Thứ Tư, 1 tháng 6, 2016

TA ON MUA HOA TAI TANG LOONG VA LE THANH TAM CHUA



GX. LAI CHAU  DON CHA XU MOI
ROMA KIEU THANH THE

TANG LOONG DANG HOA


BAC CUONG




TANG LOONG


BON TRAM EM DANG HOA






LỄ THÁNH TÂM CHÚA GIÊSU – C NGÀY THẾ GIỚI XIN ƠN THÁNH HOÁ CÁC LINH MỤC
CHUA NHAT X  TN NAM C

Lời Chúa: Ed 34, 11-16; Rm 5,5b-11; Lc 15,3-7

1. SỐNG LỜI CHÚA - LÒNG CHÚA NHÂN TỪ
2. NTGT/341- MỤC TỬ
3. SCĐ/414- TRÁI TIM
4. Suy Niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU
5. TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI MỤC TỬ

TIN MỪNG LỄ THÁNH TÂM: Lc 15, 3 – 7
Khi ấy, Đức Giê-su mới kể cho họ dụ ngôn này: "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó". Vậy, tôi nói cho các ông hay: trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn".

1. SỐNG LỜI CHÚA - LÒNG CHÚA NHÂN TỪ
Qua Phúc âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu đã giảng dạy cho mọi người và nhất là Ngài đã niềm nở tiếp đón những kẻ thu thuế và tội lỗi, ghé thăm và dùng bữa tại nhà họ. Đó là điều khiến cho bọn biệt phái và luật sĩ, vốn tự hào là những người đạo đức và trung thành tuân giữ lề luật, không thể nào chịu đựng nổi. Họ đã thì thầm bàn tán cùng nhau : - Nếu ông ta là một vị tiên tri, hẳn phải biết những kẻ ấy là hạng người nào. Hay ông ta chỉ là một kẻ mị dân, một tên quyến rũ, một phường vô lại mà thôi.
Để dạy cho những kẻ đạo đức giả, như bọn biệt phái và luật sĩ, một bài học về lòng Chúa xót thương, Ngài đã kể cho họ nghe mẩu chuyện về người mục tử nhân lành, lang thang đi tìm con chiên lạc. Và khi đã thấy được, người ấy đã vác nó trên vài mà mang về nhà, rồi loan báo tin vui cho bè bạn.
Hay mẩu chuyện người đàn bà đốt đèn tìm kiến đồng bạc đánh rơi. Và khi tìm thấy, người ấy đã mời chị em lối xóm đến để chia vui với mình.
Và nhất là với hình ảnh người cha già mòn mỏi trông chờ đứa con hoang đàng trở về, để rồi sẽ tha thứ tức khắc và tha thứ tất cả cho cậu.
Từ những mẩu chuyện trên, Chúa Giêsu đã đi tới một kết luận. Và chính kết luận này đã làm cho chúng ta cảm thấy được an ủi, khích lệ và thấm thía :
- Ta nói thật với các ngươi : các thiên thần ở trên trời sẽ vui mừng hân hoan vì một kẻ tội lỗi sám hối hơn là chín mươi chín người công chính không cần ăn năn.
Những hình ảnh và những so sánh này đã in đậm dấu ấn trong tâm hồn, giúp chúng ta hiểu được niềm vui khi một kẻ tội lỗi chổi dậy, từ bỏ con đường tăm tối mà trỡ về cùng Chúa, đồng thời thắp lên trong chúng ta ngọn lửa hy vọng, giúp chúng ta hiều được lòng Chúa xót thương đối với những kẻ lầm đường lạc lối.
Đức Kitô không phải chỉ giảng dạy, mà hơn thế nữa Ngài còn thực hiện những gì mình đã giảng và đã dạy. Nơi Ngài, ngôn hành hợp nhất, lời nói luôn đi đôi với việc làm.
Thực vậy, Ngài đã cải tạo trái tim của Madalêna, người thiếu phụ tội lỗi. Ngài đã tha thứ và để cho người đàn bà ngoại tình được ra về bình an. Ngài đã làm cho người thiếu phụ Samaria xúc động trước tấm lòng khoan dung. Ngài đã đổi đời cho ông Giakêu, một nhân viên thu thuế, vốn bị người Do Thái đồng hóa với phường tội lỗi. Ngài đã hứa thiên đàng cho tên trộm lành trên thập giá : ngày hôm nay, ngươi sẽ ở nơi vui vẻ cùng Ta. Ngài đã đặt Phêrô làm đầu Giáo hội, dù ông đã chối Ngài ba lần. Nỗi khổ đau của con người thì cùng cực, những tình thương của Chúa lại vô biên.
Trải qua dòng thời gian, biết bao nhiêu người đã đi theo dấu chân của Chúa, không ngừng tím kiếm những con chiên lạc, cũng như tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Chẳng hạn cha thánh Vianney đã chấp nhận mọi mệt mỏi, ngồi vào tòa giải tội nhiều giờ mỗi ngày để xoa dịu những tâm hồn tan nát vì tội lỗi. Thánh nhân thường nói :
- Thật là vui mừng nếu như có được những con cá lớn trong mẻ lưới của tôi. Những con cá lớn mà Ngài ám chí, đó chính là những kẻ tội lỗi.. Chẳng hạn cha Chevrier đã nói : - Linh mục là người bị ăn.
Và rồi cha đã vui vẻ tiếp nhận những thanh thiếu niên lầm lỡ, đã bị xã hội ruồng bỏ, dẫn họ bước vào một cuộc sống tốt lành và đạo đức.
Gần chúng ta hơn, có những dòng tu, như Dòng Chúa chiên lành ở Vĩnh Long, đã mở rộng cánh cửa tiếp đón và nâng đỡ những chị em đĩ điếm, giúp họ làm lại cuộc đời. Hay như dòng Don Bosco, chuyên môn giáo dục thanh thiếu niên, nhất là những trẻ em bụi đời, để họ tìm thấy hướng đi cho cuộc sống của mình. Phải chăng đó là những phản ảnh, những tiếng vọng cho tình Chúa xót thương ? Tuy nhiên, chúng ta cần phải tránh đi hai thái độ. Thái độ thứ nhất đó là cậy trông mù quáng. Những người này chủ trương cứ việc hưởng thụ, cứ việc vui chơi và chỉ cần ăn năn vào một vài giây phút cuối cùng và rồi Chúa sẽ mở rộng cửa thiên đàng đón nhận. Lý luận như thế là một sự xúc phạm, một sự chế nhạo và coi thường lòng thương xót của Chúa. Đây không phải là con đường dẫn tới thiên đàng, mà là con đường dẫn tới hỏa ngục, bởi vì Chúa là Đấng tốt lành và nhân hậu, nhưng đồng thời còn là Đấng công bằng và ngay thẳng vô cùng.
Thái độ thứ hai đó là mất lòng cậy trông. Dù có sai lỗi và vấp phạm, thì cũng đừng bao giờ tuyệt vọng như Giuđa, bởi vì Chúa nhân từ luôn mở rộng vòng tay chờ đón. Ngài đã lên đường tìm kiếm chúng ta, những con chiên lạc. Ngài đứng ngoài cửa và gõ. Còn mở hay không, thì đó là việc của mỗi người chúng ta.
Hãy trỗi dậy và trở về để được hưởng nhờ lòng thương xót và ơn tha thứ của Chúa.

2. NTGT/341- MỤC TỬ
Mừng lễ Thánh Tâm hôm nay, Giáo Hội muốn con cái mình chiêm ngắm, suy niệm về tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta, và để theo chân Đức Kitô, ta cũng dám sống, và nếu cần, dám chết vì tình yêu đó.
Lòng Chúa yêu thương loài người Hình ảnh mà Êzêchiel và nhiều ngôn sứ khác đã phác họa là hình ảnh một mục tử lặn lội đi tìm chiên không quản ngại đường xa vạn dặm, khó khăn khôn lường. Chính Đức Giêsu cũng đã nhiều lần khẳng định lại chân lý ấy : Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi có chúng ta, và đã cứu độ chúng ta trước khi chúng ta trở về, nghĩa là khi chúng ta còn ở trong sự tội và bất tín. Thái độ lên đường tìm kiếm con chiên lạc của dụ ngôn hôm nay là một minh họa sống động cho chân lý ấy. Quả thật, Thiên Chúa yêu thương chúng ta không phải vì chúng ta tốt, hay vì một công trạng nào. Ngài không đòi hỏi chúng ta phải tốt Ngài mới yêu thương, mà Ngài yêu thương ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Ngài yêu thương chúng ta chỉ vì Ngài là tình yêu, chỉ vì Ngài tốt lành. Quả thật, tình yêu của Ngài là tình yêu vô điều kiện và hoàn toàn vô vị lợi, hoàn toàn nhằm hạnh phúc của người được yêu. Chỉ một mình Thiên Chúa có được thứ tình yêu cao cả như vậy. Tác giả sách "Đường hy vọng" đã có lý khi viết : "Tình yêu nhân loại giới hạn một nhóm người – Tình yêu nhân loại đáp trả sau – Tình yêu Thiên Chúa tình nguyện bước trước ; Tình yêu nhân loại kéo riêng về mình – Tình yêu Thiên Chúa hợp nhất muôn người ; Tình yêu nhân loại chỉ động đến con người – Tình yêu Thiên Chúa làm biến đổi và cải hóa con người".
Trải qua 2000 năm của biến cố Nhập Thể, Chúa Giêsu đã cho con người thấy được mức độ của cuộc so sánh tình yêu thương đó chính là không cột mốc biên cương, không kỳ thị chủng tộc màu da, ngôn ngữ hay giai cấp. Tình yêu ấy là tình yêu của Thiên Chúa tự nguyện tặng ban cho nhân loại chính Con Một của mình, tình yêu của con Thiên Chúa hiến thân, Tình yêu là cho loài người trở thành con Thiên Chúa và làm anh em của Đấng cứu Thế. Tình yêu đó chính là nguồn gốc của sự sống và mục đích duy nhất mà con người phải nhắm đạt tới.
Quả thật, thái độ của Người là thái độ của một mục tử tốt. Người làm y như một mục tử chứ không ví mình như mục tử. Người muốn trong dân người chỉ có yêu thương : yêu thương của Người dành cho dân và cho từng người ; và yêu thương của mọi người dành cho nhau. Đó là ý nguyện của Chúa, là chương trình cứu độ của Người. Chúa đã thực hiện lòng yêu thương đó thế nào, chúng ta hãy nhìn nơi Đức Kitô, Đấng Người đã sai đến.
Tình thương biểu lộ nơi lòng Đức Kitô Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã ví Ngài như người Mục Tử Nhân Lành, đã bỏ 99 con chiên ở lại để đi tìm một con chiên lạc. Và khi đã tìm thấy thì quên hết những nỗi vất vả cực nhọc do con chiên lạc gây ra cho mình, không trách mắng cũng không đánh đập, không cho là con chiên lạc lầm lỗi, trái lại đã vui vẻ vác chiên lên vai đưa về tận nhà. Về tới nhà, người ấy còn mời mọi người cùng chia sẻ niềm vui với ông nữa.
Hình ảnh người Mục tử Nhân Lành đã diễn tả tình yêu thương sống động và cụ thể của Chúa Giêsu. Tình yêu thương ấy có khi khó hiểu và khó chấp nhận đối với chúng ta cũng như với nhóm Biệt Phái ngày xưa. Bởi vì chúng ta thường ích kỷ, hẹp hòi, bủn xỉn... chính những người Biệt Phái xưa cũng đã từng phiền trách khi thấy Chúa Giêsu đón tiếp và cũng ăn uống với những người tội lỗi vì yêu thương họ? Quả thật, Ngài đã khẳng định một cách không thể hiểu khác hơn được : "Chỉ có bệnh nhân mới cần thầy thuốc" mà ở đây Chúa là thầy Thuốc, là Lương Y Từ Mẫu...mà các bệnh nhân đang mong đợi. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã xác định mục tiêu Ngài theo đuổi trong cuộc sống : "Con Người đến để tìm và cứu những gì đã hư mất". Ngài không đến để xét xử luận phạt, nhưng là để cứu độ, để "cho họ được sống và sống dồi dào.
Trong dụ ngôn "người cha nhân hậu", thái độ của người anh cả cũng hẹp hòi, bủn xỉn trước tình thương của người cha nhân lành. Anh ta không chấp nhận cho cha yêu thương đứa em đã có một quá khứ xấu xa, tội lỗi... không chấp nhận cho nó làm lại cuộc đời. Thái độ đó không phù hợp với Tin Mừng, với Trái Tim Chúa Giêsu, người Mục Tử Nhân Lành. Từ chỗ không hiểu tình thương của Chúa đối với người khác, chúng ta cũng có thể không hiểu tình thương của Chúa đối với chính mình. Đó quả là một điều tai hại ! không hiểu thì không biết cám ơn và không biết đáp trả tình yêu của Chúa.
Tình yêu đáp trả tình yêu Chỉ một mình Thiên Chúa của Kitô giáo có được thứ tình yêu cao cả như vậy. Chính vì thế mà đạo Công giáo được mệnh danh là Đạo Tình Yêu thương trong cuộc sống, thì người đó đánh mất chân tính của mình. Vì chưng, Chúa Giêsu đã không chỉ bộc lộ tình Thương nhân hậu của Cha, mà Ngài còn mời gọi chúng ta : " Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh em là Đấng thương xót", và còn đưa ra cho chúng ta một quy luật sống cụ thể : "Anh em phải yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ oán ghét mình phải chúc lành cho kẻ nguyền rủa mình và cầu nguyện cho kẻ nhục mạ mình". Trong cuộc sống, theo tâm lý chung thường chúng ta hay tự đặt mình vào tư thế quan tòa để xét xử, kết án người khác. Tục ngữ đã có câu
Chân mình những lấm bết bê, Lại cầm bó đuốc mà rê chân người.
Quả thật, nếu chúng ta tự cho mình là công chính, từ đó tách biệt mình khỏi đám người tội lỗi, là vô tình chúng ta đã tự loại mình ra khỏi tình yêu thương của Thiên Chúa. Chúa Kitô đã yêu thương chúng ta với tất cả con tim cuả một Thiên Chúa làm người. Ngài luôn cảm thông tha thứ mọi yếu hèn cuả con người. Ngài đồng bàn với người tội lỗi, thể hiện tình bạn với họ. Nhưng chỉ có một thái độ Ngài không thể dung tha, đó là thái độ của những người tự cho mình là thánh thiện để rồi tẩy chay và kết án người khác. Chúa Giêsu không chấp nhận thái độ như thế, vì đó là tước quyền Thiên Chúa : "chỉ có một mình Ngài mới có quyền xét xử". Vì thế, chúng ta cần khiêm tốn và tin tưởng đến với Ngài, hãy lắng nghe lời Ngài. Đừng bao giờ tìm cách che đậy tội lỗi để tỏ ra khỏi cần đến Ngài, đó là tự lừa dối mình một cách nguy hiểm. Hơn nữa, chúng ta hãy sẵn sàng cộng tác với Chúa cách tìm đến với những người đã trót lầm lỗi, những người đang lạc đường , đang bơ vơ không có định hướng... để giúp đỡ họ , khích lệ họ, nói với họ một lời an ủi, dâng tăng họ một nụ cười tin yêu, đem đến cho họ niềm tin vào lòng thương xót của Chúa, giúp họ thực tâm hối cải. Giờ đây, tiếp tục bước vào cử hành phụng vụ Thánh Thể, là hiện tại hóa sự chết của Đức Kitô, là biểu hiện tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa đã dành cho chúng ta, chúng ta hãy nhờ Đức Kitô để ca tụng và cảm tạ Chúa Cha, cảm phục tin tưởng xin ơn tha thứ cho chính mình và toàn thể nhân loại, xin ơn sám hối cho các tội nhân. Amen.

3. SCĐ/414- TRÁI TIM
Trái tim, một công trình tạo dựng siêu bền. Rất nhỏ được đặt trong lồng ngực, nhưng hoạt động cách không thể ngờ : Mỗi người với 24 giờ, trái tim bơm và lọc được 20.000 lít máu. Thật bất ngờ khi biết được con số, điều bất ngờ không dừng ở đấy và tôi khám phá ra công việc bơm và lọc 20. 000 lít máu của trái tim, cho tôi 24 giờ sống tinh tuyền nhất mặc dù rất nhiều bất toàn trong tôi. Tôi nhớ đến Lời Chúa nói qua tiên tri Edêkien với toàn thể dân Do thái : "Ta sẽ ban cho các ngươi một trái tim mới. Bên trong các ngươi Ta sẽ ban xuống một thần khí mới". Lời ấy như một Lời tái tạo con người cũ thành con người mới. Như trái tim lọc những dòng máu dơ bẩn khi đi qua các ngõ ngách của cơ thể, để thay vào đó dòng máu tinh tuyền và mang sức sống nuôi dưỡng và làm phát triển toàn thân. Thiên Chúa đang từng giây phút thanh lọc tôi bằng Lời của Người qua dòng đời tôi đang sống. Lời đã sáng tạo và Lời hằng làm nên cái mới, Thiên Chúa đang làm nên những cái mới lưu chảy trong tim tôi. Từng phút giây, Người vẫn không ngừng đổ rót hồng ân Thánh thần đổi mới cuộc sống trong tôi. Kìa cái cũ đang qua đi và cái mới đang thành sự.
Như công việc của trái tim, tôi không thấy cụ thể những điều trái tim đang làm việc, nhưng tôi biết trái tim vẫn không ngừng rung nhịp đập với trung bình 70 lần một phút trong tôi. Theo từng nhịp đập của trái tim ấy, Thiên Chúa đang hoạt động trong tôi, bởi vì tôi biết rằng Người đã dựng nên tôi cho tôi sự sống và sự sống ấy không ngừng lưu chuyển, cho đến khi tôi được yên nghỉ trong Người. Nếu một ngày kia trái tim này ngừng đập và tôi đã trở thành người của thiên cổ, nhưng trong lòng yêu thương của Thiên Chúa tôi đang an nghỉ. Hôm nay, lúc này, xin tạ ơn Chúa trái tim vẫn còn nhịp đập. Và như vậy là đang sống và như vậy là đang lặn ngụp trong tình yêu của Thiên Chúa. Khám phá ra điều này, tôi nhận thức rằng, mỗi ngày tôi có cả ngàn lý do để tạ ơn Chúa. Sự sống nào không phải là hồng ân Chúa ban tặng để tạ ơn Người luôn mãi. Như chức năng lọc của trái tim, Thiên Chúa đang thanh luyện cuộc đời tôi bằng Thánh Thần của Người. Lọc những vị kỷ để còn vị tha, lọc hiềm thù để còn yêu thương, lọc những gì là ô uế để còn những gì tinh trong. Nếu trái tim không lọc rửa, dòng máu sẽ trở thành dòng sông đem và chết chóc. Nếu Thánh Thần không được ban xuống trong tôi, như trái tim không còn lọc tẩy, cuộc sống sẽ chết dần chết mòn trong ô uế và tội lỗi. Thánh thần đang đổi mới cuội đời tôi.
Như chức năng của máu là nuôi dưỡng những phần nhỏ nhất của cơ thể, Thiên Chúa Người đang tháp nhập toàn bộ cuộc sống này của tôi vào lòng yêu thương của Người bằng cách thẩm thấu. Nếu dòng máu bơm đi từ tim không tới được phần cơ thể nào, cơ thể ấy sẽ chết, và sớm cần được cắt rời khỏi thân thể. Thiên Chúa sống trong tôi và đó là điều tôi cảm nghiệm trong dòng máu lưu chuyển châu thân này, nên tôi biết trong thân thể mỏng giòn yếu đuối này, tôi cần được tham dự vào sự sống của người. Có một lần tại Huế, ghé thăm công viên điêu khắc, tôi chiêm ngưỡng một công trình mà tôi thấy là tuyệt. Trên một chu vi khoảng 2 mét chiều dài, 1 mét chiều rộng, như một tấm đan đặt trên ngôi mộ. Tác giả đăt những khối đá đứng như cõi hỗn mang, góc cạnh tấm đan một đôi giầy, giữa tấm đan là trái tim khắc nổi. Dưới chân khắc ghi 4 câu thơ :
"Hãy yêu như đang sống. Hãy sống như đang yêu. Yêu để sự sống tồn tại. Sống để tình yêu có mặt.
Hình tượng cho tôi dòng suy nghĩ : Tình yêu làm hỗn mang trở nên màu nhiệm sự sống. Và cũng chính tình yêu ấy làm cho sự sống trường tồn bất diệt khi vượt qua sự chết. Thiên Chúa đã cởi giầy để bước vào mầu nhiệm con người bằng thân thể, bằng hình hài, và mang trái tim bằng thịt. Cuộc sống trở nên kỳ diệu khi Thiên Chúa biểu lộ bằng trái tim của nhân loại. Thiên Chúa, Người yêu thương tôi bằng trái tim con người và bằng trái tim của Thiên Chúa. Sự chết không thể chôn kín được tình yêu, bởi sức mạnh của tình yêu là làm cho sống.
Một trái tim bằng thịt, không phải là bằng kim khí hoạt động như chiếc động cơ do con người chế tạo. Bằng thịt nên trái tim dễ bị tổn thương, và trái tim được đặt vào lồng ngực được những hàng rào xương sườn che chắn. Người biết tôi mỏng giòn và là bình sành dễ vỡ nên người yêu thương tôi, bao bọc tôi bằng ân sủng của Người. Và khiến đời tôi vẫn không ngừng tự hỏi : "Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm". Người yêu thương tôi nhưng sao Người lại đặt trái tim của Người bên ngoài lồng ngực của Người ?
4. Suy Niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU
Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là lễ kính toàn bộ kế hoạch cứu độ yêu thương của Chúa. Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa là tình yêu". Cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu diễn tả sâu xa nhất lời yêu thương của Ngài. Chết mới diễn tả tất cả, chết mới thốt nên lời. Lời của Chúa Giêsu trên thập tự: "Ta khát" là lời tình yêu.
MỘT CON NGƯỜI BỊ TREO LÊN, CỨU ĐỘ MỌI NGƯỜI: Hơn hai ngàn năm nay, nhân loại vẫn tôn thờ một con người có tên Giêsu, một con người bị bắt, bị kết án tử hình và bị đóng đinh vào thập giá. Con người đó đã bị nhiều người lên án, có người đã viết cả pho tiểu thuyết: "Thiên Chúa đã chết", họ tưởng Ngài chết là hết, là tiêu tan, là hết hy vọng, nhưng quả thực, Thiên Chúa vẫn còn đó, Ngài vẫn sống động, Ngài vẫn hiện diện giữa mọi người, giữa dòng thế giới. Chúa Giêsu, người đã bị treo lên cao trên thập giá, người chết vì yêu: "Không có tình yêu nào cao vời bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu" (Ga 15,13). Đã hơn hai ngàn năm nay, tại sao nhân loại, tại sao nhiều người lại vẫn tiếp tục tôn thờ một con người bị treo lên thập giá? Đây là điều rất diệu kỳ: "Chúa Giêsu là tình yêu đích thực". Nơi Ngài có một sự thu hút rất mãnh liệt, Ngài đã được hầu hết mọi người trên toàn thế giới mến phục, tôn thờ và yêu mến. Có tới chân thập giá, nhân loại mới hiểu tại sao thế giới tôn kính Chúa, yêu mến Chúa và tin tưởng Chúa: "Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta" (Ga 12, 32). Hình ảnh Chúa Giêsu trên núi Canvê: thân trần, mình trụi, hai tay, hai chân bị đóng đinh vào thập tự, đầu đội mão gai. Chúa đã chết, đã quên mình, đã hy sinh cho nhân loại, cho mọi người vì Ngài yêu thương, tình yêu của Ngài là tình yêu đích thật, tình yêu vô vị lợi, tình yêu vô biên. Trong Phúc âm đã thuật lại biết bao dụ ngôn, biết bao ví dụ nói lên tình yêu thương của Thiên Chúa đối với con người, đối với nhân loại: dụ ngôn "Người con hoang đàng", "Con chiên lạc", "Đồng bạc bị mất" vv...
Tất cả những dụ ngôn ấy nói lên lòng Chúa yêu thương nhân loại, nhất là đối với những người tội lỗi biết là chừng nào. Tình yêu của Chúa là tình yêu đi bước trước. Chúa yêu nhân loại chẳng phải nhân loại có giá trị, hay cũng chẳng phải con người có nhãn hiệu Kitô-giáo Chúa yêu thương và cứu độ nhân loại trước khi nhân loại còn ở trong tội và bất tín, bất trung. Chúa chết vì yêu nhân loại, Chúa cũng mời gọi nhân loại sống tình yêu như Ngài: "Anh em hãy có lòng nhân từ như Cha anh em là Đấng từ nhân" (Lc 6, 36). Đó là mầu nhiệm của tình yêu. Đây cũng là mầu nhiệm của đức tin.
HÃY SỐNG YÊU THƯƠNG NHƯ CHÚA: Trong cuộc sống đời thường có biết bao trường hợp thương tâm xẩy ra: hận thù, chém giết, chiến tranh, lừa đảo vv... Sở dĩ những chuyện đó xẩy ra vì "con người thiếu yêu thương". Chúa mời gọi con người sống yêu thương, quên mình, hy sinh vì người khác miễn người khác có được hạnh phúc. Thánh Phaolô viết: "Chúa Giêsu đã yêu chúng ta, nên đã phó mình vì chúng ta" (Eph 5, 2). Sống như Chúa, có trái tim của Chúa, con người sẽ ở trong tình yêu thật của Ngài. Người ta kể : "Vào một ngày nào đó, chú bé Adam Lester nay mới hai tháng tuổi (6/1984), sẽ biết rằng mẹ chú yêu chú biết chừng nào và đã hy sinh cả cuộc đời mình cho chú. Sau khi được các bác sĩ cho biết các loại thuốc trị bệnh ung thư sẽ để lại di chứng trên đứa trẻ đang nằm trong bụng, chị Hazel đã từ chối không dùng thuốc. Sau khi bé Adam ra đời được bảy tuần lễ, chị đã trút hơi thở cuối cùng tại Conventry nước Anh". Đây là câu chuyện trong muôn vàn câu chuyện ở trần gian nói lên tình thương thật của người mẹ, tình thương hy sinh đến quên mạng sống vì người mình yêu. Cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá chính là thước đo tình thương của Chúa đối với nhân loại. Đây là thực tế của một con người có tên Giêsu, Ngài không chỉ nói suông, nhưng đã thực hiện đúng lời Ngài đã nói: "...hy sinh mạng sống vì người mình yêu". Mừng lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu là tôn kính Chúa, tôn vinh tình yêu của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn và có thể cùng với thánh Gioan thánh sử, nhân loại hãy hô to: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế đó!".
Mừng kính Trái tim Chúa Giêsu, xin cho các linh mục được có con tim nhạy cảm, tấm lòng yêu thương như Chúa để các Ngài luôn trung tín, sẵn sàng hy sinh cho tình yêu, cho đàn chiên. LỜI CẦU: "Thánh Tâm Chúa Giêsu, nguồn êm ái dịu dàng, xin hãy ban xuống lòng con tràn lửa say yêu một Chúa... Xin thương những người đã trót vô tình xúc phạm đến Thánh Tâm Cha". 5. Suy Niệm của Lm. GB. Nguyễn minh Hùng Chọn lựa cho một tình yêu
Nhân Lễ Thánh Tâm, suy nghĩ về đời sống thánh hiến
Tháng Sáu, tháng của những lễ phong chức, lễ khấn dòng, cũng là tháng của những lễ kỷ niệm ngày chịu chức, ngày khấn dòng... Có thể nói tháng Sáu là mùa ơn gọi.
Tháng Sáu cũng là tháng tôn vinh Tình Yêu Thiên Chúa, được cụ thể nơi Thánh Tâm Chúa Kitô. Ngày lễ Thánh Tâm Chúa Kitô cũng nằm trong tháng Sáu, lại là ngày thế giới xin ơn thánh hóa các linh mục.
Bởi thế, tháng Sáu nói chung và lễ Thánh Tâm nói riêng là thời điểm thích hợp để tất cả những ai sống ơn gọi tu trì có dịp nhìn lại chính mình, nhìn lại ơn gọi mà mình đã sống, từ đó tự nhắc nhở cho chính bản thân ta về một chọn lựa mà mình đã dấn bước: CHỌN LỰA CHO MỘT TÌNH YÊU. Nhưng tình yêu ấy không do bản thân ta, hay bất cứ một người nào mà có, nhưng đó chính là TÌNH TRỜI.
Vì thế tôi muốn cùng bạn chia sẻ những suy nghĩ về chính ơn gọi và sự chọn lựa của mình.
Bạn có biết: Cuộc sống là kết thành của những chọn lựa. Có những chọn lựa quyết định cho cả một đời, và một đời phải sống cho chọn lựa ấy. Có những chọn lựa có thể thay đổi nhưng cũng có những chọn lựa không bao giờ thay đổi. Chọn lựa luôn là điều cần thiết cho đời người. Bởi thái độ sống của mỗi người tùy thuộc và ảnh hưởng rất nhiều từ những chọn lựa mà mình đã quyết định.
I. CHỌN LỰA:
1. Chọn lựa cần chiến đấu: Kẻ thù trước tiên của cuộc chiến không phải là người nọ, thế lực kia mà là cái "tôi" xấu trong chính bản thân. Bởi thế chiến đấu để tự lách mình khỏi những mối nguy cản bước ta tiến đến sự hoàn hảo, thì ngay trong sự tự chiến đấu ấy đã là chọn lựa: chọn lựa đứng về phía thiện, tách mình khỏi những sai lạc. Chọn lựa không cho phép ta ở hai tình trạng, nhưng chỉ là một, hoặc là tốt hoặc là xấu. Chọn lựa không có chỗ cho sự trung dung: "Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi: nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng, chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miện Ta"1.
Chọn lựa luôn là chọn lựa một điều gì đó, không thể có chọn lựa suông. Trong chọn lựa bao giờ cũng có lý tưởng để theo đuổi. Chọn lựa là đón nhận nhưng cũng là hy sinh. Đón nhận điều mình chọn lựa và hy sinh để sự chọn lựa thành toàn. Chọn lựa bao gồm một hướng ngắm để đến, một hy vọng củng cố lý tưởng, một niềm tin nuôi hy vọng. Và khi đã chọn lựa, không có nghĩa là ngưng chiến đấu. Càng chọn lựa, nghĩa là càng đi trên con đường mà mình đã quyết định, càng phải chiến đấu: Chiến đấu để bảo vệ điều đã chọn lựa. Chọn lựa thì dứt khoát, nhưng chiến đấu thì lâu dài, bền bỉ, vì không phải chiến đấu một lần là đủ. Ngày nào ta bằng lòng với tình trạng hiện có mà không chiến đấu để vươn lên, ngày ấy báo hiệu chọn lựa ban đầu của ta đang bị chính ta đánh mất. Nếu chọn lựa cho một thái độ sống lâu dài thì chiến đấu liên lỉ không bao giờ thừa. Càng chiến đấu bảo vệ cái thiện, chống lại cái xấu, chọn lựa càng vững chắc.
Mãi mãi chọn lựa cần chiến đấu. Kẻ thù trước tiên của cuộc chiến có khi chính là sự dữ ngự trị trong ta.
2. Tự do chọn lựa: Chọn lựa đòi tự do. Không những tự do cần ngay khi chọn lựa, mà khi chọn lựa rồi cũng cần có tự do để sống điều chọn lựa. Chọn lựa không tự do, không phải chọn lựa mà là áp đặt, là thế lực. Cần đập vỡ áp đặt, thế lực để lý trí, ý chí và cả tình yêu có được sự chọn lựa đúng mức. Áp đặt hay thế lực ở đây là những hào nhoáng, là danh, là lợi, là sự thúc ép của kẻ khác... khiến đương sự nhầm lẫn, cuối cùng chọn lựa sai. Cần có tự do để dấn thân cho điều đã chọn lựa. Nếu chọn lựa không có tự do, người ta không thể dấn thân cho điều đã chọn lựa. Và chỉ có yêu thực sự một điều gì mới có thể dấn thân cho điều đó cách trọn vẹn. Một người xả thân giúp đỡ người khác, việc làm đó mang lại cho anh ta hạnh phúc, ngược lại một người làm điều gì vì bị cưỡng bức, anh ta sẽ không cảm nhận sự bình an.
3. Thiên Chúa làm người, một chọn lựa:
Chúa Kitô đã quyết định trở thành "Emmanuel- Thiên Chúa ở cùng chúng ta". "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" 1. Chọn lựa của Ngài là "trở nên người phàm". Chọn lựa này mãi mãi không thay đổi. Đó cũng là chọn lựa tuân hành Thánh Ý Thiên Chúa. Ngài đã sống một cuộc đời cho điều đã chọn lựa, và dấn thân trọn vẹn cho chọn lựa ấy: Chúa Kitô đã "nên giống anh em mình về mọi phương diện"2. Hay "Đức Giêsu Kitô vốn vĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự"1. Chúa Kitô "vâng lời cho đến chết", sự "vâng lời" của Ngài là hoàn toàn tự nguyện. Ngài quyết định "hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên"2. Quyết định này là sự lựa chọn tự do: "Không ai cất mạng sống Ta được nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta, Ta có quyền thí mạng sống Ta, và Ta cũng có quyền lấy lại, đó là lệnh truyền Ta đã lĩnh nơi Cha Ta"3. Một khi quyết định chết cho đàn chiên, Chúa Kitô đã mang lại sự sống dồi dào cho đàn chiên.
II. CHỌN LỰA SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN: 1. Một chọn lựa can đảm: Nếu chọn lựa sống đời Kitô hữu hoàn hảo đã phải chiến đấu nhiều với chính bản thân, thì chọn lựa sống đời Kitô hữu thánh hiến còn phải chiến đấu vất vả hơn. Vì chọn lựa ấy là chọn lựa "sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian". Nhưng họ vững tin rằng, Chúa Kitô ở bên họ. Ngài cầu xin Cha: "Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho thế gian, nhưng cho những kẻ Cha đã ban cho con, bởi vì họ thuộc về Cha... Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần... Lạy Cha Con muốn rằng Con ở đâu, thì những kẻ Cha ban cho Con, cũng ở đó với Con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang của Con, vinh quang mà Cha đã ban cho Con..."4.
2. Đời sống thánh hiến là sống những nét đặc trưng của đời sống Đức Kitô: Những người sống đời thánh hiến đi một bước cao hơn tiến gần đến đời sống của Chúa Kitô. "Họ diễn lại cách nào đó lối sống Đức Kitô đã chọn sống, và cho thấy lối sống ấy có một giá trị tuyệt đối và cánh chung"1. Một khi đáp lại lời mời gọi của Chúa Kitô, "Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Thầy"2, họ muốn như nhà thương gia kia, đi tìm ngọc quý, tìm được rồi bán tất cả để chỉ mua lấy một viên ngọc3. Viên ngọc NƯỚC TRỜI mà họ chọn lựa, buộc họ phải trung kiên cả một đời, chiến đấu cả một đời, hy sinh cả một đời, từ bỏ cả một đời. Chọn lựa vác thập giá theo Đức Giêsu, họ sẽ là người sống "các nét đặc trưng của đức Giêsu- khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục". "Các nét đặc trưng" ấy "trở thành hữu hình giữa lòng thế giới như một gương mẫu thường hằng"4. Vì trên thập giá, "Tình yêu khiết trinh của Nguời đối với Chúa Cha và đối với mọi người được diễn tả mạnh mẽ nhất; sự nghèo khó của Người sẽ đi đến chỗ lột bỏ hoàn toàn; sự vâng phục của Người sẽ đi đến hiến dâng mạng sống"5.
3. Chọn lựa giữa lòng cuộc sống và chọn lựa cho TÌNH YÊU: Là người, những người dấn thân trong đời sống thánh hiến lựa chọn hướng đi của mình ở giữa lòng cuộc sống như bao nhiêu lựa chọn của mọi người. Nhưng Tình Yêu mà họ dấn bước theo không là một mái gia đình riêng tư, không là hạnh phúc đến bởi sự thành công của những nỗ lực trong đời thường, không là những thú vui trụy lạc mà không ít người của thời nay ngụp lặn trong đó, và vẫn lầm tưởng đó là hạnh phúc, là tự do của họ...
Vì chọn lựa sống rập theo khuôn mẫu của đời sống Chúa Kitô, anh chị em bước vào đời thánh hiến cũng sẽ nên giống Chúa Kitô, để cùng với Người, họ hiện diện giữa lòng cuộc sống. Nói một cách cụ thể hơn: họ chọn cho mình một kiểu mẫu của Tình Yêu để sống trọn đời cho Tình Yêu ấy. Một thứ Tình cao cả mà Chúa Kitô đã chọn sống và yêu.
Bởi vậy, giống như Chúa Kitô, cũng ngay giữa lòng cuộc sống, họ thực thi sứ mạng mà Tình Yêu đòi hỏi họ. Và ngay giữa lòng cuộc sống ấy, Họ đi tìm và bắt gặp hình ảnh Thiên Chúa "đã bị bóp méo trên bộ mặt anh chị em mình, những bộ mặt hốc hác vì đói khổ, những bộ mặt chán chường vì những lời hứa chính trị, những bộ mặt uất hận của những ai bị người ta khinh dễ nền văn hóa của mình, những bộ mặt sợ hãi cảnh bạo lực mù quáng thường ngày, những bộ mặt của người trẻ, những bộ mặt tủi hổ của những phụ nữ bị xúc phạm và làm nhục, những bộ mặt mệt mỏi của đám di dân không được ai tiếp nhận, những bộ mặt u buồn của những người có tuổi không có những điều kiện để sống đàng hoàng..."1. Họ dấn thân phục vụ giữa lòng cuộc sống. Và như thế, họ tìm thấy niềm vui giữa lòng cuộc sống. Chính vì sống theo kiểu mẫu của Tình Yêu mà Chúa Kitô đã sống, những anh chị em chọn lựa sống đời thánh hiến là Chọn lựa cho một tình yêu: Tình Yêu mang tên GIÊSU KITÔ.
III. MỘT LỜI NGUYỆN: Lạy Chúa, diễm phúc và hạnh phúc của mọi người, xin đổ tràn hạnh phúc xuống con cái nam nữ của Chúa, mà Chúa đã chọn lựa để tuyên xưng Tình yêu cao cả, lòng nhân hậu xót thương và vẻ đẹp của Chúa. Chúng con hiểu rằng, dù chúng con có chọn lựa, có hy vọng, có tin tưởng, thì điều trước tiên vẫn là hồng ân, là Tình yêu của Chúa đối với chúng con. Tình yêu là lời ngỏ, là động lực đưa chúng con tới lý tưởng của mình. Lạy Chúa, trong lòng cuộc sống, có nhiều cách để chúng con chọn lựa, nhưng chúng con chọn lựa theo Chúa. Chúng con cầu xin cho chúng con luôn trung thành truyền lại Lời Chúa cho người khác, để Lời Chúa được thêm vững mạnh trong lòng mọi người. Xin làm cho chúng con trở nên xứng đáng phục vụ bàn thánh Chúa và Hội Thánh. Chúng con kính dâng Đức Nữ Trinh Vương Maria và cầu xin Người là mẹ của Chúa Kitô, mẹ của Linh Mục Thượng phẩm đời đời gìn giữ chúng con trong hạnh phúc của đời thánh hiến, để chúng con biết trung thành theo Chúa bằng cả cuộc đời của chúng con. Chúng con biết rằng, Chúa Kitô

5. TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI MỤC TỬ
Trong đời sống thường ngày, có lẽ không có gì gần gũi, thiết thân với chúng ta hơn là tình yêu. Người ta có thể ăn đói, mặc rách, có thể chịu nhiều nỗi khó khăn trong cuộc sống của thân xác, nhưng khó có thể có được bình an, và niềm vui nếu như không có tình yêu. Tình yêu là một cái gì gắn chặt với đời sống con người. Khuôn mặt của tình yêu cũng thật là phong phú: đó có thể là tình mẫu tử, tình huynh đệ, hay là tình yêu nam nữ... Nhưng cho dù dưới hình dáng nào đi chăng nữa, thì tình yêu vẫn luôn có một vẻ quyến rũ đặc biệt khiến cho chúng ta không thể rời xa nó.
Sở dĩ con người luôn gắn bó với tình yêu như thế, phải chăng bởi vì con người đã được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng là khởi nguồn của mọi tình yêu ? Hay nói như Thánh Gio-an: "Thiên Chúa là Tình yêu" ( 1 Ga 4, 8 ). Tình Yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta thật là vô bờ bến, vượt hơn cả tình thương của cha mẹ đối với con cái, như lời Ngài phán qua miệng Ngôn Sứ I-sai-a: "Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng, đẻ đau? Cho dù nó có quên đi chăng nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ... Ta đã khắc ghi ngươi trong lòng bàn tay Ta" ( Is 49, 15 – 16a ). Còn Thánh Phao-lô thì nói: "Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi", và thánh nhân kết luận: "Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta" ( Rm 5, 8 ). Nói đến tình yêu, chúng ta không thể không nhắc đến trái tim, một biểu tượng hữu hình của tình yêu. Và để bày tỏ lòng tri ân của mình đối với tình yêu bao la của Thiên Chúa, Giáo Hội đã dành riêng ngày hôm nay để mừng kính Thánh Tâm Chúa, Thánh Tâm đã bị đâm thâu vì yêu chúng ta ( x. Ga 19, 34 ). Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta thật bao la và sâu thẳm, không thể nào nói cho hết. Tuy nhiên, dựa vào lời Chúa hôm nay, chúng ta cũng phần nào hiểu được tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua hình ảnh người Mục Tử Nhân Lành trong Thánh Kinh.
1. TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI MỤC TỬ: Trở lại với bối cảnh của bài đọc một, chúng ta thấy rằng lúc bấy giờ dân Do Thái đang đứng trước nguy cơ của cảnh nước mất, nhà tan. Các vua chúa và cả hàng đầu mục trong dân đã đi vào con đường sa đoạ, chạy theo các tà thần. Họ không còn để ý gì đến việc chăm sóc cho đoàn dân mà họ được giao phó. Những người này chỉ nghĩ đến việc vơ vét, bóc lột cho thật nhiều mà không hề nghĩ đến đời sống cực khổ của dân chúng. Mặt khác, viễn ảnh ngoại xâm đang gần kề. Việc lưu đày, bị phân tán đi khắp nơi là điều không thể tránh khỏi. Toàn dân như đang sống trong cảnh tuyệt vọng. Họ chẳng còn biết bám víu vào đâu. Những chuyện kể xưa kia về việc Thiên Chúa ra tay hùng mạnh dẫn đưa họ từ Ai Cập trở về, dẹp tan các dân tộc cản lối đi của họ như đã bị chìm vào quên lãng.
Chính lúc đó, Ngôn Sứ Ê-giê-ki-en đã được Thiên Chúa sai đến loan báo về một thời đại mới. Trong thời đại mới này, chính Thiên Chúa sẽ là mục tử chăn dắt dân của Người. Người sẽ dẫn đưa những con chiên bị phân tán trở về. Người sẽ bảo vệ và giải thoát họ khỏi bàn tay áp bức của kẻ thù đang đè nặng trên họ. Ngài nói: "Này chính Ta săn sóc đoàn chiên của Ta và Ta sẽ kiểm soát chúng... Ta sẽ giải thoát chúng khỏi mọi nơi mà chúng đã bị phân tán. Ta sẽ dẫn chúng ra khỏi các dân tộc, Ta sẽ tụ họp chúng từ khắp măt đất, và đưa chúng vào đất của chúng".
Không chỉ là tụ họp dân lại, Thiên Chúa còn lo cho đoàn chiên của Ngài từng miếng ăn, thức uống, như lời Ngài phán: "Ta sẽ thả chúng ăn trên những đồng cỏ màu mỡ,... chúng sẽ nghỉ ngơi trong những đồng cỏ xanh tươi, và chúng ăn trong đồng cỏ màu mỡ trên miền núi Ít-ra-en". Cảm nghiệm được sự ân cần chăm nom của Thiên Chúa đối với cuộc sống mỗi ngày của mình, đặc biệt là giữa những lúc khó khăn nhất, Vua Đa-vít đã cất tiếng ngợi ca: "Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi, trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi, tâm hồn tôi Người lo bồi dưỡng..." Và rồi trong vòng tay yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa, Vua Đa-vít tin tưởng khẳng định: "Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng tôi... Chúa dọn ra cho tôi mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương".
2. MỤC TỬ GIÊ-SU: Người mục tử mà Ngôn Sứ Ê-giê-ki-en và Vua Đa-vít tiên báo không ai khác hơn là chính Đức Giê-su. Ngài chính là vị Mục Tử Nhân Hậu mà Thiên Chúa đã hứa ban cho dân. Không chỉ chăm sóc, bảo vệ, tình yêu của Đức Giê-su đối với chúng ta còn lên đến tột đỉnh khi Ngài hiến mạng sống mình cho chúng ta, như lời Thánh Phao-lô trong bài đọc thứ hai: "Thiên Chúa chứng tỏ tình yêu của Người đối với chúng ta, nghĩa là trong lúc chúng ta còn là tội nhân, thì theo kỳ hẹn, Chúa Ki-tô đã chết vì chúng ta". Đức Ki-tô đã chết cho chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân, nghĩa là Ngài đã hy sinh cho chúng ta ngay lúc chúng ta đang còn là thù địch với Ngài, đang còn chống đối Ngài. Nhưng vì yêu thương, Ngài vẫn sẵn sàng hiến mạng sống mình, để chúng ta được sống và được giao hoà với Thiên Chúa là nguồn của mọi tình yêu. Chính nhờ cái chết của Đức Giê-su, mỗi người chúng ta nhận lãnh được ơn cứu độ của Thiên Chúa. Kế đó, tình yêu của Mục Tử Giê-su đối với chúng ta không dừng lại ở việc chăm sóc, giữ gìn chúng ta. Tình yêu ấy đã thúc đẩy bước chân của Ngài lên đường ra đi tìm kiếm những con chiên đang sống trong lầm lạc của tội lỗi, như chúng ta vừa nghe trong bài Tin Mừng: "Ai trong các ông có 100 con chiên và nếu mất một con, lại không để 99 con khác trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy sao ?" Thiên Chúa không đặt dấu chấm hết cho một người nào. Cho dù chúng ta có tội lỗi, xấu xa đến đâu đi chăng nữa, thì Mục Tử Giê-su vẫn hằng mở rộng vòng tay chờ đợi chúng ta trở về. Và không chỉ là một sự chờ đợi, Thiên Chúa còn lên đường tìm kiếm, để dẫn đưa chúng ta trở về với Ngài.
Mừng Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su hôm nay, chúng ta vừa cùng nhau suy niệm một vài nét về tình yêu của Ngài dành cho chúng ta. Đây quả là một tình yêu tuyệt vời, chúng ta không thể lấy gì để đền đáp cho cân xứng. Tuy nhiên, tôi thiết nghĩ, chắc chắn Thiên Chúa cũng không cần chúng ta đền đáp, vì Ngài là Đấng toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài không còn thiếu điều gì. Do đó, đáp lại tình yêu của Đức Giê-su, tâm tình đầu tiên mỗi người chúng ta cần có là đến và ở lại trong tình yêu của Ngài. Và đó chính là điều làm cho Ngài vui mừng nhất. Ngài vui mừng vì một con chiên lạc giờ đây đã trở về và ở lại trong sự chăm sóc của Ngài. Chúng ta cũng có thể nhận ra điều này khi nhìn ngắm nét mặt rạng rỡ, hân hoan của người mẹ khi ôm ấp những đứa con trong vòng tay của mình. Trong vòng tay của mẹ, có thể đứa trẻ chẳng làm gì cho người mẹ, có khi em còn quấy rầy bà nữa, nhưng tự thâm tâm, người mẹ vẫn cảm thấy vui. Bà vui vì con bà đang ở với bà, đang tin tưởng và cậy trông nơi bà.
Cuối cùng, để đáp lại Tình Yêu của Thánh Tâm Chúa Giê-su dành cho chúng ta, mỗi người chúng ta cũng phải biết sống yêu thương nhau. Chúng ta hãy mở rộng lòng mình, để cho tình yêu của Đức Giê-su tuôn chảy qua chúng ta đến với anh chị em của mình. Nhờ đó, tất cả chúng ta sẽ hiệp nhất nên một đoàn chiên, có cùng một chủ chiên là Đức Giê-su.
Lm. TRẦN THANH SƠN,


CHÚA NHẬT 10 THƯỜNG NIÊN C
Lời Chúa: 1V 17, 17-24; Gl 1,11-19; Lc 7,11-17

MỤC LỤC
1. Nain
2. Thiên Chúa đã viếng thăm dân của Người
3. Sự thương xót của Chúa sự sống
4. Lòng tin nơi dân – R. Gutzwiller
5. Chúa thương dân khổ – Lm. ViKiNi
6. Sự sống hay nỗi chết – Thiên Phúc
7. Tình người của Thiên Chúa rất đáng khâm phục
8. Dấu chỉ thành Naim – André Sève
9. Ngài vẫn còn làm phép lạ – Mark Link
10. Suy niệm của Lm. Văn Quy & Lm. Trần Văn Khả
11. Gợi ý suy niệm của Lm. Carôlô
12. Chú giải của Noel Quesson
13. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin

1. Nain
Phúc Âm kể lại rằng: Chúa Giêsu thổn thức xót thương cho người mẹ đang than khóc trước cái chết của đứa con trai duy nhất. Và rồi Ngài đã làm phép lạ cho đứa con trai ấy được sống lại trước sự ngạc nhiên và thán phục của mọi người. Vậy thì đâu là ý nghĩa, đâu là bài học chúng ta tìm thấy được qua sự kiện vừa nghe?
Chàng trai được đem đi chôn là hình ảnh tượng trưng cho tất cả những ai đã chết đi cho đời sống ơn sủng, do những tội lỗi mình vấp phạm. Thánh Gioan Kim Khẩu đã diễn tả về họ như sau: Mặc dù không bị vùi sâu trong lòng đất lạnh, mặc dù không bị giòi bọ rút tỉa thân xác, nhưng tâm hồn họ thực sự đã chết và còn tệ hơn thế nữa là đàng khác, bởi vì tâm hồn họ đã bị những đam mê dục vọng sai quấy làm nhàu nát.
Còn người mẹ than khóc đứa con của mình là hình ảnh tượng trưng cho Giáo Hội. Đúng thế Giáo Hội luôn than khóc những đứa con bất hạnh của mình. Ngày cũng như đêm, Giáo Hội không ngừng cầu nguyện cho họ biết trỗi dậy trở về cùng Chúa, bởi vì Giáo Hội biết rằng con đường họ đang đi sẽ dẫn họ tới chốn diệt vong.
Hoàn cảnh khiến chàng thanh niên được cứu sống cũng chính là cách thức Chúa thường dùng để hoán cải các tội nhân. Chúa Giêsu đến gần người chết cũng như các tội nhân. Ngài có hàng ngàn cách thức để nói với họ, hầu thức tỉnh họ. Có thể đó là một bài giảng cảm động. Có thể đó là một trang sách vô tình họ đọc được. Có thể đó là một mẫu gương của một người đạo đức thánh thiện. Có thể đó là cái chết của một người thân yêu, hay một tai ương bất ngờ xảy đến, làm đảo ngược những dự tính của họ. Điều quan trọng là tâm hồn họ không chai lì để nhận ra tiếng nói của Chúa.
Phúc Âm còn kể tiếp: Bấy giờ Chúa Giêsu đụng tới quan tài và những người khiêng đứng lại. Các thánh giáo phụ thì nghĩ rằng những người khiêng là những đam mê dục vọng xấu xa, làm cho con tim trở nên mù loà và dẫn đưa chúng ta tới cái chết. Đó là những thói hư tật xấu làm cho chúng ta trở thành nô lệ cho ma quỷ. Để được giải thoát, chúng ta phải biết chạy đến cùng Chúa, vì chỉ mình Chúa mới có thể bẻ gẫy xiềng xích và phá tan gông cùm của tội lỗi. Ngài sẽ cứu giúp chúng ta vì Ngài không muốn kẻ tội lỗi phải chết nhưng muốn họ ăn năn và được sống. Chính Ngài sẽ đi bước trước đến các tội nhân. Chính ngài đã phán với chúng ta: Một người tội lỗi ăn năn hối cải sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.
Rồi Chúa Giêsu nói với người đã chết: Hỡi chàng trai, Ta truyền cho con hãy trỗi dậy. Lập tức chàng trai trỗi dậy và Chúa Giêsu trao chàng cho người mẹ. Chúa Giêsu cũng nói với người đã chết đi vì tội lỗi như vậy: Hỡi người ngủ mê hãy trỗi dậy. Hỡi kẻ còn ngồi trong bóng tối sự chết hãy chỗ dậy. Chúa Giêsu sẽ tha thứ và sẽ rửa sạch mọi dấu vết tội lỗi bằng máu thánh của Ngài. Hãy trỗi dậy. Đức Kitô sẽ chiếu sáng và mặc cho ngươi tấm áo cưới và đem lại cho ngươi niềm vui mừng đã mất. Thế nhưng là những kẻ tội lỗi chúng ta đã thực sự nghe thấy tiếng gọi của Chúa và đã trỗi dậy, lên đường trở về với Ngài hay chưa?

2. Thiên Chúa đã viếng thăm dân của Người
(Trích dẫn từ tập sách 'Giải Nghĩa Lời Chúa' của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Tiên tri Êlya đã làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Đức Giêsu Kitô cũng đã làm phục sinh người thanh niên con bà góa thành Naim. Nhưng hai câu chuyện, hai cách thức làm cho kẻ chết sống lại khác nhau làm sao!
Tuy nhiên phụng vụ Lời Chúa hôm nay không muốn so sánh Êlya với Đức Giêsu. Phụng vụ muốn giáo dục chúng ta về mặt đạo đức. Và bài học của phụng vụ nằm trong cả ba bài đọc. Không tất nhiên ba bài Kinh Thánh đều nói lên một ý; nhưng đọc kỹ chúng ta vẫn có thể nhận ra một chủ đề nào đó với nhiều ý tưởng phụ xoay quanh. Chủ đề ấy chúng ta sẽ dễ thấy nổi lên sau khi đọc lại các bài Kinh Thánh vừa nghe.
1) Tôi biết là Người Của Thiên Chúa
Bài sách Các Vua thuật lại một câu chuyện trong cuộc đời của tiên tri Êlya. Chúng ta chẳng có một sách tiểu sử đầy đủ nào về nhà tiên tri này. Sách Các Vua quyển I kể nhiều chuyện về ông. Nhưng đó là những "mẩu" chuyển rời rạc không dính vào nhau để làm thành một cuốn tiểu sử. Câu chuyện hôm nay chẳng hạn. Người ta thường gọi là chuyện Êlya làm cho con bà góa thành Sarepta sống lại. Nhưng như chúng ta vừa nghe, chẳng có chữ nào trong bài kể hôm nay nói rằng bà góa ấy ở thành Sarepta. Chỉ vì trước đó sách Các Vua kể rằng Êlya theo lệnh Chúa đi đến Sarepta và lưu lại ở đó. Ông đã gặp một bà góa đi mót củi. Ông xin bà cho bánh ăn và nước uống. Và bà ta có một đứa con. Tuy nhiên chẳng có gì chắc chắn khiến người ta có thể bảo bà góa con côi ấy cũng chính là mẹ góa con côi trong chuyện này. Ngược lại, chỉ cần lưu ý ít nhiều đến danh từ và cách kể, người ta thấy đây là hai chuyện khác nhau. Bà góa đi mót củi ở Sarepta không phải là "bà chủ nhà" trong câu chuyện này. Tiếng "bà chủ nhà" khiến người ta phải nghĩ đến một mệnh phụ quí phái hơn người đàn bà đi mót củi. Và nhất là cuộc đối thoại giữa bà chủ nhà với nhà tiên tri trong câu chuyện hôm nay cho thấy giữa hai người dường như chưa hiểu nhau. Đang khi bà góa ở Sarepta đã hiểu biết nhà tiên tri rồi.
Đằng khác, ai hiểu biết Kinh Thánh có thể nhận ra ngay rằng câu chuyện kể trong sách Các Vua quyển II về tiên tri Êlya. Ông này cũng làm cho con một bà lớn ở Shumen sống lại. Do đó có người nghĩ câu chuyện kể hôm nay đã được môn đồ của Êlya viết thêm vào cuộc đời của Êlya làm cho nhà tiên tri này sáng giá hơn.
Quả thật, dường như đây là mục đích của chính bài tường thuật hôm nay. Người muốn viết cho mọi người biết Êlya là người của Thiên Chúa. Thoạt tiên bà góa kia cũng như hầu hết các người đồng thời không biết như vậy. Họ thấy Êlya là người khác thường. Họ biết ông có một nhiệt tình lạ lùng đối với Giavê. Luôn luôn ông kêu gọi người ta sống trung thành với giao ước và đừng thờ một thần nào khác ngoài Giavê. Lắm lúc ông đe dọa người ta những hình phạt khủng khiếp. Kể cả vua Israen thời bấy giờ. Nhà vua tránh né Êlya chỉ sợ gặp lại phải nghe các đòi hỏi của Thiên Chúa và các hình phạt theo sau nếu nhà vua không đáp ứng những đòi hỏi kia.
Do đó người ta sợ Êlya hơn là muốn nghe theo ông. Người ta chưa chắc ông là người của Thiên Chúa. Nói đúng hơn, vì yếu đuối và sợ các đòi hỏi của tôn giáo chân thật, người ta chưa muốn công nhận ông là người của Thiên Chúa.
Chính vì Êlya khiến người ta sợ hơn là lôi cuốn được hạ theo mình, nên khi Êlya ở tại nhà bà góa kia mà con bà bị bệnh chết, thì bà ta đã đổ tội cho nhà tiên tri. Bà nói: Ngài và tôi có việc gì (với nhau) mà ngài lại đến tôi để hạch tội tôi và làm con tôi chết? Nhà tiên tri bị buộc tội như vậy chẳng biết làm gì hơn để giải oan là xin lấy xác đứa con để làm sao cho nó sống lại.
Chúng ta thấy ông nằm dài trên đứa trẻ ba lần, khác nào như làm phù phép. Nhưng rõ ràng không phải cử chỉ và hành động này đã làm cho đứa trẻ sống lại, nhưng là lời Êlya cầu nguyện xin Thiên Chúa cho hồn vía đứa trẻ trở về lại mình nó. Chính lời cầu nguyện này đã kéo Êlya ra khỏi cảnh lúng túng và đem sự kiện lạ lùng này mà bà chủ nhà cũng như mọi người sẽ nghe biết chuyện mới thấy rõ Thiên Chúa ở với Êlya và ông thật là người của Thiên Chúa.
Do đó câu chuyện này xảy ra để giúp Êlya. Chủ ý của người viết là làm sáng giá cho nhà tiên tri. Tuy nhiên câu chuyện cũng dạy dân Do Thái một bài học: Thiên Chúa có thể làm cho kẻ chết sống lại. Và chết chưa phải là hết. Nếu người ta tin vào Chúa và biết cầu xin với Người thì Người có thể làm cho con người sống lại. Một niềm tin như thế đòi hỏi ta phải biết sống như thế sẽ có sự phục sinh. Ai không thấy đó là một mạc khải lớn lao và đầy hy vọng cho con người, nhất là ở thời xa xôi và tại những nơi chưa có lời giảng dạy chắc chắn nào về đời sau. Riêng đối với chúng ta, cần nhờ câu chuyện trong bài sách Các Vua hôm nay để hiểu hơn về bài Tin Mừng trong thánh lễ này.
2) Thiên Chúa đã viếng thăm Dân Của Người
Người ta có thể nói tác giả Luca đã vay muộn một số nét của bài kể trong sách Các Vua. Nhưng những điểm dị đồng đáng để ý hơn nhiều, nhất là chủ ý của hai tác giả rất khác nhau.
Luca thuật lại một câu chuyện đã xảy ra giữa thanh thiên bạch nhật, có đông đảo dân chúng chứng kiến, đang khi bài sách Các Vua chỉ tường thuật việc xảy ra trong nhà một mẹ góa con côi. Và như vậy có thể nói một việc đã xảy ra có hệ đến toàn dân, còn việc kia chỉ liên quan đến một gia đình, nếu không muốn nói là một người. Chúng ta hãy tạm bỏ câu chuyện xưa xảy ra thời Êlya, để chú ý đến việc xảy ra dưới thời Chúa Giêsu mà Luca đã thuật lại để nói rằng nó rất có hệ đến chúng ta thời bây giờ.
Hôm ấy Đức Giêsu đi với môn đồ và đông đảo quần chúng đến một thành gọi là Naim. Người đi vào xã hội loài người vì theo Kinh Thánh "thành" là nơi loài người sinh sống. Và "thành" mà không có Chúa thường được ví như một góa phụ. Hơn nữa "bà góa" ấy không nuôi nổi con mình. Cố gắng của loài người không có thể làm cho con người được sống thật và sống đời đời.
Do đó khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì này người ta đang khiêng đi chôn đứa con gái của bà góa. Thật là não nuột. Có một đứa con mà bà góa vẫn không giữ được. Xã hội loài người cũng bất lực bó tay. Dân chúng trong thành chỉ biết đi chôn đứa con với bà.
Người thường, nếu nhìn thấy cũng chỉ biết cảm thông. Đức Giêsu thì khác, Người đi vào thế gian là để cứu sống nên tác giả Luca viết: "Chúa chạnh lòng thương". Lần đầu tiên trong tác phẩm của ông, Luca xưng Đức Giêsu là "Chúa". Từ ngữ này, các tác giả Tân Ước chỉ dùng để nói về Người sau khi Người đã sống lại. Luca còn dùng kiểu nói "chạnh lòng thương" là kiểu nói chỉ dùng để nói về chính Thiên Chúa khi Người muốn biểu lộ tình thương cứu độ đối với dân Người. Như vậy trong câu nói vắn tắt kia, Luca đã nhìn thấy nơi Đức Giêsu, chính Thiên Chúa đang muốn tỏ lòng thương cứu độ nhân loại khổ sở nằm chết trong tội lỗi. Hơn nữa tác giả còn ngầm ý bảo rằng: nơi Đức Giêsu có sự phục sinh.
Thật vậy, ở đây Đức Giêsu không cầu nguyện như Êlya. Người bảo bà góa đừng khóc lóc nữa. Người đụng đến quan tài. Các kẻ khiêng đứng lại tức khắc. Sao Người uy quyền như vậy? Người ta đã tin ở Người rồi, vì nếu không, các kẻ kia không dễ vâng lời như thế. Rồi Người truyền lệnh: "Thanh niên! Ta bảo ngươi hãy trỗi dậy". Và người chết ngồi chồm dậy và lên tiếng nói, (để làm chứng đã sống lại thật).
Phản ứng của mọi người là kinh sợ trước quyền và công việc Thiên Chúa. Thiên Chúa đang ở trước mặt họ. Người vừa cho họ thấy một biểu dương uy quyền của Người. Bà góa thành Sarepta thấy Êlya cầu nguyện mà làm cho con bà sống lại, thì nhận ra Êlya là người của Thiên Chúa nên được Chúa nhận lời, còn ở đây người ta thấy sự sống lại do chính Đức Giêsu mà đến, nên Người là một tiên tri cao cả, và đúng hơn, Người là chính Thiên Chúa cứu độ mà loài người chết trong tội lỗi đang chờ đợi.
Do đó như các bài sách Các Vua đã muốn chứng tỏ Êlya là người của Thiên Chúa, thì bài Tin Mừng Luca muốn làm chứng Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ. Nơi Người có sự phục sinh để làm cho loài người sống lại, nên Người là vị tiên tri cao cả và là Thiên Chúa đến viếng thăm dân của Người. Chúng ta hãy tin vào sức mạnh cứu độ của Người. Và điều này bài thư Phaolô cũng muốn làm chứng.
3. Thiên Chúa đã mạc khải Con của Người trong tôi
Quả vậy, Phaolô viết thư cho người Galát để ít ra trong đoạn trích hôm nay - Xác minh mình là tông đồ chân chính. Trước đây người Galát vẫn tin như vậy. Nhưng nay có mấy người Do Thái đến đặt điều vu khống và dèm pha uy tín của người, để lôi kéo người Galát trở về với những tập tục Do Thái là cắt bì và giữ luật Môsê. Họ nói rằng Phaolô đã không được đặt làm tông đồ. Người đã làm việc tự ý. Tin Mừng người rao giảng không đáng tin.
Phaolô phản kháng mạnh mẽ. Trong đoạn văn này. Người khẳng định chính Thiên Chúa đặt người làm tông đồ, khi mạc khải Đức Giêsu Kitô cho người. Quả vậy, xưa người không như thế. Người cũng chỉ biết đạo Do Thái và chỉ hơn đồng đạo ở điểm hăng say phục vụ.người đã tình nguyện đi bắt bớ và ra công triệt hạ Hội Thánh của Thiên Chúa. Tại đâu người đã thay đổi ra như ngày nay? Chính nhờ Thiên Chúa đã tách người ra ngay từ lòng mẹ và kêu gọi người. Phaolô ý thức ơn người đã được là do lòng thương của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã tuyển chọn và kêu gọi người như Giêrêmia ở đây để nói lên niềm tin ấy. Hơn nữa khi kêu gọi người, Thiên Chúa đã không mạc khải một sứ điệp, hoặc một sứ mệnh, như trong trường hợp các tiên tri. Thiên Chúa cho Phaolô biết Con của Ngài là Đức Giêsu Kitô, để từ nay người phải rao giảng Ngài.
Do đó Phaolô không cần học với một ai. Chính Thiên Chúa đã dạy Phaolô biết Chúa Giêsu, biết tất cả các chân lý về Ngài và mọi điều phải rao giảng về Ngài. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác không cần thiết tuyệt đối theo nghĩa Phaolô phải cần học hỏi thêm với các ngài. Khi đã nhận được mạc khải của Đức Giêsu Kitô và được đặt làm tông đồ rồi, người ta muốn nắm vững các chân lý của đạo. Việc tiếp xúc với các tông đồ khác chỉ có ý nghĩa hiệp thông, duy nhất. Và nếu nó có làm giàu thêm cho kho tàng mạc khải mà mỗi người đã lãnh nhận, thì cũng chỉ là một sự soi sáng thêm để đi sâu hơn vào chân lý mà thôi. Phaolô không những được quyền lợi và vinh dự như mọi tông đồ; nhưng vì đã được mạc khải một cách đặc biệt và độc đáo, người còn xứng đáng được tôn vinh như một tông đồ độc hạng và kiệt xuất. Và được như vậy, một lần nữa người ta nên biết, là tự người đã được ơn hiểu biết Chúa Giêsu Kitô một cách phi thường. Do đó, hiểu biết Chúa Giêsu Kitô là điều quan trọng và quan trọng hơn hết. Bài Tin Mừng đã muốn làm cho người ta được sự hiểu biết này. Bài thư Phaolô làm chứng khi sự hiểu biết này sâu sắc đặc biệt, thì người ta cũng được chọn một cách đặc biệt. Vinh dự và hạnh phúc của người ta vượt xa sự sung sướng của bà góa thành Sarepta khi hiểu biết tiên tri Êlya.
Chúng ta tự nhiên muốn được sự hiểu biết này. Hội Thánh muốn giúp đỡ chúng ta không ngừng. Đặc biệt trong các thánh lễ. Phụng vụ Lời Chúa là một mạc khải liên tục về Chúa Giêsu Kitô. Và nhất là Bí tích cử hành nơi bàn thờ. Tại đây Chúa Giêsu Kitô không muốn cho chúng ta gặp Người như Phaolô trên đường Đamas sao? Chúng ta phải nói còn hơn thế nữa. Chúng ta sẽ lãnh nhận chính mầu nhiệm Tử nạn Phục sinh của Chúa Giêsu Kitô, là chính mầu nhiệm của Người, là chính mầu nhiệm biểu lộ Người hoàn toàn và đầy đủ hơn hết. Người không những là Đấng Tiên Tri của Thiên Chúa, nhưng còn là chính Con Thiên Chúa sinh ra làm người để tha thứ tội lỗi và làm cho chúng ta được sống lại và sống sự sống mới. Chúng ta hãy có lòng tin yêu để đón nhận và để sống sự sống của Chúa Giêsu Kitô.

3. Sự thương xót của Chúa sự sống.
(Trích dẫn từ 'Mở Ra Những Kho Tàng' – Charles E. Miller)
Thánh Luca, vị tông đồ viết Phúc Âm đã nhấn mạnh đến sự thương xót của Chúa Giêsu. Bài Phúc Âm ngày hôm nay là một gương mẫu mạnh nhất, lớn nhất cho việc nhấn mạnh này.
Việc cho đứa con bà góa sống lại, Chúa Giêsu đã chứng tỏ rằng Ngài là Chúa của sự sống, nhưng trong tâm trí của Thánh Luca câu chuyện này thì không hoàn toàn đặt trọng tâm rõ ràng vào người góa phụ, trong đó nhấn mạnh đến sự thương xót của Chúa Giêsu.
Hầu hết những góa phụ vào thời của Chúa Giêsu thì sống rất khó khăn. Và không có sự giúp đỡ của nhà nước: không có tiền trợ cấp, không có lương hưu, không có bảo hiểm xã hội, nói chung chỉ là những người nghèo, nếu không có việc làm. Khi Chúa Giêsu nhìn vào đoàn người đám tang trong Phúc Âm ngày hôm nay. Chúng ta có thể giả thiết rằng, một người nào đó đã thông báo cho Chúa Giêsu về trường hợp bà góa này đang chôn đứa con độc nhất của bà.
Thánh Luca đã quan sát Chúa Giêsu, thấy Ngài xúc động và động lòng thương khi nhìn thấy bà. Cảm tình của Người đã đi trực tiếp đến người đàn bà không phải là do cái chết của đứa con. Chúa Giêsu hiểu rằng thời gian khó khăn nhất của người góa phụ thì không phải bây giờ nhưng là sau đó, khi chôn cất xong bà sẽ trở về lại một mình trong căn nhà trống rỗng. Chúa Giêsu nhận thấy rằng sự đau thương của bà thì rất sâu thẳm bởi vì sợ về tương lai và bà cũng có thể khó mà sống sót được. Lúc ấy, trong tâm trí Chúa Giêsu có thể nhìn thấy người góa phụ khác trong năm tới, hoặc sau cuộc đóng đinh đi theo thân xác vô hồn của đứa con độc nhất của bà đề tới ngôi mộ. Ngài đã nói với người góa phụ "Đừng khóc nữa". Từ chúng ta, những lời này sẽ vang lên một cách trống rỗng nhưng từ nơi Người chúng đã đem lại sự an ủi và niềm hy vọng. Chúa Giêsu đã nói những lời thương xót như thế cho người góa phụ như cho chính Mẹ Người.
Chúa Giêsu đã đụng đến cái cáng và chạm đến thân xác của người chết. Người khiêng cáng đã ý thức được Chúa Giêsu muốn cho họ dừng lại, người đàn bà chờ đợi một điều gì đó sắp sửa xảy ra và những gì Chúa Giêsu sẽ làm. Tiếp đó, bà nghe những lời đầy thương xót cũng như quyền năng: "Hỡi thanh niên, Ta truyền cho anh hãy trỗi dậy". Mọi đôi mắt đều hướng về người chết. Anh ta ngồi dây và bắt đầu nói. Đó không phải là giả tưởng. Sau cùng lòng thương xót của Chúa Giêsu là cho người góa phụ, Thánh Luca đã cẩn thận thêm: "Chúa Giêsu đã trao anh lại cho mẹ anh".
Thánh Phaolô ngày hôm nay chú ý đến đặc ân ngài đã được Thiên Chúa mặc khải Con của Người cho ngài để ngài có thể rao truyền Tin Mừng cứu độ. Và đặc ân đó cho cả chúng ta nữa, qua bài Phúc Âm này theo Thánh Luca, chúng ta cũng đã được mặc khải cho Tin Mừng tình yêu của Chúa. Vị Chúa này đã Phục Sinh chúng ta từ cõi chết tội lỗi và giới thiệu chúng ta đến với mẹ thiêng liêng của chúng ta là Giáo Hội, người mẹ đó giờ đây đang nuôi dưỡng chúng ta xuyên qua những lời Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể.
Hãy chú ý đến sự khác nhau giữa những gì tiên tri Êlisa đã làm và những gì Chúa Giêsu đã làm. Cả hai đối đầu với sự chết. Êlisa đã kêu cầu Chúa và cầu nguyện rằng: "Xin Ngài phục hồi sự sống cho đứa con của người đàn bà, còn Chúa Giêsu đã nói nhân danh Chúa và bởi quyền lực của chính mình. Ngài đã nói những lời rất quyền năng. Êlisa thật sự là một tiên tri của Thiên Chúa nhưng còn Chúa Giêsu chính Chúa của sự sống". Chúng ta khâm phục và tôn kính vị tiên tri nhưng đối với Chúa Giêsu chúng ta lại kêu lên như trong lời tuyên xưng trong Thánh Lễ của chúng ta: "Bằng sự chết, Người đã phá hủy sự chết của chúng ta. Bằng việc sống lại Người đã phục hồi sự sống cho chúng ta".
Tất cả chúng ta một ngày kia sẽ chết. Chúa Giêsu sẽ không đụng đến quan tài của chúng ta hoặc không nói với những người khiêng quan tài dừng lại. Thay vào đó, Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài để nâng chúng ta lên khỏi sự chết, vào ngày Phục Sinh. Và khi đó chúng ta thật sự ngợi khen Thiên Chúa là Chúa của sự sống nhân lành.

4. Lòng tin nơi dân – R. Gutzwiller
Việc Chúa Giêsu chỉ tỏ ý muốn, là người đầy tớ viên sĩ quan được chữa lành trong Tin Mừng Luca 7,1-10 là một dấu chứng nói lên uy quyền của Thiên Chúa. Còn ở đây là trường hợp phải đương đầu với một hoàn cảnh thực tuyệt vọng. Một cậu con trai đã chết. Chàng là con độc nhất của người mẹ goá. Cái chết cắt đứt mọi mối dây liên hệ và thật vô phương cứu chữa. Bà mẹ lẽo đẽo bước theo sau quan tài lòng đau như cắt, không còn nghĩ gì hơn được, hy vọng gì hơn được... Đám đông cứ tiến hành việc chôn cất, nào ai có thể làm chi hơn được? Ngay cả các môn đệ, họ chẳng hề nghĩ tới việc cầu cứu Chúa Giêsu: vì một người đã chết không phải như một cây đã trụi hết lá mà như một cây đã bị bứng cả gốc rễ. Vô phương cầu cứu.
Thế nên, chính Chúa Giêsu đã đưa sáng kiến, đã đi bước đầu. Ngài chạnh lòng thương, nghĩa là Ngài cũng khổ với ai cùng khổ. Nên Ngài ra tay cứu chữa.
Viên sĩ quan đã cậy vào quyền truyền khiến của Chúa Giêsu. Ở đây, Chúa Giêsu cũng dùng thứ quyền ấy. Ngài ra lệnh cho kẻ chết: 'Ta bảo ngươi hãy trỗi dậy!'. Một giọng điệu đầy dũng lực, quyền uy. 'Ta bảo người!', Ngài không cầu cứu ai, không xin với Cha trên trời, nhưng phán quyết nhân danh chính mình, ra lệnh theo ý mình và quyền mình. Chỉ một lời nói, một mệnh lệnh đơn giản: 'Hãy trỗi dậy!' là kẻ chết được phục hồi sức sống.
Phép lạ phục sinh kẻ chết này lạ lùng quá, đến độ mọi người đứng đấy đều phát kinh hãi: 'Mọi người đều sợ hãi'. Họ đã tin, và họ tôn vinh Thiên Chúa; họ công-nhận-Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người, vì Ngài đã làm nên muôn việc kỳ diệu trong dân Israel, nói lên quyền năng của Ngài. Nhưng lòng tin của họ còn khiếm khuyết. Một niềm tin chưa chạm trán với những vấn đề cốt thiết. Nó chỉ nhá nhem niềm xác tín: 'Một tiên tri cao cả đã trỗi dậy giữa chúng ta'.
'Dân Do thái chưa hề nhận biết thần tính nơi Chúa Giêsu và thua cả niềm tin của viên sĩ quan. Nếu Ngài chỉ là một tiên tri cao cả thôi, thì Ngài đã chẳng chu toàn điều cốt thiết nhất. Và như thế, mọi chuyện vẫn nằm trong kế hoạch bình thường của Israel, tức là thỉnh thoảng lại xuất hiện nơi Israel các vị tiên tri.
Đó chỉ là việc lập lại mà chẳng có gì mới, nghĩa là một sự nối dài dòng dõi tiên tri thôi. Trong trường hợp đó, Thiên Chúa không đích thân trực tiếp đến viếng thăm dân Người mà vẫn chỉ như xưa, là sai vị sứ giả và nhờ vị trung gian này, Ngài mới cứu giúp dân Người.
Trong khi ở đây, với Chúa Giêsu, trên thực tế, một sự mới mẻ thực sự được thể hiện; thế là chấm dứt mọi quá khứ, khởi đầu một cái gì hoàn toàn khác biệt. Quả thực, dân Do thái có lòng tin, nhưng lòng tin ấy chưa chân xác lắm. Họ có tôn vinh Thiên Chúa, nhưng chưa tôn vinh sự cao cả vô biên của Thiên Chúa. Thì đây, việc phục sinh kẻ chết phải đoan chứng cho họ thấy một sự sống mới bắt đầu tỏ lộ, vì chủ của sự sống và sự chết đang ở giữa họ.
Từ đây, không còn là vấn đề một mắt xích mới tiếp nối trong giây xích, một trang sử mới tiếp nối trong lịch sử dân Do thái nữa, mà là một đầu mối khác hoàn toàn mới mẻ. Đó là: việc phục sinh kẻ chết và bắt đầu một đời sống mới.

5. Chúa thương dân khổ – Lm. ViKiNi
(Trích dẫn từ 'Xây Nhà Trên Đá')
Nhiều gia đình buồn tủi vì không con trai, như gia đình ông bà kia nói: "Vợ chồng chúng tôi sinh chín con gái mà chưa có con trai. Ngày tết năm Giáp Dần (tháng 02/1974) nhân dịp tới Trung Chánh, chúng tôi đến khấn tại đền Thánh Giuse Mỹ Hòa. Chín tháng sau nhờ lời cầu bầu của Thánh cả, chúng tôi sinh được một con trai ngày mồng 08 tháng 10 năm 1974. Chúng tôi đặt tên thánh cháu là Giuse để trọn đời nhớ ơn ông thánh" (Châu Thủy: Thánh Giuse trong Phúc Âm 1974 trg. 19-20)
Được có con trai vui mừng biết mấy! Nhưng nếu con trai duy nhất đó chết thì khốn khổ đến chừng nào!
Bà góa trong Tin Mừng hôm nay đã đau khổ gấp đôi vì chồng đã chết rồi, nay con trai duy nhất còn lại cũng chết theo. Xã hội thời đó lại càng chất thêm nỗi khổ cho các phụ nữ neo đơn như bà. Không có chồng, không có con trai, pháp luật không cho bà được bảo lãnh về bản thân và tài sản, bà sống như kẻ bị bỏ rơi ngoài lề xã hội.
Trong cảnh tang thương đó, bà đau buồn khóc lóc thảm thiết, đến nỗi rất đông dân thành đã đi tiễn biệt con của bà. Một đám dân rất đông khác đang tiến về thành Naim đã gặp đám tang con bà tại cửa thành. Một đám vui vẻ như ngày hội, một đám buồn sầu tang tóc. Đám đông vui vẻ ồn ào đã im bặt, họ xì xèo rỉ tai nhau, tin tức về bà góa có con trai duy nhất chết làm mọi người cảm thương tội nghiệp. Một người đang lặng lẽ tiến lại trước quan tài. Người đó là Đức Giêsu. Với quyền năng của Thiên Chúa đầy thương xót những hạng người cùng khổ như bà góa này, và với con tim nhạy bén trước đau khổ của loài người, Đức Giêsu đã mủi lòng xót thương, khẽ an ủi bà: "Bà đừng khóc nữa", rồi sờ vào quan tài. Các người khiêng đứng lại. Đức Giêsu nói: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy!" Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh ngạc và tôn vinh Thiên Chúa..."
Người ta kinh ngạc vì chẳng mấy khi xẩy ra một biến cố lạ lùng như vậy. Mãi thời Vua Achab (874-853 A.C) mới xẩy ra hai lần người chết sống lại, một lần ngôn sứ Êlia cho bà góa thành Sarepta sống lại. "Ông đã nằm dài trên đứa trẻ ba lần và kêu cầu Thiên Chúa rằng: Lạy Thiên Chúa của tôi, xin cho hồn đứa trẻ này về lại mình nó. Thiên Chúa đã nghe tiếng của Êlia và cho hồn đứa trẻ về lại nơi mình nó và nó sống lại". (1V. 17, 21-22). Lần khác, "Êlisê vào nhà Bà Shunem (Su-nem) và này đứa bé đã chết, đặt nằm trên giường của ông. Ông vào và đóng cửa lại ... Đoạn ông khẩn nguyện với Thiên Chúa. Rồi ông lên nằm trên đứa trẻ, đặt miệng ông trên miệng nó, mắt ông trên mắt nó, bàn tay ông trên bàn tay nó... thịt mình đứa trẻ nóng lên ... đứa bé nhảy mũi bảy lần và mở mắt ra" (2V. 4, 32-35). Thời các tông đồ ở thành Trôa, thánh Phaolô làm cho một thiếu niên chết sống lại, thánh Luca kể: "Ngày thứ nhất trong tuần, chúng tôi họp nhau để bẻ bánh. Ông Phaolô thảo luận với các anh em ... kéo dài đến mãi nửa đêm... một thiếu niên tên Êutykhô, ngồi ở cửa sổ, đã thiếp đi và ngủ say trong khi ông Phaolô vẫn giảng. Vì ngủ say nên nó ngã từ tầng lầu thứ ba xuống. Vực lên thì nó đã chết. Ông Phaolô xuống, cúi mình trên nó, ôm lấy và nói: "Đừng xôn xao nữa, vì nó sống mà!". Người ta đưa cậu bé đang sống về, và ai nấy được an ủi không ít" (Cv. 20, 7-12)
Người ta kinh ngạc về cái chết phần xác được sống lại, thì càng phải kinh ngạc biết chừng nào khi được Chúa cho sống lại về cái chết phần hồn. Chết phần hồn là những cái chết của những kẻ lao đầu vào chốn nghiện ngập ma túy, cờ bạc, rượu chè, chơi bời trác táng, có những kẻ chết vì cuộc đời đen tối tuyệt vọng không lối thoát, có những kẻ chết vì tham ô móc ngoặc gian dối bất công. Có những kẻ chết vì khủng hoảng tiền của, danh vọng, địa vị, và hàng trăm thứ chết như vậy nữa. Những hạng người này khó thấy mình sầu khổ trong lúc chết. Chỉ khi nào họ thoát ra khỏi những mê hồn trận đó, họ mới thấy rùng rợn sợ hãi cho quãng đời quá khứ của họ. Họ chẳng khác gì kẻ nghiện ma túy nhờ cai nghiện được khỏi, lúc đó họ mới thấy sợ. Tất cả những cái chết tinh thần như thế đều được Chúa thương cứu sống họ trong phép Giải tội. Và thật lạ lùng, họ càng chết bao nhiêu lần thì Chúa sẽ cho họ sống lại bấy nhiêu lần. Lòng thương xót của Chúa không ai hiểu thấu.
Còn một cái chết thứ ba nữa là chết cả xác cả hồn: Cái chết này thật rùng rợn kinh khủng vì chẳng bao giờ Thiên Chúa cứu sống nó được nữa. Nó chết đời đời. Nó đã tự chọn cái chết đó, vì nó cố chấp chết trong tội lỗi như Giuđa. Trước khi Giuđa đi thắt cổ, Đức Giêsu vẫn gọi nó là bạn thân thiết. Nó đã từ chối và lao mình vào cái chết đời đời.
Lạy Chúa, Chúa đã thương cứu chữa bao nhiêu người khốn khổ. Con là kẻ khổ nhất, xin Chúa cứu chữa xác hồn con được sống lại với Chúa. Đừng để con phải chết cả hồn lẫn xác đời đời trong ngày kinh khủng ấy.

6. Sự sống hay nỗi chết – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ 'Như Thầy Đã Yêu')
Một vị ẩn sĩ nọ, ngày kia lạc vào một hang động. Tại đây ông đã khám phá ra một kho tàng với không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Nhưng ông đã vội vã ra khỏi hang, vừa chạy vừa la thất thanh: "Tôi đã thấy thần chết".
Tình cờ ba tên cướp đi ngang qua đó, nghe tiếng kêu của vị ẩn sĩ, họ dừng lại hỏi chuyện.
Muốn chứng tỏ mình là những người không biết sợ là gì, ba tên cướp yêu cầu đưa họ đến gặp thần chết. Vị ẩn sĩ dẫn họ vào hang động và chỉ vào kho tàng. Mắt họ sáng lên và lập tức ba tên cướp tống cổ vị tu hành ra khỏi hang.
Nhưng kho tàng quá lớn, họ không thể mang ra tất cả trong một ngày. Sau một hồi bàn cãi ba tên cướp đồng ý để một người ra phố mua sắm lương thực. Hai người còn lại ngồi đó canh giữ kho báu.
Người được sai đi chợ nghĩ thầm trong bụng: "Ta sẽ ăn uống no nê, sau đó bỏ thuốc độc vào thức ăn. Hai tên khốn nạn sẽ chết và ta sẽ chiếm trọn kho tàng".
Hai tên ngồi canh giữ kho báu cũng bàn với nhau: "Chúng ta sẽ giết hắn. Và như thế phần của mỗi người chúng ta sẽ nhiều hơn".
Khi kẻ mang lương thực về đến hang động. Họ liền giết hắn và nuốt trọn thức ăn có thuốc độc. Thế là cả ba đã cùng nhau đi gặp thần chết như lời vị ẩn sĩ tiên báo.
Vì tham lam của cải mà ba sinh mạng đã bị thần chết cướp đi trong nháy mắt. Vì chạnh lòng thương xót người quả phụ cô độc, hôm nay Đức Giêsu đã giật lại khỏi tay thần chết con trai duy nhất của bà góa thành Naim.
Đức Giêsu đã can thiệp mau lẹ, xử lý nhanh gọn, ra tay tức thời, không chờ đợi người ta cầu xin, nài nỉ. Người nhìn rõ nỗi buồn mất con, Người hiểu thấu nỗi cô đơn của bà góa không nơi nương tựa, Người liền an ủi: "Bà đừng khóc nữa" (Lc 7,13). Rồi Người sờ vào quan tài và nói: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: Hãy trỗi dậy" (Lc 7,14)
Thiên Chúa yêu thương con người vì Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,16). Vì bản chất của Thiên Chúa là yêu thương, nên Người muốn giải thoát con người khỏi nỗi cô đơn buồn phiền, khỏi thất vọng đắng cay, khỏi đau thương tuyệt vọng. Và nỗi đau thương tuyệt vọng lớn nhất của con người là sự chết, thì Người cũng sẵn lòng giải thoát con người khỏi chết.
Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại ở đó. Người còn muốn đi xa hơn nữa trong tình yêu: Người muốn giải thoát con người khỏi cái chết muôn đời. Con trai bà góa thành Naim sống lại để rồi lại phải chết, nhưng những ai được Người yêu thương giải thoát thì sẽ vĩnh viễn sống lại miên trường. Đó mới là sứ mạng của Người khi xuống trần gian.
Sự kiện con trai bà góa thành Naim được Người cho sống lại chính là hình bóng báo trước biến cố vô cùng lớn lao hơn. Biến cố đó là cốt lõi của đạo, là trung tâm điểm của Kitô giáo: Đó chính là nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu mà tất cả chúng ta được giải thoát khỏi cái chết muôn đời.
Thiên Chúa yêu thương con người, Người muốn giải thoát con người khỏi lưỡi hái của tử thần, nhưng con người vẫn có tự do để chọn sự sống hay nỗi chết. Ba tên cướp vì tham lam của cải đã chọn cho mình hai cái chết: cái chết của thể xác và cái chết của linh hồn. Trong cái hang tử thần ấy không chỉ có những con người tham của mà còn vô số những kẻ tham danh vọng, địa vị, chức quyền; không chỉ có những người mê của mà còn hằng hà những kẻ mê hút sách, rượu chè, cờ bạc, trai gái.
Cái chết phần xác thì ai cũng sẽ trải qua một lần trong đời, nhưng cái chết phần hồn thì chỉ có những con người can đảm, bền chí và trung thành với Đức Kitô và giới luật của Người mới có thể vượt qua để sống viên miễn với Người trên nơi vĩnh phúc.
Lạy Chúa, chúng con ước mong được chết để cùng sống lại vinh quang với Người. Nhưng trước khi chết xin cho chúng con biết dứt lòng từ bỏ những gì là xấu xa của ma quỷ, thế gian và xác thịt để chúng con được tự do thong dong về với Chúa là Cha đầy yêu thương. Amen.

7. Tình người của Thiên Chúa rất đáng khâm phục.
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật' – Achille Degeest)
Làng Naim ở phía nam Nagiarét. Thánh Luca là một y sĩ, cho nên điều dễ hiểu là bài tường thuật của ông về phép lạ con trai bà góa sống lại đượm một tình người nồng thắm. Đức Giêsu được thánh chép sử xưng tụng là Đức Chúa. Các bộ Phúc Âm được viết sau biến cố Phục Sinh. Do đó Đức Giêsu trở nên Đức Chúa có mọi quyền năng dưới đất cũng như trên trời. Từ ngữ Đức Chúa ở đây gợi ý một tương quan với sự phục sinh của chính Đức Kitô. Đức Giêsu có mọi quyền năng trên sự chết, Người giải thoát những kẻ khác, cũng như Người đã tự giải thoát khỏi sự chết. Đức Giêsu chạm tay vào người chết, một lần nữa chúng ta thấy Người tự cho mình quyền tự do xử sự đối với những vật mà Lề Luật coi là ô uế, vì luật định rằng chạm tay vào một người chết là trở nên ô uế, phải thanh tẩy cho hết dơ bẩn. Phép lạ này đám đông chứng kiến và nhìn nhận. Dân chúng phản ứng theo lối thông thường, họ khiếp sợ nhưng không vì thế mà lòng họ thay đổi. Một sự kiện phi thường rất khó lay động tâm hồn người ta, chỉ gây sợ hãi, kinh hoàng, đôi khi khiến kẻ chứng kiến phải suy nghĩ, nhưng chỉ lát sau đâu lại hoàn đấy, người ta trở lại suy nghĩ hành động theo những điều vốn chất chứa trong lòng. Người ta hiểu được tại sao những phép lạ của Đức Giêsu không tự động làm phát sinh đức tin –giả sử là thế sẽ không đúng cung cách Thiên Chúa. Qua các phép lạ, Thiên Chúa ra dấu, Người không ép buộc con người. Chúng ta đối chiếu phép lạ hôm nay với phép lạ con bà góa ở Serepta được Chúa cho sống lại. Phép lạ Serepta là một điềm báo tiến thêm một bậc, phép lạ Naim là một sự loan báo. Thực tại được báo trước là sự phục sinh của Đức Giêsu –thực tại toàn diện sẽ là sự sống lại ngày sau hết. Tất cả suy luận trên cho chúng ta thấy hai sự thật:
1) Chúng ta không sống trong một thế giới đóng kín trong giới hạn của sự chết.
Thoạt xem, chết là dứt điểm mọi tiến hóa, mọi sinh hoạt. Vậy mà Đức Giêsu đã can thiệp bằng công việc và bằng bản thân, Chúa cho thấy sự thể khác hẳn. Thậm chí, đã có lần Thiên Chúa ủy nhiệm cho những người như ngôn sứ Elia quyền năng trên sự chết. Những sự can thiệp rõ ràng của sức mạnh Thiên Chúa không đi ngược trật tự thiên nhiên, nhưng cốt đáp ứng nguyện vọng sâu sắc nhất của thiên nhiên. Thiên nhiên miễn cưỡng chịu đựng hiện tượng sự chết, và ai cũng biết rằng bản năng sâu sắc trong bất cứ sinh vật nào là bản năng tự tồn. Giữa ước nguyện của thiên nhiên và phép lạ phục sinh có một sự phù hợp mật thiết. Tử thần phải chăng là tên cai ngục canh giữ nhà lao người ta quen gọi là thế giới? Thiên Chúa cho thấy nghĩ thế là lầm.
2) Nếu thế giới không phải là một lao tù, ý nghĩa thế giới là gì?
Nếu thế giới không phải là một sự phi lý, thế giới hướng về đâu? Đức Kitô giải đáp câu hỏi ấy bằng phương pháp đi vào định mệnh nhân loại và kéo nó theo hướng định mệnh của Chúa. Đức Chúa có một trái tim cảm thông với trái tim chúng ta. Người xúc cảm rất tự nhiên với nỗi sầu đau của bà góa ở Naim trước xác chết con bà (có thể lúc đó Người liên tưởng đến nỗi sầu đau của một bà mẹ khác, buổi chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, dưới chân thập giá...). Có thể nói rằng lòng thương cảm nhân đạo của Đức Giêsu làm phát động quyền năng của Thiên Chúa có trong bản thể Người. Chúa cho anh thanh niên sống lại, nghĩa là Người làm một dấu tỏ rõ ý nghĩa sự can thiệp của Người giữa nhân loại. Chúa kêu gọi loài người trở lại sự sống, một sự sống toàn diện (linh hồn được cứu rỗi, thân xác được sống lại) sẽ ban cho bất cứ ai không từ chối tin vào Chúa.

8. Dấu chỉ thành Naim – André Sève
(Trích dẫn từ 'Tin Mừng Chúa Nhật')
Chúng ta đang đứng trước một mạc khải lớn của Tin Mừng được viết ra do thánh Luca: lòng thương của Chúa chỉ có một câu ngắn trong đó từ 'thương xót' nói lên tất cả: "Vừa thấy bà, Chúa liền động lòng thương: bà đừng khóc nữa!"
"Vừa thấy bà". Khi Chúa Giêsu nhìn thì chính Thiên Chúa nhìn. Chúng ta chỉ hiểu được Tin Mừng ngày nào mà chúng ta nhận rõ được điều này: Chúa Giêsu là cái nhìn phàm nhân của Thiên Chúa. Qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa nói với chúng ta Ngài nhìn chúng ta như thế nào. Điều này không được mạc khải cho chúng ta qua các triết gia, qua các thần học gia cũng như qua các nhà thần bí mà là qua phản ứng của Chúa Giêsu: vào một ngày nọ, tại cổng thành Naim, Ngài đã thấy một góa phụ đi bên quan tài của đứa con trai độc nhất.
Luca nói: "Chúa Giêsu động lòng thương". Đây là lời nói có sức mạnh mạc khải mà tất cả các nhà chú giải đều nhấn mạnh đến. Lời đó có nghĩa là: bối rối, thương xót. Trong Tin Mừng lời này chỉ được dùng để nói Tình Yêu Thiên Chúa đối với con người mà thôi. Chúa Giêsu "thương xót" đám đông, những người bệnh tật; người cha của đứa con hoang đàng (nghĩa là Thiên Chúa) "động lòng thương" khi thấy lại con trai của mình. Chúng ta có nghĩ rằng Thiên Chúa nhạo báng chúng ta khi làm cho chúng ta nghĩ rằng Ngài động lòng thương hay không?
Ở đây Ngài chứng tỏ điều đó: Chúa Giêsu bị động lòng do một trong những nỗi bất hạnh lớn nhất trên trái đất chúng ta. Chính Thiên Chúa là Đấng cảm nghiệm sự đau khổ của con người, trong khi không thể chịu đựng được đau khổ hơn chúng ta: "Bà đừng khóc nữa". Đây là một lòng thương xót có hiệu quả. Bằng một lời nói, với sự giản đơn của quyền năng toàn vẹn, Ngài làm cho sống lại: "Hãy trỗi dậy!" Một cử chỉ tế nhị kết thúc việc chứng minh cho chúng ta biết Ngài là Thiên Chúa: "Ngài trao nó lại cho mẹ nó!". Ngài không trả lại con cho tôi... Ngài không trả lại cô vợ ba mươi tuổi của tôi... Ngài không trả lại vị Linh mục trẻ mà chúng tôi cầu nguyện cho rất nhiều.
Đây vẫn luôn luôn là bí ẩn đó và sự hiểu lầm đó. Không phải Chúa Giêsu đã đến và đang đến để sửa chữa đau khổ ở đây hoặc ở kia, Ngài đến để sửa chữa tất cả. Việc cậu con trai thành Naim sống lại vừa là một cử chỉ thương yêu mãnh liệt, vừa là dấu hiệu của một lòng thương xót vô cùng mãnh liệt: Thiên Chúa hành động vì sự cứu độ thế giới và vì cuộc sống vĩnh cửu của chúng ta. Chúng ta sẽ đau khổ biết bao nếu đứng trước mỗi cái chết, chúng ta nghĩ: hết rồi, tất cả đều chấm dứt.
Chắc chắn bà mẹ thấy con mình sống lại thì hết sức hạnh phúc. Còn đám đông thấy điều khác, đó là "Thiên Chúa đã viếng thăm dân Ngài". Chúng ta, những người đang đọc Tin Mừng, chúng ta phải –thậm chí đang ở trong nỗi đau khổ lớn lao- để cho dấu chỉ của thành Naim mở lòng của chúng ta ra cho toàn bộ thực tế mầu nhiệm của việc Chúa đến viếng thăm.
Lòng thương xót của Chúa Giêsu cho chúng ta biết rằng chúng ta được yêu thương. Nhờ Ngài, Thiên Chúa làm một chuyến viếng thăm không thể tưởng tượng được: đích thân đến thăm chúng ta, cứu chuộc và sống lại theo những điều kiện trên trái đất này.
Vâng, nhưng ở đây trí khôn của chúng ta chựng lại: công việc cứu chuộc dẫn đưa Chúa Giêsu đến thập giá, công việc này để cho các bậc cha mẹ bị tan nát cõi lòng mãi mãi, cho đến tận thế, rồi những bạo lực và ích kỷ, làm sao hiểu được công việc cứu chuộc? Đâu là những biện pháp và cái nhìn của Thiên Chúa? Chúng ta muốn ít ra là Ngài giải thích công việc đó cho chúng ta.
Chúa làm điều đó, điều mà chúng ta gọi là Mạc Khải, nghĩa là tất cả những điều mà Thiên Chúa đã đặt dần dần trong tầm hiểu biết, và tấm lòng của chúng ta qua Thánh Kinh: quan điểm của Ngài, công cuộc sáng tạo và ơn cứu độ của Ngài, sự nhẫn nại và tình yêu của Ngài, Tình Yêu của Chúa! Tình yêu này sẽ luôn luôn vượt lên, bằng chiều rộng và chiều sâu trên điều mà chúng ta có thể hiểu được.
Không cấm việc đặt câu hỏi với Chúa. Đây cũng là một cách để yêu mến người Cha, tất cả các bậc cha mẹ đều biết điều này. Nhưng đây phải là cuộc đối thoại của một con người đặt câu hỏi với Thiên Chúa trong khi biết rằng con người sẽ nhận được những câu trả lời mà một con người có thể nắm và chuyển tải.
- Lạy Chúa, sau những gì đè bẹp chúng con vào lúc này, làm sao có thể nghĩ rằng Ngài yêu thương chúng con? Ngài đã để cho xảy ra, Ngài ở xa, Ngài im lặng.
- Ta không ở xa đâu. Ta đã đến tận thành Naim. Ta không im lặng đâu. Khi Ta nói: "Hãy trỗi dậy!" Ở Naim, thì đó là Ta nói với tất cả những người bị đè bẹp, với tất cả những người chết. Cho đến tận cùng, một con người vẫn có thể trỗi dậy, và một ngày nào đó tất cả mọi người sẽ trỗi dậy.

9. Ngài vẫn còn làm phép lạ – Mark Link
(Trích dẫn từ 'Giảng Lễ Chúa Nhật')
Chủ đề: Việc làm cho con trai bà góa trong Phúc Âm sống lại tiên báo Chúa Giêsu sẽ dẫn chúng ta vào cuộc sống vĩnh cửu
Khó có một nhà đạo diễn phim nào dàn dựng được một pha hấp dẫn như quang cảnh được ghi lại trong bài Phúc Âm hôm nay. Thánh sử Luca đã trình thuật lại quang cảnh này như sau: "Khi Chúa Giêsu tiến vào một thành phố nọ có tên là Naim... đám dân đông đúc chen lấn theo Ngài. Vừa đến gần cổng thành, thì Ngài gặp người ta đang khiêng đi chôn một thanh niên, con trai độc nhất của bà góa nọ". Để mục kích rõ hơn quang cảnh này, chúng ta hãy tưởng tượng mình đang ở trên một chiếc trực thăng cùng với đoàn làm phim có máy ghi hình từ xa đang quay lại diễn biến đó. Nhìn từ trên trực thăng xuống, chúng ta thấy một thị trấn nhỏ có một bức tường chắn chung quanh. Phía bên trong tường thành chúng ta thấy một đám người bận toàn bộ đồ tang đen đang từ từ bước ra cổng chính, còn phía ngoài tường thành, có một đám đông khác cũng đang tiến lại cái cổng đó vừa đi vừa cười cười nói nói huyên thuyên. Vài phút sau đó, cả hai đám đông này cùng gặp nhau tại trạm dừng ở cổng thành. Và lúc đó điều ngoạn mục đã xảy ra.
Từ trong đám đông phía ngoài cổng thành, Chúa Giêsu bước ra đi thẳng tới cỗ quan tài, đoạn vừa cầm tay người thanh niên chết nằm trong đó, Ngài vừa phán: "Hỡi chàng thanh niên, Ta truyền cho anh hãy trỗi dậy". Lập tức một sự yên lặng kinh hồn phủ xuống trên cả hai đám đông. Ai nấy đều như ngộp thở khi nhìn thấy chàng thanh niên bắt đầu cử động. Kìa chàng ta sống lại rồi! Thánh sử Luca kết thúc trình thuật trên bằng những lời sau đây: "Dân chúng đều rất sợ hãi và ngợi khen Thiên Chúa".
Bây giờ, chúng ta hãy nhắm mắt lại tưởng tượng pha kế tiếp sau đó nhé! Màn đêm buông rơi, chúng ta đang ở trong thành phố Naim. Công viên trung tâm đầy người đang chúc mừng và kháo láo với nhau về phép lạ vừa rồi. Một cụ già nói với người bạn: "Này, ông cắt nghĩa thế nào về sự kiện xảy ra ngày hôm nay? Tại sao Ngài Giêsu đã làm phép lạ ấy? Phải chăng chỉ vì xót thương mụ góa nọ?". Cụ già kia suy nghĩ một lúc rồi đáp: "Không, theo tôi nghĩ thì không phải chỉ vì lý do đó thôi đâu. Chúng ta phải đặt phép lạ ấy trong toàn bộ những chuỗi phép lạ khác của Ngài nữa chứ; chẳng hạn chữa lành người ốm, cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe... Bộ ông không nhớ lời tiên tri Isaia đã loan báo à? Tiên tri có nói rằng khi Nước Chúa đến, tức là khi Đấng Mêsia xuất hiện, thì sẽ xảy ra một số dấu hiệu để minh chứng, chẳng hạn: "Mắt người mù sẽ mở, tai kẻ điếc sẽ thông, người què sẽ nhảy như nai và người câm sẽ ca hát được" (Is 35,5-6). Tôi nghĩ rằng phép lạ ngày hôm nay càng làm rõ dấu hiệu cho thấy Nước Thiên Chúa đang đến và đồng thời cho thấy Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia được Thiên Chúa hứa ban".
Bây giờ, chúng ta hãy quay về với giáo đường này ngày hôm nay. Chúng ta phải cắt nghĩa phép lạ trên như thế nào sau hơn 20 thế kỷ qua? Chúa Giêsu muốn nói gì với chúng ta qua phép lạ đó?
Để trả lời câu hỏi này chúng ta hãy nghe câu chuyện sau: Linh mục thừa sai Paul Belliveau ở Maryknoll cai quản một trong những giáo xứ đặc biệt nhất thế giới. Giáo xứ này gồm khoảng 11 ngàn người tỵ nạn Salvador sống trong một trại tập trung ở Honduras. Đa số họ là phụ nữ, trẻ em và người già. Họ giống như những tù nhân bị giam lỏng, bởi vì chung quanh trại, đám lính luôn canh chừng không cho họ trốn chạy đi tìm tự do ở nơi khác chẳng hạn như ở Mỹ. Đây là hai đoạn trích từ một quyển nhật ký mà Linh mục Belliveau còn giữ lại. Đoạn thứ nhất được ghi lại vào một ngày Chúa Nhật, nội dung như sau: Tôi để ý thấy nhiều dân tỵ nạn cứ dán mắt vào những tấm ván hở để nhìn ra phía ngoài nhà nguyện khi có 18 người lính gác Honduras đi ngang qua trại. Tôi cảm thấy hình như họ rất sợ hãi. Biết bao nhiêu lần chính mắt họ đã từng nhìn thấy những toán lính vũ trang như thể tiến vào giết chóc và tiêu diệt làng mạc của họ tại El Salvador. Tôi đã phải trấn an họ trước khi chúng tôi tiếp tục Thánh lễ. Đoạn thứ hai đề ngày thứ ba, nội dung như sau: Khi đến khu trại số 5, tôi thấy có nhiều phụ nữ đang đọc kinh trong nhà nguyện. Tôi bước vào và ngồi xuống. Khoảng 80 phụ nữ đang gẫm Đàng Thánh Giá. Mỗi một chặng ngắm họ đều so sánh nỗi đau đớn của Chúa Giêsu với khổ đau mà dân tỵ nạn đang gánh chịu. Hai người phụ nữ kể cho tôi rằng họ đã đặt tên cho nhóm của mình là 'Nhóm các bà mẹ mất con vì bạo lực ở El Salvador'. Trong khi nói chuyện với đám phụ nữ, Linh mục Belliveau nhìn thấy nơi khuôn mặt họ nỗi đau đớn mà Chúa Giêsu đã nhìn thấy nơi khuôn mặt bà góa thành Naim. Cha hết lòng ao ước phải chi cha có thể làm cho những người con đã chết của họ sống lại giống như Chúa Giêsu đã làm cho con trai của bà góa nọ. Nhưng tiếc thay Belliveau không phải là Chúa Giêsu. Nhưng rồi vị Linh mục chợt nhận thấy một điều gì đó. Cha nhận ra rằng lúc này đây, Chúa Giêsu vẫn đang hiện diện thực sự trong nguyện đường này giống như Chúa đã từng hiện diện nơi làng Naim hơn 2000 năm về trước; và hơn thế nữa, Chúa Giêsu vẫn đang thực hiện nơi nhà nguyện bé nhỏ này phép lạ còn vĩ đại hơn phép lạ tại Naim nữa; Vì nhờ lời cầu xin của các phụ nữ góa bụa này, Chúa Giêsu không phải chỉ phục sinh đám con cái họ về mặt thể lý, vì điều này cũng sẽ chỉ kéo dài nhiều lắm là 30-40 năm, trái lại, Ngài ban cho lũ con ấy cuộc sống vĩnh cửu, như lời Ngài đã phán: Đây là ý Chúa Cha: Hễ ai thấy Chúa Con và tin vào Ngài sẽ được sự sống đời đời, và Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày tận thế (Ga 6,40). Và bỗng dưng, Linh mục Belliveau nhận ra rằng phép lạ Chúa Giêsu thực hiện cho các tín hữu còn vĩ đại hơn nhiều so với phép lạ Ngài đã làm cho con trai bà góa thành Naim.
Đây là sứ điệp Chúa Giêsu muốn gửi đến chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay. Ngài muốn chúng ta nhìn thấy nơi phép lạ thành Naim không chỉ là dấu chứng lòng thương của Ngài đối với bà góa nọ, cũng không chỉ là dấu hiệu minh chứng Ngài là Đấng Mêsia, mà còn là dấu chỉ báo trước điều Ngài sẽ thực hiện cho chúng ta nếu chúng ta tin vào Ngài, nghĩa là Ngài sẽ làm cho chúng ta sống lại không phải chỉ với một thân xác mới mẻ về mặt thể lý mà còn với một cuộc sống trường tồn vĩnh cửu nữa. Đó chính là Tin Mừng Ngài ban cho chúng ta qua bài Phúc Âm hôm nay. Tin Mừng mà chúng ta cùng tụ họp nơi đây để hân hoan mừng kính.
Chúng ta hãy kết thúc với lời cầu nguyện:
Ôi đôi tay Chúa Giêsu, đôi tay từng chạm vào mắt kẻ mù lòa để đem lại cho họ thị giác. Xin hãy chạm vào đôi mắt chúng con để mắt chúng con nhìn thấy Chúa.
Ôi đôi tay Chúa Giêsu, đôi tay từng chạm vào lỗ tai kẻ điếc để phục hồi thính giác cho họ. Xin hãy chạm vào tai chúng con để tai chúng con nghe thấy Chúa.
Ôi đôi tay Chúa Giêsu, đôi tay từng chạm vào thân xác người thanh niên làm cho thân xác ấy được sống. Xin hãy chạm vào chúng con để chúng con được sống muôn đời.

10. Suy niệm của Lm. Văn Quy & Lm. Trần Văn Khả
(Trích dẫn từ 'Phúc Âm Chúa Nhật')
I. TÌM HIỂU
Câu truyện này chỉ có một mình thánh Luca kể lại. Ngài kể tiếp theo câu truyện chữa tên đầy tớ của viên sĩ quan La mã. Nhưng không cho biết rõ thời giờ, chỉ tả về sự việc xẩy ra ở Naim.
Naim, nay là một làng nhỏ cách Capharnaum độ 7, 8 giờ về phía nam núi Tabor, gần Djebel Dahin. Naim không cách Sunem bao xa, nơi mà tiên tri Êlidê đã làm cho con bà chủ nhà trọ sống lại. Gần làng, về phía đông, người ta đã khoét vào núi những lỗ sẵn dùng để chôn cất. Naim, một thành nhỏ chỉ có một cửa để đi về đồng quê và ra nơi chôn cất.
Thường thường việc chôn cất làm cuối ngày, có lẽ lúc buổi chiều. Đức Giêsu đi vào trong thành thì gặp đám xác ở trong thành đi ra, ngay ở cửa thành.
Theo thói tục Đông phương, người chết để trong áo quan không đậy nắp, và đã được quấn khăn liệm kỹ lưỡng. Cùng đi với Chúa Giêsu có môn đệ và một số đông dân chúng. Đám xác có đông người tham dự.
Điều đó quan trọng để chứng minh việc sống lại này có thật chứ không giả tạo. Chàng thanh niên đã sống lại thật sự:
- Anh đã đứng lên và bắt đầu nói được.
- Chúa cầm tay trao lại cho mẹ cậu.
- Thái độ sửng sốt sợ hãi của mọi người làm chứng một biến cố quan trọng đã thực sự xẩy ra.
- Việc sống lại đã được loan truyền khắp vùng.
Câu truyện kể một cách rất đơn sơ, không có chi tiết của một câu truyện hoang đường.
"Trông thấy bà, Chúa động lòng thương". Trong bài tường thuật này chúng ta cũng nên chú ý một điểm: đây là lần thứ nhất mà thánh sử dùng chữ 'Chúa' để chỉ về Chúa Giêsu.
Phép lạ chứng tỏ lòng nhân hậu của Chúa: lý do trước nhất khiến Chúa làm phép lạ mà thánh sử ghi nhận là "Chúa động lòng thương và bảo bà rằng: Đừng khóc nữa".
Lòng thương xót biểu lộ trong câu nói: "Thôi đừng khóc nữa". Đây là lời chia buồn với khổ chủ. Thái độ của Chúa còn biểu lộ trong cử chỉ rất nhã nhặn đem cậu trả cho mẹ. Đứa con là hy vọng độc nhất của bà và đã là căn cớ cho bà đổ không biết bao nhiêu là nước mắt.
Quyền năng Chúa biểu lộ qua câu nói: "Hỡi chàng thanh niên, Ta truyền cho ngươi hãy trỗi dậy".
So sánh với câu truyện sống lại kể trong 1V 18, 17-24 và 2V 4, 18-36 do tiên tri Êlia và tiên tri Êlidê, ta thấy có một sự khác biệt căn bản. Hai tiên tri Êlia và Êlidê đã khẩn khoản nài xin Thiên Chúa rất nhiều và làm nhiều cử động biểu tượng. Còn Chúa Giêsu chỉ phán có một lời, không cầu, không xin, chỉ ra có một lệnh, tức khắc chàng thanh niên sống lại.
Cảm giác của dân chúng
- Đầu hết sợ sệt.
- Sau họ ca ngợi Thiên Chúa, Đấng duy nhất có thể làm được những việc như thế.
- Quan niệm về thời kỳ cứu chuộc sống động lại trong tâm hồn dân chúng.
Hiệu quả: Danh tiếng Chúa đồn khắp xứ Giuđêa, và các vùng lân cận, vào cả trong ngục thất nơi giam cầm vị Tiền hô. Vì thế ngài đã sai sứ giả đến hỏi Chúa về sứ mạng của Chúa
II. ÁP DỤNG THỰC HÀNH
1) Êlia làm sống lại con trai bà quả phụ ở Sarepta
Trong thời gian Êlia đang ở trong nhà bà quả phụ thì cậu con trai của bà ngã bệnh, và bệnh tình trầm trọng đến nỗi cậu ngã ra chết, vô phương cứu vãn.
Bà quả phụ quá buồn thưa với tiên tri rằng: 'Hỡi người của Chúa, ngài với tôi có liên quan gì chăng? Ngài đến nhà tôi để nhắc lại những lỗi lầm thầm kín của tôi làm cho Chúa giết chết con tôi'. Vị tiên tri nói với bà: Đem nó lại đây. Rồi ông bế lấy đứa nhỏ khỏi tay mẹ nó, đem lên phòng cao nơi ông ở và đặt nó trên giường. Ông kêu cầu Đức Chúa rằng: "Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con. Chúa nỡ hại cả bà goá đã cho con ở nhờ, mà làm cho con bà ấy phải chết sao?" Ba lần ông nằm lên trên đứa trẻ, và kêu cầu Đức Chúa rằng: "Lạy Đức Chúa, Thiên Chúa của con, xin cho hồn vía đứa trẻ này lại trở về với nó!" Đức Chúa nghe tiếng ông Êlia kêu cầu, hồn vía đứa trẻ trở về với nó, và nó sống. Ông Êlia liền bồng đứa trẻ từ phòng trên xuống nhà dưới, trao cho mẹ nó, và nói: "Bà xem, con bà đang sống đây!" Bà nói với ông Êlia: "Vâng, bây giờ tôi biết ông là người của Thiên Chúa, và lời Đức Chúa do miệng ông nói ra là đúng."
2) Êlidê làm cho một em nhỏ sống lại
Một hôm, ông Êlidê đi qua Sunêm. Ở đó có một phụ nữ giàu sang. Bà ta giữ ông lại dùng bữa. Từ đó, mỗi lần đi qua, ông đều ghé vào dùng bữa. Bà ấy nói với chồng: "Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa. Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó." Một hôm, ông đến nơi ấy, ông lui vào phòng trên lầu và nghỉ ở đó. Ông nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: "Đi gọi bà Su-nêm." Nó đi gọi bà và bà đến trước mặt nó. Ông Êlidê bảo nó: "Hãy nói với bà ấy: Bà đã quá lo lắng bận rộn vì chúng tôi. Chúng tôi biết phải làm gì cho bà đây? Có cần chúng tôi phải nói một lời với đức vua hay với tướng chỉ huy quân đội cho bà không?" Bà trả lời: "Tôi sống yên hàn giữa dân tôi." Ông Êlidê nói với tiểu đồng: "Nên làm gì cho bà ấy?" Giê-kha-di đáp: "Tội nghiệp, bà ấy không có con trai, mà chồng thì đã già." Ông Êlidê bảo: "Đi gọi bà ấy." Nó đi gọi bà, và bà ấy đến đứng ngoài cửa. Ông Êlidê nói: "Vào thời kỳ này, vào độ này sang năm, bà sẽ được bế con trai." Bà mới nói: "Không, thưa ngài, người của Thiên Chúa, xin đừng lừa dối nữ tỳ ngài!" Quả nhiên, bà ấy có thai, và năm sau, vào thời kỳ, vào độ mà ông Êlidê đã nói, thì bà sinh con trai. Đứa trẻ lớn lên. Một ngày kia, khi đi kiếm cha nó ở giữa những người thợ gặt, nó nói với cha: "Ôi, cái đầu con! Cái đầu con!" Người cha bảo anh đầy tớ: "Bồng nó về cho mẹ nó." Người tớ trai bồng nó, đem về cho bà mẹ. Đứa trẻ ngồi trên đầu gối bà đến trưa, rồi nó chết. Bà đem nó lên đặt trên giường dành cho người của Thiên Chúa, đóng cửa lại, để nó ở trong rồi đi ra. Bà đi gọi chồng và nói: "Xin ông sai đến tôi một anh đầy tớ và một con lừa cái. Tôi chạy đến người của Thiên Chúa, rồi sẽ về." Người chồng bảo: "Tại sao bà lại đi gặp ngài ngày hôm nay? Không phải là ngày đầu tháng, cũng chẳng phải là ngày sa-bát." Nhưng bà trả lời: "Ông cứ yên tâm!" Rồi bà cho thắng lừa và nói với anh đầy tớ: "Hãy đưa tôi đi và lên đường! Chỉ dừng xe lại khi tôi bảo." Bà lên đường và đi đến với người của Thiên Chúa ở núi Các-men. Vừa thấy bà đằng xa, người của Thiên Chúa nói với Giê-kha-di, tiểu đồng của ông: "Kìa bà Su-nêm. Con hãy chạy ra đón và nói với bà ấy: "Bà có được mạnh khoẻ không? Ông nhà có được mạnh khoẻ không? Cậu bé có được mạnh khoẻ không?" Bà trả lời: "Vâng, mạnh khoẻ cả." Khi đến gần người của Thiên Chúa ở trên núi, bà ôm lấy chân ông. Giê-kha-di tiến tới, đẩy bà ra, nhưng người của Thiên Chúa bảo: "Để yên cho bà ấy, vì tâm hồn bà đang phải cay đắng. Đức Chúa đã giấu ta điều ấy, Người không cho ta biết." Khi ấy, bà nói: "Nào tôi có xin ngài cho tôi được đứa con đâu? Tôi đã chẳng nói: "Xin đừng đánh lừa tôi, đó sao?" Ông Êlidê bảo Giê-kha-di: "Hãy thắt lưng, cầm gậy của ta mà đi! Gặp ai thì đừng có chào, ai chào thì đừng đáp lại. Ngươi sẽ đặt gậy của ta trên mặt cậu bé." Mẹ cậu bé nói: "Có Đức Chúa hằng sống và có ngài đang sống đây, tôi xin thề sẽ không rời xa ngài." Ông trỗi dậy và đi theo bà. Giê-kha-di đã đi trước hai người và đặt gậy trên mặt cậu bé; nhưng không nghe thấy tiếng, không thấy động đậy. Anh ta quay lại đón ông Êlidê và trình ông: "Cậu bé đã không thức dậy." Khi ông Êlidê tới nhà thì cậu bé đã chết, nằm trên giường của ông. Ông đi vào chỗ cậu bé, đóng cửa lại, chỉ có hai người ở bên trong, rồi cầu nguyện với Đức Chúa. Ông lên giường nằm lên trên đứa trẻ, kề miệng ông trên miệng nó, kề mắt ông trên mắt nó, đặt bàn tay ông trên bàn tay nó. Ông cứ nằm trên đứa trẻ, da thịt nó nóng lên. Ông đi đi lại lại trong nhà, rồi lại lên nằm trên nó; cậu bé hắt hơi đến bảy lần, và mở mắt ra. Ông Êlidê gọi Giê-kha-di và bảo: "Đi gọi bà Su-nêm." Nó đi gọi bà; bà đến với ông, ông nói: "Bà hãy đem con đi!"
Giáo Huấn của Công Đồng Vatican II
Chúa Giêsu Kitô là người được Thiên Chúa sai đến: "Sau khi phán dạy nhiều lần, nhiều cách qua các Tiên Tri, "nay là thời cuối cùng, Thiên Chúa đã nói với chúng ta qua Chúa Con" (Dth 1,1-2). Thực vậy, Ngài đã sai Con Ngài là Ngôi Lời vĩnh cửu, Đấng sáng soi mọi người, đến sống giữa loài người và nói cho họ nghe những điều kín nhiệm nơi Thiên Chúa (x. Gio 1,1-18). Bởi vậy, Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể "là người đã được sai đến với loài người", "nói tiếng nói của Thiên Chúa" (Gio 3,34) và hoàn thành công trình cứu rỗi của Chúa Cha đã giao phó cho Ngài thực hiện (x. Gio 5,36; 17,4). Vì thế, chính Ngài, Đấng mà ai thấy, tức là thấy Chúa Cha (x. Gio 14,9), đã đến bổ túc và hoàn tất mạc khải, bằng tất cả sự hiện diện và tỏ mình qua lời nói cũng như việc làm, dấu chỉ và phép lạ, nhất là qua cái chết và sự sống lại vinh quang từ kẻ chết, sau cùng bằng việc phái Thần Chân Lý đến, bằng chứng tích của một Thiên Chúa, Ngài xác nhận Thiên Chúa hằng ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và sự chết, rồi phục sinh chúng ta để được sống đời đời.
Vậy nhiệm cuộc Kitô giáo, vì là giao ước mới và vĩnh viễn, sẽ không bao giờ mai một. Chúng ta không phải chờ đợi một mạc khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta hiện đến trong vinh quang (x. 1Tm 6,14; Tit 2,13).
(Hiến Chế Tín Lý Về Mạc Khải Của Thiên Chúa – số 4)

11. Gợi ý suy niệm của Lm. Carôlô
(Trích dẫn từ 'Hạt Giống Nảy Mầm')
A. Hạt giống...
Chúa Giêsu cứu sống con trai bà góa thành Naim:
- Tất cả mọi người hôm đó chẳng ai mở lời xin Chúa giúp. Ngài ra tay cứu giúp chỉ vì Ngài động lòng thương.
- Chúa chạnh lòng trước cảnh mẹ góa con côi, tre già khóc măng non.
- Cứu sống đưa con trai xong, Chúa còn tế nhị trao nó lại cho mẹ nó.
B.... nẩy mầm.
1. Trái tim con người vốn giàu tình thương. Nhưng vì nhiều lý do, trái tim có thể bị chai lì đi, không còn xúc động gì trước cảnh khổ của người khác.
- Thấy người nghèo thường quá, tôi không còn cảm được cái khổ của người nghèo.
- Thấy người bệnh thường quá, tôi không còn cảm được nỗi đau của họ.
- Thấy người tội lỗi quen quá, tôi dửng dưng nhìn người ta ngày càng chìm sâu trong tội...
Lạy Chúa, xin đổi trái tim bằng đá của con bằng trái tim bằng thịt.
2. Xin Chúa cũng dạy con biết tế nhị: thấy được nhu cầu người khác trước khi họ xin con giúp, và giúp họ cách tế nhị nhẹ nhàng như hôm đó Chúa đã trao đứa con lại cho người mẹ.
3. "Tiến lại gần, Ngài chạm đến quan tài": việc này bị luật coi là ô uế. Nhưng để an ủi gia đình người chết, và để "tiến lại gần" (ý muốn được gần gũi với người đau khổ), Chúa không ngại gì cả. Yêu thương giúp đỡ đòi phải can đảm và hy sinh.
4. Chuyện người mẹ Naim đau khổ được Chúa cứu giúp khiến tôi nghĩ đến cảnh khổ của bản thân mình. Bà không biết người đàn ông đứng ở cổng thành hôm ấy là Chúa Giêsu, Đấng có quyền năng cứu sống. Bà không ngõ lời xin Chúa. Nhưng Chúa chạnh lòng thương, tự động Chúa lại gần và Chúa kéo bà ra khỏi cơn đau khổ.
Chúa lúc nào cũng ở gần tôi. Khi tôi phải khổ, Chúa cũng chạnh lòng và Ngài sẵn sàng cứu giúp. Tôi không bao giờ cô đơn.
5. "Chúa Giêsu lại gần sờ vào quan tài và nói: 'Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy chỗi dậy'. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói" (Lc 7,14-15)
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ... Chúa nhựt nào Giang cũng đi câu cá. Mai nằm lì trên giường. Tin và Sơn phóng xe đi chơi. Bích thì gọi điện thoại cho bạn. Này có ai gọi mình thì phải?
Bữa nay mình không muốn đến nhà thờ. Bài giảng dài lê thê và khó hiểu quá. Xem phim hoạt hình trên Tivi, hay mở máy hát nghe nhạc, hoặc gọi điện thoại đấu láo với bạn bè còn thích hơn. Này rõ ràng có ai gọi mình mà!
Lạy Chúa, con chỉ nghe toàn những tiếng gọi của nhu cầu bản thân. Còn tiếng gọi của Chúa sao mơ màng quá, khó nghe quá. Chúa đã gọi người thanh niên chỗi dậy từ cõi chết, xin Ngài cũng hãy gọi con quay lại từ những đam mê bất chính của con. (Hosanna)

12. Chú giải của Noel Quesson
Sau đó, Đức Giêsu đi đến thành kia gọi là Nain.
Ngôi làng này hiện nay vẫn còn, dưới phân núi Tabo, cách Nadarét mười kilômét. Đức Giêsu đi bộ đến đó có nhiều người đi theo Người, gồm cả đàn ông và đàn bà, họ khao khát lắng nghe lời Người và nhìn xem các phép lạ của Người.
Có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người khi Đức Giêsu đến gần cửa thành, thì kìa người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất và mẹ anh ta lại là một bà góa.
Luca, thánh sử của Đức Maria (ngài là người duy nhất cũng kể lại nhiều kỷ mềm về thời thơ ấu của Đức Giêsu) hẳn đã thu lượm các chi tiết này từ chính miệng của Đức Maria. Sự sống lại này được thực hiện trong một ngôi làng gần Nadarét không thể không đến tai của Đức Maria. Và sau khi con Mẹ sống dậy, Người ta biết bằng cách nào mà các kỷ niệm có thể trỗi dậy khi Mẹ có thể đối chiếu hai hoàn cảnh: Một góa phụ... một con trai duy nhất đã chết...được trao lại cho bà mẹ...
Luca, thánh sử về phụ nữ, không bỏ qua việc nhấn mạnh những chi tiết cảm động. Trong Kinh Thánh "các quả phụ" chính là biểu tượng của loài người nghèo mà Thiên Chúa bảo vệ một cách đặc biệt. Ở đây, sự đau thương tới mức cùng cực. Người đàn bà ấy đã thình lình chịu hai cái chết sớm: chồng bà và con trai bà. Vả lại trong thời đại ấy (ngày nay cũng chẳng như thế hay sao, dù quy mô có khác?) điều kiện của người phụ nữ ' đặc biệt khắc nghiệt khi họ không có chăng, và con trai: Chỉ người chồng hoặc con trai đủ để tạo thành sự bảo trợ hợp pháp và bảo đảm các phương tiện sống cho bà. Tôi có quan tâm đến những cảnh nghèo khó và khốn khổ âm thầm, những cảnh khốn khổ đã trở thành quen thuộc?
Có một đám đông trong thành cùng đi với bà.
Trong tất cả các thánh sử, Luca là người kể chuyện biết mồ tả tỉ mỉ câu chuyện như trong hình thức văn chương. Ở đây hiệu quả của phim ảnh đã được chuẩn bị tốt: Vậy có hai "đám đông", hai đoàn người sắp gặp nhau ở cổng thành Nain. Một đám ma đi ra. Các môn đệ của Đức Giêsu tiến đến.
Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương.
Không phải vì sự tình cờ mà Luca sử dụng từ "O kurios" trang trọng để nói về Đức Giêsu. Luca chiếu trước ánh sáng Phục sinh trên người chết ấy mà người ta đem đi chôn. Danh hiệu Đức Chúa chỉ Chúa Thượng (Yahvé) trong bản Bảy mươi (Kinh Thánh dịch ra tiếng Hy Lạp một vài năm trước Đức Kitô) và Giáo Hội tiên khởi sẽ áp dụng cho Đấng Phục sinh. Luca thích dùng từ' này trước cả lúc Chúa Phục sinh. Đó là cách ngài dùng để gđit lên tăn tính mầu nhiệm của Đức Giêsu Nadarét. Luca dùng mười chín lần danh hiệu vinh quang này, trong khỉ Mát-thêu và Máccô mỗi Người chỉ dùng có một lần. Cũng thế, từ "chạnh lòng thương", "esplanchnisthè" không được dùng mà không có lý sao. Từ Hy Lạp này, có nghĩa chính xác là "xúc động đến ruột gan", hầu thư luôn luôn được áp dụng cho tình yêu thương của Thiên Chúa. Đối với loài người trong các Phúc âm. Phần đông các tôn giáo lớn đã được xây dựng trên ý tưởng về một thượng đế "vô cảm", "xa lạ", "toàn năng". Ít-ra-en đã nhập được mạc khải về một Thiên Chúa "như mẹ hiền" có lòng dạ, ruột gan (Hôsê 1,6-7 - 2,21; Thánh Vịnh 51,3..; Isaia 49,15). Còn giờ đây trong Đức Giêsu, Thiên Chúa xuất hiện rất là nhân bản, dễ bị tổn thương, gần giũ, có thể cảm xúc trước cảnh tang thương. Đức Giêsu chính là nhân tính của Thiên Chúa, có thể nói như Vậy.
Không nên có ý định hợp lý hóa những điều đó. Các Công đồng của ba thế kỷ đầu tiên, dù đã sử dụng những ý niệm rõ ràng hơn của triết lý HyLạp nhưng ít ra đã can đảm không giản lược mầu nhiệm Đức Giêsu và khẳng định một cách rõ ràng hai khía cạnh mâu thuẫn trong ngôi vị của Người vừa là người vừa là Đức Giêsu. "Đức Chúa xúc động đến ruột gan". Luca đã dám viết nhu thế. Lạy Chúa là Đức Giêsu, con cám ơn nhân tính của Ngài? Trong giây phút này đây, con muốn chiêm ngắm sự xúc động đang làm trái tim Chúa thổn thức Trước mọi người đã' qua đời của trái đất này, Lạy Chúa, Chúa luôn luôn có sự xúc động đó. Chúa sắp làm gì trong- ngôi làng bé nhỏ Nain gần cổng thành? Chúa sẽ ban cho dấu chỉ nào?
Người nói: "Bà đừng khóc nữa!" Rồi Người lại gần sờ vào quan tài.
Tôi nghĩ đến mọi bà mẹ đang khóc thương con mình... đã chết, đã đi xa, lầm lạc, đã gieo bao lo lắng, đánh mất đức tin. Mầu nhiệm đáng tôn trọng của những dòng nước mắt các bà mẹ của chúng ta là một phần sức nặng không thể tránh khỏi của thân phận con người. Với tất cả những ai tín thác nơi Người và đi đến tận cùng đức' tin của họ thì Đức Giêsu sẽ mang lại một sự an ủi chân thật. Không có một tấm lòng đau buồn nào của người mẹ khóc than mà Đức Giêsu không dịu dàng đến gần nói nhỏ: "Đừng khóc nữa". Lạy Chúa xin hãy tăng thêm đức tin trong con.
Các người khiêng dừng lại, Đức Giêsu nói: "Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!"
Từ "hãy trỗi dậy!" này là mệnh lệnh cách của động từ "égeirein" là động từ được dùng để chỉ sự sống lại của Đức Giêsu (Lc 9,22 - 24,6-34), và sự sống lại của những người được chọn trong ngày cánh chung (Lc 20,37). Nhưng động từ này cùng chỉ điều xảy ra một cách mầu nhiệm trong phép rửa tội: "Tỉnh giấc đi, hỡi người còn đang ngủ! Từ chốn tử vong, trỗi dậy đi nào! Đức Kitô sẽ chiếu sáng ngươi''(Ephêsô 5,14). "Anh em đã cùng được mai táng với Đức Kitô khi chịu phép rửa, lại cùng được trỗi dậy với Người (Côlôsê 2;12). "Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa" (Côlôsê 3,l).
Vì thế, lời khẳng định sau đây của Garaudy là đúng nhưng không đầy đủ: ' "Sự sống lại đối với Đức Kitô và các môn đệ Người chính là một cách tồn tại mới...phép lạ thật sự có thể nhận thấy và không thể bác bỏ về mặt lịch sử. Đó là một sự việc lạ lùng còn hơn cả một sự vi phạm thần kỳ các quy luật của sinh học, hơn cả một câu chuyện về ngôi mộ trống, hoặc về một trận động đất đáp lại tiếng kêu của người đang hấp hối... phép lạ thật sự, không chỉ là Đức Kitô, mà là tất cả các môn đệ ngày hôm trước còn sợ hãi); họ đã bắt đầu sống một cuộc sống mới cuộc sống của Thần Khí" (Lời kêu gọi gởi những người sáng, tr. 182).
Nếu sự sống lại của Đức Giêsu chỉ là chuyện "thần kỳ" thì mọi cuộc "nổi dậy để giải phóng" của chúng ta rất đáng nực cười. Sự sống lại đích thực là sự thánh thiêng. Nó không thuộc quyền năng của con người. Và vì thế, chúng ta hãy, nói rõ điều này, sự sống lại không thể do tưởng tượng, cũng không thể do lý luận bằng những ý niệm rõ ràng.
Tuy nhiên, người ta không thể nói rằng sự sống lại trái với tự nhiên, "vi phạm quy luật của sinh học", ít là trong một ý nghĩa nào đó. Bởi lẽ sự trường tồn là ước nguyện phổ quát của toàn 'thể tự nhiên: Mọi sinh vật, dù là thực vật hay động vật đều được khắc ghi trong nó một bản năng.mạnh mẽ và dai dẳng về sự bảo tồn và sinh sản để được sống mãi... và mọi nền văn minh và tôn giáo đều có niềm tin vào sự sống đời đời. Chỉ có con người phương Tây từ ít lâu nay đã đánh mất xác tín vào sự sống đời đời. Về vấn đề này, so với toàn thế giới, họ chỉ là thiểu số.
Về vấn đề phổ quát ấy, tính độc đáo của đức tin Kitô giáo hợp lý tuyệt vời theo cách của nó. Vì là một "mạc khải" đến từ Thiên Chúa, đức tin ấy chủ yếu là dám khẳng định rằng với Đức Giêsu, Thiên Chúa đã bước vào số phận hay chết của con người chúng. ta (Phi-lip-phê 2,6-11) để lôi kéo chúng ta đi theo số phận thánh thiêng hằng sống của Người: "Như Chúa Cha, là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ chờ tôi mà được sống như vậy" (Ga 6,57). "Và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6,40).
Phép rửa tội là sự tham dự trước vào đời đống vĩnh cửu ấy: "Vì được dìm vào trong cái chết của Người, chúng ta đã cùng được mai táng với Người. Bởi thế cũng như Người đã được sống lại từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống một đời sống mới" (Rôm 6,4).
Còn chúng ta, những người đã chịu phép rửa tội, chúng ta có thật sự sống một đời sống mới chưa?
Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giêsu trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kính sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: "Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người". Lời này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lên cận.
Từ "viếng thăm" của Thiên Chúa rất gợi ý. Một cuộc "viếng thăm" là một sự can thiệp tạm thời ngắn ngủi. Như thế Thiên Chúa không hiện ra cách liên tục như quyền lực chiến thắng sự chết. Và vì "một thanh niên" ngày hôm đó sống lại trong một ngôi làng miền Giu-đê trong số hàng tỉ người đã chết, thật vậy, từ lúc thế giới bắt đầu. Nhưng trong cuộc viếng thăm đặc biệt này mà Thiên Chúa thực hiện trong Đức Giêsu, Người đã cho chúng ta "dấu chỉ thời thế mạt": Một ngày kia, khi Thiên Chúa sẽ là "tất cả trong tất cả", lúc đó sẽ không còn nước mắt, sẽ không còn sự chết, tang tóc, kêu than và đau khổ nữa (Khải huyền 21,4). Thế gian không còn phi lý nữa. Nó không còn bị giam hãm trong sự hữu hạn. Không phải là Thiên Chúa, nghĩa là bất toàn trong một thời gian, chúng ta được hứa cho thông phần vào "bản tính của Thiên Chúa" (2 Pí I,4).
Sự sống lại ấy của người thanh niên ở Nain liên quan đến tôi ở điểm cao cả nhất.

13. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
Phục Sinh Cho Con Trai Bà Góa Thành Nain
Một trình thuật phép lạ thật khéo. Việc chữa lành này, trong đó Chúa Giêsu cho một kẻ chết trở về cuộc sống trần gian, là riêng của Luca; ngoài câu chuyện về con gái ông Gia-ia (8,49tt, với các đoạn song song ở Maccô và Matthêu), Luca còn kể lại hai lần làm cho kẻ chết sống lại nữa trong Công vụ do Phêrô (Cv 9,36-43) và do Phaolô (Cv 20,7-12). Trình thuật này được sắp xếp ở đây để chuẩn bị lời đáp của Chúa Giêsu cho câu hỏi của vị Tẩy Giả về căn cước của Ngài: "Kẻ chết sống lại" (7,22).
Hai đám đông gặp nhau, một đám theo Chúa Giêsu, đám kia theo một bà goá đi chôn đứa con trai ở ngoại thành. Theo phong tục, người ta chôn cất chính ngày chết hay vài giờ sau đó. Không phải vì người chết mà Chúa Giêsu chạnh lòng thương, mà vì người phụ nữ từ nay không còn đứa con trai để nuôi sống gia đình nữa.
Trình thuật của Luca đưa độc giả theo hai hướng. Một đàng, trong diễn tiến của trình thuật Luca gọi Chúa Giêsu là Chúa, đúng tước hiệu của Đấng bị đóng đinh và đã sống lại (Cv 2,36); đó là tuyên xưng Chúa Giêsu là vị chiến thắng tử thần. Đàng khác, Luca tăng thêm những quy chiếu về một trong hai phép lạ tương tự trong Cựu Ước, việc Phục Sinh con trai bà goá thành Sarepta do Êlia (1V 17,17-24), bà goá này đã được Chúa Giêsu nhắc đến ở Nagiaret khi nói về phép lạ khác của Êlia mà bà đã được hưởng nhờ (4,26); Luca nói đến cửa thành đến một bà goá mất đứa con trai duy nhất, đến người chết lại nói được, đến công thức: "Người trao anh ta cho mẹ anh". Đó là những ghi chú để cho thấy rằng Chúa Giêsu có một quyền năng giống như Êlia, vị ngôn sứ vĩ đại sẽ trở lại vào thời kỳ cuối cùng (Ml 3,22-24); hơn nữa, những gì Cựu Ước nói về Êlia cho biết rõ hơn về Chúa Kitô. Đối với Luca, người cẩn thận tránh đồng hoá vị Tẩy Giả với Êlia (khác với mc 9,11-13; Mt 17,10-13), Chúa Giêsu đích thị là Êlia của thời cuối cùng.
Một trong những nét của trình thuật Luca khác với khuôn mẫu của Cứu chuộc không phải là không có ý nghĩa. Khi mà Êlia phải nằm dài ra lên trên đứa bé (1V 17,21) và người kế vị ông là Êlisê phải thực hiện bảy lần thở nhân tạo (2V 4,34-35), thì Chúa Giêsu chỉ cần một lời nói; việc Ngài sờ vào quan tài chỉ là để cho đoàn đưa đám ngừng lại. Với uy quyền, Ngài truyền cho người thanh niên trỗi dậy, đó là một trong hai từ được dùng trong bài giảng Phục Sinh để tuyên xưng việc Phục Sinh của Chúa Giêsu; chính với tư cách là Đức Chúa có quyền trở nên sự sống và sự chết mà Chúa Giêsu hành động. Lời nói của Ngài tái lập liên hệ giữa chàng thanh niên với đám người chung quanh, đã bị cắt đứt do cái chết: anh bắt đầu nói. Cần ghi nhận rằng việc anh được trả lại cho mẹ anh ta nhắc ta nhớ chính vì cảm thương bà mà Chúa Giêsu đã làm như thế.
Như rất thường thấy trong các trình thuật phép lạ, đoạn kết ghi lại phản ứng của những người chứng kiến. Tất cả, đám đông và các môn đệ (cc.11-12), nhận thấy nơi Chúa Giêsu một vị Ngôn Sư vĩ đại đã trỗi dậy –cũng một động từ như câu 14! Việc nhận biết này dĩ nhiên chưa phải là trọn vẹn, bởi vì nó không tuyên xưng Chúa Giêsu là vị Ngôn Sứ cuối cùng, Đấng phải đến (c.19). Tuy nhiên không phải nó không có giá trị, bằng chứng là mọi người nhận ra trong phép lạ, cuộc viếng thăm của Thiên Chúa, Đấng đến để giải thoát Israel, đó là sự can thiệp đầy nhân hậu mà Giacaria đã ca tụng (1,68-78). Và tin này được đồn ra trong khắp cả miền Giuđê và vùng lân cận.
Đâu là biến cố lịch sử ẩn tàng trong câu chuyện về việc trở lại tạm thời với đời sống trần thế – quả thực, người thanh niên ở Nain này đã chết thật sự một tháng, mười năm hoặc năm mươi năm sau khi Chúa Giêsu cho anh sống lại? Vào thế kỷ thứ nhất, nơi dân Do Thái, người ta nghĩ rằng tinh thần của người chết lảng vảng trong ba ngày xung quanh thân xác trước khi xuống nơi chốn dành cho người chết. Cũng tương tự như vậy, nghiên cứu hiện đại cho biết cái chết không phải là việc đứt đoạn trong giây lát, mà là một tiến trình phức tạp, là nhiều những tan vỡ liên tiếp cộng lại; cái chết gồm nhiều giai đoạn. Nhân danh điều gì để từ chối tin rằng một thanh niên, đã vượt qua nhiều rào cản của sự chết, đặc biệt là sự bất hiệp thông, đã có thể trở lại cuộc sống nhờ lời của Chúa Giêsu? Dù sao, vấn đề của các cộng đoàn Kitô sau Phục Sinh thì lại hoàn toàn khác; họ không tìm để biết cái gì đã xảy ra sau khi người thanh niên được chữa lành một cách lạ lùng! Họ đã khởi đi từ sự kiện này để giảng dạy một giáo lý về quyền năng của Chúa Kitô trên cái chết: Đấng Phục Sinh sẽ ban cho những kẻ thuộc về Ngài, sau khi họ chết, một đời sống vĩnh hằng hoàn toàn mới mẻ.
14.Chúa Nhật X Năm – C
(Lc 7, 11-17)
Bước vào Chúa nhật X thương niên, Giáo hội muốn giúp chúng ta khám phá ra khuôn mặt của một Vì Thiên Chúa tình thương, qua chính con người, lời nói cũng như việc làm của Đức Giêsu làm cho con trai bà góa thành Na-in chỗi dậy từ cõi chết. Đây là dấu chỉ vĩ đại của Thiên Chúa là làm cho kẻ chết sống lại bởi đặc tính của Ngài là làm cho sống, khiến cho dân chúng phải kêu lên: "Một vị ngôn sứ vĩ đại xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người." (Lc 7, 16)
Sống mãi, sống vui và sống hạnh phúc là ước muốn của con người. Tiếc thay, cái chết là rào cản lớn nhất khiến con người buồn sầu, thất vọng. Đức Giêsu phục sinh con trai bà góa thành Na-in chứng tỏ Thiên Chúa viếng thăm không chỉ một số người Ít-ra-en, mà là toàn thể nhân loại; không chỉ hoàn sinh để rồi lại chết như một vài trường hợp được sống lại từ cõi chết, nhờ đó con người hy vọng và tin tưởng: Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của con, con còn sợ người nào ? Chúa là thành lũy bảo vệ đời con, con khiếp gì ai nữa? Chính bọn thù địch, bọn làm khổ con phải lảo đảo té nhào. (Ca nhập lễ)
• Bài đọc Phụng vụ Năm A
- Ôs 6, 3-6: Ta muốn tình yêu, chớ không muốn hy lễ
- Tv 50, 1: Chúng ta hãy tiến bước trên đường của Chúa
- Rm 4, 18-25: Abraham vững tin mà làm sáng danh Chúa
- Mt 9, 9-13: Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi
• Bài đọc Phụng vụ Năm B
- St 3, 9-15: Loan báo cuộc chốn Satan
- Tv 130, 1: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi và Chúa rất giầu ơn cứu độ
- 2 Cr 4, 13 à 5, 1: Niềm hy vọng của thánh Phaolô trong những cơn thử thách
- Mc 3, 20-35: Chúa Giêsu chống lại Satan
• Bài đọc Phụng vụ Năm C
- 1 V 17, 17-24: Êlia, Thiên Chúa đã cho con trai bà góa sống lại.
- Tv 30, 3: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa, vì Chúa giải thoát tôi.
- Gal 1, 11-19: Tin Mừng của Thánh Phaolô không phải do loài người
- Lc 7, 11-17: Đức Giêsu cho con bà góa thành Nain sống lại
Thiên Chúa là Đấng tốt lành, vì yêu thương, đã tạo dựng con người, và cho con người chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, vì yêu thương, Thiên Chúa đã không bỏ mặc con người trong đau khổ, Ngài chữa lành mọi bệnh tật, trả lại sự sống cho con người, mang lại cho con người sự bình an, niềm hy vọng. Thiên Chúa vẫn mãi mãi là Thiên Chúa yêu thương con người. Nếu như thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã nhận lời Ngôn sứ Ê-li-a cầu xin Chúa cho đứa con của bà goá nghèo thành Xê-rép-ta được sống (1 V 17,17-24), thì thời Tân Ước, trước nỗi đau khổ tột cùng của bà goá thánh Na-im khi đứa con duy nhất, là niềm vui, chỗ dựa tinh thần của bà chết, Đức Giêsu đã chạnh lòng thương, cho anh thanh niên trỗi dậy từ cõi chết, mang lại niềm vui mẹ anh và cho mọi người.
Thiên Chúa luôn đồng hành với con người, bởi con người được sáng tạo giống hình ảnh Chúa. Con Thiên Chúa là Đức Giêsu đã làm người, sống kiếp phận con người, để phục hồi phẩm giá con người đã bị méo mó do tội lồi.
Năm Đức Tin, kỷ niệm 50 năm khai mở Công đồng Vaticanô II. Hiến chế (Gaudium et Spes), • 22 dậy chúng ta rằng:
Chúa Kitô, Con Người Mới là "hình ảnh của Thiên Chúa vô hình" (Col 1,15), chính Người là con người hoàn hảo đã trả lại cho con cháu của Adam hình ảnh Thiên Chúa đã bị tội nguyên tổ làm sai lệch. Bởi vì nơi Người bản tính nhân loại đã được mặc lấy chứ không bị tiêu diệt, do đó chính nơi chúng ta nữa bản tính ấy cũng được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt. Bởi vì, chính Con Thiên Chúa khi nhập thể, một cách nào đó đã kết hợp với tất cả mọi người. Người đã làm việc với bàn tay con người, đã suy nghĩ bằng trí óc con người, đã hành động với ý chí con người, đã yêu mến bằng quả tim con người. Sinh bởi trinh nữ Maria, Người đã thực sự trở nên một người giữa chúng ta, giống chúng ta mọi sự, ngoại trừ tội lỗi.
Là Chiên vô tội Người tự ý đổ máu ra để cho chúng ta được sống, và chính trong Người Thiên Chúa đã hòa giải chúng ta với Thiên Chúa và hòa giải giữa chúng ta với nhau cũng như đem chúng ta ra khỏi ách nô lệ của ma quỉ và tội lỗi, do đó mỗi người chúng ta đều có thể nói như Thánh Tông Ðồ rằng: Con Thiên Chúa "đã yêu thương tôi, lại hiến thân cho tôi nữa" (Gal 2,20). Chịu đau khổ cho chúng ta, không những Người nêu gương để chúng ta theo vết chân Người, nhưng Người còn mở ra con đường mới để nếu chúng ta theo Người thì sự sống và cái chết sẽ được thánh hóa và có một ý nghĩa mới.
Con người Kitô hữu khi trở nên giống hình ảnh Chúa Con là Trưởng Tử trong đoàn anh em đông đúc, họ nhận được "những hoa trái đầu mùa của Thánh Thần" (Rm 8,23)... Nhờ Thánh Thần làm "bảo chứng cho quyền thừa tự" (Eph 1,14), toàn thể con người được canh tân từ nội tâm cho tới khi "thân xác được cứu rỗi" (Rm 8,23): "Nếu Thánh Thần Chúa là Ðấng đã khiến Chúa Giêsu từ kẻ chết sống lại cư ngụ trong anh em, chính Ðấng đã khiến Chúa Giêsu Kitô từ kẻ chết sống lại đó cũng sẽ làm sống động thân thể hay hư nát của anh em nhờ Thánh Thần Ngài ở cùng anh em", (Rm8,11)...
Ðó là tính chất và sự cao cả của mầu nhiệm con người, mầu nhiệm được Mạc Khải Kitô giáo soi sáng cho các tín hữu. Vậy nhờ Chúa Kitô và trong Chúa Kitô bí ẩn về đau khổ và sự chết được sáng tỏ, bí ẩn đó đè bẹp chúng ta nếu chúng ta không biết đến Phúc Âm. Chúa Kitô đã sống lại nhờ sự chết của mình. Người đã hủy diệt sự chết và Người đã ban cho ta dồi dào sự sống để là con cái trong Chúa Con chúng ta kêu lên trong Thánh Thần: Abba, lạy Cha!
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ







Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét