Thứ Sáu, 25 tháng 3, 2016

TUẦN THÁNH VÀ TIN MỪNG PHỤC SINH





















LỄ TRUYỀN DẦU TẠI VATICAN

TƯỢNG CHÚA GIÊSU VÔ GIA CƯ TẠI VATICAN

CHÚA GIÊSU VÔ GIA CƯ












CHÚA NHẬT PHỤC SINH - C
Ga 20,1-9, Lc 24,13-35
4-04-2010
NGÔI MỘ TRỐNG …………………………..………..Lm. PX Vũ Phan Long, ofm     02
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI …...………………..…… Lm. Carolô Hồ Bặc Xái            17
CHÚA NHẬT PHỤC SINH - C …………………..…. Lm.   Augustine, SJ  31
NGƯỜI ĐÃ TRỔI DẬY RỒI ……...………... Lm.  Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ        37
ĐỨC GIÊSU VẪN SỐNG ….……...………... Lm.  Phạm Thanh Liêm, SJ                41
CHÚA NHẬT PHỤC SINH - C ……………….….…. Lm.   Ignatiô Hồ Thông            44
CHÚA GIÊSU KHAI SINH KỶ NGUYÊN MỚI ..….. Lm.   Ignatiô Trần Ngà             54
ALLELUIA CHÚA ĐÃ PHỤC SINH …….. Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR     56
ÁNH LỬA PHỤC SINH ……………….….. Lm. Bùi Quuang Tuấn, CSsR                 58
NGÔI MỘ TRỐNG – DẤU CHỈ PS ……… Lm. Giuse Nguyễn Hữu An                     62
ÔNG THẤY VÀ ÔNG TIN ……………...... Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb          66
HÃY CÓ…    ………………………..……………… Lm.  Nguyễn Ngọc Long               70
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT ..…………………… Lm. Giuse Đinh Lập Liễm              73
SỰ NHẦM LẪN ………….…..………………..…... Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền               87
AI TIN CHÚA KITO PHỤC SINH …………...…… Lm.  Giuse Nguyễn Văn Nghĩa 90
MỘT NHÂN LOẠI THUỘC QUYỀN THIÊN CHÚA …Lm.  Jos Tú Nạc                       93
HÃY VỮNG TIN, ĐẤNG PHỤC SINH ĐANG Ở VỚI BẠN ..Lm. An Phong, OP      97
SỨC MẠNH TÌNH YÊU ..………................ Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP                      99
CHÚNG TÔI XIN LÀM CHỨNG ..……..…. Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP          102
SỰ KIỆN MỘ TRỐNG …………….……… Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP 107
CHÚA NHẬT PHỤC SINH – C …………... Gp. Vĩnh Long …..…………. từ 111 – 116

NGÔI MỘ TRỐNG
Lm. PX Vũ Phan Long, ofm
I. NGỮ CẢNH
Chúng ta đã sang phần ii của TM Ga, gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu” với hai phần chính: (1) Đức Giêsu cáo biệt khi đến Giờ (tại Bữa tối cuối cùng) (Ga 13–17); (2) Giờ của cuộc Khổ Nạn-Chết-Sống lại của Đức Giêsu (18,1–20,29).

Phần ii có cấu trúc như sau:
A (18,1-14+) : Đức Giêsu uy nghi toàn năng trước Giuđa kẻ phản bội và nhóm đi bắt Người.
B (18,12-27) : Đức Giêsu bị xử trước thượng tế và các lần Phêrô chối tư cách môn đệ.
C (18,28–19,16b) : Cuộc xử án và kết án Đức Giêsu, vua dân Do-thái, do Philatô thực hiện.
C’(19,16c-42) : Vua dân Do- thái chịu đóng đinh, chết và được an táng trên đồi Gôngôtha.
B’(20,1-18) : Phêrô và người môn đệ Chúa yêu tại mồ trống và Đức Giêsu hiện ra với Maria Mácđala.
A’(20,19-29) : Các lần Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma người không tin. 

II. BỐ CỤC
Bản văn  Ga 20,1-10 có thể chia thành hai phần:
1)   Thời gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Mácđala ra mộ (20,1-2);
2)   Hành động chính: Phêrô và Gioan ra mộ (20,3-10). 

III. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- lúc tảng sáng (1): Prôi, dịch sát là “lúc sớm trong buổi sáng”. Đây là canh cuối theo cách chia của người Rôma, từ 3-6 giờ sáng (người Rôma tính giờ bắt đầu từ nửa đêm).
- Maria Mácđala (1): TM Ga chỉ nêu tên một mình bà Maria Mácđala; Mt nêu tên hai bà; Mc nêu ra ba bà; còn Lc (24,10) nêu tên ba bà “cùng với các phụ nữ khác”. Có lẽ truyền thống Nhất Lãm sát thực tế hơn, bởi vì khó mà cho rằng một phụ nữ lại dám đi một mình trong lúc trời còn nhá nhem đến nơi hành hình ở bên ngoài tường thành. Với lại chính câu nói của bà: “Và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” gợi ý là có nhiều phụ nữ ở với bà. Ngoại trừ Lc 8,2 đã đặt bà Maria Mácđala vào thời gian Đức Giêsu hoạt động công khai và giới thiệu như là người được trừ khỏi bảy quỷ, bà chỉ được nhắc đến trong liên hệ với cuộc đóng đinh và với mộ trống mà thôi. Biệt danh của bà cho thấy là rất có thể bà xuất thân từ thành Mácđala, ở về phía bờ biển tây bắc của Hồ Galilê, cách Caphácnaum khoảng bảy dặm về phía tây nam.
- đi đến  mộ (1): Ga không xác định lý do. Mc và Lc cho biết là các phụ nữ mang dầu thơm đến để tẩm liệm thi hài Đức Giêsu. Mt chỉ nói là các bà đến để nhìn xem mộ, có lẽ vì Mt đã kể là mộ có lính canh nên các bà không thể vào mộ được.

- bà  … thấy (1): TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: blepein, theôrein, theasthai, horan [idein]. Các chuyên viên cho rằng “thấy” ở đây là blepein, cấp thấp nhất, nói về cái nhìn mang tính vật chất, cái nhìn bằng mắt thịt (x. ch. 9; 21,9), và như thế blepein không có một ý nghĩa đặc biệt. Dù vậy, vẫn có những ngoại lệ: 5,19 (Đức Giêsu thấy Chúa Cha) và 9,39 (hẳn là tác giả có ý chơi chữ ở đây: dùng một động từ với hai nghĩa).

Theôrein có nghĩa là nhìn tập trung, tức là phải có nhiều thì giờ hơn blepein, do đó cũng hàm ý một sự hiểu biết sâu xa hơn; cái nhìn này đưa đến chỗ chấp nhận Đức Giêsu là một con người đặc biệt, có khả năng làm các việc kỳ diệu, nhưng chưa phải là đức tin tròn đầy (x. 2,23; 4,19; 6,2.19;20,12.14). Tuy nhiên cũng có ngoại lệ: 6,40; 17,24; còn 14,17 có lẽ là một kiểu chơi chữ với hai nghĩa.

Horan (idein) có nghĩa là cái nhìn kèm theo sự hiểu biết đích thực, tức đưa tới đức tin (20,8.25). Câu 16,16 có cách dùng các động từ như thế: “Một ít nữa, anh em sẽ không thấy Thầy (=theôrein), rồi một ít nữa, anh em sẽ xem thấy (= horan) Thầy”. Xem thêm 1,34.50.51; 3,11.32; 11,40; 14,7.9; 19,35.37; 20,29. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ, khi horan được dùng theo nghĩa thể lý: 1,39; 5,6; 4,45.48; 6,14.22.24.30.36; 7,52; 12,9 (horan = theôrein).

Theasthai được một vài nhà chú giải dịch là “chiêm ngưỡng”, với nghĩa là hiểu ý nghĩa sâu xa của các sự việc đang xảy ra (x. 1,14; 4,35) và nếu dựa vào 1 Ga 1,1, dường như horan là cấp thấp hơn theasthai (“điều chúng tôi đã thấy [horan] tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng [theasthai]”). Tuy nhiên, ở 1,38  và 6,5, theasthai dường như chỉ có nghĩa là nhìn thấy thể lý; ở 1,32 (= 1,34); 11,45, theasthai lại được dùng đồng nghĩa với horan. Bởi vì theasthai không được dùng nhiều và phong phú như horan, chúng tôi tạm xếp theasthai vào cấp thứ ba.

- tảng đá (1): Tác giả viết y như thể độc giả biết rõ tảng đá này. Cũng như tác giả Lc, tác giả Ga không nói đến việc niêm phong tảng đá (x. Mt 27,66) hay niêm phong ngôi mộ bằng một tảng đá.

- đã cất khỏi mồ (1 - NTT): Các TMNL nói là “đã được lăn ra” (Mc 16,4; Mt 28,2; Lc 24,2 dùng động từ apokyliô, “lăn đi xa”, ở thái bị động); Ga thì nói “đã được cất (êrmenos] khỏi mồ”. Ngành khảo cổ xứ Paléttina cho thấy là có những ngôi mộ nằm ngang và cửa vào các ngôi mộ này nhỏ hẹp, có khi cao chỉ gần một thước, nên người lớn thì phải trườn mà vào. Người ta có thể niêm mộ bằng một tảng đá chắn ngay cửa vào. Nhưng cũng có những ngôi mộ rộng hơn thì cửa được chắn bằng một tảng đá có thể lăn tròn theo một cái rãnh ở ngang cửa vào, giống như một cánh cửa lùa. Ngôi mộ rộng bên trong có thể có một gian ngoài; gian trong mới dành để mai táng người quá cố. Có nhiều cách mai táng: có khi người ta khoét những cái hầm đục vào sâu trong vách đá và đẩy thi hài vào trong đó, đầu đi trước; có khi người ta lại đẽo vào đá để làm thành những tầng có những cái ổ bán cung (như một cái kệ) cách mặt đất chừng nửa thước để đặt thi hài vào; có khi người ta đặt một băng bằng đá sát vách và đặt thi hài lên. Dường như Đức Giêsu được mai táng trong một ngôi mộ rộng và theo cách cuối cùng.

- Bà liền chạy về (2): Maria Mácđala đã nhìn vào mộ nên phát hiện ra là thi hài không còn ở đó nữa, hay là bà suy diễn ra từ sự kiện ngôi mộ không còn bị niêm phong? Người ta thường theo giả thuyết thứ nhất vì hiểu theo lẽ thường; nhưng cứ theo bản văn TM IV thì phải hiểu theo giả thuyết thứ hai, bởi vì trời còn tối và bởi thông tin là đến c. 11, bà mới “cúi xuống nhìn vào trong mộ”. Nhiều người giải quyết khó khăn này bằng cách cho rằng lúc đầu c. 11 đi theo c. 1.

- gặp ông Simôn Phêrô (2): Người ta thường cho rằng Maria đi tìm Phêrô vì ông là thủ lãnh các môn đệ Đức Giêsu. Nhưng đơn giản hơn, nên nhớ rằng Phêrô không chạy trốn với các ông khác và ông ở gần Đức Giêsu khi Người bị giới chức Do-thái thẩm vấn (Ga 18,27).

- người  môn đệ Đức Giêsu thương mến (2): Dung mạo bí ẩn “người môn đệ Chúa thương mến” được đưa vào đột ngột ở Ga 13,23, lúc mà truyện sắp lên tới cao đỉnh, lúc mà Đức Giêsu quy tụ các môn đệ thân tín lại để chia sẻ một bữa ăn tạ từ và ban những giáo huấn cuối cùng (x. Ga ch. 13–17). Điều này khiến ta hiểu rằng người môn đệ Chúa thương mến là một dung mạo được cộng đoàn tác giả quen biết. Là người không được nêu tên và cứ tiếp tục ở trong tình trạng vô danh cho đến hết Tin Mừng, người môn đệ này được sống một tình thân mật với Đức Giêsu đặc biệt hơn cả nhóm: ông được mô tả là người môn đệ Đức Giêsu yêu thương, người nghiêng mình vào ngực Đức Giêsu (en tô kolpô tou Iêsou, Ga 13,23; x. 13,25; 21,20 [epi to stêthos]). Kiểu thân mật này gợi nhớ tình thân mật giữa Đức Giêsu và Chúa Cha: Đức Giêsu, được Chúa Cha yêu thương (Ga 15,9; 18,26), là người Con Một, ở trong lòng Chúa Cha (ho hœn eis ton kolpon tou patros, Ga 1,18). Đến Ga 18,15, thì xuất hiện “một môn đệ khác”, có lẽ cũng vẫn là người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đã được Simôn Phêrô làm hiệu hỏi Đức Giêsu trong bữa tối cuối cùng (Ga 13,24). Tại chương 19, người môn đệ ấy xuất hiện bên cạnh thân mẫu Đức Giêsu (Ga 19,26). Đến chương 20, tác giả đồng hóa “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (20,2) với “người môn đệ kia” (20,4.8). Simôn Phêrô và “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” lại xuất hiện bên nhau trong chương cuối cùng (21,7.20).

Người môn đệ này là ai? Tác giả Gioan đã nhấn mạnh 5 lần rằng nguồn của ngài chính là “người môn đệ Đức Giêsu thương mến” (13,23; 19,26; 20,2; 21,7.20). Các học giả đã nghĩ tới nhiều nhân vật: Gioan, con ông Dêbêđê; Ladarô; Gioan Máccô (x. Cv 12,12); Trưởng lão Gioan; một dung mạo tượng trưng. Cho đến nay giả thuyết mạnh nhất (R.E. Brown) vẫn là coi người môn đệ ấy là Gioan, con ông Dêbêđê và là tác giả TM IV (trừ hoặc kể cả chương 21)1. J.A. Grassi2 đã viết một quyển sách nhỏ để chứng minh: (1) Dựa vào TM Ga, người môn đệ này là một người có thật, nhưng không phải là Gioan, con ông Dêbêđê và một trong Nhóm Mười Hai. (2) Đây là một dung mạo vừa có những nét giống với Giacóp vừa có những điểm giống với Giuse con yêu quý của Giacóp. (3) Đây là người môn đệ trẻ vô danh đã cùng với Anrê đến với Đức Giêsu bên bờ sông Giođan. (4) Người môn đệ này xuất thân từ miền Giuđê, có lẽ thuộc một gia đình tư tế ở Giêrusalem. (5) Người môn đệ này là “em bé” đã tặng năm chiếc bánh và hai con cá. (6) Người môn đệ này có vị trí ưu tiên trong bữa tối cuối cùng, biết trước bí mật thâm sâu của Đức Giêsu về chuyện bị phản bội và phải chết, vì ông là người kế thừa thầm kín có sứ mạng giúp cho thế gian hiểu thật sâu cuộc sống và đặc biệt cái chết của Người. (7) Bản văn trọng yếu là vào lúc đứng dưới chân thập giá, người môn đệ này chứng kiến và hiểu ý nghĩa của cái chết của Đức Giêsu. Dù thế nào, có thể nói người môn đệ này là người thừa kế đích thực của Đức Giêsu. Chương 21 này khiến ta nhớ lại những bản văn có nhân vật này, và nhắc lại các điểm này: người nào phải kế tục Đức Giêsu thì phải được chọn phù hợp với ý muốn của Đức Giêsu và tương ứng với sự chọn lựa bằng tình yêu. Đến cuối chương 21 này, ta thấy rõ ơn gọi của hai người môn đệ: người môn đệ Chúa thương mến có ơn gọi làm chứng, còn Phêrô có ơn gọi điều khiển cộng đoàn hoặc ơn gọi chăn dắt đoàn chiên.

Các học giả chưa đạt tới tiếng nói chung về nhân vật này. Dù sao, chúng tôi nghĩ kiểu gọi “người môn đệ Chúa thương mến” hẳn không phải là kiểu gọi của chính người môn đệ ấy, nhưng của các môn đệ của người ấy3. Đến đây cứ cho đi là một người có thật, nhưng khi không có tên như thế, người môn đệ ấy đã trở thành biểu tượng cho mọi môn đệ của Đức Giêsu. Điều này được diễn tả rõ ràng trong hoạt cảnh trên Đồi Sọ, khi Đức Giêsu ký thác “người môn đệ mình thương mến” cho thân mẫu: “Thưa Bà, đây là con của Bà”. Đặc biệt được đặt tương phản trong tình thế đầy kịch tính với Phêrô, người môn đệ Chúa thương mến tượng trưng đức tin tinh trong của cộng đoàn tác giả, còn Phêrô của TM IV tượng trưng các môn đệ của Đức Giêsu trong tình trạng hàm hồ về tư cách môn đệ, một đức tin còn pha trộn nơi các Họâi Thánh thời các tông đồ.  

- đem Chúa (2): Có lẽ bây giờ viết trong giai đoạn hậu Phục Sinh, tác giả đã sử dụng danh hiệu “Chúa” (kyrios) này như một cách diễn tả niềm tin của cộng đoàn Kitô hữu.

- và  chúng tôi (2): Chỉ có một mình Maria Mácđala ở ngoài mộ. Thế mà bà lại nói là “chúng tôi”. Người ta giải thích nhiều cách: (1) Có các bà khác, nhưng tác giả đơn giản hóa, chỉ nói đến bà Maria Mácđala thôi; (2) Từ “chúng tôi” là để dung hòa TM IV với các TMNL (Wellhausen và Spitta); nhưng vấn đề là vì sao TM IV khác các TMNL ở rất nhiều chi tiết, mà lại ráng dung hòa tại một chi tiết nhỏ, tinh tế như thế? (3) Bultmann và vài tác giả khác nghĩ rằng từ “chúng tôi” chỉ là một cách diễn tả Sê-mít để nói “tôi”; nhưng dù sao chúng ta cũng lấy làm lạ là trong truyện tiếp theo, Maria lại nói lại câu này, mà lần này ở số ít (c. 13).

Có  lẽ cách giải thích đầu tiên là tốt nhất và tự nhiên nhất.
- chạy mau hơn  (4): Cha Lagrange cho rằng vì “người môn đệ kia” còn trẻ hơn và nhanh nhẹn hơn Phêrô nên chạy mau hơn. Ishodad de Merv cho rằng vì ông chưa lập gia đình! Có tác giả cho rằng vì tình yêu đã làm cho ông chạy nhanh. Nhưng hợp lý là cho rằng vì ông biết cách chạy hơn Phêrô.

- nhưng không vào (5): Nhiều nhà chú giải cho rằng “người môn đệ Chúa thương mến” không vào vì kính trọng Phêrô là đàn anh, hay là vì kinh ngạc, hoặc vì sợ hãi (sợ ma!), hoặc muốn tránh sự lây nhiễm theo nghi thức khi chạm vào một xác chết. Những kiểu giải thích như thế không hòa hợp được với dung mạo đã được lý-tưởng-hóa của người môn đệ này trong TM. Có lẽ cách giải thích tốt nhất là nói rằng tác giả đã ghi lại một chi tiết không đáng kể như thế, là vì đã xảy ra đúng như thế. Khi kể lại một biến cố quan trọng, ngài lại nhớ lại cả một chi tiết nhỏ bé như thế, và ghi lại trong TM của ngài để gợi lên trung thực điều ngài đã sống (Guillemette).

- Ông cúi xuống và nhìn thấy (5): “Thấy” ở đây là blep.

- Phêrô theo sau (6): Phêrô bước theo (akolouthôn) người môn đệ Chúa thương mến như là môn đệ? Động từ “bước theo” rất hiếm khi được dùng theo nghĩa này; thông thường người ta chỉ “bước theo” Đức Giêsu. Ai muốn đặt đối lập Phêrô với người môn đệ Chúa thương mến thì nhắm vào cách sử dụng trên. Nhưng thật ra như thế là phóng đại.

- Ông vào  … thấy (6): Simôn Phêrô “thấy”: động từ được dùng là theoreô, tương tự  người môn đệ Chúa thương mến.

- khăn che đầu (7): Soudarion là một cái khăn giống như nhưng có lẽ to hơn cái khăn tay. Có thể người ta dùng chiếc khăn này để bọc lấy cằm và thắt lại trên đầu để cho miệng người chết khỏi mở ra.

- các băng vải (7): Khác với Ladarô (11,43), khi sống lại, Đức Giêsu không cần ai giúp cả. Sự kiện “băng vải để ở đó, và khăn che đầu xếp riêng ra một nơi” loại trừ giả thuyết là có một cuộc đánh cắp thi hài, bởi vì không kẻ nào lại còn nghĩ đến việc lột trần thi hài ra.

- Ông đã thấy và đã  tin (8): “Thấy” ở đây là horan, một cái nhìn đưa tới đức tin. Từ cấp “thấy thấp nhất bằng cặp mắt thể lý (blepô, c. 5), người môn đệ khác đã đạt tới cấp “thấy” cao nhất (horan) bằng đức tin. Câu văn hẳn cho phép được hiểu: đã thấy (eiden, aor của horan) = đã tin (episteusen, aor của pisteuô).  

IV. Ý NGHĨA BẢN VĂN
Các môn đệ biết rằng Đức Giêsu đã chết và đã được mai táng. Ngôi mộ và thi hài là dấu vết cuối cùng của Đức Giêsu trần thế. Tất cả những gì tác giả TM IV quy chiếu đến ở đây, đều tiến đi từ ngôi mộ này và liên hệ đến thi hài của Đức Giêsu. Đối với các môn đệ, chặng cuối cùng của Đức Giêsu là ngôi mộ; các phụ nữ cũng như các ông đều không hề quay hướng về cuộc Phục Sinh của Người: chẳng hạn phản ứng của  Maria Mácđala ở đây chứng tỏ bà nghĩ rằng Đức Giêsu đã chết thật. Họ không hề hiểu những loan báo Người đã cung cấp, cũng chẳng hiểu những gì được viết trong Kinh Thánh. Ở đây, tác giả cho thấy những bước đầu đưa các môn đệ đi từ ý thức là Đức Giêsu đã chết đến hiểu biết là Người đã sống lại. Con đường đi từ nỗi kinh ngạc này đến nỗi kinh ngạc khác, và không phải tất cả các môn đệ đều đạt tới mục tiêu cùng một lúc. 

*  Thời gian: Sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Mácđala ra mộ  (1-2)
Trong cả bốn Tin Mừng, các môn đệ của Đức Giêsu, dù nam hay nữ, đều tỏ ra kính trọng ngày sa-bát. Chúng ta thấy các ông đã hạ thi hài Đức Giêsu khỏi thập giá trước khi bắt đầu ngày sa- bát (Ga 19,31 và các bản văn song song), còn các phụ nữ chỉ đi ra một sau ngày sa-bát (Ga 20,1 và các bản văn song song).

Lúc tảng sáng, Maria Mácđala đã đi ra mộ Đức Giêsu. Chúng ta tự hỏi là vì sao bà lại ra mộ khi trời chưa sáng hẳn? – Tác giả trung thành với biểu tượng ánh sáng đã nói đến ngay trong Lời Tựa (1,9), rồi ở 8,12 khi Đức Giêsu tuyên bố Người là “ánh sáng cho trần gian”, rồi Giuđa bỏ Người là đi vào bóng tối (13,30). Ở đây, vì Đức Giêsu đã chết, nên ánh sáng đã tắt. Tuy nhiên, trời đã tảng sáng như là một dấu chỉ xa xa cho biết Đức Giêsu sắp sống lại và Maria Mácđala sẽ gặp được Người. 

Đến nơi, bà thấy (blepei) là tảng đá đã được lăn khỏi mộ và cửa mộ đã mở. Dựa vào điểm quan sát đó, bà giải thích: bà nghĩ rằng thi hài của Đức Giêsu đã được mang đi khỏi mộ. Đó là lời giải thích hợp lý nhất, theo những tiêu chí loài người, khi đứng trước một ngôi mộ đã mở và trống không. Một thi hài thì ở thế hoàn toàn thụ động: đã được người ta đưa vào đặt trong mộ, nay có thể lại đã được người ta đưa đi.

Vì  hết sức bận tâm tìm biết là ai đã mang xác  Đức Giêsu đi và nay đã đặt ở đâu, Maria đi tìm Phêrô và người môn đệ Đức Giêsu thương mến. Lối xử sự này chứng tỏ bà rất thương yêu Đức Giêsu. Nhưng trong khi bà còn bận tâm về thi hài Đức Giêsu, Người đã sống lại rồi. Khởi đi từ ngôi mộ của Người, các môn đệ còn phải đến gặp Người trên nẻo đường mà chính Người đã đi qua. Hai người môn đệ đến mộ là hai người đặc biệt gắn bó với Người khi Người còn sống: Phêrô là người đã được Đức Giêsu đổi cho một tên mới (1,42) và luôn được để ý trong nhóm các môn đệ (6,68-69; 13,6-10.35-38); người môn đệ kia là người đặc biệt gần gũi với Đức Giêsu (13,23-24; 18,15-16; 21,20-23).  

* Hành động chính: Phêrô và  Gioan ra mộ (3-10)
Tin tức Maria Mácđala đưa đến khiến các môn đệ hốt hoảng. Phêrô và người môn đệ Chúa thương mến muốn chính mình đi kiểm chứng sự việc, hai ông chạy ra mộ. Tốc độ khác nhau không có nghĩa là lòng nhiệt thành khác nhau, nhưng là khả năng thể lý khác nhau. Các hành động tiếp đó của hai ông đan quyện vào nhau và càng lúc càng vượt xa điều Maria Mácđala đã quan sát được. Người môn đệ Đức Giêsu yêu thương đến mộ trước. Ông không chỉ nhìn từ bên ngoài, mà còn nghiêng mình nhìn vào bên trong và thấy (blepei) những băng vải. Phêrô đi vào trong mộ, thấy (theôrei) các băng vải và khăn liệm gấp lại để riêng ra một góc. Những gì Phêrô ghi nhận được thì đi ngược lại với cách giải thích của Maria: không thể cho rằng người ta mang một thi hài đi mà lại tháo gỡ các tấm vải bọc thi hài ra trước, và còn gấp lại để riêng ra. Gỡ mình khỏi các tấm vải liệm là hành vi ngược lại với việc bọc thi hành trong các tấm vải (x. 19,40). Như thế, việc tẩm liệm đã thành vô ích rồi. Ngôi mộ trống và các dải vải cuộn để riêng không phải là một bằng chứng, nhưng là một dấu chỉ cho biết rằng Đức Giêsu đã rời bỏ ngôi mộ và đã chiến thắng cái chết.

Phêrô ghi nhận chính xác tình huống, nhưng có tin chăng, bản văn không khẳng định minh nhiên. Người môn đệ kia đi vào mộ sau ông, cũng thấy tình cảnh như thế và thực hiện được một bước xa hơn: đã thấy (eiden) và đã tin (episteusen) (c. 8). Dường như tác giả TM IV chia sẻ với Lc 24,12 ý tưởng là Phêrô không bị thuyết phục bởi cuộc thanh sát ngôi mộ trống, nhưng cách ngài trình bày về tình trạng Phêrô thiếu đức tin thì tinh tế hơn là tác giả Lc. Tác giả TM IV không nói là Phêrô không tin. Ngài chỉ kể rằng người môn đệ Chúa thương mến “đã thấy và đã tin”. Các động từ này là tiêu biểu của TM IV, nhưng đều ở số đơn, tức về ngữ pháp thì tương phản với dạng số phức ở các câu trước (“Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra [êrchonto] mộ. Cả hai người cùng chạy [etrechon]”) và ở các câu sau (“hai ông chưa hiểu [êdeisan] Kinh Thánh, rằng…”). Hai môn đệ đã đi ra mộ; nay chỉ một người rời mộ như là người tin: đó là người môn đệ Chúa thương mến. So với người ấy, thì phải nói Simôn Phêrô còn thiếu đức tin.

Dù  sao chỉ những lần Đấng Phục Sinh hiện ra mới làm cho dấu chỉ mộ trống không còn mang tính hàm hồ nữa và sẽ đưa tất cả các môn đệ đến chỗ tin vào Người.
 “Sau đó, các môn đệ lại trở về nhà”: Làm sao có thể thản nhiên trở về nhà sau một kinh nghiệm như thế? Rất có thể đây là chuyện đã xảy ra. Sau một kinh nghiệm quá mạnh như vậy, các ông cần thì giờ để phản ứng. Các ông không reo hò cũng không ca hát: các ông trở lại với đời sống thường ngày. 

+ Kết luận
Những điều vừa được kể ở đây đã  được kiểm chứng vào “lúc tảng sáng” (20,1). Trong TM IV, giờ và các biến cố tương ứng với nhau. Vào lúc tảng sáng, có nhiều điều tiên báo một sự thay đổi tận căn: đêm đang qua đi, chân trời rạng sáng dần, các sự vật rõ nét thêm. Ai chưa bao giờ thấy mặt trời, thì không thể biết điều gì đã gần kề. Mặt trời lên soi sáng tất cả và làm cho mọi điều đã được tiên báo nên sáng tỏ. Các môn đệ còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng, ở trong tình trạng gồm những dấu chỉ tiên báo và chờ đợi. Chỉ khi họ gặp Đấng Phục Sinh, mặt trời mới mọc lên cho họ, mọi sự mới nên sáng tỏ. Đêm đen và bóng tối, cái chết và niềm đau, sự bần khốn và yếu đuối đều được ánh sáng của Đấng Phục Sinh, được vinh quang của sự sống vĩnh cửu của Người, chiếu rọi.

Không còn thi hài của Đức Giêsu trong mộ nữa. Điều này rất quan trọng đối với sự phục sinh: Bởi vì người ta không thể tìm ra xác ướp của Đức Giêsu hay một vài vết tích, vài mảnh rơi rớt của thi hài, mà lại khẳng định về sự Phục Sinh được. Bởi vì Phục Sinh không phải là một hiện tượng thiêng liêng nào đó chỉ liên hệ tới phần hồn, nhưng sự Phục Sinh đặt dấu ấn lên trên toàn thể con người: thân xác và linh hồn, và biến đổi cách vĩnh viễn toàn thể con người. Vậy không bao giờ được hiểu Phục Sinh chỉ là sự hồi sinh của một người chết như chẳng hạn trường hợp Ladarô, vì sau này ông cũng lại đã chết. Sự Phục Sinh là việc chuyển sang một cuộc sống bên kia cái chết, sang một cuộc sống không cùng, nghĩa là một đời sống vĩnh cửu. 

V. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Trong cuộc sống, có lắm phen chúng ta nếm cảm những thất bại  đau đớn, chúng ta muốn buông xuôi, y như ngôi mộ đã được một tảng đá niêm phong lại, chẳng còn gì để hy vọng, ngoài một niềm nuối tiếc khôn nguôi. Nhưng “tảng đá đã lăn ra khỏi mộ”! Chính Thiên Chúa đã lăn tảng đá ra khỏi mộ Đức Giêsu, thì Ngài cũng lăn được những tảng đá đang chắn cuộc đời chúng ta lại, miễn là chúng ta đừng nhất định bám cứng vào những tảng đá đó.

2. Tác giả  TM IV viết: “Ông đã thấy và đã tin”. Đó là một lời chứng, nhưng cũng là một lời thú nhận là ngài đã không thể hiện được trọn vẹn mối phúc Đức Giêsu công bố: “Phúc thay kẻ không thấy mà tin” (20,29). Chỉ có Đức Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu, mới đạt được mức độ đức tin ấy: tại Cana, trước khi Đức Giêsu làm phép lạ đầu tiên, Mẹ đã tin cách nào đó, nên mới cho Con biết là tiệc hết rượu. Quả thật, tin không phải là một chuyện dễ dàng hay dễ dãi, trốn tránh trách nhiệm, như nhiều người vẫn nghĩ.

3. Các tông đồ chỉ có thể làm chứng rằng các ông đã biết Đức Giêsu trước khi chịu chết, đã gặp lại Người đang sống; nhưng các ông không thể nói về cách thức Đức Giêsu đã sống lại. Niềm tin của Kitô hữu hôm nay cũng khẳng định Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, nhưng không thể trả lời những câu hỏi về cách thức diễn tiến sự Phục Sinh. Nhưng không thể phủ nhận được sự Phục Sinh, bởi vì chính sự hiện diện và hoạt động của Đức Kitô Phục Sinh trong đời người Kitô hữu đang làm thay đổi con người họ, và họ đang trải nghiệm điều đó. Họ có thể làm chứng, chứ họ không thể giải thích, vì đây là một mầu nhiệm, nhưng là một mầu nhiệm làm cho sống.

4. Nếu như  hai môn đệ đã ghi nhớ và tin những lời Đức Giêsu đã nói trước về cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Người, các ông đã chẳng phải chạy trên nẻo đường đưa tới mộ, đưa tới cõi chết, đưa tới sự tuyệt vọng, trong khi Thầy của các ông đã sống lại, và nay đã “lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em” (20,17). Tuy nhiên, thái độ của hai ông lại là bài học quý cho chúng ta hôm nay, vì chúng ta cũng vẫn có thể rơi vào tình trạng tiêu cực ấy. 

5. Trong một Bài giảng được gán cho thánh Gioan Kim Khẩu (?345-407), có đoạn: “Xin đừng có một ai buồn sầu về sự nghèo khó của mình, bởi vì Vương Quốc đã hiện ra cho tất cả mọi người; xin đừng có một ai than thở về các lỗi lầm của mình, bởi vì ơn tha thứ đã trào vọt ra từ ngôi mộ; xin đừng có một ai sợ hãi cái chết, bởi vì cái chết của Đấng Cứu thế đã giải thoát chúng ta. Người đã tiêu diệt cái chết, Đấng mà cái chết đã bóp nghẹt, Người đã tước đoạt hỏa ngục, Đấng đã xuống âm phủ…

Isaia đã tiên báo điều này khi nói: « Vì ngươi, âm phủ dưới vực sâu cũng rung động để ra đón ngươi vào” (14,9). Âm phủ đã ngập tràn cay đắng..., vì nó đã bị đánh ngã; bị sỉ nhục, vì nó đã bị giết chết; bị quỵ ngã, vì nó đã bị triệt tiêu. Nó đã bắt lấy một thân xác và đã ra trước nhan Thiên Chúa; nó đã nắm lấy trái đất và đã gặp trời; nó đã bắt lấy cái gì nó thấy, và đã té ngã vì Đấng Vô Hình. “Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của người? Hỡi tử thần, đâu là chiến thắng của ngươi?” (1 Cr 15,55). Chúa Kitô đã sống lại và người bị đánh bại! Chúa Kitô đã sống lại và ma quỷ đã ngã xuống! Chúa Kitô đã sống lại và các thiên thần hân hoan vui mừng! Chúa Kitô đã sống lại và đây sự sống hiển trị! Chúa Kitô đã sống lại và không còn kẻ chết trong mồ nữa, bởi vì Chúa Kitô, sống lại từ kẻ chết, đã trở thành hoa quả đầu mùa của những ai đã an giấc. Vinh quang và uy quyền thuộc về Người đến muôn thuở muôn đời. Amen”.


Lm. PX Vũ Phan Long, ofm

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI RỒI
Lm. Carolô Hồ Bặc Xái
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Lễ Phục sinh là lễ lớn nhất của năm Phụng vụ. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không phải chỉ cho Ngài mà còn cho tất cả chúng ta. Tất cả chúng ta hãy mở rộng cõi lòng để đón nhận niềm vui to lớn này.

II. GỢI Ý SÁM HỐI
-      Chúa sống lại có nghĩa là sự thiện chắc chắn chiến thắng sự ác. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
-      Chúa sống có nghĩa là ân sủng chắc chắn chiến thắng tội lỗi. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.
-      Chúa sống có nghĩa là tình thương chắc chắn chiến thắng hận thù. Chúng con xin Chúa tha thứ vì đã không tin điều ấy.

III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I  Cv 10,34.37-43
Tại nhà ông Cornêliô ở Xêdarê, Thánh Phêrô đã tóm lược sứ vụ của Chúa Giêsu. Cao điểm của sứ vụ này là việc Ngài chịu chết và sống lại. Nhưng như thế chưa phải là hết : việc Chúa sống lại có ảnh hưởng đến mọi người : "Ai tin vào Ngài thì sẽ nhờ danh Ngài mà được ơn tha tội". Vì thế các tông đồ phải làm chứng và loan truyền Tin Mừng ấy.

2. Đáp ca  Tv 117
Ca tụng Thiên Chúa vì tình thương mà làm những việc diệu kỳ, nhất là đã làm cho Chúa Giêsu, "tảng đá thợ xây nhà loại bỏ, lại trở nên đá tảng góc tường"

3. Bài đọc II  Cl 3,1-4 ; hoặc 1 Cr 5,6-8
Vì được thông phần vào sự sống lại của Chúa Giêsu Kitô, kitô hữu phải sống một đời sống mới.

4. Tin Mừng  Ga 20,1-9
Bằng cách viết rất súc tích với những ý tưởng sâu sắc chứa đựng trong những chi tiết được chọn lựa rất kỹ, Thánh Gioan muốn mô tả hành trình đức tin của 3 nhân vật trong bài tường thuật này : Maria Mađalêna, Phêrô và "người môn đệ kia" (tức tông đồ Gioan).
-     Khi ấy là "sáng sớm khi trời còn tối" : họ vẫn còn ở trong đêm tối chưa hiểu được mầu nhiệm Chúa Giêsu, nhưng đã là lúc sáng sớm rồi, bình minh sắp tỏa sáng.
-     "Chúng tôi không biết người ta đã để Thầy ở đâu" : "địa chỉ" của Chúa Giêsu là một điều được Tin Mừng Ga lưu ý nhiều lần. Ngay từ đầu quyển Tin Mừng, hai môn đệ đầu tiên đã hỏi "Thưa Thầy, Thầy ở đâu ?" (1,38). Đến phần cuối quyển Tin Mừng, câu hỏi "Thầy ở đâu ?" lại được lặp lại. Các môn đệ Chúa Giêsu luôn muốn biết "địa chỉ" của Ngài.
-     Cả 3 nhân vật trong chuyện này đều "chạy" : Mađalêna chạy tìm Simon-Phêrô, ông này cùng với Gioan "cùng chạy, nhưng môn đệ kia chạy nhanh hơn". Họ "chạy" để làm chi ? Để tìm đến "địa chỉ" Chúa Giêsu. Đây là cuộc hành trình của đức tin.
-     Thiên Chúa đã đặt sẵn những dấu chỉ giúp họ tìm, đó là ngôi mộ trống, những khăn vải liệm còn đó được xếp gọn gàng và những lời tiên báo của Thánh Kinh. Nhưng chỉ một mình "môn đệ kia" đã đọc được ý nghĩa của những dấu chỉ ấy nên "đã thấy và đã tin". Gioan đã tìm được "địa chỉ" của Chúa Giêsu. Thực ra, nhiều lần Chúa Giêsu đã ám chỉ đến "địa chỉ" này ("Thầy về cùng Cha Thầy" : xem Ga 7,33-34 8,21 13,33) nhưng các môn đệ vẫn chưa hiểu. Hôm nay Gioan đã hiểu : Chúa Giêsu đã sống lại và về cùng Thiên Chúa.

IV. GỢI Ý GIẢNG
1. "Tôi tin kính Chúa Giêsu Kitô"
Đức tin của chúng ta thường có tính cách "quy thần", nghĩa là tin có Thiên Chúa, Đấng tạo dựng trời đất muôn vật ; và Thiên Chúa ấy chúng ta chỉ biết được khi linh hồn chúng ta rời khỏi thân xác này. Một đức tin như thế thì vừa lý thuyết vừa tĩnh.

Dưới ánh sáng phục sinh, chúng ta phải làm cho đức tin trở thành sống và động ; đồng thời chúng ta phải làm chứng về đức tin sống động ấy cho những người chỉ có một đức tin vừa lý thuyết vừa tĩnh như đã nói trên. Nhưng làm thế nào ?
Thưa chúng ta phải tập tin vào Chúa Giêsu Kitô :
-     Tin vào Chúa Giêsu Kitô là tin vào Đấng đã chịu nạn chịu chết và sống lại, như Thánh Gioan tông đồ (bài Tin Mừng). Thánh Gioan đã nhìn thấy ngôi mồ trống và đã tin. Khi đó đức tin của Gioan mang một chiều kích mới hẳn : Thiên Chúa của Thánh Kinh không còn là một Thiên Chúa của quá khứ nữa mà đã trở thành "Đức Chúa", "Thiên Chúa của sự sống", luôn hiện diện trong lịch sử. Một Thiên Chúa như thế luôn có ý nghĩa với cuộc đời con người : cho dù Ngài đã chịu nạn chịu chết nhưng Ngài đã sống lại. Ngài đã chiến thắng đau khổ và sự chết. Từ nay đau khổ và chết chóc không phải là những chuyện phi lý nữa. Từ nay chúng ta cứ bước theo Ngài thì sẽ đi qua được mọi khổ đau chết chóc để đến sự sống.
-     Tin vào Chúa Giêsu Kitô cũng là tin vào mầu nhiệm cuộc sống của chính chúng ta : nhờ bí tích Rửa tội, chúng ta có một sự sống mới, "và sự sống mới ấy hiện đang tiềm tàng với Chúa Giêsu Kitô nơi Thiên Chúa" (Bài đọc II), vì thế chúng ta "hãy hướng lòng về những gì thuộc thượng giới".

2. Đi thăm mộ
Sáng Chúa nhật Phục sinh, các phụ nữ đi đến ngôi mồ đã chôn xác Chúa Giêsu. Họ đến đấy để ướp xác Ngài. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất. Họ còn muốn được ở gần Đấng đã từng làm cho đời họ tràn đầy ý nghĩa, nhưng bây giờ cái chết của Ngài lại khiến lòng họ tràn ngập nỗi u sầu không gì an ủi được.
-     Chúng ta cũng thường làm như các bà ấy. Khi một người thân yêu của chúng ta chết, chúng ta khó chấp nhận rằng người ấy đã vĩnh viễn xa cách chúng ta. Vì thế chúng ta thấy cần phải duy trì một sự liên kết nào đó với người đã chết. Và một trong những cách chúng ta có thể làm, đó là đi thăm mộ. Tuy nhiên việc này chẳng những không làm dịu đi nỗi đau bị mất mát, mà còn khiến mình càng thấy mất mát hơn, bởi vì không nơi nào khiến ta ý thức về cái chết của người thân cho bằng nơi chôn cất người thân ấy.

Sáng hôm ấy, nếu mọi sự diễn ra đúng như các bà dự kiến thì các bà đã ướp xác Chúa Giêsu, xong rồi lắp của mồ lại, rồi trở về nhà với cõi lòng nặng trĩu u sầu vì các bà càng ý thức rằng những chuyện khủng khiếp xảy ra hôm Thứ Sáu không phải chỉ là một giấc mơ mà là một sự thật : Thầy của họ đã chết thật rồi !

Tuy nhiên mọi sự không xảy ra như dự kiến. Khi đến mộ, các bà đã gặp hai thiên thần. Các vị ấy bảo "Sao các bà lại tìm người sống nơi cõi chết ? Ngài không còn ở đây, Ngài đã sống lại". Nghĩa là các bà đừng mất thời giờ để tìm Chúa Giêsu ở ngôi mộ nữa.

-     Tất cả chúng ta thường cảm thấy tuyệt vọng khi đứng trước những nấm mồ, vì ở đó mọi sự đều nói lên chết chóc. Tuy nhiên chính ở một ngôi mộ như thế mà lần đầu tiên tin mừng sống lại được loan báo. Chúa đã chọn một nơi thật thích hợp, nơi mà xem ra sự chết thống trị, để loan báo Tin Mừng phục sinh.
Phụng vụ hôm nay cũng gởi đến chúng ta một sứ điệp tương tự : Đừng tìm kiếm những kẻ thân yêu của mình nơi những nấm mồ, vì họ chẳng có ở đó đâu. Chúa Giêsu đã chiến thắng sự chết, không chỉ cho bản thân Ngài mà cho tất cả mọi người chúng ta. Ngài là Đấng đầu tiên sống lại, và chúng ta cũng sẽ sống lại như Ngài. Như thế, đối với Kitô hữu thì sự chết không phải là tiếng nói cuối cùng. Người thân quá cố của chúng ta không chết, mà vẫn còn sống. Cuộc sống của họ còn thực và đẹp hơn cả cuộc sống hiện tại của chúng ta nữa. Hơn nữa họ không hề xa cách chúng ta. Những ai đã chết trong ân sủng thì khoảng cách giữa họ với chúng ta không xa hơn khoảng cách giữa Thiên Chúa với chúng ta. Mà Thiên Chúa thì rất gần với chúng ta. (FM)

3. Kỷ nguyên cứu rỗi
Một bề trên tu viện Công giáo đến tìm một ẩn sĩ ấn giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện.

Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật là buồn tẻ...
Vị bề trên hỏi tu sĩ ấn giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã dưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ ấn giáo ôn tồn bảo :
-      Tội của cộng đoàn đó là tội vô tình.
Và ông giải thích :
-      Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quí vị, nhưng quí vị không nhận ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thấm thiết, sức sống mới nảy sinh, và niềm vui tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm cầu nguyện. Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
|
"Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết ? Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi" (Lc 23,5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với Mađalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên đường Emmau, với các môn đệ "đang "tập họp trong nhà cửa đóng kín," - trên bờ biển Tibêria. Và Người" vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ "tin vào" Người," ở mọi nơi, trong mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho thành Giêrusalem mà còn cho toàn thế giới.

Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục Sinh, ánh sáng rạng ngời, đã xoá tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người bước vào miền ánh sáng sự sống.

Tin vui chính là Chúa Giêsu Phục sinh luôn hiện diện giữa những kẻ tin Người sống lại để mang lại cho họ niềm vui và an bình trong cuộc sống mới.

Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Chúa Giêsu Phục sinh, và xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gãy, thì không còn gì có thể tiêu diệt chúng ta được. Thánh Phaolô viết : "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ gươm giáo ?" (Rm 8,35).

Vì thế,
·        Sống niềm vui Phục Sinh chính là chết đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống mới, đời sống Phục Sinh.
·        Sống niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại và đã cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy đặt niềm tin và hy vọng nơi Người.
·        Sống niềm vui Phục Sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu thương trong sự hiện diện của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Cộng đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được bầu không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế đang ở giữa họ, trong người anh em.
|
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã vượt qua khổ nạn và cái chết để Phục Sinh về với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết : Vượt qua ích kỷ nhỏ nhen để quảng đại yêu thương. Vượt qua tự ái, tự kiêu để tha thứ bao dung. Vượt qua đau khổ, cực nhọc để dấn thân hy sinh.
Ước gì cuộc sống chúng con luôn mãi tràn đầy niềm vui và bình an của Chúa Phục Sinh. Amen. (TP)

4. Mầu nhiệm Vượt qua
Cao điểm của năm Phụng vụ là Tuần Thánh vì có rất nhiều lễ nghi, giáo dân tham dự đông đảo và sốt sắng. Hôm nay thì Tuần thánh đã qua đi rồi. Nhưng chúng ta hãy nhìn lại một trong những lễ nghi phong phú ý nghĩa của Tuần Thánh, đó là ngọn nến phục sinh.

Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh, lúc mới bắt đầu nghi lễ thì mọi đèn nến trong sân nhà thờ đều tắt hết, bóng tối bao trùm tất cả. Thế rồi Chủ Tế lấy lửa từ một bếp than châm vào ngọn nến phục sinh. Một tia sáng nhỏ loé lên trong đêm tối. Tiếp đó ánh sáng từ ngọn nến Phục sinh lại được châm vào những ngọn nến của các tín hữu. Ánh sáng tỏa lan dần, và cuối cùng mọi đèn nến đều sáng rực. Ánh sáng đã hoàn toàn đẩy lui bóng tối.

Hình ảnh này rất đẹp, và nhất là chứa đựng một ý nghĩa sâu sắc :
- Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.
- Ma quỷ không thể nào thắng được Thiên Chúa.
- Sự ác không thể nào thắng được sự thiện.

Đó chính là một chân lý mà các lễ nghi Tuần Thánh muốn soi sáng cho chúng ta. Khi Chúa Giêsu chết thì tưởng như bóng tối, quyền lực ma quỷ và sự ác đã hoàn toàn chiến thắng. Thế nhưng không phải như vậy, Chúa Giêsu đã sống lại. Nghĩa là ánh sáng đã chiến thắng tối tăm, Thiên Chúa đã chiến thắng Satan, và sự thiện đã chiến thắng sự ác.

Sự thật này không phải chỉ đúng cho một mình Chúa Giêsu mà còn đúng cho tất cả mọi người chúng ta nữa. Bởi vì Chúa Giêsu đi vào cuộc chịu nạn, chịu chết và sống lại là trong tư cách Ngài là đại diện của loài người, Ngài là trưởng tử của tất cả mọi người, là hoa trái đầu mùa. Ngài chiến thắng nghĩa là dọn đường cho tất cả chúng ta chiến thắng. Bởi thế, tất cả chúng ta đều có thể cùng với Chúa Giêsu mà lạc quan tin tưởng rằng sau cùng rồi mọi sự ác sự dữ đều sẽ bị đánh bại.

Chính vì thế mà trong khi các tín hữu Rôma đang phải lao đao khốn đốn vì những cuộc bách hại, thánh Phêrô đã gởi thư cho họ nói rằng "Anh em hãy vui mừng mặc dù còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Thực ra những thử thách đó chỉ nhằm tinh luyện đức tin của anh em, cũng như lửa thử vàng vậy" (1Pr.1,3-9).

Còn thánh Phaolô, đang lúc phải ngồi tù mà đã viết thư cho giáo đoàn Philip rằng : "Anh em hãy vui lên. Tôi không ngừng nhắc đi nhắc lại rằng anh em hãy vui mừng luôn trong Chúa" (Pl.3,1).

Trong đêm thứ Bảy Tuần Thánh vừa qua, chúng ta đã thấy rất đông người lãnh nhận Bí tích Rửa tội và Thêm sức. Trong số những người đó, có nhiều người hồi trước hầu như bỏ đạo ; vì nghèo quá, khổ quá, gặp thử thách nặng quá nên họ đã chán nản. Nhưng vì trong lòng họ còn một chút ánh sáng đức tin, họ đã không buông trôi. Thế rồi dần dần những khó khăn của họ được tháo gỡ, họ đã quay trở lại với Chúa, và trong đêm đó họ đã vui mừng đứng trong vùng ánh sáng chan hòa của Chúa. Bóng tối không thể nào thắng được ánh sáng.

Trong cuộc đời của chúng ta, có nhiều lúc chúng ta thấy mình quá yếu đuối tội lỗi nên chúng ta ngã lòng muốn buông trôi luôn, có nhiều lúc chúng ta thấy mình bị ác tâm và tội lỗi của kẻ xấu tấn công mạnh quá nên bị nhận chìm trong tăm tối mênh mông… những lúc đó chúng ta chán nản vô cùng. Nhưng mầu nhiệm Chúa Giêsu phục sinh dạy cho chúng ta rằng đừng nên ngã lòng bởi vì cuối cùng thì ánh sáng sẽ luôn chiến thắng, sự thiện sẽ luôn chiến thắng sự ác.

Bởi đó từ đêm lễ phục sinh, Giáo hội hân hoan cất tiếng hát Alleluia, hãy tạ ơn Thiên Chúa. Tiếng hát Alleluia ấy vẫn tiếp tục cất lên trong suốt năm Phụng vụ để nhắc mọi người tín hữu hãy luôn sống lạc quan.
·        Xin cho chúng ta đừng bao giờ ngã lòng thất vọng.
·        Xin cho chúng ta luôn luôn tin tưởng vào mầu nhiệm phục sinh.
·        Xin cho cuộc đời chúng ta lúc nào cũng đầy tràn tiếng hát Alleluia.

5. Lăn tảng đá ra khỏi mộ
Khi các phụ nữ đang trên đường đến mộ Chúa Giêsu, họ băn khoăn tự hỏi "Ai sẽ lăn tảng đá ra khỏi mộ Chúa đây ?"
Sau một trận cãi vả với cha mình, một người kia không thèm nói chuyện với cha nữa. Nhà của hai cha con chỉ cách nhau một quãng ngắn ngủi, nhưng họ không đến thăm nhau và chẳng hề nói với nhau tiếng nào trong nhiều năm dài. Người mẹ thì đã bỏ nhà ra đi từ lâu. Do đó người cha phải sống một mình trong cô độc lẻ loi. Thế giới của ông ngày càng thu hẹp lại, bầu trời của ông ngày càng u ám hơn. Tuy ông chưa chết, nhưng có thể nói ông đang bị chôn trong mồ rồi.

Chúng ta ngạc nhiên vì quyền phép Chúa Giêsu đã làm cho kẻ chết sống lại. Nhưng chúng ta có biết rằng chính chúng ta cũng có thể làm được như thế không ? Có thể lắm chứ. Như người con trong câu chuyện trên. Anh có thể lăn tảng đá ra khỏi nấm mộ của cha anh bằng cách đến thăm ông, nói chuyện với ông. Làm như thế tức là lại mở rộng thế giới của ông và lại làm cho bầu trời cuộc sống của ông trở nên tươi sáng. (FM)

6. Lễ Phục sinh và vấn đề đau khổ
Mừng lễ Phục sinh nhưng chúng ta vẫn còn cảm nhận những đau khổ, đau khổ của bản thân và đau khổ của tha nhân. Tuy nhiên một yếu tố mới đã phát sinh. Nó không làm đau khổ biến mất, nhưng mang lại cho đau khổ một ý nghĩa và chiếu lên đau khổ một ánh sáng hy vọng.

Mọi sự đã đổi khác rồi, vì Chúa Giêsu vẫn còn sống và nói cho chúng ta nghe những lời bình an. Ngài đã bẻ gảy quyền lực của sự chết và ban cho chúng ta hy vọng sự sống muôn đời. Bởi thế, dù vẫn sống giữa những khổ đau, trong lòng chúng ta đã có một niềm vui âm thầm và một cảm giác bình an sâu lắng.

Lạy Chúa, xin ân sủng Chúa bảo vệ niềm hy vọng này, và làm cho niềm hy vọng ấy được thực hiện trọn vẹn trong Nước Chúa trên trời.

7. Bài giảng của Thánh Gioan Kim Khẩu (+ 407)
Tôi sẽ giải thích cho các bạn thế nào về những sự kín nhiệm ? Tôi sẽ công bố thế nào về điều vượt quá mọi ngôn ngữ và mọi trí hiểu ? Tôi phải làm thế nào cho các bạn biết về mầu nhiệm Chúa sống lại ? Thập giá của Ngài là một mầu nhiệm, và việc Ngài chết 3 ngày cùng với những điều xảy đến cho Ngài đều là mầu nhiệm.

Thật vậy, Ngài đã được sinh ra từ cung lòng vẹn sạch của Đức Trinh Nữ như thế nào, thì Ngài cũng được sống lại từ ngôi mồ đóng kín như thể ấy. Con Một Thiên Chúa đã trở thành con đầu lòng sinh bởi một người mẹ thế nào, thì Chúa Giêsu phục sinh cũng trở thành kẻ sống lại đầu tiên của loài người như thể ấy. Hơn nữa, cũng như việc Ngài sinh ra không làm mất đi sự đồng trinh của Đức Mẹ thế nào, thì việc Ngài sống lại cũng chẳng phá vỡ những dấu ấn của ngôi mồ thế ấy. Tôi không biết dùng lời lẽ nào để nói về sự sinh ra của Ngài, tôi cũng chẳng biết nói sao về việc Ngài ra khỏi nấm mồ.

"Hãy đến xem nơi Chúa đã nghỉ" (Mt 28,6), nghĩa là "Hãy đến xem nơi soạn thảo sắc chỉ bảo đảm sự sống lại của bạn. Đó là nơi sự chết bị chôn. Đó là nơi mà một thân xác, một hạt giống không được gieo xuống bởi con người, đã trổ sinh nhiều bông lúa bất tử.
"Hãy đi loan báo cho các anh em Ta là họ phải đến Galilê và gặp Ta ở đấy" (Mt 28,10), nghĩa là "Hãy đi báo cho các môn đệ của Ta về những điều các người đã được chiêm ngưỡng".

Trên đây là những lời Chúa phán với các phụ nữ. Và ngay bây giờ nữa, bên bờ giếng rửa tội, Chúa vẫn hiện diện vô hình cạnh các tín hữu. Ngài ôm ấp những người mới được rửa tội như ôm ấp những bạn hữu và anh em. Ngài đổ đầy niềm vui và hoan lạc trong tâm hồn họ. Ngài rửa sạch mọi vết nhơ của họ trong dòng nước ân sủng. Ngài xức dầu Thánh Thần cho những người được tái sinh. Chúa trở thành lương thực và người nuôi dưỡng họ. Ngài nói với mọi tín hữu rằng "Hãy ăn bánh bởi trời, hãy uống nước chảy ra từ cạnh sườn của Ta. Các con đang đói, hãy ăn no nê ; các con đang khát, hãy uống thỏa lòng"

Ôi lạy Đức Kitô, Thiên Chúa chúng con. Chỉ mình Ngài là Đức Chúa duy nhất, đầy lòng nhân từ yêu thương con người. Cùng với Chúa Cha hoàn toàn vẹn sạch và Chúa Thánh Thần Đấng ban sự sống, chúng con xin dâng lên vinh quang và quyền lực, bây giờ và mãi mãi đến muôn thuở muôn đời. Amen.

V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế : Anh chị em thân mến, Thiên Chúa Cha đã cho Đức Kitô Phục sinh để trở nên nguồn sống mới và chính Người sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại trong ngày sau hết. Vì thế, với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lời cầu xin :

1. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã báo Tin mừng cho mấy phụ nữ  và các tông đồ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần Dân Chúa / trở nên những chứng nhân trung thành của Đấng Phục sinh.
2. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã chiến thắng tội lỗi và tử thần / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết cởi bỏ con người cũ / và mặc lấy con người mới theo hình ảnh Đức Kitô Phục sinh.
3. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ / và ban Thánh thần cho các ngài / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa cũng ban Thánh thần / để Người tái tạo chúng ta.
4. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa Giêsu đem đến cho những ai tin Người bình an và vui mừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành viên trong cộng đoàn giáo xứ chúng ta / trở nên những sứ giả mang bình an / và niềm vui đến cho hết thảy mọi người.

Chủ tế : Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chết đau thương và sống lại vinh hiển để cứu chuộc chúng con. Xin cho chúng con biết luôn cố gắng sống xứng đáng với tình thương hải hà của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.


Lm. Carolô Hồ Bặc Xái

CHÚA NHẬT PHỤC SINH - C
Lm.   Augustine, SJ

Từ Đen Tối Đến Ánh Sáng
Một thanh niên Canada, 23 tuổi, thuật lại cuộc hành trình đưa anh từ khát vọng ma tuý đen tối đến tình yêu mang lại sự sống và ánh sáng cho anh như sau:

Ngay từ nhỏ, tôi đã mang một mặc cảm tự ti nặng nề. Tôi thường đóng kịch để được người chung quanh chú ý vỗ về, tuy nơi thâm tâm tôi vẫn thấy mình gian dối và trống rỗng. Tôi đã chạy đến với ma túy và nhạc kịch động để khỏa lấp nỗi trống vắng. Thế là tôi đã đánh mất tuổi trẻ tươi đẹp khiến cha mẹ tôi phải thất vọng.
Nhưng niềm tin Kitô giáo nơi cha mẹ tôi luôn sống động. Từ nhỏ các ngài đã dạy tôi tâm sự với Chúa Kitô. Các ngài vẫn tiếp tục cho tôi cơ hội để làm việc đó.

Một buổi tối, tôi đang lao mình vào nơi ăn chơi thường ngày, bỗng cha mẹ tôi đến, Cha tôi nói với tôi:
- Thường vào giờ này, bố mẹ đi dự buổi cầu nguyện chung. Nhưng tối nay bố mẹ thấy sự hiện diện của bố mẹ cần thiết cho con. Nếu con bằng lòng trở về gia đình, bố mẹ sẽ lo đủ mọi điều cho con.

Nghe Thấy Chúa Nói Nơi Thâm Tâm
Tôi suy nghĩ về những lời cha tôi vừa nói. Nơi thâm tâm, tôi nghe thấy tiếng Chúa nói với tôi: "Nếu con muốn thoát khỏi xiềng xích của ma quỉ, phương thuốc chữa trị tốt nhất là trở lại với mái ấm gia đình. Con hãy nghe lời chỉ dạy của cha con."

Thế là tôi đã trở về nhà.
Nhưng chấm dứt một thói quen đâu phải là chuyện dễ. Tôi nghĩ như vậy nên cuối cùng lại trở về với nếp sống buông thả như cũ.

Một hôm tôi đi chơi về khuya lắm. Tôi mở cửa vào nhà thì gặp mẹ tôi; người nhìn tôi với nét mặt lo âu nhưng rất hiền. Mẹ tôi không la rầy mà chỉ nói cho tôi biết bà đang chờ tôi về. Lúc ấy, tôi như kẻ mất hồn, không trả lời, cũng không lưu tâm đến tình thương người dành cho tôi.

Đặc biệt nhất là lần kia tôi về khuya mà thấy cha mẹ tôi đang cầu nguyện. Tôi nghe thấy cha tôi đang nói chuyện với Chúa về tôi. Tự nhiên tôi bị đánh động do tình thương mà cha mẹ tôi dành cho tôi. Quả thật, hôm đó tôi như bị tiếng sét của tình thương quật ngã. Tôi thâm tín rằng Chúa đã dùng cha mẹ tôi để chinh phục tôi.

Thế là tôi được ơn dứt khoát với tội lỗi và với quá khứ của mình. Tôi móc túi cầm trong tay số lượng cần sa trị giá 1000 đô la. Tôi không ngần ngại liệng số cần sa đó vào đống rác. Tôi nhận được ơn thâm tín rằng khoảng trống nơi tâm hồn tôi chỉ có thể được lấp đầy bằng tình yêu của Thiên Chúa mà tình yêu ấy tôi đã từng thoáng thấy nơi cha mẹ tôi.

Câu chuyện vừa kể về người thanh niên 23 tuổi bỏ nghiện ngập ma tuý xem ra chẳng ăn nhằm gì với bầu khí của niềm vui Phục Sinh. Xem ra các môn đệ cần được chính Chúa Phục Sinh hiện ra các ông mới được vui mừng (Ga 20,20).

Nhưng Tin Mừng của Gioan còn nói đến niềm vui trọn vẹn nhờ "Cứ xin, anh em sẽ được" (Ga 16,24), nhờ cậy dựa vào danh Đức Giêsu. Cha mẹ người thanh niên trong câu chuyện nói trên không những dạy con mình tâm sự và cầu xin cùng Chúa Kitô, mà chính các ngài đã kiên trì cầu nguyện với con và cho con. Và việc kiên trì này đi đôi với những dấu chỉ của lòng yêu thương dịu hiền của các ngài, đã tạo nên biến chuyển nơi nội tâm người con. Các ngài như được thấm nhuần điều Chúa Giêsu dạy các môn đệ là "Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được" (Ga 15,5).

Giáo Hội Thao Thức Đi Tìm Chúa
Riêng Tin Mừng của đại lễ Phục Sinh hôm nay, theo Gioan, là Tin Mừng của một Giáo Hội thao thức cùng nhau đi tìm Chúa Phục Sinh ngang qua những dấu chỉ mà Người để lại, như những băng vải hoặc khăn che đầu (cc.6-7).

Tác giả Gioan là con người chiêm niệm. Ngay ở lời tựa, Gioan đã cho thấy "Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa và Ngôi Lời là Thiên Chúa" (Ga 1,1). Đấng Thiên Chúa ấy đã trở nên người phàm và ở giữa chúng ta (c.14) để những ai đón nhận Người thì Người cho họ "quyền trở nên con Thiên Chúa"(c12). Họ không trở nên một cách riêng lẻ nhưng trở nên một đoàn chiên duy nhất dưới sự chăm sóc của một mục tử duy nhất (Ga 10,16). Sẽ luôn có những người được giao phó trách nhiệm để chăm sóc đoàn chiên với Người đứng đầu là Simon Phêrô (Ga 21,15-16).

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ảnh hưởng qua lại giữa các thành viên trong Giáo Hội ngay từ buổi sơ khai. Nhưng sự sống xuyên qua họ do đâu mà có và khiến họ trở nên những con người như thế nào?
-      Như đã nói, sự sống đó do Ngôi Lời Thiên Chúa ban nhưng không mà thôi, tức là do chính Ngôi Lời Thiên Chúa trở nên người phàm khi được loài người đón nhận (Ga 1,12) trong tình bạn thiết nghĩa liên vị (Ga 1,35-51).
-      Sự sống đó chính là tình yêu mà Đấng Thiên Chúa làm người dành cho những kẻ thuộc về mình: "Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng." (Ga 13,1).
-      Lời cuối cùng của Chúa Giêsu trên thập giá là "Mọi sự đã hoàn tất" (Ga 19,30). Liền sau đó, Người gục đầu xuống và trao Thần Khí (Ibid). Ở đây Gioan dùng từ Pneũma để nói rằng qua cái chết của Người, Người thông ban cho nhân loại Thần Khí của Người là Đấng thực hiện công cuộc tạo thành mới. Chính Thần Khí này tác động làm nên Giáo Hội.
-      Thần Khí của Chúa Phục Sinh tác động như thế nào để làm nên Giáo Hội? Tác động đó xem ra quá đơn giản và bất ngờ qua những con người như Maria Mácđala, như Gioan hay như Phêrô.

Maria chỉ là người bình thường muốn tỏ lòng quí mến Thầy Giêsu, nên mang thuốc thơm tới bổ túc cho việc xức xác Thầy mới được thực hiện ba hôm trước đó. Cô thấy tảng đá che mộ đã được lăn ra một bên nên vội về đưa tin cho hai ông Phêrô và Gioan.

Cả ba nhân vật đều cho thấy một Giáo Hội sơ khai còn sững sờ trước cái chết của Thầy Giêsu. Cái chết đó kể như chấm dứt luôn những hy vọng mà họ đặt ở nơi Thầy. Họ đi tìm xác Thầy đã chết. Còn Thiên Chúa cho họ đụng chạm tới thực tại thật lớn lao là Thầy vẫn còn sống và hành động ngang qua họ.

Đi tìm những Dấu Chỉ Hữu Hình Về Thiên Chúa Vô Hình
Sự sống của Giáo Hội mẹ ở việc đi tìm những dấu chỉ hữu hình về một Thiên Chúa vô hình. Người vẫn có đó nhưng các thành viên của Giáo Hội phải liên đới với nhau trong việc tìm kiếm Người trong cầu nguyện và trong hành động. Nếu Maria Mácđala không tới mộ, cô sẽ chẳng biết ngôi mộ ấy đã bị bỏ trống. Phêrô và Gioan cũng không được thúc đẩy để chạy đi tìm kiếm Thầy Giêsu. Các băng vải và khăn che đầu Thầy Giêsu vẫn nằm nơi mộ. Chúng cũng không có cơ hội nhắc nhở các ông về Kinh Thánh là điều phải khơi dậy nơi các ông niềm tin mà các ông phải có. Niềm tin ấy phải trở nên sinh động đối với Chúa Phục Sinh (c.9).

Cũng vậy khi áp dụng với "Giáo Hội nhỏ như một tế bào" là gia đình của người thanh niên 23 tuổi trong câu chuyện nói trên. Anh cũng như bố mẹ anh đều thuộc về Chúa Giêsu nhờ bí tích Thánh Tẩy. Cả ba người đều đã nhận được Thần Khí của Chúa. Chính nhờ Thần Khí đó bố mẹ anh mới có thể dạy anh tâm sự với Chúa Kitô: "Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải" (Rm 8,26).

Tiếng Sét Tình Thương Quật Ngã Người Thanh Niên
Nơi bố mẹ người thanh niên, điều này hay điều kia xem ra chỉ là chuyện bình thường. Một cái nhìn quan tâm của người mẹ chờ con về mà không la rầy. Những lời cầu nguyện chân thành của người bố về con và người con nghe được… Điều lạ lùng là chính Chúa đã dùng những thứ bình thường ấy như tiếng sét tình thương để "quật ngã" người thanh niên nghiện ngập. Và khi anh chỗi dậy, anh liền được tự do đáp lại tình thương của Chúa và của cha mẹ anh!

Biết bao là những điều bình thường như vậy trong đời sống thường ngày của người môn đệ Chúa Giêsu! Họ chỉ cần hồi tâm để Lời Chúa làm cho chúng trở nên dấu chỉ về sự hiện diện của Đấng Phục Sinh luôn ở với họ!

Một số câu hỏi gợi ý
1.    Bạn nghĩ gì về hình ảnh dễ thương của người mẹ chờ con về khuya mà không la rầy hoặc của người bố thưa chuyện với Chúa về con mà người con nghe được? Bạn nghĩ điều gì tiềm tàng về tự nhiên và siêu nhiên nơi người mẹ, người bố và nơi người con trong câu chuyện?
2.    Vaticanô II dạy rằng "Đức Kitô được Cha sai đến vừa là nguồn suối vừa là nguồn gốc của mọi việc tông đồ của Giáo Hội" (AA2). Bạn nghĩ điều đó được áp dụng như thế nào với bài Tin Mừng cũng như với các nhân vật trong câu chuyện nói trên?

Lm.   Augustine, SJ

NGƯỜI ĐÃ TRỔI DẬY RỒI
(lễ ban chiều)
Lm.  Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ
X LỜI CHÚA:  Lc 24,1-12
1 Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. 2 Họ thấy tảng đá đã lăn ra khỏi mộ. 3 Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa Giêsu đâu cả. 4 Họ còn đang phân vân, thì kìa hai người đàn ông y phục sáng chói, đứng bên họ. 5 Ðang lúc các bà sợ hãi, cúi gầm xuống đất, thì hai người kia nói: "Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết? 6 Người không còn đây nữa, nhưng đã sống lại rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Galilê, 7 là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại".
8 Bấy giờ các bà nhớ lại những điều Ðức Giêsu đã nói. 9 Khi từ mộ trở về, các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. 10 Mấy bà nói đây là bà Maria Mácđala, bà Gioanna, và bà Maria, mẹ ông Giacôbê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông Ðồ như vậy. 11 Nhưng các ông cho là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tín. 12 Dầu vậy, ông Phêrô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự việc đã xảy ra.

X SUY NIỆM
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện Thầy sẽ sống lại. Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu. Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen với chuyện Chúa phục sinh,
đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế ta không cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ
vào buổi sáng tinh mơ của ngày thứ nhất.

Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị. Cửa mộ đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn. Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì ngôi mộ trống vẫn là một bí ẩn khôn dò. Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì đã xảy ra ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ ho nghĩ các phụ nữ là người yếu bóng vía.

Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã phục sinh! Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12). Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh ngạc thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Ðức Giêsu đã báo trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo. Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần hiện ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8). Ðức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44). Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này,
đó là nhắc cho họ nhớ mọi lời Ðức Giêsu đã nói (Ga 14,26). Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai. Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương. Chúng ta dễ bị sa lầy trong quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy vọng và vui sống.

"Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết" Ðức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh. Muốn gặp được Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ. Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ... Ðức Giêsu bây giờ là Ðấng tràn trề sự sống mới. Xác Ngài không còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy. Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường. Ngài đến khi cả đêm ta không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.

Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta không tin Ngài đã sống lại thật. Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống, cuộc đời chúng ta sẽ chẳng như xưa.

X GỢI Ý CHIA SẺ
·        Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu lại tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên cuộc sống đời này không?
·        Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào lớn hơn?

X CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.

Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.


Lm.  Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ


ĐỨC GIÊSU VẪN SỐNG
Lm.  Phạm Thanh Liêm, SJ

Sáng ngày thứ nhất trong tuần, khi đến thăm mồ Đức Giêsu, chị Maria Magdala phát hiện không có xác Đức Giêsu trong đó. Chị cho rằng có ai đã lấy xác Đức Giêsu và quăng đi đâu đó, vì có lẽ chị không biết mồ nơi chôn táng Đức Giêsu là tài sản của ông Giuse Arimathia. Chị chạy về báo tin cho các tông đồ, cụ thể là cho Phêrô và Gioan. Hai môn đệ này tới, và cũng nhận thấy xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Tin mừng Gioan cho thấy “người môn đệ đến trước”, đã thấy và đã tin (Ga.20, 8); tuy nhiên tin mừng lại không cho thấy ông tin điều gì. Theo tin mừng Máccô, không có tông đồ nào tin Đức Giêsu Phục Sinh khi các chị phụ nữ báo tin Đức Giêsu đã phục sinh (Mc.16, 9-14).

Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, khi các ông gặp gỡ Ngài. Trong lần hiện ra đầu tiên cho các tông đồ, Tôma không ở đó nên không thấy, nên ông đã không tin Đức Giêsu phục sinh cho dù các tông đồ khác và các chị phụ nữ loan tin cho ông. Tám ngày sau, khi Chúa Phục Sinh hiện ra với ông, ông mới tin. Phục Sinh, là điều vượt trên kinh nghiệm bình thường của con người, nên các tông đồ không tin Đức Giêsu Phục Sinh, cũng là điều dễ hiểu. Đã đành các tông đồ có kinh nghiệm người chết sống lại như trường hợp con trai bà góa thành Naim, con gái ông Giairô, Lazarô em của Matta và Maria, nhưng Đức Giêsu Phục Sinh khác với những người khác sống lại. Ngài vẫn sống nhưng người ta không giữ Ngài lại được. Ngài hiện ra và biến đi, không gì ngăn cản được Ngài.

Những người được Đức Giêsu phục sinh như Lazarô, con trai bà góa thành Naim, ai muốn gặp có thể tới để gặp họ. Đức Giêsu Phục Sinh thì không như vậy. Chỉ người nào Ngài muốn, người đó mới được gặp Ngài mà thôi. Trong khoảng 40 ngày, các tông đồ còn có thể gặp Ngài (Cv.1, 3); nhưng sau thời điểm này, không ai được diễm phúc gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh nữa. Ai tin Ngài, là ngang qua những chứng nhân để tin vào Ngài. Đức Giêsu phục sinh là một biến cố mà người ta phải tin để biết. “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Bao nhiêu người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, đều là những người được ơn đức tin. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân lớn lao. “Không ai có thể tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa mà không nhờ Thần Khí”(1Cor.12, 3).

Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một hành vi tự do. Những lý chứng cho thấy Đức Giêsu phục sinh, không đạt được tính buộc người ta phải chấp nhận như luận chứng toán học 2+2=4. Người ta vẫn tự do để tin Đức Giêsu phục sinh hay không. Tin cũng là biết. Hai anh chị yêu nhau, người này nói yêu người kia, và người kia cần tin. Tin vào người khác, là một cách biết người đó. Tin ai đó, cho rằng những điều người đó nói hay làm chứng là đúng, và nếu không tin thì không thể biết được vậy.

Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh, sau khi các ngài đã được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Sau đó những ai tin vào Đức Giêsu Phục Sinh đều phải tin qua lời chứng của các tông đồ. Các tông đồ đã dùng chính mạng sống của mình để làm chứng rằng những gì các ngài nói là sự thật. Từ ngữ tử đạo (martureô) có nghĩa là làm chứng. Lời chứng đáng tin nhất, là lời chứng của người dám dùng chính mạng sống mình để bảo đảm rằng điều mình khẳng quyết là sự thật. Tất cả các tông đồ đều tử đạo trừ tông đồ Gioan.
Không tin Đức Giêsu Phục Sinh, đây là điều bình thường. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là một ơn vô cùng lớn. Kitô hữu không ngạc nhiên khi người ta không tin Đức Giêsu Phục Sinh. Kitô hữu cũng biết rằng họ muốn người khác chia sẻ niềm tin với họ, là để người đó hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, đức tin là một hồng ân, là điều vượt khả năng của Kitô hữu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban hồng ân ấy cho người ta. Muốn ai Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu phải cầu xin Chúa ban ơn ấy cho người đó. Không phải vì người Kitô hữu giảng hay, dạy tốt mà người đó tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, không phải là chuyện con người có thể làm được. Đó là hồng ân của Thánh Thần.

Để có thể đón nhận đức tin, để có thể biết như người của Thiên Chúa, người đó phải có đời sống có thể đón nhận đức tin. Nếu một người có đời sống bất lương, nếu người đó chỉ tin vào mình, thì cũng khó có thể tin Đức Giêsu Phục Sinh. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, đòi người đó phải đổi đời, phải có đời sống mới, phải sống lương thiện. Không sẵn sàng đổi đời để thành người lương thiện, người đó sẽ tìm mọi cách để biện luận từ khước tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.

Kitô hữu không là những người mê tín, nhưng là những người ý thức mình được ơn đặc biệt. Tin Đức Giêsu Phục Sinh, là hồng ân vô cùng lớn. Niềm tin này làm Kitô hữu có cái nhìn mới về thế giới, về Thiên Chúa, và về con người. Tin vào Đức Giêsu Phục Sinh, Kitô hữu nhận ra mình được Thiên Chúa yêu thương vô cùng. Và một khi biết Thiên Chúa yêu thương mình, mình có thể phó thác đời mình trong tay Thiên Chúa, Đấng yêu thương mình vô cùng, Ngài sẵn sàng làm tất cả mọi sự để được mình.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1.    Tại sao có những người trẻ hổ thẹn khi người khác biết họ là Kitô hữu?
2.    Đâu là lý do chính nhất làm bạn tin Đức Giêsu Phục Sinh?

Lm.  Phạm Thanh Liêm, SJ

CHÚA NHẬT PHỤC SINH - C
Lm.   Ignatiô Hồ Thông

Vào ngày lễ  Phục Sinh nầy, phụng vụ  Lời Chúa đặt trọng tâm vào biến cố Phục Sinh của Đức Ki-tô, vì thế bỏ qua bài đọc Cựu Ước quen thuộc để nhường chỗ cho Tân Ước. Sau khi Đức Giê-su đã hoàn tất Kinh Thánh, Giáo Hội không còn lý do gì quan tâm đến các bản văn tiên báo nữa. Khởi đi từ lễ Phục Sinh đến lễ Ngũ Tuần, Bài Đọc I được trích từ sách Công Vụ Tông Đồ như truyền thống xa xưa lên đến thể kỷ thứ tư.

Cv 10: 34, 37-43
Bài  Đọc I nhắc nhở cho chúng ta rằng niềm tin của chúng ta vào Đức Kitô Phục Sinh dựa trên lời chứng của các Tông Đồ. Chính lời chứng của thánh Phê-rô, vị lãnh tụ Giáo Hội, được nhấn mạnh trong đoạn văn sách Công Vụ mà chúng ta đọc hôm nay.
Cl 3: 1-4
Bài  Đọc II, trích từ thư  thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê, mời gọi chúng ta suy niệm mầu nhiệm vượt qua, bằng cách mở ra cho chúng ta những chiều kích thần học về biến cố Phục Sinh.
Ga 20: 1-9
Cuối cùng, Tin Mừng Gioan thường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động nhất và chính xác nhất về cuộc khám phá ngôi mộ trống, bước khởi đầu niềm tin của các Tông Đồ vào biến cố Phục Sinh.       

BÀI  ĐỌC I (Cv 10: 34, 37-43)
Sách Công vụ được trình bày như phần tiếp theo Tin Mừng thứ ba: cùng một tác giả: thánh Lu-ca, cùng một người nhận: một Thê-ô-phi-lô nào đó, nhân vật vô danh.

1. Mối bận tâm của thánh Lu-ca:
Thánh Lu-ca bận tâm đến tính lịch sử: nghiên cứu cho đến ngọn nguồn những gì mình viết ra. Trong Tin Mừng của mình, thánh ký quan tâm đến cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su. Trong sách Công Vụ của mình, tác giả phác họa lại những bước khởi đầu của Giáo Hội. Trong phần thứ nhất của sách Công vụ, thánh Lu-ca nêu bật nhân cách của thánh Phê-rô, trong phần thứ hai, dung mạo của thánh Phao-lô.

2. Cuộc thăm viếng mục vụ  của thánh Phê-rô:
Nhiều lần thánh ký nhấn mạnh các tông đồ làm chứng về biến cố Phục Sinh. Lời chứng của thánh Phê-rô tại tư gia của ông Co-nê-li-ô, viên bách quản Rô-ma, cung cấp một trong những vị ví dụ như vậy. Đó là lý do chọn bài đọc nầy vào Chúa Nhật Phục Sinh.

Vị  lãnh tụ Giáo Hội đang thực hiện một cuộc “thăm viếng mục vụ.” Sau cuộc bách hại đã giáng xuống trên cộng đoàn Kitô hữu non trẻ vào năm 36 (vào thời gian đó, thánh Tê-pha-nô tử vì đạo), thời kỳ yên tĩnh trở lại. Thánh Phê-rô lợi dụng cơ hội nầy để thăm viếng những Giáo Đoàn vừa mới được thiết lập. Sách Công vụ nói với chúng ta: “Bấy giờ ông Phê-rô rảo khắp nơi” (Cv 9: 32). Chính như vậy mà vị Tông Đồ đến miền duyên hãi, miền mà trước đây thầy phó tế Phi-lip-phê đã đem Tin Mừng đến.


3. Cuộc trở lại của viên bách quản ngoại giáo:
Trong khi thánh Phê-rô có mặt ở Gia-phô, hiện nay là Jaffa, một viên bách quản Rô-ma, đồn trú ở Xê-da-rê Duyên Hải (cách Gia-phô khoảng 50 cây số), sai người mời thánh nhân đến tư gia của ông.

Viên bách quản Co-nê-li-ô là một cảm tình viên Do thái giáo, thuộc những người được gọi là “những kẻ kính sợ Chúa”, họ là lương dân, nhưng tôn kính Thiên Chúa Ít-ra-en, tuy nhiên, họ không tuân giữ luật Mô-sê và không chịu phép cắt bì. Ông là một người đạo hạnh và rộng tay bố thí như sách Công vụ nói với chúng ta.

Thánh Phê-rô đến tại nhà ông. Đây là lần đầu tiên thánh nhân đem sứ điệp tin mừng đến cho một lương dân và toàn thể thân bằng quyến thuộc của ông, một kinh nghiệm làm đảo lộn quan niệm trước đây của thánh nhân: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiện vị người nào. Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận”.

4. Diễn từ của thánh Phê-rô:
Bài diễn từ của thánh Phê-rô là một bản tóm tắt Tin Mừng, nhưng không có cùng những điểm nhấn với những bài diễn văn mà thánh nhân đã công bố ở Giê-ru-sa-lem, vào lúc đó thánh nhân minh chứng cho những người Do thái rằng Đức Giê-su đã thực hiện những lời hứa Kinh Thánh và Ngài là Đấng Mê-si-a. Ở Xê-da-rê, vào lúc này, ngỏ lời với cử tọa lương dân, thánh Phê-rô nhấn mạnh đến phẩm chất nhân chứng của mình: thánh nhân và các Tông Đồ khác đã chứng kiến những việc làm của Đức Giê-su Na-da-rét, cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài, nhất là, biến cố Phục Sinh của Ngài. Thánh Phê-rô là một trong những chứng nhân Thiên Chúa đã chọn từ trước để sống trong mối thân tình với Đức Kitô: “cùng ăn cùng uống với Ngài.” Đấng Phục Sinh đã trao cho họ một sứ mạng, đó là làm chứng rằng Thiên Chúa đã tôn phong Ngài làm Thẩm Phán để xét xử kẻ sống và kẻ chết. Hướng đến những người sắp gia nhập Giáo Hội và lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy, thánh Phê-rô tinh tế thêm vào ngay sau đó rằng vị Thẩm Phán nầy cũng là Đấng từ bi, nhân hậu và hay tha thứ. Thánh nhân trích dẫn Kinh Thánh để nhấn mạnh rằng các ngôn sứ đều đã loan báo như vậy: tha thứ tội lỗi cho những ai tin vào Ngài.

Giáo Hội xây dựng niềm tin của mình vào biến cố Phục Sinh trên lời chứng của các Tông Đồ. Giáo Hội xem lời chứng nầy có tính quyết định đến độ không giờ cảm thấy cần phải đặt biến cố Phục Sinh thành một tín điều. Tính minh nhiên của sự kiện đòi buộc. Nền tảng thật vững chắc: những người “đã thấy” và “đã sống” với Đức Kitô Phục Sinh làm chứng.

BÀI  ĐỌC II (Cl 3: 1-4)
Thánh Phao-lô viết thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê  này trong khi bị giam cầm ở Rô-ma vào những năm 61-62. Trong đoạn trích thư này, thánh nhân đưa ra cho chúng ta chiều kích thần học về sự Phục Sinh một cách sâu xa.

1. Lập luận của thánh Phao-lô:
Thánh Phao-lô là nhân chứng của Đức Kitô Phục Sinh. Đấng Phục Sinh đã nắm bắt thánh nhân trên đường Đa-mát, đã tỏ mình ra cho thánh nhân trong ánh sáng chói lòa, đã cho thánh nhân những lời dạy của Ngài và trao phó sứ mạng cho thánh nhân.
Lập luận của thánh Phao-lô xem ra có vẻ mâu thuẫn: trước hết, thánh nhân nói: “Anh em đã được phục sinh cùng với Đức Kitô,” đoạn tiếp đó: “Anh em đã chết cùng với Đức Kitô” (tức là chết cho tội lỗi). Thật ra, đây là một trong những phương thức của thánh Phao-lô: trước tiên thánh nhân đề cao thực tại tinh thần; từ đó, cho thấy những hậu quả “luân lý” đòi buộc cách ăn nếp ở của chúng ta; tiếp đến, những hậu quả “hữu thể”, tức là những hậu quả ghi dấu ấn trên bản thân của chúng ta.

2. Người Ki-tô hữu:
Như  trường hợp ở đây. Thánh Phao-lô định nghĩa người Kitô hữu là người, nhờ bí tích Thánh Tẩy và cuộc sống bí tích, dự phần vào sự Phục Sinh của Đức Kitô, vì thế, họ được sống lại rồi. Trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô, thánh nhân diễn tả thực tại nầy còn bạo dạn hơn nữa, khi thánh nhân dùng thì quá khứ: “Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giê-su trên cõi trời.” (Ep 2: 6).

Vì  thế, từ hoàn cảnh tinh thần này của người Kitô hữu, thánh Phao-lô nhấn mạnh trước tiên những hậu quả luân lý: cần thiết phải nghĩ đến những gì thuộc thượng giới. Tiếp đó, thánh nhân nói đến những hậu quả hữu thể: được sống lại rồi, tức là đã chết cho tội lỗi; đó là được biến đổi tận bên trong. Bên ngoài không có gì thay đổi, nhưng một năng lực thần linh ẩn kín ở bên trong người Kitô hữu, mà ánh sáng rực rỡ của nó sẽ chỉ được tỏ rạng một cách viên mãn vào ngày chung cuộc. Ý tưởng rất thân thiết đối với thánh Phao-lô: sống theo Đức Kitô đảm bảo vinh quang tương lai của chúng ta; chúng ta chắc chắn có được những bảo chứng về vinh quang của chúng ta rồi.
TIN MỪNG (Ga 20: 1-9)
Niềm xác tín của các Tông Đồ vào sự Phục Sinh của Đức Kitô dựa trên hai kinh nghiệm; có thể nói là chúng hình thành nên “hai giai đoạn”.

Trước tiên, việc khám phá ngôi mộ trống là mặc khải gây choáng váng đầu tiên, phải nói là kinh nghiệm về sự “trống rỗng” ; kinh nghiệm này đã mở đôi mắt của họ và khai lòng mở trí họ để hiểu Kinh Thánh.

Tiếp  đó, ngay từ cùng ngày hôm đó, “những lần hiện ra” của Đức Giê-su mang đến bằng chứng khả giác về một con người thực sự đang sống, tuy nhiên, các môn đệ không thể nào thấu hiểu mầu nhiệm tôn vinh của Ngài. Nhưng thân xác của Đấng Phục Sinh rõ ràng là thân xác đã biến mất khỏi ngôi mộ, thân xác mang lấy những dấu đinh cuộc tử nạn của Ngài. Vì thế, không cốt là một bóng ma, không là một hình hài giả tạo. Hai kinh nghiệm tăng cường cho nhau, bổ túc cho nhau. Các Tông Đồ làm chứng về niềm xác tín tuyệt đối của mình cho đến phải hy sinh tính mạng của mình.

1. Ngày thứ nhất trong tuần:  
Từ  cuộc khám phá ngôi mộ trống, Tin Mừng thứ  tư tường thuật cho chúng ta một câu chuyện sống động, chính xác, câu chuyện của nhân chứng nhãn tiền. Và như luôn luôn trong Tin Mừng Gioan, những chi tiết mặc khải những ý nghĩa thâm sâu.

Ngày sa-bát đã chấm dứt vào buổi chiều hôm qua, vì thế, ngày thứ nhất trong tuần đã bắt đầu, ngày thứ nhất nầy sẽ trở thành ngày Chúa Nhật của chúng ta, “Ngày của Chúa,” nói chính xác vì đó là ngày Chúa Phục Sinh. Thánh Gioan nói: “Sáng sớm, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ”. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la là một trong các người phụ nữ đã lấy của cải của mình mà giúp Đức Giê-su và các môn đệ Ngài trong những cuộc hành trình của Ngài (Lc 8: 1-3); cùng với Đức Trinh Nữ, bà can đảm đứng bên thập giá vào những giây phút sau cùng của Đức Giê-su (Ga 19: 25), và bà đã đế ý nhìn ngôi mộ và xem xác Ngài được đặt như thế nào (Lc 23: 55). Bây giờ, sau ngày hưu lễ, bà đi viếng mộ. Tin Mừng chỉ cho thấy rằng bà ra đi đến mộ sáng sớm “lúc trời còn tối”: tình yêu và niềm tôn kính của bà khiến bà ra đi không trì hoãn để được ở bên cạnh thi thể của Chúa chúng ta.

2. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la:
Thánh Gioan chỉ nêu tên một mình bà Ma-ri-a Mác-đa-la, tuy nhiên, tự văn bản, xem ra còn có các bà khác cùng đồng hành với người phụ nữ nầy, vì bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói : “Chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu” . Quả thật, thánh Mát-thêu kể ra hai người : bà Ma-ri-a Mác-đa-la và một bà khác cùng tên là Ma-ri-a (Mt 28 : 1), còn thánh Mác-cô kể ra ba : bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a, mẹ của ông Gia-cô-bê, và bà Sa-lô-mê (Mc 16 : 1), theo thánh Lu-ca, còn có nhiều hơn nữa (Lc 24 : 1) ; nhưng bà Ma-ri-a Mác-đa-la luôn luôn được trưng dẫn.

Tại sao bà Ma-ri-a Mác-đa-la được nêu tên duy nhất? Chắc chắn vì trong số các bà trung thành nầy, kỷ niệm của người phụ nữ nầy đặc biệt nhất (thánh Gioan viết Tin Mừng của mình với một hoài niệm nào đó) ; và vì chính bà là người được ân ban đón nhận lần hiện ra đầu tiên trong số các lần hiện ra của Đấng Phục Sinh mà các sách Tin Mừng kể ra.


3. Thánh Phê-rô và thánh Gioan :
Khi bà Ma-ri-a Mác-đa-la loan báo cho hai ông Phê-rô và Gioan, hai ông có thể cư ngụ dưới cùng một mái nhà. Cả hai ông thường được nêu tên cùng nhau và hoạt động cùng nhau (Cv 3 : 1-11 ; 4 : 1-22). Họ đã là hai nhân chứng về cuộc Biến Hình, chắc chắn kinh nghiệm nầy giúp họ hiểu biến cố mà họ trải qua vào sáng nay.

Thánh Phê-rô thì lớn tuổi hơn, vì thế ông không thể chạy theo kịp thánh Gioan. Thánh Gioan đến mộ trước nhưng chỉ đứng ngoài mà liếc nhìn vào bên trong ngôi mộ. Để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi, thánh Gioan đứng đợi và nhường cho thánh Phê-rô vào mộ đầu tiên ; thánh nhân nhận ra ở nơi thánh Phê-rô địa vị cao hơn. Quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô đối với các Tông Đồ sẽ được khẳng định chỉ sau khi gặp gỡ Đấng Phục Sinh bên bờ hồ Ti-bê-ri-a (Phê-rô, con có yêu mến Thầy ?), nhưng được hàm chứa rồi ở nơi việc đổi tên mà Đức Giê-su đã ban cho thánh Phê-rô: « Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy… ».

Tin Mừng thứ tư làm rõ ra rằng dù các người phụ nữ, đặc biệt bà Ma-ri-a Mác-đa-la, đến mộ trước tiên, các Tông Đồ là những người đầu tiên đi vào trong ngôi mộ và chứng kiến ngôi mộ trống, bằng chứng đầu tiên về việc  Đức Giê-su phục sinh. Điều này rất quan trọng, vì theo luật Do thái, một sự kiện chỉ được chứng thực nếu có tối thiểu hai nhân chứng. Một ngày kia, Đức Giê-su đã nhắc lại luật này cho những người Pha-ri-sêu : « Trong Lề Luật của các ông, có chép rằng lời chứng của hai người là chứng thật » (Ga 8 : 17). Ngoài ra, theo Luật, lời chứng của các người phụ nữ thì không có giá trị.

4. Khăn và vải liệm được xếp  đặt ngăn nắp :
Không chỉ chứng kiến ngôi mộ trống, cảnh tượng băng vải còn ở đó và khăn che đầu được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi càng đánh động sâu xa các tông đồ. Nếu thi thể bị đánh cắp, băng vải liệm có lẽ đã bị vất bừa bãi hổn độn rồi. Thế mà, mọi sự vật đều được xếp gọn gàng ngăn nắp.

Mặt khác, làm thế nào không nghĩ đến ông La-za-rô, thi thể được sống lại ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn ? Ông La-za-rô được sống lại để rồi một ngày kia lại chết. Đức Giê-su thì tự do, thoát khỏi mọi ràng buộc của cái chết nầy, nghĩa là tử thần không còn có quyền gì trên Ngài nữa. Chắc chắn hai vị tông đồ đã hiểu dấu chỉ nầy và bị chấn động đến mức mà thánh Gioan « đã thấy và đã tin » : rõ ràng dụng ngữ này diễn đạt quá trình từ « thấy » đến sự gắn bó trọn vẹn với Đấng Phục Sinh.

Ánh sáng bừng lên ở nơi người môn đệ nầy trước ngôi mộ trống và vải liệm được xếp gọn gàng ngăn nắp. Nếu niềm tin của ông đã có thể bị lung lay ít nhiều bởi những biến cố đau thương, thì tình yêu của ông đã không hề suy giảm, như ông đã bày tỏ cho đến mức theo bước chân Thầy cho đến nhũng giây phút cuối cùng của Thầy bên cạnh thập giá. Cường độ của tình yêu dẫn ông đến niềm tin ngay tức khắc. Chính cũng độ nhạy bén của tình yêu này mà vài ngày sau đó ông có thể nhận ra Thầy mình trên bờ hồ trong sương sớm trong khi những người khác không nhận ra (Ga 21 : 4, 7). Người môn đệ được yêu và đang yêu này chỉ thấy cái tối thiểu, tuy nhiên ông tin tối đa. Độ nhạy bén của con tim giúp ông hiểu biết con người và sự vật.


5. Theo Kinh Thánh :
Nếu  đức tin có thể trước hết đến từ độ nhạy bén của con tim : « quen hơi bén tiếng », tuy nhiên nó cần được tâm trí soi sáng. « Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu hiểu rằng : theo Kinh Thánh, Đức Ki-tô phải chỗi dậy từ cõi chết » ám chỉ đến tiến trình các môn đệ hậu phục sinh giải thích cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô nhờ ánh sáng Cựu Ước (Ga 2 : 17, 22 ; 12 : 16) ; hơn nữa, Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí của họ để hiểu nội dung Kinh Thánh, chưa được ban cho (Ga 14 : 26 ; Lc 24 : 45).

Các bản văn Kinh Thánh lại hiện ra trong tâm trí các ông…Người ta có thể phỏng đoán rằng họ nghĩ đến Tv 16, vì, vài tuần sau đó, chính Thánh vịnh nầy mà thánh Phê-rô sẽ trích dẫn cho đám đông ở Giê-ru-sa-lem để đưa ra những khẳng định của mình liên quan đến biến cố Phục Sinh (Cv 2 : 24-31).

Quả  thật, chúng ta đọc trong Tv 16 những hàng nầy : “Thân xác con cũng nghĩ ngơi an toàn. Vì Chúa chẳng đành để mặc con trong cõi âm ty, không để kẻ hiếu trung nầy hư nát trong phần mộ”. Ấy vậy, truyền thống đã áp dụng  Thánh Vịnh này vào Đấng Mê-si-a. 


Lm.   Ignatiô Hồ Thông





CHÚA GIÊSU KHAI SINH KỶ NGUYÊN MỚI
Lm.   Ignatiô Trần Ngà

Thế là cuối cùng, sau bao ngày chịu bắt bớ, xét xử, vu cáo, chịu đòn vọt rách nát thịt da, chịu vác thánh giá nặng nề tiến lên núi sọ trong khi sức tàn lực kiệt nên phải ngã xuống nhiều lần, rồi lại phải chịu đóng đinh thân mình rất đỗi đau thương vào thập giá… Chúa Giê-su đã gục đầu tắt thở và được mai táng trong mồ. Tảng đá lấp cửa mồ đã đóng lại, đóng lại lịch sử một đời người đã làm những việc diệu kỳ … Cuối cùng, ngôi mộ đá được đóng lại, chôn vùi một Con Người tưởng là sẽ đem lại niềm hy vọng cho Ít-ra-en.

Thế là hết! Còn đâu nữa những ngày nắng đẹp Người ngồi trên núi giảng bài tám phúc giữa đám đông quần chúng. Còn đâu nữa những buổi chiều trong hoang địa Người hoá bánh ra nhiều nuôi trên năm ngàn người ăn. Còn đâu nữa vị ngôn sứ oai hùng dùng lời quyền uy truyền cho sóng yên biển lặng. Còn đâu nữa Con Người kỳ diệu đã làm cho kẻ chết đội mồ sống lại, người phong hủi được chữa lành, người câm được nói, người điếc được nghe… Còn đâu nữa vị ngôn sứ đầy quyền năng trong lời nói và hành động phán bảo những điều đem lại phấn khởi cho bao người…

Đức Giê-su đã chết thật rồi, chẳng còn hy vọng gì nữa. Những môn đệ thân tín sau khi hoàn tất việc an táng Thầy thân yêu, giờ đây ra về trong u sầu tuyệt vọng. Mọi sự như chìm vào tang tóc đau thương.

Thế rồi điều kỳ diệu bất ngờ xảy ra: qua ngày thứ ba, từ lúc tờ mờ sáng, Maria Madalêna đi viếng mộ ngay từ sáng sớm cho vơi bớt đau thương. Tới nơi, Chị hoảng hồn vì mồ đá mở toang. Nhìn vào bên trong không còn thấy thi hài của Thầy đâu nữa, Chị hoảng hốt chạy về báo tin cho các môn đệ. Các vị nầy ra tận nơi xem xét ngôi mộ trống và rồi sau đó lại ngỡ ngàng gặp gỡ Chúa phục sinh.

Niềm vui tràn ngập cõi lòng. Bấy giờ các ngài mới biết là Chúa Giê-su đã sống lại. Ngôi mộ đá tưởng là nơi chôn vùi, nơi xoá sổ cuộc đời Thầy dấu ái, là điểm tận cùng của Chúa Giê-su nay đã trở thành khởi điểm cho một đời sống mới, thành tảng đá đầu tiên xây dựng Vương Quốc trường sinh.

Hôm nay, từ ngôi mộ trống và qua những lần hiện ra với các môn đệ sau khi phục sinh, Chúa Giê-su tỏ cho thấy Người là Sự Sống lại và là Sự Sống như đã từng khẳng định với chị em Mác-ta và Maria: "Ta là sự sống lại và là sự sống! Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ." (Gioan 11,25)

|||

Từ thời nguyên tổ phạm tội đến nay, tội lỗi thống trị và huỷ diệt sự sống con người. Con người vừa được sinh ra là đã mang án chết, như hoa còn đang nụ mà đã chớm lụi tàn, như nhộng chưa thành bướm mà đã phải tiêu vong… Mầm mống chết chóc hiện diện ngay giữa lòng cuộc sống và một sớm một chiều sẽ huỷ diệt sự sống. Lưỡi hái tử thần như đang kề cổ mọi người và cướp đi sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai.

Thế rồi qua sự phục sinh vinh hiển, Chúa Giê-su đã mở ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên của sự sống vĩnh hằng. Người đã thắng sự chết. Thần Chết phải buông khí giới quy hàng. Loài người không còn phải bị tiêu diệt bởi lưỡi hái tử thần nhưng đã được cứu sống bởi quyền lực của Chúa Giê-su phục sinh. Sự sống đã được khai thông. Cái chết đã bị đẩy lùi. Ngôi mộ không còn là điểm tận cùng của kiếp người nhưng là khởi điểm cho một đời sống mới. Cái chết không còn là dấu chấm hết của cuộc đời nhưng là khúc dạo đầu cho bản giao hưởng trường sinh. Sự phục sinh của Chúa Giê-su đã xoá đi đêm dài tăm tối của kiếp sống đau thương để làm bừng lên bình minh của cuộc đời vĩnh cửu.

Xin mọi người hãy đến cùng Chúa phục sinh để đón nhận cuộc sống hồng phúc Người ban tặng.

Lm.   Ignatiô Trần Ngà

ALLELUIA CHÚA ĐÃ PHỤC SINH
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Mỗi lần mừng lễ Phục Sinh, chúng ta đều không ít thì nhiều đều có những cảm nghiệm khác nhau về một Đức Kitô đã bị nhân loại đánh đòn, đã chịu đau khổ, đã bị treo lên cây thập giá và đã sống lại khải hoàn. Chúng ta cũng như các tông đồ xưa đều tung hô: Alléluia, Chúa đã sống lại thật rồi. Đó là Tin Mừng phục sinh. Tin Mừng được vang lên để tuyên xưng niềm tin Kitô giáo và mời gọi nhân loại luôn sống trong hy vọng. Với niềm tin, chúng ta tin Chúa đã sống lại và Ngài cũng sẽ cho chúng ta được phục sinh với Ngài.

Đọc lại trình thuật sách Sáng Thế, chúng ta không khỏi ngạc nhiên vì lúc đầu chưa tạo dựng con người, ngày thứ nhất ấy là ngày hoang vắng, mông lung, ngày thứ nhất, Chúa Giêsu phục sinh tái tạo con người mới, mở ra một trời mới, đất mới. Đức Kitô đã từ cõi chết sống lại. Đây là niềm tin của mọi Kitô hữu, niềm tin của đạo công giáo.Ngày thứ nhất trong tuần, sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh, bị chết trên thập giá và Chúa được chôn cất trong mồ đá…Nếu ngày hôm ấy, các người phụ nữ ra mộ ngay từ sáng sớm tinh mơ, mà mộ vẫn còn đóng kín, thì quả thực không có Tin Mừng phục sinh. Nhưng cả Maria Mađalêna, cả Phêrô và một vài người phụ nữ khác đã nhìn thấy mộ trống. Các bà và Phêrô chẳng hiểu thực hư thế nào! Tuy nhiên, không có sự ngạc nhiên, không hiểu và không có mộ trống thì không bao giờ có Tin Mừng phục sinh. Mình Gioan khi thấy mộ trống, khi thấy khăn liệm xếp gọn gàng một nơi, khăn phủ đầu cuộn lại để ở một nơi, Gioan đã tin ngay Chúa sống lại ( Ga 20, 5-8 ).

Gioan đã có niềm tin thật sự bởi Chúa đã ban cho ông mặc dầu lúc đó các môn đệ khác và nhiều người đã được nghe nói cách này cách khác về việc chúa Giêsu phải chịu đau khổ, chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, họ vẫn chưa hiểu lời Thánh Kinh (Ga 20, 9 ); Cv 2, 24-31, 13, 32-37 ).

Đức Giêsu Kitô đã sống lại thật. Đây là niềm tin. Niềm tin này đã được các tông đồ tuyên xưng mạnh mẽ và các người phụ nữ là những người đầu tiên loan báo Tin Mừng Chúa sống lại. Ngay từ thời ấy cho tới thời đại văn minh hôm nay, nhiều người đã hả dạ vì tin rằng Chúa đã chết thật rồi. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người tin yêu Chúa, họ chỉ cần nhìn thấy xác Chúa là đủ. Muôn thời từ khi Chúa sống lại, nhiều người đã tin, đã tìm gặp Chúa và họ đã gặp Chúa bằng nhiều cách hoàn toàn khác nhau. Người ta tin rằng chỉ cần có con mắt đức tin và lòng nhiệt thành như Gioan là nhận ra Chúa không cần phải bận tâm, lo âu và hoang mang tự hỏi: ” Người ta đã lấy mất xác Chúa rồi, không còn trong mộ nữa; chẳng biết họ để Người ở đâu ?”( Ga 20, 2 ). Đức tin sẽ giúp con người nhận ra Chúa phục sinh. Chúa luôn hiện diện khắp nơi nhưng Chúa vẫn bị người ta làm lu mờ vì không dám làm chứng cho Chúa. Chúa đang có đó, luôn có mặt ở khắp mọi nơi, miễn là con người có thành tâm thiện ý, tìm gặp Ngài. Với con mắt đức tin, nhân loại sẽ tìm gặp được Chúa và nhân loại sẽ hiểu ra rằng Chúa đã sống lại thật rồi, Alléluia.

Lạy Chúa, xin củng cố đức tin cho chúng con, để chúng con nhận ra Chúa đang hiện diện giữa nhân loại và đang có mặt khắp mọi nơi. Alléluia. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

ÁNH LỬA PHỤC SINH
Lm. Bùi Quuang Tuấn, CSsR

Nếu cuộc đời của Đức Kitô bị chấm hết bằng cái chết thì quả đó là một thất bại ê chề, không hơn không kém. Thất bại vì không cứu được nhân loại. Thất bại vì phải chết nhục nhã dưới bàn tay con người. Chắc hẳn, sau khi đóng đinh Đức Giêsu lên thập giá, các trưởng tế và biệt phái đang dương dương nắm chắc phần thắng khi niêm phong cửa mồ với thân xác vô hồn của Ngài trong đó. Bao niềm mong đợi, tin tưởng của các môn đệ dường như cũng bị chôn sâu vào huyệt đá.
Thế nhưng, ngày thứ ba, sau hôm các tử tội bị xử tử, lúc trời vừa chớm sáng, Maria Magđalêna, kẻ được Đức Giêsu cải hoá cuộc đời, đã vội đi thăm mộ người ân nhân vĩ đại nhưng vắn số của mình. Nỗi xót xa thương tiếc thúc đẩy nàng ra bãi tha ma, khóc than cho niềm hạnh phúc quá ngắn ngủi. Ước mong của nàng là làm sao lăn được tảng đá lấp mồ, ướp chút hương trầm trên thân xác Giêsu, Đấng đã cứu mình khỏi vũng lầy tội lỗi.

Nhưng kìa, quân canh đâu rồi? Mồ trống. Xác Thầy biến mất. Chỉ còn các tấm khăn liệm được xếp lại để đó. Sững sờ. Hoảng hốt. Maria chạy ào về báo tin cho Phêrô và Gioan. Lập tức hai ông chạy bay ra mồ. Nét âu lo lộ trên khuôn mặt hai ông. Chuyện gì đã xảy ra? Phải chăng người Do thái không thoả mãn với cái chết tàn khốc trên thập giá của Đức Giêsu nên đã đánh cắp luôn xác Ngài để thủ tiêu? Hay có môn đệ nào đã lấy trộm xác lúc các lính canh đang ngủ? Nếu thế thì vô lý quá. Người ta đã cẩn thận niêm ấn cửa mồ và cho quân canh gác xung quanh cơ mà. Với lại, nếu ngủ thì làm sao biết được những kẻ trộm xác là các môn đệ? Nếu biết tại sao lại không ra tay ngăn lại?

Nhưng rõ ràng là chẳng có dấu hiệu nào của trộm xác. Các giây vải, khăn che mặt đều được sắp xếp gọn gàng. Tấm khăn liệm bó mình Đức Giêsu vẫn còn đó. Vị trí không có gì thay đổi như lúc táng xác. Nhìn vào thì trông như thân thể Đức Giêsu đã bị bốc hơi khỏi tấm khăn. Không có dấu hiệu gỡ ra.

Phêrô bước vào mộ và thấy như vậy. Gioan, người đến mộ trước nhưng vào sau, cũng thấy như thế. Nhưng Thánh kinh ghi nhận phản ứng của Gioan: "Ông đã thấy và ông đã tin" (Ga 20:8).

Gioan đã tin gì? Phải chăng ông tin các lời tiên báo phục sinh của Đức Giêsu đã thành sự?

Chắc hẳn ngay giây phút "ông thấy" cũng là lúc ông nhớ lại lời nói của Chúa Giêsu sau khi đuổi phường buôn bán ra khỏi đền thờ: "Hãy phá đền thờ này đi, và trong ba ngày Ta sẽ xây dựng lại" (Ga 2:19). Ông còn nhớ nữa điềm lạ của Giona với lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Như Giona ở trong bụng cá ba ngày ba đêm thế nào, thì Con Người cũng sẽ ở trong lòng đất ba ngày đêm như vậy" (Mt 12:40). Rồi sau lúc biến hình trên núi Tabo, Đức Giêsu cũng đã căn dặn các ông không được nói lại với ai về chuyện đó, cho đến khi Ngài sống lại từ cõi chết (Mc 9:9).

Chưa hết, trước lúc lên đường về Giêrusalem để dự lễ Vượt qua, Ngài cũng đã nói với 12 môn đệ thân tín: "Này, chúng ta lên Giêrusalem và sẽ hoàn tất cho Con Người mọi điều các tiên tri đã viết. Vì chưng Ngài sẽ bị nộp cho dân ngoại, sẽ bị nhạo báng, hành hạ, khạc nhổ, và sau khi đã đánh đòn Ngài, người ta sẽ giết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại" (Lc 18: 31-33). Và mới đây nhất là lời tâmsự của Chúa Giêsu trong buổi tiệc ly: "Hết thảy các ngươi sẽ vấp ngã vì Ta trong đêm nay... Nhưng sau khi Ta sống lại, Ta sẽ đi trước các ngươi tới Galilê" (Mt 26: 31-32).

Thế ra điều Gioan xác tín ngay khi bước chân vào mồ chính là: Đức Giêsu đã phục sinh. Niềm tin này không dừng chân nơi ngôi mộ trống, với các dải vải còn nguyên, nhưng tiếp tục được củng cố qua bao lần tiếp xúc ăn uống với Đấng Phục sinh của các môn đệ. Niềm tin ấy kiên cường đến độ các nhân chứng dám loan truyền với tất cả nhiệt tình, thậm chí dám hy sinh đến tính mạng cho niềm xác tín đó.

Thử hỏi có ai ngây dại khi lấy sự sống mình vun bón cho một sự chết. Nhưng nếu chỉ nói đến Chúa Giêsu phục sinh như một sự kiện của ngày hôm qua, và nếu sự kiện đó không gây một tác động chân thực nào trên cuộc sống hôm nay của tôi, thì đó cũng chỉ là một thứ ngây dại không kém.

Thế nên, âm vang của tin mừng Phục sinh phải trở nên động lực chi phối làm bừng dậy nếp sống đức tin của tôi, để rồi nó tiếp tục lan tới tất cả mọi người xung quanh. Điều đáng ghi nhận ở đây: tình yêu phải là động lực làm nên âm hưởng phục sinh.

Nhờ tình yêu nồng nàn dành cho Đức Giêsu mà Maria Magđalêna đã thắng được nữ tính nhút nhát, dám đi ra mồ mả lúc trời còn tranh sáng tranh tối để trở thành người nữ đầu tiên loan báo tin mừng Phục sinh.

Nhờ tình yêu chân thành dành cho Thầy mình mà Gioan đã trở nên người nam đầu tiên, bằng niềm tin, khám phá ra tính chất bất diệt của tình yêu. Tình yêu không thể bị chôn vùi trong huyệt mả của khổ đau, u sầu, thất vọng, nhưng sẽ chảy tràn niềm vui, vinh quang, và sự sống. Tình yêu không thể chết với cái chết mục nát. Trái lại sẽ làm sống lại những gì tan vỡ.

Chính Tình yêu Thiên Chúa đã phục sinh Đức Giêsu Kitô tử nạn. Và chính Đức Giêsu Phục sinh đã mang lại niềm hy vọng chiến thắng trên mọi khổ đau, chết chóc, thất vọng của con người. Nên chi, mừng Chúa Phục sinh, một lần nữa tôi cầu xin Tình yêu của Ngài tác động và dẫn lối con người trong mọi quan hệ hàng ngày, từ vợ chồng con cái đến bạn bè thân nghĩa, từ gia đình làng xóm đến cộng đoàn xứ đạo. Để rồi như ánh lửa được đốt lên và chuyền thắp đến mọi ngọn nến trong đêm vọng Phục sinh thế nào, người tin vào Chúa Kitô cũng sẽ là ánh sáng do tình yêu Thiên Chúa đốt cháy và thắp lên nơi tâm hồn mọi người như vậy.

Lm. Bùi Quuang Tuấn, CSsR

NGÔI MỘ TRỐNG – DẤU CHỈ PHỤC SINH
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Con người ở đời thường khởi sự bằng cái có : có địa vị,có quyền thế,có bằng cấp,có tiền của,có sức mạnh,có tài năng … mới làm nên chuyện.Nhưng Thiên Chúa lại thường khởi sự bằng cái không.Trong sách Sáng Thế,Thiên Chúa khởi sự từ cái hoang vu trống rỗng,không không “Lúc khởi đầu Thiên Chúa sáng tạo trời đất,đất còn trống rỗng chưa có hình dạng,tối tăm bao trùm vực thẳm và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên nước” (St 1,1-2).

Cái hoang vu trống rỗng của “ngày thứ nhất” trong công trình sáng tạo trời đất sẽ lại xuất hiện trong một “ngày thứ nhất” khác : Ngày Chúa Kitô sống lại từ cõi chết. Đó là cái hoang vu trống rỗng của Ngôi Mộ Trống mà Mađalêna đã chứng kiến và đau buồn thốt lên “ Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi rồi”,Phêrô ngạc nhiên trong hoài nghi,Gioan đã thấy và đã tin.

Tất cả được khởi đầu bởi một sự kiện lạ lùng. Các phụ nữ ra mồ thấy tảng đá lăn ra khỏi mộ. Sau đó Phêrô,Gioan không còn thấy xác Đức Giêsu trong ngôi mộ mở toang.

Có lẽ lúc này Philatô còn đang ngũ, các Thượng tế, Kinh sư, Kỳ mục cũng thế. Họ ngủ thật say, sung sướng vì đã dẹp yên được một chướng ngại từng làm họ ghen tức,mất ăn mất ngủ. Mọi sự đã được giải quyết đúng như sự sắp đặt khéo léo của họ. Cái tên Giêsu rồi sẽ bị quên lãng,chẳng còn ai nhắc tới. Tảng đá to đã niêm phong cửa mộ.Giêsu Nazarath đã đi vào lòng đất lạnh.

Đối với những người vẫn thương mến Chúa Giêsu thì kể như đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hải. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi cùng với Giêsu Nazareth. Sáng nay, mấy chị em phụ nữ ra mộ thì cũng chỉ có mục đích là ướp lại cái xác không hồn chưa kịp thối rửa. Họ đi tìm một cái xác,một kẻ chết nhưng họ đã đối diện với Ngôi Mộ Trống. Mađalêna đau khổ thốt lên “ người ta đã đánh cắp xác Chúa tôi rồi”. Các Thiên Thần hiện ra cắt nghĩa Chúa đã sống lại. Không biết các bà đã tin hay chưa, họ vội chạy về báo tin cho các Tông Đồ. Phản ứng của Phêrô là thinh lặng, ông đang phân vân. Nếu có kẻ lấy trộm xác Thầy thì tại sao kẻ gian lại mất công xếp đặt khăn liệm và các dây vải cách thứ tự và gọn gàng như thế ? Ông vẫn còn bàng hoàng về những lỗi lầm chối Thầy với niềm ăn năn thống hối, ông chưa hiều sống lại nghĩa là gì. Còn Gioan, Ông đã thấy và đã tin. Ông đã thấy gì ? thấy các dấu chỉ lạ lùng của Ngôi Mộ Trống,khăn liệm và các thứ dây được xếp gọn gàng. Chính bởi Gioan đã chứng kiến dấu lạ Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại,khi Lazarô được Chúa cho sống lại,ông ngồi dậy,nhưng thân mình còn quấn chặt các thứ khăn liệm,còn ở đây,mọi thứ được xếp gọn gàng. Gioan nhớ lại lời Chúa Giêsu : Ngài phải chịu đau khổ trước khi bước vào vinh quang. Nhờ ghi nhớ lời Chúa mà đức tin đã đến với Gioan sớm hơn Phêrô.

Trước mọi phản ứng đó,Đức Kitô Phục Sinh đã biểu lộ một sự chiến thắng âm thầm,không rình rang giữa tiếng kèn trống, reo hò của toàn dân. Đức Kitô đã chiến thắng tử thần,thân thể bằng xương bằng thịt của Ngài hôm nay đã được “ Thần Khí Hoá” và từ đây Người sống hoàn toàn bởi Thần Khí,vì chỉ “ Thần Khí mới làm cho sống còn xác thịt thì có ích gì” ( Ga 6,36).

Đức Kitô đã sống lại thật trong vinh quang. Ngài không mặc lấy một thân xác khác,thân xác Phục Sinh của Ngài vẫn chính là thân xác trước đây chịu khổ hình,chết thập giá,nay thân xác đó được biến đổi,thân xác tâm linh không hư nát. Sự Phục Sinh của Đức Kitô không chỉ là phục hồi sự sống như trước mà còn chuyển qua thể thức hiện hữu mới.Thân xác của Ngài được Thần Khí hoá không bị vật chất cản trở. Đấng Phục Sinh đã nhiều lần hiện ra với các Tông Đồ để cũng cố đức tin cho họ chuẩn bị tâm hồn các ông đón nhận Chúa Thánh Thần,trở nên chứng nhân rao truyền sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa

Ngày nay nếu muốn làm chứng cho Đức Kitô Phục Sinh, chúng ta cũng cần khởi đi từ Ngôi Mộ Trống như các Tông Đồ ngày xưa. Nói theo ngôn ngữ tu đức thì chúng ta trở về với đời sống thanh bạch.Đó là đời sống trong sạch,ngay lành và có tinh thần nghèo khó.

Thế giới hôm nay không thiếu những dấu chỉ của Đấng Phục Sinh. Nhưng người ta không nhận thấy được Ngài vì thiếu tâm hồn ngay thẳng trong sạch “ Phúc cho ai có tâm hồn trong sạch vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa “ ( Mt 5,8 ). Nói khác đi mỗi tâm hồn chúng ta là một ngôi mộ trống. Ngôi Mộ Trống là ngôi mộ không còn xác Chúa nhưng còn dấu chỉ Đấng Phục Sinh, đó là khăn liệm và khăn che mặt. Tất cả những gì nhân loại dùng để trói buộc Chúa Giêsu, che mặt Người, cần phải cởi ra và xếp gọn một bên.

Gioan đã đi vào Ngôi Mộ Trống, ông nhìn với cặp mắt trong sạch nên đã thấy và đã tin. Ông không thấy Chúa,nhưng thấy dấu chỉ của Phục Sinh,dầu vậy Ong vẫn tin.Chúng ta không thấy Chúa mà vẫn tin vì “ Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20,29).Chúng ta không thấy Chúa nhưng chúng ta thấy Ngôi Mộ Trống là cái thế giới bao la đầy dấu chỉ sự hiện diện của Người.Ta cũng có thể thấy Chúa trong trong tâm hồn khiêm nhu,tự hạ, quên mình,trong sự bình an thanh thản của nội tâm. Đó là những dấu chỉ mà Đấng Phục Sinh ban tặng.

Không có Phục Sinh,đức tin chúng ta chỉ là hảo huyền, cuộc sống chúng ta có ý nghĩa gì nếu không có gì sau hết,nếu tất cả chỉ dừng lại ở đời này ?. Nhìn lại đời sống mình,chúng ta sẽ nhận thấy vô vàn sự Phục sinh,rất nhiều những cuộc vượt qua nho nhỏ trong đời sống hướng tới Phục sinh. Khi một tình bạn, một tình yêu bị tan vở, chúng ta biết hàn gắn lại bằng yêu thương thì đó không phải là sự phục sinh sao ? Khi mà chúng ta có kinh nghiệm về sự tha thứ, dẹp tan lòng thù hận, oán ghét thì đó là cuộc vượt qua phi thường …

Như mùa xuân sau đông tàn, Phục Sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An


ÔNG THẤY VÀ ÔNG TIN
Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Chúa nhật Phục Sinh, Giáo hội mời gọi chúng ta cùng đồng hành với những chứng nhân đầu tiên là Maria Mađala, Phêrô và Gioan xung quanh sự kiện ngôi mộ trống và cùng với họ khám phá ý nghĩa của phía sau sự kiện này là gì. Maria Macđala: Thấy ngôi mộ trống, lo lắng và nghĩ ngợi.

Khi những vì sao hôm mọc lên báo hiệu một ngày mới, đồng thời cũng báo hiệu ngày nghỉ lễ Sabat chấm dứt, người ta trở lại cuộc sống và sinh hoạt bình thường, sáng sớm ngày thứ nhất, Maria Macđala đi ra mộ Chúa để kính viếng Người. Điều làm cho bà ngạc nhiên đó chính là sự kiện ngôi mộ bị mở tung, tảng đá lấp cửa mộ đã lăn ra khỏi mộ. Bà không khỏi lo lắng và nghĩ ngợi. Tất tã chạy về, bà báo cho Phêrô và người môn đệ Chúa yêu về sự kiện ngôi mộ trống với một nhận xét mà bà cho là không thể khác được: “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?”.
Với bà, rõ ràng là có một ai đó lợi dụng đêm tối đến lăn tảng đá và lấy xác Chúa đi. Càng thương Chúa bao nhiêu, Maria Macđala càng thấy phải có trách nhiệm tìm cho bằng được “thủ phạm” gây nên “chuyện kinh thiên động địa” này. Thủ phạm là ai ? Theo bà, đó có thể là tất cả những ai thù nghịch với Chúa trong vụ án vừa qua. Mà như thế thì thật là đê tiện và không thể chấp nhận được. Chẳng lẽ như thế chưa đủ đối với họ hay sao mà lại còn đối xử với Chúa cách thậm tệ như vậy! Mà biết đâu cũng có thể cả người làm vườn nữa? v.v… Cuối cùng bà nghĩ chỉ có thể báo cho Phêrô và người môn đệ Chúa yêu và may ra mới có câu trả lời thoả đáng, và biết đâu, các ông lại chẳng truy tìm thủ phạm “đáng ghét” kia! Bước chân vội vã của bà trở về đủ cho chúng ta tìm ra lời giải đáp cho những lo lắng mà bà vẫn canh cánh bên mình.

Phêrô: Nhìn thấy tất cả, không bình luận. Khi được Maria Macđala báo tin về sự kiện ngôi mộ trống, Phêrô và người môn đệ Chúa yêu dường như quên hết nỗi sợ sệt người Dothái, các ông lập tức rời bỏ nơi ẩn náu, ra khỏi sự e dè và sợ sệt để vội vã chạy đến xem và ghi nhận sự kiện này. Theo cách nhìn nhận vấn đề, chúng ta thấy Phêrô tuy là người đến sau nhưng lại là người vào ngôi mộ trước, do đó đương nhiên trở thành chứng nhân đầu tiên chứng kiến trọn vẹn sự kiện ngôi mộ trống. Phêrô đã thấy gì? Tin mừng Gioan phần nào đã cho chúng ta thấy cách thức tẩn liệm thời đó. Tấm khăn liệm và miếng vải dùng để che đầu là những vật dụng không thể thiếu trong việc tẩn liệm. Phêrô vào mộ và ông thấy tất cả các băng vải được xếp riêng ra, được cuộn lại cách ngay ngắn. Không giống như Maria Macđala đã vội sửng sờ và gán ghép cho một trò cỡn bợt gian lận hay âm mưu đê hèn nào đấy, Phêrô nhìn thấy tất cả và không đưa ra lời nhận xét nào. Lý giải thế nào trước thái độ này của Phêrô? Có người cho rằng đó chính là thái độ cần thiết của một nhà lãnh đạo.

Với Phêrô ở cương vị Tông đồ trưởng, là thủ lĩnh thì cần phải thận trọng và dè dặt hơn nhiều trước những biến cố, những sự kiện mà lời nói và nhận xét của mình có liên quan, ít nhiều đều ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của dân chúng. Lẽ dĩ nhiên chúng ta không phủ nhận tính đúng đắn của nhận định này. Tuy nhiên nếu căn cứ vào những gì Tin mừng Gioan trình bày, chúng ta sẽ thấy lý do vì sao Phêrô im lặng. “Trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: Theo Kinh thánh, Đức Giêsu phải chỗi dậy từ cõi chết”. Thật thế, cho đến mãi sau này, khi đã được gặp Đấng Phục Sinh và đón nhận Thánh Thần, Phêrô mới hiểu vì sao ngôi mộ trống và tâm hồn ông lúc ấy mới bừng sáng để hiểu điều mà Kinh thánh từng loan báo. Phêrô im lặng là vì ông chưa hiểu. Con người của Phêrô là thế. Chưa hiểu thì im lặng chờ đợi. Không nghi ngờ. Không quy kết. Không chụp mũ bất cứ ai. Phải chăng đây cũng chính là thái độ cần có của một nhà lãnh đạo đúng nghĩa?

Người môn đệ Chúa yêu : Thấy và tin. Người môn đệ được Chúa yêu đi vào mộ. Ong nhìn thấy tất cả như Phêrô đã nhìn thấy. Tuy nhiên điều khác biệt duy nhất mà người môn đệ này cảm nghiệm được so với Phêrô đó chính là sự cảm nghiệm Phục Sinh: ông đã thấy và đã tin. Có thể nói đây chính là khuôn mẫu của người môn đệ tuyệt hảo. Gioan đã thấy gì? Thực ra ông chẳng thấy gì cả ngoài sự trống rỗng của ngôi mộ và vị trí gọn gàng của các băng vải. Thế nhưng bằng trực giác nhậy cảm của tâm hồn, ông đã nhận ra sự trống rỗng của ngôi mộ và những vị trí gọn gàng của các băng vải là vô số những thông điệp loan báo cho ông biết dấu chỉ về những thực tại siêu nhiên rất khác so với thực tại thông thường mà nếu không có đức tin, chắc chắn sẽ không cảm nhận được. Đức tin và sự cảm nghiệm Phục Sinh của ông thật chắc chắn. Đức tin và sự cảm nghiệm này một phần xuất phát từ trong cách quan sát và phân tích vấn đề một cách logic và biện chứng.

Thật vậy, đối với ông, chẳng ai có thể lấy xác Chúa đi mà còn tử tế xếp tất cả các băng vải lại cách gọn gàng như vậy. Với ông, cái chết đã thất bại, nó đã bị sự Phục sinh tướt đoạt. Người Thầy và là người bạn của ông chẳng bị ai lấy đi mà chính Người tự đi ra khỏi nơi Người đã được an táng mà các khăn liệm được xếp gọn gàng là một minh chứng. Lẽ dĩ nhiên nguyên sự kiện ngôi mộ trống và nguyên các băng vải liệm được xếp gọn, dù khó hiểu, cũng không phải là bằng chứng cho sự sống lại của Chúa Giêsu mà đó chỉ là những dấu chỉ đưa đến niềm tin. Niềm tin đó sẽ được Đấng Phục Sinh và Chúa Thánh Thần củng cố và hoàn thiện nơi tâm hồn các môn đệ.

Chúa chúng ta Phục Sinh. Điều đó thật hiển nhiên trong niềm tin của chúng ta. Niềm tin đó dựa trên nền tảng thật vững chắc, được soi chiếu bởi chính Đấng Phục Sinh, được hướng dẫn và dạy dỗ của Chúa Thánh Thần và được rao truyền bởi chính các môn đệ là những chứng nhân đích thực. Chúng ta vui mừng và hân hoan vì Chúa đã chiến thắng tử thần, đem đến cho chúng ta đời sống mới. Niềm tin và lòng hân hoan này cần phải được nhân lên khi chính mỗi người chúng ta phải là những chứng nhân để loan báo Tin mừng Phục Sinh cho muôn dân.
Lạy Chúa Kytô Phục Sinh! Thế giới này hơn lúc nào hết cần đến ánh sáng Phục Sinh Chúa chiếu dọi. Và đời sống của chúng con sẽ ý nghĩa biết bao nếu chúng con biết tận dụng hầu hết mọi cơ hội trong cuộc sống để hát mừng Thánh danh và ca khen Chúa Phục Sinh, nhằm loan truyền cho mọi người nhận ra ánh sáng Phục Sinh và ơn cứu rỗi của Chúa.

Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

HÃY CÓ…
Lm.  Nguyễn Ngọc Long

Mừng lễ Chúa giáng sinh, chúng ta mừng ánh sáng Thiên Chúa từ trời cao chiếu dọi soi xuống trần gian đêm tối tội lỗi. Biểu hiện qua ánh sáng ngôi sao.
Mừng lễ Chúa Phục sinh, chúng ta mừng kính ánh sáng Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết âm u đen tối, Biểu hiện qua cây nến phục sinh.

Khi tạo dựng mọi loài trong vũ trụ, Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, đã chỉ nói: Hãy có... Và liền có mọi sự như ý Ngài muốn sáng tạo ra.
Từ hư không Thiên Chúa đã sáng tạo vũ trụ bằng lệnh truyền: Hãy có...
Từ bóng tối Thiên Chúa bằng lệnh truyền: Hãy có... đã sáng tạo ra ánh sáng làm căn bản cho sự sống được nảy sinh phát triển trong thiên nhiên. Thiên Chúa sáng tạo là Thiên Chúa của tạo thành. Lời của Ngài tạo nên trật tự, như Kinh Thánh trong sách sáng Thế ký ngay chương đầu tiên thuật lại. (St 1,1-31)
Từ hư vô hỗn mang đen tối, sự sống đã nẩy sinh ra theo thứ tự: ánh sáng và bóng tối, đất và nước, súc vật và cây cỏ, và sau cùng là con người.

Thắc mắc từ nghìn xưa vẫn hằng được đặt ra: ai đã tạo dựng nên trời đất và để làm gì. Đây là thắc mắc trung tâm lõi tủy của đức tin, mà ngay từ chương đoạn đầu tiên trong Kinh Thánh đã đưa ra câu trả lời. Sự sống, sự sáng tạo không phải là điều ngẫu nhiên xảy ra. Nhưng Thiên Chúa thấy mọi đều xảy ra tốt đẹp. Kinh Thánh đã thuật lại như thế sáu lần.

Trật tự trong vũ trụ do Thiên Chúa tạo dựng ấn định dẫn tới một đích điểm rõ rệt: Tạo nên bầu khí không gian sự sống, nơi đó là quê hương nơi chốn của con người sinh sống, mà họ được Thiên Chúa tạo dựng nên giống hình ảnh của Người.

Con người được Đấng tạo hóa dựng nên không phải chỉ cho một quãng thời gian hay là một món đồ chơi giải trí. Nhưng giống hình ảnh của Ngài, Thiên Chúa đã tạo dựng nên con người chúng ta.

Hầu như mỗi người chúng ta, khi ngắm nhìn một em bé, chúng ta thường nói: em giống cha hay giống mẹ em như đúc! Trong ý nghĩa đó, chúng ta nói được: Con người chúng ta, mỗi người, giống Thiên Chúa là người cha tạo dựng nên chúng ta. Con người như thế có tương quan liên hệ mật thiết với Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá.

Mỗi người vì là hình ảnh của Thiên Chúa, nên ai cũng có gía trị nhân vị cao cả. Hình ảnh đó là hình ảnh của tình thương yêu. Con người sống trong thiên nhiên, nhưng có bổn phận cùng cộng tác vào việc sáng tạo là gìn giữ bảo vệ công trình thiên nhiên do Thiên Chúa dựng nên.

Từ hư, vô mọi sự trong thiên nhiên được tạo dựng; từ bóng tối, do ý Thiên Chúa ánh sáng được tạo thành nên, như thuật lại trong Kinh Thánh, là muốn nói đến sự sống lại của con người.

Lời đầu tiên của Thiên Chúa nói: Hãy có... là bảo chứng cho mọi công trình tạo dựng trong thiên nhiên được tạo thành và tồn tại. Lời đó xóa tan bóng tối. Lời đó đem lại sự sáng tạo, sự sống. Lời đó không bị rút đi cho quay ngược trở lại nữa.

Sự việc này cũng xảy ra như thế nơi Chúa Giêsu. Quyền lực của bóng tối và của sự chết không có sức lực hiệu qủa gì nữa.

Trong và qua sự chết, Thiên Chúa đã dùng Lời nói đầu tiên của Ngài: Hãy có... cũng là lời sau cùng: Hãy trở nên... tức khắc sự sống lại, sự sáng tạo xuất hiện.

Lời của Thiên Chúa đã xóa tan đẩy bóng tối nấm mồ, bóng tối sự chết sang một bên. Và ánh sáng sự sống xuất hiện nơi Chúa Giêsu.

Sự sống lại của Chúa Giêsu nhắc con người nhớ mình được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa, Đấng sáng tạo mọi sự từ hư vô, từ bóng tối đêm đen.
Lm.  Nguyễn Ngọc Long
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều nói đến việc Đức Giêsu sống lại. Thánh Phêrô đã loan báo cho quan bách quản Cornêliô về các sự việc đã xẩy ra nơi Chúa Giêsu: đi truyền giáo, chịu chết trên thập giá và sống lại vinh quang (Bài đọc 1)

Thánh Gioan nói cho biết sự kiện ngôi mộ trống mà ngài đã tận mắt trông thấy là bằng chứng nói lên việc Chúa sống lại (Bài Tin mừng)

Còn thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy tin vào Chúa sống lại, hãy hướng lòng về trời là quê hương thật và đừng để những đam mê trần tục chi phối làm hư hỏng con người (Bài đọc 2).

I. ĐỨC GIÊSU THÀNH CÔNG HAY THẤT BẠI ?
Trong mùa chay, cách riêng trong tuần thánh vừa qua, tâm trí chúng ta luôn luôn bị căng thẳng, tâm hồn chúng ta luôn luôn bị xúc động và hồi hộp khi suy ngắm những biến chuyển nơi Chúa Giêsu trước đây ngót hai ngàn năm, mà Giáo hội đã diễn lại một cách sống động khác nào sự việc đang xẩy ra vậy:
Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem (Ga 12,13)
Chúa từ giã các môn đệ (Mt 16,45).
Chúa ăn bữa tối sau hết (Mc 14,15).
Chúa rửa chân cho 12 tông đồ (Ga 13,50.
Chúa lập phép Thánh Thể (Lc 22,17).
Chúa vào vườn Cây Dầu cầu nguyện (Lc 22,42).
Chúa bị Giuđa tìm bắt (Lc 22,48).
Chúa bị điệu đến dinh Philatô (Lc 23,1)
Chúa chịu đánh đòn (Mt 26,67).
Chúa chịu đội mạo gai (Mt 27,29).
Chúa bị nhạo báng (Mt 27,30).
Chúa phải vác thánh giá nặng (Lc 23,26).
Và sau cùng Chúa phải chịu đóng đinh vào thập giá (Lc 23,33).

Tất cả những điều này đã làm lu mờ sự nghiệp của Chúa: nào làm bánh hóa ra nhiều – nào kẻ mù được sáng – kẻ điếc được nghe – kẻ câm được nói – kẻ què được đi – kẻ chết sống lại với những niềm tin Người là Đấng Cứu thế muôn dân đợi trông – là Con Thiên Chúa, tất cả đều tan đi như mây khói.

Nhưng ở đời có tan thì lại có hợp, có mưa rồi lại có nắng, và có thất bại rồi mới có thành công vì như người ta nói: ”Thất bại là mẹ thành công”. Nếu chỉ dừng lại ở đây thì Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn, bởi vì người ta thường nói: chết là hết, bao nhiêu sự nghiệp đều tiêu tan. Có biết bao nhiêu anh hùng cái thế, bao nhiêu bậc vĩ nhân trên thế giới đã làm được những công việc vĩ đại, nhưng rồi họ cũng đã ra đi, họ bị lãng quên cùng thời gian, họa chăng chỉ còn trong sử sách.

Nhưng đối với Đức Giêsu, Ngài đã thành công giữa những thất bại. Những thất bại Ngài phải chịu trong một thời gian càng làm cho thành công của Ngài thêm vinh quang. Đúng như văn hào Corneille đã nói: ”Chiến đấu có gian nan, khải hoàn mới vinh quang”. Nhìn vào cuộc tử nạn của Ngài, ta thấy Ngài thất bại hoàn toàn bởi vì bao nhiêu sự nghiệp lẫy lừng Ngài đã làm trong ba năm truyền giáo đã bị tiêu tan. Nhưng Thiên Chúa đã làm cho Ngài sống lại như lời Ngài đã báo trước lúc còn sinh thời. Ngài đã sống lại, nên các sự nghiệp xem ra đã bị tiêu tan, ngày này cũng được sống lại theo và muôn đời sẽ còn ghi nhớ những công việc ấy. Ngày nay, sau 2000 năm, hằng tỷ người vẫn còn nhắc đến những sự kiện ấy, nhất là trong Tuần thánh vừa qua.

II. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI THƯỜNG
1. Suy nghĩ của người đời
Trong cuộc sống hằng ngày, không ai dám nói rằng mình chưa bao giờ gặp đau khổ, chưa bao giờ nếm mùi thất bại, chỉ có những kẻ không làm gì thì mới không thất bại. Thất bại và thành công luôn đi đôi với nhau, cũng như vinh với nhục là chị em với nhau, đã có vinh thì có nhục:
Nước dưới sông có khi trong khi đục,
Trang anh hùng có khi nhục khi vinh. (Tục ngữ)

Xưa nay biết bao người không thành công, chí không đạt được, là vì bỏ cuộc giữa đường, thất vọng tràn trề khi gặp hết tai nọ đến nạn kia. Người có chí phải bền gan gánh vác việc đời, bắt chước theo câu phương ngôn người Nhật: ”Ngã xuống bảy lần, lần thứ tám đứng dậy “ mà hành động thì mới mong thành đạt.

Ngày xưa, Hán Bái Công đánh với Hạng Vũ, trăm trận đều thua, vậy mà ông vẫn không hề thối chí, cho đến khi thắng trận cuối cùng thì thành được đế nghiệp. Lưu Bị đời Tam quốc, lúc chưa gặp thời, lang thang ở trọ hết nơi này sang nơi khác, không mảnh đất dung thân, thất bại bao phen, nhiều lần suýt vong mạng, vậy mà vẫn bền gan chịu đựng cho đến ngày làm vua một cõi. (Nguyễn văn Y, Có chí thì nên, 1971, tr 24-25)

Muốn thành công phải chấp nhận thất bại vì như người ta thường nói: ”Thất bại là mẹ thành công”. Đối với người hèn kém thì thất bại là cơ hội làm cho họ nhụt chí, còn đối với người hùng thì thất bại là dịp thúc đẩy họ tiến lên hơn.

Vì thế, René Bazin, hàn lâm viện Pháp, có khuyên mọi người: ”Đừng sợ thất bại. Lần thất bại thứ nhất cần phải có, vì nhờ đó mà ý chí ta thêm cứng cát. Lần thất bại thứ hai có thể có ích. Bị bại lần thứ ba mà anh vẫn đứng vững, thì anh thật là một người..., anh như chùm nho chín ở trên đá sỏi: Không có thứ nho nào ngọt hơn nữa”.

Hòn sỏi nào tròn trịa trơn láng mà chẳng phải chịu biết bao nhiêu sự cọ xát từ tháng năm này sang tháng năm khác. Con người muốn đạt được sự cao qúi của tâm hồn, học hỏi được kinh nghiệm sống, không thể chưa từng va chạm tới trăm đau nghìn khổ. Xưa nay anh hùng hào kiệt, chí sĩ văn gia, những bậc tài hoa dường như đều trần ai như thế cả. Nếu mỗi lần gặp gian nguy, trở ngại mà lùi lại thì bao giờ mới đặt chân được đến đài vinh quang (Sđd, trang 27).

Cũng trong tư tưởng ấy, Abraham Lincoln nói: ”Điều mà tôi muốn hiểu trước hết, không phải là anh có thất bại không, mà là anh có biết chấp nhận sự thất bại của anh không”.

Ông Henry Ford cũng khuyên: ”Một cuộc thất bại chỉ là cơ hội để thử lại lần thứ nhì với nhiều khôn ngoan hơn”.

2. Chuyển bại thành thắng
Trong cuộc sống thường ngày cũng như trong đời sống thiêng liêng, chúng ta đã có kinh nghiệm: không thiếu gì thành công, nhưng cũng chứa đầy thất bại. Có người vui sướng đón nhận những thành công và buồn rầu chấp nhận thất bại; nhưng cũng có những con người xứng đáng là con người: đón nhận thành công nhưng cũng bình tĩnh và đôi khi vui lòng đón nhận thất bại. Đối với những con người này, họ coi thất bại chỉ là động lực khiến họ mạnh dạn tiến lên đến thành công. Thành thử, thất bại không còn gì là đáng sợ mà chỉ là cơ hội cho họ can đảm hơn.

Ai cũng đã có lần thành công mỹ mãn, nhưng cũng đã có lần gặp những thất bại chua cay. Thất bại cũng có ý nghĩa của nó.
Có hai loại thất bại:
-      Thất bại khách quan (hay thụ động, tiêu cực).
-      Thất bại chủ quan (hay chủ động, tích cực).

Thất bại khách quan: đó là những thất bại không thể tránh được vì nó vượt quá sức lực của con người. Đó là tình trạng bi đát, không còn cách nào tránh né và cũng không thể chỗi dậy được. Đối với những loại thất bại này, người ta chỉ thụ động chịu đựng ví dụ như bệnh tật, sa cơ thất thế, thua trận...

Thất bại chủ quan: đó là những thất bại có tính toán trước theo phương pháp: ”Thả con tép, bắt con tôm” hay “Hy sinh đời bố, củng cố đời con”. Người ta sẵn sàng chịu những thất bại nhỏ để đạt tới những thành công lớn, hay ít ra chịu thất bại trước mắt để thành công trong tương lai. Như vậy, người ta không nhằm rước lấy thất bại những nhằm đón lấy thành công sau này.
-      Chúng ta đã có kinh nghiệm trong thể thao: muốn nhảy xa, muốn nhảy cao, người ta phải lùi lại nhiều bước rồi mới tiến lên, mới nhảy cao, nhảy xa được, những bước lùi đó chính là những bước tiến, vì không có nó thì không thể nhảy cao, nhảy xa được.
-      Trong chiến trận cũng thế: đôi khi người ta phải giả vờ thua chạy tháo lui cho quân địch đuổi theo, khi quân địch lọt vào vòng vây, khi ấy người ta mới phản công, chiến thuật này rất nguy hiểm, đã bị lọt vào trong vòng vây, quân địch không còn cách nào tháo lui được nữa và chắc chắn người ta thành công.
-      Trong cuộc sống hằng ngày, người ta cần phải hiểu phương cách “Tiến thoái”. Tiến là đi lên, thoái là đi xuống hoặc rút lui. Có một sự tương quan biện chứng giữa tiến và lùi. Tiến chưa hẳn đã thắng và lùi chưa hẳn đã thua. Trong cái lùi đã có cái thắng. Như trong thể thao và trận chiến, chúng ta đã nhận thấy phải có lùi thì mới tiến được, lùi là điều kiện phải có để tiến, lùi đây là lùi chiến thuật.
Chúng ta thử xem câu nói này có đúng không ? Mới đọc xem ra vô lý, nhưng nếu suy nghĩ kỹ thì câu nói ấy rất hay. Đây là một kiểu nói bắt người đọc phải động não mới tìm ra ý nghĩa của nó: ”
“Một ngàn việc tiến,
“Chín trăm chín mươi chín việc lùi,
đó là TIẾN BỘ”. (Henri Frédéric AMIEL)

III. THẤT BẠI VÀ THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG
1. Chúa đã sống lại thật
Khi còn sinh thời, Đức Giêsu đã nhiều lần loan báo trước Ngài sẽ bị bắt, đánh đòn, giết chết và sau ba ngày thì sống lại. Sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây đền thờ Giêrusalem trong ba ngày đã là những hình ảnh báo trước việc Đức Giêsu sống lại sau ba ngày đã chết. Trên dương gian này, những ai đã chết là chết luôn, chỉ có Đức Giêsu mới có thể dùng quyền năng của mình mà tự sống lại.

Đức Giêsu đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn sách Tin mừng đều tường thuật về biến cố này, nhưng đều không cho biết Đức Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự, không ai có mặt để chứng kiến biến cố lịch sử quan trọng này. Nhưng có những nhân chứng đã thấy ngôi mộ trống, họ quả quyết xác Chúa không còn trong mộ, và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông đồ và một số phụ nữ… những nhân chứng về sự sống lại của Đức Giêsu.

Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Đức Giêsu phục sinh không thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự kiện tự nhiên mà phải dùng đến đức tin. Cho nên, đối với chúng ta việc Chúa sống lại là vấn đề đức tin: phúc cho ai không thấy mà tin.

2. Phải sống theo niềm tin ấy
Trong mùa Phục sinh chúng ta vẫn đọc đi đọc lại câu: ”Người đã sống lại thật như lời đã phán hứa”. Chúng ta tin thật Đức Giêsu đã sống lại như lời minh chứng của Thánh Kinh, chúng ta hân hoan ca mừng việc Chúa sống lại vì Ngài đã chết để tiêu diệt sự chết và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Chúng ta tin chắc như vậy ! Nhưng tin như thế vẫn chưa đủ, còn phải thể hiện niềm tin ấy ra trong cuộc sống hằng ngày. Phải theo gương Đức Giêsu mà chết đi để rồi mới sống lại được. Phần thưởng của chúng ta chỉ có được sau khi đã trải qua mọi thử thách trong cuộc sống ở trần gian này: per crucem ad lucem !

a) Có những nghịch lý phải chấp nhận
Chúng ta đã có một gương sán lạn của Đức Giêsu: Người đã chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Trước mặt người đời, người ta cho là Đức Giêsu đã thất bại hoàn toàn vì chết là một thất bại, mọi sự nghiệp đã tan thành mây khói. Nếu chết là hết mà không có sự sống lại thì Đức Giêsu bị thất bại hoàn toàn, nhưng sau cái chết đã có sự sống lại. Ngài đã dùng sự chết để đánh tan cái chết và sống lại để phục hồi sự sống lại cho chúng ta. Vậy Ngài đã chuyển bại thành thắng, đã thành công trong thất bại.

Trong cuộc sống của chúng ta cũng thế, chúng ta phải chấp nhận hy sinh, phải lột bỏ con người cũ đầy tội lối để mặc lấy con người mới thánh thiện. Chúng ta có chết đi cho tội lỗi thì mới hy vọng được sống lại vinh quang như lời Chúa Giêsu dã nói: ”Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24). Như vậy, chúng ta phải đón nhận những thất bại đời này để chuẩn bị cho đời sau. Đây chỉ là thất bại chiến thuật vì trong thất bại đã có chiến thắng.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thấy có những nghịch lý. Nghịch lý là điều thoạt xem có vẻ phi lý nhưng khi suy nghĩ kỹ thì thấy rất hợp lý. Chúng ta thấy có nghịch lý giữa “mất” và “được” hay giữa “bị” và “được”. Theo khuynh hướng tự nhiên thì ai cũng muốn “được” và sợ “mất”, muốn “sống” hơn là “chết”. Nhưng nghịch lý thay ! Nhiều khi vì “được” mà phải “mất”. Ví dụ: bạn muốn cho có một mùa bội thu thì hạt giống phải “bị” mục nát ra thì mới có thể “được” một mùa bội thu, nếu không “bị” thì cũng chẳng có “được”.

Hay một ví dụ khác: trong một vụ tranh cãi bạn cố gắng dùng đủ mọi mưu mô để tranh cãi cho bằng được, kết quả là bạn thắng trong vụ cãi nhưng mất tình nghĩa bạn bè hay người thân; trái lại, nhiều khi “mất” mà lại “được”. Ví dụ: thánh Anphongsô là một luật sư nổi tiếng. Một lần kia ngài biện hộ cho một vụ kiện lớn, ngài bị thua. Thất bại ê chề hôm đó đã giúp cho ngài nhận thức rằng danh vọng thế gian chỉ là giả trá, ngài đi tìm một lẽ sống khác và trở thành một vị thánh lập dòng (Cf Carôlô).

Chúng ta cũng thấy có một nghịch lý nữa giữa “sống” và chết”. Chết và sống không phải là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Ví dụ: con vật phải chết đi mới có thịt nuôi sống con người, hay cây nến sáp phải chảy ra và bị đốt thì anh sáng mới bùng lên soi sáng cho con người.
Đối với cái chết của Chúa trên thập giá cũng vậy. Đức Giêsu chính là Đấng mà con rắn đồng trong sa mạc là hình ảnh loan báo trước: ”Khi các ông đưa Con người lên cao, các ông sẽ nhận biết Ta là ai”. Như thế việc Đức Giêsu chết trên thập giá không phải là một thất bại mà là một chiến thắng. Ngài không “bị” mà “được” đưa lên cao để trở thành nguồn ơn cứu độ cho những ai tin tưởng nhìn lên Ngài.

Vì thế, chính khi Đức Giêsu “bị” giết chết trên thập giá là lúc Ngài “được” tôn vinh và là nguồn ơn cứu độ cho nhiều người. Khi chúng ta “bị” đau khổ nhưng biết nhìn lên thập giá Đức Giêsu là lúc chúng ta “được” cứu độ. Nhìn ngược lại ngày xưa, khi nguyên tổ tưởng mình “được” bằng Thiên Chúa thì lại “bị” đuổi ra khỏi vườn địa đàng.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy nghiền ngẫm câu nói của Đức Giêsu: ”Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25). Như vậy, chúng ta thấy rõ tương quan giữa cái “mất” và cái “còn”.

Truyện gợi ý: Phải biết tan biến đi
Nếu Đức Giêsu là người Ả rập, thì thay vì hình ảnh của hạt lúa được gieo vào lòng đất, có lẽ Ngài sẽ kể câu truyện ngụ ngôn sau đây:

Một dòng suối mát rơi từ ngọn núi, chảy qua một đồng bằng cho đến khi chạm đến một sa mạc. Tại đây, nó chợt nhận ra nước của mình bắt đầu bốc hơi và khô dần. Dù vậy, dòng nước vẫn quyết tâm băng qua sa mạc. Nó nghe có tiếng thì thầm:
-      Nếu ngươi muốn, ngươi có thể băng qua sa mạc được, bởi vì gió vẫn làm được điều đó.
Dòng suối giận dữ:
-      Nhưng ta có phải là gió đâu ?
Nó thấy gợi ý của tiếng thì thầm là điều ngu xuẩn, nhưng tiếng nói vẫn tỏ ra kiên nhẫn:
-      Gió sẽ mang ngươi đi. Dĩ nhiên với điều kiện là ngươi phải tan biến đi trong gió.
Dòng suối suy nghĩ miên man về ý nghĩa này: nó vẫn chưa hiểu được tại sao nó phải tan biến đi, phải chăng nó phải đánh mất chính mình ? Điều gì bảo đảm được rằng khi băng qua hết sa mạc, nó sẽ tìm lại được bản thân một cách nguyên vẹn ? Đọc được ý nghĩ của nó, gió mới lên tiếng
-      Ngươi chỉ cần tin tưởng nơi ta, không còn cách nào khác nữa đâu.
Dòng suối vẫn tiếp tục giữ giọng kiêu hãnh:
-      Đồng ý, nhưng ta không thể chấp nhận tan biến được.
Tiếng nói thì thầm giải thích:
-      Ngươi không thể băng qua sa mạc mà vẫn giữ nguyên hình nguyên trạng được. Làm thế ngươi chẳng khác nào một con rắn xấu xí, nhưng nếu ngươi để cho gió mang ngươi đi xuyên qua sa mạc, thì bên kia sa mạc, ngươi sẽ hiện nguyên hình là một dòng suối xinh đẹp. Dòng suối thắc mắc:
-      Vẫn một dòng suối như cũ ư ?
Giọng nói giải thích:
-      Dĩ nhiên, ngươi sẽ tìm gặp lại bản thân, tóm lại nếu ngươi cứ chần chừ đứng ở đây, ngươi cũng sẽ đánh mất chính mình ngươi mà thôi.
Thế là dòng suối chấp nhận biến thành hơi nước và để cho gió mang đi. Nó cùng với gió băng qua sa mạc. Và khi cả hai đến đầu ngọn núi bên kia sa mạc, gió để cho nó rơi từ từ như mưa. Không mấy chốc, dòng suối gặp lại chính nó, đẹp hơn, trong suốt hơn. (R. Veritas, Mạch nước trường sinh, tr 96-97)

Hạt lúa có được gieo vào lòng đất để thối đi mới có thể sinh hoa kếtr quả. Dòng suối có chấp nhận tan biến trong gió mới có thể gặp lại bản thân. Đây là định luật của cuộc sống thiêng liêng mà Đức Giêsu đã vạch ra cho chúng ta. Đây là con đường siêu thoát, con đường chiến đấu, ai muốn được sự sống đời đời không thể đi theo con đường nào khác.

b) Chiến đấu không lùi bước
Đức Giêsu đã chỉ đường dẫn lối cho chúng ta tiến tới cuộc sống đời đời. Con đường ấy là con đường khổ giá. Con đường từ bỏ, con đường siêu thoát chính mình, vì Đức Giêsu đã phán: ”Ai muốn theo Ta hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo”. Đấy là con đường một chiều, ai đã theo thì chỉ có tiến chứ không có lùi, như thế mới xứng đáng làm môn đệ của Chúa:”Ai đã tra tay cầm cầy mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa”(Lc 9,62).

Thập giá của Chúa trao không nặng lắm, luôn vừa sức ta, nhưng đòi hỏi ta phải kiên trì vác hằng ngày vì sự khốn khó ngày nào đủ cho ngày ấy. Hãy bắt tay vào việc ngay, đừng chần chừ, đừng để công việc hôm nay sang ngày hôm sau. Về vấn đề này, ta hãy nghe John Newton nói:
“Những khổ sở mà đời chúng ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn chúng ta không vác nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục… Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Nhiều người lại không làm như thế: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi”.

Hãy tin tưởng cất bước, quyết không lùi trước những khó khăn. Phần thưởng chỉ dành cho những ai chiến đấu và kiên trì cho đến cùng. Hãy tin tưởng vào Chúa, Đấng đã trải qua mọi khó khăn sẽ giúp đỡ chúng ta vượt qua mọi thử thách. Trong cuộc chiến này, chúng ta chỉ biết tiến chứ không biết lùi.

Truyện: Quên bài kèn rút lui.
Trong một trận giao tranh ác liệt giữa quân của Napoléon và quân địch, trận chiến càng về khuya càng ác liệt và phần thắng dần dần nghiêng về phía địch. Quân của Napoléon chết rất nhiều, hàng ngũ rối loạn mặc dầu cuộc chiến đấu vẫn còn tiếp tục nhưng rời rạc. Nhìn rõ thế trận, Napoléon biết phải làm gì, vua gọi tên lính thổi kèn lại gần và ra lệnh: ”Hãy thổi kèn lui binh vì quân ta chết quá nhiều”.

Tên lính trẻ được lệnh, nhảy tót lên ngựa, phi nhanh ra giữa trận, và đưa kèn lên thổi hồi kèn thúc trận một cách mạnh mẽ. Quân của Napoléon đang mệt mỏi và thất vọng, nghe tiếng kèn thúc quân, tưởng có viện binh tới giúp, chồm dậy phản công kịch liệt. Kèn cứ thổi, đám tàn quân vươn mình lên vừa đánh vừa la hét. Kết quả thế trận thay đổi: quân của Napoléon toàn thắng bất ngờ. Tuy nhiên, hoàng đế Napoléon sai bắt tên lính kèn kia lại, và khiển trách y rất nặng nề về tội bất tuân thượng lệnh. Anh lính bình tĩnh tâu: ”Muôn tâu đức vua, từ khi được theo bước chân ngài trong binh lửa, và chiến đấu trăm trận đều trăm thắng cho nên hạ thần đã quên hẳn bài kèn rút lui rồi”.

Muốn có chiến thắng thì phải chiến đấu. Chiến đấu càng cam go, chiến thắng càng vinh quang. Không có thành công nào mà không đòi cố gắng. Thành công của chúng ta là biết lắng nghe và thi hành thánh ý Chúa. Để giúp chúng ta biết cách kiên trì sống theo thánh ý Chúa với niềm tin tưởng trong gian truân, chúng ta hãy đọc đoạn thư của thánh Phaolo tông đồ gửi cho tín hữu Do thái sau đây:

“Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy ? Nếu anh em không được sửa dạy như tất cả mọi người, thì khi đó anh em là con ngoại hôn, chứ không phải là con chính thức. Vả lại, chúng ta có cha trần thế sửa dạy mà chúng ta vẫn tôn kính, thì chúng ta lại càng phải tùng phục Cha trên trời để được sống. Cha trần thế sửa dạy chúng ta trong một thời gian ngắn, và theo sở thích của mình; còn Thiên Chúa sửa dạy là vì lợi ích của chúng ta.


Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
SỰ NHẦM LẪN
Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Người ta kể rằng: ở một cửa hàng bán hoa vừa xảy ra một sự nhầm lẫn thật ngộ nghĩnh. Ngày hôm đó, người bán hoa làm hai lẵng hoa cho hai khách hàng khác nhau. Một là để chúc mừng ngân hàng mới mở thêm một chi nhánh mới, và một là để chia buồn cho một đám tang. Thế nhưng, hai tấm thiệp đính kèm hai bó hoa bị đặt lộn, thành ra lẵng hoa gửi cho đám tang lại nhận được lời chúc: “chúc mừng khai trương cơ sở mới”. Ngược lại, thiệp trao cho ngân hàng lại ghi hàng chữ: “Thành thật chia buồn”.

Xem ra sự nhầm lẫn này tuy không hợp tình nhưng lại hợp lý. Vì đời là bể khổ. Ra khỏi cuộc đời là thoát khỏi khổ luỵ trần gian. Chết là lìa bỏ chỗ ở dưới đất mà lên trời. Chết là bỏ trần gian với bao bon chen vật lộn để về quê trời vĩnh cữu không còn khổ luỵ của tham sân si phàm trần. Chết là về nhà cha trong niềm vui của đứa con xa nhà nay được hồi hương trở về. Như vậy, chết là vui mừng chứ không còn là thương tiếc. Ai lại thương tiếc khi một đứa con xa nhà nay trở về? Ai lại buồn khi được đoàn tụ bên Cha trên trời?

Truyền thống văn hoá Việt Nam vẫn tin rằng: chết là sự trở về, là quy tiên, là trờ về nơi mình đã xuất phát ra đi. Ngày xưa tại các nghĩa trang miền quê, người ta thường chôn người chết dưới lòng đất và vun phần trên thành hình một người phụ nữ mang thai. Điều này ngụ ý về một cuộc trở về với lòng đất mẹ. Chính nơi lòng mẹ, ta đã sinh ra. Đó là nơi kín đáo nhất, ấm cúng nhất. Khi chết là trở về nơi lòng đất mẹ cũng là nơi kín đáo và ấm cúng. Như thế, nấm mồ không phải là dấu chỉ về một con người đã chết dưới lòng đất lạnh mà là dấu chỉ cho cuộc trở về nguồn cội đích thực của mình, về nơi mà mình đã xuất phát ra đi.

Hôm nay, các người phụ nữ đến bên nấm mồ của Chúa. Họ đã kinh ngạc và hãi hùng. Vì tảng đá che cửa mộ đã bị bật tung ra ngoài. Họ vào trong nhưng không thấy gì. Họ tưởng rằng xác Chúa đã bị ai đó lấy đi. Họ tìm kiếm nhưng vô vọng. Họ thấy một người mặc áo trắng, tưởng là người làm công nên mới hỏi: “ai đã lấy xác Chúa tôi rồi?”. Nhưng các bà lại nghe một lời mà chưa bao giờ được nghe: “Tại sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết? Người đã trỗi dạy và ra khỏi mồ”. Nấm mồ này và khăn liệm này đã không còn dùng để phủ kín một đời người nữa! Nó không có ích cho người còn sống, có chăng là dấu chỉ cho sự thật hiển nhiên là Chúa đã sống lại từ trong cõi chết. Người không còn ở đây. Người đã ra khỏi mồ. Hãy đi báo tin cho các môn đệ và Người sẽ gặp các ông tại Ga-li-lê-a.

Vâng, Chúa đã phục sinh. Nấm mồ của sự chết đã bị bật tung. Sự lặng vắng cô quạnh của đêm tối sự chết đã bị đẩy lùi bằng ánh sáng phục sinh huy hoàng. Con người sinh ra không phải để chờ chết như bao người lầm tưởng. Sinh ra – lớn lên – gia nua – rồi chết. Thế là hết một cuộc đời. Sứ điệp phục sinh cho chúng ta hiểu rằng: con người sinh ra là bước vào một cuộc hành trình tiền về nhà cha. Nơi mà ngày xưa Adam – Eva đã từ đó ra đi, nay nhờ cuộc Tử Nạn và Phục sinh của Chúa khai mở cho chúng ta con đường trờ về Nhà Cha. Chúa Phục sinh. Cửa trời rộng mở. Con người có thể hành hương về trời. Về với hạnh phúc bất diệt, là nơi “không còn sự chết, không còn than khóc đau thương nữa”. Nơi đó, không còn đêm tối, không còn những cuộc chia ly từ biệt, cũng không còn nước mắt nhớ thương.

Hôm nay Chúa đã phục sinh. Lòng chúng ta hãy trào dâng niềm hân hoan vì Chúa đã về nhà Cha. Ngài đã hứa thiên đàng cho người trộm lành. Ngài cũng hứa thiên đàng cho những ai tin theo Ngài: “Ta đi để dọn chỗ cho các con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy”. Đó chính là nền tảng niềm tin của chúng ta. Chúng ta tin vào Đấng hằng sống để chúng ta được sống muôn đời.

Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta thành con người mới. Con người của ân sủng. Con người của tự do không bị những đam mê thấp hèn thống trị, không bị những thói đời gian dối làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá cao quý của con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Ước gì niềm tin Chúa đã phục sinh giúp chúng ta biết chiến đấu mỗi ngày để chiến thắng cái ác, chiến thắng tật xấu bằng những hy sinh khổ chế, bằng cuộc sống bác ái yêu thương để mai này chúng ta cũng được phục sinh vinh hiển với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng đã phục sinh từ cõi chết nâng đỡ chúng ta trên đường thánh giá hôm nay, để ngày sau chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc quê trời. Amen


Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền





AI TIN CHÚA KITÔ PHỤC SINH
Lm.  Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Hằng năm cứ vào dịp Lễ Mừng Chúa Phục Sinh, nhiều sứ điệp hoành tráng được cất lên từ các tòa giảng, qua các phương tiện thông tin, hòa với tiếng ca và không thể thiếu câu Allêluia: ngợi khen, chúc tụng Chúa. Lễ mừng Chúa Phục Sinh là lễ trọng nhất trong Phụng Vụ Kitô giáo. Nét long trọng ấy được thể hiện ra bên bên ngoài cách rõ nét qua các tổ chức có thể gọi là “lễ hội” cách nào đó, nhất là sau quảng thời gian 40 ngày kiêng khem, hãm mình của Mùa Chay thánh. Dù rằng hiện nay sự long trọng và huy hoàng của Lễ Giáng Sinh có lẽ vì được “xã hội hóa” nên có phần át Lễ Phục Sinh. Tuy nhiên trong niềm tin, người Kitô hữu vẫn ý thức tầm quan trọng của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Vì như thánh Phaolô tông đồ khẳng định: Nếu Chúa Kitô không sống lại thì niềm tin của Kitô hữu chúng ta ra vô ích…(x.1Cr 15,14). Thế nhưng nếu thử hỏi rằng ai là người tin Chúa Kitô Phục Sinh, thì cũng khó trả lời cách rạch ròi và mang tính thuyết phục.

Để làm rõ vấn nạn nầy, thiết tưởng cần nhắc nhớ nhau về ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Có thể nói rằng ý nghĩa nền tảng và quan trọng nhất của mầu nhiệm Phục sinh đó là minh chứng hay xác nhận thiên tính của Chúa Giêsu. Khi phục sinh, Chúa Giêsu chứng tỏ Người có thẩm quyền của một vị Thiên Chúa, nên toàn thể các chân lý Người dạy, kể cả những chân lý mà lý trí loài người khó có thể luận giải minh bạch, thì thảy đều đáng tin (x.GLCG chung số 651).
Ngoài ý nghĩa nền tảng trên thì mầu nhiệm Phục Sinh còn nói với chúng ta rằng:
-     Cuộc đời con người không chấm dứt với cái chết thể lý: Cái chết thể lý chỉ là cánh cửa để con người bước vào cõi sống ngàn thu. Bước vào cõi sống đời đời này để hưởng hạnh phúc đích thật hay phải bị trầm luân vĩnh viễn mới là điều hệ trọng. Người tin vào mầu nhiệm Phục Sinh là người biết “ái mộ những sự trên trời” chứ không phải chỉ biết lo tìm những sự thuộc hạ giới (x.Cl 3,1-4). Họ là những người biết thu tích kho tàng ở trên trời, không sợ mối mọt làm hư hỏng, không sợ kẻ trộm lấy mất (x.Mt 6,20). Làm thế nào để phân biệt đâu là kho tàng trên trời và đâu là kho tàng dưới đất. Cái gì sẽ qua đi thì thuộc hạ giới còn cái gì mãi tồn tại là thuộc thiên giới. Thánh tông đồ dân ngoại cho ta hay chỉ có đức ái mới tồn tại mãi mãi, nghĩa là sẽ đi với chúng ta qua cánh cửa sự chết. Dụ ngôn ngày cánh chung mà Chúa Giêsu kể trong tin mừng Matthêu chương 25 giúp chúng ta xác tín chân lý này. Đến ngày chung thẩm, chính Người sẽ thẩm vấn chúng ta về tấm lòng của chúng ta qua các nghĩa cử chúng ta đã làm hoặc không làm cho tha nhân, cho người bất hạnh, cho kẻ nghèo hèn…

-     Sự giả dối sẽ bị vạch trần, bạo lực, hận thù sẽ bị khuất phục khi người ta can đảm đối diện và đón nhận đau khổ cũng như sự chết trong tình yêu. Quả thật thần dữ là cha của sự gian dối và là nguồn của bạo lực và sự hận thù (x.Ga 8,44). Chiến lược của thần dữ là kìm hãm con người trong sự sợ hãi. Và chiến thuật của nó là gieo rắc sự giả dối, bạo lực và hận thù. Sống trong sự giả dối, lòng người thật khó được bình yên vì luôn canh cánh lo sợ, lo sợ bị phơi bày ra ánh sáng. Hận thù và bạo lực là những công cụ nhiều lúc đã thống trị tha nhân cách đắc lực và hiệu quả vì phận người vốn thường ngại khổ và nhất là sợ chết. Quả thật, nếu chúng ta còn ngại khó, sợ hy sinh mà không dám rao truyền sự thật, không dám bảo vệ công lý, không dám bảo vệ người nghèo hèn, kẻ bị áp bức…thì các câu tung hô “Allêluia Chúa đã phục sinh” của chúng ta chỉ là phèng la não bạt vô hồn.

-     Tin Chúa đã phục sinh là tin Người đang sống. Chúa Kitô vẫn hiện diện giũa thế trần này bằng nhiều cách thế. Một trong những cách thế hiện diện của Người cách hữu hình và sống động đó là cuộc sống của các Kitô hữu. Nội hàm lời của thánh tông đồ dân ngoại:“Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà Chúa Kitô đang sống trong tôi”, quả là một lời tuyên xưng khả tín. Lời tuyên xưng Chúa đã phục sinh phải sánh đôi với một cuộc đời: “đi đến đâu thì giáng phúc đến đấy”(x.Cvtđ 10,38); can đảm và thẳng thắn nói lời chân lý trước cả thế quyền lần thần quyền (x.Mt 26,64; Ga 18,37); khoan dung với tội nhân nhưng luôn cương quyết loại trừ tội lỗi (x.Ga 8,1-11); yêu thương phục vụ đồng loại đến cùng (x.Ga13); sẵn sàng đón nhận thập giá để biểu lộ một tình yêu vị tha trong sáng, hết lòng…

Rất nhiều câu tung hô, nhiều câu ca “hoành tráng”: “Allêluia, Chúa đã sống lại” trong dịp đại lễ Phục Sinh này. Nhưng để trả lời câu hỏi: Ai là người tin Chúa Kitô đã phục sinh thì quả không dễ dàng. Cần xác nhận rằng các thánh là những người chắc chắn tin Chúa đã phục sinh. Còn chúng ta thì sao? Không gì hơn xin hãy xét lại lòng mình. Kho tàng đích thực của tôi đang ở đâu? Kho tàng của ta ở đâu thì lòng trí của ta sẽ ở đó (x.Mt 6,21). Lòng chúng ta đang còn lấn cấn sự gì, còn vương vấn nỗi sợ hãi nào, khiến chúng ta không dám nói lời chân lý, không dám sống yêu thương cho đến cùng? Mang danh là Kitô hữu mà đã có lần nào trong cuộc đời chúng ta dám nói như thánh Phaolô rằng “Chúa Kitô đang sống trong tôi” một cách không ngượng miệng?

Vâng lời vị cha chung giáo hội toàn cầu, Đức Bênêđictô XVI, xin bớt nói Chúa đã phục sinh nhưng hãy làm cho tha nhân nhìn thấy và cảm nhận Chúa Kitô đang sống giữa họ, qua cuộc sống và hành động của mỗi người chúng ta.

Lm.  Giuse Nguyễn Văn Nghĩa


MỘT NHÂN LOẠI THUỘC QUYỀN THIÊN CHÚA
Lm.  Jos Tú Nạc

Thiên Chúa đã cứu vớt một phần sự mặc khải của Người tuyệt diệu và ngạc nhiên nhất trong Chúa Giê-su cho đến lúc cuối cùng. Thánh Phao-lô đã khắc sâu lời tuyên bố xa xưa của tin mừng: những kỳ công tuyệt vời và uy quyền của Chúa Giê-su đã thực hiện cùng nhiều hành động của lòng từ bi và nhân ái đã bắt nguồn từ Người.

Câu chuyện buồn vời vợi với sợ hãi và âu sầu, vì Người đã bị bắt và bị giết. Nó đã kết thúc với sự kỳ diệu, hân hoan và vô cùng sửng sốt – Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết và đã xuất hiện trước các môn đệ của Người và đã được chỉ định bởi Thiên Chúa như vị thẩm phán của sự sống và cái chết. Đây là tin mừng mà đang được loan truyền nhanh chóng khắp xứ Judea và kích động đến biết bao con tim cháy bỏng.

Nhưng về hai vần thơ đã bị sót trong đoạn trích kinh giảng. Lý do thực tế về sự thắc mắc và ngạc nhiên của Thánh Phê-rô thật rõ ràng. Ông đang trong ngôi nhà của Cornelius – người sỹ quan bách quản La Mã, tà đạo, đang căm ghét quân đội với sự cầm quyền đất nước bằng vũ lực – và ở đó, Thiên Chúa đã cho anh ta một quyết tâm đặc biệt. Với một giây lát suy nghĩ, Phê-rô bất ngờ thốt lên bây rằng giờ anh ta mới hiểu cặn kẽ Thiên Chúa tuyệt đối không thành kiến – bất kỳ một người nào trong một quốc gia nào mà thực hiện những gì là lẽ phải thì có thể được Thiên Chúa đón nhận. Điều này có thể xem như không đáng chú ý đối với chúng ta ngày nay nhưng nó hoàn toàn choáng váng và thách thức vào thời điểm đó. Mặt khác, như bây giờ nó có thể gây sốc nếu tất cả những hàm ý của nó được hiểu một cách đầy đủ. Trong một khoảnh khắc, ông sẽ chứng kiến sự mủi lòng đối với Cornelius và toàn bộ hộ gia đình của anh ta và với Thiên Chúa mà trong một động thái ấn tượng rằng thậm chí với dân ngoại cũng bao gồm trong kế hoạch của sự cứu rỗi. Không một người nào hoặc một nhóm nào có quyền đòi hỏi đặc biệt vào Thiên Chúa; mà duy nhất có một nhân loại và một Thiên Chúa.

Cố gắng tim kiếm những điều như trên, là nơi Đức Ki-tô. Điều này không nên hiểu theo những mối quan hệ không gian vì Chúa Giê-su không ở một nơi nào đó trên bầu trời cũng chẳng phải là những điều mà họ cố công tìm kiếm. Không có viễn vọng kính Hubble hoặc điều kiện thử nghiệm không gian nào truy thu được những vật thể thuộc những yêu cầu của chúng ta, vì tất cả những thứ mà chúng ta ra sức truy tìm thì ở ngay trong chúng ta và ở giữa chúng ta. Những không gian ẩn dụ này diễn tả mức độ của mối giao hòa với mạch nguồn thiêng liêng thánh thiện – Thiên Chúa. Công việc tìm kiếm những sự việc cao cả chỉ là một tiến trình của những thói quen, ý kiến, định kiến và các giá trị giả định, đặt trọng tâm và trái tim của loài người sai lệch về Đức Ki-tô. “Những sự việc cao cả” không phải là sự mở rộng hoặc hình ảnh phản chiếu về “những sự việc” của chính chúng ta. Chúng được bảo đảm để biến đổi thế giới nhỏ bé của chính chúng ta đảo lộn từ trên xuống dưới và từ trong ra ngoài.

Nhiều người đã nhấn mạnh rằng ngôi mộ trống là ý nghĩa trung tâm của thông điệp Ki-tô giáo. Nhưng ngôi mộ trống muốn nói lên điều gì? Cuộc chạy đua gấp gáp đến nấm mộ bỏ trống rằng đó là sự trống rỗng thực tế và Chúa Giê-su không biết ở nơi đâu để tìm kiếm. Vải vóc được cuốn lại một cách cẩn thận cho thấy rằng những gì xảy ra đã được sắp xếp kỹ lưỡng và có chủ tâm. Không giống như sự tường thuật trong ba Tin Mừng khác. Không có một thiên sứ nào trong nấm mộ để làm sáng tỏ vấn đề cho họ. Họ rời ngôi mộ với tâm trí rối bời, vì lẽ câu chuyện kể cho chúng ta họ chưa hiểu rõ sự phục sinh của Chúa Giê-su từ cõi chết. Họ đã thấy ngôi mộ trống nhưng vào thời điểm ấy điều đó hầu như không tác động đến đời sống của họ, trong một cảm giác nhiều người chia sẻ trải nghiệm đó – họ tin vào sự phục sinh nhưng ảnh hưởng đến cuộc sống của nó chỉ là số không.

Mary Magdelene là người mà một phần của ý nghĩa được tiết lộ. Khi tiếng nói của Chúa Giê-su cuối cùng phá vỡ nỗi sầu đau và than khóc của bà, Người đã tạo cho bà một sứ vụ quan trọng. Bà phải mang thông điệp sau đến mọi người: ta đang vươn lên tới Cha ta và cha của anh em, Chúa của ta và Chúa của anh em. Điều này thoạt đầu nghe hoàn toàn vô vị. Nhưng nó đại diện cho một sự quan hệ rất khác giữa nhân loại và Thiên Chúa. Trong suốt Tin Mừng của Thánh Gio-an, Chúa Giê-su của Gio-an đã nhiều lần tuyên bố rằng, Người là người duy nhất thấu hiểu Thiên Chúa hoặc là người đã sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa Giê-su đã nói đến Thiên Chúa với tư cách là “Cha ta” trong một cảm giác tối thượng. Nhưng giờ đây – như một kết quả về sự phục sinh của Người và trở về với Đức Chúa Cha – chúng ta giờ đây cũng được mời gọi để sẻ chia chung mối quan hệ với Thiên Chúa như Chúa Giê-su. Người là Cha và cũng là Chúa chúng ta, và rằng tạo cho Chúa Giê-su anh em của chúng ta và những người khác anh em của chúng ta.

Sự trải nghiệm của Lễ Chúa Phục Sinh – không phải chỉ tin tưởng vào đó – biến đổi và cho phép chúng ta để nghĩ và sống theo một đường lối mà nó phản ảnh sự hiệp nhất của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau trong chúng ta.

(Nguồn: Regis College - The School of Theology)


Lm.  Jos Tú Nạc




HÃY VỮNG TIN, ĐẤNG PHỤC SINH ĐANG Ở VỚI BẠN
Lm. An Phong, OP

Nguồn mạch sự sống đã đến giữa chúng ta. Nguồn mạch sự sống đã chết cho chúng ta. Đấng đã tặng ban chúng ta cái chết của Người, Người chẳng để lại sự sống của Người cho ta đấy sao ?

Vì vậy ơn cứu độ đâu phát sinh từ cõi hư vô.
Tại sao (thế ) ?
-       Vì ơn cứu độ không hề chấm dứt.
Này anh em, Chúa Giêsu hiện ra lúc nào ?
-       Lúc họ đang bẻ bánh.
Nơi chúng ta, không có gì phải xao động. Chúng ta bẻ bánh và chúng ta nhận ra Chúa. Chúng ta là những kẻ không xem thấy Người trong xác thịt, nhưng lại tiếp nhận thân xác Người.

Này bạn, dù bạn là ai, bạn là người tin vào Người, bạn đừng mang danh kitô hữu cách hư luống, bạn đâu có vào nhà thờ cách ngẫu nhiên, bạn là người lắng nghe lời Chúa trong kính sợ và hy vọng, bạn hãy vững lòng trong lúc bẻ bánh này; Sự vắng bóng của Chúa không phải là một sự vắng bóng đâu.

Bạn hãy vững tin vì Chúa đang ở với bạn, dù bạn không xem thấy Người. Khi được Chúa Giêsu xuất hiện, các môn đệ không hề có chút lòng tin. Họ không tin Người đã sống lại, họ không hy vọng việc Người có thể sống lại. Họ đánh mất niềm tin, họ đã mất hy vọng. Họ bước đi bên cạnh một Đấng đang sống như những người chết, họ bước đi như những người chết bên cạnh người sống. Sự sống cùng đi với họ nhưng trong tâm hồn họ, không một sự sống nào đã lại phát sinh.

Nếu bạn ước mong sự sống, bạn hãy làm như hai môn đệ và bạn sẽ nhận ra Chúa. Họ đã mời Ngài ở lại. Còn Chúa làm như muốn đi xa hơn, nhưng họ đã giữ Người lại. Khi đã tới nơi định tới, họ nói cùng Người :

Ngài hãy ở lại với chúng tôi, vì trời đã tối rồi.
Bạn hãy giữ người khách lạ lại nhà, nếu bạn muốn nhận ra Đấng Cứu Thế của bạn. Sự hiếu khách đã trả lại cho hai môn đệ những gì mà sự nghi ngờ đã cướp đi khỏi họ. Chúa đã tỏ mình cho họ đang lúc bẻ bánh. Anh em cũng hãy học biết nơi tìm Người, nơi chiếm hữu Người, nơi nhận ra Người:  đó là lúc bẻ bánh với Người. (Thánh Augustinô).

Lạy Chúa, Đừng ai làm tảng đá ngăn Chúa và con,
con muốn nhìn thấy Chúa, chạm tay vào người Chúa.
Lạy Chúa, đừng có sách vở nào, dù thông thái, dù đạo đức tới đâu, làm giảm tính chất trong sáng và hương vị sứ điệp Chúa, con muốn gặp Đức Kitô của Maria Mađalêna, của các thánh tông đồ, Đức Kitô của những kẻ bé mọn, những kẻ đơn sơ, Đức Kitô nói giọng quê Galilê, rất gần gũi thân thiết với giọng miền quê con, Đức Kitô cất tiếng bảo con : "Ai thấy Thầy là thấy Cha Thầy".
Lạy Chúa, xin cho con được gặp Ngài trong niềm vui của lòng tin.

Lm. An Phong, OP
SỨC MẠNH TÌNH YÊU
Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP

Nhân loại hôm nay vẫn xôn xao đi tìm hạnh phúc. Đã có nhiều người vẫn cứ tưởng hạnh phúc nằm trong thực tại trần gian. Nhưng hạnh phúc vẫn vuột khỏi tầm tay. Chỉ có Đấng Phục sinh mới mạc khải cho mọi người biết hạnh phúc nằm ở đâu.

CÒN MỘT CHÚT GÌ.
Sau ba năm vất vả gầy dựng cộng đoàn niềm tin, Đức Giêsu đã hoàn toàn trắng tay. Công xây dựng bao năm một sớm một chiều tan thành mây khói. Bao nhiêu giây phút dặn dò, tâm sự đều trôi vào hư vô. Bao nhiêu tin tưởng đã tan thành mảnh vụn. Bằng chứng, vào giây phút nguy khốn nhất, các môn đệ đã bỏ trốn hết. Niềm tin đặt nơi con người nguy hiểm chừng nào ! Cái chết thể xác chỉ là dấu chỉ băng hoại của niềm tin bấy lâu tưởng đã bén rễ và vươn lên.

Khi chọn các môn đệ, chắc chắn Đức Giêsu rất sáng suốt. Nhưng Chúa không dùng quyền năng để phá hủy tự do con người. Tự do cộng với nhát đảm có thể sinh ra phản bội. Ngay cả khi tỏ ra khẳng khái nhất trong các tông đồ, Phêrô vẫn không che dấu nổi sự hèn nhát. Trong biến cố đau thương nhất cuộc đời, Đức Giêsu muốn mạc khải Người lệ thuộc ai. Chắc chắn con người không thể là điểm tựa. Bởi vậy, cho dù tất cả đều bỏ cuộc, Đức Giêsu vẫn kiên cường đứng vững. Đối với Chúa, chẳng ai là quan trọng cả ! Công cuộc cứu độ tùy thuộc một mình Thiên Chúa mà thôi.

Điểm tựa duy nhất của Đức Giêsu chính là tình yêu Thiên Chúa. Tình yêu Thiên Chúa không hề vơi bớt chút nào trong suốt cuộc đời Đức Giêsu. Bởi thế, Người tin tưởng mãnh liệt và hiên ngang lên đường đi Giêrusalem nộp mạng. Tình yêu sẽ phục hồi tất cả và làm nên tất cả. Chính “Thiên Chúa (là tình yêu) đã làm cho Người trỗi dậy.” (Cv 10:40) Bởi đó, tình yêu có một sức mạnh lạ thường ! Từ ngàn xưa, chính tình yêu đã tự vẽ đường cho mình. Thật vậy, “tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người” (Cv 10:43) như một Đấng chết vì tình yêu và cho tình yêu.

Không những có các chứng nhân quá khứ, tình yêu còn chuẩn bị những chứng nhân tương lai đẩy mạnh niềm tin nhân loại vào mầu nhiệm tình yêu nơi biến cố Đức Giêsu Phục sinh. Thiên Chúa “cho Người xuất hiện tỏ tường trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại.” (Cv 10:41) Từ nay, mọi người sẽ thấy ơn cứu độ chỉ tùy thuộc vào một người duy nhất là Đức Kitô. Thực vậy, “phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội,” (Cv 10:43) nghĩa là được hòa giải với Thiên Chúa và chia sẻ gia sản Thiên quốc với Đức Giêsu. Chỉ tình yêu mới có sức mạnh biến thù thành bạn ! Không những thế, từ nay một sức sống mới đã ùa vào nhân loại. Thật vậy, tận chiều sâu con người, “sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa.” (Cl 3:3) Sự sống đã trào vọt lên từ nguồn mạch Phục sinh của Đức Giêsu. Sự sống ấy không tự nhiên chiếm hữu được. Nhưng từ cõi chết “anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô,” (Cl 3:1) nhờ sức mạnh tình yêu Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu Thiên Chúa đang làm những việc kỳ diệu trong Giáo hội và khắp thế giới.
Hơn nữa, tình yêu luôn hướng con người lên cao. Bởi thế, “hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa,” (Cl 3:1) Từ nơi đầy sức mạnh tình yêu đó, Đức Giêsu sẽ làm cho vạn vật được phục sinh trong ánh sáng của Người.

CHỨNG TỪ TÌNH YÊU.
Nhìn vào cuộc sống với bao nhiêu thứ tin tưởng hiện tại, chúng ta thấy tình yêu vẫn còn là một sức mạnh áp đảo trước những cơ chế văn minh vật chất. Giáo hội vẫn hiện diện như một dấu chỉ cho mọi người biết con đường giải thoát ở đâu. Ngày nay, như Maria Mácđala, con người vẫn thắc mắc : “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu ?” (Ga 20:2) Nhiều người vẫn còn tin Chúa nằm chết trong mộ. Nhiều tín hữu vẫn trình bày cho mọi người như thể Đức Giêsu chưa bao giờ trỗi dậy. Nhưng “theo Thánh Kinh, Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết.” (Ga 20:9) Phải, chỉ khi nào sống theo Lời Chúa, mới có thể làm chứng Đức Giêsu đã Phục sinh ! Ngày nay, cũng như ông Simôn Phêrô, nhân loại đi vào Giáo hội như “đi thẳng vào trong mộ, thấy những băng vải để ở đó và khăn che đầu Đức Giêsu.” (Ga 20:6) Một cái nhìn quá cơ chế như con mắt Phêrô dễ làm lạc hướng con tim muốn khám phá Đức Giêsu đang Phục sinh trong từng mạch sống và hơi thở thiên nhiên và lòng người. Có thể người ta thấy Giáo hội rất có tổ chức và trật tự. Nhưng họ không như Gioan. “Ông đã thấy và đã tin.” (Ga 20:8) Ong thấy cái gì và tin cái gì ? Ong thấy mọi sự như Phêrô. Nhưng ông tin Đức Giêsu đã từ cõi chết trỗi dậy, vì ông là môn đệ đã nằm sát ngực Đức Giêsu. Chỉ có con tim mới đọc được ý nghĩa của những bằng chứng tình yêu.

Nhân loại đang cần những con tim hơn những khối óc ! Văn minh cực kỳ như thế giới hôm nay, vẫn còn hằng triệu người đau khổ vì anh em đồng loại. Trên thế giới hiện tại vẫn còn trên 200 triệu Kitô hữu đang bị bách hại và hằng tỉ người nghèo đói vì cơ chế bất công vàsự thờ ơ hay thù ghét của đồng loại. Bao giờ chúng ta mới có thể cùng mở hội ăn mừng đại lễ Phục sinh “bằng bánh không men, là lòng tinh tuyền và chân thật.” (1 Cr 5:8) giữa một thế hệ gian tà và bất công này ? Bao giờ mới có thể vùng dậy khỏi thế giới hạn hẹp, trần tục này để “tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3:1) ? Thế giới đang thèm khát hòa bình. Chính Đức Giêsu Phục sinh đã trả lại niềm hi vọng lớn lao cho nhân loại khi nối kết con người với con người và với Thiên Chúa.

Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP

CHÚNG TÔI XIN LÀM CHỨNG
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

Buổi sáng vội vã
Vào buổi sáng ngày lễ Vượt Qua này, theo các trình thuật Tin Mừng, dường như mọi người đều ở trong tâm trạng bồn chồn, có vẻ rất vội vã. Ngay từ sáng sớm, đã có nhiều người tìm đến một ngôi mộ, mỗi người có hoàn cảnh và mục đích riêng.

Theo Tin Mừng Mác-cô, "sáng tinh sương, ngày thứ nhất trong tuần, lúc mặt trời hé mọc ...", các phụ nữ đã chứng kiến việc an táng Ðức Giêsu vào ngày thứ sáu, đã ra mộ, mang theo dầu thơm để ướp xác Ðức Giêsu ... Sau đấy, khi đã nhìn thấy ngôi mộ trống, và gặp một nhân vật lạ, các bà đã rời nơi ấy, "cắm đầu chạy, run lẩy bẩy, hết hồn hết vía".
Còn theo Tin Mừng Gioan, cô Maria Mác-đa-la ra thăm mộ và "thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ". Mấy ngày trước đây, cô đã trải qua những giờ phút đầy phiền muộn khi chứng kiến Vị Thầy yêu quý của mình chịu chết và được an táng trong mộ. Lúc này, cô cảm thấy sợ hãi : cô nghĩ rằng ai đó đã lấy cắp thi thể của Ðức Giêsu và đem đi mất. Trong đầu cô xuất hiện một mối hoài nghi : Ðức Giêsu đã là nạn nhân của lòng thù ghét, phải chăng Người còn bị truy đuổi ngay cả khi đã nằm trong mộ ? Thế là cô chạy về báo tin cho những người bạn của Ðấng đã từng giải thoát cho cô.

Nghe lời thuật lại của cô Maria Mác-đa-la, hai ông Phêrô và Gioan liền đi ra mộ. Cả hai người đều chạy. Tới mộ, các ông đã nhìn thấy "những băng vải, và khăn che đầu Ðức Giêsu, được cuốn lại, xếp riêng ra một nơi". Trước bằng chứng này, các ông gạt bỏ giả thuyết thi thể Ðức Giêsu bị đánh cắp.

Nhưng trong khi ông Phêrô còn phân vân, chưa hiểu được sự kiện xảy ra có ý nghĩa gì, thì người môn đệ Ðức Giêsu yêu quý đã hiểu rõ : ông nhận ra rằng không có chuyện đánh cắp thi thể Ðức Giêsu. Qua các tấm khăn được xếp lại và để riêng, ông đọc thấy những dấu chỉ về một cuộc Phục Sinh đích thực ; sự sống đã đánh bại vương quốc tử thần. Chỉ có tình yêu mới đem lại cho người môn đệ ấy cặp mắt sáng ngời, biết nhìn ra mầu nhiệm giấu ẩn đằng sau những sự kiện. Nhờ tình yêu ấy, ông đã nhìn và đã tin, đổng thời khám phá ý nghĩa trọn vẹn của con người Giêsu - Ðấng đang sống.
Trở lại chuyện với cô Maria Mác-đa-la, cũng do tình yêu thúc đẩy, cô đã tìm đến mộ mà than khóc. Nhờ đó, cô là người đầu tiên được gặp gỡ Ðức Giêsu Phục Sinh, và sau đó trở thành người đầu tiên loan báo Tin Mừng Phục Sinh.

Quả là một buổi sáng nhiều vội vã, dồn dập sự kiện quanh một ngôi mộ. Nhiều người đã tìm đến ngôi mộ, và rồi lại từ đó ra đi, bắt đầu một hành trình mới, tin tưởng hơn, hăng hái hơn.

Phục Sinh, một hứng khởi kỳ diệu
Nếu không có Phục Sinh thì cuộc đời Ðức Giêsu đã chấm dứt với một thất bại rõ ràng: chết trên thập giá, những người bạn thân tín bỏ trốn hết.

Tuy nhiên, vấn đề được nêu lên là làm sao có thể giải thích được cái chết ấy là khởi đầu cho một hứng khởi kỳ diệu là niềm tin Kitô giáo ? Trong thế kỷ đầu, mặc dù những cuộc bách hại khốc liệt diễn ra khắp nơi, nhưng Ðức Giêsu đã được biết đến, được yêu mến, được tiếp nối và thờ kính ở khắp vùng ven Ðịa Trung Hải và cả những miền lân cận.

Về vấn nạn này, các tông đồ và các môn đệ đã giải thích : "Ðức Kitô đã sống lại. Chúng tôi xin làm chứng." Cụ thể như trường hợp ông Gioan : "ông đã thấy và đã tin". Khởi đầu từ những yếu tố khác nhau như ngôi mộ trống và những lần Ðức Giêsu hiện ra, tất cả trở nên sáng tỏ trước mắt ông: ông nhớ lại những điều Ðức Giêsu nói, những việc Người làm, và ông tin. Nhờ ánh sáng của Thần Khí, ông cảm nghiệm được rằng : Ðức Giêsu đã chỗi dậy, Người đang sống.
Với tất cả các tông đồ khác cũng vậy. Các ông xác tín vào mầu nhiệm Phục Sinh và xác tín này làm thay đỗi cuộc đời các ông : thái độ sợ hãi được nhường chỗ cho thái độ can đảm trong lòng tin. Các ông sẵn sàng làm chứng về Ðức Giêsu Phục Sinh dù phải hy sinh tính mạng. Cũng nhờ xác tín đó, nhờ thái độ can đảm và kiên quyết, các ông đã lôi kéo cả một đám người, mỗi ngày một đông hơn, Do-thái lẫn dân ngoại, đi theo các ông và cùng tin như các ông. Sau đó, đến lượt mình, những người này cũng quả quyết Ðức Giêsu đã sống lại, Người là Chúa.

Thật thế, sự chỗi dậy từ cõi chết là đỉnh cao trong cuộc đời Ðức Giêsu, giúp cho các tông đồ thấy rõ cuộc đời và con người Ðức Giêsu. Ðối với các ông, những lời Người nói, những việc Người làm, lời Người cầu nguyện, nhất là cái chết của Người, tất cả đều có ý nghĩa thâm sâu và phong phú. Sự Phục Sinh này đã mở mắt các ông, cho các ông nhận ra Ðức Giêsu thực sự là Con Thiên Chúa, Người là ánh sáng trần gian.

Do đó, cái chết của Người trên thập giá có ý nghĩa đặc biệt : đó không phải là dấu chứng về thất bại, nhưng là chứng tá tuyệt vời về tình yêu. "Không ai có tình thương lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu" (Ga 15,13). Trước mắt các ông, Ðức Giêsu thật là Ðấng Cứu Thế.

Mở đường hướng tới tương lai
Cuộc Phục Sinh của Ðức Giêsu cũng soi chiếu cuộc đời chúng ta và lôi kéo chúng ta. Ðức Giêsu, Ðấng đã trải qua cái chết, chính Người là Thiên Chúa, đổng thời cũng vẫn là một người như chúng ta, là anh em của chúng ta. Lễ Phục Sinh đem lại cho chúng ta biết bao hứng khởi để cố gắng bênh vực con người, để mỗi người cũng được phục sinh như Ðức Kitô.

Quả thế, lễ Phục Sinh cho thấy tất cả mọi khía cạnh trong câu nói của Ðức Giêsu : "Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở trong tình thương của Thầy ... hãy yêu thương nhau ..."

Những việc Ðức Giêsu làm, những lời Người nói giúp chúng ta nhìn cuộc đời theo một cách thức mới ; chính Người là Thầy, nhưng lại sống trong thân phận một tôi tớ. Người đã nói : "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó ... ai hiền hoà ... xây dựng hoà bình ..." và Người đã sống đến cùng. Chính Thiên Chúa nói trong Ðức Giêsu Kitô và thúc đẩy chúng ta bước theo Người, hành động như Người.

Lễ Phục Sinh còn mở ra cho chúng ta những cánh cửa hướng tới tương lai. Phục Sinh, đó là vượt qua. Ðức Giêsu là người đầu tiên vượt qua để làm cho chúng ta cũng vượt qua với Người. Phục Sinh, đó là cánh cửa hướng đến sự sống không bao giờ tận : từ nay cuộc đời trần thế của chúng ta đã có một chiều kích mới, chiều kích vĩnh cửu.

Với Ðức Giêsu Phục Sinh, không có con đường nào là con đường cùng, không lối ra ; cái chết không còn phải là rào cản ; tội lỗi có thể được thứ tha và tội nhân có thể được giải thoát. Chúng ta luôn có thể lên đường lại, và không bao giờ thất vọng về chính mình cũng như người khác, bởi vì từ nay, Ðức Giêsu đã làm nảy sinh tình yêu, khởi đầu từ những hận thù đổ xuống trên chính Người.
"Này Maria,
hãy mau tìm các môn đệ của Thầy,
hãy cất tiếng hát đem lại bình an
cho những người bạn của Thầy đang sợ hãi,
để họ thức dậy và đến gặp Thầy,
để họ thắp lên những ngọn đuốc.
Này các Tông đồ, hãy xua đi mọi ưu sầu phiền muộn,
vì Thầy đã chỗi dậy và đem lại sự sống
cho loài người đang tuyệt vọng ..."
(theo Romanos le Melode)
Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật, OP

SỰ KIỆN MỘ TRỐNG
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Chương trình Thiên Chúa cứu chuộc loài người được thực hiện nơi cái chết và sự sống lại của Chúa Giêsu. Tại sao lại dùng cái chết ? Chúng ta có thể trả lời : Không phải Thiên Chúa cần đến sự đau khổ của Chúa Giêsu như một hình phạt, thay thế cho hình phạt mà loài người đáng chịu, nhưng vì Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu, con của Ngài, diễn tả tình yêu lớn lao đối với Thiên Chúa và đối với loài người. Nghĩa là với tư cách là trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, Chúa Giêsu đền thay tội lỗi của loài người bằng cách ấy. Ngài đã chứng tỏ một tình yêu vô cùng lớn lao là yêu đến chết trên thập giá, đến thí mạng sống vì kẻ mình yêu thương.

Nhưng sự hy sinh lớn lao của Chúa Giêsu trên núi Sọ đã được Thiên Chúa đáp ứng. Thực vậy, mặc dầu người ta đã niêm phong ngôi mộ và cho lính canh gác cẩn thận, nhưng đến ngày thứ ba, tảng đá che cửa mộ đã bật tung ra, ngôi mộ trống rỗng, Thiên Chúa đã cho con của Ngài sống lại từ cõi chết và siêu tôn Người, như thánh Phao-lô đã viết : “Đức Kitô đã tự hạ sống phục tùng cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt hơn muôn ngàn danh hiệu, để vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong cõi âm ty, muôn vật phải bái quỳ cùng mở miệng tuyên xưng : Đức Giêsu là Chúa”.

Tin Mừng cho biết : sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, các bà đạo đức thân quen với Chúa, trong số đó có bà Maria Mác-đa-la, là người đầu tiên khám phá ra ngôi mộ trống, và cũng là người đầu tiên loan báo cho các tông đồ điều mà các Kitô hữu gọi là Tin Mừng Phục Sinh : “Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ”. Thực chất lời ấy chỉ mô tả một sự kiện mộ trống. Vậy mà sự kiện ấy được mau chóng giải thích rất khác nhau : người thì nói các môn đệ Chúa tổ chức ăn cắp xác lúc lính canh ngủ; người thì cho rằng Đức Giêsu ở trong tình trạng hôn mê, chưa chết, nên đã tỉnh dậy do bị lạnh và ra khỏi mộ; người thì cho rằng cơn động đất đã nuốt Chúa vào lòng đất; người thì giải thích rằng các phụ nữ, các tông đồ đã “lộn mộ”, chôn ở một nơi nhưng đi tìm ở một nơi khác.
Phải chăng niềm tin Chúa sống lại không có cơ sở vững chắc ? Thưa niềm tin ấy rất vững chắc, vì không dựa trên hiện tượng mơ hồ : mộ trống, nhưng trên lời Chúa, hay đúng hơn, thấy lời Chúa được ứng nghiệm. Sự kiện ấy làm cho các tông đồ nhớ lại những lần Đức Giêsu nói tiên tri : “Con Người sẽ bị giết chết, nhưng ngày thứ ba sẽ sống lại”. Lời ấy đã ứng nghiệm ở phần trước, nghĩa là các tông đồ đã chứng kiến tận mắt cuộc khổ hình của Chúa. Đức Giêsu đã thực sự chết và đã thực sự được chôn táng trong mộ. Đó là sự kiện không ai nghi ngờ, vậy giờ đây xác ấy không còn trong mộ, sự kiện ấy làm các tông đồ tin rằng lời Chúa đã được thực hiện cách trọn vẹn. Thực hiện ở phần trước: cuộc khổ nạn, và thực hiện ở phần sau : sống lại, nhờ đấu chỉ mộ trống. Nếu tách sự kiện mộ trống ra khỏi lời Chúa thì nguyên sự kiện ấy cũng không thể đưa tới niềm tin Đức Giêsu Kt-tô. Thế nhưng, vì các môn đệ đã từng chứng kiến lời Chúa đã được làm trọn nơi Đức Giêsu, thì chỉ cần một dấu chỉ (mộ trống) cũng đủ làm cho các ông tin lời Chúa vẫn tiếp tục được làm trọn.   

Đức Kitô phục sinh là trung tâm của niềm tin Kitô giáo và cũng là trung tâm của đời sống Kitô hữu. Thánh Phao-lô quả quyết : “Nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả lời rao giảng của tôi đều vô ích, và người Kitô hữu chân chính là người “vô phúc hơn hết mọi người”.

Tại sao vậy ? Chúng ta hiểu những lời đó thế nào ? Sự phục sinh của Đức Kitô không chỉ liên hệ đến cuộc đời Ngài, nhưng nó lại ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của toàn thể nhân loại, cũng như ảnh hưởng mật thiết đến cuộc sống, đến lòng tin và niềm hy vọng của tất cả chúng ta. Thiên Chúa đã hy sinh chết thay để cho loài người được sống, không phải cuộc sống mau qua của đời tạm này mà là cuộc sống bất diệt trên cõi trường sinh. Sự sống lại của Chúa là bằng chứng cụ thể cho niềm tin đó, nghĩa là chúng ta tin Chúa sống lại là chúng ta tin chúng ta được cứu chuộc, bởi vì Chúa sống lại Chúa mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như Ngài chết luôn thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta. Nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa hằng sống và là nguồn sống, từ đó Ngài ban sự sống cho tất cả mọi người, ai tin vào Ngài thì được sống đời đời. Cũng thế, Chúa sống lại còn là niềm hy vọng cho chúng ta , tất cả chúng ta cũng sẽ sống lại, thân xác chúng ta sẽ sống lại. Do đó, đức tin của chúng ta vào Đức Kitô phục sinh không phải là điều hão huyền mà là một bảo đảm có giá trị to lớn, tuyệt vời. Cho nên việc Chúa sống lại là một niềm vui và cũng là một niềm hy vọng chắc chắn cho chúng ta. Chúng ta hãy quăng bỏ tất cả những gì là đau buồn, thất vọng, lo lắng; hãy đem tất cả những thứ đó xe kết lại làm bấc đốt nến phục sinh cho sáng niềm tin, để trong mọi cảnh ngộ chúng ta vẫn vui sống và sống hào hùng.

Niềm tin Đức Kitô phục sinh đã thúc đẩy các tông đồ ra đi làm chứng cho Chúa đến nỗi sẵn sàng làm chứng bằng cả mạng sống bất chấp mọi đe dọa, khủng bố, bách hại. Lời chứng ấy vẫn vang lên luôn mãi qua các thế hệ Kitô hữu suốt hai ngàn năm qua. Còn chúng ta hôm nay thì sao ? trong mỗi thánh lễ, chúng ta tung hô sau truyền phép : “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho đến khi Chúa đến”. Chúng ta tin trong lòng, chúng ta tuyên xưng ngoài miệng, và chúng ta biết rằng hiệu quả hơn chính là trong cuộc sống : cuộc sống vui mừng và hy vọng, cuộc sống bình an giữa những thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Đó là cách chúng ta diễn tả niềm tin Đức Kitô phục sinh trong hoàn cảnh hôm nay.


Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP



CHÚA NHẬT PHỤC SINH
Jn. 20, 1- 9
Gp. Vĩnh Long
Anh chị em thân mến.
Trong một cuộc đua, thường thường tất cả mọi người đều về đến đích, chỉ có một số ít bỏ cuộc nữa chừng. Nhưng người đoạt huy chương vàng thì chỉ có một. Đó là người nhanh nhất, giỏi nhất và có nhiều có gắng nhất. Người nầy biết tận dụng từng cơ hội cho dù nhỏ nhất, anh ta không bỏ qua một việc gì, nếu điều đó giúp ích được cho mình. Trong lúc đua, anh ta luôn hướng tới đích điểm thật sự và không để cho mình bị phân tâm vào những điều khác. Anh ta đặt tất cả mọi hy vọng vào cuộc đua và quyết tâm đạt mục đích. Anh ta thành công nhờ vào những quyết tâm đã biến nên hành động.

Chúng ta cũng vừa chứng kiến một cuộc đua, nhưng không phải để đoạt huy chương vàng trong thể thao, mà là đoạt chiếc huy chương của Tình Yêu. Những người phụ nữ đã xuất phát rất sớm, mặc dù họ đã đến nơi, nhưng họ không biết mục đích mình đến. Phêrô cũng đến nơi, ông khá hơn những người phụ nữ, ông gần chạm được chiếc huy chương, nhưng vì thiếu một chút, nên ông vẫn không chạm được. Gioan chạy đến mồ trước, mặc dù ông để cho Phêrô vào trước. Nhưng ông là người đã đoạt được chiếc huy chương của Tình Yêu. " Ông đã thấy và ông Tin." Chính vì yêu nên ông đã đạt được điều mà những người cho dù đã đến trước, đã nhìn thấy trước, nhưng vẫn không được kết quả như ông. Mọi người cũng đến, cũng nhận ra, cũng tin, nhưng chạm chạp. Họ không thể tranh giành chiếc huy chương với ông được. Chính ông đã biết vận dụng tình yêu trong cuộc sống, biết tận dụng mọi cơ hội để biểu lộ, nên ông đã đạt được chiếc huy chương của Tình Yêu thật xứng đáng.

Trong thời buổi kinh tế thị trường của ngày hôm nay, chúng ta thấy mọi người đều chạy để tranh giành chiến thắng. Nhưng có những người đã đến nơi, lại không biết mình tìm gì, vì họ không có mục đích, cũng có những người đành bỏ cuộc. Cũng có những người đạt được chiếc huy chương vàng làm vẻ vang cho cuộc sống.

Mỗi người trong chúng ta cũng đang chạy đua với cuộc sống, cho đến giờ này, đến ngày hôm nay, chúng ta đã đạt được điều gì? Chúng ta có đạt được chiếc huy chương nào chưa? Hay chúng ta vẫn chạy một cách vô vọng, chạy mà không biết mình sẽ đến đâu.

Nếu giờ nầy mỗi người trong chúng ta nhìn lại chính mình, nhìn xem kết quả của bao nhiêu năm qua, chúng ta có thể bằng lòng và yên tâm với những gì mình đã đạt được, hay chúng ta đã gần những ngày tàn của cuộc đời mà vẫn chưa tìm được điểm đến. Nhiều lần trong cuộc đời, biết bao biến cố, biết bao lời nhắc nhở, nhưng chúng ta có nhìn thấy, có tin tưởng vào Thiên Chúa để có được cuộc sống mới cho chính đáng hay không? Hôm nay lại một lần nữa, chúng vào nhà thờ, một lần nữa, chúng ta mừng Chúa Phục Sinh, để rồi tất cả mọi việc cũng đi vào quên lãng, chúng ta cũng trở về với hai bàn tay trống rỗng mà không nhận được gì, nên cuộc sống vẫn bình thường như những ngày đã qua, không có gì đỗi mới, như thế, thật là vô ích.

Mỗi người chúng ta để ra một phút suy tư về đời sống của chính mình: Chúng ta đang sống hay đã chết, mặc dù đang hít thở không khí, đang hoạt động, nhưng con người chúng ta không chút đỗi mới, không tiến hơn trong những điều tốt. Như thế mặc dù chúng ta đang sống, nhưng thật sự đã chết từ lâu. Như vậy, việc Chúa Phục Sinh, đem sự sống mới cho loài người, lại không có chúng ta trong đó sao? Chẵng lẽ, để đến giây phút quyết định, chúng ta đành bỏ cuộc vì không thể đạt đến đích điểm mà bao nhiêu người đến được. Chúng ta cũng thể với được chiếc huy chương của Tình Yêu, vì cả đời chúng ta không nhận ra được dấu chỉ của Tình Yêu. Nếu như thế thì thật phí đi cả một đời lao nhọc, mà không đạt được gì.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa, cho chúng ta nhận ra được dấu chỉ Tình Yêu Chúa trong đời sống, dấu chỉ của sự sống mới, để can đảm bước theo đến đích của sự sống mới.


ÔNG ĐÃ THẤY VÀ ĐÃ TIN
Jn. 20, 1- 9
Gp. Vĩnh Long
1. Trước cảnh mồ trống và những băng vải liệm xếp gọn đó là những dấu chỉ chứng tỏ Đức Giêsu đã phục sinh. Biến cố quan trọng này càng được củng cố khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra cho các môn đệ. Trước những dấu chỉ đó, ta thấy Maria Madalena, Phêrô và Gioan, người môn đệ được Chúa yêu quý, có cái nhìn rất khác nhau. Nếu Maria Madalena vừa thấy cảnh mồ trống, đã bàng hoàng, giải thích ngay theo suy nghĩ thông thường “người ta đã đem Chúa ra khỏi mồ ”, tức ai đó đã ăn cắp mất xác của Chúa! Còn Phêrô và Gioan sau khi được tin, chạy đến mồ đã quan sát thêm phía trong ngôi mồ, nhưng cũng có suy nghĩ rất khác nhau. Phêrô thì không hiểu gì hết (x. Lc 24,12). Còn Gioan nhạy bén hơn, “ông đã thấy và đã tin ”. Ông đã thấy gì và ông đã tin gì ?

2. Phêrô vào trước và đương nhiên trở thành chứng nhân thứ nhất, ông thấy ngôi mồ trống không, các khăn liệm được xếp gọn gàng. Thế nhưng những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô, phải chăng chỉ làm cho ông ngạc nhiên? Trái lại Gioan được trình bày ở đây như mẫu mực người môn đệ của Chúa, người môn đệ tuyệt hảo. Với trực giác của tâm hồn, trước những dấu chỉ đó, theo ông chẳng có ai “lấy đi” thi thể của Thầy như Madalena đã loan báo. Xác Thầy được những kẻ giết Thầy canh giữ cẩn mật kia mà (x. Mt 27,62-66)! Còn nếu kẻ trộm có lấy xác Thầy làm sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn thận xếp đặt gọn gàng đến thế? Chắc hẳn Gioan không quên cảnh Ladarô được Chúa cho sống lại thì các khăn, băng vải liệm quấn chặt Ladarô phải được người khác giúp tháo gỡ và để lộn xộn! Theo Gioan thì sự chết đã được sự sống tước đoạt, đánh bại, Thầy Giêsu đã sống lại. Trong ông đã hình thành một chuyển biến từ “thấy” những dấu chỉ để nhớ lại những lần Đức Giêsu đã báo trước về sự phục sinh của Người (x. Mt 16,21-23; Mt 17,22-23; Mt 20,17-19 và song song) nên hoàn toàn “tin” vào Người đã phục sinh.

3. Làm sao Gioan có thể “thấy” và “tin” được? Thưa đó là nhờ vào lòng yêu mến Chúa. Nên ông đã nhận được sứ điệp, điều Chúa muốn tỏ, qua những dấu chỉ này. Tin Mừng nhiều lần nhắc đến Gioan như là người môn đệ Chúa yêu (x. Ga 13,23; 19,26; 21,7.20) và chắc chắn ông cũng yêu mến Chúa rất nhiều. Khi hai người yêu mến nhau hết lòng, chỉ cần một vài dấu chỉ, hành động cũng có thể nhận biết trọn vẹn điều mà họ muốn tỏ cho nhau. Điều nầy chúng ta có thể dễ cảm nhận được trong cuộc sống hằng ngày nơi những người thiết nghĩa với nhau như cha, mẹ và con cái, bạn bè, vợ chồng… Madalena chỉ khi nghe tiếng gọi của Thầy mới nhận ra Thầy (x. Lc 20,16). Các môn đệ khác thấy Thầy hiện đến chúc bình an, ăn uống, mới tin Thầy sống lại. Tôma còn đòi hỏi cao hơn đó là phải thấy, phải xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy, thì mới tin. Còn Gioan, ngược lại, đã sớm nhận ra Thầy sống lại thật qua các dấu chỉ nhờ con tim, con mắt trực giác đầy yêu thương dành cho Thầy.

Do đó chúng ta mới hiểu rằng đức tin sống bởi đức mến và đức tin có tương quan chặt chẽ với đức mến. Cuộc đời Kitô hữu không thể tách rời giữa lòng yêu mến Thiên Chúa và tin tưởng vào Ngài, giữa yêu mến tha nhân là hình ảnh sống động của Thiên Chúa và việc tin tưởng vào Thiên Chúa.

4. Qua những dấu chỉ và bằng trực giác Gioan đã tin Chúa sống lại đồng thời nhờ những dấu chỉ đó, Gioan và Phêrô mới tin, hiểu lời Kinh Thánh về việc phục sinh của Người mà từ xưa Cựu ước đã tiên báo và được chính Đức Giêsu nhắc lại. Như vậy, Lời Chúa soi đường chỉ lối cho ta, nhưng đôi khi qua những biến cố trong cuộc sống giúp ta thêm hiểu Lời Chúa hơn. Vì thế, chúng ta hãy tập thói quen với cái nhìn đức tin, lấy ánh sáng Lời Chúa soi chiếu vào mỗi biến cố vui, buồn trong cuộc sống để nhờ đó ta có thể nhận ra thánh ý Chúa được thể hiện qua mỗi biến cố đó.

5. Ngày hôm nay, tuy chúng ta không được diễm phúc như Gioan, Phêrô hay các môn đệ khác được mục kích dấu chỉ ngôi mộ trống của Chúa hay những lần Chúa hiện ra, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa việc Đức Giêsu đã phục sinh. Chính Đức Giêsu Phục Sinh đã biến đổi các môn đệ của Người từ những người nhát đảm thành những chứng nhân trung thành của Người, cho dù đầu rơi, máu chảy. Các thế hệ Kitô hữu kế tiếp nhau, ngay cả chúng ta cũng được Đức Giêsu Phục Sinh biến đổi và mời gọi làm chứng cho sự thật nầy.

Biến cố phục sinh của Đức Giêsu mang ý nghĩa rất lớn : hoàn tất những lời hứa của Thiên Chúa qua Cựu ước, xác nhận Đức Giêsu là Thiên Chúa thật, Người là nguồn mạch sự sống và là sự sống lại cho chúng ta mai sau. Thế nhưng trước những lời dạy và biến cố phục sinh của Người, mỗi người chúng ta có thể có thái độ cảm nhận rất khác nhau, điều đó tuỳ thuộc vào tình yêu của ta đối với Người. Ước mong rằng, nhờ sức mạnh của Đức Giêsu phục sinh và Thánh Thần của Người soi ấm lòng chúng ta, để chúng ta có thể đón nhận cách tốt nhất niềm vui Phục Sinh và loan truyền cách hữu hiệu niềm vui ấy.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét