Thứ Sáu, 22 tháng 4, 2016

HÀNH HƯƠNG SAPA & XUẤT HIỆN KIẾN BA KHOANG VA MUỖI CỰC ĐỘC
























                     CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH – Năm C
Lời Chúa: Cv 1  4,21b-27; Kh 21,1-5a; Ga 13,31-33a.34-35

MỤC LỤC



1. Yêu thương

Từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, tình yêu vốn là một đề tài được khai thác nhiều nhất. Nào sách báo và phim ảnh; nào âm nhạc và tuồng kịch; nào truyền thanh và truyền hình…tất cả đều nói đến tình yêu. Tuy nhiên, nhiều khi tình yêu lại được nhìn từ một góc cạnh lệch lạc và què quặt, khiến cho tình yêu ngày hôm nay như đang đi trên bờ một vực thẳm với những sa đoạ trong nếp sống, những suy đồi trong luân lý và những đổ vỡ trong hôn nhân.

Thế nhưng, Chúa Giêsu đã đến và Ngài đã xác định cho chúng ta một lập trường rõ rệt, Ngài đòi hỏi nơi chúng ta một tình yêu chân thành dành cho Ngài cũng như dành cho tha nhân: Các con phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình.

Nhìn vào xã hội, chúng ta thấy: mặc dù tình yêu đang bị thui chột và tàn úa đi rất nhiều, nhưng không phải là không còn những tình yêu chân thành vá tốt đẹp. Tình yêu không chết, nhưng nó phát triển một cách âm thầm, không ồn ào, không rùm beng quảng cáo.

Đúng thế, ngày hôm nay vẫn còn có những người vì yêu thương mà hết năm này qua năm khác, hy sinh cả cuộc đời để chăm sóc cho những kẻ ốm đau. Ngày hôm nay vẫn còn có những người dâng hiến bản thân để làm sáng danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn.

Ngày hôm nay vẫn còn có những ông chồng, mặc dù đời sống kinh tế gặp nhiều khó khăn, vẫn trung thành với người vợ bệnh tật và vẫn luôn chịu khó làm lụng để chăm sóc cho đàn con thơ dại. Ngày hôm nay vẫn còn những người vợ ân cần lo lắng cho chồng, cho con, mặc dù người chồng thì độc ác và con cái thì ngang bướng ngỗ nghịch.

Vậy đâu là suối nguồn mang lại sức mạnh nâng đỡ cho những tình yêu yêu cao đẹp ấy? Câu trả lời duy nhất, đó là sức mạnh và vẻ cao đẹp của tình yêu chỉ có thể xuất phát từ nơi Thiên Chúa, từ nơi Đức Kitô mà thôi.

Đúng thế, tình yêu cũng có cái gia phả, cũng có cái gốc gác và cội nguồn của nó. Nó xuất từ nơi Thiên Chúa, bởi vì Ngài là nguồn mạch mọi thương yêu, như lời thánh Gioan Tông Đồ đã xác quyết: Thiên Chúa là tình yêu. Rồi từ đó, vũ trụ vạn vật và nhất là con người đều là những dấu chỉ, những biểu hiện của một tình yêu bao la mà Ngài đã thực hiện mà thôi.

Hơn thế nữa, mặc dù biết trước con người sẽ phản bội, quay lưng chống lại Ngài, thế mà Ngài vẫn yêu thương và đi bước trước đến với chúng ta qua mầu nhiệm cứu độ và thập giá, như lời thánh Gioan Tông đồ cũng đã xác quyết: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta ngay khi chúng ta còn là tội nhân. Ngài đã yêu thương nhân loại đến nỗi đã trao ban chính Con Một Ngài, để những ai tin vào danh Con Một Ngài thì sẽ được sống. Chính vì thế, Ngài có quyền đòi hỏi nơi chúng ta một tình yêu thương chân thành, bởi vì tình yêu chỉ có thể được đáp trả bằng tình yêu mà thôi.

Đồng thời Đức Kitô cũng đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu tuyệt vời nhất: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu. Đúng thế, Ngài đã đổ máu ra để cứu chuộc chúng ta, nhờ đó chúng ta được xoá bỏ bản án của tội nguyên tổ, lấy lại địa vị làm con cái Chúa. Kể từ nay, chúng ta là anh em một nhà vì có chung cùng một người cha là Thiên Chúa. Chính vì thế, Ngài đã truyền dạy: Phải kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu thương anh em như chính mình. Đồng thời, nhờ tình bác ái yêu thương đối với anh em, mà chúng ta trở nên người môn đệ đích thực của Chúa: Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.

Như vậy, tình yêu đối với Thiên Chúa và tình yêu đối với tha nhân chỉ là hai phương diện của một giới luật duy nhất, đó là giới luật yêu thương. Thiên Chúa đang chờ đợi chúng ta nơi những người anh em. Ngài hẹn gặp chúng ta nơi những kẻ bất hạnh và khổ đau, như lời Ngài đã phán: Tất cả những gì các con làm cho một trong số những kẻ bé mọn nhất, là các con đã làm cho chính Ta vậy. Thế nhưng, liệu chúng ta có thực sự tìm gặp Chúa nơi những người anh em của mình hay không?

 

2. Điều răn mới

Suy Niệm
Gandhi được coi là bậc đại thánh của dân Ấn Độ. Ông say mê Kinh Thánh, nhất là bài giảng trên núi. Ông nghĩ rằng Kitô giáo sẽ là câu trả lời thích đáng cho những xung đột giữa các giai cấp ở Ấn. Một ngày nọ ông đến dự lễ tại một nhà thờ. Nhưng người giữ cửa ngăn ông lại, và bảo ông nên đến dự lễ ở một nhà thờ khác dành cho người da đen. Ông đã bỏ đi và không bao giờ quay trở lại.

Có thể chúng ta đã mất một Kitô hữu tốt như Gandhi chỉ vì có sự phân biệt màu da nơi nhà thờ. Biết đâu thế giới này lại chẳng có nhiều Gandhi, họ sống tinh thần Đức Kitô còn hơn cả các Kitô hữu.
"Thầy ban cho anh em một điều răn mới: hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em." Lời trăn trối của Đức Giêsu vẫn làm chúng ta nhức nhối.

Ở đây Ngài không nhắc chúng ta yêu thương người ngoài, nhưng Ngài đòi buộc các môn đệ Ngài yêu thương nhau. Yêu thương nhau trở thành điều răn mới, mới vì Ngài đòi họ phải yêu nhau như Ngài đã yêu họ.

Vấn đề cốt lõi là cảm nhận được tình yêu của Ngài.
Trước khi công bố điều răn mới này, Đức Giêsu đã rửa chân cho môn đệ, trong đó có Giuđa. Ngài cúi xuống bên chân Giuđa để bày tỏ một tình yêu. Sau đó Ngài còn chấm miếng bánh đầu tiên trao cho Giuđa như đưa ra một vẫy gọi thân thương cuối cùng. (x. Ga 13,26) Nhưng vô ích, Giuđa không đổi ý. Anh vẫn ra đi để làm điều mình muốn (x. Ga 13,31). Đức Giêsu biết rõ số phận đang chờ mình. Ngài sẽ yêu đến cùng bằng việc hiến mạng trên thập giá.

Đức Giêsu đã yêu trước khi truyền cho ta yêu nhau. Nếu ta không cảm nhận được tình yêu Ngài dành cho ta, thì ta cũng chẳng thể yêu nhau như Ngài muốn.

Có nhiều dấu hiệu để người ta nhận ra một Kitô hữu: đeo thánh giá nơi cổ, làm dấu thánh giá trước khi ăn... Nhưng theo Đức Giêsu, dấu hiệu đặc trưng của nhóm môn đệ là tình yêu thương mà họ dành cho nhau: cảm thông, tha thứ, cộng tác, hy sinh, chia sẻ, đối thoại... Giữa các môn đệ, có bao dị biệt, bao hàng rào. Nếu không vượt qua được những hàng rào dị biệt này thì coi như việc truyền giáo bị đổ vỡ. Tiếc thay, vẫn chưa có sự hiệp nhất giữa các Kitô hữu khác màu da, khác văn hoá, khác quan điểm chính trị... Có bất đồng giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo ở Nga, giữa người Công Giáo và người Tin Lành ở Bắc Ailen. Đến bao giờ mọi Kitô hữu có thể đọc chung kinh Lạy Cha, mừng chung với nhau lễ Phục Sinh trong một ngày, cử hành chung với nhau một phụng vụ.

Thế giới hôm nay như sa mạc thiếu vắng tình yêu. Ước gì thế giới Kitô trở thành một ốc đảo xanh tươi mời mọi người đặt chân tới.

Gợi Ý Chia Sẻ
·        Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương lẫn nhau? Có những dấu hiệu nào để nhận ra tình yêu thương đó?
·        Bạn thấy nhóm của bạn, giáo xứ của bạn, cộng đoàn của bạn có làm chứng đủ về tình yêu thương nhau trước mặt mọi người chưa?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin dạy chúng con biết cộng tác với nhau trong việc xây dựng Nước Trời ở trần gian. Xin cho chúng con đến với nhau không chút thành kiến, và tin tưởng và thiện chí của nhau. Khi cộng tác với nhau, xin cho chúng con cảm thấy Cha hiện diện, nhờ đó chúng con vượt qua những tự ái nhỏ nhen, những tham vọng ích kỷ và những định kiến cằn cỗi. Ước gì chúng con dám từ bỏ mình, để tìm kiếm chân lý ở mọi nơi và mọi người, nhất là nơi những ai khác quan điểm.

Lạy Cha, xin sai Thánh Thần đến trên chúng con, để chúng con biết lắng nghe nhau bằng quả tim, và hiểu nhau ngay trong những dị biệt. Nhờ sống mầu nhiệm cộng tác, xin cho chúng con được triển nở không ngừng và Thánh Ý Cha được thể hiện trên mặt đất. Amen.


3. Yêu người như Chúa - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt

Bề trên một tu viện Công giáo đến tìm vị ẩn sĩ trên vùng núi Hi mã lạp sơn để trình bày về tình trạng bi đát của tu viện. Trước kia tu viện này là một trung tâm sầm uất. Khách hành hương tấp nập. Nhà thờ lúc nào cũng vang lừng tiếng hát ca cầu nguyện. Tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu. Vậy mà giờ đây tu viện chẳng khác một ngôi nhà hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thưa thớt già nua. Cuộc sống buồn tẻ. Cha Bề trên hỏi vị ẩn sĩ nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã khiến tu viện rơi vào tình trạng suy sụp như hiện nay.

Vị ẩn sĩ ôn tồn bảo: “Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình”. Ông giải thích thêm: “Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người”.

Nhận được lời giải đáp, Cha Bề Trên hớn hở ra về. Cha tập họp các tu sĩ lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang ẩn mình giữa cộng đoàn. Nghe nói thế, mọi người mở to mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang? Nhưng chắc chắn nếu Đấng Cứu Thế đã cải trang thì chẳng ai có thể nhận ra Người. Mỗi người sống chung với ta đều có thể là Đấng Cứu Thế.

Từ ngày ấy mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Mọi người kính trọng nhau. Mọi người quan tâm chăm sóc nhau. Mọi người phục vụ nhau. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sự sống và niềm vui lại trở lại với tu viện. Khách hành hương bốn phương lại tấp nập tuốn về. Lời kinh tiếng hát lại vang lừng trong tu viện. Bị cuốn hút bởi bầu khí vui tươi thánh thiện, nhiều thanh niên đến xin gia nhập cộng đoàn.
Trước kia tu viện mất hết sức sống vì mọi người không thực hành Lời Chúa dạy. Sống cá nhân chủ nghĩa, thờ ơ lãnh đạm với nhau. Nay tu viện tràn đầy niềm vui và sức sống nhờ mọi người biết quan tâm đến nhau, yêu mến và phục vụ nhau.

Trước kia khách hành hương không muốn đến tu viện, các bạn trẻ không muốn vào tu viện vì tu viện không là dấu chỉ môn đệ của Chúa. Không sống theo Lời Chúa, các tu sĩ trở thành những hình ảnh mờ nhạt, không phản chiếu được nét đẹp của Thiên Chúa. Nay khách hành hương nườm nượp kéo đến, các bạn trẻ xếp hàng xin nhập tu, vì họ đã thấy nơi các tu sĩ có dấu chỉ của người môn đệ Đức Kitô, có lòng yêu thương nhau. Lòng yêu thương đã khiến các tu sĩ trở nên hình ảnh của rõ nét của Thiên Chúa, chiếu toả sự sống của Thiên Chúa, loan báo hạnh phúc Thiên đàng. Lòng yêu thương ấy có sức hấp dẫn, có sức thuyết phục, có sức mời gọi mãnh liệt vì qua đó, mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa.

Yêu thương nhau đó là giới răn của Chúa. Nhưng không phải yêu thương theo kiểu phàm trần. Người đời thường chỉ yêu những ai yêu mình, có lợi cho mình, theo bản tính ích kỷ của mình. Thiên Chúa muốn các môn đệ của Người phải yêu như như Thiên Chúa đã yêu.

Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải hy sinh quên mình, hạ mình phục vụ anh em. Yêu như Thiên Chúa nghĩa là phải yêu những người bé nhỏ nghèo hèn. Yêu như Thiên Chúa là phải yêu thương cả những người ghét mình, những người làm hại mình, những người khó thương khó ưa. Yêu như Thiên Chúa là phải không ngừng tha thứ, làm hoà với nhau.
Yêu như Thiên Chúa đó là sự sống của Giáo Hội. Yêu như Thiên Chúa làm nên nét đẹp của đạo. Nét đẹp ấy phản ánh dung nhan Thiên Chúa. Nét đẹp ấy có sức hấp dẫn mọi người đến cùng Chúa.

Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến anh em như Chúa đã yêu thương con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1.    Theo bạn, thế nào là một tập thể có tình yêu thương?
2.    Bạn đã có tình yêu thương đoàn kết với những anh chị em trong giáo xứ chưa?
3.    Yêu thương như Chúa là yêu thương theo cảm tính hay theo lý trí? Tuần này, bạn sẽ làm gì để thực hiện điều răn mới của Chúa?

 

4. Ai là gương mẫu của chúng ta? - Achille Degeest

Giuđa đi khỏi, bầu khí phòng tiệc trở lại đầm ấm. Chúa đối thoại thân thiết với các môn đệ. Người nói ra những điều Người đang suy nghĩ. Sắp tới giờ Người được tôn vinh. Lời nói Chúa phát xuất từ thâm tâm và muốn động tới thâm tâm các môn đệ. Đối với Chúa, tôn vinh nghĩa là, sau khi hoàn tất sứ mạng, Người sẽ tỏ rõ phẩm vị của Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Chuộc nhân loại. Chịu khổ nạn và sống lại, hành vi tuyệt đỉnh ấy của sứ mạng đang tiến đến gần, do đó có câu: Thiên Chúa sắp tôn vinh Con Người. Mầu nhiệm sự sống qua cõi chết, vinh quang qua ô nhục và sống lại, sắp hoàn tất. Mầu nhiệm đã kết thúc ở sự biểu dương đời sống Thiên Chúa trong Con Người, không những vì được Thiên Chúa thêm sức sống, mà chính vì Người là Con Thiên Chúa. Từ ngữ các con bé nhỏ Chúa dùng để nói với các môn đệ biểu lộ niềm thương mến của một người Cha. Chúa nghĩ đến nỗi buồn sầu sắp tới của các môn đệ, nỗi hoang mang của họ trước cuộc Thương Khó. Chúa dạy họ hãy sát cánh đương đầu với thử thách, và lệnh truyền của Người là thương yêu nhau bằng một tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa. Chúng ta nêu hai câu hỏi:

1) Lệnh truyền của Chúa mới lạ ở điểm nào?
Trong Cựu Ước đã có huấn lệnh thương yêu tha nhân như chính mình (Lêvi 19,18). Lề Luật tuy không minh thị đặt người ngoại chủng ra ngoài, nhưng trực tiếp nhắm vào những thành phần khác trong dân Chúa, coi họ là tha nhân. Mặt khác, sự giải thích của người đồng thời với Đức Giêsu về huấn lệnh trên, nói đúng ra, nặng phần tiêu cực, người ta phải tránh gây thiệt hại cho tha nhân để khỏi bị tha nhân ăn miếng trả miếng. Đức Giêsu nhắc lại huấn lệnh, trả lại cho huấn lệnh giá trị tích cực. Người đi a hơn Lề Luật, dạy người ta phải thương yêu cả những kẻ thù nghịch. Và điểm hoàn toàn mới lạ, chính là gương Đức Giêsu sắp nêu cao về tình yêu của Người bằng cách chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chính những kẻ giết Người. Gương mẫu ấy phải soi sáng tình yêu của người Kitô hữu.

2) Lệnh truyền của Chúa thực hiện theo cách nào?
Lời đáp nằm trong chỉ dẫn: như Ta đã thương yêu các con. Tình yêu của Đức Kitô đối với nhân loại phát xuất từ đâu? Như Cha đã yêu Ta, Ta cũng đã yêu các con (15,9). Tình yêu của Đức Kitô đối với nhân loại bắt nguồn từ Chúa Cha. Tình yêu của chúng ta đối với tha nhân bắt nguồn từ Chúa Kitô, và chung cục bắt nguồn từ Thiên Chúa. Người ta chỉ thật sự thương yêu nếu tình yêu phát xuất từ nguồn mạch. Giả sử nguồn mạch bị giới hạn, ví dụ nguồn mạch là trái tim con người cho dẫu trong sạch chăng nữa, tình yêu tất bị giới hạn. Nếu nguồn mạch là Thiên Chúa, là trái tim Đức Kitô, thì tình yêu trở nên bất tận. Hơn nữa, trong Đức Kitô không một tình yêu nào làm giảm tình yêu khác. Nếu tình yêu của chúng ta phát xuất từ Thánh Tâm Chúa, tình yêu ấy có thể biểu hiện như một thực tại thần hoá, nghĩa là dẫn đưa con người đến đích của niềm khát vọng.

 

5. Ai yêu thương đều là Kitô hữu (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một buổi tối nọ, Mẹ Têrêsa thành Calcutta tiến lại gần một người, người ta vừa mang vào căn nhà dành cho những người hấp hối. Đó là một bà lão. Mình phủ đầy những mảnh giẻ rách, nước da đen đầy những vết thương hôi thối. Mẹ Têrêsa đã chùi rửa các vết thương và chăm sóc để ngừa bị nhiễm trùng. Nhưng người đàn bà đáng thương nầy đang hấp hối… có lẽ khó mà qua khỏi, do đó tốt hơn là nên tìm cách an ủi lần cuối cùng bằng một chén xúp nóng và tràn đầy tình thương yêu. Người đàn bàn đáng thương ấy sững sờ nhìn và hỏi Mẹ Têrêsa bằng một giọng thều thào: “Tại sao bà lại làm như thế?”
Mẹ Têrêsa trả lời:
-      “Bởi vì tôi rất yêu mến bà…”.
Một tia sáng hạnh phúc, dù vẫn còn pha chút nghi ngờ, phát xuất tận đáy lòng đã ngời lên khuôn mặt gầy gò của người đàn bà, nơi dấu ấn của tử thần đã bắt đầu xuất hiện.
-      Ôi, bà hãy nhắc lại một lần nữa đi!
-      Tôi rất yêu mến bà,
Mẹ Têrêsa lập lại bằng một giọng điệu rất dịu dàng.
-      Hãy nhắc lại, hãy nhắc lại đi bà!
Người đàn bà đang bước vào cõi chết xiết chặt tay Mẹ Têrêsa và kéo về phía bà ta, như muốn lắng nghe rõ hơn, nghe với niềm hạnh phúc tràn trề những lời lẽ tuyệt vời nhất trên cõi đời nầy…Bằng chính tình yêu của mình, Mẹ Têrêsa đã làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người chúng ta – “Yêu thương anh em như Chúa đã yêu thương chúng ta” – Và đó cũng là điều răn mới của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu, trong nỗi bồi hồi xúc động của giây phút chia ly, đã dốc hết lòng mình với các môn đệ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau”. Lời di chúc của người sắp ra đi thật là trang trọng và thâm sâu! Trước đó, Thầy đã khẳng định đây là mệnh lệnh, là giới răn của Thầy!

Vì là giới răn, là mệnh lệnh của Thầy, nên tình yêu thương huynh đệ của người môn đệ phải mang chiều kích của Thầy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Vì là giới răn của Thầy, nên từ nay yêu thương sẽ là dấu ấn, là bằng chứng, là danh hiệu của người môn đệ: mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy khi anh em yêu thương nhau.

Nhưng, thưa anh chị em, yêu thương nhau, đâu phải chỉ có kitô giáo mới giảng dạy. Văn hoá Á Đông đã từng nêu châm ngôi: “Tứ hải giai huynh đệ”: bốn biển là anh em. Đạo lý cha ông ta cũng đã răn dạy: thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng thương yêu rộng mở của người đối với người trong một xã hội.

Vậy thì giới răn yêu thương của Kitô giáo có đem đến cái gì mới mẻ hơn chăng?
Chỉ dựa vào lời di chúc của Chúa Giêsu trước giờ tử nạn, chúng ta đã tìm ra được nét độc đáo và đặc thù của tình yêu Kitô giáo. Đó là yêu thương anh em như Chúa Giêsu đã yêu thương và yêu thương anh em là dấu chứng thuộc về Chúa Giêsu.

Nét mới mẻ của tình yêu Kitô giáo là ở chỗ: mẫu mực, thước đo tình yêu đối với tha nhân không còn là “tình anh em máu mủ”, cũng không còn là “bản thân mình” nữa. Mẫu mực, thước đo của tình yêu Kitô giáo là chính tình yêu của Chúa Giêsu Kitô. Cả cuộc đời của Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa là tình yêu trao ban, là tình yêu dâng hiến. Chúa Giêsu khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và cũng là tình yêu của chính mình, Ngài đã khéo so sánh: “Không ai có tình yêu lớn hơn người hy sinh mạng sống cho bạn hữu” (Ga 15,13).

Đó là bản đúc kết, là bản tóm tắt nội dung cuộc sống và cái chết của Đấng bị đóng đinh thập giá để nói lên tình yêu của Chúa Cha dành cho loài người. Một Thiên Chúa đầy lòng nhân ái, đầy tình thứ tha đối với hết mọi người không trừ ai. Tình yêu thương vô bờ bến đó phải là mẫu mực để chúng ta noi theo.

Chúa Giêsu không đòi các môn đệ của Ngài phải thông thái như các thầy kinh sư và ký lục. Ngài cũng không bắt họ phải sống nhiệm nhặt, gò bó như nhóm người Biệt phái Pharisêu trong việc tuân giữ các giới luật. Điều Ngài đòi nơi các môn đệ, chỉ một điều duy nhất mà thôi, là phải yêu thương anh em, yêu thương người khác như chính Ngài đã yêu thương mọi người đến tột cùng, đến hết khả năng yêu thương của Thiên Chúa.

Chính tình yêu thương vô vị lợi, phổ quát, bao dung nầy sẽ là dấu chứng của những người tin theo và tuân giữ Lời Chúa. Người môn đệ Chúa Giêsu là người biết yêu thương tha nhân và ngược lại. Ngay từ cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi, dấu chứng tình yêu đã trở thành chứng tá của Chúa Kitô Phục Sinh. Trong suốt lịch sử Giáo Hội, các người bên ngoài Giáo Hội cũng vẫn nhận ra Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của một tấm lòng vị tha, bác ái của người tín hữu.

Thưa anh chị em,
Trong cuộc sống hằng ngày, không phải chúng ta không biết đến đòi hỏi căn bản nhất của Tin Mừng là yêu thương tha nhân như Chúa đã yêu thương họ. Chúng ta cũng vẫn được giảng dạy: Tình yêu là dấu chứng thuộc về Chúa. Thế nhưng, từ chỗ biết đến chỗ sống, luôn luôn vẫn có một khoảng cách: chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha nhân. Chúng ta vẫn muốn giới hạn tình yêu tha nhân trong một mức độ nào đó để khỏi phải quá thiệt thòi cho mình. Chúng ta vẫn muốn dựa vào tấm áo hay một danh xưng để xác định chúng ta thuộc về Chúa, chứ chúng ta chưa dám “liều mạng” để chỉ khẳng định chân tính Kitô hữu của mình bằng ý nghĩa và hành động yêu thương chân thật. Vì thế mà ngay đối với người bên cạnh, có thể là linh mục chánh hay phó xứ, có thể là một anh chị em trong cộng đoàn, có thể là cha, mẹ, vợ, chồng, con cái, chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi cái lý luận trần tục: người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại như thế ấy! Quan hệ của chúng ta với tha nhân còn mang nặng tính vụ lợi, đổi chác, mua bán. Và cách sống thấp hèn như vậy chẳng nói được với ai điều gì về niềm tin của chúng ta vào Thiên Chúa Tình Yêu cả! Trái lại, cách sống ấy là một phản chứng về Thiên Chúa, không làm cho ai tin được Thiên Chúa của chúng ta. Bởi vì “người ta cứ dấu nầy mà nhận ra anh em là môn đệ của Thầy, là anh em có lòng yêu thương nhau”. “Như Thầy đã yêu thương anh em, anh em cũng hãy yêu thương nhau”. Vậy, ai không yêu thương nhau, người ấy không phải là Kitô hữu, hay đúng hơn, đó là kẻ chối đạo. Thiên Chúa là tình yêu. Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Không yêu thương nhau là không biết Thiên Chúa, là chối đạo.

Hôm nay chúng ta hãy tiếp tục làm chứng bằng cuộc sống Kitô hữu của chúng ta rằng: Đạo Thiên Chúa là đạo yêu thương nhau. Hãy để cho lòng mình lắng đọng để ân sủng Chúa giúp chúng ta thấy hết tầm mức của giới răn mới và những khoảng cách xa vời trong cuộc sống chúng ta, để chúng ta quyết tâm sống giới răn yêu thương của Chúa như chính Chúa đã sống và truyền dạy chúng ta.

 

6. Giới răn yêu thương

Suy Niệm 1. ĐIỀU MÀ YÊU THƯƠNG LÀM ĐƯỢC
Viết về kinh nghiệm của mình ở Auschwitz, Elie Wiesel nói rằng người Đức đã nỗ lực làm cho các tù nhân quên hết người thân và bạn bè mà chỉ nghĩ đến mình và chỉ nhắm đến các nhu cầu của mình hoặc họ phải chết. Điều đó khiến họ nói đến các nhu cầu ấy cả ngày lẫn đêm. Nhưng điều ngược lại đã xảy ra. Những người nào chỉ sống cho mình, ít có cơ may sống sót, trong khi người nào sống cho người thân, bạn hữu, anh em, một lý tưởng đã có cơ may tốt hơn để được sống còn. Người ta sống nhờ những gì mà người ta cho đi.

Tính ích kỷ làm cho chúng ta khép kín tâm hồn, nó hạn chế chúng ta. Nó dựng lên các rào cản, cả những bức tường giữa chúng ta và những người khác. Điều giải phóng chúng ta khỏi sự giam hãm ấy là mỗi tình cảm sâu sắc, quan trọng đối với những người khác. Trở nên bạn hữu, anh em và chị em, người yêu là điều sẽ mở cửa nhà tù. Tình yêu thương giải phóng chúng ta khỏi tù ngục của tính ích kỷ.

Brian Keenan trải qua bốn năm bị giữ làm con tin ở Li-băng. Sau đó, ông đã viết: “Chỉ khi chúng ta vượt qua chính mình để cứu mạng, hiểu biết và sau cùng khắc phục nỗi đau của người khác mà chúng ta trở thành chúng ta trọn vẹn. Chúng ta trở nên cởi mở và phong phú khi nhận ra nỗi đau của người khác và tiến đến cảm nhận và cưu mang”.

Tình yêu luôn luôn đòi hỏi điều tốt nhất của chúng ta và thể hiện điều tốt nhất trong chúng ta. Được yêu thương cho người ta một lòng can đảm và năng lực lạ lùng. Khi yêu cũng thế, người ta nói: tình yêu và năng lực sẽ được ban cho bạn, ở đâu có tình yêu lớn, ở đó luôn có phép lạ. “Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm linh hồn chúng ta, đem lại năng lực cho tinh thần và cung cấp đam mê cho đời sống của chúng ta. Nó là sự liên kết của chúng ta với Thiên Chúa và người khác” (Elizabeth Kubler-Ross).

Khi bước vào nhà tù, Oscar Wilde nói: “Bằng mọi giá, tôi phải giữ gìn tình yêu thương trong lòng tôi. Nếu tôi vào tù mà không có tình yêu thương thì linh hồn của tôi sẽ ra sao?”.

Nếu không có tình yêu thương, người ta sẽ là gì? Những người không muốn yêu thương đều có đời sống nghèo nàn. Nhưng những người sống yêu thương, có một đời sống phong phú và hiệu quả. Mục đích của đời sống là gì nếu không phải là yêu thương? “Chúng ta đã được đặt vào trần gian ngắn ngủi để học toả sáng tình yêu thương” (William Blake). Giải thoát khỏi tính ích kỷ và có khả năng yêu thương người khác – đó là ý nghĩa của đời sống.

Một bác sĩ, được chia sẻ những giây phút thâm sâu nhất của nhiều cuộc đời nói rằng, con người đối diện với cái chết không còn nghĩ gì về mức độ họ đã thu được, hoặc họ nắm giữ những địa vị nào, hoặc đã tích trữ được bao nhiêu của cải. Vào lúc cuối cùng, điều thật sự quan trọng là bạn đã yêu thương ai và ai đã yêu thương bạn.

Những người chọn lựa yêu thương mở rộng tâm hồn mình cho những hạnh phúc lớn hơn những người không bao giờ biết đến yêu thương. Yêu thương là hạnh phúc. Nó làm chúng ta sung mãn. Từ chối yêu là bắt đầu chết. Yêu thương là bắt đầu sống. Trong lúc đức tin làm cho mọi sự thành có thể, tình yêu làm cho mọi sự được dễ dàng. Yêu thương chữa lành mọi người –cả kẻ cho lẫn người nhận.

Suy Niệm 2. SỰ PHONG PHÚ CỦA YÊU THƯƠNG
Ngày nay, hơn bao giờ hết, chúng ta biết bản tính phức tạp của con người, và cả những động lực liên kết đàng sau mỗi việc chúng ta làm. Ít nhất có năm loại yêu thương.

Loại thứ nhất là yêu thương vụ lợi. Chúng ta yêu thương người khác bởi vì họ có ích cho chúng ta. Nhưng như thế giống với tình ích kỷ hơn là tình yêu. Tôi muốn có một vật nào đó của bạn, nhưng tôi không muốn có bạn.

Loại thứ hai là yêu thương lãng mạn. Đó là loại tình cảm hướng chúng ta về người khác bởi vì niềm vui thích mà người khác đem lại cho chúng ta. Chúng ta say mê người khác. Nhưng đó không phải là tình yêu. Chúng ta tưởng rằng mình yêu người khác, nhưng thật ra, chúng ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu này không kéo dài, đó là lý do làm cho một số các cuộc hôn nhân thất bại.

Loại thứ ba yêu thương có tính chất dân chủ, đặt trên nền tảng bình đẳng theo luật pháp. Chúng ta tôn trọng những người khác vì họ là những công dân. Chúng ta thừa nhận tự do của họ để ngược lại, tự do của chúng ta cũng được thừa nhận. Lý do chúng ta góp phần vào điều tốt cho người khác là niềm hy vọng được đáp lại bằng điều tốt.

Loại thứ tư là yêu thương nhân bản. Đó là tình yêu dành cho nhân loại nói chung. Nhược điểm của nó là một tình yêu trừu tượng không có gì cụ thể: “Tôi yêu nhân loại, nhưng tôi không thể dính dáng gì với họ”.

Loại thứ năm là tình yêu Kitô giáo, tóm tắt trong giới răn: “Anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh em”. Ở đây chúng ta đang nói về tình yêu thương vô vị lợi, yêu thương cả khi chúng ta không được gì trong tình yêu ấy. Tình yêu ấy vẫn luôn tồn tại cho dù bị thù ghét và bách hại. Nó không phải là một nhiệt tình đột biến, nhưng là một quan hệ bền vững. Nó biểu lộ trong việc phục vụ, yêu mến và hy sinh bản thân. Loại yêu thương này chỉ có thể hoàn thành với sự giúp đỡ của Chúa Thánh Thần.

Người ta nói rằng nếu bạn làm một công nghiệp tốt, nhưng có một hậu ý không nói ra thì tốt hơn không làm. Nhưng việc bác ái là ngoại lệ duy nhất. Cho dù người ta làm việc bác ái với một lý do không rõ ràng thì nó vẫn là một hành động tốt và đem lại lợi ích cho người khác, lý do của bạn không có gì quan trọng. Ngoài ra, việc tính ích kỷ và lòng quảng đại cùng có mặt trong chúng ta làm cho điều tốt mà chúng ta thực hiện càng được đáng khen. Nó đến từ một cuộc tranh đấu.
Người ta thường xem vấn đề yêu thương là được yêu thương hơn là trở thành một con người yêu thương. Vì thế, mọi nỗ lực của người ta là làm cho mình dễ thương, khả ái bằng việc đạt đến sự thành công, có vẻ đẹp mê hồn, có quyền lực hoặc giàu có… Và như thế sau cùng họ không có tình yêu thương, bởi lẽ họ được yêu thương không phải vì chính họ mà vị sự vật họ có, hoặc sự nghiệp họ đã hoàn thành. Nhưng nếu họ trở thành một con người yêu thương, họ có thể được yêu vì chính họ. Và sau cùng, mọi người chúng ta muốn được yêu vì chính mình. Những ai không được yêu thì tìm cách cho người ta ngưỡng mộ mình.

Có ba tình trạng: (1) Không yêu thương và không được yêu thương, điều này xem ra giống hoả ngục trần gian. (2) Yêu thương nhưng không được yêu thương đáp lại –dù đây là điều đau khổ nhưng vẫn tốt hơn tình trạng đầu tiên. (3) Yêu thương và được yêu thương –đây là tình trạng được chúc lành mà Đức Giêsu đã vui hưởng: “Như Cha Thầy đã yêu mến Thầy, cũng thế Thầy đã yêu mến anh em!”.

Yêu thương biểu lộ điều tốt nhật trong con người đang yêu. Người ta sống trong sự tốt lành nhất và rực rỡ nhất khi yêu. Họ giống như một ngọn đèn toả sáng. Tình yêu là một chọn lựa chớ không phải là một cảm nhận. Nhưng từ chối yêu thương là bắt đầu chết. Điều tệ hại nhất là sự dửng dưng lạnh giá.

NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC:
1. Một ông nọ người Hy Lạp, năm mươi tuổi đã chết trong một nhà tế bần ở New York. Ông đã có một đời sống tốt lành, theo lời ông nói. Ông đã muốn có lại một đời sống tốt đẹp, muốn vui vẻ bỏ bớt tiền bạc và sức khoẻ để thực hiện điều ấy ở Mỹ, chỉ cần ông có thể có lại vợ con, gia đình và có lại tình yêu thương ngày nào. Tình yêu đã là một điều quan trọng trong đời sống. Chính tình yêu đã giữ cho mọi sự vật, ở bên nhau và đem lại ý nghĩa cho đời sống.

Hôm trước ngày ông mất, ông đã nhắn lại cho những thành viên của gia đình mà theo lời ông hay gây gổ và xung khắc nhau. Ông nói với họ một cách nghiêm trang rằng họ phải học yêu thương nhau, phải cố gắng nhiều hơn để sống yêu thương. Yêu thương là tất cả, tất cả. Họ phải tin vào điều đó, vì đó là lời nói của người sắp chết.

Đức Giêsu đã nói những lời tương tự cho các bạn hữu của Người trong đêm trước khi Người chết. Người đã cho họ một sứ điệp đơn giản, rõ ràng: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

2. Người ta kể câu chuyện về một cậu bé mười hai tuổi tên Stephen. Cậu bị què vì bệnh viêm tuỷ xám. Cậu có một em trai Mark, mười tuổi. Như những đứa con trai khác, chúng thường đánh nhau, nhưng trong thâm tâm, chúng vẫn đối xử tốt với nhau. Thỉnh thoảng Stephen ganh tỵ với em mình có đôi chân mạnh khoẻ.

Một đêm kia, nó nằm mơ thấy mình ở trong rừng sâu và huyền bí. Ở đó, nó đến một hang động tối đen. Giữa hang động một ngọn lửa cháy sáng. Kế đó, từ bóng tối một người mặc áo choàng dài bước ra. Ông ta nói với Stephen, ông là thần của khu rừng và để thưởng cho người nào tìm ra hang động, người ấy sẽ có một lời ước được thực hiện –chỉ một lời ước thôi cho dù là ước muốn điều gì.

Stephen không cần nhiều thời gian để suy nghĩ. “Tôi muốn có một đôi chân khoẻ mạnh” nó nói. Lúc đó, ông thần bỏ áo choàng ra và trước khi Stephen hiểu được ý nghĩa, nó thấy mình nằm lại trên giường. Em nó nằm ngủ ở giường bên cạnh với những tiếng thở đều đều. Ông thần giở cái chăn ra khỏi đôi chân của Mark.
-      “Ông định làm gì?” Stephen hỏi.
-      “Tôi sẽ bắt đầu cuộc phẫu thuật” Ông thần nói.
-      “Cuộc phẫu thuật gì?”.
-      “Chuyển đổi. Khi cuộc phẫu thuật hoàn tất, cậu sẽ có đôi chân của Mark còn nó sẽ có đôi chân của cậu. Nhưng đừng lo. Không ai biết được đâu, người ta sẽ nghĩ rằng mọi việc vẫn như cũ”.
-      “Tôi không bao giờ nghĩ mọi việc vẫn như thế” Stephen nói.
-      “Cậu chắc không mong tôi lôi đôi chân khoẻ từ trong không khí ra đó chứ?”.
Nhưng Stephen ở trong tình trạng xúc động mạnh. Một hình ảnh loé ra trong tâm trí cậu. Cậu thấy chính mình tự do chạy nhảy còn phía sau cậu, em Mark của cậu kéo lê đôi chân của nó. Cậu không thể làm điều đó cho đứa em trai của mình. “Tôi không muốn điều đó” cậu hét to.

Khi nghe tiếng hét, ông Thần già tức giận bỏ đi. Stephen vui mừng khi nhìn lại mình. Sáng hôm sau, cậu thức dậy và nhìn sang em cậu. Nhớ lại giấc mộng, cậu mỉm cười. Từ ngày đó trở đi cậu không bao giờ cảm thấy ganh tỵ với em cậu và yêu thương nó hơn bao giờ hết.

Stephen muốn sống hạnh phúc nhưng không phải bằng cái giá là gây ra đau khổ cho em trai cậu. Hạnh phúc thật chỉ tìm thấy trong tình yêu vô vị lợi. Yêu thương là đặt người khác đừng trước mình.


7. Chú giải của Noel Quesson

Từ đây cho đến hết Mùa Phục sinh, chúng ta sẽ đọc một số trích đoạn “cuộc nói chuyện cuối cùng của Đức Giêsu” vào chiều Thứ Năm Thánh, hôm trước ngày Người "ra đi": đó là di chúc tinh thần của Ngài.

Khi Giuđa đi rồi, Đức Giêsu nói
Ta có cảm tưởng rằng, Đức Giêsu được tự do, Người có thể bắt đầu bày tỏ một số tâm sự... như thể sự hiện diện của kẻ phản nộp đã bít cứng cổ họng Người, khiến không có dịp thốt nên lời.

Khi chúng ta nghĩ đến những nỗi cô đơn thương đau, những khó khăn trong mối quan hệ, những tình trạng chặn nghẽn tâm lý, đôi khi ngăn cản chúng ta không thể nói hết những gì' cần phải diễn tả... lúc đó ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì trong thân phận con người, Người đã thấu cảm những tình huống đau thương như thế.

Khi chúng ta chịu đựng những xung đột giữa người đời, trong các nhóm, những chống đối và hiểu lầm... chúng ta hãy nghĩ đến Đức Giêsu, vì Người cũng đã chịu đựng những điều như thế. Chiều hôm đó, bầu khí trong nhóm đang tụ tập chung quanh bàn ăn với Người, trở nên bi thiết: một người trong họ vừa bước ra ngoài... để phản bội nhóm. Đó là thái độ quá quắt của kẻ "không có, tình yêu”: tố cáo bạn hữu, ruồng bỏ một người mà mình đã trải qua nhiều năm tháng kết tình kết nghĩa.

Đức Giêsu không phải là không có khả năng thông cảm mọi khó khăn của ta. Người đã sống những khốn khó đó.
Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.
Đức Giêsu luôn hoàn toàn thanh thản. Trong tình trạng nguy kịch phải đường đau, Người vẫn giữ được một sự bình an siêu phàm. Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự bình an đó.

Sự bình an của Đức Giêsu được diễn tả trong một câu nằm giữa hai phó từ: giờ đây... sắp sửa. Những động từ ở đầu câu thuộc thời hiện tại (nhằm diễn tả một tình trạng bất định theo tiếng Hy Lạp, nghĩa là thời gian của "các vật chưa hoàn tất"), và những động từ ở cuối câu thuộc thời tương lai. Toàn thể một thái độ tinh than tiềm ẩn đằng sau cấu trúc ngôn ngữ trên. Trong giây phút hiện tại, giây phút đầu tiên của cuộc Thụ Khổ mà Giua đã mở ra… Đức Giêsu đã nghĩ đến kết quả của tiến trình sắp được thể hiện qua biến cố Phục sinh. Như thế, niềm hy vọng đã giúp ta cảm thấy trước những gì vẫn còn ở trong tương lai! "Tôi nghĩ rằng: những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta" (Rm 8,18). Cũng như Đức Giêsu, ngay từ bây giờ, giữa đau khổ hiện tại, tôi có thể đã nếm cảm được thứ hạnh phúc vô biên đó, sẽ được thể hiện cách trọn vẹn, mãi mãi nhưng muộn hơn, sau này.

Giờ đây, Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người.

Chúng ta trở lại mạc khải đáng ngạc nhiên trên đây, khiến ta có dịp bước sâu vào "nội tâm của Đức Giêsu. Tiến trình cuộc Thương khó vừa mới được mở ra, do thái độ bước ra ngoài của "kẻ trao nộp Đức Giêsu”. Do đó, ngay tức khắc, đối với Đức Giêsu, vinh quang của Người đã hiện ra rồi! Đó là sự thực. Thật là khó khăn chúng ta mới tin được rằng, thập giá đã là vinh quang của Đức Giêsu. Chúng ta có khuynh hướng dễ khóc thương trong Ngày Thứ Năm, Thứ Sáu Thánh dù rằng ngay sau đó phải vội bỏ qua để sống niềm vui rộn rã của Chúa nhật Phục sinh. Thế nhưng, chính "Đấng chịu đóng đinh" đã được tôn vinh và làm vinh quang Thiên Chúa? Đến khi nào ta mới hết coi thập giá như một vật ghê tởm, cần phải tìm hết cách thủ tiêu? Thực sự, nhìn theo quan điểm của Đức Giêsu, thập giá của Người, chính là vinh quang của Người? "Không có tình yêu nào lớn hơn" (Ga 15,13). Tuy nhiên, kẻ yêu thương, theo kinh nghiệm, luôn biết rằng, tình yêu thương dẫn đến hy sinh bản thân cho người mình yêu mến. Còn kẻ chỉ biết yêu bản thân mình, sẽ không thể hiểu được.

Bạn có muốn biết mình thương yêu người nào không?
Bạn hãy tự hỏi xem bạn có thể hiến thân mình cho họ vì yêu thương không. Nhưng coi chừng, một giọng nói lừa đảo của thế giới hiện đại sẽ trấn an bên tai bạn rằng, hiến thân như thế là lầm to, bạn sẽ thành nạn nhân, sẽ mất nhân vị, bạn phải nghĩ đến mình một chút; để cho đời thêm tươi.

Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi
Đó là những lời đầy âu yếm, những lời nói của người mẹ. Trong tất cả các Tin Mừng, đây là lần duy nhất Đức Giêsu dùng kiểu xưng hô: “Hỡi các con bé nhỏ của Thầy…”

Đức Giêsu phải ra đi. Người biết rõ điều đó. Người đã phát biểu thành lời. Nhưng thật đáng tiếc, Sách Bài đọc đã cắt bỏ một câu như sau: ‘Anh em sẽ tìm kiếm Thầy, nhưng như Thầy đã nói với người Do Thái: Nơi tôi đi, các ngươi không thể đến được’, bây giờ Thầy cũng nói với anh em như vậy”. Thế giới ngày nay đang đặt nặng vấn đề sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên Chúa. Đức Giêsu biết rằng, buổi chiều mà Người đang sống với các bạn hữu của mình là buổi chiều cuối cùng. Người sắp để họ ở lại một mình, không có sự hiện diện của Người cách hữu hình, nhân loại, cụ thể... nhưng rất hữu ích? Sẽ có thời gian vắng mặt. Nhưng rõ ràng, Đức Giêsu muốn nói lên điều gì về vấn đề này. Chúng ta hãy lắng nghe tiếp.

Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau
Đức Giêsu phải ra đi. Nhưng Ngài loan báo cách hiện diện mới mẻ của Ngài. "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy" (Ga 14,23). Và thánh Gioan quảng diễn như sau: "Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta" (1 Ga 4,12).

Vâng, tình yêu đích thực là một "sự hiện diện thực sự” của Thiên Chúa. "Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ". Đức Giêsu hiện diện giữa những người cùng nhau cầu nguyện (Mt 18-20). Những gì các người đã làm (cho ăn, cho mặc, viếng thăm, săn sóc) cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta, là “các ngươi đã làm cho chính Ta vậy". Đức Giêsu luôn hiện diện trong mọi người đang cần đến tôi và tôi đang phục vụ (Mt 25,31 -46).

Nếu thực là thế! Nếu thực là "Thiên Chúa đã chết", thì sự vắng mặt của Thiên Chúa trong thế giới hiện tại chỉ là hiện tượng tình yêu đã chết". Nhưng hãy để ý, vì tiếng nói lừa dối của thế giới hiện đại không ngừng thay đổi giọng điệu với ta, qua những làn phát sóng, trong mọi thứ quảng cáo. Người ta chỉ bàn luận, chỉ ca ngợi "tình yêu”. Nhưng là thứ tình yêu nào chứ? Éros hay Agapè, "tình yêu bản thân" hay "tình yêu kẻ khác"? tình yêu là từ hàm hồ nhất, giả dối nhất. Khi bạn nói: "Tôi thích kẹo cao su!”… bạn có thích nó thực sự hay bạn tiêu huỷ nó nhằm lợi ích cho bạn? Khi bạn yêu một người nào đó, bạn có yêu họ theo cách đó... nghĩa là chỉ vì bạn hay vì họ? Ngôn ngữ Hy Lạp ít hàm hồ hơn, vì có hai từ khác biệt nhau để diễn tả hai thực tại yêu thương đối nghịch nhau:
-Éros: Yêu mình... đó là tình yêu lợi dụng kẻ khác đến huỷ hoại họ.
-Agapé: Yêu tha nhân... đó là tình yêu sẵn sàng hy sinh cho kẻ khác.

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.
Chỉ một từ “như” đơn giản... nhưng đã vạch trần mọi hình thức tình yêu giả tạo của chúng ta dễ dàng lặp đi lặp lại.

Yêu như Đức Giêsu! Đó là quỳ gối xuống rửa chân cho anh em mình, một cử chỉ phục vụ thấp hèn nhất (Ga 13,14). Đó là việc Đức Giêsu vừa làm. Yêu như Đức Giêsu! Đó là "hiến mạng sống cho kẻ mình yêu thương" (Ga 10,11-15,13). Đó là điều Người sáp thực hiện, vào ngày mai, trên thập giá.

Đức Giêsu nói với thánh nữ Angèle de Foligno: "Việc cha yêu con, đâu phải trò đùa". Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta đã dẫn Người đến thái độ hoàn toàn từ bỏ bản thân mình.

Để yêu tha nhân đúng như con người, và nhận biết họ trong chính sự "khác biệt" của họ, chúng ta cần từ bỏ quan niệm coi mình là trung tâm mọi giá trị. Đối với Thiên Chúa, tình yêu tha nhân đã dẫn Đức Giêsu chấp nhận thập giá Thiên Chúa đã yêu thương con người đến nỗi yêu thương họ, trong cả khả năng thụ tạo nhầm lẫn của họ. Khả năng đó, "kẻ khác" đã chiếm hữu trong tự do của họ, để phủ nhận tôi, trở nên một địch thù với tôi, và kết án tử hình tôi!

Đối với Đức Gỉêsu, tình yêu không phải là cái gì cứ lặp đi lặp lại cách dễ dàng và nhàm chán đến độ vô nghĩa. Mọi người xem ra đều nói đến yêu thương. Thế mà, Đức Giêsu quả quyết, giới răn của Người thì mới mẻ. Phải, yêu như Đức Giêsu hẳn là phải rất độc đáo, rất mới lạ. Đó là một thứ luân lý mới. Người ta không khi nào biết được nơi mà tình yêu đó dẫn bạn tới.

Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau
Chỉ có ba dòng Tin Mừng, mà Đức Giêsu đã ba lần lặp lại điệp khúc: Yêu thương nhau. Sự lặp lại rất có ý nghĩa. Nhờ đó, Người đã gợi lên ba lý do bổ sung cho nhau, khiến chúng ta phải yêu thương.
1. Đó là lệnh truyền của Đức Giêsu: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới".
2. Đó là gương mẫu của Đức Giêsu: "Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
3. Sau cùng, đó là dấu chỉ Đức Giêsu: "Người ta sẽ nhận biết anh em nhờ tình yêu...".

Như thế, Đức Giêsu thực sự mời gọi các môn đệ tiếp tục sứ vụ của Người, lúc Người rời bỏ thế gian. Tình yêu huynh hệ là "thể thức" thực sự, giúp Đức Kitô tiếp tục hiện diện suốt dòng "Thời gian cuối cùng", mở đầu bằng cài chết của Người. Gioan đã không thuật lại việc lập phép Thánh Thể, như ta mong đợi. Nhưng bù lại, ông đã tường thuật việc rửa chân " và trao ban "giới răn mới quan trọng" như thể dưới mắt ông, Tình yêu là một tái diễn sự Hiện Diện đích thực của- Đức Kitô, cũng thực sự và hữu hiệu, như dấu chỉ hữu hình., của Bí tích Thánh Thể. Nhằm bổ sung những gì mà các thánh sử khác không nói đến, có thể nói thánh Gioan đã giảm thiểu tính thiêng thánh của nghi thức, để đề cao nội dung hơn". Theo thánh Mát-thêu, Máccô và Luca, Đức Giêsu nói: "Này là Mình Thầy sẽ bị nộp, và Máu Thầy sẽ đổ ra". Còn theo Gioan, Đức Giêsu đã nói: "Thầy rửa chân cho anh em, Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em". Nhưng, đó cũng chính là “sự hiện diện" có tình nghi thức và thực sự. Có một điều gì đó chất vấn mạnh mẽ các Kitô hữu khi tham dự thánh lễ. Dấu chỉ mà người ta nhận ra môn đệ Đức Giêsu không chỉ là Thánh lễ. "Ở điểm này, mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy: là anh em có lòng yêu thương nhau".

Nhờ những điều kiện nào, để người ngoài Kitô giáo có thể đọc được dấu chỉ này? Làm sao dấu chỉ này chỉ dành riêng cho những giây phút các Kitô hữu quy tụ giữa bốn bức tường của Giáo hội? Chắc chắn Đức Giêsu đã nói đến một dấu chỉ được trao gởi trong đời thường: đó là dấu chỉ duy nhất mà "mọi người" có thể nhìn thấy. Trong những điều kiện đó, chúng tá của Kitô hữu chỉ có thể được nhận biết nếu chúng ta quan tâm đến những trách nhiệm lớn lao của thế giới hiện nay: công lý, hoà bình, đói khổ, phẩm giá con người. Bí tích Thánh Thể sẽ "dẫn" chúng ta tới phố xá, các văn phòng làm việc, những nẻo đường đời, tới trường lớp và đại học ta đang theo đuổi tới mọi nơi ta đang phục vụ".


8. Suy niệm của nhóm Nha Trang

“Thầy ban cho các con điều răn mới, là các con hãy thương yêu nhau”.

BÀI TIN MỪNG
I. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng hôm nay là một đoạn được trích trong bài Từ Biệt của Chúa Giêsu, nói về việc Chúa Giêsu ban cho các môn đệ giới luật mới, luật yêu thương nhau.

II. SUY NIỆM:
1. “Khi Giuđa ra khỏi phòng tiệc”:
Có lẽ Giuđa ra khỏi phòng tiệc sau lúc rửa chân và trước lúc thiết lập Bí tích Thánh Thể. Chính lúc này Chúa Giêsu mới có thể nói một cách cởi mở về số phận của Người và đồng thời trăn trối những điều quan trọng cho các môn đệ.

2. “Bây giờ Con Người được vinh hiển”:
• “Bây giờ” diễn tả ý nghĩa vào chính lúc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Chính hành vi Giuđa bước ra khỏi phòng tiệc là cử chỉ nói lên việc Giuđa quyết định phản nộp Thầy mình, chính lúc đó Chúa Giêsu coi như là khởi sự cuộc khổ nạn của Người.
• “Con người được vinh hiển”: Chúa Giêsu coi việc Người chịu chết trên Thánh Giá như một chiến thắng: chiến thắng Satan. Và vì vậy Người cho biết Người sẽ bước lên Thập giá trong tư thế một kẻ chinh phục (Ga 3,14; 8,28; 12,32 - 34). Và như vậy, cho đến khi ấy, đời Chúa Giêsu chỉ là một sự chuẩn bị, “Bây giờ” mới là lúc bắt đầu thảm kịch cứu rỗi.
• “Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người”:
Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng cách “Vâng lời cho đến chết và chết trên cây Thập giá” (Ga 4,34; 17,4).
3. “Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người”:
Nếu Chúa Giêsu làm vinh hiển Thiên Chúa Cha bằng cái chết của Người trên Thập giá, thì đáp lại, Chúa Cha sẽ ban cho Người vinh hiển sau khi Người chịu nạn chịu chết, bằng cách cho bản tính loài người chịu đau khổ của Người được thông phần vinh quang rực rỡ bản tính của Thiên Chúa.

4. “Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con …”:
Vì sắp phải lìa xa các môn đệ, nên Chúa Giêsu đã tỏ ra cho các ông biết cuộc biệt ly tạm thời này bằng những lời lẽ rất thân thiết.

Kiểu nói “các con yêu quý” diễn tả một tâm tình thắm thiết đầy tình thương yêu của Chúa Giêsu đối với các môn đệ của Người.

5. “Thầy ban cho các con điều răn mới …”:
Đây là ý muốn của Chúa Giêsu tỏ bày cho các môn đệ trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu nói những lời này trong tư thế của một sư phụ nói lời trăn trối trước khi ra đi (Mt 24, 45-51) và trong tư thế một Người Cha hằng lo lắng bảo đảm hạnh phúc cho con cái mà ông sắp từ giã. Nếu các môn đệ thực hiện thì luật yêu thương này sẽ đền bù cho các ông sự mất mát không còn được thấy Thầy cách khả giác nữa và làm cho các ông xứng đáng gặp lại Người.

“Điều răn mới”: Chúa Giêsu muốn so sánh với luật tự nhiên mà Môisen đã thừa nhận khi dạy phải yêu thương tha nhân như chính mình (Lv 19,18). Nhưng tình yêu tha nhân theo luật này có tính cách tiêu cực vì chỉ nhằm tránh những gì có thể gây ra thù oán hoặc nếu có hành động tích cực thì lại mang tính cách vụ lợi: làm cho tha nhân những điều mình muốn thôi. Chính Chúa Giêsu đã nhiều lần sửa lại luật này cho hoàn hảo hơn: “Xưa … nhưng nay Ta bảo …” (Mt 7,12; 19,9; 22,39-40).

6. “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng hãy yêu thương nhau”:

Với luật mới này, Chúa Giêsu còn thêm nhiều điều trong những đòi hỏi của tình bác ái huynh đệ: yêu tha nhân như chính mình chưa đủ, người môn đệ cần phải yêu thương tha nhân như chính Đức Kitô đã thương yêu họ, mà tình yêu Chúa Giêsu đối với chúng ta là ân cần, tận tâm, vô vị lợi (Ga 13,13-16; 15,16-19; Rm 15,13). Người đã hiến thân mình cho nhân loại đến cùng, nghĩa là cho đến chết (Ga 13,1; 15,12-14). Thánh Gioan đã ghi rõ ràng: “Chính điều này mà Ta nhận ra được lòng yêu mến: Là Đấng ấy (Đức Kitô) đã thí mạng mình vì chúng ta, nên ta cũng phải thí mạng mình vì anh em (1 Ga 3,16).

7. “Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy”:

Bác ái của người môn đệ Chúa Giêsu theo luật mới này phải có tính cách cụ thể, rõ ràng đến nỗi tự nó cho thấy họ là môn đệ của Chúa Giêsu ngay cả đối với những người chưa biết gì về Ki-tô Giáo (Ga 14,31; 17,21; 1Ga 2,7-11; 20,21).

Luật yêu tha nhân theo kiểu Chúa Giêsu đã yêu nhân loại là luật riêng của Chúa, nên cứ dấu đó mà người ta nhận ra môn đệ chân chính của Người. Và như vậy, tình yêu tha nhân được truyền dạy chỉ có thể được thực hiện giữa những người tin vào Chúa Giêsu Ki-tô. Đó là tính cách mới mẻ của luật mới này.

III. ÁP DỤNG:
A. Áp dụng theo Tin Mừng:
Giáo Hội muốn dùng bài Tin Mừng hôm nay để nhắc nhở chúng ta về luật yêu thương nhau và đồng thời và đồng thời cũng gây cho chúng ta ý thức về bổn phận phải yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta, để nhờ đó chúng ta xứng đáng với danh nghĩa người Ki-tô hữu, môn đệ của Chúa Kitô.

B. Áp dụng thực hành:
Nghe lời Chúa phán:
1/ Bây giờ con Người được vinh hiển: Chúa Giêsu được vinh hiển nhờ chiến thắng Satan bằng Thập Giá qua những hy sinh, hãm mình và chết đi cho tội lỗi trong đời sống hằng ngày.
2/ Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người: Chúa Giêsu làm vinh danh Thiên Chúa Cha bằng sự vâng lời cho đến chết và chết trên Thập giá. Chúa muốn mời gọi chúng ta noi theo người làm vinh danh Thiên Chúa bằng cách vâng theo ý Chúa trong mọi việc mình làm, tức là làm mọi việc và chịu đựng mọi sự vì lòng mến Chúa.
3/ Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính mình.
càng làm vinh danh Chúa, càng được công phúc trước mặt Chúa và càng được hy vọng vinh hiển với Chúa trong Nước - Trời.
4/ “thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau”. Mỗi lần chúng ta đọc lời này là mỗi lần Chúa nhắc chúng ta nhớ lại luật yêu thương nhau, nhưng sự yêu thương của chúng ta vẫn còn tính cách ích kỷ vì chỉ yêu theo sở thích và được mối lợi cho riêng mình. vì thế Chúa bảo ta phải yêu thương nhau như Chúa đã yêu thương chúng ta, một tình yêu hướng tha và vô vị lợi.
Cần chiêm ngắm và suy niệm cuộc đời Chúa Cứu Thế để khám phá ra cách thể Chúa yêu thương chúng ta và nhờ đó chúng ta biết yêu thương nhau cũng theo cách thể như vậy.
5/ Căn cứ vào điều này mà mọi người nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là nếu các con yêu thương nhau. Muốn nhập đoàn quân nào phải đeo phù hiệu binh chủng đó. gia nhập đoàn quân của Chúa Kitô thì phải đeo phù hiệu của Chúa. phù hiệu của Chúa Kitô là yêu thương nhau.

Đồng phục của người Ki-tô hữu là bác ái.

 

 

9. Chú giải của Fiches Dominicales

GIỚI RĂN MỚI: “CÁC CON HÃY YÊU THƯƠNG NHAU NHƯ THẦY ĐÃ YÊU THƯƠNG CÁC CON”.

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Tiếng hô thắng trận.
Nằm ở giữa việc Đức Giêsu rửa chân và diễn từ sau tiệc ly, trong đó, nhiều ý tưởng lớn được Đức Giêsu đề cập đến, đoạn Tin Mừng này bắt đầu, ngay khi Giuđa vừa đi khỏi, bằng tiếng hô thắng trận của Đức Giêsu: "Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người". X. Léon-dufour chú giải: "Từ lúc này trở đi, Đức Giêsu thấy cái chết đã theo ngay sau Người, Người cảm thấy được Thiên Chúa tôn vinh độc giả cũng phải sống viễn cảnh và lắng nghe Đức Kitô vinh quang lên tiếng"

Tác giả đoạn chú giải vừa rồi viết tiếp: Từ “giờ đây" đánh dấu một thời điểm. Nó diễn tả một xác tín thuở đầu. Phục sinh xác nhận một giai đoạn mới. Vượt qua cái chết, “Giờ đây”, Đức Giêsu bước vào một khúc rẽ nhiệm mầu, bỏ lại sau những điều kiện bình thường của con người bị lệ thuộc vào thời gian, nghĩa là hiện tại chỉ phát xuất từ một quá khứ và hướng tới một tương lai mờ mịt. Từ giờ trở đi, hiện tại của Đức Giêsu là một hiện diện vĩnh cửu trong vinh quang Thiên Chúa". ("Lecture de L’Evangile se lon saint Jean, quyển III, Seuil, trg 50-51)

2. Từ “như” chỉ một cội nguồn.
Người ta thường trích lời Đức Giêsu: "Các con hãy thương yêu nhau", nhưng lại hay bỏ nửa sau "như Thầy đã yêu thương các con". Và nhiều người coi từ "như" này như một liên từ so sánh: các môn đệ được kêu gọi để bắt chước sự xử thế của Thầy mình.

Nhưng, liên từ "như" này của bản văn Tin Mừng không chỉ biểu thị sự so sánh, mà còn biểu thị nguồn gốc của tình yêu mà Đức Giêsu đòi hỏi nơi các môn đệ mình. Có thể diễn dịch: "Các con hãy yêu thương nhau, theo như Thầy đã yêu thương các con", hoặc... "Các con hãy yêu thương nhau... vì Thầy đã yêu thương các con để các con yêu thương nhau như Thầy". Hoặc “Các con hãy thương yêu nhau bằng tình yêu mà Thầy đã yêu thương các con." X. Léon - dufour chú giải: "Tình yêu của Chúa Con đối với các môn đệ làm phát sinh lòng bác ái nơi các ông. Chính tình yêu của Người lưu chuyển đến họ làm cho họ yêu thương anh em, và họ được mến yêu. Tình yêu của Đức Giêsu triển nở nơi các tín hữu mang dấu ấn tình yêu Chúa Cha". (sđd, trg 82-83).

3. Tính cách mới mẻ của giới luật yêu thương.
Yêu đồng loại. Cựu ước đã biết đến đòi hỏi này. Các triết gia ngoại giao trước Đức Giêsu đã rao giảng tình yêu tha nhân, cả đến tình yêu đối với thù địch.
Thế thì, tính cách mới mẻ trong giới răn yêu thương huynh đệ của Đức Giêsu là gì? điều mới mẻ này chính là nơi bản chất của tình yêu huynh đệ mà các môn đệ Đức Giêsu thể hiện: đó là tình yêu của chính đức Giêsu thể hiện nơi họ. X. Léon-dufour kết luận: "Một kỷ nguyên mới đã khởi đầu. Qua các môn đệ của Chúa Con mà tình yêu mạc khải từ nay hiện diện trong nhân loại... tình yêu nhau giữa các môn đệ sẽ tỏ bày cho mọi người, nghĩa là cho cả những người lân cận chưa tin - họ thuộc về Đức Kitô và nhờ Người mà nhân loại vượt qua cái chết để tới sự sống” (Sđd, trg 84-85).

BÀI ĐỌC THÊM:
1. Hãy làm cho giới luật yêu thương sáng lên
Từ nay, qua việc chăm sóc người bất hạnh, người nghèo, Giáo Hội và các cộng đoàn tỏ bày tình thương của Thiên Chúa đối với con người và đồng thời tỏ bày ý hướng cứu rỗi họ. Phải, Giáo Hội đã nhận lãnh sứ mệnh đem vào hiện hữu và lịch sử con người một luật có khả năng làm sống động nhân loại bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Luật ấy là thế này: Hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con. Thiên Chúa biết thời đại chúng ta đang kêu gào lớn tiếng một luật sống khác với luật sống của máu lửa, sắt thép đang huỷ diệt khắp chốn. Hãy biết khiêm tốn để làm sáng lên trong đời chúng ta, trong nhiệm vụ của chúng ta, trong gia đình, cơ quan, nơi vui chơi giải trí, trong lãnh vực kinh tế, chính trị, một chút gì đó của giới luật yêu thương.

2.Tình yêu-bác ái.lời giảng đầu tiên của việc Phúc Âm hoá(F. Deleclos, "Prends et mang chaque dimanche la parole", Centurion-duculot, trg 208-209).
Chỉ vương quyền bác ái mới có thể thay đổi thế giới, mới biến hận thù thành yêu thương, chiến tranh thành hoà bình. Chỉ "hãy yêu thương nhau như Thầy đã thương yêu các con" mới có thể tạo lập một mẫu người và xã hội huynh đệ. Bác ái không thể định nghĩa được bằng ngôn từ cảm tính hay sùng mộ. Olivier Clément viết: Bác ái "không phải là đường mà là muối ". Ngôn từ của bác ái "không phải là bạc nhược, nhưng là tự chủ và dũng cảm". Thế giới này nghĩ bác ái là điều khó và thậm chí không thể thực hiện được. Bác ái đích thực không tránh né bạo lực, mà là chuyển đổi nó thành sự phấn đấu trong cuộc sống, là tạo lập Công bình và Thẩm Mỹ.

Tình yêu, bác ái là công trình của lòng tin, là dấu chỉ hữu hình và cần thiết để chứng tỏ sự thuộc về Đức Kitô Phục sinh. Nó là lời giảng đầu tiên của việc Phúc âm hoá, là sự hiện diện trước tiên có thể cảm nhận được của Đức Kitô.

Nền văn minh tình yêu là một mầm cây được trồng nơi thửa đất gọi là Giáo Hội, là đầu cầu dẫn vào vương quốc, với điều kiện là trước hết, các Kitô hữu phải tập và có kinh nghiệm yêu thương nhau, rồi mới có thể yêu thương mọi người.

Tình yêu, bác ái là năng lực vô song làm cho con người và xã hội có được sức sống mới. Cuộc viếng thăm một hội đường Do Thái ở Rôma của Đức Giáo Hoàng đã nhắc nhở chúng ta điều này. Công cuộc giải phóng của Kitô giáo phải hoàn toàn được hướng dẫn bởi tính năng động của giới luật yêu thương vĩ đại này.


10. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

“ĐIỀU RĂN MỚI” (Ga 13,31-33a.34-35)

1. Khi Giuda ra khỏi nhà tiệc ly, có lẽ sau lúc rửa chân và trước khi thiết lập phép Thánh thể, Chúa Giêsu nói: “Bây giờ con người đã được tôn vinh và Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Thốt lên những lời tuyên bố buồn bã về một người trong nhóm 12 sẽ phản bội, câu nói ấy, đối với các tông đồ, vang lên như một bài ca khải hoàn. “Bây giờ” là lúc cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và satan, mà Giuda là dụng cụ (x.13,37), vừa thực sự bùng nổ qua việc tên phản bội quyết tâm ra đi thi hành dự tính của mình; “bây giờ” là lúc Chúa Giêsu đối diện với “giờ” của Ngài, Giờ mà vì đó Ngài đã đến trong thế gian và không ai có quyền cho xảy ra sớm hơn hay trễ hơn (7,30; 8,20; 12, 23-27; 13,1; Dt 10,3-7; Lc 13,3 - 33). Cho đến khi ấy, đời Chúa Giêsu chỉ là một chuẩn bị, “bây giờ” mới bắt đầu thảm kịch cứu rỗi.

Nghĩ đến ơn cứu rỗi loài người và vinh quang Cha Ngài (3,15.17; 8,49-50; 10,10; 12,47), tâm hồn Chúa Giêsu cảm thấy hài lòng đến nỗi - coi cuộc khổ nạn như một thoáng qua và Thập giá như chiếc ngai vàng. Ngài đã nhiều lần chơi chữ khi dùng từ ngữ: giương cao” (exalter, hupsoun) vừa có ý nghĩa “nâng lên” (élever) và “tôn vinh” (glorifier), để cho thấy Ngài sẽ bước lên thập giá chúng ta tư thế một kẻ chinh phục (3,14; 8,28; 12,32-34; 12,23.24). Ngài thâm tín sẽ tìm thấy sự sống trong cái chết và vinh quang trong ô nhục đến nỗi nói về sự vinh hiển của Ngài như là một điều gì đã hoàn tất: “Con người sẽ được tôn vinh ”. Thì quá khứ này, để diễn tả một việc sẽ xảy ra, có thể giải thích dễ dàng nhờ lòng tin tưởng tuyệt đối của Đức Kitô vào hiệu quả chương trình của Chúa Cha hơn là nhờ các hậu kết bất khả kháng gây ra do việc Giuda phản bội.

Có lẽ đừng nghĩ đến các chứng tá Chúa Cha đã ban cho Con Ngài thì đặt trong viễn cảnh đó thì câu nói đến việc Chúa Giêsu đã tôn vinh Chúa Cha bằng cách chu toàn bổn phận khi còn sống (4,34; 17,4), bằng việc mạc khải Chúa Cha (17,6) và vinh quang của Người (2,11; 11,4.40; 17,4), qua lời nói (1,18; 3,32-34; 5,24.38.47; 6,45.63; 7,16; 8,38.40 - 47.55...) và hành động (3,21; 5,19-20.30.36; 8,28; 9,3.4; 10,25.32.37.38; 14,10-11; 15,24). Nhưng chữ “bây giờ” bắt đầu câu 31 cho thấy một cái gì mới mẻ vừa khởi phát với việc Giuda bội phản: cuộc khổ nạn - phục sinh của Chúa Giêsu được xem như sự tôn vinh tuyệt hảo nhất, và sự tôn vinh tột bực này một cách nào đó đã được chiêm ngắm trong ý nghĩa thần học của nó. Như thể đã được thực hiện trong mầm mống qua việc phản bội của Giuda. Để xác quyết điều này, chỉ cần nhớ lại chứng tá Chúa Cha vài ngày trước đó: “Ta đã tôn vinh danh Ta và Ta sẽ còn tôn vinh danh Ta nữa” (12,28). Trong trường hợp này, chính Chúa Giêsu đã tuyên bố đã đến giờ Con Người sắp được tôn vinh; hiển nhiên đây là lời tiên báo trực tiếp vào cuộc khổ nạn Ngài sắp chịu và vinh quang Ngài sắp lãnh nhận (12,23-25).

Chính Chúa Giêsu ở đây đã có ý tự xưng là “Con Người”. Mặc dù vẫn có nghĩa thiên sai như trong các phúc âm tước hiệu này dưới ngòi bút của Gioan, mang một ý nghĩa chính xác hơn. Trong mười đoản văn mà chúng ta gặp nó luôn luôn trên miệng Đức Kitô, tước hiệu “Con Người” đã ám chỉ đến vinh quang đang chờ đợi Ngôi lời nhập thể, để đáp lại việc Ngài hạ cố làm thân phận con người, dù là con người tuyệt hảo hơn hết. Và trong 4 lần, tước hiệu này trực tiếp ám chỉ đến sự vinh hiển nhờ thập giá (1,51; 3,13.14; 5,27; 6,27; 6,54.63; 8,28; 12,23; 13,31).

Nếu Đức Kitô đã được tôn vinh, chính là vì “Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Mọi việc con người phụng sự Thiên Chúa sẽ trở lại với con người dưới dạng thức vinh quang. Đó là luật, luật này trước tiên liên hệ đến Đức Kitô, và vì thế “Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Ngài (Đức Kitô) trong chính mình Người (Thiên Chúa)”. Nghĩa là gì? Nghĩa là Ngài sẽ ban vinh quang thuộc về Ngài, khi đón nhận Ngài “trong chính Người”. Con Người sẽ được thông phần vào các đặc quyền của sự sống thần linh, các đặc quyền mà Ngài sẽ nhắc tới trong lời nguyện: “Con đã tôn vinh Cha dưới đất, đã chu toàn công việc Cha giao phó cho Con làm. Và bây giờ xin Cha tôn vinh Con nơi Cha trước khi có thế gian” (17,4-5). Ở đây có sự đối chiếu giữa tình trạng của Đức Kitô lúc còn ở “dưới đất” và tình trạng “trên trời” mà Ngài xin cho được. Từ đó ta hiểu tại sao nói “Con Người” và “Thiên Chúa” thay vì nói Con và Cha. Đúng ra Chúa Con đã bao giờ mất vinh quang đã có ở Chúa Cha ngay trước khi tạo dựng vũ trụ; nhưng nhờ sự vinh hiển mà Đức Kitô đạt được cho nhân tính mình, Thiên Chúa đã nâng con người lên chính Ngai của Thiên Chúa. Chính đấy là nơi mà từ nay các tín hữu đầy lòng tin và đạo đức sẽ tìm đến gặp Ngài. Chính từ đó mà Ngài đã mạc khải cho vị tử đạo tiên khởi của Ngài. Vị này nói khi chết: “Tôi thấy các tầng trời mở ra, và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (Cv 7,56).

Khi loan báo “Thiên Chúa sắp tôn vinh Ngài”, Chúa Giêsu ám chỉ đến chứng tá hùng hồn Chúa Cha ban cho Ngài khi cho Ngài phục sinh từ cõi chết. Ngoài ra, việc phục sinh này đối với Ngài chỉ là bước đầu tiên trong cuộc sống hiển vinh mà cuộc khổ nạn sắp đưa Ngài vào.
2. Trước khi từ giã các môn đệ, Đức Kitô đã cho họ biết ý muốn tối thượng của Ngài: “Ta ban cho các ngươi một điều răn mới là hãy yêu mến nhau. Như Ta đã yêu mến các ngươi, các ngươi cũng hãy yêu mến nhau” (c.34). Ngài nói trong tư thế một sư phụ trăn trối những lời cuối cùng trước khi ra đi (x.Mt 24,45.51), và trong tư thế một người cha hằng lo bảo đảm hạnh phúc cho con cái mà ông sắp giã từ. Nếu được chấp hành tốt, điều răn này sẽ đền bù cho các môn đệ, trong mức độ có thể, sự mất mát không còn thấy Thầy cách khả giác, và sẽ làm họ xứng đáng gặp lại Ngài. Giới luật bác ái huynh đệ mà ở đây Chúa Giêsu gọi là giới luật “mới” ít lúc nữa sẽ được Ngài gọi là “giới luật của Ngài” (15,12).

Chính nhờ giới luật mới, nên Đức Kitô mới có thể tuyên bố là của Ngài. Luật tự nhiên dạy đừng làm cho ai điều ta không muốn họ làm cho mình. Luật Môisen đã thừa nhận khoản luật tự nhiên đó, khi dạy phải yêu tha nhân như chính mình (Lv 19,18). Nhưng đối với ai người Do thái, tha nhân là anh em, đồng bào, bạn hữu mà họ cần phải sống an hoà với, không thì sẽ bất an khi cùng đi đường. Luật trực tiếp liên hệ đến người Do thái, nhưng không gạt bỏ ngoại kiều (Mt 5,43. Trong các điều kiện trên, tình yêu tha nhân có tính cách tiêu cực nhiều: tránh tất cả những gì có thể gây thù oán, báo phục. Nếu tình yêu được thể hiện cách tích cực bằng hành động, thì cũng không kém vụ lợi; tựu trung, qui tắc là yêu chính bản thân mình. Chính giáo sĩ Hiller, nhà luân lý Do thái nhân bản nhất đã hiểu như thế: “Điều chi ngươi ghét, ngươi chớ làm cho tha nhân. Chính đó là tất cả lề luật, các điều khác chỉ là lời chú giải” (Chabbath, f.31).

Để xác quyết, Chúa Giêsu đã hơn một lần nhắc lại luật căn bản của mọi tương giao xã hội (Mt 7,12; 19,19; 22,39-40), nhưng Ngài đã vượt qua luật đó, hay ít ra, đã đưa nó về lại nội dung ban đầu, khi tố giác lối chú giải hẹp hòi và cứng nhắc mà các thày ký lục đã đề ra (Mt 5,43). Không phải chỉ yêu thương bạn hữu, mà còn phải muốn điều lành cho mọi người, kể cả kẻ thù mình; bằng không, không phải là Kitô hữu (Mt 5,46-48).

Với “giới luật mới”, Chúa Giêsu còn thêm nhiều điều trong những đòi buộc của tình bác ái huynh đệ; yêu tha nhân như chính mình chưa đủ người kitô hữu phải yêu tha nhân như Đức Kitô đã yêu họ (c.34). Mà tình yêu Đức Kitô đối với chúng ta là ân cần, vô vụ lợi, tận tâm (Ga 13,13-16; 15,16.19; Rm 15,13). Ngài đã hiến mình cho loài người đến cùng, nghĩa là cho đến chết (Ga 13,1; 15,12-14). Thánh Gioan đã ghi rõ ràng: “Chính do điều này mà ta nhận ra được lòng yêu mến: là Đấng ấy (Đức Kitô) đã thí mạng vì chúng ta; nên ta cũng thí mạng vì anh em mình” (1Ga 3,16).

Giao ước mới đã được đóng ấn với máu của tác giả giao ước (1Co 11,25). Điều trong trình thuật rửa chân trước đó được giới thiệu như một việc “phục vụ”, ở đây được gọi là “tình yêu”; nhưng tựu trung chỉ có một vấn đề: hiến thân hoàn toàn, không hạn chế. Tình yêu Chúa Giêsu dành cho chúng ta là tình yêu thần linh, không chỉ vì Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài yêu chúng ta như là tạo vật và Con Thiên Chúa (Ga 17,6.9.10); nhưng còn vì Ngài mô phỏng theo tình yêu Chúa Cha dành cho Ngài: “Như Cha yêu mến Ta, Ta cũng yêu mến các ngươi” (Ga 15,9). Nói tóm lại có nghĩa là: “Hãy yêu thương nhau, như Ta đã yêu thương các ngươi, cho đến hy sinh mạng sống; hãy yêu thương nhau như chính Thiên Chúa đã yêu Ta”.

Một khi được hiểu và thực hành như vậy, tình bác ái huynh đệ phải tạo ra giữa loài người mối hiệp nhất theo gương Thiên Chúa: “Để hết thảy chúng được nên một, cũng như, Lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong chúng ta” (Ga 17,21). Mà Đấng cầu nguyện như thế cũng đã nói: “Cha và Ta là một” (10,30).

Ngoài ra, Đức Kitô của Thánh Gioan ở đây không dạy điều gì khác các điều chúng ta đã học trong các phúc âm nhất lãm. Bài diễn từ trên núi tóm tắt toàn bộ lý tưởng Kitô hữu: “Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48). Đoạn này cũng nói yêu kẻ thù là dấu chỉ phân biệt người Kitô hữu (Mt 5,46-48). Để yêu người như Chúa Giêsu muốn, phải yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự. Vì thế vị tôn sư đã đặt tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân một cách nào đó ngang hàng với nhau (Mt 22,39). Gioan và Phaolô, hai môn đệ Ngài, đã nhất trí dạy rằng: người yêu tha nhân là giữ trọn lề luật (1Ga 2,7-11; 3,10 -11.14-16; Rm 13,9-10).

“Chính nơi điều này mà mọi người sẽ nhận ra là các ngươi là môn đệ Ta: ấy là các ngươi có lòng yêu mến nhau” (c.35). Bác ái giữa người Kitô hữu với nhau phải hiện thực và rõ ràng đến nỗi tự nó cho thấy họ là môn đệ Chúa Giêsu, ngay cả đến những người không biết gì về Kitô giáo (Ga 14,31; 17,21; 1Ga 2,7-11; 4,02-21). Tình yêu được truyền dạy ở đây chỉ có thể được hiện hữu giữa những người tin vào Chúa Giêsu Kitô. Một lần nữa, giới luật là giới luật “mới".

Lịch sử Giáo hội sơ khai là lời chú giải tuyệt hảo nhất về câu nói đó. Luật bác ái đã được hiểu rất sớm và đã phát sinh ra nhiều hoa quả xây dựng mà Chúa mong chờ. Tác giả sách công vụ đã nói lên đặc điểm của nhóm Kitô hữu đầu tiên: “Các kẻ tin hết thảy đều coi mọi sự như của chung” (Cv 2,44). Theo chứng từ của Tertullien, người ta đã nói về họ: “Hãy xem họ thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào” (Apolog.39; Pl 1,53a). Sau này, những người ở ngoài sẽ gọi họ là Kitô hữu, còn họ vẫn gọi nhau là “anh em” (Cv 11,26.29). Họ ý thức việc họ được bác ái liên kết, đến nỗi đã dùng chữ “Agapê” (tình yêu) để đặt tên cho bữa ăn chung, được đó họ ăn và uống Mình, Máu Chúa (Giuda 12; Ignatiô, thơ gởi tín hữu Rm 7).

KẾT LUẬN
Trước ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã ban luật sống mới cho môn đệ mình. Đây là một luật mới vì đặt cơ sở trên một biến cố mới, bất ngờ và điên đảo: cái chết của Chúa, và vì trong cộng đoàn nhân loại không có chi tương tự như thế. Do đó, luật sống này là đặc điểm của cộng đoàn môn đệ vừa thành lập: “chính nơi điều này mà mọi người sẽ nhận ra các ngươi là môn đệ Ta”. Và các chứng tá trong Giáo hội sơ khai chứng nhận rằng luật tình yêu này, thực sự đã được chấp hành tốt.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Sau khi Giuda ra đi, Chúa Giêsu liền công bố, như thể cuộc ra đi của Giuda là dấu hiệu của một điều gì quan trọng: “Bây giờ Con Người đã được tôn vinh và Thiên Chúa đã được tôn vinh nơi Ngài”. Hãy biết rằng, trong thánh kinh, vinh quang của Thiên Chúa hay vinh quang của một người nào đó không cùng ngôn ngữ như trong ngôn ngữ chúng ta. Trong ngôn ngữ chúng ta, vinh quang có nghĩa: nổi danh, đắc nhân tâm và được tiếng tốt. Trong Thánh kinh, vinh quang chỉ phẩm cách, thế lực, ảnh hưởng hiện diện và quyền năng của nhân vật. Với ý nghĩ đó, vinh quang cao cả, cơ sở của mọi vinh quang khác, chỉ thuộc về Thiên Chúa, Đấng thông ban vinh quang như ý Ngài muốn. Trong mức độ thực hiện chương trình Thiên Chúa, mỗi người nhận được giá trị và thế lực, và lớn lên trong vinh quang.

2. Việc tìm hiểu các tự nguyện đó giúp chúng ta quán triệt ý nghĩa các lời nói của Đức Kitô. Chúa Giêsu đã được tôn vinh. Ngài chấp nhận điều Giuda phải làm. Từ đó, Ngài được vinh hiển, vì hoàn toàn chấp nhận cuộc Vượt qua bằng cái chết. Việc Ngài vâng phục thánh ý Chúa Cha làm cho Ngài được “vinh quang” và nói lên việc Người nhiệt tâm yêu mến Thiên Chúa. Đồng thời khi minh chứng mức độ tình yêu Ngài đối với loài người bằng việc trao ban Chúa Con, Chúa Cha cũng “đã được tôn vinh” trong con người Chúa Giêsu.

3. Việc phúc âm và phụng vụ nhấn mạnh đến tính cách mới mẻ của luật bác ái huynh đệ đòi buộc chúng ta xét mình xem chúng ta thực thi Luật đó đến mức nào và bằng cách nào. Nó giả thiết đức ái này tiếp nối tình yêu Đức Kitô dành cho chúng ta ("như thày đã yêu mến các con") và tiếp nối tình yêu chúng ta đối với Chúa Giêsu (vì chính trong điều đó mà người ta nhận ra các con là môn đệ Thày...). Lòng thương cảm tự nhiên khác xa tình yêu anh em siêu nhiên mà chúng ta phải có. Yêu thương họ vì họ (trong môi trường và điều kiện sống họ đang sống) không ngăn cản việc yêu thương họ trong Thiên Chúa và trong Đức Kitô. Và ngược lại, yêu thương họ như thế không giảm bớt lòng kính trọng và tình cảm tự nhiên. Yêu cách siêu nhiên không có nghĩa là yêu cách nhạt nhẽo, hững hờ, “để được Chúa thưởng”. Nhưng là yêu người khác hết lòng, không phải vì họ dễ thương, xinh đẹp, tốt lành... nhưng là vì họ là chi thể quí giá của Chúa Giêsu, là công dân Gierusalem thiên quốc. Vì các đặc điểm trên có giá trị cho mọi người, nên phải yêu mọi người với tình yêu siêu nhiên.

4. Trong thế giới ích kỷ, bạo tàn, ham mê tiền bạc, bóc lột nghèo, người Kitô hữu phải làm sáng rực như ánh lửa, tình yêu họ đối với tha nhân, niềm cảm thông với người cùng khổ, lòng dịu và tha thứ cho kẻ nghịch thù. Nếu làm như vậy, Kitô hữu sẽ nổi bật lên giữa bao người khác. Một khi cảm nghiệm cách cụ thể tình yêu đó, thiên hạ sẽ nhận ra người Kitô hữu là môn đệ đích thật của Đức Kitô, sức nóng của tình yêu, họ sẽ được đưa dẫn về với Đức Kitô. Chỉ tình yêu mới có thể xây dựng đô thành huynh đệ loài người hằng mơ ước.

 

11. Giới luật yêu thương

Trước khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã gửi gấm những tâm sự cuối cùng cho các môn đệ. Ngài đã trăn trối cho các ông, cũng như cho chúng ta một sứ điệp quan trọng mà mỗi người phải đem ra thực hành trong cuộc sống. Ngài nói:
- Các con thân mến, Thầy chỉ còn ở với các con một thời gian ngắn nữa mà thôi, nên Thầy ban cho các con một điều răn mới, đó là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương các con.

Như chúng ta đã biết: giới răn thứ nhất đó là lòng kính mến đối với Thiên Chúa. Tuy nhiên, giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là tình yêu thương đối với anh em. Thế nhưng, nếu kiểm điểm lại cuộc sống, chúng ta thấy mình đã thực hiện hai giới răn ấy như thế nào? Bởi vì tất cả đều xuất phát từ lòng mến Chúa và tình yêu người. Tất cả mọi lời khuyên nhủ và ngăn cấm cũng chỉ là kết quả đương nhiên của hai giới răn ấy mà thôi.

Đúng thế, nếu chúng ta thực sự yêu thương anh em, hẳn chúng ta sẽ không còn thù oán và ghen tương, hẳn chúng ta sẽ sẽ không còn nói hành và nói xấu, hẳn chúng ta sẽ không còn gian tham và bất công. Trái lại, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta đều cố gắng chia sẻ và giúp đỡ họ. Trong chiều hướng đó, chúng ta mới hiểu được lời nói sâu xa của thánh Augustinô:
- Ama et fac quod vis, nghĩa là hãy yêu và hãy làm điều mình muốn.

Sở dĩ như vậy, vì tất cả những hành động xuất phát từ tình yêu thương đều có giá trị riêng của chúng. Không phải chỉ trong ngày sau hết chúng ta mới bị xét xử về tình yêu thương, mà hơn thế nữa, ngay từ bây giờ tình yêu thương đã trở thành dấu chỉ của người môn đệ Chúa. Không có tình yêu, thì mọi hành động chỉ là tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã phải nhấn mạnh:
- Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các con yêu thương nhau.

Như vậy, tình yêu thương vừa là một điểm đặc sắc nhất của người Kitô hữu, vừa là một bảo chứng chắc chắn nhất cho niềm hạnh phúc đời đời. Thực vậy, hẳn chúng ta còn nhớ lời Chúa phán trong ngày phán xét. Với những người lành, Ngài bảo:
- Hỡi những kẻ đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy phần thưởng đời đời đã được sắm sẵn cho các ngươi từ muôn ngàn thuở trước, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Khi Ta khát, các ngươi đã cho uống, Khi ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Khi Ta đau yếu và bị cầm tù, các ngươi đã viếng thăm.

Vậy lúc này đây, chúng ta đang thuộc về nhóm người nào: nhóm người lành hay nhóm kẻ dữ? Nhóm chiên hay nhóm dê? Nhóm ở bên phải hay nhóm ở bên trái? Nhóm được chúc lành hay nhóm bị chúc dữ? Nhóm được ân thưởng hay nhóm bị trừng phạt? Từ đó, hẳn chúng ta đã nhận ra điều gì cần phải làm ngay? Đó là tình yêu thương. Điều ấy tuy dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng,bởi vì nó sẽ ấn định số phận đời đời của mỗi người chúng ta. Tuy nhiên, yêu thương bằng miệng lưỡi, bằng lời nói mà thôi chưa đủ, điều quan trọng và cần thiết, đó là phải biểu lộ tình yêu thương ấy bằng những việc làm cụ thể.

Bác tài xế của Đức Thánh Cha Phaolô VI kể lại rằng:
Có một cụ già chẳng may bị mất một con lừa. Cụ ta bèn viết thư xin Đức Thánh Cha giúp đỡ, lúc bấy giờ ngài mới chỉ là một vị Tổng Giám Mục. Sau khi biết được giá mua của một con lừa, ngài liền gửi số tiền ấy cho cụ già. Là một vị Hồng Y, bận rộn nhiều công chuyện lớn lao, thế mà ngài vẫn không quên những nhu cầu nhỏ bé cần phải giúp đỡ cho những kẻ bất hạnh. Chính vì những hành động nhỏ bé này mà người ta xác định được tình yêu thương chân thành của người Kitô hữu. Một linh mục ở Milan cũng đã nhận xét: Tôi thường thấy đức Hồng Y quỳ gối chăm sóc cho những người nghèo túng và bệnh tật.

Với chúng ta cũng vậy, Hãy biểu lộ tình yêu thương của chúng ta đối với những người chung quanh bằng những việc làm cụ thể, bởi vì chính những việc làm cụ thể này sẽ là như một tấm vé để chúng ta được đón nhận vào Nước Trời.



12. Điều răn mới

Bài Phúc âm của Chúa nhật V Phục sinh hôm nay ghi lại những lời từ biệt của Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong bữa tiệc ly, trước khi Chúa chịu tử nạn và sau khi Giuđa đã bỏ bàn tiệc đi ra thực hiện ý đồ phản bội Chúa.

“Căn cứ vào điều này mà người ta nhận biết các con là môn đệ của Thầy là các con hãy thương yêu nhau”. Yêu thương là một lệnh truyền phải thi hành chứ không phải là một lời khuyên hay một sự kêu mời muốn làm hay không cũng được: “Đây là lệnh truyền của Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Nếu chúng ta yêu thương anh chị em thì chúng ta đã qua sự chết mà vào sự sống. Trái lại, kẻ không yêu thương anh chị em mình thì ở trong sự chết. Vì phàm ai ghét anh chị em thì là kẻ sát nhân mà đã là kẻ sát nhân thì không có sự sống đời đời.

Yêu thương nhau là một giới răn mới, bởi vì Đức Kitô đã biến đổi luật yêu thương cũ của Cựu ước: “Ngươi phải yêu thương anh chị em như chính mình ngươi” bằng cách gắn liền nó với tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Do đó, Ngài đã mặc cho nó một bản tính siêu việt mới là chính tình yêu của Ngài: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.

Như Thầy đã yêu thương các con là điều răn mới mà Đức Kitô thêm vào luật cũ của Cựu ước. Nói con phải yêu thương anh chị em như chính mình con, nơi thánh Gioan 12,34 Chúa Giêsu nói: “Thầy ban cho các con một điều răn mới là các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con”.
Như vậy, tình yêu thương này không còn phát xuất từ chính chúng ta nữa, nhưng là phát xuất từ Thiên Chúa. Lòng mến phát xuất từ Thiên Chúa như thư I của thánh Gioan 4,7 diễn tả như sau: “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau như vậy”.

Tình thương của chúng ta đối với anh chị em là tham dự vào tình thương của chính Thiên Chúa đối với chúng ta. Cũng chính vì vậy giới răn yêu thương mới này được đồng hoá bởi tình yêu mến mà chúng ta có đối với Chúa. Yêu thương anh chị em và mến Thiên Chúa là một, và ai không yêu thương anh chị em thì cũng không mến Chúa. Nếu ai nói tôi mến Chúa mà lại ghét anh chị em mình thì là kẻ nói dối.

Chính vì thế mà yêu thương là dấu chỉ chúng ta là những người thuộc về Thiên Chúa, là môn đệ của Chúa: “Cứ dấu này mà người ta nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con hãy yêu thương nhau”. Chỉ khi nào ta hiểu và sống thực sự điều này thì mới là điều làm đẹp lòng Thiên Chúa. Nhưng đây là việc khó, chúng ta cần phải cố gắng hằng ngày: “Chúng con hãy nên trọn lành như Cha chúng con ở trên trời là Đấng trọn lành”. Chúng con hãy làm việc tốt để anh chị em chúng con nhìn thấy những việc tốt chúng con làm mà ngợi khen Cha các con ở trên trời.



13. Yêu thương

Tình yêu là gì? Nó có phải là thứ mà tất cả chúng ta đều khao khát không? Điều chắc chắn rằng mỗi chúng ta ai cũng muốn yêu và được yêu. Vì thế, tình yêu trở nên một đề tài muôn thuở, nhất là vào thời bây giờ, nó là một mặt hàng đắt khách. Tình yêu xuất hiện trên sách vở, báo chí, phim ảnh, mọi ngành nghệ thuật những bản tình ca, tạp chí chuyên đề về tình yêu vẫn thu hút mọi người. Có vẻ như tình yêu hiện diện khắp nơi và chi phối đời sống nhân loại. Thế nhưng sự thật lại khác hẳn. Con người hôm nay đã dùng chính sức mạnh để triệt tiêu lẫn nhau thay vì phải dùng chính nó để kiến tạo nên hoà bình và yêu thương.

Sức mạnh đích thực của con người không nằm trong khả năng chinh phục hay đàn áp kẻ khác để chứng tỏ quyền lực của một kẻ mạnh trên một kẻ yếu, mà chính là trong khả năng có thể chế ngự được chính mình, vượt thắng sự ích kỷ để hiến mình cho tha nhân. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã thể hiện qua cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài. Chúa Giêsu đã chứng tỏ sức mạnh vô biên của tình yêu. Vì thế, Ngài mới có thể để lại cho chúng ta một điều răn mới như một lời di chúc: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.

Yêu thương nhau là điều răn mới của Chúa Giêsu. Tại sao mới? Mới ở chỗ nào? Từ ngàn xưa, văn hoá Á Đông từng nêu câu châm ngôn: “Tứ hải giai huynh đệ” (bốn bể là anh em) và đạo lý cha ông cũng răn dạy: “Thương người như thể thương thân”. Luật Cựu ước cũng thừa nhận luật tự nhiên đó khi dạy: “phải yêu người thân cận như chính mình”. Người thân cận ở đây đối với người Do thái chỉ là anh em bà con ruột thịt không phải là tất cả mọi người. Điều răn này đối với Kitô hữu hôm nay vẫn là điều quan trọng nhất mà họ phải giữ khi sống với tha nhân. Nhưng với Chúa Giêsu, “yêu thương nhau” là điều răn mới, nó mới bởi vì:

Trước hết, đối tượng của tình yêu thương là tất cả mọi người, không loại trừ ai kể cả kẻ thù nữa, không phân biệt chủng tộc, màu da, tiếng nói và tôn giáo. Đó là nét đặc thù của điều răn này. Tiếp theo, nó còn mới ở chỗ có tính đòi hỏi hơn, vì dựa trên một tiêu chuẩn cao hơn, tiêu chuẩn của tình yêu thương là chính tình yêu của Thiên Chúa. Luật Cựu ước dạy: “Hãy yêu người thân cận như chính mình” tức là lấy bản thân mình làm tiêu chuẩn. Còn Chúa Giêsu dạy phải yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta, tức là phải lấy tình yêu của Chúa làm tiêu chuẩn, làm kiểu mẫu cho tình yêu của chúng ta. Ngài yêu ta đến nỗi tự ý nộp mình chịu chết vì ta. Sau hết, điều răn này được coi là mới, vì nó gắn liền với giao ước mới, giao ước đã được thiết lập trong Máu Đức Giêsu. Đây không phải là điều răn được khắc trên bia đá, nhưng được ghi vào tâm hồn các Kitô hữu do tác động của Chúa Thánh Thần. Như vậy, điều răn “yêu thương” chỉ thực sự là mới khi mỗi Kitô hữu phải yêu thương người như Chúa yêu.

Sự thật yêu người như chính mình đã khó, nhưng yêu người như Chúa yêu lại càng khó hơn. Vì thế khoảng cách vẫn còn đó từ chỗ biết đến chỗ sống. Chúng ta vẫn thích lấy lòng mình làm thước đo tình yêu dành cho tha nhân – người ta đối xử với tôi thế nào, tôi đối xử lại như vậy. Yêu người chỉ vì người đó xinh đẹp, dễ thương để cuối cùng cũng chỉ là tình yêu vụ lợi, chiếm đoạt cho riêng mình. Một tình yêu như thế thì không thể bước qua được mọi cản trở của tình yêu: vong ân, báo oán nhưng có thể vượt qua nếu yêu bằng tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa.

Gandhi, một vị cha già của dân tộc Aán Độ đã vĩnh viễn nằm xuống sau nhát gươm của một thanh niên quá khích, vì anh ta không thể chấp nhận sự kiện vị cha già ấy bày tỏ lòng quảng đại yêu thương ngay cả những người Hồi giáo. Hàng triệu người Aán Độ than khóc, để tang vì dân tộc đã mất đi một con người vĩ đại, trường kỳ lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho tổ quốc mà không hề dùng đến khí giới của bạo động và hận thù.

Cũng thế, mẹ Têrêxa đã dùng chính khí giới của tình thương để cho những người không nhà không cửa, những mảnh đời đang hấp hối nơi đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người. Vì sống yêu thương, mẹ Têrêxa đã cảm nhận được cõi thẳm sâu niềm khao khát được yêu thương của người bất hạnh. Mẹ kể “Khi ở Luân Đôn, tôi có dịp đến thăm những người vô gia cư mà các nữ tu của chúng tôi săn sóc tại một trung tâm phân phát thức ăn. Một người đàn ông nọ, mà nơi cư trú là một thùng giấy cứng, cầm lấy tay tôi rồi nói: “Đã lâu lắm rồi tôi mới cảm nhận được hơi ấm của một bàn tay”. Mẹ nói tiếp, yêu thương không phải là thương hại. Điều quan trọng không phải là tiền, của cải, mà hãy đưa bàn tay ra ngồi bên cạnh họ, tiếp xúc diện đối diện.

Những mẫu gương trên đây là những phản ảnh của một tình yêu trọn vẹn hơn, đó là tình yêu đi bước trước, hoàn toàn phục vụ trong khiêm tốn và chịu chết cho người mình yêu của Đức Giêsu. Vì thế bác ái đích thực chỉ có một kiểu mẫu chính là Ngài: mỗi Kitô hữu hãy sống cho tình yêu đó: Yêu thương như Chúa yêu thương. Nếu có ai trong chúng ta đang nhiệt tình trong các công việc từ thiện, phân phát cho đi một cái gì, hăng say hoạt động rao giảng hoặc đảm nhận việc này, việc khác… điều đó rất tốt nhưng chúng chỉ có ý nghĩa đích thực và bác ái Kitô giáo khi chúng ta làm chỉ vì yêu thương mà thôi, chứ không vì những gì có thể nhận lại, thi hành mọi việc phải làm với lòng tự nguyện, bằng một tinh thần hy sinh và lòng quảng đại vì những va chạm, bất đồng ý kiến là điều không thể tránh khỏi: mọi thành kiến, hận thù và lòng ganh tị là những thứ cản trở cho tinh thần hợp tác trong cộng đoàn giáo xứ, gia đình, đoàn thể… Đồng thời làm phân hoá, đổ vỡ tình yêu thương và bác ái đối với nhau.

Hãy tha thứ cho nhau vì những thiếu sót hạn chế nơi mỗi người là điều kiện để có thể đến gần nhau hơn, sống hiệp nhất vì Chúa đã yêu ta qua mầu nhiệm Nhập thể, sống quên mình quan tâm đến tha nhân vì Đức Kitô đã hiến mình cho nhân loại và phải trở nên sức sống cho người khác sẵn sàng phục vụ vì Chúa đã yêu ta qua Bí tích Thánh Thể.

Tóm lại: Điều răn mới của Chúa Giêsu là “Anh em hãy yêu thương nhau như Ngài yêu thương”. Quả thật, một tình yêu có ranh giới là yêu thương không có ranh giới, nghĩa là không chỉ cho đồng bào ruột thịt, mà là cho mọi người hết thảy.

Ước gì mỗi Kitô hữu chúng ta luôn biết sống trọn vẹn điều răn yêu thương. Điều đó sẽ trở nên dấu chỉ cho một tình yêu Kitô giáo đích thực.



14. Tình thương

Tất cả chúng ta đều biết: Trong bữa ăn cuối cùng với các môn đệ vào chiều ngày thứ năm Tuần Thánh, quen gọi là bữa tiệc ly, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ nhiều điều quí giá. Những lời này được coi là những lời trăn trối đầy thân tình. Đây là những lời tâm huyết rất chân thật và cũng là những chỉ thị cuối cùng của Ngài. Chúa nhắc đi nhắc lại với các môn đệ: Ngài yêu thương họ lắm, Ngài yêu thương họ vô cùng, và Ngài bảo họ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Tại sao Chúa Giêsu lại gọi “yêu thương nhau” là điều răn mới? Mới ở chỗ nào và mới như thế nào?

Tình yêu thương thì xưa như trái đất. Tại sao Chúa Giêsu lại gọi đây là điều răn mới? Đúng thế, khi bắt đầu có con người là có tình yêu thương, và cũng từ đó bắt đầu có lời dạy: hãy yêu thương nhau. Kinh thánh Cựu ước cũng dạy yêu người, nhưng tình yêu đó còn giới hạn và chưa loại bỏ được hết những động lực vị kỷ. Chúa Giêsu đến để hoàn tất Cựu ước. Ngài đưa ra những đòi hỏi mới về tình yêu thương, và đưa tình yêu thương đó lên tột đỉnh mà không ai trong loài người dám nghĩ tới. Chúa Giêsu tuyên bố đây là điều răn mới, trước hết, vì là điều răn của giao ước mới, giao ước được ký kết bằng máu của Ngài để chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với Thiên Chúa và tình yêu của Ngài đối với con người. Và Chúa còn đưa ra một lý do mới nữa, đó là tiêu chuẩn hay kiểu mẫu yêu thương. Cựu ước dạy: “Hãy yêu thương đồng loại như chính mình”, nghĩa là lấy bản thân mỗi người làm tiêu chuẩn: tôi yêu tôi thế nào thì tôi cũng hãy yêu người khác như vậy. Tình yêu đó còn giới hạn và chưa loại bỏ được hết những động lực vị kỷ. Còn Chúa Giêsu dạy: phải yêu thương nhau như chình Ngài đã yêu thương chúng ta.
Cách Ngài yêu thương vượt hẳn tiêu chuẩn của Cựu ước, Ngài yêu thương chúng ta hơn chính Ngài. Như vậy, tiêu chuẩn và kiểu mẫu cho chúng ta yêu thương nhau, chính là tình yêu thương của Ngài đối với chúng ta, và tình yêu thương của Ngài là động lực thúc đẩy chúng ta yêu thương nhau. “Yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu” nghĩa là: nếu Chúa đã hiến mạng sống mình vì ta, thì ta cũng phải hiến mạng sống mình vì anh em. Nếu Chúa vốn là Thiên Chúa nhưng đã không dành cho mình chức trọng quyền cao mà đã hiến thân làm người để phục vụ loài người, thì họ cũng phải biết quên mình phục vụ nhau. Nếu Chúa là Thầy và là Chúa mà còn cúi xuống rửa chân cho các môn đệ, thì đến lượt các ông cũng phải rửa chân cho nhau. Nói cách khác, Chúa Giêsu Đấng mà các môn đệ đã nhận ra là Chúa sau Phục sinh phải là khuôn mẫu cho cuộc sống của họ. Họ phải sống như Ngài đã sống, phải yêu thương như Ngài đã yêu thương. Ngài là qui luật hành động của người môn đệ. Vì vậy, “yêu như Chúa đã yêu” còn có nghĩa là yêu vì đã được Chúa yêu. Thực vậy, Chúa Giêsu chính là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Trọn cuộc đời Ngài, từ khi làm người cho đến khi chết trên thập giá, là yêu thương. Nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, thì chúng ta cũng phải yêu thương nhau. Người môn đệ sẽ nối bước theo Thầy trên chính con đường Thầy đã đi và vạch ra cho họ thấy. Khi Chúa Giêsu còn sống trên trần thế thì không cần có dấu chỉ mới nhận ra được ai là môn đệ của Ngài. Chỉ cần thấy họ nghe và đi theo Ngài là đủ. Nhưng khi Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình giữa họ nữa, thì làm thế nào mà những người không tin có thể nhận ra họ là người môn đệ của Chúa? Theo thánh Gioan, chỉ có một tiêu chuẩn duy nhất, đó là lối sống được xây dựng trên tình yêu huynh đệ, một tình yêu thực sự bằng việc làm chứ không phải nơi đầu môi chót lưỡi. Một cộng đoàn Kitô hữu nếu muốn được nhận ra là một cộng đoàn của Chúa, thì phải chứng minh bằng đời sống thấm nhuần tình yêu thương nhau. Không có một dấu chỉ nào khác có thể thay thế dấu chỉ ấy, dầu là nghi lễ, lề luật hay những biểu thức đức tin. Nhìn vào dòng lịch sử, chúng ta thấy yêu thương nhau vẫn là một nét tiêu biểu của các tín hữu buổi sơ khai. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy: họ coi mọi sự như là của chung. Họ đồng tâm nhất trí chuyên cần lui tới đền thờ cầu nguyện và bẻ bánh, cùng nhau chia sẻ của ăn nuôi thân. Ông Tetulianô đã ghi nhận về cộng đoàn các Kitô hữu thời sơ khai như sau: “Dân chúng nhìn họ, tức các Kitô hữu, và nói về họ rằng: “Hãy xem họ yêu thương nhau biết bao và sẵn sàng hiến mạng cho nhau chừng nào”. Những người ở ngoài gọi họ là Kitô hữu, nhưng họ vẫn gọi nhau là anh em”. Đó là cộng đoàn Kitô hữu sơ khai ở Giêrusalem. Gần chúng ta hơn, ở Việt Nam, cha Gaspar d’Amaral đã ghi nhận về cộng đoàn tín hữu đầu tiên ở Thăng Long, Việt Nam chúng ta sau năm năm truyền giáo đầu tiên như sau: “Giáo hữu ở đây có chừng hơn một ngàn. Họ yêu thương nhau đến nỗi những người ngoại ở chung quanh, vì không biết gọi tên đạo mới là gì, nên căn cứ vào cách sống của họ mà gọi họ là “Những người theo đạo yêu nhau”. Là con cháu của thế hệ Kitô hữu theo đạo yêu nhau ấy, chúng ta hãy tự hỏi: những người chung quanh hôm nay nhìn vào cách sống của chúng ta họ có nhận ra chúng ta là những người theo “đạo yêu nhau” không? Thiết tưởng không có gì phản chứng hơn trước mặt mọi người, khi các Kitô hữu bất hoà, chia rẽ nhau, thậm chí bài xích và loại trừ nhau. Rất có thể người ta thấy chúng ta chuyên cần nghe giảng, siêng năng đi lễ và cầu nguyện, nhưng lại không có sự hiệp thông huynh đệ, đồng tâm nhất trí với nhau. Điều đó đã và đang xảy ra nơi mỗi người chúng ta, gia đình chúng ta và cộng đoàn chúng ta chăng? Thiên Chúa là tình yêu, đạo Thiên Chúa đạo là tình yêu. Chúng ta hôm nay cũng phải tiếp tục làm chứng cho mọi người thấy đạo Thiên Chúa là đạo yêu nhau. Trong những năm gần đây, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng thường đề cập đến một nền văn minh tình thương. Thực vậy, con người chỉ được coi là văn minh khi biết bước ra khỏi sự man rợ của thú tính, khi biết sống yêu thương và nhìn nhận kẻ khác cũng là người như mình, bất chấp những khác biệt về chủng tộc, màu da, tôn giáo hay quan điểm chính trị. Xây dựng một nền văn minh dựa trên tình thương đó là bổn phận cấp bách của người kitô hữu hôm nay. Và đó cũng là ý muốn của Chúa Giêsu khi Ngài nói với chúng ta: “Thầy ban cho các con một điều răn mới, là các con hãy yêu thương nhau”.

 

15. Yêu thương (Trích trong ‘Sợi Chỉ Đỏ’)

Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện thánh nữ Maria Goretti. Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp: Vừa đẹp người vừa đẹp nết. Nhưng gia đình thì nghèo: Không có nhà riêng để ở, phải ở chung nhà với gia đình của anh chàng Alexandre. Hàng ngày mẹ và các anh của Goretti ra đồng làm ruộng, Goretti ở nhà lo việc nội trợ và giữ em. Anh chàng Alexandre từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti cùng mình trao đổi những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối. Một hôm Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết Goretti ở nhà một mình nên lấy cớ đau bụng để trở về nhà. Về đến nhà Alexandre giả bộ nhờ Goretti vào phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái ngây thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đã đi vào. Alexandre lại một lần nữa đề nghị chuyện ái ân. Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho lý trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào mình Goretti và chạy trốn. Sau đó anh của Goretti sinh nghi từ ruộng trở về thấy em gái mình sắp chết, anh thề sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh hãy tha cho hắn. Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt giam. Một đêm kia anh thấy Goretti hiện ra với mình và tặng cho mình những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ. Từ đó Alexander ăn năn sửa mình, nên được khoan hồng trả tự do trước khi hạn tù chấm dứt. Alexandre còn được vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.

Có thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình. Nhưng trong chuyện ấy có hai thứ tình: tình của Alexandre đối với Goretti là một thứ tình yêu thấp hèn,: còn tình yêu của Goretti đối với Alexandre là một thứ tình yêu cao đẹp. Nếu dùng từ ngữ của bài Tin Mừng hôm nay, thì tình yêu của Alexander là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu của Goretti là thứ tình yêu kiểu mới.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy yêu thương nhau. Thực ra tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể từ khi có mặt con người trên trái đất này thì cũng đã có tình yêu. Cho nên nếu Chúa Giêsu chỉ bảo người ta thương yêu nhau như người ta đã từng yêu thương nhau từ trước tới giờ thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa và vô ích. Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì Chúa không dạy người ta thương yêu nhau kiểu cũ, mà là thương yêu nhau kiểu mới. Thế nào là yêu thương kiểu cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới? Tự nhiên là con người biết thương và biết ghét,: thương người vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ. Sách Lêvi trong bộ Cựu ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn: đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu thương kiểu khá mới. Còn trong bài Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa: không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất. Kiểu yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã yêu. Vậy Chúa đã yêu như thế nào? Có vài chi tiết trong bài Phúc âm giúp ta hiểu rõ hơn cách yêu thương của Chúa:
·        Chi tiết thứ nhất là câu “Khi Giuđa đi rồi”: Giuđa đi để thực hiện âm mưu bội phản bán Thầy. Lúc đó lẽ ra Chúa phải chua chát cho tình nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa yêu thương.
·        Chi tiết thứ hai là câu “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy”: nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa.
Qua những chi tiết trên, ta hiểu được rằng yêu thương như Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu, yêu thương chính cái điều mà người thường không thể yêu, và yêu thương những người mà người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa. Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ Maria Goretti. Yêu thương của Alexander là yêu thương kiểu cũ, bởi vì Alexander chỉ yêu thương theo sự thúc đẩy của bản tính, của tính dục. Khi tình dục không được thoả mãn thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti. Còn yêu thương kiểu Goretti là yêu thương kiểu mới: yêu thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính lúc đau đớn sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt Alexander. Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn “Thầy ban cho chúng con một giới răn mới”.

Chúng ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao? Có một tác giả kia khi viết bài suy gẫm về bài Phúc âm này, đã đề nghị một số việc như sau là làm hoà với những kẻ ghét mình, là cầu nguyện cho kẻ ghét mình, là làm tươi hồng môi trường sống của mình bằng những việc phục vụ và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.

Thiết tưởng đó là những việc rất cụ thể mà chúng ta phải cố gắng làm để thực hiện tình yêu thương kiểu mới mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay.

 

16. Đã yêu (Trích trong ‘Sợi Chỉ Đỏ’)

Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương. Trong các tai hoạ vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất. Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới toà nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống: Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.. Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn bà mẹ: Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy Chị đáp: Tuy bị chôn vùi dưới toà nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. sau đó, tôi không còn biết gì nữa? Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao? Tôi không hề nghĩ đến cái chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cách nào cho con tôi được sống.

Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”. Yêu như Thầy đã yêu chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu. Yêu như Thầy đã yêu chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như bạn hữu thân tình. Yêu như Thầy đã yêu chính là yêu cho đến cùng, yêu cho đến chết và chết trên thập giá. Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu như Thầy đã yêu.

Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta. Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu khi chúng ta dám quên mình, bắt chước Thầy, cúi xuống trước anh em. Chúng ta chỉ có thể yêu như Thầy đã yêu khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng mức độ như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em. Như vậy, yêu như Thầy đã yêu không phải là tình yêu vị kỷ (Eros) yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác. Yêu như Thầy đã yêu chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.

Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau”.

 

17. Suy Niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:
1.    Tại sao sắp tới lúc chịu tử nạn, Đức Giêsu lại nói rằng sắp tới giờ Ngài được tôn vinh? Tử nạn và tôn vinh có phải là một sự kiện duy nhất không?
2.    Tại sao khi Đức Giêsu được tôn vinh, thì Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người? Có gì tương tự như thế giữa Thiên Chúa và chúng ta như nơi Đức Giêsu không?
3.    Tại sao sự yêu thương nhau lại là dấu chứng của các môn đệ Chúa? Thế còn việc làm dấu thánh giá có phải là dấu chứng không?
Suy tư gợi ý:
Thiên Chúa được tôn vinh nơi Đức Giêsu và qua Đức Giêsu
a) Hai mặt đối nghịch nhau của mầu nhiệm vượt qua
«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giêsu nói điều này ngay trước khi chịu tử nạn. Tới giờ phải chịu tử nạn, mà Ngài lại nói đó là lúc Ngài được tôn vinh. Điều này cho thấy «tử nạn» và «được tôn vinh» là hai mặt khác nhau của cùng một sự việc. Nói cách khác, tử nạn và phục sinh, hay đau khổ và vinh quang tuy khác nhau và ngược lại nhau, nhưng lại luôn luôn gắn liền với nhau, không thể tách rời nhau, giống như hai mặt của một tờ giấy duy nhất.

Đó là chính là nội dung và ý nghĩa của mầu nhiệm vượt qua: vì đau khổ và vinh quang, tử nạn và phục sinh không thể tách rời nhau, nên muốn đạt được cái này thì phải trải qua cái kia. Không thể phục sinh nếu không chịu tử nạn, không thể hạnh phúc hay vinh quang, nếu không trải qua đau khổ. Đời sống thực tế chứng tỏ rõ ràng điều ấy: Tôi không chịu cực khổ làm ăn, gia đình tôi không thể ấm no hạnh phúc được. Một học sinh không chịu khó nhọc học hành không thể đỗ đạt hay làm nên danh phận gì.

Ý thức được thực tế của mầu nhiệm vượt qua, người kitô-hữu không nên mơ tưởng có được hạnh phúc mà không phải qua đau khổ, hay có được vinh quang mà không phải chịu nhục nhã, hay sẽ phục sinh mà không cần tử nạn. Qui luật thực tế của đời sống không cho phép như thế. Muốn hạnh phúc mà không qua đau khổ, muốn vinh quang mà không chịu nhục nhã, muốn phục sinh mà không cần tử nạn, đều là những cám dỗ cho tất cả mọi người, vì những ước muốn đó thường dẫn đến tội lỗi. Thật vật, tất cả mọi tội lỗi xảy ra trên đời đều xuất phát từ ước muốn không thực tế đó. Kẻ trộm cướp, hối lộ, kẻ giết người, gian dâm, v.v… đều là những kẻ muốn hạnh phúc mà không phải khó nhọc, vất vả. Tới đây, ta nên nhớ lại lời của Đức Giêsu: «Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong mà nhiều người đi lại qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy» (Mt 7,13-14).

b) Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa và con người là một
«Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Đức Giêsu và Thiên Chúa đều được tôn vinh trong cùng một con người (là chính Đức Giêsu), và trong cùng một sự việc (là cuộc tử nạn). Điều này cho thấy Đức Giêsu và Thiên Chúa liên quan với nhau mật thiết đến mức có thể nói Đức Giêsu và Thiên Chúa là hai mặt khác nhau của một thực tại duy nhất: con người Đức Giêsu. Có thể nói Đức Giêsu, một mặt là một con người yếu đuối, bị hạn chế đủ mọi mặt, mặt khác lại chính là một Thiên Chúa mạnh mẽ, vô hạn đủ mọi mặt. Hai mặt ấy tuy ngược hẳn nhau nhưng lại kết hợp và gắn liền với nhau thành một con người duy nhất.

Đức Giêsu chính là mô hình gương mẫu của chúng ta, của mọi người kitô-hữu. Cũng tương tự như Đức Giêsu, một mặt ta mang tính con người, vốn hữu hạn, yếu đuối, dễ trở nên tội lỗi, một mặt ta chính là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hạn, mạnh mẽ, thánh thiện, «được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2 Pr 1,4). Tính chất thần linh trong bản thân của đa số chúng ta có thể còn ở dạng mầm, chưa phát triển. Bổn phận và sứ mạng của người kitô-hữu là phải làm sao để cái mầm thần linh ấy ngày càng phát triển lớn mạnh lên. Ta càng ý thức được tính chất thần linh của mình, và cố gắng sống phù hợp với tính chất ấy, thì tính chất ấy càng có điều kiện phát triển mạnh.
Khi mầm thần linh ấy phát triển trong ta, khiến ta sống, hành động và xử sự như Đức Giêsu, thì ta có thể nói được như Ngài: «Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người». Thiên Chúa chỉ được tôn vinh trong bản thân ta, khi chúng ta làm cho mầm thần linh trong ta phát triển lớn mạnh. Mầm thần linh ấy chính là Nước Trời ở trong ta. Đức Giêsu đã từng nói: «Nước Thiên Chúa ở trong anh em» (Lc 17,21). Và trong bản thân chúng ta, Nước ấy, hay cái mầm thần linh ấy, giống như một hạt cải, «là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên lại là thứ lớn nhất. Nó trở thành cây, đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được» (Mt 13,32). Nhưng mầm thần linh ấy chỉ phát triển khi «cái tôi đáng ghét» của ta thật sự nhỏ đi: «Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga2. Yêu thương là điều kiện phát triển tính thần linh trong ta

Mầm thần linh ấy không thể phát triển được trong một con người coi cái tôi của mình là quá lớn. Sự phát triển hình ảnh của Thiên Chúa trong ta và sự trương phình bản ngã của ta là hai sự việc luôn luôn tỷ lệ nghịch với nhau. Càng coi cái tôi của mình là quan trọng, càng đặt nặng cái tôi của mình, thì cái tôi ấy càng lấn át tính chất thần linh, và làm cho nó ngày càng yếu ớt, nhỏ bé đi, và đó chính là nguyên nhân của mọi thứ tội lỗi. Trong tiếng Việt, chữ «tội» được hình thành bởi chữ «tôi» và dấu «nặng»: «tôi nặng tội». Điều ấy không phải là không có ý nghĩa. Tội lỗi được hình thành từ việc coi cái tôi của mình quá nặng. Và sự thánh thiện thì ngược lại, được hình thành từ việc coi nhẹ hay tự huỷ cái tôi của mình đi. Đức Giêsu đã từng nói: «Hạt lúa được gieo vào lòng đất nếu không chết đi, nó vẫn chỉ là hạt lúa, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác» (Ga 12, 24). Cái tôi có chết đi, thì sự sống thần linh hay Nước Thiên Chúa trong ta mới phát triển và sinh hoa kết trái.
Yêu thương chính là quên mình, hay ra khỏi cái tôi của mình để đến với Thiên Chúa và tha nhân. Và đó chính là bản chất của sự thánh thiện, cũng là bản chất của Thiên Chúa, như thánh Gioan đã định nghĩa: «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Nếu ta là hình ảnh của Thiên Chúa, thì cách hành xử của ta phải phản ánh tình yêu. «Tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,7-8). Tình yêu chân thật chính là dấu chứng của sự thánh thiện, chứng tỏ có sự hiện diện của Thiên Chúa. Người nào càng yêu thương và càng hy sinh cho người khác thì càng là người thánh thiện, và càng chứng tỏ có Thiên Chúa ở với mình. 3,30). Mầm thần linh ấy không thể được phát triển nơi một người lúc nào cũng coi cái tôi của mình quá lớn.

Chính vì thế, trước khi từ giã các môn đệ để chịu tử nạn và về cùng Chúa Cha, Đức Giêsu cho các môn đệ biết cái dấu hiệu quan trọng nhất để có thể căn cứ vào đó mà biết được ai là môn đệ đích thực của Ngài, đó là tình yêu thương đối với mọi người, và nhất là đối với nhau. «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này, là anh em có lòng yêu thương nhau». Làm dấu thánh giá, đọc kinh, dâng lễ… chỉ là những dấu hiệu bên ngoài của người kitô-hữu, mà người không phải là kitô-hữu vẫn có thể giả mạo. Còn sự yêu thương – được thể hiện cụ thể bằng hành động – mới là dấu chứng thật sự của người kitô-hữu. Người yêu thương thực sự biết quên mình để hy sinh cho tha nhân vô điều kiện, cho dù chưa rửa tội, thì đã là kitô-hữu đích thực từ bên trong rồi. Còn người mang danh kitô-hữu mà sống ích kỷ, không tình thương, thì chỉ là kitô-hữu hữu danh vô thực mà thôi (xem Rm 2,12-24).

Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin biến cải lòng con thành «trời mới đất mới», thành Nước Trời, trong đó luôn luôn tràn ngập tình yêu thương, để mọi người nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa – là tình yêu – ở trong con.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét