CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG B
Lời Chúa: Is 61, 1-2a.10-11; 1Tx
5,16-24; Ga 1, 6-8.19-28
MỤC LỤC
1. Làm chứng
2. Gioan Tiền Hô
3. Vui mừng và hy vọng
4. Hãy vui lên – Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm
5. Làm chứng về ánh sáng
6. Làm chứng về ánh sáng
7. Con tim rung nhịp với chân lý
8. Có một người ở giữa anh em – An
Phong
9. Niềm vui đang đến – Lm Lu-y Nguyễn
Quang Vinh
10. Tin mừng giải phóng – Như Hạ, OP
11. Đơn giản là như thế – G. Nguyễn Cao
Luật
12. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
13. Chứng nhân ánh sáng trung thực
14. Người làm chứng
15. Kitô hữu, bạn là ai?
16. Trút bỏ hư danh để được rót đầy ân
sủng
17. Nghề của tôi
18. Gioan
19. Những lời chứng
20. Ẩn mặt
21. Sứ giả tin mừng
22. Chứng nhân
23. Vui mừng
24. Vui mừng
25. Dấu chỉ Đấng Messia - Lm. Giuse Tạ
Duy Tuyền
26. Chú giải của Noel Quesson
1. Làm chứng
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã đưa ra
những câu hỏi để truy tìm tông tích, lý lịch, dung mạo và vai trò của Gioan
tiền hô, nhưng thực ra là truy tìm chính Đức Kitô, Đấng Cứu Thế.
Bấy giờ, mọi người ở Giêrusalem đã bị
khuấy động bởi những chuyện khác thường. Thế nhưng, những câu hỏi nêu lên lại
không đi ra ngoài những khuôn mẫu sẵn có: là Elia, là tiên tri? Và Gioan đã chỉ
có thể trả lời không. Bao lâu người ta còn loanh quanh trong những cái có sẵn,
người ta không thể nhận ra Ngài. Sự hiện diện của Ngài đã là một sự độc đáo.
Gioan đã phải vất vả để dứt cái nhìn của đám đông ra khỏi con người của ông để
hướng về chính Đấng họ đang tìm kiếm. Và Đấng ấy đang ở giữa họ, nhưng họ chưa
nhận ra. Gioan quả đã là người chứng đích thực vì ông đã không ngăn cản ánh
sáng chiếu tới họ.
Muôn ngàn những bận rộn trong ngày
chuẩn bị lễ Giáng sinh của chúng ta cũng có thể được coi là những câu hỏi về
dung mạo của Đấng chúng ta đang chờ đợi và tìm kiếm. Những cuộc vui chơi với bè
bạn. Những chiếc hang đá xinh xinh và gợi cảm. Những món quà đắt giá, những
chiếc bánh truyền thống, những bài hát thơ mộng, những ánh đèn muôn màu và rồi
những buổi lễ long trọng. Lễ Giáng sinh có thể được làm nên bởi những thứ đó,
nhưng tất cả những thứ đó được lặp lại hàng năm, có phải là giáng sinh? Có phải
đó là lễ giáng sinh của ngày hôm nay? Chúng ta chỉ có thể trả lời: Không phải
và không thể.
Bởi lẽ giáng sinh là một con người, con
người ở giữa chúng ta trước khi là một ngày lễ. Con người ấy được nhận diện
không phải bằng những lời giới thiệu, những bài giảng hay bằng các nghi lễ, mà
trước tiên bằng chính việc làm. Không phải những việc làm thuộc loại gây chấn
động trong thiên hạ, gây kin ngạc và thán phục, những việc làm ngoạn mục xuất
chúng.
Bài đọc hai đã kê khai những việc làm
của Đấng được xức dầu, tức là Đức Kitô: Loan báo Tin Mừng cho kẻ khó nghèo,
băng bó những tấm lòng tan nát, tuyên bố việc ân xá cho những bị giam cầm, ngày
phóng thích cho những tù nhân, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Và Đức Kitô
đã khẳng định: Chính Ngài là người đã thực hiện những việc làm này, và chính
Ngài cũng đã từng trả lời với những ai đang thắc mắc về Ngài: Hãy nhìn những
việc làm để nhận ra Ngài là ai. Ngài quả là Đức Kitô, vì Ngài đã làm những việc
của người đã được Thiên Chúa xức dầu. Đức Kitô đã chết và đã được tôn vinh,
nhưng Ngài vẫn hiện diện giữa con người. Theo ánh sáng của lòng tin, chúng ta
biết được Ngài hiện diện ở đâu có những nỗ lực và hành động giải phóng, đưa con
người bị vùi dập bạc đãi, bị kỳ thị, bị tước mất quyền làm người. Mỗi người
chúng ta có bổn phận phải làm chứng. Làm chứng không phải chỉ bằng lời nói mà
chủ yếu bằng việc làm. Những việc làm của chính Đức Kitô, Đấng được xức dầu.
Thế nhưng nhiều khi chúng ta chuẩn bị
mừng lễ giáng sinh bằng sự phô trương chính mình thay vì là một chứng tá sống
động về sự hiện diện của Đức Kitô, Đấng mà mọi người đang mong đợi và tìm kiếm.
2. Gioan Tiền Hô
Sống dưới ách thống trị của đế quốc
La-mã dân Do Thái luôn trông chờ một Đấng cứu thế do Thiên Chúa sai đến. Họ đã
mượn nỗi khắc khoải của cha ông thuở trước để cầu xin: Trời cao hãy đổ sương
xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng cứu đời. Chính vì thế, khi Gioan xuất hiện bên
bờ sông Giođan, họ đã phấn khởi vui mừng. Và rồi họ đã cử một phái đoàn đến để
tìm hiểu cho cặn kẽ và thấu đáo. Những người này đã hỏi Gioan: Ông là ai, ông
có phải là Đức Kitô hay không. Gioan đã xác quyết với họ: Tôi không phải là
Đấng Cứu Thế, nhưng tôi chỉ là người tiền hô, đi trước để dọn đường cho Ngài.
Hãy chuẩn bị vì Ngài sắp đến. Hãy sám hối ăn năn vì Nước Trời đã gần. Ông không
để cho người ta chú ý tới ông mà trái lại, ông hướng mọi sự chú ý của họ vào
Đức Kitô: Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Qua sứ điệp của Gioan Tiền Hô, chúng ta
rút ra hai điểm thực hành. Điểm thứ nhất đó là hãy sám hối, cải thiện đời sống.
Thực vậy, Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm giáng sinh, mà hơn thế
nữa Ngài còn đến với chúng ta vào ngày tận cùng của vũ trụ, cũng như vào ngày
sau hết của cuộc đời chúng ta. Và hơn thế nữa, Ngài còn đến với chúng ta mỗi
ngày qua bí tích Thánh Thể. Như thế cuộc đời chúng ta phải là một mùa vọng nối
dài. Và trong mùa vọng cuộc đời này chúng ta phải thực hiện ngay sứ điệp của
Gioan Tiền Hô, đó là hãy sám hối, dọn đường Chúa đến. Sám hối ở đây không phải
chỉ là hối tiếc về những tội đã phạm mà hơn thế nữa còn phải cố gắng uốn nắn
sửa đổi để nhờ đó thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Điểm thứ hai, đó là hãy trở nên những
tiền hô cho Chúa. Thực vậy, là người Kitô hữu, chúng ta không phải chỉ có Chúa
trong tâm hồn, mà hơn thế nữa, còn phải đem Chúa đến cho người khác. Dọn đường
cho Chúa đến trong tâm hồn của mình mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải dọn
đường để Chúa cũng đến được trong tâm hồn người khác. Muốn được như thế, chúng
ta cần phải có một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương, nhờ
đó mà dần dần chúng ta có thể cảm hoá được những người chung quanh và dẫn đưa
họ trở về cùng Chúa.
Dọn đường Chúa đến trong tâm hồn mình
và giúp người khác dọn đường Chúa đến trong tâm hồn họ đó là việc chúng ta cần
phải làm ngay trong mùa vọng này.
3. Vui mừng và hy vọng.
(Trích trong 'Tin Vui Xuân Lộc")
Hôm nay bước vào tuần thứ ba mùa vọng,
Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy vui mừng và hy vọng, lời mời gọi này có thừa
không khi, nhìn từ bên ngoài xã hội chúng ta đang sống đã có qua nhiều các hình
thức và tụ điểm vui chơi, phương tiện giải trí? Mọi người mọi tầng lớp đều có
những điểm gọi là "điểm vui chơi". Người có nhiều tiền thì vui chơi
theo kiểu cao cấp quý tộc, người bình dân vui chơi theo kiểu bình dân, người
lớn vui chơi theo kiểu của người lớn, trẻ em và thanh niên vui chơi theo kiểu
thanh thiếu niên, ví dụ quán bar, quán bia, caraoke, caphe... là nơi người ta
đến để giải sầu, tìm vui, nghèo hơn nữa thì vài lít rượu với mấy quả ổi, con
mực cũng được gọi là lai rai cho vui. Vui cũng uống, buồn cũng uống và không
buồn không vui cũng uống. Bên cạnh đó, người ta còn tạo ra đủ mọi thứ lể hội để
đem niềm vui cho mọi người
Thưa quý OBACE, như vậy, cuộc sống và
xã hội này có thực sự đem đến cho chúng ta niềm vui hay không, nếu thực sự có,
thì tại sao khi trở về nhà, họ lại cảm thấy buồn bã và trống rỗng, và họ vẫn cứ
phải tìm kiếm một nơi nào đó để vui, để giải sầu mà càng "uống chén tiêu
sầu càng sầu thêm"!
Thế giới chúng ta đang sống là một thế
giới vô thần, là một thế giới người ta đang muốn loại trừ Thiên Chúa ra khỏi xã
hội và khỏi tâm hồn con người, mà một thế giới, một tâm hồn không có Thiên Chúa
là một thế giới bất an, một thế giới lo âu khắc khoải không niềm vui. Nơi nào,
tâm hồn nào không có Thiên Chúa thì nơi ây, tâm hồn ấy chỉ còn là hỏa ngục,
buồn bã và thất vọng, và không có gì ở thế gian này có thể đem lại niềm vui cho
những tâm hồn ấy được.
Lời Chúa hôm nay đem đến và mời gọi
chúng ta hãy tận hưởng một niềm vui và hy vọng hoàn toàn khác với các niềm vui
trống rỗng của thế gian, đây là niềm vui thực sự phát xuất từ trong tâm hồn
được thể hiện ra bên ngoài qua nét mặt qua cuộc sống, đó là niềm vui có Chúa và
niềm vui của Chúa.
Niềm vui ấy trước hết là niềm vui được
giải thoát, được đổi mới. Tiên tri Isaia đã mở ra cho chúng ta một tương lai hy
vọng, như ánh sáng bừng lên trong bóng tối, vì thời của Đấng Cứu thế đến, Ngài
không chỉ chữa lành những đau đớn bệnh tật thể xác, mà Ngài còn chữa lành những
bênh tật trong tâm hồn và lấp đầy những khát vọng buồn chán trong tâm hồn con
người, Ngài giải thoát con người khỏi nô lệ của tội lỗi, sự tù đày của dục
vọng: Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, Ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đem Tin
Mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương dập nát, giải phóng
cho kẻ bị giam cầm, tuyên bố năm hồng ân của Thiên Chúa. Niềm vui Đấng cứu thế
còn là niềm vui của hy vọng và hân hoan, như niềm vui của cô dâu và chú rể, và
như niềm vui của đất đai đâm chồi nảy lộc, niềm vui vì được đổi mới. Niềm vui
này con người thế gian không thể mang lại, chỉ có Thiên chúa mới có thể đem đến
cho chúng ta.
Kế đến đó là niềm vui trong cầu nguyện
gặp gỡ Thiên Chúa. Sự trống rỗng hời hợt của nhiều người và kể cả của nhiều
Kitô hữu hôm nay đó là vì họ không có Chúa trong tâm hồn, bởi vì họ để mình bị
cuốn trôi theo dòng chảy của xã hội của cơm áo gạo tiền, bởi những thú vui bên
ngòai, họ sống một cách hời hợt không chiều sâu, không mục đích. Trong khi đó
Thánh Phaolô khuyên tín hữu Thesalônica: Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện
không ngừng. Hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh... đừng dập tắt Thần khí, chớ
khinh thường ơn nói tiên tri, hãy cân nhắc mọi sự điều gì tốt thì giữ và điều
xấu dưới bất cứ hình thức nào thì tránh cho xa. Khi sống như thế, Thánh Phaolô
khẳng định thiên Chúa là nguồn mạch niềm vui và bình an sẽ gìn giữ anh em.
Bài Tin mừng giới thệu cho chúng ta một
niềm vui khác, đó là niềm vui vì nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc
đời mình. Gioan Tiên Hô là người đã có kinh nghiệm này. Lúc bắt đầu sứ mạng rao
giảng, Gioan đã rất thành công vì ông đã thu hút được rất nhiều người, mọi
người kính trọng và đến với ông, thậm chí ông còn trở thành một dấu hỏi lớn đối
với họ. Vì thế Những người Do Thái đã cử một số thày Tư tế và Lêvi đến hỏi
Gioan: Ông là ai? Ông có phải là đấng Cứu thế không? Gioan mặc dù đang rất
thành công, nhưng ông không nhận điều không có về cho mình, mà ông đã rõ ràng
dứt khoát từ chối: Tôi không phải là Đấng Kitô, Tôi không là Elia mà ông chỉ
nhận mình: Tôi là tiếng kêu trong hoang địa, hảy sửa đường cho thẳng để Đức
Chúa đi. Tức là Gioan vui với sứ mạng của mình là người dọn đương cho Đấng cứu
thế, Đấng ây ông biết rất rõ Ngài đang ở giữa các ngươi mà các ngươi không
biết, còn Gioan đã biết và đã nhận ra Ngài và còn nhận ra uy quyền tối cao của
Ngài, mà ông khiêm tốn cho rằng mình không đáng cúi xuống cởi dây dép cho Ngài.
Gioan không buồn vì mình phải lui bước,
cũng không sợ mất ảnh hưởng, không níu kéo vinh quang uy tín về cho mình, trái
lại ông vui vì ông đã chu tòan sứ mạng, ông ý thức rằng ông phải nhỏ đi để
Người được lớn lên; ông đến để làm chứng về ánh sánh để mọi người nhờ ông mà
tin, chứ ông không phải là ánh sáng, và mọi người, để đón nhận được niềm vui từ
Đấng Cứu Thế cần có một thái độ tiên quyết đó là có lòng sám hối, thay đổi đời
sống, được biểu lộ ra bên ngoài bằng việc lãnh phép rửa mà ông đang thực hiện,
phép rửa của ông chì là một dấu hiệu bày tỏ lòng sám hối, vì ông biết việc ông
làm không có sức tha tội, chỉ có Đấng đến sau ông sẽ tẩy rửa tôi lỗi nhân loại
bằng Thánh Thần, và ai chấp nhận để cho Thiên Chúa tẩy rửa và uốn nắn, người ấy
sẽ có được niềm vui, hoặc đúng hơn chính Đấng ấy sẽ ban tặng cho họ niềm vui vì
được làm con cái Chúa.
Thưa quý OBACE, chúng ta đang vui hay
chúng ta đang buồn? Chúng ta có thực sự cảm nhận được niềm vui Chúa đem đến cho
chúng ta hay không? Ngoài đường phố đã rộn ràng những bài thánh ca, những trang
trí giáng sinh, ở trong siêu thị và các nhà hàng cũng tưng bừng với các chương
trình cho mùa Giáng sinh mà họ gọi là mùa Noel. Vâng! Có thể người kitô hữu
chúng ta cũng sẽ chỉ vui một cách hời hợt ở bên ngoài, nếu chúng ta chỉ chú ý
đến những trang trí bên ngoài mà không chuẩn bị để có được niềm vui đón Chúa
đến trong tâm hồn. Nhiều người nhiều gia đình lo chuẩn bị những chương trình,
đi chơi hay ăn uống trong đêm Giáng sinh sắp tới mà không chuẩn bị cho Chúa có
một chổ nhỏ ấm áp trong tâm hồn trong gia đình mình.
Khi chúng ta đã để cho bao thứ lo toan
ràng buộc trong cuộc sống chiếm hết thời gian và tâm hồn khiến cà ngày sống
chúng ta cứ cảm thấy mình trống rỗng và lao vào tìm kiếm mà không biết mình tìm
kiếm điều gì. Chúng ta sẽ không thể nào vui khi chúng ta không dám để cho Chúa
gỡ bỏ những gánh năng của cuộc đời, không dám để cho Chúa chia sẻ với nhữ lo
toan nhọc nhằn của chúng ta như Chúa hằng mong muốn: Hãy đến với ta hỡi những
ai vất vả nặng nề- ta sẽ nâng đỡ bổ sứ cho.
Chúng ta sẽ không vui và sẽ cảm thấy
trống rỗng khi chúng ta không dám dừng lại, khi không dám sống trong sự thinh
lặng, vì chúng ta sợ phải đối diện với chính mình và đối diện với Thiên Chúa;
Chúng ta sẽ không thể vui khi trong lòng còn những bận vướng với anh em. Chúng
ta sẽ không thể cảm nhận được niềm vui và hy vọng khi chúng chúng ta không có
giờ cho việc cầu nguyện gặp gỡ Thiên chúa, cầu nguyên riêng tư một mình với
Chúa, hoặc cầu nguyện chung trong gia đình, hay khi chúng ta cùng họp nhau nơi
đây để cử hành thánh lễ, chính là lúc chúng ta được gặp Chúa, được lấp đầy
những khoảng trống trong tâm hồn và tìm được niềm vui sâu xa.
Sau cùng, chúng ta chỉ thực sư vui khi
chúng ta sống và làm việc trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn
hiện diện trong cuộc đời chúng ta, ở bên chúng ta, trong Bí tich Thánh Thể, nơi
những người anh em, có điều là chúng ta có nhận ra sự hiện diện yêu thương nâng
đỡ của Ngài hay không? Chỉ khi nhận ra và làm việc trong sự hiện diện của Ngài
chúng ta sẽ tìm được niềm vui và bình an. Điều cũng cần lưu ý, là Thiên Chúa
chỉ hiện diện trong một tâm hồn sạch tội, một tâm hồn khiêm nhường hối cải, một
tâm hồn không chất chứa sư thù oán ghen tị giận hờn... khi thực lòng thanh tẩy
và sửa chữa những sai lầm nhờ Bí tích giải tội, ơn tha thứ sẽ được ban cho
chúng ta và chắc chắn mỗi người sẽ cảm nhận được niềm vui và sự bình an vì biết
mình được yêu thương tha thứ.
Xin cho mỗi người không chỉ chuẩn bị
bên ngoài cho ngày lễ Giáng sinh, mà còn biết chuẩn bị tâm hồn để niềm vui và
ân phúc của mủa Giáng sinh được trọn vẹn nơi mỗi người. Amen.
4. Hãy vui lên – Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm
Theo truyền thống dân tộc Do Thái, năm
đại xá của Đức Chúa, là năm đại phúc cho người nghèo, cho người bị tù đầy. Năm
đó, có nợ ai bao nhiêu, cũng được xóa; có đang bị ở tù, cũng được trả tự do.
Đức Yêsu là Đấng đến để công bố năm toàn xá cho toàn thể nhân loại. Vì thế, hãy
vui lên, hỡi nhân trần.
1. Tin Mừng Cho Người Nghèo
Con người sống trên trần gian này cảm
nghiệm bao nhiêu nỗi khổ: nỗi khổ vật chất và tinh thần. Ai càng coi trọng tiền
bạc và vật chất, càng cảm thấy khổ nhiều. Tuy nhiên, đôi khi người nghèo không
cảm thấy khổ, mà những người đặt nặng giá trị vật chất lại cho rằng họ khổ.
Người nghèo cũng có niềm vui riêng của
họ, trời xanh, khí mát trong lành, đất trời đẹp tuyệt vời và vô tận. Tuy vậy,
nếu người nghèo không thanh thoát vượt lên được cái bình thường, thì cái nghèo,
và đặc biệt là tình trạng bần cùng, ảnh hưởng thê thảm trên con người. Nàng
Kiều bán mình chuộc cha cung là một thí dụ. Và từ cái khổ này dẫn tới cái khổ
khác; đến độ người ta thấy "đời là bể khổ." Nghèo, tù, tội, là những
điều gây cho bao người đau khổ dằn vặt.
Hôm nay, tin mừng đã được công bố:
"Thần Khí Chúa ngự trên tôi vì Đức Chúa đã xức dầu cho tôi. Ngài sai tôi
đem tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn tan vỡ, loan báo ơn
giải thoát cho những kẻ bị bắt, tự do cho kẻ tù đày, và loan báo năm hồng ân
của Thiên Chúa." Chính Thiên Chúa giải phóng con người, cho con người tìm
được sự giải phóng, tự do, niềm vui và hạnh phúc.
2. Đấng Đến Sau Tôi
Cái nghèo vẫn còn tiếp tục. Cái nghèo
như gắn chặt với cuộc đời của một số người như hình với bóng. Con người vẫn
khổ, vẫn miệt mài đi tìm miếng cơm manh áo. Những người đã có miếng cơm áo thì
lại muốn có nhiều hơn nữa. Con người vẫn không thoát khỏi cảnh khổ. Nỗi khổ do
nghèo vật chất dường như giúp con người thấy nỗi khổ của nghèo tinh thần. Dường
như khổ vật chất không làm con người khổ, mà nghèo tinh thần làm con người khổ.
Yoan Tẩy Giả sống đơn sơ trong cảnh
nghèo. Ngài như một lời chứng cho nỗi khổ vì nghèo tinh thần, vì không thấy
được ánh sáng sự thật, chứ không phải vì nghèo vật chất. Hơn nữa, Yoan Tẩy Giả
còn làm chứng cho một Đấng khác nữa: "Đấng đến sau tôi, quyền năng hơn
tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Tôi làm phép rửa cho anh em bằng
nước, nhưng Đấng đó sẽ làm phép rửa cho anh em với Thánh Thần và lửa."
Đấng đó là Đấng mà mọi người phải mong chờ, cho dù lúc đó người ta và cả Yoan
Tẩy Giả cũng chưa biết người đó là ai.
Đức Yêsu như tất cả mọi người đã sống
cái nghèo đến tận cùng: sinh trong hang chiên cừu, ăn uống mặc như người nghèo,
làm nghề của những người nghèo, ngay cả khi đi rao giảng vẫn nghèo, có lúc đi
tìm trái vả ăn cho đỡ đói cũng không có (Mt.21, 18-19). Tuy vậy, Đức Yêsu là
người làm trọn lời tiên tri trong sách Isaya, Ngài công bố năm hồng ân của
Thiên Chúa, Ngài tới để làm cho người mù được thấy, người tù được trả tự do,
băng bó những tâm hồn tan vỡ. Đức Yêsu mang lại cho người ta thấu hiểu sự thật,
và sự thật sẽ giải phóng con người khỏi mọi phiền não, tù tội ràng buộc tinh
thần. Ngài giúp con người vươn lên, vươn lên tới Thiên Chúa là đỉnh bình an
hạnh phúc. Hãy vui lên vì với Đức Yêsu, chúng ta biết con đường giải thoát và
hạnh phúc đích thực.
3. Hãy Vui Mọi Lúc
Như một người đã được giải phóng, thánh
Phaolô viết cho dân thành Thessalônica: "hãy vui hạnh phúc mọi lúc."
Một người rao giảng tin mừng Đức Yêsu phục sinh, luôn bị phản đối, rượt đuổi và
bắt bớ, mà khuyên người ta hãy sống vui và hạnh phúc được sao? Nếu đúng, người
đó phải sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh, trong mọi thời điểm.
Tại sao Phaolô lại được như vậy? Vì
Ngài đã đạt đạo, đã chọn Thiên Chúa trên hết, đã chấp nhận Đức Yêsu như lý
tưởng và Chúa của mình. Ngài đã thấy được trần gian chóng qua, chỉ có thực tại
bền vững là chính Thiên Chúa, và cũng là bình an và hạnh phúc của Ngài. Với
quan niệm sống và chọn lựa như vậy, Ngài sống vui và hạnh phúc trong mọi hoàn
cảnh, trong mọi thời điểm.
Chỉ khi nào con người chọn Thiên Chúa
trên hết, phó thác tất cả cho Thiên Chúa, thì con người mới sống chấp nhận thực
tại và thanh thản trước mọi biến cố và nghịch cảnh. Thiên Chúa đang thực hiện
việc giải phóng con người qua Đức Yêsu, qua việc cho con người thấy cách sống
giúp con người bình an hạnh phúc. Cách sống đó chính là cách sống của Đức Yêsu.
Đức Yêsu cũng không được miễn trừ khỏi bao cám dỗ, nhưng Ngài đã vượt qua và
vẫn trông cậy vào Thiên Chúa ngay cả khi không thấy dấu chỉ cho thấy như vậy.
Biến cố Đức Yêsu kêu trời "lạy Cha, lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con" là
một bằng chứng. Ngay cả như vậy, chúng ta tin rằng, Ngài vẫn bình an và phó
thác.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. "Hãy bình an hạnh phúc mọi
lúc." Liệu điều này có thể xảy ra không?
2. Làm sao để có thể bình an hạnh phúc
trong mọi nơi mọi lúc?
3. Bạn có thể gặp được Đức Yêsu không?
Xin đưa lý lẽ cho câu trả lời của bạn?
5. Làm chứng về ánh sáng
(Suy niệm của Lm. Luigi Gonzaga Đặng
Quang Tiến)
Tin mừng chúa nhật nầy gồm hai đoạn
1:6-8 và 1:19-28 thuộc 2 văn mạch khác nhau, tuy nhiên đều nói về Gioan, là
chứng nhân của Chúa Giêsu Kitô. Đoạn 1:6-8 nằm trong văn mạch của 1:1-13, nói
về Ngôi Lời là ánh sáng (1:1-5) và Ngôi Lời đã đi vào lịch sử (1:6-13). Đoạn
1:19-28 nói về Gioan và công việc của ông.
Trong tin mừng Gioan, làm chứng là sứ
mạng chính của Gioan, không phải là làm phép rửa (1:7[2].8.15.19.32). Để làm
chứng, Gioan phải là một con người và được Thiên Chúa sai đến (c.6). Là con
người, để Gioan có thể nói cho con người điều ông đã thấy và đã tin. "Được
Thiên Chúa sai đến", vì sứ mạng của ông là làm chứng cho Con Thiên Chúa
(3:27). Bởi đó, Gioan không làm chứng cho một điều, mà cho một người. Mục đích
của Gioan là làm cho mọi người tin vào Chúa Giêsu (c.7), để họ được làm con
Thiên Chúa (1:12) và không còn thuộc về bóng tối nữa (1:5; 11:10; 12:35).
Chúa Giêsu là ánh sáng của trần gian
(1:4; 9:5; 11:9; 12:35.36.46). Ánh sáng ấy là sự sống (1:4;8:12[2x]) và cũng là
sự thật (1:9; 3:21). Gioan làm chứng cho ánh sáng, có nghĩa là làm chứng cho
một sự sống Chúa Giêsu đang mang đến (1:15-16; 6:41.48.51) và một sự thật: Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa (1:32.35; 5:33). Đón nhận chứng từ của Gioan, nghĩa là
tin Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, là sự thật và sự sống (14:6) để được trở nên
con cái Thiên Chúa (1:12). Khước từ chứng từ của Gioan là khước từ Chúa Giêsu
và tiếp tục sống trong bóng tối (1:5; 8:12).
Gioan là chứng nhân, không phải là ánh
sáng (1:8). Bởi đó, Gioan từ chối nhận mình là Đấng Kitô hay là Êlia. Ông nhận
mình không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng đang đến. Thành ngữ egò ouk eimi
"Tôi không là" mà Gioan dùng cho mình (c.20.21.27; 3:28) đối nghịch
với egò eimi "Tôi là", được dùng độc nhất cho Chúa Giêsu: "Tôi
là tôi" (4:26; 6:20; 13:19; 18:5.6.8), "Tôi là bánh ban sự sống"
(6:41.48.51), "Tôi là ánh sáng trần gian" (8:12; 9:5), "Tôi
là..." (10:9.11.14; 11:25; 14:6; 15:1.5; 18:37). Chính cách nói nầy cho
thấy Chúa Giêsu, là ánh sáng, ngày mỗi tỏa sáng lên, còn Gioan, như là chứng
nhân của ánh sáng, ngày mỗi tan biến dần (3:30). Gioan giới thiệu Chúa Giêsu
cho hai môn đệ của mình, và họ đã trở thành môn đệ của Chúa Giêsu (1:35-42),
dân chúng đến với Chúa Giêsu thay vì đến với Gioan (3:26) và cuối cùng chết âm
thầm trong ngục tối (3:24). Gioan, một chứng nhân chân thật và khiêm tốn vô hạn
(10:41).
Gioan không là chứng nhân duy nhất của
Chúa Giêsu. Chúa Cha (5:32.37; 8:18), Kinh Thánh (5:39), công việc của Chúa
Giêsu (5:36; 10:25), chính Chúa Giêsu (8:14.18), Thánh Linh (15:26) và các môn
đệ (15:27) tất cả đều làm chứng một điều: Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Đến
trần gian, Chúa Giêsu cần chứng nhân, vì không dễ tin Người là Con Thiên Chúa.
Nếu tin, sẽ được làm con cái của Thiên Chúa. Nếu được làm con cái của Thiên
Chúa, tất phải sống như con cái của Người.
6. Làm chứng về ánh sáng.
Gioan: Không phải là ánh sáng
Trong đoạn mở đầu Phúc Âm, Thánh Gioan
Thánh sử đã nói về Đức Kitô, Người là Thiên Chúa, là Nguồn Sáng, là Ánh Sáng
đến trần gian.
"Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh
sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người."(Ga.1,9).
Khi người Do-thái từ Giê-ru-sa-lem cử
một số tư tế và mấy Thầy Lê-vi đến hỏi Gioan Tẩy giả: "Ông là ai?"
Ông tuyên bố thẳng thắn: "Tôi không phải là Đấng Kitô." Đúng như lời
thánh Gioan Thánh sử đã viết về Gioan Tẩy Giả: "Có một người được Thiên
Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để
mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm
chứng về ánh sáng." (Ga.1,6-7).
Gioan Tẩy Giả xuất hiện trong bối cảnh
người Do Thái đang trông chờ một Vị Cứu Tinh cho dân tộc, người sẽ khôi phục Israel
và đem về cho Israel một thuở huy hoàng nay đã mất dưới gót giầy đè bẹp của đế
quốc La Mã.
Giấc mơ ấy hạn hẹp trong ý tưởng con
người, vì Vị Cứu Tinh sẽ đến không phải để phục hồi lại những gì đã tổn thương
trong Israel, mà tái tạo lại một "trời mới đất mới" cho cả vũ hoàn.
Vị Cứu Tinh ấy là Chúa Kitô, ánh sáng
cho trần gian.
"Ánh sáng chiếu soi trong bóng
tối, và bóng tối sẽ không diệt được ánh sáng". (Ga.1,5).
Gioan Tẩy Giả xuất hiện để "làm
chứng" cho Chúa Kitô, làm chứng về ánh sáng.
Gioan: Làm chứng về ánh sáng
Ánh sáng ở đây là chính Thiên Chúa –
"Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta".
"Người ở giữa thế gian, và thế
gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người". ( Ga 1,10).
Và Gioan Tẩy Giả mang sứ mạng làm cho
mọi người nhận biết Người - nhận biết Đức Kitô - nhận biết Ánh Sáng.
"Có một vị đang ở giữa các ông mà
các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho
Người." (Ga.1,17).
Gioan Tẩy giả dành trọn cuộc đời mình
chỉ với một mục đích trung thành với lời tuyên bố: "Đây là Chiên Thiên
Chúa, đây Đấng xóa bỏ tội trần gian." (Ga.1,29-34).
Ý nghĩa cuộc đời: Ánh Sáng Chúa Kitô
Đức Giêsu lại nói với người Do-thái:
"Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối,
nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống" (Ga.8,12).
Gioan Tẩy Giả đã sống một cuộc đời có ý
nghĩa, hoàn thành sứ mạng của mình trong ánh sáng chân lý.
Không ai thuộc về bóng tối lại có thể
làm chứng về ánh sáng!
Chỉ trong ánh sáng Chúa Kitô, con người
mới nhận ra giá trị đích thực của chính mình, vị trí của chính mình. Trong ánh
sáng Chúa Kitô, Gioan nhận ra mình bé nhỏ.
Trong bóng tối, con người ngủ mê trong
ảo ảnh. Con người hiểu biết được bao nhiêu và làm được điều gì lớn lao đến thế
nào để có thể kiêu căng đến mức muốn thay thế Thiên Chúa?
Một cách nào đó, nhiều người tự xem
mình như Đấng Cứu Thế. Nhiều kẻ muốn thay thế Lời Chúa bằng những "giáo
điều" triết học và ý thức hệ chính trị nghe rất hấp dẫn và thu hút được
nhiều người. Thực tế, những dòng tư tưởng đó đã đem thế giới đến chỗ tan nát vì
chia rẻ và thù hận.
"Sẽ có nhiều người mạo danh Thầy
đến nói rằng: 'Chính ta đây', và: 'Thời kỳ đã đến gần'" (Lc 21: 8).
Với Niềm tin Kitô hữu, đời ta chỉ có
một mục đích duy nhất là "làm chứng về ánh sáng".
Gioan Tẩy Giả là tấm gương để tiến
bước. Hoặc là sống trong ánh sáng, hoặc là sống trong tăm tối, phải chọn một,
và chỉ chọn một, không có sự chọn lựa nào khác.
Quê tôi là một xóm làng dân cư đông
đúc, khi cúp điện, cả ngàn hộ dân chìm trong tăm tối, thôn xóm đông người mà
vắng lặng đến đáng sợ. Khi có điện trở lại, nghe vang lên những tiếng reo hò
vui sướng: "Có điện rồi! Có điện rồi!". Tiếng em bé reo vui, tiếng
người cười cười nói nói, tiếng nhạc, tiếng TV... vang lên đó đây, xóm làng vui
tươi, nhộn nhịp hẳn lên...
Không ai có tìm thấy hạnh phúc trong
vùng tăm tối. Người từ chối ánh sáng là người đã hoàn toàn mất đi niềm hy vọng
và sống một cuộc sống buông xuôi vô nghĩa.
Hạnh phúc là được tìm về ánh sáng. Mang
hạnh phúc đến cho người khác là thắp lên cho họ ánh sáng hy vọng.
Một ngày kia Mẹ Têrêsa Calcutta đến Melbourne , Australia .
Mẹ đi thăm một người nghèo không ai biết đến. Ông sống trong một căn phòng rất
tồi tệ, đồ đạc dơ bẩn ngổn ngang. Phòng không có cửa sổ mà cũng chẳng có lấy
một bóng đèn.
Mẹ Têrêsa bắt tay vào thu dọn đồ đạc.
Ông gắt lên: "Cứ để yên mọi thứ cho tôi". Nhưng Mẹ cứ tiếp tục. Sau
khi mọi thứ đã ngăn nắp, Mẹ Têrêxa tìm thấy một chiếc đèn trong một góc phòng.
Đèn bám đầy bụi, chứng tỏ lâu lắm rồi không ai đụng đến. Mẹ lau chùi sạch sẽ
rồi hỏi:
- Sao lâu nay ông không thắp đèn lên?
- Thắp làm chi. Có ai đến thăm tôi đâu.
Tôi đâu cần thấy mặt ai.
- Thế ông có hứa sẽ thắp đèn lên khi
một nữ tu của tôi đến thăm ông không?
- Vâng, nếu tôi nghe có tiếng ai đến
thì tôi sẽ thắp đèn lên.
Từ đó, mỗi ngày, hai nữ tu của Mẹ Têrêxa
đều đến thăm ông và giúp đỡ ông. Một hôm ông nói với một trong hai nữ tu ấy:
- Bây giờ tự tôi đã biết thu dọn phòng
tôi rồi. Nhưng xin làm ơn về nói với nữ tu đầu tiên rằng ngọn đèn mà Bà đã thắp
lên đến nay vẫn sáng.
Hãy thắp lên Ánh sáng Tình Yêu Thiên
Chúa – Ánh sáng Chúa Kitô – Ánh sáng Lời Chúa – Ánh sáng Giới luật yêu thương.
Thế giới chỉ có thể tồn tại trong ánh
sáng tình yêu – "Ánh sáng đem lại sự sống". Có thể nào Thế giới tìm
thấy bình an và hạnh phúc trong thế giới tối tăm sao?
Lạy Chúa,
Xin thắp lên trong con,
ánh sáng Tình Yêu Chúa,
để từ tận thẳm sâu lòng con,
biết nói lên và thực hiện,
Những điều Chân Thiện.
Đó là lúc con biết
làm chứng về ánh sáng,
Ý nghĩa của đời con. Amen.
7. Con tim rung nhịp với chân lý
(Suy niệm của Thomas Nguyễn Văn Hiệp)
Tiếp nối hai bài suy niệm "Đừng Vô
Cảm" và "Tỉnh Thức Con Tim" của hai chúa nhật I & II mùa
vọng, hôm nay chúa nhật III mùa vọng, xin được chia sẻ đề tài: con tim rung
nhịp với chân lý.
Mấy ngày gần đây, video clip về sự thờ
ơ của người qua đường đối với cô gái bị đâm 28 nhát dao đang tạo sự quan tâm
của dân cư mạng và gây xôn xao dư luận Trung Quốc. Đoạn video có tên
"Ngang nhiên giết người trên phố" đã được phát tán với tốc độ chóng
mặt trên các mạng xã hội Trung Quốc. Video này cho thấy, vào lúc 9h sáng ngày
30/11, một người đàn ông chừng 25 tuổi đã xông vào tấn công một cô gái qua
đường. Hắn ta giật, lôi và giằng lấy giỏ xách của cô gái. Cô gái đã gắng sức
giữ chặt giỏ của mình. Sau gần 10 giây giằng co, người đàn ông hung hãn đã rút
dao trong người đâm tới tấp cô gái 4 nhát liền, khiến cô ngã lăn ra đất. Ngay
khi đó có hai người qua đường (có lẽ là 2 người đàn ông) đứng yên gần bên quan
sát sự việc; ở len đường bên cạnh có ít nhất 1 chiếc taxi và 2 chiếc môtô tấp
vào lề (chắc là vì tò mò); cách đó không xa là một nhóm người rất đông (có lẽ
đi ra từ khách sạn). Chẳng ai có một phản ứng gì! Người đàn ông say máu cuồng
lên, hắn tiếp tục dùng dao đâm cô gái thêm mấy nhát nữa. Nạn nhân dồn chút sức
tàn gượng dậy kêu cứu, nhưng hai người đàn ông qua đường vẫn thản nhiên không
hề can thiệp hay báo cảnh sát mà lẳng lặng rời khỏi hiện trường. Kẻ côn đồ tiếp
tục đâm cô gái mười mấy nhát nữa cho đến khi cô nằm im trên vũng máu. Sau cùng,
hắn dùng chân đạp hơn 10 cái trên thi thể nạn nhân bê bết máu rồi lạnh lùng bỏ
đi.
Vụ án mạng được xác định xảy ra ở huyện
Hoài Nhơn, tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Vụ giết người dã man đã khiến cư dân mạng
đã vô cùng kinh ngạc về hành động gian ác mất tính người của hung thủ và thương
xót cho cô gái xấu số. Được biết nạn nhân đã tử vong sau khi đưa tới bệnh viện
do mất quá nhiều máu. Họ cũng bày tỏ sự phẫn nộ với thái độ dửng dưng và bàng
quan của những người qua đường không ai chịu ra tay can ngăn hay báo cảnh sát.
Cho dù địa điểm xảy ra án mạng cách đồn cảnh sát không xa, nhưng hơn 10 phút
sau vẫn không thấy cảnh sát đâu cả. Nhiều người cho rằng hành động của người
đàn ông khiến người ta ghê tởm. Nhưng sự thờ ơ, lạnh lùng, vô cảm của những
người qua đường thấy chết mà không cứu giúp còn tàn nhẫn hơn!
Xem đoạn video clip xong, người viết
bỗng nhớ đến bộ phim tài liệu "Chuyện Tử Tế" vang tiếng một thời của
đạo diễn – NSND Trần Văn Thủy. Bộ phim được bấm máy năm 1985, bị cấm chiếu
trong nước, nhưng lại gây tiếng vang ở nước ngoài. Bộ phim đoạt giải Bồ câu bạc
Liên hoan phim Quốc tế Leipzig, được báo chí nước ngoài ví như "Quả bom
đến từ Việt Nam nổ tung ở thành phố Leipzig" (Đức), được nhiều đài truyền
hình nổi tiếng mua bản quyền phát sóng, được lọt trong top 10 bộ phim tài liệu
hay nhất được thế giới bình chọn năm 1992.
Có lẽ vì biết trước số phận "long
đong" của "Chuyện Tử Tế" trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam 1985 mà
Trần Văn Thủy đã dán tấm bùa hộ mệnh ở đầu và kết cho bộ phim là câu nói của
Karl Marx: "... Tất nhiên, chỉ có loài súc vật mới có thể quay lưng lại
nỗi đau khổ của con người, và chăm lo riêng cho bộ da của mình ...".
"Chuyện Tử Tế" được liền mạch
bởi những câu hỏi mang tính nhân sinh: thế nào là Nhân dân? Là Vĩ đại? là Hạnh
phúc? Là Tử tế? ... Nhưng tất cả được gói gém trong lời mời gọi: "Hãy sống
tử tế với nhau". Nhưng đâu là nền tảng, là cội nguồn để con người sống tử
tế? Dường như chính đời sống tận hiến phục vụ vô vị lợi của các Soeurs tại trại
phong Quy Hòa (Quy Nhơn) là đáp án cho vấn nạn. Xin được lược ghi lại lời thoại
và lời bình trong phim:
Khởi đi từ lời của cô gái: "Ăn ở
với nhau tử tế là lẽ thường, là niềm an ủi của người đời. Chỉ có đồ hủi mới ăn
ở với nhau chẳng ra gì!".
Lời cô gái như là cái cớ để đoàn làm
phim đi đến Trại phong ở Quy Hòa. Tại đây, họ gặp mặt đông đảo các thầy thuốc
và đặt câu hỏi:
- Thưa các thầy thuốc, ở đây ai là
người tận tâm chạy chữa, chia sẻ với người hủi?
- Các bà soeurs! Chuyện đó phải kể đến
các bà soeurs.
Các thầy thuốc, trong đó có các thầy
thuốc từ khi rời ghế trường Y, cho đến bây giờ đã hai thứ tóc, làm việc ở các
trại hủi, đều trả lời như vậy ...
Những người làm phim hỏi: -Thưa, đâu là
nơi bắt đầu để các soeurs yên tâm, tận tụy phục vụ người mắc bệnh hủi?
- Dạ, chỗ bắt đầu của chúng tôi và đồng
nghiệp là lòng Tin.
Vâng! Nếu không có lòng tin thì con
người không thể sống với con người được. Con người đã từ lòng tin thần thánh,
lòng tin tôn giáo mà đến với lòng tin có chứng cứ, tin vào những cái đích thật.
Người biên tập bộ phim này cho biết:
"Từ rất xa xưa, cha bác có dạy rằng tử tế có trong mỗi con người, mỗi nhà,
mỗi dòng họ, mỗi dân tộc. Hãy bền bỉ đánh thức nó, đặt nó lên bàn thờ tổ tiên
hay trên lễ đài của quốc gia. Bởi thiếu nó, một cộng đồng dù có nổ lực tột bậc
và chí hướng cao xa đến mấy thì cũng chỉ là những điều vớ vẩn. Hãy hướng con
trẻ và cả người lớn đầu tiên vào việc học làm người - người tử tế - trước khi
mong muốn và chăn dắt họ trở thành người có quyền hành, giỏi giang hoặc siêu
phàm".
Đọc đến đây có lẽ mọi người sẽ cho rằng
người viết quá sa đà nơi phần dẫn nhập. Nhưng có xem đi xem lại hai đoạn phim
kể trên nhiều lần và nghiền ngẫm nó thì ta mới thấy bừng sáng lời mời gọi của
đoạn Tin Mừng hôm nay.
Bài Tin mừng hôm nay (Ga 1,6-8.19-28)
giới thiệu sứ mạng của Gioan Tẩy Giả. Ông là người làm chứng. Người làm chứng
về Đức Giêsu là Ánh sáng, là Ân sủng, là Sự thật. Người làm chứng có "Con
tim rung nhịp với chân lý" là Đức Giêsu, cho dẫu người đương thời khướt từ
Ngài. Vì có "con tim rung nhịp với chân lý" nên mạnh mẽ tuyên bố
trong khiêm hạ: "Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho
thẳng để Đức Chúa đi ... Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép
cho Người."
Người làm chứng trong đoạn video clip
có tên "Ngang nhiên giết người trên phố" là hai người đi đường, là
những người trên 2 chiếc môtô và taxi, là đám đông trước khách sạn ... đã vô cảm
với chân lý, với lòng trắc ẩn yêu thương mà Thiên đã đặt để trong trái tim mỗi
người. Họ vô cảm, dửng dưng, bàng quang, lạnh lùng, vô trách nhiệm trước cái
ác, trước chân lý bị chà đạm miễn sao không phiền lụy đến bản thân. Đó là hệ
quả của một xã hội đánh mất niềm tin vào Thiên Chúa Tình Yêu, Đấng là nguồn cội
muôn loài; một xã hội chỉ chạy theo vật chất tạm bợ trần gian.
Người làm chứng trong phim tài liệu
"Chuyện Tử Tế" cũng rất nhiều và cũng rất đáng sợ. Đáng sợ đến nỗi mà
khi công chiếu những người lãnh đạo đương thời phải thẹn với sự thật đau lòng
mà cấm chiếu bộ phim. Tuy nhiên trong muôn vàn người thích làm chứng giả hay
tránh né sự thật ấy vẫn còn có những con người có "con tim rung nhịp với
chân lý". Họ sống, hành xử theo niềm tin vào Thiên Chúa là nguồn cội của
Tình yêu và Sự thật để đến với tha nhân bằng sự đồng cảm, yêu thương, chia sẻ
... Những con người ấy được điển hình hóa qua các nhân vật trong phim là các nữ
tu tại trại phong Quy Hòa.
Người làm chứng trong bối cảnh của bài
Tin Mừng hôm nay cũng có nhiều: là phần đông dân chúng, là một số Tư tế và thầy
Lêvi, là Gioan Tẩy Giả. Dân chúng thời Chúa Giêsu thì im lặng không đón nhận:
"Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận" (Ga 1,
11). Một số Tư tế và thầy Lêvi thì nghi ngờ và dửng dưng đi kiểm chứng. Chỉ có
Gioan Tẩy Giả thì xác tín, con tim luôn rung nhịp với Chân lý là Con Thiên Chúa
làm người nên khiêm tốn, sẵn sằng làm tất cả mọi sự vì Chúa Giêsu, vì chương
trình cứu độ của Ngài. "Con tim rung nhịp với chân lý" của Gioan Tẩy
Giả vẫn bền bĩ kiên trung rung nhịp theo Tin Mừng của Chúa Giêsu đến hơi thở
cuối cùng dưới lưỡi gươm gian trá và thâm độc của Hêrôđê.
Bộ phim "Chuyện Tử Tế" được
kết bằng ba biểu tượng: Thiên thần Gabriel thắng quỷ dữ, hai ngọn đèn cầy leo
lét trước gió và cuối cùng là ngọn sóng bạc đầu dâng cao gào thét như thét gọi
mọi người đừng vô cảm, hãy tỉnh thức con tim, để rung nhịp với chân lý, với sự
thật, với nỗi đau của tha nhân.
Lời dạy của Tin Mừng hôm nay được thể
hiện qua đời sống chứng tá cho Chân lý của Gioan Tẩy giả là lời mời gọi tất cả
chúng ta phải có "con tim rung nhịp với chân lý" để làm chứng cho
Thiên Chúa Tình Yêu, để sống "tử tế" với nhau, khướt từ mọi đam mê
quyến rũ, mọi tham lam ích kỷ vụ lợi cá nhân.
Hình tượng Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng
càng thôi thúc mỗi người kitô hữu chúng ta hơn nữa: Hãy khiêm tốn sửa đổi chính
mình để đón mừng Hài Nhi Giêsu ngự đến.
8. Có một người ở giữa anh em – An
Phong
Trong mùa Vọng, ba nhân vật vẫn được
nói đến luôn, đó là: Đức Maria, ngôn sứ Isaia và Gioan - người làm phép Rửa.
Bài Tin mừng hôm nay đề cập đến nhân vật thứ ba vừa nói ở trên, với một chứng
từ rõ ràng về con người sa mạc ấy. Gioan loan báo Đấng đang đến, Gioan chỉ cho
thấy Đấng ấy chính là Đức Giêsu; và một hệ luận tất nhiên: Gioan nhận ra mình
không xứng đáng cởi xăng-đan cho Người.
Cùng với Gioan, mùa Vọng hẳn là mùa
loan báo và là mùa chỉ cho thấy; đồng thời mùa Vọng là mùa nhận ra mình không
xứng đáng.
Thiên Chúa vốn là một vị Thiên Chúa ẩn
giấu. Người ta đã hao tổn biết bao giấy mực để cố khám phá vị Thiên Chúa ẩn
giấu này. Gần 2000 năm lịch sử trước Chúa Giáng sinh, người ta mặc sức hình
dung Ngài với những dung mạo khác nhau. Với Abraham, Ngài không có tên; Ngài là
"sự sợ hãi của Isaác" (St 31,42), là "Đấng Tối Cao của Giacóp"
(St 49,24)... Với Isaia, Ngài là "Người Tôi Tớ đau khổ"...
Như thế, Ngài luôn luôn và vẫn là một
vị Thiên Chúa cần được loan báo và cần được chỉ cho thấy. Đôi lúc người ta phác
họa chân dung một Thiên Chúa sai lạc, hoặc chỉ dò ý tưởng riêng của mình. Hẳn
lúc đó, nguời ta sẽ nhận được một câu trả lời "tôi không phải như là các
bạn nghĩ đâu"; hoặc "có một người ở giữa anh em mà anh em không nhận
ra".
Như thế, cùng với Gioan, chúng ta hẳn
phải loan báo và chỉ cho người khác thấy một vị Thiên Chúa tình yêu; Loan báo
và chỉ cho thấy Thiên Chúa đang đến. Ngài đang ẩn giấu nơi người nghèo, người
đau khổ, những phụ nữ "đứng đường"... bởi Ngài là tình yêu, là niềm
cảm thông sâu xa thân phận con người.
Như Gioan, nhận ra mình không xứng
đáng, đó là một sự không xứng đáng trước vị Thiên Chúa tình yêu bao la; ta đấm
ngực "lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng", nghĩa là dám nhận ra mình
còn "những điều thiếu sót", chưa làm những điều phải làm để gia tăng
tình yêu. Victor Hugo đã có lần lên tiếng cảnh tỉnh: Ngày nào chúng ta không
thắp lên ngọn lửa sưởi ấm, ngọn lửa tình yêu, chắc chắn sẽ có người chết
rét".
Như thế, cùng với Gioan, chúng ta cất
tiếng cao rao tình yêu Thiên Chúa bao la và cố gắng sống bác ái với mọi người.
Lạy Chúa Giêsu,
Hẳn cũng có lần con đấm ngực, dằn vặt
tâm hồn
và tha thiết mong Chúa giải thoát nỗi
khốn cùng của con.
Hẳn cũng bao lần con đứng trước hang
đá, cầu xin Chúa mau đến;
Nhưng hình như con chưa dám "đóng
vai Chúa"
để đến với những người nghèo khó,
khổ đau chung quanh con.
Và hình như con chưa nhận ra Chúa là
tình yêu,
Chúa đang mời gọi tình yêu nơi chính
tâm hồn của con.
Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài trở nên tình
yêu trong con
và đốt nóng tâm hồn của con bằng tình
yêu của Chúa.
9. Niềm vui đang đến – Lm Lu-y Nguyễn
Quang Vinh
Phụng vụ Chúa nhật thứ ba mùa Vọng ghi
đậm nét vui tươi. Tiên tri Isaia sống trước Chúa Cứu Thế sáu trăm năm, loan báo
tin mừng hồi hương cho dân đang bị lưu đày ở Babylon: "Đức Chúa đã xức dầu
tấn phong tôi, sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn, băng bó những tấm lòng tan
nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, công bố năm hồng ân của Thiên Chúa
... Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Vì Người mặc cho tôi hồng ân cứu độ cứu
độ" (x. Bài Đọc 1. Is 61, 1-2a.10-11). Đây là niềm vui giải phóng, niềm
vui hồi hương.
Tin vui cứu độ được Đức Maria cảm
nghiệm cụ thể khi lời sấm của ngôn sứ Isaia trở thành hiện thực nơi cung lòng
Mẹ, khi Mẹ thưa với sứ thần truyền tin "Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa,
xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói"(Lc 1,38) và Mẹ diễn tả niềm
vui sung mãn đó trong Kinh Linh Hồn Tôi Ngợi Khen Chúa (Kinh Magnificat). Mẹ
lên tiếng ca tụng Thiên Chúa đã đoái thương thân phận mọn hèn của Mẹ, niềm vui
cá nhân của riêng Mẹ được tuyển chọn làm mẹ Thiên Chúa; và niềm vui của cộng
đồng Do thái được cứu độ theo như Lời Chúa đã hứa từ ngàn xưa. Niềm vui hoàn vũ
nầy này vọng lại trong thư thánh Phaolô gửi cho tín hữu Thêxalônica đang chờ
mong Chúa Cứu Thế trở lại: "Anh em hãy vui mừng luôn mãi và cầu nguyện
không ngừng" (x. Bài Đọc 2. 1Tx 5, 16-24). "Vì đã có một người được
Thiên Chúa sai đến tên là Gioan. Ông đến để làm chứng về ánh sáng" (x. Bài
Tin Mừng. Ga 1, 6-8.19-28), làm chứng cho niềm vui cứu độ đã xuất hiện trên
trần gian, đó là Chúa Giêsu. Đây là khởi đầu niềm vui Chúa Cứu Thế thực hiện
bằng con đường nhập thể và nhập thế đi vào giữa nhân loại. Niềm vui Thiên Chúa
làm người, định cư giữa nhân loại, để nhân loại biết đường về trời.
Niềm vui cảm nghiệm mình được Thiên
Chúa cứu chuộc được tiên báo qua nụ cười của bà Sara, vợ ông Ápraham, khi được
báo tin con đầu lòng Ixáac sẽ ra đời, cho đến sự nhảy mừng của thánh Gioan khi
còn trong lòng bà Isave. Tất cả cho thấy niềm vui của buổi phụng vụ hôm nay như
tô đậm nét sự hân hoan mà bà Isave cảm nghiệm khi đứa con thân yêu nhảy lên
trong dạ mẹ, niềm sung sướng tràn trề của vị tiên tri cuối cùng Cựu Ước gặp
được Chúa Cứu Thế thời Tân Ước. Niềm vui vỡ bờ hoành tráng hoàn vũ.
Niềm vui vĩ đại đòi cung cách diễn tả
hòanh tráng. Tiền hô hậu ủng là phong cách nhân lọai của bất cứ đại vương nào
khi hạ cố thăm thần dân của mình. Sự long trọng của người tiền hô càng làm sáng
tỏ uy quyền cao cả của nhân vật chính yếu đến sau. Đây là cung cách của vị tiền
hô: Lối sống tu rừng khắc khổ và đơn sơ, cách ăn mặc kỳ dị và mộc mạc, lời rao
giảng nghiêm khắc và cứng rắn của vị tiền hô Gioan gây thắc mắc cho những người
thời bấy giờ đến phỏng vấn ông. Tuy nhiên đứng trước niềm vui to lớn này vị
tiền hô xóa mình đi. Ông khiêm hạ thẳng thắn khẳng định mình không phải là Đấng
Kitô, không phải là Êlia, không phải là ngôn sứ mà truyền thống Do thái mong
đợi. Ông khẳng định mình là tiếng kêu trong sa mạc, có sứ mạng dọn đường tâm
linh, chỉnh đốn tâm đạo cho ngay thẳng để đón tiếp một nhân vật cao trọng âm
thầm đang đến một cách bí bí ẩn: " Có một Vị đang ở giữa các ông mà các
ông không biết. Người đến sau tôi, tôi không đáng cởi quai dép cho người"
(x. Bài Tin Mừng).
Con người bí ẩn đó là Chúa Giêsu, mà
cho đến hôm nay, đối với các Kitô hữu, Người vẫn còn y nguyên là một mầu nhiệm
cực lớn, đòi liên tục khám phá trong đời sống. Tất cả những gì diễn tả về Người
đều là mầu nhiệm đòi khám phá, sự hiện hữu của Người, quyền năng vô biên của
Người, tình yêu cứu chuộc của Người đối với nhân loại, sự đồng hóa của Người
nơi anh em hèn mọn, cả đến sự chết và sự phục sinh vinh hiển của Người đều là
bí ẩn đòi khám phá không ngừng trong cuộc sống.
Thật vậy mỗi ngày người Kitô phải liên
tục khám phá niềm vui trong gặp gỡ tha nhân để phát hiện con người bí ẩn đó, vì
"Ngài ở giữa các ông mà các ông không biết". Không những khám phá
niềm vui mà thôi, người Kitô hữu còn phải là tiền hô cho Chúa Cứu Thế nữa, sống
vui tươi xây dựng xã hội trần thế, bởi vì Kitô hữu là người mang tin vui đến
cho mọi người. Tuy nhiên Người mang tin vui mà chính mình không vui là phi lý,
là phản tác dụng, là phản bội sứ điệp loan báo Tin mừng.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết khám
phá con người bí ẩn mà thánh Gioan nói đến: "Ngài ở giữa anh em mà anh em
không biết", con người đó có thể là láng giềng khó tánh, là người đồng
nghiệp gặp họan nạn, là bệnh nhân cần giúp đỡ, là người xa Chúa lâu ngày cần
trở lại. Amen.
10. Tin mừng giải phóng – Như Hạ, OP
TIN MỪNG đem lại niềm vui cho toàn thể
vũ trụ. Nghe lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ hiểu tại sao Kitô giáo là một đạo
Tin Mừng, đem niềm vui đến cho toàn thể nhân loại. Đức Giêsu đã xuống trần gian
để mạc khải tình Cha yêu thương hết mọi người, không trừ ai. Đúng hơn,
"Ngôi Lời hằng hữu đời đời đã nhập thể làm người Á châu," (ĐGH Gioan
Phaolô II: VietCatholic- 8/12/1999) để đem TIN MỪNG giải phóng đến cho miền đầy
cơ chế bất công nhất thế giới.
Dọn Đường Cho Chúa Đi
Cho đến hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn là
một bóng mờ trên miền đất bao la đó. Hơn khi nào, cần phải nhìn Đức Phật, Khổng
Tử, Lão tử v.v. như những sứ giả dọn đường cho Chúa đến với dân Người. Nhưng
hơn ai hết, Gioan Tẩy giả là vị tiền hô lớn nhất. Hôm nay "ông đến để làm
chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin" (Ga 1:7).
Lời chứng Gioan Tẩy giả thật là hùng hồn và ảnh hưởng. Ông ý thức rất rõ sứ
mệnh và vai trò của mình. Ông chỉ là trung gian giới thiệu Đức Giêsu cho muôn
dân, chứ không phải là người muôn dân trông đợi. Bởi vậy khi bị những người
thuộc phái Pharisêu bắt bí, ông đã khẳng định: "Tôi là tiếng người hô
trong hoang địa: Hãy dọn đường cho thẳng để Đức Chúa đi" (Ga 1:23; Is
40:3). Những người Pharisêu "cứ gặng hỏi xem Gioan Tẩy giả là ai, nhưng
Gioan lại muốn cho họ biết Đức Giêsu là ai" (Life Application Study
Bible:1991).
Dọn đường cho Chúa đi vào lòng người.
Chúa là nguồn bình an và hoan lạc sẽ đem đến cho nhân loại một mùa xuân rực rỡ.
Mấy ai phát hiện được mùa hồng ân đang đến ? Bởi vậy Gioan mới nhắc nhở mọi
người: "Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết" (Ga
1:26). Chính vì thế, vai trò Gioan cực kỳ quan trọng. Ngoài Gioan, không ai có
thể thấy được Đức Giêsu là "Con Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần
gian." (Ga 1:29) Ông đã đến như một chứng nhân TIN MỪNG. Chính ông đã chỉ
cho các môn đệ thấy TIN MỪNG đích thực là Đức Giêsu.
"Ông không phải là ánh sáng, nhưng
ông đến để làm chứng về ánh sáng" (Ga 1:8). Chính khi làm chứng như thế,
ông mới giữ trọn được niềm vui cho mình và các môn đệ. Đức Giêsu đã không hề
"dập tắt thần khí" (1Tx 5:19) nơi chứng từ Gioan Tẩy giả, ngay cả khi
ông hoài nghi về sứ vụ của Người (Mt 11:2-6; Lc 7:18-23). Trái lại, nhiều lần
Người còn ca ngợi ông cao trọng "hơn cả ngôn sứ" (Mt 11:9) và bất cứ
"phàm nhân" nào (x. c.11). Dầu vậy, ông chỉ tự nhận như một tên nô lệ
bất xứng: "Tôi không đáng cởi quai dép cho Người" (Ga 1:27).
Đúng thế. Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên
Chúa."Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành" (Ga 1:3), trong đó có
Gioan Tẩy giả. Một tạo vật làm sao có thể so sánh với Đấng Tạo hóa ?! Nhưng
"Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta" (c.14).
Nghĩa là "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận"
(c. 11). Chính vì thế mới cần đến lời chứng Gioan Tẩy giả. Ông đã tìm được niềm
vui trong sứ vụ làm chứng. Ông đã thành công rực rỡ tới mức đổ máu vì sự công
chính, một nhân tố làm nên Nước Trời.
Nhận Diện
TIN MỪNG đã bắt đầu vang lên với chứng
từ Gioan Tẩy giả. Nhưng TIN MỪNG chỉ thực sự có hiệu lực từ lúc Đức Giêsu xuất
hiện trong quyền năng Thánh Linh, một sức mạnh giải thoát. Thực vậy chính Chúa
đã công khai xác nhận "hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh" (Lc 4:21):
"Thần Khí Chúa ngự trên tôi, Vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, Để tôi loan
báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố Cho kẻ bị giam cầm
biết họ được tha, Cho người mù biết họ được sáng mắt, Trả lại tự do cho người
bị áp bức, Công bố một năm hồng ân của Chúa." (c.18-19; Is 61:1-2).
Từ nay TIN MỪNG đã trả lại cho tất cả
những người cùng khổ nhất tất cả niềm vui ơn cứu độ. Như thế xã hội đã được
Phúc Âm hóa. Không hiểu tại sao có người không đồng ý với việc "Phúc Âm
hóa Á châu" trong thông điệp "Giáo hội tại Á châu" của Đức Giáo
Hoàng ? Nếu Phúc Âm hóa chỉ là đổ mấy giọt nước rửa tội trên đầu, quả thực Giáo
hội đang đi ngược dòng. Nhưng nếu chỉ nhằm đem lại cho xã hội đời sống
"công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần" (Rm 14:17), Giáo
hội đáp ứng những gì các dân tộc Á châu đang mong đợi nhất. "Giáo hội xác
tín rằng trong lòng dân chúng, văn hóa và tôn giáo tại Á Châu, có một cơn khát
"Nước Hằng sống" (x.Ga 4:10-15), một cơn khát chính Thần Khí đã tạo
ra và chỉ có mình Chúa Giêsu Cứu thế mới có thể thỏa mãn đầy đủ" (Giáo hội
tại Á châu:1999). Cơn khát vọng này lớn hơn nỗi mong chờ Đấng Messia của dân Do
thái. Cơn khát vọng đó kéo dài cả mấy ngàn năm rồi. Giáo hội đã nêu lên được lý
tưởng cao cả nhất của công cuộc Phúc Âm hóa. Giáo hội chỉ muốn phục vụ, chứ
không muốn khống chế con người.
Thế nhưng, cho tới nay vẫn có những
"chuyên viên" Phúc Âm hóa "lẫn lộn sứ vụ rao giảng Tin Mừng với
khát vọng truyền bá các giá trị văn hóa và lối ứng xử kiểu Âu châu" (Cuộc
tọa đàm về truyền giáo đại kết tại Hồng Kông, VietCatholic 8/12/1999). Lối
khống chế đó đã làm cho công cuộc Phúc Âm hóa Á châu trì trệ và thất bại.
Tuy thế, vẫn chưa đến nỗi thất vọng.
Thực tế "Chúa Thánh Thần, Đấng hoạt động trên Á châu trong thời các Tổ Phụ
và ngôn sứ, và hoạt động còn mãnh liệt hơn nữa trong thời Chúa Giêsu và Giáo
hội lúc đầu, bây giờ vẫn hoạt động ở giữa các người Kitô hữu Á Châu, tăng cường
bằng chứng đức tin của họ giữa các dân tộc, các nền văn hóa và tôn giáo của lục
địa" (Giáo hội tại Á châu:1999). Chỉ có Thánh Linh mới thấu hiểu và đáp
ứng nổi tất cả những khát vọng lớn lao của các dân tộc.
Vậy các dân tộc Á châu đang mơ ước
những gì ? Chắc chắn sống dưới nhiều cơ chế bất công khác nhau, họ muốn thấy
công lý ngự trị. Đây là một cơ hội lớn xây dựng Nước Chúa tại Á châu. Hơn lúc
nào hết, chúng ta cố gắng "thiết lập lại công bằng và làm cho công bằng được
triển nở ở mọi cấp bực xã hội" (ĐGH Gioan Phaolo II: VietCatholic-
8/12/1999). Nhưng muốn thực hiện được công cuộc đó, xin khắc tâm khắc cốt lý
tưởng Kitô hữu sau đây:
TÌNH YÊU phục vụ tha nhân,
Sống là TIẾN BỘ, dấn thân suốt đời.
TÍN THÀNH sống đạo làm người,
Hồng ân thắp sáng bầu trời TỰ DO.
Hai vai TRÁCH NHIỆM 'tiền hô':
TIN MỪNG cứu độ, điểm tô Nước Trời.
Lý tưởng đó đã được Thần Khí khơi dậy
nơi Kitô hữu. Nhưng bao lần lý tưởng tuổi trẻ đã bị vùi dập. Bởi vậy, thánh
Phaolô cảnh cáo: "Anh em đừng dặp tắt Thần Khí." (1 Tx 5:19) Đặc
biệt, nơi giáo xứ Thần Khí đang hoạt động như "trung tâm đời sống phụng
vụ" (ĐGH Gioan Phaolô II: CWNews 25/11/2002) và trung tâm đào luyện giáo
lý và luân lý cho giới trẻ Kitô hữu. ĐGH cho thấy giáo xứ là tụ điểm quan trọng
để giáo dân "uống tận nguồn suối Lời Chúa và truyền thống. Người cũng nhấn
mạnh đến tầm quan trọng của bí tích Thánh Thể trong việc nuôi dưỡng đức tin,
"bảo vệ chúng ta khỏi tội lỗi, kiện cường chúng ta trong tình thân ái, và
duy trì nỗ lực chúng ta trên cuộc hành trình dương thế." (CWNews
25/11/2002) Không có sức mạnh đó, tuổi trẻ không thể chống lại những ảnh hưởng
văn hoá trần tục. Muốn tìm được hứng thú cho cuộc sống, giới trẻ "cần phải
tiếp tục cuộc hành trình, khởi sự từ Đức Kitô, nghĩa là từ bí tích Thánh
Thể." (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) Hôm nay, Giáo hội cần giáo
dân "ý thức về ơn gọi rao giảng Tin Mừng" và sẵn sàng đem sứ điệp Tin
Mừng vào trần gian. Muốn "làm chứng về ánh sáng"(Ga 1:7.8) là Đức
Kitô giữa thế giới chìm đắm trong bóng tối hôm nay, họ cần giáo xứ hỗ trợ mạnh
mẽ (ĐGH Gioan Phaolô II: Zenit 25/11/2002) và trang bị đầy đủ sức mạnh Tin
Mừng.
11. Đơn giản là như thế – G. Nguyễn Cao
Luật
Tôi chẳng phải là ai cả
Câu chuyện xảy ra tại một địa điểm ở
phía Bắc Biển Chết, có lẽ cũng là nơi xưa kia dân Do-thái đã vượt qua sông
Gio-đan để tiến vào Đất Hứa. Ông Gioan Tẩy Giả đang có mặt tại đó và làm phép
rửa bằng nước. Chỉ một nghi thức sám hối này cũng đủ để phân biệt phép rửa của
ông với những cách thức thanh tẩy khác nhau vốn đang thịnh hành trong các nhóm
thời bấy giờ. Con người này là ai vậy mà biết bao người đang ùn ùn kéo đến với
ông để lãnh nhận phép rửa ? Con người này có sứ mạng gì mà lời rao giảng của
ông có âm giọng như tiếng kêu của các vị ngôn sứ, tính cho đến lúc này, đã im vắng
được ba thế kỷ ?
Người Do-thái, hay chính xác hơn, một
số tư tế và mấy thầy Lê-vi đã muốn xác định xem ông là ai. Họ đặt câu hỏi và
muốn xếp ông vào một trong số những hiểu biết của mình. Họ muốn kiểm chứng, họ
muốn tin chắc vào hiểu biết của mình.
Trước hết, họ muốn biết có phải là Đấng
Mê-si-a không. Trong giai đoạn căng thẳng lúc bấy giờ, có rất nhiều người mong
chờ vị sứ giả của Thiên Chúa đến. Họ đã mường tượng ra dung mạo của vị sứ giả,
nhưng là một thứ hình ảnh cứng ngắc. Trong thực tế, họ đã có nhiều hình ảnh
mẫu, tuỳ theo thái độ chờ đợi, tuỳ theo khát vọng của mỗi người. Trong khi đó,
các vị lãnh đạo dân đang cố gắng kiểm chứng danh tính của những người đang có
ảnh hưởng trên dân chúng. Chính họ cũng có quan niệm về dung mạo của con người
phải đến. Do đó, họ đã nêu vấn đề với ông Gioan khi thấy đám đông kéo đến với
ông để nghe giảng và đón nhận phép rửa.
Ông có phải là ngôn sứ Ê-li-a không ?
Một nhân vật khác được nêu lên sau khi ông Gioan đã tuyên bố ông không phải là
Đấng Mê-si-a. Từ trước đến nay, người Do-thái vẫn công nhận ngôn sứ Ê-li-a là
một chứng nhân vĩ đại về lòng tin. Ông đã được cất lên trời cách lạ lùng (2 V
2), và ông sẽ trở lại để dọn đường cho Đấng Mê-si-a đích thực. Lúc sinh thời,
ngôn sứ Ê-li-a đã bị mọi người loại bỏ. Nhưng giờ đây, người ta đã biết ông là
ai. Con người xưa kia bị bách hại, nhưng giờ đây lại được tôn phong.
Người ta vẫn dựa trên những hình ảnh
quá khứ để nhận định về hiện tại. Nhưng mỗi người có vai trò riêng của mình, và
ông Gioan Tẩy Giả là một trường hợp rất đặc biệt.
Đơn giản là một chứng nhân
Câu trả lời của ông Gioan cho thấy một
thái độ khiêm tốn cần ngạc nhiên.
Ông tuyên bố ông không phải là Đấng
Mê-si-a, không phải là Ánh Sáng. Ông không phải là ngôn sứ Ê-li-a trở lại, cũng
không phải là vị Ngôn Sứ vĩ đại như người ta vẫn chờ đợi.
Ông chỉ là vị tiền hô, đơn giản là một
chứng nhân, có vai trò hoàn toàn tuỳ thuộc vào Đấng ông loan báo. Ông là ngọn
đèn do Thiên Chúa thắp lên để soi đường cho Đức Ki-tô đến, là tiếng nói của
Thiên Chúa. Đơn giản chỉ có thế. Tất cả chỉ có thế. Ngọn đèn để soi sáng, tiếng
nói để cung cấp lời.
Cách trả lời của ông Gioan Tẩy Giả cho
thấy ông không để cho người ta xác định về mình. Ông không lặp lại quá khứ,
nhưng mở ra tương lai. Vì vậy, ông là người của bất ngờ. Người ta không thể
đóng khung vào một loại nào. Ông khước từ quan niệm coi ông là điểm dừng, ông
chỉ muốn mình là điểm cần đi qua. Ông làm chứng về ánh sáng, một loại ánh sáng
luôn vuột khỏi tầm với con người, nhưng lại soi chiếu cho họ trên con đường của
mình. Ông Gioan chỉ muốn mình là người chỉ đường và không muốn người ta chăm
chú vào mình. Một thái độ tuyệt vời và chính điều này làm ông trở nên cao cả.
Đây cũng là đặc tính của mọi ngôn sứ Ít-ra-en.
Đàng khác, câu trả lời của Gioan là một
thứ tuyên bố về lý lịch cá nhân, nhưng hoàn toàn tiêu cực, làm cho những người
chất vấn chưng hửng, thêm thắc mắc. Người ta không thể xác định về ông, nhưng
ông vẫn rất cần thiết và quý giá để chỉ cho mọi người thấy rằng: có một vị đang
ở giữa các ông mà các ông không biết".
Tuy vậy, phải nói rằng chính ông Gioan
Tẩy Giả cũng không biết rõ về Đức Giêsu. Đang khi ông dìm người khác trong nước
để thức tỉnh và thanh tẩy họ, thì chính ông lại sống trong nghi nan. Ông biết
rằng ông có sứ mạng dọn đường cho Đấng Mê-si-a đến. Ông cũng biết rằng Đấng
Mê-si-a cao cả hơn ông nhiều: "Người đến sau tôi và tôi không đáng cởi
quai dép cho Người" ; "có người đến sau tôi nhưng trỗi hơn tôi, vì có
trước tôi" ; ông cũng cảm thấy một sự đứt đoạn, nhưng ông chưa thấy Người
đến. Ông cũng không biết rằng Vị Sứ giả của Thiên Chúa, mà ông là người dọn
đường, lại chẳng là ai khác hơn là người bà con của ông tại làng Na-da-rét, là
ông Giêsu người thợ mộc.
Ông chỉ biết rằng chính ông không phải
là Đấng Mê-si-a, và chỉ là kẻ dọn đường. Ông biết điều này rất rõ và ông sống
đến tận cùng. Ông dấn thân trọn vẹn để thi hành sứ mạng ngôn sứ, giới thiệu Đức
Ki-tô khi tới thời gian đã được ấn định. Ông biết rằng ông không phải là ánh
sáng, nhưng ông có mặt để làm chứng về Ánh Sáng. Rồi đây, ông sẽ đưa tay ra để
chỉ vào Đấng phải đến. Người là Đức Giêsu, Người đến và đem lại cho Thiên Chúa
vô hình, Thiên Chúa không thể đụng chạm tới được một dung mạo, một thân thể.
Về một Thiên Chúa đã biết và chưa biết
Không ai thấy Thiên Chúa, không ai nghe
được Thiên Chúa, và cũng không ai đụng chạm được Thiên Chúa.
Làm thế nào bây giờ trước một Thiên
Chúa được gọi là Ánh Sáng nhưng không ai nhìn thấy được ? Đấng tự nhận mình là
Chân Lý tinh tuyền nhưng lại xuất hiện dưới khuôn mặt không thực, Người là ai ?
Đấng hiện diện ở khắp nơi nhưng dường như lại vắng mặt, Người là ai ?
Các nhà thần học luôn tìm ra những lý
luận rất hay, nào là Thiên Chúa ẩn mình để tôn trọng sự tự do của chúng ta, hay
để tạo cho chúng ta nỗi ngạc nhiên khi chúng ta chết, v.v... Tuy vậy, chúng ta
cảm thấy không thoả mãn với những giải thích như thế, và chúng ta có cảm tưởng
rằng những giải thích này cũng chẳng làm cho những người đã đề ra chúng được
thoả mãn.
Thiên Chúa là Đấng không thể hiểu thấu:
chúng ta phải chấp nhận sự kiện đó, một sự kiện không thể khác được. Chấp nhận
không phải để buông xuôi, nhưng là để nhìn rõ chỗ đứng của chúng ta và nhất là
để đặt Thiên Chúa vào đúng chỗ của Người, tức là Người có mặt ở khắp nơi, ở bất
cứ nơi nào chúng ta đang chờ đợi Người.
Như vậy, nếu Thiên Chúa không để cho
cảm giác và lý luận của chúng ta đụng chạm tới Người, nếu Thiên Chúa không để
cho chính lòng tin của chúng ta nắm bắt được Người, thế thì phải chăng chúng ta
bị kết án phải tìm đến Người trong bóng đêm mịt mù ? Phải chăng chúng ta đang
có nguy cơ đi lạc đường hay là chỉ chạy theo một ảo ảnh ?
Những câu hỏi như thế vẫn được đặt ra
cho chúng ta và có lẽ không bao giờ chúng ta có được câu trả lời đầy đủ. Thiên
Chúa vẫn luôn ở phía trước và mở ra những chân trời rộng lớn hơn. Người mời gọi
chúng ta bước vào và trở thành nhân chứng cho Người.
Như ông Gioan Tẩy Giả, mỗi chúng ta
cũng được mời gọi trở thành người loan báo về một Thiên Chúa đang ẩn mình nhưng
vẫn đang đến. Mỗi chúng ta đang được mời gọi đóng vai trò rất khiêm tốn nhưng
không thể thiếu: giới thiệu về Thiên Chúa đang đến. Nói một cách khác, chúng ta
được trao phó trách nhiệm lôi kéo thêm nhiều người cùng gia nhập vào cộng đoàn
những người tìm kiếm Thiên Chúa, tìm kiếm Chân Lý và Ánh Sáng, đang khi chính
chúng ta phải trở thành ngọn đèn, thành tiếng nói. Đơn giản là như thế. Tất cả
chỉ có thế.
* * *
Thiên Chúa của tôi vượt hẳn mọi thứ suy
luận và mọi thứ đo lường.
Thiên Chúa của tôi là thế này: kỳ diệu,
độc đáo và gây sững sờ.
Người là hữu thể, nhưng lại là chuyển
biến,
Người là những gì đã có, hiện có và sẽ
có,
Người là tất cả, nhưng không có gì là
Người,
Chúa tôi gây sững sờ
là Đấng người ta tin nhưng không thấy,
người ta yêu mến nhưng không sờ được,
người ta trông chờ nhưng không nghe
theo,
người ta chiếm hữu, nhưng không đáng
được như thế.
(Juan Arias - Thiên Chúa mà tôi không
tin, trang 32)
12. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
CHỨNG NHÂN CỦA ÁNH SÁNG
Trên đời có nhiều thứ ánh sáng: ánh
sáng vật lý, ánh sáng văn hoá, ánh sáng khoa học, ánh sáng tâm linh. Để nhìn ra
ánh sáng, cần có một khả năng nào đó. Để thấy ánh sáng vật lý, chỉ cần có đôi
mắt bình thường. Nhưng để nhìn thấy ánh sáng khoa học, phải có một số vốn kiến
thức cần thiết. Để thấy ánh sáng văn hoá, cần được khai tâm mở trí. Và để thấy
được ánh sáng tâm linh, cần có các chứng nhân chiếu dọi. Thánh Gioan Baotixita
là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng chính
cuộc đời trong sáng của ngài. Nhìn vào cuộc đời ngài, ta thấy toả ra các làn
ánh sáng sau đây:
Làn ánh sáng thứ nhất mà ta thấy nơi
cuộc đời thánh nhân là làn ánh sáng của sự khiêm nhường. Ngài khước từ mọi vinh
quang người ta phủ quanh ngài. Ngài thành thực nhận mình không phải là Đấng Cứu
Thế toàn dân mong chờ, không phải là Êlia vĩ đại, cũng không phải là một tiên
tri cao cả. Ngài tự nhận mình chỉ là một "tiếng kêu trong sa mạc".
Ngài khiêm nhường nói rằng ngài không xứng đáng xách giày cho Đẫng Cứu Thế.
Thật là khiêm nhường tự hạ. Đức khiêm nhường ấy chiếu lên dung mạo ngài một làn
ánh sáng. ánh sáng ấy khiến cho lời chứng của ngài càng có sức thuyết phục. ánh
sáng ấy phản chiếu dung mạo đích thực của Đấng Cứu Thế, Đấng tuyệt đối khiêm
nhường.
Làn ánh sáng thứ hai ta thấy nơi cuộc
đời của thánh nhân là làn ánh sáng của sự khổ hạnh. Phần lớn đời ngài ẩn dật
trong sa mạc. Sống trong sa mạc đồng nghĩa với sống khổ hạnh. Ngoài sự khắc
nghiệt của thời tiết, sự hoang vu cô tịch, sự đe doạ của thú dữ, thánh Gioan
Baotixita còn tự nguyện sống khó nghèo, đơn sơ, đạm bạc. Y phục của ngài chỉ là
mảnh da thú quấn quanh thân thể. Thức ăn của ngài là châu chấu và mật ong rừng.
Sự khổ hạnh không chỉ loé sáng lên một ý chí mạnh mẽ biết vượt thắng chính bản
thân mình, mà còn chiếu ánh sáng hy vọng vào tương lai. Người lệ thuộc vào vật
chất là người bị trói buộc trong hiện tại. Người khổ hạnh là người đặt niểm hy
vọng ở tương lai. Niềm hy vọng ấy chiếu sáng vào cuộc đời hiện tại vì làm cho
cuộc sống có một ý nghĩa cao đẹp và sâu xa. Tương lai tươi sáng mà thánh Gioan
Baotixita chờ đón chính là Đức Giêsu Kitô mà ngài loan báo.
Làn ánh sáng thứ ba nơi cuộc đời thánh
nhân là làn ánh sáng của sự trung thực. Trung thực trong những lời nói về chính
mình, nên ngài không dám nhận những vinh quang người đời tưởng lầm Ngài có.
Ngài chỉ nhận những sự thực rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình. Trung thực
với lòng mình, nên ngài sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không
giả dối. Trung thực trong những phán đoán về người khác, nên ngài đã thẳng thắn
khuyên vua Hê-rô-đê không đựơc phép lấy chị dâu. Chính sự trung thực này đã
phải trả giá bằng cái chết chẳng toàn thây. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng
lên cuộc đời chứng nhân. Làn ánh sáng ấy cho ta thoáng thấy ánh sáng đích thực
của Đấng là Sự Thật, là chính Đức Giêsu Kitô.
Làn ánh sáng thứ tư nơi cuộc đời thánh
nhân là làn ánh sáng của sự quên mình. Biết mình chỉ là người đưa tin, thánh nhân
luôn xoá mình đi, để cho Đấng là chính Tin Mừng được nổi bật. Biết mình chỉ là
người mở đường, thánh nhân luôn tự hạ để cho Đấng là Đường được mọi người nhận
biết. Làm chứng cho sự thật, thánh nhân đã tự nguyện hy sinh để cho Đấng là Sự
Thật được trân trọng. Khi mọi người tuốn đến với Ngài, Ngài đã không giữ lại
cho mình, nhưng đã giới thiệu họ đến với Đức Giêsu, nên ngài nói: "Người
đến sau tôi, nhưng tôi không đáng cởi dây giầy cho Người" (Ga 1,27). Nhiều
môn đệ đã theo Ngài, nhưng Ngài giới thiệu để họ theo làm môn đệ Đức Giêsu. Khi
thấy đám đông đã bỏ ngài để đi theo Đức Giêsu, ngài hài lòng vì thấy nhiệm vụ
đã hoàn tất, nên ngài nói: "Chúa phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ
đi" (Ga 3, 30).
Thánh Gioan Baotixita thật là một chứng
nhân tuyệt hảo. Ngài đã biết tự hạ mình xuống để Chúa được nổi bật lên. Ngài đã
biết ẩn mình trong bóng tối để Chúa được xuất hiện trong ánh sáng. Ngài đã biết
tự huỷ mình đi để Chúa được nhận biết. Ngài đúng là người đi mở đường cho Chúa.
Ngài thực là chứng nhân của ánh sáng.
Mùa Vọng này, mọi người đang chờ đón
Chúa đến. Chúa muốn tôi hãy đi mở đường cho Chúa. Chúa muốn tôi làm chứng cho
Chúa. Chúa muốn tôi giới thiệu Chúa cho anh em. Nhưng rất nhiều khi, thay vì mở
đường cho Chúa, tôi chỉ lo mở đường cho tôi. Rất nhiều khi thay vì làm chứng
cho Chúa, tôi chỉ lo làm chứng cho tôi. Rất nhiều khi thay vì giới thiệu Chúa,
tôi chỉ giới thiệu bản thân mình.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi hãy soi mình
vào tấm gương của thánh Gioan Baotixita để biết cách dọn đường cho Chúa ngự
đến.
Xin thánh Gioan Baotixita giúp chúng
con sống trong sáng để trở nên chứng nhân của ánh sáng.
13. Chứng nhân ánh sáng trung thực
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
Gioan Tẩy Giả, có lẽ, là vị Thánh Công
Giáo đi vào hội họa nhiều nhất. Có vô số tranh vẽ về ông với đề tài khá đa
dạng, hướng đến những giá trị tư tưởng khác nhau. Gần như hầu hết các họa sĩ
nổi tiếng nhất trong lịch sử nghệ thuật Công giáo, từ Leonardo da Vinci,
Titian, Caravaggio đến Rubens...đều tìm thấy trong cuộc đời của ông một chi
tiết nào đó làm nguồn cảm hứng sáng tác cho mình. Riêng Caravaggio, đã vẽ đến
hàng chục tác phẩm về Gioan Tẩy giả...
Không chỉ nhiều, Gioan Tẩy Giả có lẽ
cũng là vị Thánh đi vào hội họa sớm nhất.
Icon thể hiện hình ảnh Thánh lâu đời
nhất được tìm thấy, là icon về Gioan Tẩy Giả, được vẽ vào khoảng cuối thế kỷ
thứ V đầu thế kỷ thứ VI, có nguồn gốc Palestine. Dưới đây là ảnh tác phẩm. Bức
tranh đã bị hư hại nhiều, không thể nhận biết hai hàng chữ viết hai bên chuyển
tải thông điệp gì. Ở trên cùng, dễ nhận biết, bên trái, là hình ảnh Chúa Giêsu,
và bên phải, là hình ảnh Đức Mẹ Maria.
Giữa vô số tranh vẽ Thánh Gioan tẩy
giả, chiếm số lượng nhiều nhất, và có nhiều tác phẩm xuất sắc nhất, là ở mảng
chủ đề: "Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết".
Dưới đây là icon thể hiện chủ đề
"Thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết" được cho là lâu đời nhất được vẽ
vào khoảng đầu thế kỷ thứ VII, thuộc truyền thống Byzantium .
Đứng chính giữa, là Thánh Gioan Tẩy
Giả. Ông đang nói: "Tôi không phải là ánh sáng, nhưng tôi đến để làm chứng
cho ánh sáng". Phía sau là dòng sông, nơi ông thực hiện phép Rửa cho Chúa
Giêsu. Bên trái, là đầu của ông, đã bị chặt lìa, nhưng vẫn như đang hướng nhìn
về phía chúng ta. Bên phải: ở dưới là con chiên tượng trưng cho Dân Chúa như
đang suy ngẫm về những gì Thánh Gioan Tẩy giả nói trong sự tôn kính, và bên
trên là cây tượng trưng cho sự sống.
Bức tranh như vậy, theo một số học giả,
là sự khái quát trọn vẹn cuộc đời và sứ mệnh của Thánh Gioan Tẩy Giả: "là
nhà tiên tri cuối cùng, là người dọn đường cho sự ra đời của Chúa".
(Nguyên Hưng).
1. Chứng nhân ánh sáng trung thực
Khởi đầu Phúc Âm Thánh Gioan đã viết:
"Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đến để làm chứng,
và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin." (Ga 1,6-7).Thánh
Gioan là chứng nhân của Đức Kitô ánh sáng. Ngài làm chứng cho Đức Kitô bằng
chính cuộc đời trong sáng của mình. Ngài là chứng nhân ánh sáng của sự trung
thực.
Chúa Giêsu đã nói về Gioan: "Đây
còn hơn cả ngôn sứ nữa" (Mt 11, 9). Và Chúa còn nói thêm về Gioan:
"Trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có ai cao trọng hơn ông
Gioan Tẩy giả" (Mt 11,11). Nhưng so sánh với Chúa Giêsu, Gioan nhận ra
mình thật nhỏ bé. Thấp kém đến nỗi "không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày
cho Người". Gioan trung thực nói lên một sự thật. Đó là mình kém xa vì
Gioan chỉ là một thụ tạo yếu đuối mỏng dòn.Trong khi đó, Đức Kitô là Thiên
Chúa, là Chúa của Gioan và là chủ tể của mọi loài. So sánh với Chúa Giêsu,
Gioan chỉ là một giọt nước giữa lòng biển cả mênh mông, chỉ là một cây nhỏ
trong đại ngàn trùng điệp, chỉ là một hạt cát giữa sa mạc bao la.
Khi thấy Gioan xuất hiện, rao giảng
phép rửa thống hối, dân chúng tự hỏi xem có phải ông là Đấng Cứu Thế không?
Gioan phủ nhận địa vị mà họ gán cho ông (Ga 1,20; Cv 13,25). Gioan tự xóa mình
trước Đức Kitô. Ông chẳng sợ mất uy tín trước bao nhiêu người ngưỡng mộ. Ông
nhìn nhận phép rửa của ông chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong
Thánh Thần.Gioan trung thực trong những lời nói về chính mình. Ngài không dám
nhận những vinh quang người đời tưởng lầm ngài có. Gioan chỉ nhận những sự thực
rất khiêm nhường, rất bé nhỏ của mình mà thôi.
Trung thực với lòng mình, nên Gioan
sống một cuộc sống khổ hạnh, không phô trương, không giả dối. Trung thực trong
sứ vụ nên Gioan chẳng nể vì kiêng cữ ai. Những luật sĩ thông thái phái
Pharisiêu, những bậc vị vọng có nhiều ảnh hưởng lớn trong xã hội thuộc phái
Sađucêô, những thầy cả tư tế đạo cao chức trọng, tất cả đều bị Gioan cảnh cáo
nặng lời. Gioan gọi họ là loài "rắn độc" (Mt 3,7). Ngay cả vua
Hêrôđê, Gioan cũng thẳng thắn cảnh cáo vì vua muốn chiếm vợ của anh mình (Mt
14, 3-12). Vua Hêrôđê vẫn nể sợ Gioan vì biết ông là người công chính, thánh
thiện (Mc 6,20). Chính vì trung thực trong sứ mạng ngôn sứ mà Gioan phải trả
giá bằng ngục tù và bị chém đầu. Nhưng sự trung thực ấy đã làm sáng lên cuộc
đời chứng nhân. Ánh sáng trung thực khiến cho lời chứng của Gioan càng có sức
thuyết phục.
Gioan đã làm chứng nhân ánh sáng trung
thực nên đã sống một cuộc đời thật đẹp và đã chết hào hùng.
2. Thánh Gioan sống rất đẹp
Gioan sống đẹp vì dám từ bỏ đời sống dễ
dãi tiện nghi của gia đình và xã hội, rút vào trong sa mạc hoang vắng để sống
gắn bó với Thiên Chúa, lắng nghe và thực hiện ý Ngài.
Gioan sống đẹp khi có được một số môn
đệ theo mình, nhưng ngài cũng không ngần ngại giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên
Thiên Chúa cho họ (Ga 1,36) để họ trở thành môn đệ Chúa Giêsu, một bậc Thầy cao
cả hơn.
Gioan sống đẹp khi ngài thu phục được
đám đông dân chúng, được dân chúng ngưỡng mộ, xem ngài như một tiên tri cao cả,
nhưng Gioan lại chỉ cho họ biết có Đấng cao cả hơn đang đến, Đấng mà ngài không
đáng cởi quai dép cho Người (Ga 1,27) để cho dân chúng thôi ngưỡng mộ mình mà
quay sang ngưỡng mộ Chúa Giêsu.
Gioan sống đẹp khi chủ trương rằng:
"Chúa Giêsu phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi".(Ga 3,30)
3. Thánh Gioan chết cũng rất đẹp, rất
hào hùng.
Là một ngôn sứ trong một đất nước đang
thời nhiễu nhương,bị đế quốc Roma cai trị hà khắc,nhiều phe nhóm trong dân nổi
loạn,dân chúng lầm than. Gioan mang nặng những ưu tư, những trăn trở yêu nước
thương dân.
Vua Hêrôđê, một hôn quân bạo chúa, sống
loạn luân. Lương tâm ngôn sứ thúc đẩy, Gioan lên tiếng can ngăn và tố cáo những
hành vi sai trái của nhà vua, kêu gọi vua trở về nẻo chính đường ngay.Vì thế,
Gioan đã bị vua chém đầu. Cái đầu vị ngôn sứ đổi bằng bữa tiệc và điệu múa vũ
nữ. Hêrôđê tàn bạo, Hêrôđiađê lăng loàn và thủ đoạn. Cái chết của Gioan cao đẹp
và hào hùng vô cùng.
Trước mặt người đời, Gioan là kẻ thất
bại. Sứ mạng của ngài không hoàn thành,bị những kẻ gian ác ghen ghét hãm hại,
cuối cùng chịu chết chém trong tù. Ngôn sứ, chứng nhân của sự thật thời nào
cũng phải trả giá. Điều quan trọng trước mặt Thiên Chúa chẳng phải là danh giá
hay thành tích mà là thái độ sống.Thái độ sống của Gioan là bất khuất trước bạo
lực, dám nói sự thật bảo vệ công lý, cho dù sự thật đó dẫn đến tù đày và cái
chết.
Người theo Đạo Hồi giáo Islam sùng kính
Thánh Gioan Tiền Hô ở giáo đường bên Syria . Theo sự tin tưởng và tương
truyền, trong ngôi đền thờ Hồi giáo Omajjden bên Syria có nấm mộ chôn đầu bị chém
của Thánh Gioan Tiền Hô. Người Hồi giáo Syria gọi thánh nhân bằng tên Yaya
Ben Zakariyah. Năm 2001, Đức Chân Phước Gioan Phaolo II đã đến hành hương kính
viếng cầu nguyện trước ngôi mộ Thánh nhân tại ngôi đền thờ này với mọi người
Hồi giáo tại đó. Một vị Thánh sống tôn trọng và rao giảng sự trung thực, sự ăn
năn sám hối. Từ đó cho tới nay, người Hồi giáo vẫn luôn luôn sùng kính mộ mến
thủ cấp của vị ngôn sứ chứng nhân sự thật.
4. Theo gương Thánh Gioan, sống chứng
nhân trung thực
Nói sự thật có thể bất lợi cho mình
hoặc cho người khác. Gioan đã dám nói sự thật, dù phải chết. Gioan không sợ
quyền lực, không hùa theo kẻ có quyền lực. Trước điều sai trái, ngài không im
lặng để được an toàn bản thân, để được xã hội ưu đãi. Gioan lên tiếng làm chứng
cho lẽ phải, ngài không thể nói ngược lại lương tâm mình. Không thể nói điều
sai trái là đúng, hay nói điều đúng là sai trái.
Có lẽ chưa bao giờ người dân Việt Nam
lại ngao ngán trước những tiêu cực, tệ nạn, bất công, gian dối đầy dẫy trong xã
hội như ngày hôm nay. Người dân phải chấp nhận sống chung với gian dối, tiêu
cực, tệ nạn như người miền Tây, miền Trung được khuyên tập sống chung với lũ
vậy.Ông Trần Quốc Thuận, văn phòng Quốc Hội Việt Nam tuyên bố: "Chúng ta sống
trong một xã hội mà chúng ta phải tự nói dối với nhau để sống. Nói dối hằng
ngày nên thành thói quen. Thói quen đó lập lại nhiều lần thành 'đạo đức', mà
cái 'đạo đức' đó là mất đạo đức.". Gian dối trở thành tập quán xã hội, một
bản tính thứ hai, một nền "đạo đức" của con người, như vậy thì tương
lai của dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu?
Giáo sư Hoàng Tụy nhận định: Sự giả dối
hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt
Nam
không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối.
Thế nhưng, đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều
thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc... Trung thực thế nào được khi mà
người ta hàng ngày phải sống trong một môi trường giả dối mà minh chứng rõ nhất
là tiền lương công chức. Chẳng ai sống nổi bằng lương nhưng rồi ai cũng sống
đàng hoàng, dư giả. (x.Báo Khuyến học & Dân trí, Thứ sáu, 28/11/2008).
Lm Nguyễn Hồng Giáo nhận định: Xã hội
ta thì xưa nay đã quá quen với việc làm dối, nói dối, báo cáo láo đến nỗi dường
như không còn coi đó là một điều xấu nữa. Chúng ta còn nhớ một khẩu hiệu được
tung ra thời đầu đổi mới là "Nói thẳng, nói thật". Có chủ trương như
thế là vì có tình trạng quanh co, gian dối. Một bài thơ châm biếm đăng trên Sài
Gòn Giải phóng ngày 18. 5. 1990 có nhan đề đáng để ý.
Thôi xài chữ giả
Chữ nghĩa du di chả mấy hồi
Đói không nói đói, "thiếu ăn"
thôi!
Học hành "hạn chế": y chang
dốt
Báo cáo "tuy nhiên": ắt
hẳn... tồi.
"Vượt mức chỉ tiêu"? Nên bớt
nửa,
"Có phần sơ sót"? Hãy nhân
đôi...
Mực đen gấy trắng đòi trung thực
Chữ giả xài lâu hỏng lắm rồi. (Long Vân)
Các nhà nghiên cứu đã phân tích và nêu
lên nhiều nguyên nhân của tình trạng thiếu trung thực tràn lan. Nhưng tôi thiển
nghĩ rằng, ta còn có thể nghĩ tới một nguyên nhân sâu xa mà hình như chưa ai đề
cập tới cách thẳng thắn. Đó là liệu tình trạng này có liên quan cách nào đó
chăng tới nhân sinh quan chính thức của xã hội ta hay ít nhất là tới một cách
làm, cách nghĩ lâu đời đã ăn quá sâu vào trong tâm thức của giới cầm quyền và
nhân dân? Tôi không dám khẳng định mà chỉ nêu câu hỏi như một "giả thuyết
làm việc", như người ta quen nói trong phạm vi nghiên cứu khoa học
(hypothèse de travail)... Tôi thiển nghĩ, muốn cải tổ giáo dục theo chiều hướng
trung thực, cần phải có một sự cải tổ sâu hơn về não trạng và về quan niệm đạo
đức, tựu trung là về nhân sinh quan. (x. Giả dối lan tràn, tại sao? Lm Nguyễn
Hồng Giáo, OFM).
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa
Trung Tín (1 Tx 5,24). Ngài là "đường, là sự thật và là sự sống" (Ga
14,6). Ngài đã tin tưởng và gọi chúng ta là môn đệ của Ngài (Mt 25,22), và trao
cho chúng ta những trách nhiệm lớn (Mt 25,21; Mt 28,19). Vì thế, chúng ta phải
là chứng nhân trung thực của sự thật và trung tín giữa một xã hội mà sự gian
dối đã trở thành "đạo đức".
Thiết nghĩ, bài học về lòng trung thực
phải là bài học đầu đời cho các bộ óc trẻ trung đang còn trong trắng tuổi học
sinh.
Theo gương Thánh Gioan chứng nhân ánh
sáng trung thực, với tư cách ngôn sứ, chúng ta cần sống chứng nhân cho chân lý
và tình yêu. Sống chân chính ngay thẳng theo lương tâm Kitô giáo, chúng ta góp
phần mở đường dọn lối cho Chúa đến.
14. Người làm chứng
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Trong bài Tin Mừng trên đây cụm từ 'làm
chứng' được dùng đến bốn lần.
Lẽ sống của Gioan là làm chứng. Ông
được sai đến để làm chứng (x. c.6-7). Cả câu chuyện xảy ra ở Bêtania, bên kia sông
Giođan, cũng là một lời chứng hùng hồn của ông (c.19).
Gioan không làm chứng cho mình hay về
mình, bởi lẽ ông không phải là Ánh Sáng. Ông chỉ là ngọn đèn (Ga 5,35) giúp mọi
người tin vào Ánh Sáng thật là Đức Kitô.
Sau khi nhiều người tuốn đến chịu phép
rửa, tiếng tăm của Gioan trở nên lừng lẫy. Các nhà lãnh đạo tôn giáo cử một
phái đoàn đến tìm hiểu con người ông.
Khi được hỏi lần thứ nhất: Ông là ai?
Gioan đã đưa ra ba câu trả lời phủ định: "Tôi không phải là Đức Kitô"
- "Không phải" - "Không". Những tiếng 'không' dứt khoát và
trung thực.
Ông không nhận những danh hiệu người ta
nghĩ về ông. Ông chẳng phải là một Êlia tái giáng hay một vị Ngôn Sứ phi thường
như Môsê. Gioan chỉ sợ người ta đánh giá quá cao về mình khiến Đấng ông giới
thiệu bị che khuất.
Lần thứ hai được hỏi: Ông là ai?
Gioan đã định nghĩa mình là một tiếng
hô trong hoang địa, là lời mời gọi con người sửa đường cho Đức Kitô.
Ông biết rõ mình là người đến trước
nhưng vị đến sau lại có trước ông và trổi vượt hơn ông ngàn trùng (Ga 1,30).
"Tôi không đáng cởi quai dép cho Người." Làm đầy tớ cho Đức Kitô, ông
nhận mình không xứng.
Gioan tự xóa mình trước Đức Kitô. Ông
chẳng sợ mất uy tín trước bao người ngưỡng mộ. Ông nhìn nhận phép rửa của ông
chỉ nhằm chuẩn bị cho một phép rửa lớn hơn trong Thánh Thần.
Gioan không ngại giới thiệu môn đệ mình
theo Đức Giêsu, và ông bình an khi người ta đổ xô đến với Ngài để chịu phép rửa
(Ga 3,26).
Có ai siêu thoát như Gioan?
Ông từ bỏ trong niềm vui hồn nhiên. Ông
hạnh phúc vì mình đã hoàn thành sứ mạng. "Người phải lớn lên, còn tôi phải
nhỏ lại" (Ga 3,30).
Sự khiêm hạ làm cho lời chứng của Gioan
đáng tin hơn.
"Có một vị đang ở giữa các ông mà
các ông không biết."
Hôm nay Đức Giêsu vẫn là Đấng xa lạ với
nhiều người.
Con người vẫn khắc khoải đi tìm những
nẻo đường cứu độ, trong khi Đấng Cứu Độ đã đến từ hơn 2000 năm.
Xin được làm người chứng như Gioan,
giới thiệu cho bạn bè Đấng mà họ đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Giới trẻ hôm nay say mê các ngôi sao ca
nhạc, điện ảnh, thể thao... Theo ý bạn, điểm nào nơi Đức Giêsu có thể làm cho
giới trẻ say mê? Đức Giêsu có phải là mẫu người lý tưởng của các bạn trẻ không?
Gioan là con người siêu thoát. Ông
không tìm mình, ông vượt lên trên cái vòng danh lợi. Bạn có quen biết ai làm
chứng tuyệt như Gioan không?
Cầu Nguyện
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế
Người là tất cả của tôi.
Chỉ mong ý muốn trong tôi chẳng còn gì,
nhờ thế tôi cảm thấy Người ở mọi nơi, đến với Người trong mọi sự, và dâng Người
tình yêu trong mọi lúc.
Chỉ mong tôi chẳng còn gì, nhờ thế tôi
không bao giờ muốn tránh gặp Người.
Chỉ mong mọi ràng buộc trong tôi chẳng
còn gì, nhờ đó tôi gắn bó với ý muốn của Người và thực hiện ý Người trong suốt
đời tôi.
(R. Tagore)
15. Kitô hữu, bạn là ai?
(Trích trong: "Niềm Vui Chia
Sẻ")
Trên đường đi, cảnh sát giao thông chặn
tôi lại, kiểm tra giấy tờ. Tôi xuất trình thẻ chứng minh nhân dân, trong đó có
ghi sẵn họ và tên, địa chỉ, ngày và nơi sinh của tôi. Thế là cảnh sát hài lòng,
vì đã biết được tôi là ai trong giấy tờ. Nhưng cảnh sát lại không biết tôi làm
những việc gì, những mối quan hệ của tôi, những suy nghĩ của tôi, lý tưởng của
tôi, niềm vui, nỗi buồn của tôi. Tất cả những điều đó ông không cần lưu tâm.
Ông đã cầm được giấy chứng minh nhân dân chính thức của tôi và thế là đủ. Nếu
có cần thì hỏi thêm giấy chủ quyền xe gắn máy và thuế lưu hành.
Ngày xưa, khi Gioan Tẩy Giả công khai
xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng phép rửa sám hối, dân chúng tuôn đến
với ông, khiến nhà cầm quyền đạo đời Do Thái phải thắc mắc: Ông ấy là ai? Và họ
cử phái đoàn đến điều tra xét hỏi. Họ đã mở cuộc phỏng vấn: Ông là ai? Gioan
Tẩy Giả đã không xuất trình chứng minh nhân dân hoặc hộ khẩu, đã không nêu tên
tuổi, địa chỉ, lý lịch của mình, nhưng ông nói rõ sứ mạng, lý tưởng của ông, sự
dấn thân, ơn gọi và lẽ sống của ông: "Tôi là tiếng của người kêu trong sa
mạc... Tôi đây làm phép rửa bằng nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà
các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho
Người". Gioan Tẩy Giả hướng toàn bộ cuộc đời ông về Đức Giêsu. Bản thân
ông không là gì cả. Cuộc đời ông, sứ mạng ông, đam mê của ông chính là loan báo
Đấng Kitô. Ngài đến mặc khải cho con người ý nghĩa của cuộc sống và lịch sử của
họ. Ngài mang đến cho con người Tin Mừng: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn tha
thứ, là bình an và niềm vui cho nhân loại. Cho đến chết, Gioan Tẩy Giả là tiếng
hô dọn đường cho Chúa đến.
Hôm nay, chúng ta hãy tự đặt câu hỏi
cho chính mình: Kitô hữu, chúng ta là ai? Như người ta đã chất vấn Gioan Tẩy
Giả: "Ông là ai? Ông nói gì về chính mình?"
Chúng ta không đơn giản trả lời bằng
cách xuất trình giấy chứng minh có ghi "Thiên Chúa giáo" hoặc giấy
rửa tội của chúng ta ra. Vấn đề là, như Gioan Tẩy Giả, chúng ta trả lời về ý
nghĩa cuộc sống của chúng ta, về động cơ bên trong thúc đẩy và chi phối cuộc
đời chúng ta. Chắc chắn chúng ta còn nhớ câu chuyện sau đó, khi Gioan đang ở
trong tù, ông đã sai các môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu là ai. Chúa Giêsu đã trả
lời: Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: người
mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được khỏi, kẻ điếc được nghe, người
chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng và phúc thay người nào không mất
niềm tin vào tôi" (Lc 7,12-23). Chúng ta cũng hãy tự trả lời về chính mình
bằng chính những việc làm của chúng ta, bằng chính cách sống của chúng ta. Cả
cuộc đời chúng ta phải nói về Đức Giêsu, phải loan báo Đức Giêsu và sứ mạng của
Ngài.
Kitô hữu là ai?
Là những người đàn ông, đàn bà, thanh
niên, thiếu nữ, thiếu nhi, những người yêu mến Đức Giêsu. Nhưng không phải như
người yêu thích một đồ vật hay một nhân vật đã đi qua, cũng không phải như
người ta yêu thích một bài hát hay, hoặc một văn sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng đã chết.
Người Kitô hữu yêu mến Đức Giêsu như một người yêu, như một người bạn. Bởi vì,
đối với chúng ta, Đức Giêsu chẳng phải là một nhân vật đã đi vào quá khứ, nhưng
Ngài hiện đang sống với chúng ta, trong chúng ta. Chúng ta yêu mến Ngài. Chính
tình yêu này là động cơ thúc đẩy chúng ta làm việc cho Ngài và tiếp tục công
việc của Ngài: đó là yêu thương những con người nghèo khổ, giải phóng những kẻ
bị áp bức, bóc lột, chữa lành những tâm hồn tan vỡ, đem tự do đến cho những kẻ
bị giam cầm, loan báo Tin Mừng cho những con người bất hạnh. Trong thời đại
chúng ta, vẫn còn có Mẹ Têrêxa của cộng đoàn Thừa Sai Bác Ái, Sư Huynh Roger
Schutz của cộng đoàn Taizé, cha Pierre
của cộng đoàn Emmau, và còn biết bao tấm gương âm thầm khác nối tiếp bước chân
Gioan Tẩy Giả.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta trở nên
những con người của niềm vui và đem niềm vui của Chúa đến cho người khác. Chẳng
phải chỉ nói rằng: tôi là người có đạo, tôi đi nhà thờ, tôi thuộc họ đạo này,
giáo xứ nọ. Nhưng chính yếu là chính cuộc sống của tôi, hành động của tôi, sự
chọn lựa của tôi như Đức Giêsu đã sống, đã hành động và đã chọn lựa. Ngày nay
chúng ta cần có nhiều người như Gioan: cởi mở, can đảm, thẳng thắn làm chứng
cho Đức Kitô không những bằng lời nói mà nhất là bằng hành động cụ thể, đem
niềm vui và hạnh phúc đến cho mọi người. Với những chứng tá ấy, người ta sẽ
nhận ra chúng ta là bạn của Đức Kitô, là Kitô hữu.
Vì thế, mỗi người Kitô hữu phải là một
Gioan Tiền Hô, phải sống thế nào để qua lời nói và hành động của chúng ta,
những người khác có thể gặp được Chúa Cứu Thế: trong gia đình, ngoài xã hội,
nơi làm việc, chỗ giải trí, chúng ta phải sống ra sao để ai gặp được chúng ta
là phần nào đã gặp được Chúa Giêsu. Mỗi người chúng ta phải là một ngọn đèn,
một ngôi sao Giáng Sinh, một nhân chứng của ánh sáng. Noi gương Gioan Tiền Hô,
hãy sống hết lòng với Chúa và do đó luôn thao thức làm cho người khác tìm gặp
Chúa Giêsu và đón nhận ơn cứu độ của Ngài.
16. Trút bỏ hư danh để được rót đầy ân
sủng
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm
Trần Ngà)
Vào thời Minh Trị thiên hoàng tại Nhật
Bản (1860-1912), Nan-in, một thiền sư Nhật, tiếp một vị giáo sư đại học đến
tham vấn về thiền.
Nan-in mời trà. Ông châm trà đầy tách
của khách nhưng vẫn tiếp tục rót thêm như một người đãng trí.
Vị giáo sư ngồi nhìn nước trong tách
tràn ra cả mặt bàn nên không kìm mình được nữa, liền thưa: "Thưa Thầy, đầy
tràn cả rồi. Xin đừng rót nữa".
Thiền sư Nan-in thản nhiên đáp:
"Giống như tách trà nầy, đầu óc ông cũng đầy ắp những quan niệm, những tư
tưởng. Làm sao tôi có thể giải bày thiền cho ông được, trừ khi ông cạn cái tách
của ông trước." (Trích: Góp nhặt cát đá của thiền sư Muju, Đỗ Đình Đồng
dịch, Lá Bối xuất bản).
Một chiếc ly đã đầy tràn thì không thể
rót gì thêm được. Một cái thùng đầy cát thì không thể đổ thêm gạo, bắp hay bất
cứ thứ gì. Cũng thế, một tâm hồn đầy kiêu căng, tự mãn, tham lam... thì đâu còn
chỗ trống cho Thiên Chúa rót thêm ân sủng vào.
Trang Tin Mừng hôm nay mời chúng ta hãy
hướng về một nhân vật quan trọng của mùa vọng là Gioan Tẩy Giả, một con người
sẵn sàng trút bỏ mọi tham vọng và hư danh, trở thành tách trà rỗng không; nhờ
đó, ông đã được Thiên Chúa rót đầy.
* * *
Người đời bị cuốn hút bởi lợi danh và
cố làm gia tăng giá trị mình bằng những lớp vỏ bên ngoài.
Tiêu biểu cho hạng người nầy là những
biệt phái thời Chúa Giêsu. "Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Họ
đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. Họ ưa ngồi cỗ nhất
trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong các hội đường, ưa được người ta chào
hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là "ráp-bi". (Mt 23,
5-6).
Còn người thời nay thì tìm cách làm gia
tăng giá trị của mình bằng những đồ trang sức đắt giá, bằng xe hơi sang trọng,
bằng dinh thự nguy nga.
Trong khi đó, Gioan chê bỏ những
"lớp vỏ" hào nhoáng của người đời. Người chỉ cần cào cào châu chấu
trong hoang mạc làm thức ăn; chỉ cần tấm da thú thô sơ làm áo mặc. (Mt 3,4).
Người đời khát khao danh vọng, muốn
khoác cho mình nhiều danh hiệu cao sang; còn Gioan thì trái lại, ông tước bỏ
hết mọi danh hiệu cao quý mà người đời khoác cho ngài.
Thời bấy giờ Gioan là người tiếng tăm
lỗi lạc. Có luồng dư luận cho rằng ông là Đức Kitô, một tước hiệu cao cả đầy
vinh dự. Gioan trả lời với các tư tế và các thầy Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem rằng
ông chẳng phải là Đấng Kitô. Ông đã không nhận vơ cho mình một danh hiệu rất
cao quý.
Thế rồi có dư luận cho rằng ông là ngôn
sứ Ê-li-a vĩ đại giáng lâm, vì theo kinh thánh thì vị ngôn sứ nầy phải đến
trước để dọn đường cho Đấng Cứu Thế; Gioan cũng từ chối tước hiệu nầy. Thế là
ông lại trút bỏ thêm một vinh dự thứ hai.
Có một số khác nghĩ rằng nếu ông không
là Đấng Kitô, không là ngôn sứ Ê-li-a, ít nữa thì ông cũng là một vị ngôn sứ
cao cả nào đó. (Ga 1, 21b). Gioan cũng từ khước luôn cả danh hiệu nầy.
Và đang khi nhiều người coi trọng phép
rửa của Gioan, đã tuôn đến với ông đông đảo, xin ông làm phép rửa cho mình, thì
Gioan khiêm tốn nói rằng phép rửa của ông chỉ là phần chuẩn bị cho một phép rửa
khác quan trọng hơn, do một Đấng rất cao cả cử hành mà ông chẳng đáng cởi quai
dép cho Đấng ấy: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở
giữa các ông mà các ông không biết. Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi
quai dép cho Người." (Ga 1, 26-27).
Và đang khi danh tiếng của Gioan vang
dội, còn Chúa Giêsu chưa được nhiều người biết đến, thì Gioan đã tự xoá mình
đi, để cho Chúa Giêsu được tỏa sáng. Gioan nói: "Người phải nổi bật lên,
còn tôi phải lu mờ đi." (Ga 3,30).
Thế là Gioan đã trút bỏ hết mọi vinh dự
người ta gán cho mình, chỉ nhận mình là tiếng kêu trong sa mạc hoang vu. (Ga 1,
23).
Gioan đã hạ mình xuống, nên đã được
Thiên Chúa nâng lên. Gioan đã trút bỏ mọi thứ vinh quang và của cải, trở thành
trần trụi rỗng không, nên Thiên Chúa đã đổ đầy ân sủng cho người. Nhờ đó, Gioan
trở nên vị ngôn sứ rất cao cả. Chính Chúa Giêsu đã xác nhận sự cao cả của ông.
"Tôi nói thật với anh em: trong số phàm nhân đã lọt lòng mẹ, chưa từng có
ai cao trọng hơn ông Gioan Tẩy Giả" (Mt 11, 11)
* * *
Gioan đã tự xoá mình đi nhưng người đã
sáng bừng lên như một ngôi sao trên bầu trời Hội Thánh. Gioan luôn hạ mình
xuống nhưng Giáo Hội vẫn hằng ngưỡng mộ người suốt dòng thời gian. Cuộc đời
khiêm hạ của thánh nhân mãi mãi là tấm gương sáng ngời cho bao thế hệ nối tiếp.
Lạy Chúa Giêsu,
Chiếc ly đời con chất chứa đầy tự mãn,
kiêu căng, tham lam, ích kỷ và chúng con vẫn quyến luyến gắn bó với chúng cho
đến mãn đời.
Xin thương giúp chúng con có đủ nghị
lực và quyết tâm trút bỏ những thứ cặn bã đáng ghét đó đi cho tâm hồn được rỗng
không.
Có làm được như thế, chúng con mới trở
thành ống sáo rỗng để Chúa tấu lên những khúc hoan ca.
Chỉ khi đó, chúng con mới trở nên một
chiếc ly, chiếc bình trống không để cho Chúa rót đầy tình yêu và ân sủng.
17. Nghề của tôi
Cách đây ít năm, một người làm nghề hốt
rác tại thành phố Dallas , thuộc bang Texas , đã được dân chúng
tuyên dương. Mười bảy cư dân đã viết thư cho ông giám đốc sở vệ sinh công cộng
để ca ngợi nụ cười đầm ấm, thân hữu và lịch thiệp của bác Cummings, người hốt
rác của họ:
- Chúng tôi sống trên con đường này
công nhận bác là một Kitô hữu trung kiên, một công dân yêu nước và một người
bạn chân tình. Bác đã giúp họ mua hàng, trả lại cho họ những vật họ đánh rơi
ngoài đường hay vì lầm lẫn mà vứt đi.
Và ông giám đốc đã gửi cho bác một bức
thư với những lời lẽ như sau:
- Chúng tôi tin rằng người ta có thể
hoàn thành những công việc phi thường trong bất cứ hoàn cảnh nào của cuộc sống,
không kể gì đến địa vị hay trách nhiệm. Việc làm của bác đã cho thấy ý nghĩa
thực sự của niềm tin ấy.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay, người
ta đã hỏi Gioan Tiền hô:
- Ông có phải là Đức Kitô hay không?
Họ không cần biết tên tuổi hay lý lịch
của ông, họ chỉ muốn biết việc ông làm, chức vụ ông giữ và nghề nghiệp ông
sống. Và rồi Gioan đã xác quyết với họ:
- Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc,
hãy dọn đường Chúa đến.
Nghề nghiệp của ông đó chính là loan
báo, giới thiệu Đức Kitô. Chính ông đã nói cho thế giới biết rằng Đức Kitô là
Đấng Thiên Chúa đã hứa ban cho nhân loại. Và Gioan đã dành tất cả cho nghề nghiệp
của ông. Ông đã thực hiện mọi cố gắng, chấp nhận mọi hy sinh để loan báo Đức
Kitô. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì?
Thật đơn giản, đó là mỗi người trong
chúng ta đều có một nghề trong nước trời. Nói cách khác, mỗi người chúng ta đều
có một cái gì quan trọng cần phải làm cho gia đình nhân loại. Nghề nghiệp của
chúng ta đều quan trọng, mặc dù công việc của chúng ta có nhỏ bé và khiêm tốn.
Bác hốt rác đã ý thức điều đó. Bác đã thực hiện hết mình cái nghề hốt rác của
bác.
Tất cả chúng ta cũng cần phải ý thức
rằng: Mỗi nghề nghiệp trên trần gian đều đáng quý trọng. Cuộc sống sẽ trở nên
nhàm chán, nếu xã hội chỉ gồm toàn những người đứng đầu mà không có cấp dưới,
toàn là giám đốc mà chẳng có nhân viên, toàn là cấp tướng mà chẳng có binh
lính, toàn là những nhân vật nổi tiếng mà chẳng có kẻ âm thầm làm việc.
Tuy nhiên, đôi lúc húng ta đã than
phiền:
- Tôi chỉ là một người nội trợ, suốt
ngày làm những việc vặt vãnh như thổi cơm, quét nhà, giặt quần áo... Hay tôi
chỉ là bác nông phu, suốt ngày đổ mồ hôi trên miếng ruộng thần nông...
Chúng ta thử phác họa xem một cuộc
sống, mà không có những người làm những công việc tầm thường đó sẽ như thế nào.
Mọi nghề đều đáng quí đáng trọng. Không có nghề nghiệp nào xấu mà chỉ có con
người xấu mà thôi. Nghề nghiệp không phải chỉ quan trọng đối với nhân loại mà
còn quan trọng cả trước mặt Thiên Chúa.
Khi chuẩn bị đón mừng Chúa đến, chúng
ta hãy nhớ lại rằng: Hài nhi Giêsu đã lớn lên và trở thành một bác phó mộc.
Ngài không bao giờ nhàm chán cái cưa, cái búa, cái đục. Ngài hân hoan làm công
việc Chúa Cha đã trao phó: cưa một khúc cây hay chết trên một khúc cây khác để
cứu chuộc mọi người...
Chúng ta cũng vậy, bằng cách chu toàn
bổn phận nghề nghiệp của đấng bậc mình, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm vinh
quang cho cuộc sống hiện tại cũng như cho cuộc sống mai hậu sau này.
18. Gioan
Như chúng ta đã biết Gioan mở mắt chào
đời đã được Chúa trao cho một sứ mạng, đó là giới thiệu Chúa cho đồng bào của
mình, và làm chứng Ngài chính là Con Chiên vô tội, đã gánh lấy những lầm lỗi
của loài người.
Sứ mạng này, Gioan đã làm đầy đủ và hễ
có dịp Gioan liền chỉ cho công chúng biết Đức Kitô. Khi thấy mọi người vây
quanh mình và tưởng rằng mình là Đấng Cứu Thế, Gioan liền mạnh dạn cải chính,
mặc dù đến sau nhưng Chúa Giêsu vẫn cao trọng hơn nhiều, mình chẳng xứng đáng
cúi xuống cởi dây giầy cho Chúa.
Khi Chúa đến xin ông làm phép rửa, ông
đã nhìn thấy trời mở ra và chim bồ câu tượng trưng cho Chúa Thánh Thần đỗ xuống
trên đầu và từ trời cao có tiếng phán:
- Này là Con Ta rất yêu dấu.
Đồng thời Gioan còn có nhiệm vụ bảo dân
phải sửa đường cho Chúa đến, nơi cao phải bạt xuống, chỗ trũng phải lấp cho
đầy, đường gập ghềnh quanh co phải uốn cho thẳng.
Với người quyền thế, Gioan vẫn mạnh dạn
nói lên sự thực, chẳng hạn với Hêrôđê, Gioan đã can ngăn:
- Vua không được cướp vợ của em mình.
Bổn phận làm chứng cho Chúa cũng là bổn
phận của mọi người, ở mọi nơi và trong mọi lúc. Nhìn vào giòng lịch sử chúng ta
cũng thấy được như vậy.
Trước hết là các Tông đồ.
Tuân theo lệnh truyền của Chúa, các ông
đã đi khắp thế gian giảng dạy và làm chứng về Ngài. Mặc dầu biết trước sẽ gặp
phải nhiều khó khăn và chống đối, nhưng các ông vẫn cứ ra đi, để rồi đã bị bắt
bớ, cầm tù và sau cùng đã lấy mạng sống của mình để làm chứng tá cho Tin Mừng
Phúc âm.
Thánh Giacôbê thì bị đưa lên nóc đền
thờ và bị xô xuống cho chết. Thánh Bartôlômêô thì bị lột da sống, thánh Andrê
và Phêrô thì bị đóng đinh ngược, duy chỉ có thánh Gioan là đã chết già tại Công
đồng Ephêsô mà thôi.
Tiếp đến là Giáo hội.
Giáo hội nối tiếp các Tông đồ. Trong số
33 vị Giáo Hoàng đầu tiên, thì đã có tới 30 vị bị giết. Rồi trong 4 thế kỷ đầu,
các tín hữu đã gặp phải những cơn bách hại khủng khiếp. Nhưng các ngài đã anh
dũng tuyên xưng đức tin của mình để làm chứng cho Chúa.
Đối với mỗi người chúng ta cũng vậy.
Chúng ta không phải chỉ làm chứng cho
Chúa bằng lời nói mà còn phải làm chứng cho Chúa bằng chính cuộc sống của mình.
Bởi vì chính gương sáng của chúng ta mới là một bài giảng hùng hồn, có sức lôi
cuốn và hấp dẫn những người khác trở về cùng Chúa, như người xưa đã nói:
- Lời nói như gió lung lay,
Việc làm như tay lôi kéo.
Ngày kia vua Tấn văn Công đi săn và bị
lạc ở trong rừng, may thay gặp một người câu cá tên là Ích Ngư, vua nói:
- Ta đây là vua, chú đưa ta ra, ta sẽ
ban thưởng.
Người câu cá hèn hạ nói:
- Nếu được phép thì tôi xin hỏi một đôi
lời.
Nhà vua bằng lòng. Người câu cá bèn nói
tiếp:
- Chim hồng sống ở bờ biển, chán biển
đến sống ở chỗ ao tù sẽ sa vào bẫy. Ba ba sống ở đáy vực sâu, chán vực sâu lên
sống ở bãi sẽ bị chài lưới. Nhà vua ở đền sao lại đi săn và lạc vào rừng sâu
thế này.
Nhà vua khen:
- Chú nói hay quá.
Sau đó, nhà vua bảo người tùy tùng ghi
địa chỉ để khi về sẽ gửi quà tặng. Người câu cá bèn trả lời:
- Đức vua ghi địa chỉ làm chi. Xin đức
vua hãy tôn kính trời đất, bảo vệ bờ cõi, thương yêu dân chúng là tức khắc bầy
tôi này đã được trọng thưởng. Bằng không thì dù nhà vua có ban phần thưởng thế
nào, bày tôi cũng sẽ không thể an tâm mà hưởng dùng.
Cũng vậy, mỗi người chúng ta hãy lo
sống đạo và chu toàn bổn phận của mình, thì dù không giảng giải, không nói
năng, chúng ta cũng đã làm chứng cho Chúa.
Bởi vì, đời sống đạo đức của chúng ta
chính là một thứ ánh sáng chiếu tỏa, để những người chung quanh sẽ nhận biết
Chúa.
19. Những lời chứng
Thánh Gioan Tẩy giả đóng một vai trò
trung tâm trong việc Đấng Cứu Độ sẽ đến. Theo bài Tin mừng hôm nay, vai trò của
ngài là "chứng nhân để nói về ánh sáng". Ánh sáng đó chính là Đức
Giêsu.
Thánh Gioan đã chứng tỏ mình là một
chứng nhân can đảm và có hiệu quả. Ngài có nhân cách mạnh mẽ và là người sống
theo nguyên tắc. Ngài không sống theo một lối sống thoải mái, không sống trong
cung điện, nhưng sống nơi sa mạc. Lối sống của ngài, cũng như sự chính trực của
cá nhân ngài, đã bổ sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài, đã bổ
sung thêm niềm tin tưởng cho những lời nói của ngài. Ngài là một gương mẫu sống
động cho điều mà ngài rao giảng. Và khi đã hoàn tất nhiệm vụ của mình, ngài
bước sang một bên để nhường lối cho Đức Giêsu.
Đức Giêsu vẫn cần đến những lời chứng.
May thay, vẫn còn những người trung thành làm chứng cho Người, và coi bản thân
mình như không có giá trị gì.
Một vị linh mục nói với tôi về cuộc
thăm viếng của ông tại Trung quốc cách đây vài năm. Trong thời gian ở đó, ông
đã gặp hai vợ chồng già, cả hai đều là bác sĩ. Họ học chung tại trường y, yêu
nhau và kết hôn với nhau, bà là người Công giáo, còn ông thì ngoại đạo. Bà mong
muốn thuyết phục ông nên gia nhập Giáo Hội, nhưng ông không muốn chịu phép rửa
tội. Một thời gian ngắn sau, họ có một đứa con.
Suốt thời gian diễn ra một trong những
phong trào chính trị ở Trung quốc, cùng với một số nhà trí thức khác, người
chồng bị bắt đi làm việc trong quân đội. Sự xa cách gây ra rất nhiều khó khăn
cho người vợ, do bà vừa phải cả ngày làm việc nhiều giờ tại bệnh viện, vừa phải
làm ban đêm chăm sóc đứa con trai. Ngoài nỗi cô đơn ra, người vợ còn phải chịu
sức ép từ phía chính phủ, hối thúc bà li dị với chồng và bỏ đạo, để đạt được
những lợi thế về mặt chính trị. Nhưng bà đã từ chối. Mỗi đêm, sau khi trở về
nhà, bà và con trai đều quì gối cầu nguyện, xin Thiên Chúa ban sức mạnh để chịu
đựng những khó khăn.
Vào cuối thập niên 1970, bà nghe nói
rằng chồng bà và một số nhà trí thức khác được phép trở về nhà. Khi đến ngày
đó, bà và con trai ra sân ga, họ là những thành viên trong gia đình duy nhất có
mặt ở sân ga để đón tiếp những người đàn ông, bởi vì tất cả những người phụ nữ
khác đều đã li dị và tái kết hôn, do không chịu đựng được cảnh chia ly lâu dài.
Do cảm động sâu sắc, chồng bà đã chịu đi học đạo và lãnh nhận phép rửa tội.
Người phụ nữ đó đã thực sự mang lời
chứng cho ánh sáng, giống như thánh Gioan Tẩy giả đã thực hiện. Bây giờ, đến
lượt chúng ta. Đối với nhiều người trong thế giới ngày nay, Đức Kitô đã trở nên
một khuôn mặt rất mờ nhạt và xa cách. Những lời trong bài Tin mừng hôm nay đúng
từng chữ một "Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết".
Đức Kitô vẫn còn cần đến những chứng nhân, đó là những người có thể làm cho
Người hiện diện đối với người khác một cách có hiệu quả.
Chúng ta không thể làm chứng cho ánh
sáng, nếu chúng ta sống trong tối tăm. Chúng ta phải sống trong ánh sáng. Một
đời sống tốt đẹp là một lời chứng mạnh mẽ và có hiệu quả, và tự thân, đó là một
lời loan báo Tin mừng. Khi người ta không còn thực hành đạo trong cuộc sống
nữa, thì họ đã đánh mất đi một yếu tố quan trọng. Nhưng khi việc thực hành đạo
đưa dẫn đến những hành động cụ thể, thì người ta đã thực hành được một lời
chứng rất có hiệu quả. Không có một lời chứng nào đến được với những người cùng
thời của chúng ta một cách đầy sức thuyết phục, cho bằng lời chứng của những người
thực hiện những lời giảng dạy của Đức Giêsu.
Nếu không có lời chứng của các Kitô
hữu, thì gương mặt của Đức Kitô, vốn đã bị mờ nhạt, sẽ tiếp tục lu mờ trong thế
giới của chúng ta. Người sẽ tiếp tục ở giữa chúng ta, dù chúng ta không biết và
không nhận ra, và tâm hồn con người vẫn sẽ bị tan nát, người ta sẽ còn bị cầm
tù trong cảnh tối tăm, và Tin mừng sẽ không được rao giảng cho người nghèo.
Đây không phải là một trách nhiệm chỉ
dành cho cá nhân người Kitô hữu, mà còn dành cho toàn thể cộng đồng Kitô hữu
nữa. Khi là thành viên của một cộng đồng nâng đỡ nhau, thì việc làm chứng cho
Đức Kitô sẽ dễ dàng hơn.
20. Ẩn mặt
Thánh Gioan Tẩy giả nói với dân chúng
"Có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết". Vị mà ngài
đang nói đến chính là Đức Giêsu Thiên Chúa thường được ám chỉ như là một Thiên
Chúa "ẩn mặt". Về phương diện này, có thể so sánh Thiên Chúa như một
người viết tiểu sử. Công việc của người viết tiểu sử là tránh mặt trong khi kể
chuyện. Một người viết tiểu sử giỏi luôn sẵn sàng có mặt ở bất cứ chỗ nào,
nhưng không ai nhìn thấy họ cả. Thiên Chúa hiện diện ở tất cả mọi nơi trong các
tạo vật của Người, nhưng không ai nhìn thấy Người.
Có câu chuyện về một người đàn ông kia
khi trở về nhà, anh phát hiện ra đứa con gái bé bỏng của anh đang khóc rống
lên. Anh hỏi cháu bé về chuyện gì xảy ra. Cháu bé nói rằng cháu đang chơi trò
chơi trốn tìm với các bạn của cháu. Nhưng khi đến phiên cháu đi trốn, cháu bé
đã trốn quá kỹ, đến nỗi các bạn của cháu đã bỏ đi chơi trò khác, không chịu tìm
kiếm cháu nữa. Cháu bé cứ chờ đợi các bạn tìm thấy mình, nhưng chúng không thể
nào làm được như vậy. Cuối cùng, khi đi ra khỏi chỗ ẩn núp, thì cháu bé phát
hiện ra rằng chỉ còn có một mình cháu thôi.
Đôi khi, có lẽ Thiên Chúa cảm thấy cô
độc. Người đã tự trú ẩn trong các tạo vật của Người một cách quá tài tình, đến
nỗi một số người không thể tìm thấy Người. Và cuối cùng, họ đã bỏ không tìm
kiếm Người nữa, rồi rẽ sang các hướng khác.
Cuối cùng, khi Con của Người đến thế
gian này, hầu hết cuộc đời của Người đều không được người ta nhận ra. Ngay cả
khi Người xuất hiện ở nơi công cộng, không phải tất cả mọi người đều tin tưởng
nơi Người. Và thánh Gioan tẩy giả đã nói "Có một vị đang ở giữa các ông mà
các ông không biết – một Đấng đến sau tôi". Và trong phần mở đầu cuốn sách
Tin mừng của mình, thánh sử Gioan đã nói một cách buồn rầu "Người ở giữa
thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết
Người".
Ở đây, khi ngày Giáng sinh đến hỗ trợ
chúng ta, trong ngày đó, chúng ta cảm thấy lòng đầy thắc mắc về sự gần gũi của
Thiên Chúa. Trong biến cố Nhập Thể, Thiên Chúa ẩn náu một cách tài tình, và
được mặc khải một cách hoàn hảo. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đến với chúng ta,
mặc lấy thân phận nhân loại của chúng ta. Khi thấy Người là thấy Chúa Cha.
Trước khi Đức Giêsu đến, người ta coi
như Thiên Chúa là Đấng xa cách và tách biệt của con người, không thể quan tâm
gì đến chúng ta và những nỗi đau khổ của chúng ta. Tệ hơn nữa, người ta còn
nhìn vào Người như một quan tòa hoặc một điệp viên, sẵn sàng vồ chụp và trừng
phạt con người. Nhưng từ khi Đức Giêsu đến, chúng ta không còn nhìn vào Thiên
Chúa như một người nào đó xa cách nữa, mà rất gần gũi với chúng ta, quan tâm
đến mỗi người chúng ta, bởi vì chúng ta là con cái của Người.
Đức Giêsu mặc khải về Chúa Cha như một
người Cha đầy tình yêu, lòng thương xót và luôn sẵn sàng tha thứ. Đó là một
Thiên Chúa không ở xa chúng ta, nhưng sống giữa chúng ta, và rất say mê quan
tâm đến chúng ta. Mối quan tâm của Thiên Chúa không phải là phê phán và kết án,
nhưng là chữa lành và cứu thoát. Đó là một Thiên Chúa đặc biệt gần gũi với
những người yếu đuối, nghèo khổ và quá nặng gánh,
Thiên Chúa giống như một giòng suối ở
bên chúng ta, mà chúng ta có thể say sưa uống lấy và làm cho bản thân mình được
tươi mát. Nhận biết về Thiên Chúa theo cách thức này, là nguyên nhân đưa đến
niềm vui lớn lao. Đây chính là niềm vui đã được loan báo cho các mục đồng trong
ngày Chúa Giáng sinh, và bây giờ, cũng đang được loan báo cả cho chúng ta nữa.
21. Sứ giả tin mừng
Thuở nước Mỹ chưa có bưu điện và những
phương tiện liên lạc tối tân, người ta tổ chức thành những trạm. Mỗi trạm cách
nhau chừng 25 Km. Tại mỗi trạm lúc nào cũng có sẵn những con ngựa khỏe.
Những kỵ sĩ sẽ chở thư từ trên lưng
ngựa. Họ phóng nước đại, chạy hết tốc lực từ trạm này tới trạm kia và ở đó họ
sẽ thay ngựa, rồi lại tiếp tục lên đường. Mỗi ngày một người phải chạy chừng
100 cây số.
Bình thường họ phải đem theo hai cây
súng để đề phòng mọi da đỏ. Họ chạy ngày và đêm, bất kể mọi thời tiết, để hoàn
thành cuộc hành trình dài tới ba ngàn cây số trong vòng một tuần lễ hay mười
ngày là cùng.
Việc hoàn thành mạng lưới điện thoại
nối liền hai bờ biển đông và tây đã chấm dứt vai trò của những con ngựa tốc
hành. Tuy nhiên, câu chuyện về những chàng kỵ sĩ gan dạ này vẫn còn làm cho
chúng ta khâm phục.
Qua đoạn Tin mừng vừa nghe, chúng ta
thấy Thiên Chúa cũng đã sai phái vị sứ giả của Ngài đến với chúng ta và chuyển
giao cho chúng ta một sứ điệp quan trọng, đó là hãy dọn đường Chúa đến.
Vị sứ giả đưa tin nàychính là Gioan
Tiền hô. Ông đến để đem lại cho chúng ta tin vui về Đấng Cứu thế. Kể từ đó,
hàng triệu người không phân biệt màu da và tiếng nói, thuộc đủ mọi dân tộc đã
đi theo dấu chân của ông và đã trở nên những người đem tin mùng của Chúa. Họ
loan báo và dọn đường cho Chúa đến trong tâm hồn mọi người.
Và điều đáng ngạc nhiên hơn nữa, đó là
có những nhà truyền giáo đã đem chân lý của Chúa xuyên qua các núi đồi, các
ghềnh thác, đến với những bộ lạc, những sắc dân còn man di mọi rợ.
Kể từ các tông đồ, biết bao nhiêu người
đã rảo bước trên khắp mọi nẻo đường và đã có mặt khắp mọi nơi, từ thành thị đến
những hang cùng ngõ hẻm. Và hơn thế nữa, còn dám hy sinh cả mạng sống để loan
truyền cái tin quan trọng, đó là
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã
đến và đang ở giữa chúng ta.
Tin mừng sự sống này cần phải được loan
báo, cần phải được đem đến cho từng người sống trên mặt đất.
Các nhà truyền giáo không thể hành động
đơn độc. Trái lại, chúng ta phải cộng tác với họ trong khả năng và phạm vi của
mình.
Có nhiều cách để thi hành điều đó.
Chúng ta cộng tác bằng lời cầu nguyện, xin Chúa luôn nâng đỡ để công cuộc rao
giảng Tin mừng của những nhà truyền giáo gặt hái được những thành quả tốt đẹp.
Chúng ta cộng tác bằng cách giúp tiền
bạc vật chất để tài trợ, nhờ đó những nhà truyền giáo sẽ có được những phương
tiện để họat động.
Chúng ta cộng tác bằng chính cuộc sống
thường ngày của chúng ta. Thực vậy, cuộc sống thường ngày của chúng ta phải là
một tin mừng. Mỗi lời nói, mỗi việc làm của bản thân, của gia đình, của giáo xứ
chúng ta cũng phải là một tin mừng, bởi vì qua đó chúng ta nói cho mọi người
biết được rằng:
- Đức Kitô, Đấng Cứu độ trần gian đã
đến và đang ở giữa chúng ta.
Hãy sống thế nào để mỗi người chúng ta
cũng trở nên một Gioan Tiền hô, một tông đồ nhiệt thành, đem Chúa đến cho những
người chung quanh.
22. Chứng nhân
Gioan Tẩy giả là một nhân vật quan
trọng luôn được nhắc tới trong Mùa Vọng, vì ngài là vị Tiền Hô đi trước kêu gọi
mọi người chuẩn bị tâm hồn đón Đấng Cứu Thế đến bằng cách thay đổi, cải thiện
đời sống. Bài Tin Mừng cho chúng ta tấy một điều nổi bật trong cuộc đời tiền hô
của ngài, đó là làm chứng cho Chúa Kitô, Ngài đã sống và chết cho vai trò chứng
nhân của mình. Ngay những trang đầu tiên sách Tin Mừng của thánh Gioan Tông đồ
đã cho chúng ta biết mục đích cuộc đời trần thế của Gioan Tẩy giả là làm chứng
cho Đấng Cứu Thế: "Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên ông là Gioan,
ông đã đến để làm chứng, để chứng thực về sự sáng, ngõ hầu mọi người nhờ ông mà
tin. Ông không phải là sự sáng, nhưng là người làm chứng cho sự sáng". Sự
sáng đây là Đấng Cứu Thế và Gioan đã làm chứng cho Đấng Cứu Thế một cách trung
thành nhất, bất vụ lợi nhất, kiên trì nhất và hoàn hảo nhất. Ngài đã làm chứng
bằng lời nói, bằng hành động và bằng máu.
Gioan Tiền Hô đã làm chứng bằng lời
nói: chúng ta biết vai trò hay sứ mạng của một ngôn sứ là phát loa, là thuyết
giảng, là loan báo về Đấng Cứu Thế. Gioan Tiền Hô đã đóng vai trò đó, ngài đã
nói những gì? Ngài bảo cho mọi người biết: "Tôi chỉ là tiếng nói trong
hoang địa, chuẩn bị đường đi cho Đấng Cứu Thế, sau tôi một Đấng sẽ đến, Đấng ấy
đã có trước tôi, cao trọng hơn tôi nhiều, và tôi không đáng xách dép cho
Ngài". Rồi khi Chúa Giêsu đến, Gioan đã chỉ vào Chúa và nói với dân chúng:
"Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh hết mọi tội trần gian", nghĩa là
đây là Đấng Cứu Thế, Ngài sẽ là nạn nhân hiến tế để cứu chuộc mọi người. Bài
Tin Mừng Gioan còn cho mọi người biết Chúa Giêsu là Đấng thánh hóa các linh
hồn, Ngài sẽ rửa mọi người trong Thánh Thần và lửa, đồng thời cũng là Đấng xét
xử mọi người: thưởng phạt mỗi người tùy theo công nghiệp của họ. Tóm lại, như
một người phát ngôn trung thành, Gioan loan báo cho mọi người biết: Chúa Giêsu
chính là Đấng Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế.
Không những làm chứng bằng lời nói,
Gioan còn làm chứng bằng hành động và gương sáng. Chúng ta biết Gioan là một
người rao giảng đầy uy quyền, kêu gọi được người ta ăn năn sám hối, trở về với
Chúa. Lời giảng của ngài được mọi người đương thời chú ý, tại sao vậy? Bởi vì
ngài chỉ nói sau khi đã làm hay đã sống, đã kinh nghiệm rồi mới nói, bí quyết
thành công của ngài là làm rồi mới nói, hoặc nói và làm đi đôi với nhau. Thực
vậy, ngài đã lấy cuộc đời khổ hạnh để làm chứng cho người tôi tớ của Giavê,
ngài đã sống khó nghèo để làm chứng cho Con Người không có chỗ dựa đầu. Thi
hành chức vụ tiền hô ngài cũng có một số môn đệ, nhưng ngài rất vui mừng nhường
số môn đệ ấy cho Chúa Giêsu, không một chút ghen tương, không một chút luyến
tiếc, bởi vì ngài biết Chúa Giêsu mới là vị tân lang của họ, còn ngài chỉ là
bạn hữu đến sửa soạn tiệc cưới mà thôi. Nói rõ hơn, Gioan không thể kêu gọi
người ta sám hối nếu ngài không sám hối trước, Gioan không thể kêu gọi người ta
khiêm nhường nếu ngài không quên cái tôi của mình, Gioan không thể kêu gọi
người ta thực hành bác ái nếu ngài không thực sự mến Chúa yêu người, Gioan
không thể kêu gọi người ta hy sinh nếu ngài chưa sống khắc khổ và hy sinh vì
người khác. Tóm lại, ngài được mọi người nghe và làm theo lời ngài giảng dạy là
vì ngài chỉ nói những gì ngài đã sống, đã làm, đã kinh nghiệm: "Lời nói
lung lay, gương bày lôi kéo", lời nói của Gioan đã làm chuyển biến lòng
người, nhưng đời sống và gương sáng của ngài đã thuyết phục được mọi người.
Sau hết, bởi vì Gioan luôn sống với tư
cách là chứng nhân của Đấng Cứu Thế, nên sau khi đã làm chứng cho Chúa bằng lời
nói và hành động, ngài còn muốn làm chứng bằng chính máu của mình nữa. Ngài tố
cáo cuộc hôn nhân bất chính của vua Hêrôđê với bà Hêrôđia, vợ của anh vua, nên
ngài đã bị tống giam vào ngục. Bà Hêrôđia vẫn chưa hài lòng, vì Gioan luôn là
mối cản trở cho hành động ngang trái của bà, bà tìm cách giết cho được Gioan,
chính vì thế mà trong bữa tiệc mừng sinh nhật Hêrôđê, lợi dụng lúc ông đã ngà
ngà say, bà xúi con gái là Salômê xin chiếc đầu của Gioan, vì Hêrôđê vui thú
trước những điệu múa của Salômê và hứa cho cô bé bất cứ thứ gì dù là nửa nước.
Thế là Gioan đã phải chết, ngài đã chấp nhận cái chết chứ không chịu để cho đạo
lý bị chà đạp, chấm dứt nhiệm vụ chứng nhân của ngài. Cuộc đời chứng nhân của
Gioan Tiền Hô là một bài học sáng giá cho chúng ta. Đời sống của một Kitô hữu
phải bắt chước đời sống của ngài, là làm chứng nhân cho Chúa trong mọi hoàn
cảnh: thuận cảnh cũng như nghịch cảnh. Hẳn là Chúa không đòi chúng ta phải sống
khắc khổ hay đổ máu đào như Gioan, nhưng Chúa đòi chúng ta phải là chứng nhân,
sống như Gioan trong đời sống hiện tại của mình, nghĩa là chúng ta phải là ánh
sáng, là muối, là men của trần gian, phải sống như bông sen giữa bùn lầy, như
bông huệ giữa bụi gai, đặc biệt là sống anh hùng như ngài, ngài là một anh hùng
của sự thật: suốt đời ngài chỉ sống theo sự thật và nói sự thật, điều gì có
ngài chân nhận, điều gì không có ngài nói không. Chúng ta hãy kiểm điểm và suy
nghĩ: chúng ta có bao giờ nói dối không? Chúng ta phải nhìn nhận rằng không
những chúng ta có nói dối mà còn nói dối nhiều hơn nữa, rồi nhiều khi chúng ta
còn ém nhẹm, giấu diếm, chua ngoa, thề thốt, phân bua cho là mình thật thà,
thẳng thắn, vô vị lợi... để lấp đầy đi cái thiếu thành thật của mình. Nếu chúng
ta đã sống như thế, chúng ta phải sửa lại, phải sống thành thật, có nói có,
không nói không, đừng thêm thắt, bịa đặt. Tuy nhiên chúng ta phải cẩn thận, vì
sự thật dễ mất lòng. Chúng ta phải sống thành thật, đó là điều tất nhiên, nhưng
sống thật thà không có nghĩa là buộc chúng ta phải nói tất cả những gì mình
nghĩ, mình biết, đức tính này buộc chúng ta suy nghĩ cẩn thận, chín chắn rồi
hãy nói, mà đã nói thì không bao giờ nói sai, nói thừa nói thiếu, nói dối để
khỏi gây thiệt hại cho bất cứ ai. Xin Chúa cho chúng ta quyết tâm sống được như
thế luôn mãi.
23. Vui mừng
Chuyện kể về một ông vua đang băn khoăn
bằng cách nào để có hạnh phúc. Nhà vua bèn mời một nhà khôn ngoan lại để bàn
hỏi xem làm thế nào vứt bỏ được những lo âu buồn rầu đang đè nặng tâm trí ông
đến nỗi phát bệnh. Làm thế nào để có hạnh phúc thực sự? Nhà thông thái trả lời:
"Chỉ có một cách duy nhất để chữa nhà vua. Đó là nhà vua phải nằm ngủ một
đêm trong cái áo của một người có hạnh phúc thực sự".
Các sứ giả được sai đi khắp quốc gia để
tìm kiếm một người thực sự đang hạnh phúc. Nhưng bất kỳ người nào khi hỏi đến
cũng có lý do để đau khổ buồn rầu. Một điều gì đó đã cướp mất hạnh phúc của họ.
Sau cùng họ tìm thấy một người, đúng hơn là một gã ăn xin. Hắn ngồi mỉm cười ở
giữa chợ đời. Hắn tự xưng là người hạnh phúc thực sự, không có một mảy may gì
buồn rầu lo âu. Người ta nói với hắn về điều nhà vua đang tìm kiếm. Nhà vua cần
phải ngủ một đêm trong cái áo của người có hạnh phúc thực sự, và cho anh ta một
số tiền rất lớn đền bù vào chiếc áo hạnh phúc đó.
Bạn nghĩ sao? Anh chàng ăn xin này có
đồng ý bán chiếc áo của anh đang mặc cho nhà vua không? Các bạn có biết phản
ứng của hắn ra sao không? Không nín được cười! Gã ăn xin bật cười lên hô hố mà
rằng: "Thật đáng tiếc! Tôi không thể nào làm hài lòng nhà vua được. Tôi
chẳng có chiếc áo nào cả!" Người hạnh phúc nhất trên đời không có ngay cả
một chiếc áo!
Trước Công Đồng Vaticanô II, Chúa nhật
thứ III Mùa Vọng hôm nay được gọi là "Gaudete Sundae".
"Gaudete" tiếng La tinh có nghĩa là "vui mừng". Trong nhà
thờ, đốt lên cây nến hồng ở Vòng Lá Mùa Vọng – Advent Wreath. Mầu hồng biểu
tượng cho sự vui tươi, yêu đời và hy vọng, vì Thiên Chúa đã gần đến rồi!
Quả vậy, con người đã được Thiên Chúa
tạo dựng nên là để chia sẻ niềm vui và hạnh phúc đời đời với Người. Vì thế,
Pascal đã nói rằng: "Tất cả mọi người đều đi tìm kiếm hạnh phúc hết, ngay
cả những người treo cổ tự tử". Niềm vui và hạnh phúc là mục đích của con
người sống trên trần đời. Nó cần thiết cho chúng ta như dưỡng khí cần cho tim
phổi, lương thực cần cho thân xác. Tuy nhiên, càng tìm kiếm nó, nó lại càng
vuột khỏi tay ta, như nước trôi qua các kẽ ngón tay. Ta nghĩ về hạnh phúc theo
quan niệm của ta. Ta long đong vất vả đi tìm nó ở nơi ta muốn tìm, ở nơi nó
không có.
Đi tìm hạnh phúc không đúng chỗ:
Trong "Tiếng Chim Ca" của cha
Anthony de Mello có truyện "Tìm Sai Chỗ" được kể như sau. Một người
thấy ông bạn láng giềng cứ lom khom cúi tìm mãi một cái gì dưới ánh đèn đường
nên hỏi: "Ông bạn đang tìm gì vậy?" Người láng giềng trả lời:
"Tôi tìm chìa khoá đánh rơi". Thế rồi cả hai cùng chăm chú, lom khom
tìm mãi. Một hồi lâu người này chợt nhận ra một điều gì nên hỏi người láng
giềng: "Mà ông bạn đánh rơi nó ở đâu vậy?" "Ở trong nhà thì
phải!" người láng giềng trả lời. "Nhưng tại sao ông bạn lại tìm ở
đây?" "Vì ở đây có đèn đường sáng hơn!!!"
Chỗ ngã ba đèn đường chiếu sáng nhất mà
người đời vẫn thường đến tìm kiếm hạnh phúc là "ngã ba chữ T": tình,
tiền, tài.
Có những bạn trẻ bước vào đời với lăng
kính màu hồng, hăm hở tìm hạnh phúc trong những giây phút huy hoàng của tình
dục mà họ nghĩ là tình yêu, họ đồng ý với Xuân Diệu rằng: "Thà một phút
huy hoàng rồi chợt tắt. Còn hơn le lói suốt trăm năm".
Có người lao mình vào việc tìm kiếm
tiền bạc bằng mọi cách. Họ bôn ba xuôi ngược trên chợ đời, tranh giành với
người, để rồi cuối cùng như nhà thơ Quốc Nghệ đã diễn tả sự thật chua cay bằng
những lời thơ châm biếm:
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền,
Mi làm nhân loại hoá ra điên.
Mi tô mặt nạ đen ra trắng,
Mi xé ân tình thẳng hoá xiên.
Mi gác luân thường vào một xó,
Mi đưa nhân nghĩa xếp hai bên.
Mi làm nhân loại đua tranh mãi,
Bạc ác chi mi lắm rứa tiền?
Có người dùng tài ba để tìm kiếm công
danh sự nghiệp hầu mang lại hạnh phúc. Thế nhưng danh vọng cũng kèm theo cuồng
phong bão tố, nước mắt và đoạ đày, như Nguyễn Công Trứ đã cảm nghiệm: "Ra
trường danh lợi vinh tiền nhục, vào cuộc trần ai khóc lẫn cười".
Điều lầm lẫn lớn nhất của chúng ta là
đã đồng hóa niềm vui hạnh phúc với khoái lạc thế trần, rồi đi tìm thỏa mãn nơi
thể xác, vật chất và cuộc sống ở bên ngoài. Chúng ta có thể đạt được khoái lạc
bằng dục vọng, danh tiếng và tiền bạc, nhưng tất cả những thứ này không thể nào
mang lại cho con người niềm vui và hạnh phúc thật sự.
24. Vui mừng
Hạnh phúc ở đâu? Bài Phúc âm hôm nay,
nói đến một nhân vật rất quan trọng nhưng khiêm tốn, dạy chúng ta cách đi tìm
hạnh phúc đích thật. Đó là Gioan tẩy Giả: "Ông đến để làm chứng",
"Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi".
Gioan chối từ tất cả những tước hiệu được dân chúng gán cho mình. Đối với Gioan
tẩy giả, hạnh phúc của ông là trở nên đầy tớ của Thiên Chúa, là con người giúp
cho mọi người quy hướng về Thiên Chúa.
Trong bài đáp ca, Đức Maria cũng đóng
vai trò này: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa... vì Chúa đã đoái nhìn phận hèn
tớ nữ của Chúa". Hạnh phúc của Đức Maria là được làm nữ tì của Thiên Chúa.
Sách Giáo lý Công giáo dạy rằng:
"Sự ao ước Thiên Chúa đã được ghi sâu trong tâm hồn con người, bởi vì con
người đã được sáng tạo bởi Thiên Chúa và cho Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng
lôi kéo con người lại với Ngài, và chỉ nơi Thiên Chúa, con người mới tìm thấy
chân lý và hạnh phúc mà con người không ngừng tìm kiếm".
Công Đồng Vatican II cũng dạy:
"Khía cạnh cao siêu nhất của phẩm chức con người là ở chỗ con người được
ơn gọi hãy hiệp thông với Thiên Chúa. Lời mời gọi con người đối thoại đã được
Thiên Chúa gửi tới con người từ khi có loài người. Bởi vì nếu có con người, thì
cũng tại Thiên Chúa đã tác tạo nên con người vì tình yêu, và vì tình yêu, Ngài
không ngừng ban cho con người hiện hữu. Và con người chỉ sống đầy đủ theo chân
lý nếu con người tự do công nhận tình yêu này và phú mình cho Đấng tác tạo nên
mình.
Linh mục Dominicô Đỗ Minh Trí trong
cuốn "Việt Nam Quê Hương Tôi", trang 41-44 đã kể câu chuyện "Con
Mèo Già và Con Mèo Trẻ" với hai đề nghị về hạnh phúc như sau:
Một con mèo già, đầy kinh nghiệm và
khôn ngoan thấy một con mèo trẻ, đang đuổi theo cái đuôi của chính nó. Tò mò,
nó hỏi con mèo trẻ: "Này con, con làm gì vậy? Tại sao con lại đuổi theo
cái đuôi của con như vậy?"Mèo trẻ trả lời: "Con nghe nói rằng cái tốt
nhất đối với một con mèo là hạnh phúc và hạnh phúc của con mèo ở trong cái đuôi
của nó. Vì vậy mà con đuổi theo cái đuôi của con. Khi nào con bắt được, con sẽ
có hạnh phúc!"
Mèo già trả lời: "Này con, ta đã
suy gẫm rất nhiều về vấn đề hạnh phúc. Và ta cũng đã đi đến kết luận rằng hạnh
phúc của ta là ở trong cái đuôi của ta. Nhưng ta cũng nhận rằng mỗi khi ta đuổi
theo cái đuôi, thì không thể nào ta bắt được. Trong khi đó, nếu ta làm một việc
khác nhất là khi ta lo lắng cho con mèo khác, thì cái đuôi của ta đi theo ta
bất cứ nơi đâu!"
1. "Hạnh phúc ở trong cái đuôi của
ta", con mèo già nói: Cái đuôi ở đằng sau, con mèo không nhìn thấy được.
Điều này diễn tả điều kiện đầu tiên của hạnh phúc: Không bao giờ nắm được. Hạnh
phúc không phải là mục đích, mà là một kết quả! Đó là một thực tại đi theo một
thực tại khác. Hạnh phúc là kết quả của tình thương yêu đối với loài người. Cái
cần phải nhắm tới là tình thương yêu đối với đồng loại, hạnh phúc sẽ đi theo
một cách tất yếu.
2. Người ta tìm thấy hạnh phúc của
chính mình khi làm việc vì hạnh phúc của người khác. Bằng cách tranh đấu cho sự
an vui của đất nước mình hay giúp đỡ người đồng loại, giải quyết các vấn đề của
họ. Lấy tình thương yêu đồng loại, tình thương yêu xã hội làm căn bản của cuộc
sống của mình. Đặt cơ sở đời sống của mình trên tình thương yêu để nhìn các
thiếu thốn của người khác như các thiếu thốn của chính mình, quyền lợi của
người khác như quyền lợi của chính mình. Hãy thoát ra khỏi bản thân mình, thoát
ra khỏi sự tìm kiếm hạnh phúc riêng tư của mình để làm việc vì hạnh phúc của
người khác.
Hạnh phúc hay nguồn vui Kitô giáo đem
lại khác xa với khoái lạc. Nó phong phú và sâu xa hơn cả nụ cười tươi nở trên
một khuôn mặt vui vẻ. Nó đến từ bên trong, từ hành động phục vụ tha nhân và ý
thức rằng Thiên Chúa hiện diện với chúng ta sẽ làm chúng ta hạnh phúc. Một sự
bình an nội tại không có gì có thể lấy mất khỏi chúng ta. Phục vụ Thiên Chúa là
cội nguồn của niềm vui Kitô giáo. Đó là tình trạng của ân sủng không vướng mắc
tội lỗi. Chúa ở cùng ta, ta sống trong Chúa, như Đức Maria diễn đạt trong kinh
Ngợi Khen ở bài đáp ca hôm nay: "Linh hồn tôi nhảy mừng trong Chúa"
"Lúc nào cũng lo tìm hạnh phúc, ta
sẽ chẳng bao giờ thấy hạnh phúc.
Hạnh phúc phải được tạo thành thay vì
tìm thấy".
"Hạnh phúc không phải là cái bạn
cầm trong tay, nhưng là cái bạn mang trong tim".
"Muốn được hạnh phúc, đừng cộng
thêm của cải, nhưng hãy trừ bớt ham muốn".
(Định nghĩa Cuộc Đời của Trần văn
Điền).
25. Dấu chỉ Đấng Messia - Lm. Giuse Tạ
Duy Tuyền
Nhân loại qua mọi thời đại luôn ngưỡng
mộ những con người sống phục vụ, sống dấn thân vì lợi ích đồng loại, nhưng đáng
tiếc lại rất ít người dám cúi mình phục vụ tha nhân. Bản tính con người thường
ham sướng sợ khổ. Con người luôn thích lánh nặng tìm nhẹ. Người ta sợ hy sinh.
Người ta tìm hưởng thụ và sự an nhàn cho bản thân nên có mấy ai dám hiến dâng
cuộc đời cho hạnh phúc tha nhân.
Dầu vậy, thế giới ngày hôm qua cũng như
ngày hôm nay vẫn còn đó những con chim én đang tìm đàn để tạo nên muà xuân tô
thắm cho nhân loại. Đâu đó vẫn còn đó những người đơn độc một mình nhặt những
cái đinh đang rải rác trên đường do bọn đinh tặc mất tính người rải ra. Đâu đó
vẫn còn đó những người đang âm thầm đi đến phục vụ những bệnh nhân đang nằm
thoi thóp trên giường bệnh mà thiếu người thân chăm sóc. Đâu đó vẫn còn đó
những con người tình nguyện đem ánh sáng văn hoá cho các trẻ em nông thôn vùng
miền núi xa xôi. Và đâu đó vẫn còn đó những con người đang cúi mình tắm rửa cho
các bệnh nhân Sida hay các bệnh nhân tại các trại phong...
Tất cả những con người đó đang làm cho
thế giới này đẹp hơn về tình người, ấm áp hơn tình đồng loại. Người ta kể rằng:
có một cha già cố cả đời sống thanh bần để lo cho giáo dân. Ngài chẳng giữ lại
cho mình cái gì. Ngài luôn cho đi tất cả. Ngài luôn chia sẻ cho người nghèo
trong xứ cái ăn, cái mặc mà quên đi cả bản thân. Cho tới ngày ngài nhắm mắt
xuôi tay, người ta muốn tìm một bộ đồ đẹp để thay cho ngài nhưng không tìm
thấy. Lúc đó, người giúp việc bên ngài mới kể lại: Cha già đã cho đi tất cả,
chỉ còn một bộ mặc trên mình và một số đồ cũ kỹ mà thôi. Đây chính là một mẫu
gương sống đơn sơ và nghèo khó. Đây là một dấu chỉ của cuộc sống người môn đệ
của Chúa. Một cuộc sống yêu thương, hiến dâng. Một cuộc sống không cần lo cho
bản thân. Vì "cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi
gối đầu".
Đức Giêsu khi tỏ dấu hiệu cho muôn dân
nhận thấy Ngài là Đấng Messia, Ngài đã tỏ mình ra trong thân phận một người tôi
tớ phục vụ. Ngài đến trần gian trong thân phận một hài nhi yếu đuối. Ngài đã
sống một cuộc đời nghèo nàn trong thân phận bác thợ mộc làng quê Nagiaret. Dấu
chỉ duy nhất mà Ngài đã tỏ bày về thân phận Đấng Messia chính là: "Cho kẻ
mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết
sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng".
Cuộc đời chúng ta là một mùa vọng. Ngày
nào Chúa cũng có thể đến với chúng ta. Lúc nào Chúa cũng có thể ngỏ lời cùng
chúng ta. Vì vậy, hãy tỉnh thức. Vì Chúa sẽ không đến trong một biến cố kinh
thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến
trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa
sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một
bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một ánh mắt cảm thông. Chúa sẽ đến
trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Hãy tạ
ơn Chúa qua những con người đang sống với chúng ta, đang hy sinh vì chúng ta.
Hãy tạ ơn Chúa vì chúng ta luôn được sống trong tình nghĩa thằm thiết của những
người thân bên cạnh chúng ta. Họ chính là hiện thân của Chúa để yêu thương và
phục vụ chúng ta.
Bên cạnh đó, Chúa cũng mời gọi chúng ta
cũng trở nên dấu chỉ cho sự hiện diện của Chúa. Đó chính là lòng bác ái, là
tình yêu thương. Đây là hiệu kỳ của người ky-tô hữu, là căn tính của người môn
đệ Chúa Kitô, vì "người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của
Thầy. Đó là các con hãy thương yêu nhau". Đặc biệt trong mùa này, mùa tình
yêu, mùa của chia sẻ và trao ban. Vâng, lễ giáng sinh chính là lễ của tình yêu.
Thiên Chúa mang lấy thân phận một hài nhi yếu đuối đang cần chúng ta chăm sóc.
Ngài đang cần chúng ta tái diễn tình yêu của Ngài cho những người đau khổ,
nghèo đói, tật nguyền. Ngài đang cần đôi tay của chúng ta để Ngài băng bó vết
thương cho trần thế. Ngài đang cần đôi chân chúng ta để Ngài lại có thể ra đi
đến với những ai đang thất vọng sầu khổ. Và Ngài cũng cần trái tim của chúng ta
để Ngài lại có thể cảm thông, chia sẻ với những ai bất hạnh đang mang nặng gánh
đau thương. Đây cũng là phương thế để chúng ta dọn đường cho Chúa đến với nhân
thế hôm nay.
Xin Chúa chúc lành cho những dự định,
ước mơ và công việc của chúng ta ngõ hầu người ta sẽ nhận biết chúng ta là môn
đệ Thầy Chí Thánh Giêsu. Amen.
26. Chú giải của Noel Quesson
Có một người được Thiên Chúa sai đến,
đó là Gioan. Ông đến để làm chứng...
Cùng với Đức Maria, Gioan Tẩy Giả là
khuôn mặt lớn xuất hiện trong Mùa Vọng. Mỗi năm, Phụng vụ đều dành trọn Chúa
nhật II và III Mùa Vọng nói về Gioan.
Một bài ca diễn Tin Mừng (bài hát được
sáng tác từ nội dung Tin Mừng) đã ca tụng tuyệt vời vai trò duy nhất của Gioan:
"Là vị Ngôn sứ cuối cùng, là chứng nhân đầu tiên cua Đức Giêsu Kitô, là
tiếng kêu trong hoang địa, thế mà ông đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước
Đấng mà ông loan báo: Lạy Ngài, đó là sự cao cả, niềm vui của Ngài giờ đây đã
nên trọn vẹn. Hỡi vị chứng nhân của ánh sáng, xin hãy nói cho chúng tôi hay,
Đấng Mê-si-a sẽ đến với chúng tôi bằng con đường nào!". Và những câu
chuyện tiếp của bài ca đã lập lại một số lời của Gioan.
Thực sự, không ai tiêu biểu hơn Gioan
trong Mùa Vọng. Ông là vị ngôn sứ cuối cùng và cao cả của Cựu ước (Lc 1,76; Mt
11,9): Do đó ông là con người nối kết giữa quá vãng và tương lai, giữa điều có
trước và cái đến sau.
Lạy Chúa, xin giúp con biết trung thành
với nguồn góc của chúng con trong quá khứ, nhưng cũng luôn mơ tới mọi cái mới
mẻ mà Chúa muốn chúng con thiết lập Hôm Nay.
Ông đến để làm chứng, và làm chứng về
ánh sáng.
Chứng nhân của ánh sáng! Tước hiệu đẹp
biết bao! Gioan là người chứng tá!
Ba Tin Mừng kia đều giới thiệu cho ta,
Gioan Tẩy Giả như "người rao giảng lòng sám hối" chỉ có Tin Mừng thứ
tư cho ta hay, ông được coi như "chứng nhân của ánh sáng"...
"người chứng thứ nhất của Đức Giêsu Kitô". Ta đừng quên rằng, từ
chứng nhân, được sử dụng trong tiếng Hy Lạp, ở thuộc ánh "Martyros",
và trên thực tế, Gioan đã là vị "chứng nhân đầu tiên" của Đức Giêsu.
Tin Mừng Thánh Gioan luôn lặp lại tư tưởng này: Thế gian "lên án" Đức
Giêsu. Người ta phủ nhận và tố cáo Người. Cuộc kết án này chỉ nhằm đến một vấn
nạn: "Nhưng ông ta là ai?" Khi đó các chứng nhân mới xuất hiện và làm
chứng cho kẻ bị tố cáo. Từ "chứng tá" được sử dụng 14 lần, và động từ
"làm chứng" được dùng tới 33 lần. Người chứng đầu tiên đã xuất hiện,
đó là Gioan Tẩy giả: "ông đến để làm chứng về ánh sáng". Liệu tôi có
dám quyết định theo Đức Giêsu, khi người ta tố cáo Người không?
Và đây là lời chứng của ông Gioan, khi
người Do Thái đến hỏi ông: "Ông là ai? Tại sao ông làm phép rửa?"
Những câu hỏi trên cũng mời gọi ta tự
vấn về vai trò chứng nhân của mình. Mọi Kitô hữu đều phải trở nên nhân chứng
cho Đức Kitô. Do đó ta hãy nhìn coi, chính cách sống của Gioan đã đặt vấn đề
cho những người đồng thời với ông. Người ta thắc mắc về lai lịch của ông. Chúng
ta có trở thành vấn đề cho những người nhìn ngắm chúng ta sống không? Trong
cung cách đối xử của ta có điều gì kích thích người khác phải suy nghĩ không?
Lạy Chúa, xin giúp chúng con sống cách nào để những người sống chung quanh
chúng con, các bạn đồng sự, những người quen biết đều tự hối về "bí
quyết" chúng con đang sống. Vậy ông là ai?
Tôi không phải là Đấng Kitô... cũng
không phải là vị Ngôn sứ... tôi là một "Tiếng kêu".
Vậy là sau lời hạch hỏi về lai lịch của
Gioan, người chứng, lại đến lý lịch của Đức Giêsu mà người ta muốn tìm biết.
Vấn nạn thực sự đang gây nóng bỏng trên môi miệng những kẻ thăm dò, đó là:
"ông có nhận mình là Đức Kitô không?". Rồi một câu hỏi khác lại được
gợi lên: "Thôi được, vậy ông ấy là ai? ông có biết ông ta không?"
Câu trả lời của Gioan đáp ứng cả hai:
ông khiêm tốn chậm rãi nói, ông không phải là Đấng Kitô... Rồi ông nói thêm,
ông chỉ muốn là một "tiếng kêu, tiếng kêu về một người khác! Hôm Nay, Giáo
Hội và mỗi Kitô hữu, cần phải lập lại chứng tá can trường của Gioan: "Hỡi
Giáo Hội, Giáo Hội có thể nói gì về chính mình? Giáo Hội coi mình là ai? Hỡi
Kitô hữu, bạn có thể nói gì về chính mình? Bạn coi mình là ai?". Không,
tôi không phải là Đức Kitô. Tôi chỉ là tiếng vang vọng của Đức Kitô. Lạy Chúa,
xin giải thoát chúng con khỏi những tự phụ coi mình như chiếm hữu chân lý, như
những "kẻ độc quyền thừa hưởng" Đức Giêsu Kitô.
Có một Vị đang ở giữa các ông mà các
ông không biết.
Đấng Kitô không hiện diện ở một nơi duy
nhất? Tôi tin rằng Đấng Kitô mà các ông đang kiếm tìm đó, đã ở giữa các ông, ở
giữa những hy vọng, những cuộc giao chiến, những tình yêu nhân loại của các
ông! Tính ưu việt duy nhất của Giáo Hội, của người Kitô hữu, là "nhận
biết" và gọi tên " Đấng mà con người đang mong đợi và dò dẫm tìm
kiếm, Đấng đang hiện diện trong cuộc đời họ, chẳng hạn, vào ngày 10-12-1948,
khi Liên Hiệp Quốc công bố bản Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền, thì chúng ta nhận
ngay ra rằng, đó là một sự hiện diện "của Đấng đang" ở giữa cho dù
Người chưa được người ta nhận biết. "Ta đói các ngươi đã nhận ra quyền
sống của ta... Ta ở tù, bị ngược đãi bị tra tấn, các ngươi đã nhận ra quyền
được bảo vệ nhân phẩm cuả ta....Nỗi khát vọng lớn lao của nhân loại là được
sống công bình hơn, thì đó là sự hiện diện của Đấng hoàn toàn công chính. Biết
bao người thuộc mọi tôn giáo các vị lãnh đạo các quốc gia thuộc mọi ý thức hệ,
đã có thể công bố một văn kiện như thế, thì đó không phải là một dấu chỉ thời
đại sao? ở giữa các ông vẫn có một vị nào đó... cho dù các ông chưa gọi được
tên Người. Dù là Kitô hữu nhưng có thể chúng ta đã miễn cương phải chấp nhận
phong trào đề cao nhân quyền trên đây, bởi vì ta cũng thuộc vào số người thường
nhạo báng những quyền đó, mỗi lần ta khinh miệt một người anh em. Nhưng làm sao
ta lại không vui mừng trước yêu cầu phải tôn trọng mọi người đang lớn dần trong
nhân loại. Hôm Nay, khi ta biết rằng, Thiên Chúa đã làm người, và trong Đức
Kitô mà ban tính con người đã được nâng lên tới một phẩm giá siêu việt và điều
đó không phải chỉ có giá trị cho các kẻ tin Đức Kitô, nhưng đúng ra cho mọi
người thiện chí, được ơn Thánh hoạt động cách vô hình trong tâm hồn...",
như Công đồng Vatican II đã quả quyết rõ ràng (G.S 22).
Vị mà các ông không biết... Người sẽ
đến...
Suốt cuộc đời Đức Giêsu đã không được
người đời nhận biết. Thiên Chúa không đến trong tiếng kèn thổi, trong sấm sét
bão giông. Thiên Chúa không phải là "kẻ chà đạp" hay "thống
trị". Người như "tiếng gió thì thầm mà ta không biết đâu đến và sẽ
thổi tới đâu". (Ga 3,8). Thiên Chúa là "Đấng tự để cho người ta chà
đạp, đóng đinh, buộc tội". Như thế có ngược đời không? Không đâu! Đó là sự
thật về Thiên Chúa, Đấng chỉ có thể là "Thiên Chúa dấu ẩn", ta không
thể nắm bắt được "Bản thể " của Người. Và về căn tính của Đức Giêsu "(Vậy
ông là ai'), tất cả mọi dò tìm của lý trí cũng đều bất lực. Người thực sư là
"Thiên Chúa không thể biết được", là "Thiên Chúa dấu ẩn"!
Lạy Chúa, xin giúp chúng con nhận ra
Chúa, ngay tại nơi Chúa ẩn dấu, con đang kiếm tìm Chúa trong sức khỏe, trong
thành công, trong tình thân hữu, trong hạnh phúc được sống (và Chúa vẫn ở đó!).
Thế mà con chỉ thấy bệnh tật, thất bại trong cuộc sống vợ chồng, bà con hay
nghề nghiệp, và nghèo đói. Lạy Chúa, xin giúp con đừng bỏ qua mà không nhận ra
sự hiện diện đáng bị che dấu của Chúa.
Này bạn, nếu bạn khám phá ra Tôi đang
dấu ẩn, nhưng luôn hiện diện, thì bạn đã tìm được một nguồn vui sướng mà không
ai, không gì có thể làm say mê bạn hơn được, niềm vui Magnificat của những
người nghèo, niềm vui của Gioan Tẩy Giả khi ông thấy mình nhỏ bé đi, còn niềm vui
của Người "bây giờ đã trọn vẹn" (Ga 3,29-30).
Tôi không đáng cởi quai dép cho
Người...
Gioan Tẩy Giả là con người "khiêm
tốn xóa bỏ đời mình trước Đấng ông loan báo" Gioan Tẩy Giả, đó là chứng
nhân đúng nghĩa nhất. Ông chỉ hiện diện nhằm quy chiếu về một Đấng khác. ông từ
chối tước hiệu Kitô (Ga 1,20). ông mong ước được 'biến đi" để Người
"lớn lên" (Ga 3,30). Ông không phải là ánh Sáng, nhưng chỉ là một cây
đèn nhỏ đốt sáng trong đêm tối (Ga 5,35). Ông là người "tôi tớ" không
xứng đáng cởi quai dép cho chủ (Ga 1,27). Ông chỉ là bạn hữu của chàng rể, đứng
xa xa, bị xóa mờ (Ga 3,29). Ông đã hết sức hoàn tất "tác vụ " của
mình, bằng cách tự đình chỉ công việc của mình để làm 'lợi ích cho Đức Giêsu,
bằng cách hy sinh mọi môn đệ của mình để gđi họ đến theo một Đấng khác"
(Ga 1,35-39). Cuối cùng ông đã chết trước khi thấy vinh quang của Đấng Phục
sinh, trong cảnh hoàn toàn mù tối của nghi ngờ: "Thầy có phải là Đấng
Thiên Chúa sai đến không, hay là chúng tôi còn phải đợi ai khác " (Mt.
11,2). Như thế Gioan Tẩy Giả không những là một chứng nhân" tuyệt hảo, mà
cũng là "mẫu tín hữu" tiêu biểu: "Kẻ không thấy nhưng vẫn tin
" (Ga 20,29).
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin cầu cho
chúng con.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho
chúng con có khả năng tự xóa mờ và sống khiêm tốn như Ngài.
Lạy Thánh Gioan Tẩy Giả, xin ban cho
chúng con "tình yêu điên cuồng" đó, biết hy sinh cho kẻ khác để niềm
vui chúng con được trọn vẹn...
Tôi đây làm phép rửa bằng nước.
Đó là những chuyên viên "thanh
tẩy", các tư tế và trợ tế chính thức, được giấy tờ công nhặn hẳn hoi (Ga
1,19), đến kiểm chứng tư cách chính. thức của kẻ ngoại cuộc này, mà hoạt động
"tha tội" (Mc l,4) của ông ta đáng bị tôn giáo tinh tuyền, tôn giáo
của Giêrusalem ngần ngại và cấm đoán (Ga 1, 1 9 ). Bởi vì những kẻ đến hạch hỏi
Gioan, chính là nhóm người pharisêu, những kẻ "sạch", những
"Peruoushim", biết trọn vẹn lề luật, các quy định, những điều được
phép hay cấm đoán... (Ga 1,24). Nhưng than ôi, những người Pharisêu trung hậu
này, khi chăm chú đến những nghi thức đúng thực, lạy bỏ qua Đấng duy nhất có
quyền tha tội. Phần lớn số người trong nhóm họ sẽ từ chối Ngài. Bởi vì chính
Gioan Tẩy giả biết rõ Đấng đó: Không phải ông, người thừa tác và tôi tớ hèn mọn
tha tội... vì ông chỉ làm phép rửa bằng nước... nhưng sau ông, sau cử chỉ làm
phép rửa có tính nghi thức của ông, thì "chiên xóa bỏ tội trần gian"
sẽ đến (Ga l,29).
Lạy Chúa, càng tới gần lễ Noen, xin
giúp chúng con mau mau tới gần Chúa, vì chỉ mình Chúa mới xóa bỏ được tội lỗi.
Các việc đó đã xảy ra tại Bêtania, bên
kia sông Giođan.
Họ đã từ Giêrusalem đến... từ thành
thánh, trung tâm thế giới để phổ biến và giám sát lời Chúa. Thế mà, Thiên Chúa
lại tỏ mình ra trên một miền đất lạ,, bên kia sông Giođan. Vị thánh sử rất tin
vào tầm quan trọng của khung cảnh địa lý này, khiến ông nhấn mạch tới hai lần
(Ga 1,28 và 10 40). Lạy Chúa, xin gúp chúng con trở nên nhưng "thừa
sai", không đóng khung mình trong ranh giới hạn hẹp của chúng con. Xin mở
rộng lòng chúng con nhận ra sự hiện diện kỳ diệu của Chúa... trên bờ sông bên kia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét