bất đồng và chia rẽ nhau. Vấn đề không còn là chọn giữa cái tốt và cái xấu, mà giữa hai cái đều tốt: cái tốt nhỏ và cái tốt lớn, cái cần thiết và cái ích lợi...
Chẳng hạn, Chúa đòi buộc ta phải hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương con cái, nhưng cũng lại đòi buộc ta phải sẵn sàng hy sinh mọi sự cho Nước Trời. Cả hai điều đều tốt và đều buộc ta phải thực hiện. Nhưng cũng có những trường hợp hai điều tốt ấy xung đột nhau: chẳng hạn, nếu quá lo lắng cho cha mẹ, con cái thì không thể lo cho đại cuộc Nước Trời, và ngược lại. Vì thế, Chúa bảo: «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy» (Mt 10,37).
Vậy, nhận thức khác nhau về những điều tốt, và mức độ quảng đại khác nhau trước tiếng gọi của Chúa hay trước sự đòi buộc của lương tâm có thể khiến người trong cùng gia đình, cùng tập thể, xứ đạo, giáo phận chia rẽ nhau, chống đối nhau. Tình trạng có thể trầm trọng đến mức «Kẻ thù của mình chính là người trong nhà» (Mt 10,36). Những người dấn thân triệt để cho Thiên Chúa nên nhận thức và sẵn sàng chấp nhận điều này.
Cầu nguyện
Lạy Cha, ngay từ khi con lãnh nhận bí tích rửa tội, con đã lãnh nhận thiên chức ngôn sứ của Cha. Là ngôn sứ từ thuở ấy, nhưng đã mấy khi con sống đúng tư cách ngôn sứ của mình! đã mấy khi con sống cho ra ngôn sứ của Cha! Xin cho con dám can đảm chấp nhận tất cả những khó khăn đau khổ xảy đến, khi hoàn cảnh buộc lương tâm con phải lên tiếng làm chứng cho Cha, cho chân lý, công lý và tình thương. Xin đừng bao giờ để con lấy cớ khôn ngoan để hành xử một cách hèn nhát trước bạo lực. Xin hãy cho con dám nói hoặc làm khi lương tâm người Kitô hữu buộc con phải nói hay làm một điều gì đó xứng hợp với chức năng ngôn sứ của mình. Xin ban ơn can đảm để con sống đúng thiên chức ngôn sứ của người Kitô hữu trong con. Amen.

16. Phân rẽ
Đoạn Tin mừng hôm nay có lẽ đã làm cho chúng ta thắc mắc và tự hỏi:
- Giới luật của Chúa là giới luật yêu thương. Suốt cả cuộc đời, Ngài không ngừng cổ võ cho tình yêu, vậy tại sau Ngài lại bảo: Ta đến để đem sự phân rẽ.Vậy sự phân rẽ ở đây phải được hiểu như thế nào?
Theo thiển ý của tôi, Chúa Giêsu đã thực sự phân rẽ. Phải, phân rẽ giữa sự thiện và sự ác, giữa ánh sáng và bóng tồi, để rồi từ đó đòi buộc chúng ta phải có một chọn lựa căn bản, một thái độ dứt khoát, một lập trường minh bạch. Thực vậy, chúng ta hãy nhớ lại lời tiên tri của ông già Simêon:
- Trẻ nhỏ này sẽ nên như bia cho người ta chống đối.
Lời tiên tri này đã, đang và sẽ còn được thực hiện. Ngài đã phân rẽ thế giới này thành hai phe rõ rệt. Đang khi các mục đồng và ba nhà đạo sĩ đã thờ lạy Chúa nơi máng cỏ Bêlem, thì Hêrôđê đã ra lệnh truy lùng và tàn sát Chúa.
Trong cuộc sống công khai cũng thế, đang khi dân chúng say mê bước theo Chúa, thì bọn luật sĩ đã tìm mọi cách để ám hại Ngài và chắc chắn họ đã được thỏa mãn khi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Giáo hội hôm nay chính là hiện thân của Đức Kitô, chính là Đức Kitô được kéo dài qua dòng thời gian, nên cũng phải đi theo con đường của Ngài và chịu chung cùng một số phận với Ngài.
Đúng thế, sau bài giảng của thánh Phêrô trong ngày lễ Hiện xuống, hàng ngàn người đã tin theo Chúa và đã lập nên cộng đoàn Giêrusalen, thế nhưng các đầu mục Do Thái đã tức tối, bắt giam và xét xử các tông đồ. Những giọt máu đào của Stephanô đã khơi nguồn cho dòng máu anh hùng của các vị tử đạo trên toàn thế giới.
Giữa lúc Giáo hội đang phát triển mạnh mẽ, thì ba trăm năm cấm cách dưới thờ các bạo vương La Mã tưởng chừng như muốn nhận chìm con thuyền Hội Thánh... Tất cả những sự việc ấy, một lần nữa đã chứng thực cho lời tiên tri của ông già Simêon:
- Trẻ nhỏ này sẽ nên bia cho người ta chống đối.
Và chân lý ngàn đời của Đức Kitô đã trở thành sự thật:
- Thầy đến để đem sự phân rẽ.
Ngài đã phân rẽ nhân loại này thành hai giới tuyến rõ rệt. Thế nhưng, điều quan trọng đó là mỗi người chúng ta sẽ đứng vào giới tuyến nào? Theo Thiên Chúa hay theo Satan, theo Đức Kitô hay theo thế gian?
Sống là bơi ngược dòng nước và nếu không cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi. Sống là chiến đấu và cuộc chiến đấu cam go nhất chính là cuộc chiến đấu giữa sự thiện và sự ác, như lời thánh Phaolô đã diễn tả:
- Sư thiện tôi muốn thì tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm.
Sống là chọn lựa và một khi đã chọn lựa Đức Kitô, thì chúng ta phải can đảm chiến đấu dưới bóng cờ của Ngài.
Chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô không có nghĩa là trở lại thời ký lạc hậu và tăm tối, chưa có ánh sáng văn minh và những phương tiện hiện đại như ngày hôm nay.
Chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô có nghĩa là là trở lại thời kỳ người ta biết vâng phục thánh ý Chúa, biết sống chan hòa yêu thương và biết ra sức khử trừ tội lỗi...
Chiến đấu dưới bóng cờ của Đức Kitô có nghĩa là phải biết nói không với những cám dỗ của ma quỉ, phải biết nói không với những quyến rũ của trần gian. Thà chết, chứ chẳng thà phản bội Chúa.
Hay như hoàng hậu Blanche de Castille đã nói với con mình là vua thánh Louis như sau:
- Thà rằng mẹ thấy con chết trước mặt mẹ còn hơn là thấy con phạm một tội trọng mất lòng Chúa.
Cuộc chiến đấu chống lại tội lỗi là một cuộc chiến đấu dứt khoát và không khoan nhượng, một cuộc chiến đấu liên tục từng giây và từng phút, chẳng lúc nào được ngơi nghỉ, chẳng lúc nào được nới lỏng vì ma quỉ sẽ không bao giờ ngủ trưa và tội lỗi sẽ không bao giờ giải lao hay xả hơi, đúng như thánh Phêrô đã diễn tả:
- Ma quỉ như sư tử lượn quanh tìm mồi cắn xé.
Hơn thế nữa, càng bị thử thách, chúng ta lại càng phải tin tưởng vào Chúa. Càng bị vùi dập, chúng ta lại càng phải vùng dậy mạnh mẽ hơn. Trong cuộc chiến đấu này, chúng ta phải luôn luôn tiến tới, bởi vì không tiến tức là lùi.
Vậy cuộc chiến đấu cam go này sẽ đem lại cho chúng ta hậu quả nào?
Tôi xin thưa, đó là phần rỗi của lình hồn và niềm hạnh phúc vĩnh cửu của Nước Trời, như lời Ngài đã phán hứa:
- Ai bền đỗ đến cùng, thì sẽ được cứu rổi.
Hay như một câu danh ngôn cũng đã xác quyết:
- Nếu muốn được hạnh phúc trong một ngày, thì hãy mặc một chiếc áo mới. Nếu muốn được hạnh phúc trong một tuần, thì hãy giết một con heo. Nếu muốn được hạnh phúc trong một tháng, thì hãy thắng một vụ kiện. Nếu muốn được hạnh phúc trong một năm, thì hãy lấy vợ, lấy chồng. Nếu muốn được hạnh phúc suốt cả một đời, thì hãy trở nên người tử tế. Còn nếu muốn được hạnh phúc đời đời, thì hãy sống và chiến đấu cho Đức Kitô.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhận tư tưởng sau đây:
Hãy là một ngọn lửa cho tình yêu Chúa được bừng cháy.
Hãy là một chiếc ly thủy tinh cho ơn Chúa được tràn đầy.
Hãy là một tấm gương cho hình ảnh Chúa được phản chiếu.
Dù khi tôi cười, thì nụ cười ấy cũng sẽ nói về Chúa.
Dù khi tôi khóc, thì những giọt nước mắt ấy cũng sẽ rơi vào lòng bàn tay của Chúa.
Hãy là người chiến sĩ của Đức Kitô ở mọi nơi và trong mọi lúc, cũng như qua mọi cảnh huống thăng trầm của đời mình.

17. Tình yêu
"Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong lửa ấy cháy bùng lên". Đó là lời Chúa Giêsu nói trong bài Tin Mừng. Ngọn lửa Chúa Giêsu ném vào thế giới là gì? Chúa muốn ám chỉ điều gì?
Trước hết chúng ta biết: lửa là một hình ảnh rất quen thuộc và có nhiều ý nghĩa khác nhau đối với nhiều dân tộc. Người Việt Nam quan niệm rằng: trái đất chúng ta đang sống được cấu tạo bởi năm chất: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, tức là sắt, gỗ, nước, lửa và đất. Theo văn chương Ba Tư, người ta tìm ra lửa trong một cuộc chiến với con rồng. Chuyện kể rằng: một dũng sĩ Ba Tư đã dùng một hòn đá lớn để ném con rồng, nhưng vì ném không trúng đích, hòn đá rớt trên một phiến đá khác và tẹt ra lửa. Hầu hết các chuyện thần thoại đều kết luận: lửa là một món quà quí giá Tạo Hóa đã ban tặng cho con người. Một số người xưa lại tưởng rằng: lửa là một vị thần, nên đã tôn thờ gọi là " Bái Hỏa".
Nói đến lửa, ai cũng biết tầm quan trọng và công dụng của nó là sáng, nóng, sưởi ấm, đốt cháy, thiêu hủy. Ai trong chúng ta cũng cần lửa. Lửa rất có ích lợi, nhưng cũng rất nguy hiểm. Nó dùng để nấu nướng thức ăn và chế biến nhiều thứ khác, nhưng nó cũng có thể đốt cháy nhà cửa và thiêu rụi tài sản của chúng ta. Vì thế, đâu đâu cũng có sở cứu hỏa, sở chữa cháy, và nhắc nhở chúng ta đề cao cảnh giác: phòng cháy, chữa cháy, đừng đùa giỡn với lửa.
Ngoài lửa vật chất ra, trong lòng mỗi người còn có một thứ lửa khác, là lửa dục, lửa tham. Lòng dục và lòng tham đó còn bén nhạy và mãnh liệt mạnh mẽ hơn lửa vật chất. Chẳng hạn: có phải mỗi khi trong lòng chúng ta muốn gì thì như có một sức mạnh như lửa không ngăn cản nổi không? Hoặc là khi chúng ta bực tức điều gì, thì có phải lòng chúng ta sôi sục lên không? Vì thế người ta nói: "Người gì mà nóng như lửa", hay "nóng như lửa đốt"... Nhất là khi chúng ta để cho lòng dục lòng tham bùng lên, có phải nó sẽ gây nhiều tai hại không?
Trong Kinh Thánh, chúng ta thấy nhiều lần nói đến lửa với nhiều ý nghĩa khác nhau. Trong Cựu ước, lửa được dùng để chỉ Thiên Chúa hiện diện, chỉ sự tinh luyện xấu xa tội lỗi, và cũng ám chỉ hình phạt của Thiên Chúa. Trong Tân ước, cũng nhiều lần nói đến lửa, đặc biệt thánh Giacôbê đã mô tả cái lưỡi của con người là một ngọn lửa, vì tác dụng của nó có thể hại hơn cả lửa. Cái lưỡi ở đây ám chỉ những lời nói độc địa, ghê gớm, chẳng hạn: một lời nói vu oan có thể giết hại cả một con người. Một lời hành tỏi, nói hành nói xấu làm cho người khác phải buồn phiền, đau khổ, mất ăn mất ngủ...
Đặc biệt hơn nữa, ngọn lửa còn được dùng để diễn tả tình yêu. Đây chính là ý nghĩa của ngọn lửa mà Chúa Giêsu muốn nói trong bài Tin Mừng. Chúa Giêsu đến trần gian như ngọn lửa cứu độ. Ngọn lửa cứu độ đó là tình yêu của Ngài. Tình yêu của Ngài đối với loài người là ngọn lửa không bao giờ tắt, như trong kinh cầu Trái Tim Chúa Giêsu có câu: "Trái Tim Đức Chúa Giêsu là lò lửa yêu mến hằng cháy". Thực vậy, khi Chúa Giêsu nhập thể, Ngài đem ngọn lửa tình yêu từ trời xuống trần gian. Lửa đó đã thắp lên tại Bêlem, lửa đó không ngớt thiêu đốt Chúa ba mươi năm ẩn dật ở Nagiaret, lửa đó đã bừng cháy trong hồi thương khó để lan tỏa cho hết mọi người. Nói rõ hơn, vì yêu thương nhân loại, Chúa Giêsu đem lửa tình yêu xuống thế gian. Ngài muốn mọi người tiếp nhận được ngọn lửa yêu thương của Ngài. Vì thế, Chúa nói: Ngài mong muốn biết bao ngọn lửa tình yêu của Ngài được bùng cháy lên.
Chúa Giêsu đem ngọn lửa tình yêu đến, vậy tại sao cũng trong bài Tin Mừng này Chúa lại nói: "Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hòa bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ". Lời này có ý nghĩa thế nào? Có mâu thuẫn không? Chúng ta cần hiểu cho đúng.
Thật sự trong ba năm giảng dạy, chúng ta thấy Chúa chỉ luôn kêu gọi mọi người sống hiền lành khiêm nhường, đừng đố kỵ, ganh ghét, hận thù nhau, nhưng hãy thông cảm tha thứ và yêu thương nhau. Chẳng thấy Chúa đem gươm giáo đến, cũng chẳng thấy Chúa thúc đẩy người ta gây chiến, bất hòa, chống đối, chém giết nhau. Vậy lời Chúa tuyên bố trên đây chúng ta phải hiểu rằng: Chúa chỉ là nguyên nhân, là cái cớ để người ta chống đối những người tin theo Chúa, tức là vì Chúa mà người ta chống đối chém giết nhau.
Nói rõ hơn, Tin Mừng của Chúa được rao giảng, có người hoan hỉ đón nhận và có người ra sức chống đối, nghĩa là Tin Mừng của Chúa đem lại an bình và yêu thương, nhưng nó vẫn phải va chạm với thái độ của một số người chống đối. Những người chống đối lại va chạm với những người theo Chúa, thế là có sự chia rẽ nhau. Đó là trong xã hội. Ngay cả trong gia đình cũng có thể xảy ra sự chia rẽ, vì có người theo và có người không theo Chúa. Đây là sự chia rẽ vì niềm tin, vì lối sống đạo. Tình trạng này đã xảy ra thời Giáo Hội sơ khai, và vẫn xảy ra luôn mãi. Lịch sử các vị tử đạo đã chứng minh: những người theo đạo thường bị chính quyền và đồng bào mình ghét bỏ. Hoặc là trong một gia đình ngoại giáo, có một người trở lại đạo, là để kết hôn với người có đạo chẳng hạn, cha mẹ không bằng lòng. Thế là có sự xung khắc giữa cha mẹ và chính người con của mình. Như vậy, hai lời Chúa tuyên bố trong bài Tin Mừng hôm nay, không mâu thuẫn mà bổ túc cho nhau. Chúng ta phải rao giảng, phải đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người, dù gặp hoàn cảnh nào cũng không được lùi bước, dù phải rướm máu hay đổ máu.
Chúa Giêsu đem lửa yêu thương đến trần gian và Ngài mong muốn ngọn lửa ấy bùng cháy lên. Đó là tâm nguyện của Chúa và cũng là trách nhiệm của mỗi người chúng ta. Nếu con người cần cơm bánh để sống, thì họ cũng cần tình yêu để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm. Nếu con người muốn được bình an để vui sống, thì chỉ có tình thương mới đáp ứng được ước muốn đó. Đó là bổn phận của chúng ta.
Nhưng chúng ta hãy nhớ: "Không ai có thể cho người khác cái mình không có", nghĩa là chỉ khi nào ngọn lửa yêu thương thực sự sáng lên nơi mỗi người chúng ta, trong gia đình chúng ta, trong cộng đoàn chúng ta, trong Hội thánh chúng ta thì chúng ta mới có thể loan báo và đem tình yêu thương đến cho những người khác.

18. Dấu chỉ
Tin Mừng chúng ta vừa nghe, có vẻ khác lạ nếu chưa muốn nói là chói tai. Thường chúng ta vẫn có những quan niệm rất bình an và dịu dàng về con người Giêsu và nhất là về giáo lý bác ái của Người. Các thiên thần đã không hát khúc ca hòa bình trong ngày Ngài giáng sinh đó sao? Và trọng tâm giáo lý của Ngài không phải là tình thương đó sao? Ngài chẳng đến để hòa giải giữa Thiên Chúa và loài người, và giữa dân ngoại và Do thái đó sao? Thế mà hôm nay, trong đoạn vắn tắt của thánh Luca, chúng ta thấy Ngài nói đến Lửa và Nước, chia rẽ và chống đối, và ngay tại gia đình thường được gọi là tổ ấm. Giải thích điều đó thế nào đây?
Chúng ta đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Đức Giêsu sẽ được đưa lên cao. Sau khi mời gọi phải tỉnh thức, được minh họa bằng dụ ngôn người quản lý khôn ngoan trong Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, giờ đây Đức Giêsu nói với những ai theo Người ba lời về thử thách, có ý nói đến những nguy hiểm của cuộc phiêu lưu theo Người: Số phận của người môn đệ sẽ không khác gì Thầy mình.
Lời thứ nhất loan báo Đức Giêsu đến "để ném lửa vào mặt đất". Lửa đây là gì? Dĩ nhiên lửa đây không phải là thứ lửa vật chất mà chúng ta dùng để nhóm bếp hay dùng để đốt thuốc lá. Lửa ở đây phải được hiểu theo nghĩa tượng trưng. Trong Cựu ước lửa tượng trưng cho quyền năng tối thượng, sự hiện diện đáng sợ của Thiên Chúa. Đó cũng có thể là lửa phán xét của Thiên Chúa để thiêu hủy những kẻ xấu và thanh luyện một số ít những người trung tín còn lại. Nhưng đối với thánh Luca, trước hết lửa là biểu tượng của thần khí đã ngự trên Đức Giêsu, đã xức dầu cho Ngài, đã sai Ngài đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, công bố ơn giải thoát cho kẻ tù đày, cho người đui được thấy, cho kẻ áp bức được giải oan, loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Nhưng cũng chính vì đó mà Đức Giêsu trở thành dấu chỉ của sự chống đối trong suốt cuộc đời của Ngài. Cuối cùng khi sự bất hòa lên đến tột đỉnh Ngài đã bị các đối thủ giết chết. Đồng thời lửa đó cũng là thần khí đến thiêu đốt các tông đồ trong ngày lễ Hiện xuống. Chính ngọn lửa đó đã làm cháy tan sự lo lắng, sợ hãi trong các tông đồ và dẫn các ông ra đi làm chứng cho Đức Giêsu. Dẫu cho trong sứ vụ làm chứng đó, các ông gặp chống đối và phải thiệt thân.
Là Kitô hữu chúng ta đã lãnh nhận thần khí qua bí tích Rửa tội và Thêm sức. Thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ trở nên dấu chỉ sự chống đối như Đức Giêsu.
Lời thứ hai của Đức Giêsu giới thiệu "cái chết" của Người như một phép rửa, mà Người sẽ bị nhận chìm trong đó để cứu rỗi dân Người: "Thầy còn một phép rửa phải chịu và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc này hoàn tất".
Từ "Phép rửa", theo nguyên nghĩa là "sự nhận chìm trong nước". Vào thời của thánh Luca, phép rửa không phải là mấy giọt nước xối trên trán như phép rửa của chúng ta ngày nay. Người nhận phép rửa phải nhận chìm toàn thân vào trong một hồ nước. Vì thế phải dịch câu nói của Đức Giêsu thế này: "Thầy phải được nhận chìm trong một hồ nước". Khi nói như thế, cho thấy Đức Giêsu đang nghĩ đến cuộc khổ nạn, đến cuộc tắm máu,... hay chính xác hơn, Ngài đang nghĩ đến những dòng nước cuồn cuộn khổ đau và chết chóc, không bao lâu nữa sẽ dìm chết Ngài. Đức Giêsu xao xuyến nghĩ đến việc đó. Nhưng việc đó đối với Ngài là điều cần thiết như lời Ngài nói "Thầy còn một phép rửa phải chịu...". Đây là một công thức thông thường để nói về cuộc khổ nạn khắc khoải ấy qua đó một ý định nhiệm màu được thực hiện.
Khi nêu lên chủ đề "ơn ban bởi thần khí" và "phép rửa trong cái chết", thánh Luca đã cho thấy Đức Giêsu đã phải trả giá đắt biết bao cho sự cứu chuộc thế gian.
Phép rửa này là một cuộc vượt qua bắt buộc đối với Đức Giêsu và các môn đệ Ngài. Vì vậy Ngài hỏi ông Giacôbê và Gioan, khi các ông muốn làm lớn trong Nước của Ngài: "Các con có thể uống chén mà Thầy sắp uống, chịu phép rửa mà Thầy sắp chịu không?"
Bởi đó muốn được sống lại với Đức Giêsu, thì chúng ta cũng phải chịu dìm mình vào cái chết của Người, nghĩa là chết đi cho thói hư, tật xấu và tội lỗi của mình.
Lời thứ ba của Đức Giêsu quả quyết rõ ràng, những ai theo Người cũng sẽ phải gặp thử thách trên bước đường đi của họ, và ngay cả trong gia đình của chính mình.
Hòa bình là một điều tốt lành nhất mà người ta chờ đợi từ Đấng Messia. Trái lại, lời giảng dậy và hành động của Đức Giêsu gây ra những phản ứng chống đối mạnh mẽ. Đức Giêsu là một con người bị truy đuổi. Ngài cảm thấy điều đó ở xung quanh mình. Nhưng thay vì từ bỏ hành động và sợ hãi, Ngài tiến thẳng về cái chết với một lòng can đảm đáng khâm phục. Và Ngài loan báo cho các bạn hữu của Ngài, chính họ cũng bị chống đối như vậy.
Như những người đồng thời với Đức Giêsu, chúng ta mơ ước hòa bình và chúng ta muốn hưởng trọn vẹn sự hài hòa yên tĩnh ấy, vốn là sự nghỉ ngơi của tâm hồn, của vợ chồng với nhau, của cha mẹ với con cái, của con cái với cha mẹ, của môi trường xã hội này với môi trường khác... Shalom, hòa bình là ước mong mà người Do thái nói với nhau mỗi ngày. Thực tế, đó là lý tưởng tóm tắt tất cả những gì người ta mong ước.
Thế thì tại sao Chúa lại có vẻ đề cao sự chia rẽ? Chúa không phải là hòa bình của thế giới sao?
Vâng, Đức Giêsu chính là người mang lại hòa bình. Nhưng không phải là thứ hòa bình dễ dãi. "Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng". Có những nền hòa bình lừa dối, những sự an ninh ru ngủ và nguy hiểm. Chúng chỉ dựa trên những thỏa hiệp, nhượng bộ, không dám bùng nổ vì sợ thiệt hại cho thân thể, của cải, danh tiếng của mình. Hòa bình kiểu đó chỉ che đậy những chống đối trầm trọng, ẩn chứa đầy sóng ngầm, che dấu chiến tranh lạnh, hay duy trì những phần tử đặt cạnh nhau mà không cảm thông lẫn nhau. Tất cả những điều đó là sự trái ngược của hòa bình. Hòa bình đích thực chỉ có thể đạt được khi chúng ta lựa chọn theo Đức Giêsu. Tuy nhiên lựa chọn theo Đức Giêsu là bao hàm cả thập giá, chính là sự chia rẽ trong một cộng đoàn sống chung, hoặc huyết tộc, một gia đình, mà đáng lẽ sự đoàn kết được coi như điều hiển nhiên như năm ngón tay trong một bàn tay. Đứng trước việc Đức Giêsu đến, không còn gì không bị đảo lộn.
Trong cuộc đời của chúng ta, sự hiện diện của Đức Giêsu và Lời của Ngài không phải là một sự hiện diện trung lập vô hại, vô thưởng vô phạt. Không. Tin Mừng của Đức Giêsu là một loại thuốc nổ, một thứ diêm sinh, là thứ lửa cực nóng thiêu đốt, thanh luyện, biến đổi cuộc sống con người và thay đổi bộ mặt thế giới. Lửa thần linh mà Thiên Chúa ban cho chúng ta trong ngày lãnh bí tích Rửa tội cũng phải bừng lên và hoạt động như vậy. Ánh lửa thiêng ấy phải thay đổi, biến chúng ta trở thành các chứng nhân của Tin Mừng. Nhưng con đường của lòng tin, con đường theo Chúa và cách sống Tin Mừng triệt để, đòi chúng ta phải có lòng can đảm và kiên trì. Bởi vì, thường khi nó khiến chúng ta rơi vào tình trạng sống khác với những người thân yêu và môi trường sống của chúng ta. Không phải vì giáo huấn của Chúa xấu hay dở, nhưng bởi vì nó đi ngược dòng đời, nó chống lại mọi cách suy tư và hành xử theo tính toán ích kỷ tự nhiên của con người. Do đó, tin Chúa và bước theo Chúa là một cuộc kháng chiến trường kỳ và đầy gian khổ.
Nếu đức tin nơi Chúa là một chọn lựa đầy yêu sách, thì xin Chúa làm cho đức tin ấy có thể, bởi ơn của thần khí Chúa: "Lạy Chúa, giữa lòng thế giới, xin hãy đốt lên ngọn lửa của thần khí Chúa".

19. Ném lửa
"Thầy đến để ném lửa trên mặt đất... Thầy đến không phải để đem hòa bình, nhưng là đem sự chia rẽ". Những lời lạ lùng mà chúng ta vừa nghe đến từ Đức Giêsu! Chúng ta không muốn chờ đợi Người dùng lửa và gươm (sự chia rẽ). Người cũng không muốn. Khi Giacôbê và Gioan muốn Người khiến lửa và diêm sinh từ trời xuống trên một ngôi làng người Samari, Người nói với hai ông ấy rằng họ không biết điều họ nói. Và khi Phêrô rút thanh gươm ra trong vườn cây dầu, Đức Giêsu nói với ông hãy cất gươm đi.
Đức Giêsu không đến để gây ra xáo trộn hoặc làm cho các gia đình tan vỡ. Nhưng thỉnh thoảng điều ấy đã xảy ra. Trong thời kỳ sơ khai của Giáo Hội, hoán cải theo Kitô giáo hầu như dẫn đến việc bị gia đình từ bỏ, do đó người trở lại đạo phải chọn lựa giữa Đức Kitô và gia đình mình.
Rõ ràng khi Đức Giêsu nói về việc ném lửa và gây chia rẽ từ ngữ của Người không được dùng theo nghĩa đen. Tuy nhiên những lời ấy có ý nghĩa thực tế đối với Người. Đức Giêsu hiền lành nhưng không có nghĩa Người yếu đuối. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, Người cũng rất quả quyết như khi Người đuổi những con buôn ra khỏi đền thờ.
Những lời ấy cũng thể hiện những điều rất mạnh mẽ trong giáo huấn của Người. Giáo huấn của Người gây ra chia rẽ. Người dạy rằng Vương quốc của Thiên Chúa mở ra cho mọi người, thánh nhân và người tội lỗi, người Do thái và dân ngoại. Điều này đưa đến sự xung đột của Người với cơ chế tôn giáo của thời đó. Người gọi các kinh sư và người Pharisêu là những kẻ giả hình và những người mù dẫn đường. Họ gọi Người là một kẻ làm loạn và một người bị quỉ ám.
Nếu Đức Giêsu đã nịnh hót đám đông, và chỉ nói với họ những điều "dễ nghe", hẳn Người đã trở thành một người được quần chúng ưa thích. Nhưng Người đã chọn cách làm cho quần chúng bối rối. Bởi lẽ họ cần có người làm cho họ phải bối rối. Lời Người làm tổn thương một vài người và làm những người khác tức giận. Những lời Người nói với người nghèo khác với những lời Người nói với người giàu. Những lời Người nói với người tội lỗi khác với những lời Người nói với Pharisêu. Chúng ta sẽ phản bội lại Tin Mừng nếu chúng ta giản lược nó thành một sứ điệp dịu dàng, từ tốn cho tất cả mọi người không cần biết đến những khác nhau giữa người giàu và người nghèo, giữa người có đặc quyền và người cùng khổ. Một Tin Mừng nhạt nhẽo như thế không thể trở thành men làm dậy bột thế gian.
Có một xu hướng "thuần hóa" Tin Mừng, giản lược nó vào những lời nói hay đẹp và những kinh nghiệm an toàn dễ chịu. Khi điều ấy xảy ra thì lửa tàn lụi, men mất hết sức mạnh, muối mất hết mùi vị, ánh sáng trở nên mù mờ.
Các Kitô hữu không nên ngạc nhiên nếu Tin Mừng chia rẽ người ta. Ý thức về công lý đã đưa Người đến chỗ xung đột với những người bất lương. Lòng khoan dung của Người khiến Người phải xung đột với người có đầu óc hẹp hòi và tin tưởng mù quáng. Ánh sáng càng sáng tỏ thì bóng tối mà nó đẩy lùi càng thêm tăm tối.
"Khi tôi cho người nghèo lương thực, họ gọi tôi là một ông thánh. Nhưng khi tôi hỏi tại sao người nghèo không có lương thực, họ gọi tôi là một người cộng sản". Cố Tổng giám mục Helder Camara, người chiến sĩ đấu tranh cho người nghèo ở Braxin đã nói như thế.
Đức Giêsu nói rằng Người đến để thắp lửa trên mặt đất. Đây chỉ là một hình ảnh, một ẩn dụ nhưng là một ẩn dụ mạnh mẽ. Đó là một biểu tượng của sự phán xét và thanh luyện. Lửa đốt cháy những gì vô ích, và thanh lọc những gì còn ô uế.
Sứ điệp Tin Mừng là một ngọn lửa thanh luyện, nó là men cho xã hội và thế gian. Ngọn lửa ấy không chỉ được đốt lên mà còn được giữ gìn. Chúng ta, những môn đệ của Đức Giêsu là những người chăm sóc giữ gìn ngọn lửa ấy.

20. Sứ mạng của Đức Giêsu – Lm FX Vũ Phan Long
Nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu, Đấng đầy Thánh Thần, là đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, "nóng cháy", với loài người. Nếu chúng ta hiểu ý Người và cũng mong muốn như thế, chúng ta cần để cho Thánh Thần của Người hướng dẫn để biết lấy lập trường đúng đắn.
1.- NGỮ CẢNH
Những lời Đức Giêsu nói về tôi tớ và chủ đã chấm dứt tại 12,48 trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem; nay Đức Giêsu chuyển sang những đề tài khác. Đề tài đầu tiên là một loạt những lời bình luận về sứ vụ của chính Người (12,49-53). Trong những câu trước (cc. 36.40.43.45-46), tác giả đã nhắc tới việc một ông chủ (kyrios), một tên trộm, và Con Người, "đến". Rất có thể những điểm này đã gợi cho ông thêm các lời bình về việc chính Đức Giêsu đến (cc. 49.51).
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (12,49-50);
2) Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (12,51-53).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- ném lửa vào mặt đất (49): Trong Cựu Ước, lửa đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Các nhà chú giải gán cho "lửa" trong Lc 12,49 nhiều nghĩa: Chúa Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria; thánh Giêrônimô); các thử thách đang chờ các môn đệ (Maldonat); công trình thanh luyện và canh tân của Đức Giêsu ở trần gian (Knabenbauer, BJ).
- Thầy còn một phép rửa phải chịu (50): Phép rửa ở đây có nghĩa ẩn dụ: bị tràn ngập bởi tai ương. Đức Giêsu khẳng định rằng ước muốn Người vừa diễn tả phải lệ thuộc một điều kiện: trước hết Con Người phải lên Giêrusalem và trải qua cuộc Thương Khó.
- lòng Thầy khắc khoải biết bao (50): Nghĩ đến viễn tượng Thương Khó, tâm hồn Người khắc khoải" (synechomai). Ta có thể hiểu nỗi "khắc khoải" này như là cảm nhận tại vườn Ghếtsêmani, hoặc như một nỗi ước ao mãnh liệt là sứ mạng cứu thế của Người đạt tới mức hoàn tất (TOB).
- hoà bình (51): TM Lc thường nêu lên rằng hoà bình / bình an là ân huệ tiêu biểu nhất của thời thiên sai (2,14.29; 7,50; 8,48; 10,5-6; 11,21; 19,38-42; 24,36). Kiểu nói nghịch lý của Đức Giêsu ở đây cho hiểu hòa bình này không phải là thứ hòa bình trần thế dễ đạt được như các ngôn sứ giả vẫn giới thiệu (Gr 6,14; 8,11; Ed 13,10.16).
- cha chống lại con trai (53): Rất có thể Mk 7,6 là bối cảnh của câu này.
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Nguyện vọng sâu xa của Đức Giêsu (49-50)
Trong Tin Mừng Luca, Đức Giêsu có nói một câu vẫn còn gây thắc mắc: "Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên". "Lửa" Đức Giêsu mang đến mà ném vào mặt đất là gì? Và tại sao Người lại mong ước cho lửa đó bùng lên?
Có những người cho rằng đây là một thứ lửa đã được đốt lên, nên dịch là: "Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy còn ước mong gì nữa, nếu lửa ấy đã bùng lên rồi" (Bản dịch Anh giáo, Crampon, Joušon, NTT...); đây là y như thể Đức Giêsu chẳng còn gì mà mong ước, nên chỉ còn việc chờ đợi chịu Thương Khó (c. 50) hầu hoàn tất sứ mạng. Bản Nova Vulgata dịch theo hướng này: "Ignem veni mittere in terram et quid volo? Si iam accensus esset!" Nhưng đa số các tác giả nghĩ rằng Đức Giêsu diễn tả một nguyện ước, nên đã dịch: "Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên". Bản Vulgata cũ dịch theo nghĩa này là: "Ignem veni mittere in terram et quid volo nisi ut accendatur?"; đây cũng là cách dịch của Segond, Zorell, Lagrange, BJ, TOB, CGKPV...
Trong Cựu Ước, "lửa" đôi khi được dùng với ý nghĩa là một phương tiẹn để thanh luyện (Lv 13,52; Ds 31,23), để biện phân hoặc tách biệt (Gr 23,29; Is 33,14), và để xét xử (St 19,24; Xh 9,24; Tv 66,12; Is 43,2). Vậy từ ngữ "lửa" của Lc 12,49 có nghĩa nào? Có tác giả cho rằng lửa này quy về Chúa Thánh Thần (x. Cv 2,3): Đức Giêsu hiện đang mang Chúa Thánh Thần và ước mong là tất cả mọi người được đầy Thánh Thần (Thánh Grêgôriô Cả, thánh Ambrôsiô, thánh Xyrillô Alêxandria, thánh Giêrônimô). Nhưng lửa này cũng được giải thích là quy chiếu về phán xét (x. 3,17): Đức Giêsu đưa lại sự chia cắt giữa người tốt và kẻ xấu và muốn rằng sự chia cắt này xảy ra trọn vẹn (Knabenbauer, BJ).
Dù có chọn nghĩa nào, "lửa" cũng cần được liên kết với Lc 3,16, là câu trả lời của Gioan: "Tôi, tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, tôi không đáng cởi quai dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa". Qua câu này, ta nhận thấy "lửa" có nghĩa tượng trưng. Thật ra dựa theo ngữ pháp (hai danh từ nối với nhau bằng liên từ "và"), chúng ta đã có thể giải thích rằng "Thánh Thần và lửa" có nghĩa là "Thánh Thần là lửa", và từ đó có thể đi đến những nghĩa khác như là hệ quả, chẳng hạn "sự thanh luyện", hay là "sự biện phân", "sự xét xử" như là những tác động của Thánh Thần. Tuy nhiên, nối tiếp câu này là c. 17 cũng có "lửa": "Tay Người cầm nia rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi". "Lửa" này chắc chắn không có nghĩa như "lửa" trong c. 16.
Muốn tìm ra nghĩa chính xác của "lửa", nên tìm hiểu xem Đức Giêsu đến để làm gì? Người muốn đạt được điều gì nhờ hoạt động của Người? Chẳng lẽ Người không muốn mang bình an đến, kêu gọi loài người thông cảm nhau hơn, đối xử nhân hậu và từ bi với nhau hơn? Chính Đức Giêsu đã diễn tả rõ ràng về mục tiêu sứ mạng của Người và những hậu quả phát sinh từ đó: Người đến ném lửa vào mặt đất; có một phép rửa Người phải chịu; Người đến để gây chia rẽ. Thật ra những lời lẽ này không mô tả hết ý nghĩa của sứ mạng của Đức Giêsu. Nhưng các phương diện thuộc sứ mạng của Người được nhắc đến ở đây cần được cứu xét.
Nói đến việc "Người đến", chúng ta nhớ đến những lời khác: "Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi sám hối ăn năn" (5,32). "Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất" (19,10). Một yếu tố cốt yếu của sứ mạng Người là nhân ái đối với những kẻ tội lỗi, nỗ lực đưa họ về lại với Thiên Chúa. Đức Giêsu đầy lòng tốt lành và từ bi thương xót (x. Lc 7,36-50). Nhưng Người không hề nhắm biện minh cho mọi sự, triệt tiêu sự phân biệt giữa tốt và xấu, làm cho mọi sự hòa hợp với nhau. Mục tiêu của Người không phải là sự yên tĩnh và bình an của một thỏa hiệp chung. Người đã đến ném "lửa" vào trần gian. Đó là ý muốn thâm sâu của Người: trái đất được bao trùm trong "lửa" ấy và bốc cháy. Ghi nhận rõ ràng những đường nét của câu nói của Đức Giêsu, ta thấy các cách giải thích trên về "lửa" dường như quá gò ép.
Có thể nói Đức Giêsu gán cho toàn thể hoạt động của Người đặc tính của "lửa". Người đến, đầy Thánh Thần, đầy sức sống thâm sâu nhất của Thiên Chúa. Người loan bao Tin Mừng cho người nghèo. Người cho những kẻ bần cùng và tội lỗi biết lòng thương xót của Thiên Chúa. Khi làm những việc ấy, Người nhen lên ngọn lửa, muốn đốt cháy, và như lửa, Người bao trùm, xuyên suốt mọi sự. Người sẽ đến gặp người ta, nắm bắt người ta một cách thâm sâu. Điều mà Người làm không chỉ là một đóng góp trung lập, không hứng thú. Theo cách làm của Người, không có chỗ cho sự dửng dưng và chán chường, không có bức tường vô phương xuyên thấu đẩy bật mọi sự trở lại, không có một tấm bạt tráng dầu trên đó mọi sự trôi tuột đi. Hành động của Đức Giêsu có đặc tính của "lửa": nó muốn thắng vượt mọi thái độ lãnh đạm và xa cách; nó muốn đốt cháy; nó muốn có một cuộc gặp gỡ mãnh liệt, sống động.
* Hậu quả sứ mạng Đức Giêsu gây ra (51-53)
Trong cuộc gặp gỡ này, ai đón tiếp Đức Giêsu và sứ điệp của Người thì được đầy Chúa Thánh Thần. Ngược lại, đối với ai từ khước Đức Giêsu, thì cuộc gặp gỡ này lại trở thành một cuộc phán xét nhờ trung gian Đức Giêsu, sự đối lập đã bùng cháy và các tâm trí đang được phân rẽ (x. 2,34t). Trong cuộc gặp gỡ với Người, sự phân rẽ này đã được thực hiện và từ đó phát xuất ra các tương phản. Những người đón tiếp Người và những người từ khước Người ở trong một thế đối kháng mạnh mẽ với nhau. Do đó mà xảy ra chuyện là Đức Giêsu, Đấng muốn cuộc gặp gỡ này phải đậm đặc và ý thức về kết quả khác của cuộc gặp gỡ, lại không loan báo hòa bình, nhưng loan báo sự chia rẽ như là mục tiêu của việc Người ngự đến.
Một phần cốt yếu trong cuộc tiến bước của Người là khổ nạn, chết và phục sinh, như Người đã loan báo cho các môn đệ (9,22). Kết thúc này của hành trình là "phép rửa" mà Người phải chịu. Kết cuộc này đến với Đức Giêsu không phải như một số phận ngẫu nhiên, nhưng là để hoàn tất những gì Chúa Cha đã quy định cho Người và các ngôn sứ đã tiên báo (x. 18,31). Tinh thần của Đức Giêsu cũng bị chế ngự bởi kết cuộc này, và ý muốn sâu xa của Người là mọi sự được hoàn tất nơi Người. Và kết cuộc này cũng có đặc tính lửa thiêu đốt trọn cuộc sống của Đức Giêsu.
Vào lúc Đức Giêsu chào đời, ca đoàn các thiên thần đã dâng lên Thiên Chúa lời chúc tụng về hòa bình (2,14). Chính Đức Giêsu cũng đã ban bình an cho người phụ nữ tội lỗi và người phụ nữ được chữa lành (7,50; 8,48). Khi được sai đi rao giảng, vào nhà nào, các môn đệ phải chào chúc bình an (10,5t). Đặc biệt đây là sự bình an với Thiên Chúa. Nhưng do những kết quả khác nhau phát sinh từ cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, xảy ra những mâu thuẫn giữa loài người với nhau, thậm chí xảy ra chia rẽ trong một gia đình. Trong ví dụ Đức Giêsu nêu ra, đó là sự chia rẽ giữa thế hệ lớn tuổi hơn và thế hệ trẻ hơn. Cha và mẹ một bên chống lại con trai, con gái và con dâu bên kia: "ba chống lại hai, hai chống lại ba". Trong sách ngôn sứ Mikha, chúng ta đọc thấy: "Con trai khinh thường cha, con gái đứng lên chống lại mẹ, nàng dâu chống mẹ chồng, người trong nhà lại hoá ra thù địch" (7,6). Ở đây cuộc xung đột được gây ra từ một bên: đây là cuộc nổi loạn của những người trẻ chống lại thế hệ già hơn. Còn xung đột Đức Giêsu mô tả thì hai chiều: "cha chống lại con trai, con trai chống lại cha". Không phải là một bên bách hại bên kia. Và cũng chẳng rõ là bên nào có lý hơn. Như thế hai bản văn có hai quan điểm khác nhau, không thể dung hòa. Khi nhận quan điểm này, người ta chống lại quan điểm kia. Đón nhận quan điểm này cũng đồng thời là từ khước quan điểm kia. Người ta không thể cùng một lúc theo Đức Giêsu và chống Đức Giêsu. Và cũng chẳng có một lập trường ở giữa. Sự chia rẽ này chỉ do người ta lấy lập trường cá nhân đối với Đức Giêsu, chứ không do bất cứ những đối lập nào khác.
+ Kết luận
Những lời Đức Giêsu nói trong đoạn Tin Mừng trên đây cho chúng ta thấy nguyện ước sâu xa của Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu nhắm đạt được cuộc gặp gỡ cao độ, "nóng cháy", với loài người. Trái tim của Người khao khát hoàn tất hành trình mà Thiên Chúa đã quy định cho Người. Mục tiêu Người nhắm không phải là một sự hài hòa bên ngoài, nhưng là một việc lấy lập trường rõ ràng kể từ khi đã gặp gỡ cao độ với Người. Từ chỗ này có thể phát sinh các chia rẽ. Người ta không được hy sinh việc lấy lập trường theo Đức Giêsu hầu đạt được một thỏa hiệp cho việc đi tìm sự hài hòa.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
1. Như lửa có khả năng tẩy luyện, hoạt động của Đức Giêsu có thể thanh luyện con người chúng ta khỏi những tâm tình bất chính, và ban cho chúng ta Thánh Thần để Thánh Thần tiếp tục sưởi ấm và soi sáng chúng ta.
2. Đức Giêsu đang tiến về Giêrusalem để đi vào cuộc Thương Khó; tâm hồn Người khắc khoải. Chỉ qua cuộc Khổ Nạn–Phục Sinh, ơn cứu độ mới được ban cho loài người. Nhận ra được điều này, chúng ta được mời gọi bỏ đi những phương tiện dễ dãi, những phương tiện to lớn chúng ta đang dùng để bảo đảm mọi phương diện cuộc sống chúng ta. Ngoài ra, nếu muốn đốt lên trên trái đất một ngọn lửa như Đức Giêsu đã nhen lên, chúng ta không thể tránh né "phép rửa" Đức Giêsu đã chịu, tức phải chấp nhận đi qua tình trạng tự truất hữa và thất bại, chấp nhận hiến tặng cuộc sống chúng ta.
3. Qua cuộc gặp gỡ với Đấng chịu đóng đinh, các thần khí bị phân chia ra. Thánh Phaolô sẽ viết: "Chúng tôi rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy-lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa" (1 Cr 1,23-24). Tất cả công trình và cuộc hành trình của Đức Giêsu nhắm đến một cuộc gặp gỡ mãnh liệt. Nhưng chính từ đây phát sinh chia rẽ và bất thuận.
4. Đức Giêsu không hề có ý phá hỏng các dây liên kết trong gia đình; trái lại Người vẫn khẳng định rằng hiếu thảo với cha mẹ là một điều răn của Thiên Chúa (x. Mc 7,10). Tuy nhiên, trong cuộc sống làm môn đệ Người, chúng ta phải tôn trọng một bậc thang các giá trị, chúng ta phải chấp nhận hy sinh tất cả mọi sự muốn ngăn cản chúng ta bước đi theo Người.

21. Lửa và Bình An – Lm. Jos Nguyễn Cao Luật
Ngọn lửa của Đức Giêsu ...
Chắc có lẽ nhiều người được xem trên Tivi những hình ảnh các buỗi lễ khai mạc Thế Vận Hội. Hình ảnh gây ấn tượng nhiều nhất hẳn là nghi thức đốt lửa khai mạc. Từ mấy tháng trước, trước khi ngọn lửa được bùng lên tại lễ đài của sân vận động, ngọn lửa ấy đã được đốt lên tại núi Olympia - Hy-lạp - quê hương của Olympic. Và rồi ngọn lửa được rước về xứ sở được vinh dự tỗ chức Thế Vận Hội, được trao cho các vận động viên nỗi tiếng, những người có danh giá: mỗi người một đoạn đường. Những người này thay phiên nhau rước ngọn đuốc Olympic đi khắp đất nước, và đến ngày khai mạc, ngọn đuốc được đưa về sân vận động và được thắp lên trên lễ đài.
Cũng trong những hình ảnh của Olympic, vào ngày bế mạc, khi ngọn lửa trên lễ đài được tắt đi, thì mỗi người tham dự cầm một ngọn đèn, tượng trưng cho tinh thần Olympic. Ánh sáng từ những ngọn đèn nhỏ, với muôn ngàn màu sắc khác nhau, làm cho bầu khí thật cảm động. Ngọn đèn trên tay, như là thu nhỏ của ngọn lửa Olympic, sẽ được giữ mãi, nhớ mãi, mỗi người cảm thấy mình gần người khác hơn, đầy tinh thần yêu thương và thông cảm.
Xin mượn những hình ảnh ấy để gợi ý chia sẻ cho bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu được Thiên Chúa sai đến trần gian với sứ mệnh bày tỏ tình thương của Thiên Chúa đối với con người. Người đến giữa vận hội trần gian và đốt lên ngọn lửa của Thiên Chúa. Người đã rước ngọn lửa đó đi khắp đất nước Do thái, vượt ra khỏi những biên cương do con người tạo nên. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa đám dân Do thái đang chờ mong Đấng Cứu Tinh. Người đã đem ngọn lửa ấy vào giữa những người dân ngoại. Người đã làm bừng lên trong tâm hổn mọi người ngọn lửa như ông Gioan Tẩy Giả đã loan báo. Ông Gioan Tẩy Giả thanh tẩy bằng nước, còn Đức Giêsu thanh tẩy trong Thần Khí, tức là gió và lửa. Tất cả lời nói và hành vi của Đức Giêsu đều cho thấy một ngọn lửa đích thực, lửa vĩnh cửu, lửa thiêng, để rổi cuối cùng, Người lấy chính mạng sống của mình để đốt lên một cách dứt khoát trên lễ đài thập giá, trên đổi Can-vê. Chính lúc ấy, Người đã thốt lên: "Mọi sự đã hoàn tất."
Đức Giêsu đã thắp lên ngọn lửa vĩnh cửu bằng chính cái chết của Người. Trước đó, Người đã trao cho các Tông Đổ sứ mệnh đem ngọn lửa đi khắp thế gian, đến tận cùng cõi đất. Theo lệnh của Đức Giêsu, các Tông Đổ đã đem ngọn lửa ấy đến các dân, loan báo cho mọi người, không trừ một ai, để tất cả được nghe biết về Tin Mừng cứu độ.
Và rồi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, ngọn lửa ấy được chuyền tay, lan đến khắp mọi nơi. Đã có biết bao con người đem cả cuộc đời của mình, đem chính mạng sống của mình để bảo vệ ngọn lửa, để công bố cho thế giới về tình thương của Thiên Chúa.
... đến các Kitô hữu
Ngọn lửa ấy hôm nay được chuyển đến các Kitô hữu, được thắp lên trong tâm hổn họ. Khi lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, mỗi người đã được trao cho một cây nến sáng, với lời nhắn nhủ hãy giữ cho ngọn lửa cháy mãi. Người Kitô hữu sẽ mang ngọn lửa ấy và đốt lên trong vận hội trần gian. Nơi đâu họ có mặt, nơi ấy là vận động trường, và ở đó cần có lửa. Với những hoàn cảnh sống khác nhau, về cả nơi chốn và điều kiện, người Kitô hữu có nhiều cơ hội để mang ngọn lửa Tin Mừng thắp sáng mọi ngõ ngách cuộc đời.
Nhưng ngọn lửa ấy là gì?
Mọi người hẳn biết ngọn lửa ấy chính là Đức Tin, hay nói khác đi, chính là tinh thần Kitô giáo, là Tin Mừng, là sứ điệp cứu độ.
Mỗi người đều biết công dụng của lửa. Ở Đà Lạt, vào những ngày mùa lạnh, ngoài chức năng soi sáng, lửa còn dùng để sưởi ấm, tức là để xua tan khí lạnh, để chống lại giá rét. Đúng thế, người ta có thể hình dung ra câu chuyện Đức Giêsu ở trong Đền Thờ: Người cầm roi xua đuổi hết những người buôn bán, và trả lại sự trang nghiêm thánh thiện cho nơi thờ phượng. Ngọn lửa của Đức Giêsu vừa có tính cách huỷ diệt, vừa có chức năng soi sáng và đốt nóng. Do đó, người Kitô hữu đem ngọn lửa nhận từ Đức Giêsu để phá tan những u tối, những ngờ vực và soi sáng con đường để bước tới. Người Kitô hữu đem ngọn lửa để đốt cháy những gì không phù hợp với Nước Thiên Chúa, và làm cho ngọn lửa bừng lên ở khắp mọi nơi.
Cũng phải nói thêm rằng, ngọn lửa ấy chính là Đức Giêsu. Người được Chúa Cha sai đến trần gian để nhân loại được sưởi ấm nhờ tình thương của Thiên Chúa. Người đến để soi sáng đêm tăm tối trần gian và làm cho con người chìm sâu trong ngọn lửa vĩnh cửu, để rổi chính họ sẽ trở thành lửa cho người khác. Và Đức Giêsu cũng đã đem cả cuộc đời của Người để làm cho ngọn lửa ấy không bị dập tắt, nhưng được bùng lên mãnh liệt. Để thi hành sứ mạng này, Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết, đã chịu đổ máu mình. Người Kitô hữu cầm ngọn lửa là Đức Giêsu cũng sẽ phải sống như vậy, họ sẽ phải biến cuộc đời của mình thành một ngọn lửa. Họ sẽ phải đem theo ngọn lửa đó cho đến đích, không để cho ngọn lửa bị tàn lụi, nhưng luôn cháy sáng, như Đức Kitô đã làm.
Trở lại hình ảnh của cuộc rước đuốc Olympic: các vận động viên rước đuốc là những người được tuyển chọn, những người nổi tiếng, không phải bất cứ ai cũng được vinh dự đó. Người Kitô hữu có cảm thấy hãnh diện khi mình là vận động viên của Đức Giêsu đem ngọn lửa đi rước khắp cuộc đời? Và, như vận động viên phải giương cao ngọn đuốc, người Kitô hữu cũng phải kiên trì và dũng cảm bày tỏ đức tin của mình. Họ không được đem giấu ngọn lửa, cũng không làm lửa tắt, nhưng hiên ngang sống niềm tin, dù có những trở ngại, khó khăn.
Liệu chúng ta có dám nhận mình là vận động viên của Đức Giêsu? Dám chứ, vì tất cả đều đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy.
Bình an từ cuộc chiến đấu
Trong suốt thời kỳ rao giảng công khai, Đức Giêsu vẫn không ngừng bày tỏ sứ mệnh của Người là quy tụ, là đưa những con chiên lạc về đàn, những người đang tản mác về một mối. Ai cũng hiểu như thế. Vậy mà, trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu lại quả quyết: "Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế đâu, nhưng là đem sự chia rẽ" (Lc 12,51). Tại sao Đức Giêsu lại nói đến chia rẽ? Phải chăng Người tự mâu thuẫn?
Để trả lời điều này, chúng ta phải vượt qua cái nhìn quá "tầm thường" về Đức Giêsu. Bình an, tình yêu ... Đúng, nhưng trước đó là phải đương đầu với những khó khăn, phải chiến đấu, và phải liều mạng nữa. Bình an không phải là được yên thân, tránh được những trở ngại, nhưng là chiến thắng, là vượt ra khỏi, là dám sống những giá trị lớn lao. Bởi vì nếu như thế, bình an, Nước Trời là thứ dễ dàng quá, chỉ cần ngổi không cũng có được. Chỉ sau khi vượt qua cái chết Đức Giêsu mới thực sự chúc bình an cho các môn đệ. Và đó là bình an, là tình yêu của con người đã đi qua những đau khổ lớn lao nhất, kể cả cái chết. Đã có lần Đức Giêsu cho biết rằng, chỉ những người nào mạnh mới được vào Nước Trời, và như thế phải bước qua cửa hẹp.
Bình an Đức Giêsu trao tặng không giống bình an của trần gian. Muốn được hưởng bình an ấy, chúng ta phải đi theo Đức Giêsu, trên chính con đường Người đã đi, đó là dám phiêu lưu, dám liều mạng. Người đi theo Đức Giêsu là người phải chọn lựa, phải đấu tranh, ngay cả với những người thân quen nhất. Người đi theo Đức Giêsu phải dám hy sinh tất cả, từ bỏ tất cả, để chỉ chọn lựa một mình Người. Người đi theo Đức Giêsu là kẻ bước trên con đường chênh vênh, đầy khó khăn, nhưng vẫn tràn đầy niềm vui và hy vọng vì biết rằng mình không bị vấp ngã. Đức Giêsu vẫn đi bên cạnh và như vậy họ được bình an.
Do đó, sự quy tụ mà Đức Giêsu mong muốn không phải là một thứ hoà hợp nhạt nhẽo, vô vị, nhưng là một sự chọn lựa tích cực, một sự nôỵ lực với tất cả khả năng của mình.
Cuộc đời người Kitô hữu là một cuộc chiến đấu. Chiến đấu để bảo vệ ngọn lửa giữa những bão táp. Chiến đấu để đem ngọn lửa thắp sáng lên trong mọi ngõ ngách, mọi bí ẩn của tâm hổn. Chiến đấu để đưa ngọn lửa về tới đích. Chiến đấu để đạt được bình an, thứ bình an đích thực, bởi vì Đức Giêsu đã giao hoà thế gian với Thiên Chúa khi chịu đóng đinh trên thập giá.
Ôi Thiên Chúa, đối với chúng con, sự thúc giục của Chân Lý thật mãnh liệt, thế nhưng, ai đã đón lấy sự thúc giục ấy thì được biến đổi, trở nên rất giản dị.
Khi nhìn thấy Thiên Chúa, họ cùng với Thiên Chúa nhìn xem thế giới vô ơn và tàn bạo này, và đón nhận vào trong tâm hổn mình cuộc Thương Khó vĩnh cửu.
Thiên Chúa không có tiếng nói họ là tiếng nói thay thế Người.
Thiên Chúa không có xác thân, họ hiến dâng thân mình để chịu khổ thay Người, và để hoàn tất những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô.
Họ đơn giản như ngọn lửa, như tiếng kêu, đơn giản như lưỡi dao sắc bén phân rẽ xác thịt với thần trí.
(theo P. Claudel.)
Sưu tầm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét