Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

TM CN 24 & TRUYÊN CHỨC GM GP. HƯNG HÓA






















Chúa Nhật XXIV Thường niên - Năm C -  Video TV 50



1.

2.
Lòng nhân từ thương xót của ....Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

3.

4.
Sự tha thứ  Lm Mark Link

5.
Lòng bao dung của Thiên Chúa  Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà

6.

7.

8.

9.

10.

11.

12.

13.

14.

15.

16.

17.

18.
Người cha  Sưu tầm

19.
Tha thứ  Sưu tầm

20.

21.
Tình thương vô biên   Sưu tầm

22.

23.
Nhân lành   Sưu tầm

24.
Thương xót   Sưu tầm

25.
Thương người   Sưu tầm

26.
Nhân hậu   Sưu tầm


Chúa Nhật XXIV thường niên  - Năm C

THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT

ĐTGM. Ngô Quang Kiệt


Bài Phúc Âm vừa nghe là một trong những trang đẹp nhất của Tin Mừng. Có thể gọi đó là Tin Mừng của Tin Mừng. Vì chương 15 Phúc Âm Luca này được coi như bản tóm tắt tất cả Phúc Âm. Tin Mừng đó là Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa thực vô biên, dài, rộng, cao, sâu khôn lường, ta không thể nào hiểu thấu. Những bài sách thánh hôm nay hé mở cho ta mấy nét của lòng thương xót vô biên đó.
1. Nét thứ nhất của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa là: sự tha thứ
Tình yêu đích thực không được đo bằng đam mê nồng cháy. Bởi những đam mê nồng cháy mau qua như một cơn bão lốc. Bão lốc qua đi chỉ để lại đổ vỡ điêu tàn.
Tình yêu đích thực không được đo bằng hy sinh tận cùng. Người ta có thể hy sinh mạng sống vì của cải, danh vọng. Hy sinh như thế có thể chỉ vì bản thân mình chứ không phải vì người khác.
Tình yêu đích thực được đo bằng sự tha thứ. Chỉ có yêu thực lòng, yêu tha thiết mới có thể tha thứ. Khi yêu người ta dám cho đi tất cả. Nhưng ít có ai cho đi sự tha thứ. Chính tha thứ mở cho ta cánh cửa dẫn vào thâm cung nhiệm mầu của tình yêu.
Tha thứ là đặc tính của tình yêu Thiên Chúa. ta hãy đọc lại lịch sử dân Israel. Biết bao lần dân chúng phản bội, chống lại Thiên Chúa. Nhưng Chúa vẫn nhân từ tha thứ. Khi Môsê cầu nguyện trên núi, dân Do Thái đã phản bội, gom góp vàng bạc đúc tượng bò mà thờ. Chúa nổi giận muốn phạt họ. Nhưng khi Môsê nài xin Chúa, Chúa đã nguôi giận mà tha thứ cho dân.
Phaolô ghét đạo Chúa, đi tìm bắt những người theo Chúa. Nhưng Chúa đã thương hoán cải ông. Hơn nữa, Chúa còn chọn ông làm Tông đồ cho Chúa.
Người con bỏ nhà ra đi, phung phí hết tiền của cha, nhưng người cha già vẫn yêu thương chờ đời, tha thứ hết khi nó trở về.
Sự tha thứ của Thiên Chúa đối với con người, nhất là người tội lỗi thực là vô biên. Sự tha thứ ây minh chứng tình yêu của Thiên Chúa đối với con người lớn lao biết chừng nào.
2. Nét thứ hai của lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: sự đi tìm.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng Người không chỉ ngồi đó chờ kẻ có tội trở về xin lỗi rồi mới thứ tha. Không, chính Thiên Chúa chủ động, có sáng kiến đi tìm con người. Đó là nét độc đáo trong tình yêu thương tha thứ của Thiên Chúa.
Chính Chúa đi tìm Phaolô khi ông đang trên đường lầm lạc, có sáng kiến làm ông té ngựa để đưa ông trở lại với Chúa. Chính Chúa là người chăn chiên đi tìm con chiên bị lạc. Là người ra ngõ tìm đứa con bỏ nhà đi hoang. Cuộc đi tìm không phải dễ dàng. Người chăn chiên phải băng đồi vượt sông, luồn lách qua gai góc, dẫm đạp sỏi đá, chịu đựng nắng mưa, bất chấp thú dữ rình rập. Người phụ nữ phải thắp đèn soi vào mọi ngóc ngách trong nhà, lùa chổi vào những khe nứt nhỏ bé, kiên nhẫn moi móc tìm kiếm niềm hy vọng mong manh. Người cha phải vượt qua những thành kiến xã hội, lòng tự ái bị thương tổn, trái tim đau đớn vì yêu thương.
Đi tìm là yêu thương. Còn hơn thế, đi tìm là đã tha thứ. Quả thật Chúa đã yêu thương ta trước. Người yêu thương ta trước khi ta biết Người. Người tha thứ cho ta trước khi ta xin lỗi. Người đi tìm ta trước khi ta trở về.
3. Nét thứ ba của lòn thương xót vô biên của Thiên Chúa. Đó là: Thiên Chúa yêu thương từng người, dù rất bé nhỏ.
Trong đời sống xã hội, những người bé nhỏ nghèo hèn thường bị bỏ quên: sống cô đơn, chết cô độc, chìm vào quên lãng. Nhưng trong trái tim Thiên Chúa, mỗi người đều chiếm một vị trí quan trọng. Mỗi người đều là duy nhất độc đáo, không thể thay thế được đối với Thiên Chúa. Càng bé nhỏ nghèo hèn lại càng chiếm vị trí quan trọng trong tình yêu Thiên Chúa.
Một con chiên lạc có gì so với 99 con chiên còn lại. Giữ 99 con còn lại vừ nhàn nhã lại vừa có lợi. Đi tìm một con đi lạc vừa mệt nhọc lại vừa thiệt thòi. Nhưng trong tình yêu làm gì có tình toán thiệt hơn. Một con chiên nhỏ bé lạc loài đã chiếm hết trái tim của người mục tử nhân từ. Bao lâu chưa tìm được con chiên nhỏ bé gầy gò, lạc bầy ấy, lòng người mục tử ấy vẫn còn khắc khoải lo âu.
Đứa con bỏ nhà ra đi, xài phí hết gia sản cha mẹ làm sao sánh được với đứa con trai ngoan ngoãn ở nhà, biết chăm lo công việc, luôn hiếu thảo phụng dưỡng mẹ cha. Ấy vậy mà người cha ăn không ngon, ngủ không yên, tắt tiếng cười, mắt mờ lệ, bao lâu đứa con hư hỏng chưa trở về.
Thật kỳ diệu tình thương của Thiên Chúa. chính vì những tâm hồn bé nhỏ, tội lỗi, yếu đuối ấy mà Thiên Chúa đã sai Con Một Người xuống trần gian như lời Chúa Giêsu nói: “Những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”.
Thực là vô biên lòng thương xót của Thiên Chúa. lòng thương xót ấy lớn hơn cả trái tim của ta. Ơn lành của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của ta. Sự tha thứ của Thiên Chúa lớn hơn cả trí tưởng tượng của ta. Tất cả chúng ta hãy đến với Người. Hãy mang theo những yếu đuối lầm lỡ của ta. Hãy cho Người xem vết thương từ lâu gặm nhấm trái tim ta. Hãy tâm sự nỗi buồn vô vọng của ta. Thiên Chúa Cha chúng ta Đấng giaù lòng thương xót. Không có tội lỗi nào Người không tha thứ,không có vết thương nào Người không chữa lành. Không có nỗi buồn nào Người không an ủi.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Kể ra vài nét của lòng thương xót của Chúa.
2. Tại sao tha thứ là dấu chỉ rõ nhất của tình yêu?
3. Cảm nhận được tình yêu và đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. bạn có coi điều này là hệ trọng nhất trong đời không?

              

LÒNG NHÂN TỪ THƯƠNG XÓT
CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Ðề: Lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Người mục tử đi tìm con chiên lạc. (Lc 15, 4)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến 
Chúng ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối. "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!"
Thánh lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa: mặc dù chúng ta nhiều tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta cùng ăn đồng bàn với Ngài.
Chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng cách nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ.
II. Gợi ý sám hối
* Dùng công thức sám hối trong sách lễ Rôma trang 567.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 32, 7-11. 13-14)
Đoạn này bắt đầu câu chuyện con bê vàng.
Ngay sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận. Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa.
Trong chuyện này có 2 điểm đáng chú ý:
·                     Môsê đã liên kết với dân: mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel. 
·                     Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu "Thiên Chúa đã thương, không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe". 
2. Đáp ca (Tv 50)
Lời cầu nguyện của tội nhân sám hối. Lý do được nêu lên để nài xin tha thứ không gì khác hơn là lòng nhân từ thương xót của Chúa: "Lạy Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm".
3. Tin Mừng (Lc 15, 1-32)
Khung cảnh: thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Có 3 dụ ngôn: 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 à 1/10 à ½). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, đồng bạc - người ta thường nói "đồng tiền liền khúc ruột - và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
4. Bài đọc II (1 Tm 1, 12-17) 
Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài:
·                     "Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài thương xót"
·                     "Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi"
·                     "Sở dĩ tôi được thương xót là vì Chúa Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Ngài". 
IV. Gợi ý giảng
* 1. Giá trị của từng con người 
Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v. v. một hội viên phát biểu: "Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng". Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: "Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi".
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia xẻ tâm ý của Chúa? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô (bài đọc 2).
* 2. Cái mất là cái quý
Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.
Lý do là: cái mất đi trở thành cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quý.
Sự quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau)
Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: "Vì tôi lạc bị mất một con chiên". Chúa Giêsu nói: "Để Ta đi tìm nó cho". Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: "Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó".
Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì?
·                     Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại. 
·                     Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn. 
·                     Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa. 
* 3. Những con người bị mất
Không chỉ đồ vật hay thú vật bị mất, mà chính con người cũng có thể bị mất. 
Những con người bị mất ấy là ai?
·                     Là những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang. 
·                     Là những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo. 
·                     Là những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời. 
·                     Là những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau. 
·                     Là những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa. 
·                     Là những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo. 
Những con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta. Nhưng buồn thay, nhiều người không hề quan tâm đi tìm họ lại.
* 4. Tuyệt đỉnh của yêu thương
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới đức Giám Mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa.
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
*
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: "Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất". Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, "lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa" (A. Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: "Lạy Cha, xin tha cho họ". Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: "Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù loà".
*
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đường sẽ trống rỗng, và thế giới này không có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen. (TP)
5. Chuyện minh họa
a/ Sự tha thứ của Chúa
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông. 
- Ông biết đây là gì không?
- Nó giống như cát. 
- Ông có biết tại sao tôi mang nó vào đây không?
- Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao. 
- Đây là tội tôi. Tội tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được tha thứ tất cả?
- Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
b/ Không cần đếm
Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp: không biết. "Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết? " Câu trả lời thật ý nhị: "Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt. "
V. Lời nguyện cho mọi người 
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của người có tội thật lòng ăn năn thống hối. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng khẩn khoản nài xin:
1. Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần / tuôn đổ đầy trành tình yêu của Người vào tâm hồn mọi thành phần Dân Chúa / để ai nấy đều trở nên sứ giả đem tình thương của Chúa đến cho hết thảy mọi người.
2. Hiện nay / có biết bao thanh thiếu niên bỏ nhà đi bụi đời vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau / trong số đó nổi bật nhất là do thiếu tình thương / và sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ / hoặc cha mẹ bất hòa hay ly dị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn là tổ ấm tình thương / là nơi nương tựa cho mọi thành viên của mình.
3. Thử thách gian truân nhiều khi làm cho con người lâm vào cảnh bế tắc / mất hết niềm hy vọng để vui sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chạy đến cùng Chúa khi gặp buồn phiền đau khổ / để được Người nâng đỡ ủi an.
4. Chúa yêu thương tất cả mọi người / không kỳ thị thiên tư / không phân biệt đối xử với bất cứ ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn noi gương Người trong cách cư xử của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần, mà đến bảy mươi lần bảy. Xin ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là những người vô cùng hạnh phúc vì có một người Cha vô cùng nhân từ thương xót là Thiên Chúa. Với tất cả tâm tình kính mến, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.
VII. Giải tán
Chúng ta đã thấy Chúa đã đối xử với chúng ta cách nhân từ thương xót như thế nào. Chúng ta cũng hãy đối xử như thế với những anh chị em chúng ta.





Chúa Nhật XXIV thường niên  - Năm C
THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ
Lm Giuse Đinh lập Liễm
A. DẪN NHẬP. 
          Chủ đề của ba bài đọc hôm nay là Thiên Chúa thương xót những người tội lỗi. Trong bài đọc 1, chúng ta thấy ngay sau khi dân Do thái ký Giao ước với Thiên Chúa đã quay ra phản bội, họ đã bỏ Chúa mà đi tìm một thần tượng khác làm hộ mạng, tức là thờ lạy con bê vàng. Thiên Chúa nổi cơn thịnh nộ định tiêu diệt dân này để lậïp một dân lớn hơn, trung thành hơn, nhưng nhờ lời cầu xin của ông Maisen, Thiên Chúa đã nguôi giận và tha tội cho dân. Thực ra, sứ điệp mà Thiên Chúa muốn gửi đến cho chúng ta qua bài đọc 1 này là Thiên Chúa rộng lòng thương xót sẵn lòng tha thứ cho những kẻ tội lỗi. 
          Lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa được thể hiện một cách cụ thể trong Đức Giêsu Kitô. Sự kiện Đức Giêsu đã đón tiếp và cùng ăn với những người tội lỗi làm cho những người biệt phái phẫn nộ. Họ là những người “biệt phái” tránh né mọi tiếp xúc với những người tội lỗi. Họ cho rằng những kẻ tội lỗi là những đồ bỏ đi. Phản ứng lại những lời chỉ trích của nhóm họ, Đức Giêsu đã chỉ ra cho họ một Thiên Chúa giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan dung, Ngài sẵn sàng tha thứ cho mọi lỗi lầm của con người, bằng cách đưa ra ba dụ ngôn : con chiên đi lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Cả ba dụ ngôn đều nhấn mạnh đến việc Thiên Chúa quan tâm đến một người hư mất và niềm vui của Ngài khi tìm lại được một người hư mất. 
          Theo gương Đức Giêsu, chúng ta phải thay đổi cách nhìn của chúng ta đối với người tội lỗi. Họ không phải là những hạng người bỏ đi như người biệt phái vẫn nghĩ thế; trái lại, họ là một con người, một con người cao qúi trước mặt Chúa không thể để hư mất. Nếu họ hư đi thì phải nỗ lực đi tìm kiếm như người chăn chiên bỏ 99 con mà đi tìm con chiên lạc, đem về cùng chung vui vì một người  tội lỗi đã trở lại. 
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. 
          +  Bài đọc 1 : Xh 32,7-11.13-14. 
          Ngay sau khi Thiên Chúa ký Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước. Vì ông Maisen ở lâu trên núi, nên dân đâm ra sợ hãi và tự tạo cho mình một thần tượng để hộ mạng. Đó là dân đã đúc con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Sự bất tín này làm Thiên Chúa nổi giận và muốn tiêu diệt dân, đồng thời Ngài lại hứa với Maisen như xưa đã hứa với Abraham là sẽ làm cho ông nên tổ phụ của một dân tộc lớn. Nhưng ông Maisen đã khẩn khoản xin Chúa  tha tội cho dân, và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt Israel nữa. 
          Mặc dầu Thiên Chúa hứa tạo cho ông một dân tộc mới, ông đã không lìa bỏ dân tộc mình, vẫn liên đới gắn bó với dân như trước. Chính ông van xin Thiên Chúa tha thứ và được Ngài nhận lời vì Thiên Chúa kiên nhẫn và trung tín. 
          +  Bài đọc 2 : 1Tm 1,12-17. 
          Trước khi nói cùng ông Timôthê yêu dấu, thánh Phaolô muốn nhắc lại cách Thiên Chúa đối xử với loài người. Nếu không có điều ấy, ơn gọi của chính ngài khó mà giải thích được : Thiên Chúa tha thứ.  Ngài tạ ơn Chúa vì lòng nhân từ  thương xót của Chúa. 
          Trước kia, ngài là người bắt đạo và ngạo ngược nhưng đã được Chúa xót thương. Sự trở lại của ngài là một thí dụ điển hình về ơn tha thứ Thiên Chúa dành cho mọi người. 
          +  Bài Tin mừng : Lc 15,1-32. 
          Thấy Đức Giêsu hay gần gũi với những người tội lỗi, nhóm biệt phái và luật sĩ tỏ ra rất khó chịu, lẩm bẩm với Ngài. Nhân dịp này Đức Giêsu đưa ra ba dụ ngôn nói lên lòng thương xót và tha thứ của Thiên Chúa đối với tội nhân : con chiên bị lạc, đồng tiền bị mất và đứa con hoang đàng. Tất cả đều nói lên Thiên Chúa là người Cha nhân hậu. 
          Để ý nhận xét, đồng tiền là một vật nhỏ nhất mà cũng mất công tìm tòi kỹ lưỡng, điều này nói lên sự quan tâm rất mực của Thiên Chúa đối với tội nhân. Dụ ngôn đứa con hoang đàng trở về càng làm nổi bật lòng nhân hậu, thứ tha của Thiên Chúa, Ngài là người Cha không bao giờ bỏ rơi con cái bạc bẽo. Chi tiết này càng làm cho người tội lỗi vững tâm trở về cùng Chúa. 
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
              Tấm lòng nhân hậu của người Cha.
I. THIÊN CHÚA KÊU GỌI NGƯỜI TỘI LỖI 
          1. Hòan cảnh đưa đến dụ ngôn
          Đối với Đức Giêsu, người ta có hai thái  độ trái ngược nhau : đối với những người biệt phái và luật sĩ, họ cho mình là người công chính nên khinh thường và tẩy chay Ngài. Còn những người tội lỗi thì lại đến gần Ngài, nghe Ngài giảng và sửa đổi con người của mình. Người Do thái rất khó chịu khi thấy Đức Giêsu giao du với những người tội lỗi và lại còn đồng bàn với họ nữa. Người ta khó chịu với Đức Giêsu vì họ thấy Ngài cư xử ngược với quan niệm của họ. 
          Đạo sĩ Do thái đã xếp tất cả những ai không tuân giữ lưật pháp vào chung một hạng, họ gọi những người đó là “Dân của đất”. Có một hàng rào ngăn cách  dứt khoát giữa những đạo sĩ Do thái và người “Dân của đất”. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của đạo sĩ Do thái dạy rằng : Khi có một người là dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng lấy chứng của nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặït nó coi kẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”. 
          Có luật cấm đạo sĩ Do thái không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời mời của ai trong hạng người đó. Luật cấm đạo sĩ Do thái không được giao dịch thông thường với họ, không được mua gì của họ hoặc bán gì cho họ. Các đạo sĩ Do thái quyết tâm tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết tỉ mỉ trong luật pháp. 
          Trước thái độ kỳ thị ra mặt của các đạo sĩ Do thái đối với người bị coi là tội lỗi,  Đức Giêsu mới kể cho họ ba dụ ngôn để nói về lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, Ngài muốn tìm kiếm và cứu vớt những gì đã lạc mất. 
          2. Ba dụ ngôn của Đức Giêsu. 
          a) Dụ ngôn con chiên đi lạc. 
          Trước tiên ta cần lưu ý là hình ảnh người chăn chiên và bầy chiên là chủ đề cổ điển trong Cựu ước nói lên tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ngài (St 48,15 : Lc 12.32). Dụ ngôn này cũng có trong Tin mừng Matthêu, nhưng trong lúc Matthêu áp dụng vào trách nhiệm những vị lãnh đạo Giáo hội, còn Luca nói lên việc Thiên Chúa tìm kiếm người tội lỗi. 
          Trong dụ ngôn này, người mục tử đã bỏ 99 con kia, dĩ nhiên là được canh giữ cẩn thận, để đi tìm con chiên lạc. Con chiên lạc này mất vì lý do nào đó không được nêu ra trong dụ ngôn. Nhưng có một đều chắc chắn là nó đang sống  những giây phút khốn cực, cần sự giúp đỡ của chủ chăn. Chủ chăn đã phải bỏ 99 con trong hoang địa mà đi tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm cho ông nghèo đi chút nào. Việc làm của ông chứng tỏ hùng hồn rằng : bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con đây cho giá trị như  99 con. Ý nghĩa này nói lên tầm mức quan trọng và tự do sự trở về của tội nhân : Quan trọng đến nỗi bất cứù giá nào, người tội lỗi đó cũng phải được trở về, điều đó chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân. 
          Còn một chi tiết làm cho chúng ta cảm động :”vác con chiên trên đôi vai”, vì khi con chiên đi lang thang nhiều giờ hay nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó lên thôi. Và một con chiên nặng đấy ! Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi đầy sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời… Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc ! Nhưng, Đức Giêsu nói hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó. 
          Chính Thiên Chúa giới thiệu với chúng ta như thế ! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Thánh Kinh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “người chăn chiên” (Is 40,11-49, 10 …(Quesson). 
          b) Dụ ngôn đồng tiền bị mất. 
          Đức Giêsu lại tiếp nối tư tưởng bằng một dụ ngôn khác. Đồng tiền nói ở đây là một đồng tiền nhỏ, dễ bị mất trong nhà dân quê xứ Palestina, và có khi phải mất rất nhiều thì giờ mới tìm lại được. Nhà của người Do thái thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn đường kính khỏang 45 phân. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây khô. Tìm kiếm một đồng bạc trên một nền nhà như thế khác nào tìm một cây kim trong đống rác. Nhưng người đàn bà quét đi quét lại, tìm cho bằng được. 
          Một đồng bạc ở đây có giá trị tương đương với một ngày làm công (Mt 20,2). Ở đây muốn nói lên sự mất mát dù chỉ có một đồng cũng là điều quan trọng khiến cho chủ cũng phải tốn công tìm kiếm.  Điều này cũng muốn ám chỉ lòng thương yêu của Thiên Chúa không muốn để ai bị hư đi, nhưng muốn cứu vớt mọi người.
          Ngoài lý do vì nhu cầu cần tìm đồng tiền bị mất, lại còn có một lý do khác thơ mộng hơn. Tại Palestina, dấu hiệu của người đàn bà có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng 10 đồng tiền nhỏ bằng bạc xâu lại với nhau bằng một sợ dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ 10 đồng tiền nhỏ đó. Bởi vì cái chuỗi trên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó thì trở nên của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt lấy của nàng món nữ trang đó để trừ nợ. Có thể người đàn bà trong dụ ngôn  đánh mất một đồng bạc thuộc loại đó, và bà ta đã tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm như thế khi đánh mất cái nhẫn cưới vậy. 
          Vì thế, chúng ta dễ hiểu nỗi vui mừng của người đàn bà khi tìm lại được đồng bạc bị mất. Đức Giêsu cho biết : cũng thế, Thiên Chúa và các thiên sứ  vui mừng khi một người ăn năn trở về, như khi một gia đình vui mừng tìm lại được đồng bạc quyết định cái no hay cái đói của họ, hay cũng giống người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc rồi lại tìm lại được.
           c) Dụ ngôn đứa con hoang đàng. 
          Niềm vui lạ lùng này được sáng tỏ hơn trong dụ ngôân đứa con hoang đàng. Ông chủ chỉ có hai người con trai, tưởng rằng được sống bình yên trong tuổi già với hai con. Nhưng người con thứ tính phóng khoáng, thích tụ tập, muốn xin cha chia gia tài cho anh. 
          Theo luật Do thái, người cha không được chia gia tài tùy ý mình thích, đứa con cả đương nhiên được hưởng 2/3, đứa con thứ được 1/3 gia tài (x. Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi bận tâm buôn bán làm ăn.  Nhưng có một sự trơ tráo nơi đứa con thứ khi chính nó đề xuất việc chia gia tài. Khi nó nói với cha nó :”Cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần gia tài  mà trước sau gì tôi cũng lãnh được sau khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi nhà này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần một bài học thì nó sẽ có một bài học đắt giá, và ông đã chia gia tài cho nó. Tức khắc đứa con lấy phần dành cho nó và bỏ nhà ra đi. 
          Tuy nhiên, việc xin chia gia tài này có hợp lý không, thì không rõ, chỉ biết rằng sau này chính người con thứ đã hối hận vì hành động trên. 
          Đi xa nhà một thời gian, nó đã nhanh chóng xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc đáng nguyền rủa của người Do thái… Trong cảnh khốn cùng, nó hồi tâm suy nghĩ lại và quyết định ra đi về với cha nó mà chỉ xin được coi như kột đứa đầy tớ thôi, chứ không dám nhận là con nữa. Nó trở về, cha nó chạy ra ôm chằm lấy mà hôn. Cha nó không để nó kịp mở miệng xin làm đầy tớ, ông đã lên tiếng trước.  Ông đã phục hồi địa vị làm con cho nó bằng những cử chỉ đầy ý nghĩa : 
          . Xỏ giầy vào chân cậu : . Xỏ giầy vào chân chứng tỏ ông đã tha thứ hoàn toàn cho cậu. Vào thời Kinh Thánh thuở xưa, mang giầy là dấu chỉ của một người tự do, còn đám nô lệ thì đi chân trần. Xỏ giầy vào đôi chân trần của cậu  con tức là xóa đi dấu hiệu thằng con ấy từng là nô lệ của một người nào đó, và đồng thời trả lại cho cậu ta  dấu chỉ cậu là đứa con trai trong gia đình. 
          . Trao nhẫn cho cậu.  Gắn nhẫn vào ngón tay cậu chứng tỏ ông bố phục hồi trọn vẹn cho cậu tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi. Đeo nó vào đồng nghĩa với được quyền hành xử như một thành viên trong gia đình.
          Và như thế, khi choàng tay ôm, xỏ giầy, đeo nhẫn cho đứa con trai, người bố đã cho thấy ông hoàn toàn nồng nhiệt tiếp đón cậu ta, tha thứ hoàn toàn và phục hồi cho cậu ta trọn vẹn tình trạng trước khi cậu bỏ nhà ra đi. 
             Truyện : Vải trắng trên cây táo. 
          Richard Pindell có viết một chuyện ngắn nhan đề “Đứa con trai của một người nào đó” (somebody’s  son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khó quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại.  Lá thư như sau :”Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta. 
          Vài ngày sau, David lên xe lửa đi về. Trong lúc tầu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh  cứ chớp lòe liên tục hiện ra trong trí cậu ta. Khi thì trên cây có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng có một miếng vải trắng nào. Xe lửa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra nơi khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói :”Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cái cây. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây có cột một miếng vải trắng không nhé”. 
          Khi chiếc xe lửa rầm rầm lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run  giọng cậu hỏi người đàn ông :”Thưa ông, có một miếng vải trắng treo ở một cây nào đó không”? Ông ta sửng sốt trả lời :”Ồ, này cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy  có cột một miếng vải trắng cả”(Mark Link). 
II. THIÊN CHÚA THƯƠNG XÓT VÀ THA THỨ. 
          1. Tấm lòng của người Cha. 
          Người cha trong dụ ngôn phải là một ông chủ giầu sang, đầy quyền lực và oai nghi đúng với đặc điểm của một phú ông miền Đông phương. Đứng trước sự ngông cuồng của người con thứ, người cha đã chia gia tài cho các con không phải vì ông nhu nhược mà vì ông tôn trọng quyền tự do của con. Ngày người con thứ ra đi cũng chính là ngày ông bắt đầu ngóng chờ với niềm tin sẽ có ngày con ông trở về. Quả đúng như vậy. Mặc dù tuổi già sức yếu, người cha vẫn nhìn ra người con từ rất xa. Có thể nói chính ông đã phá tan dáng vẻ oai nghi đường bệ của một phú ông Đông phương để hồ  hởi chạy ra với người con tựa như trẻ thơ mong mẹ về. 
          Nỗi mừng vui cũng như hàng loạt mệnh lệnh dồn dập của người cha làm cho chúng ta có cảm nghĩ hẳn ông đang chuẩn bị tiếp đón một nhân vật quan trọng. Mà không quan trọng sao được khi ý nghĩa của những mệnh lệnh trên hàm chứa một tình yêu vô bờ bến ông dành cho người con “phá gia” trở về mà không một ngôn từ nào có thể diễn tả hết được. 
 Chiếc áo mới nhất mà ông mặc cho người con hẳn phải là chiếc áo dành cho ngày Đại lễ. Bởi chỉ có ngày Đại lễ, dịp lễ hội, người ta mới mặc áo mới, mới có dịp để chưng diện mà thôi. Chưa dừng lại ở đó. Chúng ta biết rằng đối với người Do thái, chiếc nhẫn không chỉ là kỷ vật, là món đồ trang sức, không chỉ là biểàu trưng của tình yêu mà nó còn là cái ấn đóng dấu nhằm xác nhận tư cách của một người con và đồng thời cũng xác nhận tư cách của một người được thừa hưởng quyền kế thừa tài sản. Như thế, bằng việc xỏ nhẫn và xỏ dép vào tay chân của người con, người cha trong Tin mừng đã xác nhập mối tương quan cha-con, đồng thời cũng xác nhập quyền thừa kế và trả lại quyền tự do cho nó – điều mà người con thứ không bao giờ nghĩ tới. Chưa hết, người cha còn ra lệnh giết bê đã vỗ béo để ăn mừng cho sự trở về này. Như thế đã rõ, bê chỉ vỗ béo để chờ dịp Đại lễ. Ngày người con trở về và người cha đã hạ bê béo để ăn mừng chẳng phải là dịp Đại lễ mà từ lâu ông hằng ôm ấp mong chờ để có được ngày hôm nay sao ? 
          Truyện : Thiền sư Sengai. 
          Có rất nhiều đệ tử đang tu luyện thiền học dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Trong số đó có một đệ tử thường hay thức dậy ban đêm, lẻn trốn một mình trèo tường ra phố rong chơi dạo mát cho thỏa thích. Và một đêm kia, thiền sư Sengai đi kiểm tra phòng ngủ các đệ tử, thấy vắng mặt một người và cũng khám phá ra chiếc ghế đẩu mà anh ta thường dùng để leo qua tường ra ngoài. Sau khi suy nghĩ, thiền sư Sengai liền dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Một lát sau, anh chàng ham rong chơi trở về không biết rằng  thầy mình là chiếc ghế, cứ thản nhiên đặt chân vào đầu thầy mình để nhảy xuống đất. Đúng lúc đó mới khám ra sự thể động trời của mình, anh ta hoảng hốt sợ đến ngất xỉu. Nhưng thiền sư Sengai nhỏ nhẹ bảo anh :”Sáng sớm trời lạnh lắm, con hãy cẩn thận kẻ bị cảm đấy”. Và từ đó, người đệ tử hoang đàng ấy không bao giờ dám ra ngoài chơi ban đêm nữa. 
          2. Tình thương tha thứ của Thiên Chúa
          Thiên Chúa được Đức Giêsu mạc khải là một người Cha. Cha nào mà chẳng thương yêu con bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc  chúng đối xử với mình tệ bạc đến đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ bằng hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là sự tha thứ vô điều kiện và sẵn sàng chấp nhận sự đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua hai cách ấy nơi con người Đức Kitô :”Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta”. 
          Trở lại dụ ngôn đứa con hoang đàng, ta hỏi động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình ? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với “thân tàn ma dại”, cha nó biết nó về với động lực gì. Nhưng đối với ông, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”. Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó. Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Chúa  trong sự hối hậân về đời sống quá khứ của mình. 
            Truyện : Tình mẹ tha thứ. 
          Ở Batna, có một gia đình nằêm vào địa điểm hẻo lánh, gồm bà mẹ với các con, mà thằng con lớn phản bội vô số kể, tên là Sidi Melkassen, ưa a tùng với côn đồ du đãng, bị mẹ khiển trách hằng ngày. Mất tự do, thằng đó bực tức, nhất định hai mẹ con không đội trời chung. Liền bắt mẹ đem giam cầm vào một nhà cô tịch tăm tối. Lấy sợi xiềng xích lớn mà xiềng hai chân mẹ nó lại, đoạn đục vách tường gắn móc khóa lại và giữ chìa khóa trong túi. Đành lòng đóng cửa lại trước những tiếng kêu la, khóc lóc, van nài của mẹ.
          Trên ba năm trời tồi túng, nóng nực, lạnh lẽo. Không mền, không chiếu, bữa đói bữa no, người mẹ than khóc đã khô nước mắt, kêu không ai nghe, buồn không một lời an ủi.
          Chiều nọ, một nàng dâu thảo giật được chìa khóa và mở cửa, tháo xiềng giải thoát cho người mẹ vô phúc. Bà đi ra giữa thanh thiên bạch nhật, không còn hình tượng người nữa, ai nấy đều thương hại. Việc này thấu đến tai nhà chức trách, thằng con bất hiếu bị bắt và kêu án sáu tháng tù ở. Ai nấy đều vỗ tay ca tụng công lý. Chỉ có bà mẹ quên tội của con, cất tiếng lên vừa than khóc vừa xin tòa đừng tống giam con mình tội nghiệp.
          Ôâi, tình mẹ bao la ! 
          3. Có sự nghịch lý trong ba dụ ngôn chăng ? 
          Bài Tin mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý : ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc ? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có tính thuyết phục bao nhiêu : một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó ? Nhưng rồi tất cả đều trở nên hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba : Ý của Chúa Giêsu không nhằm tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
          Tuy nhiên có mấy ai chia sẻ tâm ý của Chúa ? Những người biệt phái và luật sĩ thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu qúi giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quí giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa. 
          Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao ? Vì con chiên ấy cần được săn sóc hơn 99 con kia : nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên mà chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Đức Giêsu đã làm như người mục tử ấy : Ngài không chờ đợi kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người biệt phái và luật sĩ, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cái đối xứ này đã hoán cải được một người biệt phái nổi tiếng là thánh Phaolô (Trích Carôlô, Sợi chỉ đỏ A, tr 710-711). 
III. CHÚNG TA CŨNG PHẢI CƯ XỬ NHƯ VẬY. 
          1. Phải thay đổi cách cư xử. 
          Giáo hội là Mẹ của chúng ta đã từng có cách cư xử như Đức Giêsu, tạo điều kiện để lôi kéo những con chiên lạc đàn trở về với Chúa. Chẳng hạn , Augustinô, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin mừng. Thế mà khi trở về với Giáo hội, Giáo hội đã mở rộng vòng tay  đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức Giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảnng đại ấy của Giáo hội, Augustinô đã trở nên một vị thánh.
          Chúng ta cũng phải bắt chước Giáo hội mà phải thay đổi cách nhận định và thái độ cư xử đối với tội nhân. Nghĩa là đừng quá quan trọng hóa nết xấu, lỗi lầm của anh em, đừng nuôi lòng thích thú khi thấy anh em sa ngã, lỡ lầm, đừng giả đò thương hại khi đưa lỗi lầm của anh em ra bàn tán và đừng bao giờ tỏ vẻ khinh khi, ruồng bỏ anh em bằng lời ăn tiếng nói, bằng cử chỉ ánh mắt, nhưng hãy bắt chước Chúa biết thông cảm với nỗi khổ tâm của anh em, biết thao thức lo lắng giúp anh em sửa mình, biết tôn trọng, bênh vực anh em, biết cầu nguyện cho anh em. 
          2. Ý thức mình cũng là tội nhân được tha thứ
          Có những con chiên xa đàn lạc lối, nhưng cũng có những con đang sống trong đàn mà chẳng phải là chiên. Có đứa con bỏ nhà xa cha, nhưng cũng có đứa con tuy sống gần cha mà lòng dường như đi hoang từ lâu. Nó coi cha không khác gì ông chủ hà khắc keo kiệt, chẳng hề bố thí cho một con bê để vui vầy với chúng bạn. Như vậy, có thứ lạc đàn thể lý và cũng có thứ lạc đàn tâm linh. Có những người không đi nhà thờ vì lòng họ xa Chúa, song cũng có những người không bỏ nhà thờ nhưng lòng họ chẳng gần Chúa hơn được bao nhiêu. Có lẽ vì tâm trí họ đang đi lạc trong khu rừng có nhiều tiếng ca của danh vọng, hương sắc của đồng tiền, hung khí của hận thù, giọng ríu tít đầy lôi cuốn của xác thịt. 
          Vậy chúng ta có phải là con chiên đích thực không hay chỉ là hữu danh vô thực ? Chắc chắên không ai trong chúng ta dám xưng mình là người công chính như luật sĩ và biệt phái, chúng ta vẫn xưng mình là kẻ có tộâi, và nếu đã biết mình có tội thì phải có lối cư xử với người khác bằng tình thương yêu. 
          Nếu Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Ngài muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lỗi lầm. 
          Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ. Đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết :”Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người trở nên mù lòa”.







XIN CHUNG VUI VỚI TÔI

Chú giải của Fiches Dominicales

VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Bữa ăn chung với kẻ tội lỗi
Ở đây chúng ta chỉ nhắc qua bối cảnh là một cuộc tranh luận, và tập trung chú ý vào lời mời gọi hãy chung vui vì tìm lại được những gì đã mất, được ghi lại trong cả ba dụ ngôn.
Đức Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem, nơi Người sẽ phải đổ máu để cứu muôn người. Nhiều “người thu thuế và tội lỗi, đến để nghe Người giảng. Những người Biệt phái và kinh sư thì khó chịu “xầm xì với nhau” chống lại Người bởi vì không chỉ “đón tiếp phường tội lỗi”, Đức Giêsu còn “ăn uống đồng bàn với chúng”, một hành động tỏ ra cùng phe với bọn chúng!
Để trả lời, Đức Giêsu nói với họ ba dụ ngôn rất hay về lòng thương xót, làm thành chương 15 của Tin Mừng Luca. Để biện minh cho cách đối xử của mình, Đức Giêsu nêu lên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với những kẻ tội lỗi. Qua những lời Người nói và các việc Người làm, từng là cớ vấp phạm cho đối phương, Người cho thấy lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa đang được thể hiện và hoạt động. Và “tình yêu ấy của Thiên Chúa dành cho tất cả những ai chúng được yêu và cũng chúng đáng yêu, gián tiếp lên án sự cứng cỏi và khắc nghiệt mà những con người “đàng hoàng” hơn kia đã đối xử với họ” (Cousin, L’Evangile de Luc, Centurion, trg 211).
2. Lời mời gọi chung vui
Cả ba dụ ngôn đều nêu bật sáng kiến của Thiên Chúa, Đấng đi bước trước trong việc tìm kiếm tội nhân (hai dụ ngôn đầu) và đã “chạy ra” đón đứa con hoang trở về dụ ngôn thứ ba. Tuy nhiên đỉnh cao của mỗi dụ ngôn đều nằm ở lời mời gọi hãy chung vui vì đã tìm lại được: Niềm vui của người “chăn chiên” vác “con chiên lạc đã được tìm thấy” trên vai. Mời gọi bạn bè và hàng xóm đến chia sẻ: “xin chung vui với tôi!”.
Niềm vui của “người phụ nữ” tìm lại được “đồng bạc đã đánh mất”, mời gọi bạn bè và chị em xóm giềng đến chia sẻ: “xin chung vui với tôi!”.
Niềm vui của “người cha” khi đứa con trở về, “đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”, mời gọi người con cả cố chấp của mình cùng chia sẻ: “chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ!”.
Roland Meynet nhận định, “Những người Pharisêu và các kinh sư, coi thái độ xử sự của Đức Giêsu như một hành dộng phản lại họ. Bởi vì đón tiếp những kẻ tội lỗi cũng có nghĩa là bỏ rơi những người công chính, là để mặc những con chiên ngoan ngoài hoang địa. Như vậy, chính những người này đã tự tách riêng mình ra, đứng ngoài bữa tiệc vui của Đức Giêsu và những kẻ tội lỗi ăn năn trở lại niềm vui của người khác làm gai mắt họ, trong khi chính họ cũng được mời đến tham dự cuộc vui đoàn tụ của tất cả mọi người. Họ không hiểu rằng niềm vui đoàn tụ không chỉ riêng của con chiên lạc với chủ nó mà thôi, nhưng còn là niềm vui đoàn tụ chung của tất cả các con chiên với nhau, của con chiên lạc với 99 con kia, trong cùng một chuồng chiên, dưới cùng một chiếc gậy chăn của một chủ chiên duy nhất. Niềm vui còn phải được nới rộng ra đến mọi người hàng xóm và bạn bè, nếu không nó sẽ không trọn vẹn. Sẽ không thể có niềm vui đoàn tụ đích thực nếu có ai đó còn đứng ngoài. Tất cả đều được mời, và vòng tròn tham dự còn rộng mở đến tận trời cao, đến các thiên thần của Thiên Chúa. Như vậy làm sao tự cho phép mình đứng ngoài và tự tách rời khỏi cuộc hoà giải của tất cả? Từ chối chung vui với Đức Giêsu, không chia sẻ niềm vui của ơn tha thứ được trao ban và đón nhận, chính là khước từ niềm vui Nước Trời, là xầm xì chống lại Thiên Chúa” (L'Evangile selon Saint Luc. Analyse rhélorique, tập 2, Cerf, trg 161-162).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Niềm vui cho tất cả.
(G. Bessière, trong “Diêu siproche. Année C”, Desclée de
Brouwer, trg 146-147)
“Một xã hội đang bị câu thúc. Nhiều phe cánh kình chống nhau. Cả một mớ những lời lẽ và ánh mắt thô tục. Ở giữa đó, hiện lên một khuôn mặt, đó là Đức Giêsu. Con người ấy đã dám đánh đổ mọi phe phái đạo đức và tôn giáo của đất nước mình. Thử tưởng tượng xem: “ông ta đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Tất cả bọn chúng tuôn đến để nghe ông ta. Trong lúc phía bên kia là những phần tử ưu tú trong dân về mặt trí thức, nhân đức và lòng đạo: nhóm Pharisêu và các kinh sư, những đấng bậc khả kính, những con người đủ tư cách sửa dạy người khác...
Sự thinh lặng được phá vỡ. Và đây con người lạ lùng kia, với biệt tài vô song, lên tiếng kể chuyện. Có ai ngờ được rằng suốt hai ngàn năm, và còn mãi về sau, người ta vẫn còn ngồi lại thuật cho nhau nghe những câu chuyện đó, và chúng sẽ mãi mãi là những gì quí báu nhất còn ghi lại trong ký ức của nhân loại.
Con chiên bị mất, không hề có chi tiết nào nói nó kêu be be, để gọi chủ. Nó chẳng có công gì xứng đáng để được chủ vác lên vai. Mọi sự đều phát xuất từ người chăn chiên mà ‘niềm vui trong tim’ cứ muốn tràn sang đến tất cả. Và cả cõi thiên đình chẳng quan tâm bao nhiêu tới trật tự tốt đẹp nơi bầy chiên ngoan, lại tỏ ra vui mừng rộn ràng khi có một con người biết chỗi dậy và bắt đầu cuộc sống mới? Còn việc trở về của thằng con phung phá, ăn chơi và hư đốn? Tới bước đường cùng hắn mới chịu “hồi tâm suy nghĩ”: dù có cố tìm một lời lẽ gì đó để nói khi về đến nhà, thì chẳng qua chỉ vì đói nên hắn mới chịu mò về đó thôi. Cũng thế, tất cả đều khởi động từ cõi lòng người cha, “trông thấy con từ xa, ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ con và hôn lấy hôn để”. Thằng con có ráng ấp úng bài diễn văn tạ tội đã dọn sẵn trong đầu cũng vô ích thôi, bởi lúc này ai nấy đang tưng bừng chuẩn bị dọn tiệc ăn mừng. Có cả tiếng ca tiếng đàn nữa! Chắc chắn rồi. Đối diện trước cả hai cánh tốt xấu trên của nhân loại, Đức Giêsu tuyên bố mọi sáng kiến của Người dành cho những kẻ bị loại trừ, bị khinh miệt và tất cả những người tật nguyền về mặt tinh thần, đều là những sáng kiến của chính Đấng được tung hô ba lần Thánh. Người là Mục Tử của Israel, là Cha của dân tộc, là người đã chạy đi tìm con chiên lạc và ra đón đứa con hoang trở về.
Thiên Chúa, mà người nhân đức thánh thiện tưởng mình độc quyền sở hữu, kẻ tội lỗi thì nghĩ mình đã quá xa rời, chính Người đã lật đổ mọi thứ học thuyết và mọi lề lối sống đạo có sẵn. Chúng ta có thực sự tin rằng nơi vị Thiên Chúa ấy có tình yêu mãnh liệt, khiến Người luôn mơ đến một thế giới trong đó mọi người đều là anh em, và làm dậy lên trong Người một niềm vui mong được chia sẻ với tất cả?”.
2. Khuôn mặt thật của Thiên Chúa.
(“Missel Emmaus des Dimanches”, trg 1105).
“Thiên Chúa! Đấng chúng ta muốn là quan toà kết tội người khác, nhất là những kẻ thù nghịch, trong lúc chúng ta lại xin Người tỏ lòng nhân từ với chính mình: phải chăng đó là chuyện “hoàn toàn tự nhiên?”.
Do suy nghĩ như vậy, nên giữa chúng ta vẫn xảy ra thói xét đoán lẫn nhau, lên án lẫn nhau.
Thiên Chúa chúng ta mơ tưởng đó thực ra chỉ là một ngẫu tượng do chúng ta nhào nặn ra và nhằm phục vụ lợi ích của bản thân. Đó không phải là Thiên Chúa thật. Phải, Thiên Chúa là Đấng giầu lòng xót thương. Chúng ta sẽ thấy rõ điều này khi xua tan đi lớp mây mù do trí khôn loài người bày ra che phủ khuôn mặt thật của Người. Tuy nhiên chỉ những ai nhận ra tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, và những ai để cho ân sủng ấy chiếm hết đời mình, đồng thời phản chiếu ra bên ngoài qua cách ăn ở với mọi người xung quanh. Chỉ những người như vậy mới cảm nghiệm được khuôn mặt thật của Thiên Chúa. Ích kỷ chỉ biết đến mình là điều ai nấy đều không thể chấp nhận cho dù đó là những con người “ngoan đạo” nhất!

  

LÒNG NHÂN TỪ THƯƠNG XÓT
CỦA THIÊN CHÚA
Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Ðề: Lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa. Người mục tử đi tìm con chiên lạc. (Lc 15, 4)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến 
Chúng ta rất hạnh phúc vì có một Thiên Chúa rất nhân từ, Ngài sẵn sàng tha thứ cho những kẻ tội lỗi biết sám hối. "Nếu Chúa chấp tội thì ai nào đứng vững được!"
Thánh lễ là một bằng chứng biểu lộ lòng nhân từ của Chúa: mặc dù chúng ta nhiều tội lỗi, nhưng Chúa vẫn mở rộng cửa đón chúng ta vào nhà Ngài và cho chúng ta cùng ăn đồng bàn với Ngài.
Chúng ta hãy bắt đầu Thánh lễ bằng cách nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình và xin Chúa tha thứ.
II. Gợi ý sám hối
* Dùng công thức sám hối trong sách lễ Rôma trang 567.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Xh 32, 7-11. 13-14)
Đoạn này bắt đầu câu chuyện con bê vàng.
Ngay sau khi Thiên Chúa kết Giao ước với dân Israel, họ đã vi phạm Giao ước đó bằng cách đúc tượng một con bê vàng và thờ lạy trước tượng đó. Thiên Chúa rất giận. Ngài cho Môsê biết Ngài muốn tiêu diệt họ, thay vào đó Ngài sẽ tạo một dân mới từ dòng dõi Môsê. Nhưng Môsê đã van xin Thiên Chúa và cuối cùng Thiên Chúa nguôi giận không giữ ý định tiêu diệt dân Israel nữa.
Trong chuyện này có 2 điểm đáng chú ý:
                     Môsê đã liên kết với dân: mặc dù Thiên Chúa hứa làm một dân mới từ dòng dõi của ông, nhưng ông vẫn xin Thiên Chúa duy trì dòng dõi Israel. 
                     Thiên Chúa tha thứ cho dân không phải vì Môsê mà vì chính lòng nhân từ Thiên Chúa của Ngài. Câu chuyện kết thúc bằng câu "Thiên Chúa đã thương, không giáng phạt dân Ngài như Ngài đã đe". 
2. Đáp ca (Tv 50)
Lời cầu nguyện của tội nhân sám hối. Lý do được nêu lên để nài xin tha thứ không gì khác hơn là lòng nhân từ thương xót của Chúa: "Lạy Chúa xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm".
3. Tin Mừng (Lc 15, 1-32)
Khung cảnh: thấy Chúa Giêsu gần gũi với những người tội lỗi đến gần, nhóm pharisêu và kinh sư trách Ngài. Chúa Giêsu đã dùng những dụ ngôn để trả lời cho họ.
Có 3 dụ ngôn: 1 con chiên trong số 100 con bị mất, 1 đồng trong số 10 đồng bị đánh rơi, và 1 đứa trong hai đứa con bỏ nhà đi hoang. Tỉ lệ mất mát ngày càng cao (1/100 à 1/10 à ½). Giá trị những thứ bị mất cũng ngày càng cao (1 con vật, đồng bạc - người ta thường nói "đồng tiền liền khúc ruột - và 1 đứa con). Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi. Do đó Ngài tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.
4. Bài đọc II (1 Tm 1, 12-17) 
Thánh Phaolô tạ ơn Thiên Chúa vì lòng nhân từ thương xót của Ngài:
                     "Trước kia tôi là kẻ lộng ngôn, bắt đạo và ngạo ngược, nhưng đã được Ngài thương xót"
                     "Đức Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi"
                     "Sở dĩ tôi được thương xót là vì Chúa Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng đại lượng của Ngài nơi tôi là kẻ đầu tiên, mà đặt tôi làm gương cho những ai sẽ tin vào Ngài". 
IV. Gợi ý giảng
* 1. Giá trị của từng con người 
Một hội từ thiện kia xây dựng một ngôi trường nhằm giúp cho những thiếu niên hư hỏng hoán cải. Khi bàn đến những chi tiết trong việc điều hành trường như mua sắm phương tiện, thuê mướn giáo viên v. v. một hội viên phát biểu: "Chúng ta đừng ngại tốn kém. Chỉ cần hoán cải được một thiếu niên thôi thì tốn bao nhiêu cũng đáng". Một người khác hỏi tại sao thì ông này đáp: "Bởi vì thiếu niên hư hỏng ấy là con của tôi".
Bài Tin Mừng hôm nay gồm tới 3 dụ ngôn. Dụ ngôn đầu xem ra không hợp lý: ai lại bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc? Dụ ngôn thứ hai cũng chẳng có sức thuyết phục bao nhiêu: một đồng xu có đáng là bao so với công sức mà người đàn bà kia bỏ ra để tìm lại nó? Nhưng rồi tất cả đều trở thành hợp lý khi ta đọc dụ ngôn thứ ba: Ý của Chúa Giêsu không nhằm nói tới con chiên, cũng không nói tới tiền bạc mà nói tới con người. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi một con người đều có giá trị vô cùng, bởi vì mỗi một con người, dù là tội lỗi, cũng đều là con của Ngài.
Tuy nhiên có mấy ai chia xẻ tâm ý của Chúa? Những người pharisêu và các kinh sư thấy Chúa Giêsu bỏ công lui tới với những người tội lỗi thì họ cho là mất công vô ích nên xầm xì phản đối. Đối với họ, việc làm của Chúa Giêsu là không đáng, bởi vì những kẻ tội lỗi là hạng đáng vất đi. Nhưng đối với Chúa Giêsu, đó là những con người, những giá trị. Một đồng xu quý giá thế nào đối với người đàn bà nghèo khổ, một người con quý giá thế nào đối với tấm lòng người cha, thì một người tội lỗi cũng đáng giá thế ấy đối với tấm lòng của Thiên Chúa.
Thế còn việc bỏ 99 con chiên trong đàn để đi tìm con chiên lạc thì sao? Vì con chiên ấy cần được chăm sóc hơn 99 con kia: nó cô đơn, nó bơ vơ, nó đói khát hơn, nó bị nguy hiểm nhiều hơn. Vì thế nên người mục tử nhân lành không thể ở yên chờ nó tìm được đường về, mà phải đích thân ra đi tìm nó. Chúa Giêsu đã làm như người mục tử ấy: Ngài không chờ kẻ tội lỗi đến với mình, nhưng được bước trước đến với họ. Ngài kết thân với họ trong tình trạng của họ còn đang là tội nhân, còn đang lầm lạc. Chính đó là cách đối xử khác những người pharisêu và kinh sư, và chính đó là lý do khiến họ xầm xì phản đối. Nhưng chính cách đối xử này đã hoán cải được một người pharisêu nổi tiếng là Thánh Phaolô (bài đọc 2).
* 2. Cái mất là cái quý
Nhiều người không thể hiểu tại sao người mục tử bỏ 99 con chiên để đi tìm một con chiên lạc, và người đàn bà còn 9 đồng trong tay lại chịu khó tìm cho bằng được một đồng bị mất.
Lý do là: cái mất đi trở thành cái quý giá. Rất nhiều thứ khi bị mất rồi chúng ta mới thấy quý.
Sự quý giá của một vật hay một người không chỉ do vật hay người đó đã làm ích cho ta (thí dụ một chiếc đồng hồ chính xác, một người giúp việc tận tụy), mà còn do những công sức mà ta đã đổ dồn vào đó (thí dụ bức tranh mà người họa sĩ đã tốn nhiều thời gian để vẽ, một người thợ mà ông thầy đã dầy công đào tạo), và còn do những hy sinh đau khổ mà ta đã dành cho vật hay người đó (như đứa con mà người mẹ phải sinh nặng đẻ đau)
Có một câu chuyện biến ngôn như sau: Chúa Giêsu gặp một người mục tử đang rất buồn rầu. Ngài hỏi tại sao thì người ấy đáp: "Vì tôi lạc bị mất một con chiên". Chúa Giêsu nói: "Để Ta đi tìm nó cho". Một lúc sau, Chúa Giêsu trở lại, ôm theo con chiên lạc giao lại cho người mục tử, và căn dặn: "Từ nay anh phải yêu thương nó, chăm sóc nó nhiều hơn những con khác nhé, vì Ta đã tốn rất nhiều công sức mới tìm lại được nó đó".
Tất cả chúng ta đều là những đồng bạc đã từng bị mất, những con chiên đã từng đi lạc và những đứa con đã từng đi hoang. Nhờ công lao khó nhọc của nhiều người và nhất là của Chúa mà chúng ta đã được tìm lại. Vậy chúng ta phải có những tâm tình gì?
                     Tâm tình cảm mến, vì mình đã hư mất mà đã được tìm lại. 
                     Tâm tình vui sướng, vì biết mình là đối tượng được thương yêu nhiều hơn. 
                     Và tâm tình tự trân trọng, đừng để mình bị lạc mất thêm một lần nào nữa. 
* 3. Những con người bị mất
Không chỉ đồ vật hay thú vật bị mất, mà chính con người cũng có thể bị mất. 
Những con người bị mất ấy là ai?
                     Là những đứa trẻ không tìm được hạnh phúc trong gia đình nên đi hoang. 
                     Là những thiếu niên bị thói xấu xã hội lôi kéo. 
                     Là những người nghiện ngập đến nỗi hư cả cuộc đời. 
                     Là những vợ chồng bất thuận đến nỗi không còn là vợ chồng với nhau. 
                     Là những anh em bất hòa không còn coi nhau là anh em nữa. 
                     Là những tín hữu yếu đuối lỡ phạm tội nên mặc cảm và xa lánh gia đình xứ đạo. 
Những con người lạc mất ấy không ở đâu xa, mà đang ở bên cạnh chúng ta, ở giữa chúng ta. Nhưng buồn thay, nhiều người không hề quan tâm đi tìm họ lại.
* 4. Tuyệt đỉnh của yêu thương
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới đức Giám Mục Amôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa.
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
*
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Chúa Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, đồng Bạc Đánh Rơi, và Đứa Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: "Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất". Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa muốn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, "lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa" (A. Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu khinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: "Lạy Cha, xin tha cho họ". Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Chúa Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là kẻ tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: "Nếu cứ áp dụng luật mắt đền mắt thì mọi người đều trở nên mù loà".
*
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đường sẽ trống rỗng, và thế giới này không có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen. (TP)
5. Chuyện minh họa
a/ Sự tha thứ của Chúa
Một nhà truyền giáo trên một đảo ngạc nhiên khi nhìn thấy một phụ nữ mang một nắm cát ướt bước vào túp lều của ông. 
- Ông biết đây là gì không?
- Nó giống như cát. 
- Ông có biết tại sao tôi mang nó vào đây không?
- Không, tôi không thể tưởng tương được tại sao. 
- Đây là tội tôi. Tội tôi không thể đếm được như cát biển. Làm thế nào tôi có thể được tha thứ tất cả?
- Bà hãy đưa cát đó ra bãi biển và chất thành một ít cát. Rồi ngồi nhìn xem những cơn sóng ập tới, chắc chắn sẽ cuốn đi tất cả. Đó là cách Chúa thực hiện sự tha thứ của Ngài. Lòng nhân từ của Chúa bao la như đại dương. Hãy thành thật hối lỗi và Chúa sẽ tha thứ.
b/ Không cần đếm
Ở Phi châu, có một bộ tộc khá kì lạ. Họ không bao giờ đếm, không ai biết tí gì về toán học. Có người hỏi một người dân bản địa có bao nhiêu cừu. Anh đáp: không biết. "Vậy nếu lỡ mất một hai con, làm sao anh biết? " Câu trả lời thật ý nhị: "Không phải tôi mất một con số, mà mất một bộ mặt. "
V. Lời nguyện cho mọi người 
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót. Người sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của người có tội thật lòng ăn năn thống hối. Tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, chúng ta cùng khẩn khoản nài xin:
1. Hội thánh là dấu chỉ tình thương của Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần / tuôn đổ đầy trành tình yêu của Người vào tâm hồn mọi thành phần Dân Chúa / để ai nấy đều trở nên sứ giả đem tình thương của Chúa đến cho hết thảy mọi người.
2. Hiện nay / có biết bao thanh thiếu niên bỏ nhà đi bụi đời vì rất nhiều nguyên nhân khác nhau / trong số đó nổi bật nhất là do thiếu tình thương / và sự quan tâm chăm sóc của cha mẹ / hoặc cha mẹ bất hòa hay ly dị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các gia đình luôn là tổ ấm tình thương / là nơi nương tựa cho mọi thành viên của mình.
3. Thử thách gian truân nhiều khi làm cho con người lâm vào cảnh bế tắc / mất hết niềm hy vọng để vui sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết chạy đến cùng Chúa khi gặp buồn phiền đau khổ / để được Người nâng đỡ ủi an.
4. Chúa yêu thương tất cả mọi người / không kỳ thị thiên tư / không phân biệt đối xử với bất cứ ai / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết luôn noi gương Người trong cách cư xử của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con phải tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần, mà đến bảy mươi lần bảy. Xin ban ơn giúp sức để chúng con có thể sống trọn vẹn lời Chúa dạy. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh Lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta là những người vô cùng hạnh phúc vì có một người Cha vô cùng nhân từ thương xót là Thiên Chúa. Với tất cả tâm tình kính mến, chúng ta hãy dâng lên Ngài lời Kinh Lạy Cha sau đây.
VII. Giải tán
Chúng ta đã thấy Chúa đã đối xử với chúng ta cách nhân từ thương xót như thế nào. Chúng ta cũng hãy đối xử như thế với những anh chị em chúng ta.

LÒNG BAO DUNG CỦA THIÊN CHÚA
Linh Mục Inhaxiô Trần Ngà
Để đối phó với những người phạm tội, luật hình sự tại các quốc gia quy định nhiều hình phạt khác nhau: phạt tiền, giam nhốt trong các nhà tù hay xà lim, lưu đày biệt xứ hoặc trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng thì đem ra xử tử để vĩnh viễn loại trừ người lỗi phạm khỏi thế giới loài người. 
Trong khi đó, để đối phó với tội nhân, Thiên Chúa không muốn trừng phạt mà chỉ muốn giúp tội nhân ăn năn hối cải quay về đường lành. Từ ngàn xưa, Thiên Chúa phán qua miệng ngôn sứ Ê-dê-kiên: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết nhưng muốn nó ăn năn sám hối mà được sống” (Ê-dê-kiên 18, 23 và 33, 11)
Đối với Thiên Chúa, mỗi một người đều có giá trị rất cao nên cần phải được trân trọng và yêu thương. Dù con người có đắm chìm trong lầm lạc và tội lỗi, Thiên Chúa không bỏ rơi, không hủy diệt họ, nhưng tìm mọi cách đưa họ trở về đàng lành.
Dụ ngôn người đi tìm chiên lạc trong Tin Mừng Luca (Lc 15, 4-7) chứng tỏ cho chúng ta thấy điều đó:
Người chăn chiên tốt hết lòng yêu thương, quý mến từng con trong đàn, bất kể đó là chiên tốt hay chiên xấu, mập hay gầy, già hay non. Và khi phát hiện ra một con chiên lạc đàn, anh ta bôn ba, tất tả kiếm tìm cho bằng được con chiên lạc với bất cứ giá nào. Một khi đã tìm thấy, anh vác chiên lên vai, mừng vui hớn hở trở về, kêu mời bà con làng xóm đến chia mừng với anh.
Qua dụ ngôn trên đây, Chúa Giê-su tỏ cho chúng ta thấy Thiên Chúa xem mỗi người chúng ta là báu vật vô giá, nên nếu có bất kỳ ai “lạc mất”, thì Ngài phải tìm về cho bằng được.
Dụ ngôn trên cũng cho thấy cung cách ứng xử rất khoan dung và đầy thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Thay vì trừng trị hoặc trừ khử các tội nhân như các tòa án khắp nơi thường làm, Thiên Chúa Ngôi Hai đã rời bỏ ngai trời vinh hiển, vượt qua khoảng cách gần như vô tận giữa trời và đất, hạ mình xuống thế, trở nên người phàm để đi tìm kiếm từng người trong nhóm họ.
Thay vì tống giam các tội nhân vào ngục, bắt họ mang gông cùm xiềng xích, Chúa Giê-su rất tôn trọng và quý mến tội nhân, tìm nhiều cách hoán cải họ; có khi Ngài còn đến ở lại trong nhà người tội lỗi, cùng ăn uống đồng bạn với họ, trở nên bạn bè của họ, nhằm lấy tình bạn mà cảm hóa họ trở về. (Luca 15,2)
Thay vì kết liễu mạng sống của các tội nhân ác nghiệt, bắt họ phải đền nợ máu họ đã gây ra như các tòa án nhân loại thường làm, Chúa Giê-su đã đổ máu châu báu của mình ra để chết thay cho họ, để rửa sạch họ khỏi muôn vàn tội lỗi và cho họ được sống đời đời.
Lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân, ngay cả những tội nhân bầm dập, khốn cùng nhất, đã được Chúa Giê-su khẳng định trong Tin Mừng Mat-thêu: “Cây lau bị giập, Ngài không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Ngài đưa công lý đến toàn thắng.” (Mt 12, 20 và Is 42, 3) 
Lạy Chúa Giê-su,
Hôm xưa, Chúa đã rong ruổi tìm kiếm từng con chiên lạc để vác chiên về. Hôm nay, để tiếp tục sự nghiệp đó, Chúa đã dùng bí tích Thánh Tẩy để tháp nhập chúng con vào Thân Mình Chúa, cho chúng con trở thành một chi thể sống động trong Thân Thể Chúa để chúng con đồng hành với Chúa trên hành trình tìm kiếm và đưa về đàn nhiều con chiên lạc trong thôn xóm chúng con. 
Xin cho chúng con trở nên đôi chân của Chúa, rảo bước không mệt mỏi trên vạn nẻo đường đời, để tìm kiếm và đưa về những anh em lạc xa đường Chúa.
Xin cho chúng con trở nên đôi vai của Chúa để làm chỗ dựa tinh thần cho những con người lâm cảnh khốn cùng đang cần một chỗ tựa nương. Amen.
HÃY TIN TƯỞNG VÀO TÌNH THƯƠNG
Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bình thường, cha mẹ có còn yêu thương con cái khi chúng bất hiếu hay tệ bạc với mình không? Tại sao? Thái độ của Thiên Chúa thế nào?
2. Giữa hai thái độ: tha thứ và kết án, thái độ nào là thái độ của bậc cha mẹ? thái độ nào có tác dụng làm người tội lỗi trở lại với đường ngay nẻo chính hơn? Những người lãnh đạo trong Giáo Hội, trong các hội đoàn nên có thái độ nào?
Suy tư gợi ý:
1. Thiên Chúa là người Cha đầy tình thương, sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho con cái tất cả mọi lỗi lầm
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dùng một hình ảnh, một câu chuyện cụ thể để mô tả chân dung của Thiên Chúa, vừa là Cha chung của toàn thể nhân loại, vừa là Cha của mỗi người chúng ta. Trong chân dung ấy, có hai đặc tính nổi bật: tình thương vô hạn và sự tha thứ vô điều kiện.
a/ Tình thương vô hạn của Thiên Chúa: Thiên Chúa được Đức Giêsu mạc khải là một người Cha (chắc hẳn nếu phải nói về Thiên Chúa trong một nền văn hóa mẫu hệ thì Ngài sẽ mạc khải Thiên Chúa là một người Mẹ). Cha mẹ nào mà chẳng thương yêu con cái bằng một tình thương tự nhiên, vô điều kiện, nghĩa là bất chấp con cái tốt xấu, hay dở, có lợi hay gây hại cho mình, bất chấp cả việc chúng đối xử tệ bạc với mình tới đâu. Tình thương đích thực luôn luôn tự động biểu lộ thành hành động. Bản chất của tình thương là như thế, nếu không như thế thì không phải là tình thương đích thực. Tình thương không biểu lộ thành hành động chỉ là tình thương ngoài môi miệng (x. Gc 2,16.26). Và hai cách biểu lộ rõ rệt nhất của tình thương là: (1) sự tha thứ vô điều kiện, và (2) sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết cho người mình yêu thương. Tình yêu của Thiên Chúa đối với con người đã được biểu lộ qua cả hai cách ấy nơi con người Đức Ki-tô: «Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta» (Rm 5,7).
b/ Sự tha thứ vô điều kiện của Thiên Chúa: Trong dụ ngôn bài Tin Mừng hôm nay, người con hoang đàng đã đối xử thật tệ bạc với cha, đã rời bỏ cha mẹ mình để đi hoang, không còn biết nghĩ đến nỗi cô đơn, thương nhớ và đau khổ của cha mẹ khi mình bỏ đi, lại còn tiêu tán hết gia sản cha mẹ dành cho mình. Thế mà khi đứa con bội bạc ấy trở về, thái độ của người cha là: khi «anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để» và ngay tức khắc ra lệnh cho «các đầy tớ: “Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!». Ông làm như đứa con ấy chưa hề phạm một lỗi nhỏ nào đối với mình. Tội lỗi của đứa con hết sức to lớn nhưng ông làm như không nhìn thấy, chỉ nhìn thấy nó đã trở lại với mình, như thể nó «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy». Tình thương, lòng tha thứ và quảng đại chỉ có thể biểu lộ đến thế là cùng.
Chúng ta đã từng nghe nói có biết bao cha mẹ đã đến thăm nuôi đứa con tệ bạc và bất hiếu với mình hiện đang bị tù đày, bất chấp xa xôi, hiểm nguy hay trước đó nó đã làm phiền lòng mình tới đâu. Cho dù cha mẹ đó có là phường xấu xa trộm cướp, cũng vẫn có thể đối xử tốt với đứa con tệ bạc của mình như vậy. Có thế mới là bậc cha mẹ! Có nghĩ như thế, ta mới thấy được ý nghĩa vô cùng sâu xa khi Đức Giêsu mạc khải cho ta biết Thiên Chúa là Cha Mẹ của chúng ta. Tình thương đầy khiếm khuyết của cha mẹ trần gian còn như thế, huống gì tình thương hoàn hảo của Thiên Chúa! Ngài đã được thánh Gioan định nghĩa là Tình Thương (x. 1 Ga 4,7-8), một tình thương vô hạn của bản tính Thiên Chúa, nên sự tha thứ của Ngài cũng vô hạn. Đây quả là một thông tin hết sức vui mừng và vô cùng quí báu cho tất cả mọi con người, vốn yếu đuối và đầy lầm lỗi!
2. Hãy tin tưởng vào tình thương và sự tha thứ vô bờ bến của Thiên Chúa
Động lực nào đã làm cho đứa con quay trở về nhà mình? Chắc chắn không phải vì thương cha mình, mà vì sự khốn khổ nó đang phải chịu do sự ngu xuẩn và bất hiếu của nó. Tóm lại, nó về là vì nó thương bản thân nó hơn là thương cha. Chắc chắn khi thấy nó trở về với «thân tàn ma dại», cha nó cũng biết nó về vì động lực gì. Nhưng đối với ông, điều ấy không quan trọng. Điều quan trọng là nó đã trở về, vì nó tưởng như «đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy». Động lực khiến người cha tha thứ và vui mừng đón nhận nó trở về hoàn toàn vì yêu thương con, vì muốn cho nó hạnh phúc, bất chấp quá khứ lầm lỗi của nó.
Đó cũng chính là tâm tình của Thiên Chúa đối với những người con tội lỗi. Chỉ cần người tội lỗi quay trở về với Thiên Chúa và nói lên lời hối hận: «Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...», thì lập tức trước mặt Thiên Chúa, họ trở thành người vô tội, trở thành con cái trong nhà, được yêu thương, bảo vệ, được hưởng mọi quyền lợi của một người con y như trước. Vì thế, dù ta có phạm một tội tầy đình, nếu ta biết trở về với Chúa, Ngài sẽ tha thứ tất cả, và coi ta như con cái hiếu thảo trong nhà.
Mẹ Giáo Hội của chúng ta đã từng có những hành vi như thế. Chẳng hạn, Âu-Tinh, một thanh niên đã từng sống trụy lạc, ăn chơi, và có những đứa con rơi rớt không kém gì đứa con hoang đàng trong Tin Mừng. Thế mà khi trở về với Giáo Hội, Giáo Hội đã mở rộng vòng tay đón nhận. Sự đón nhận trở nên hoàn toàn khi Giáo Hội chấp nhận chàng vào tu viện, và khi thấy chàng xứng đáng, đã phong chức giám mục cho chàng. Nhờ sự tha thứ quảng đại ấy của Giáo Hội, Âu-Tinh đã trở nên một vị thánh. Giáo Hội xưa là như thế, Giáo Hội ngày nay thì sao? Thiết tưởng Giáo Hội không nên quá chú trọng đến vấn đề lý lịch hay quá khứ của những người muốn trở về với Thiên Chúa và với Giáo Hội. Chúng ta không nên lấy cớ khôn ngoan để hành xử giống như những thế lực trần gian. Đức Giêsu đã trao cho Giáo Hội quyền tha và buộc (x. Mt 16,19; 18,18), thiết tưởng Giáo Hội nên tha nhiều hơn là buộc, nên có thái độ của bậc cha mẹ yêu thương con cái hơn là thái độ của các quan tòa. Các bậc làm cha mẹ cũng cần có thái độ quảng đại như thế đối với những đứa con hư hỏng. Đọc Tin Mừng, tôi chỉ thấy Đức Giêsu kết án có một loại người duy nhất là bọn kinh sư và biệt phái giả hình hoặc các tiên tri giả mà thôi!
Người con hoang đàng sẽ không dám quay trở về khi đoán rằng cha mẹ mình sẽ không tha thứ, sẽ ruồng rẫy nó khi nó trở về. Nếu biết như thế thì trở về làm gì? Vì thế, nếu cha mẹ vẫn luôn luôn tỏ thái độ yêu thương chăm sóc khi chúng bất hiếu và tệ bạc với mình, thì sẽ khiến chúng trở về với đường ngay nẻo chính hơn là thái độ bỏ rơi, ruồng rẫy chúng. Thái độ kết án, ruồng rẫy chỉ làm cho con cái xa lìa và chống lại cha mẹ mà thôi. Lịch sử Giáo Hội cũng như chuyện đời thường chứng minh điều ấy.
Dụ ngôn người cha và đứa con hoang đàng của Đức Giêsu là một bài học cho nhiều loại người: không chỉ cho những người tội lỗi cần quay trở về, mà còn đề nghị với các bậc làm cha mẹ và với cả những người tốt lành ở trong Giáo Hội cách đối xử với những người con hay anh em đang sống trong lầm lạc tội lỗi. Không nên có thái độ như người anh kém quảng đại trong bài Tin Mừng chỉ biết ganh tị với em, mà không hề tỏ một tâm tình yêu thương gì với cha và với em cả.
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu đã cho con thấy khuôn mặt đầy tình thương và giàu lòng tha thứ của Cha qua dụ ngôn người cha nhân hậu và đứa con hoang đàng. Xin cho con luôn ý thức tình yêu thương ấy của Cha để sẵn sàng quay trở về với Cha ngay khi lầm lỗi, đồng thời cũng luôn luôn bắt chước Cha trong việc quảng đại tha thứ vô điều kiện cho con cái, cũng như cho tất cả mọi người có lỗi đối với con. Amen.

CHIÊN LẠC (15, 1-7)
Chú giải của R. Gutzwiller
Trong số những người môn đệ Chúa, có nhiều người thu thuế và tội lỗi. Các ký lục và biệt phái lấy điều đó là gương mù và ta biết là họ đã tỏ ý không chấp thuận điều đó, cho nên họ đưa ra những vấn nạn là chuyện đương nhiên.
1. Vấn nạn
Những người thu thuế là những người làm ăn sinh sống bằng những nghề khá mập mờ. Thế nên, họ chẳng lưu tâm đến luật lệ của Thiên Chúa trong lý thuyết lẫn trong thực hành; họ chẳng cần biết đến những giá trị tinh thần, những cái họ coi là chỉ tổ mất thì giờ và bất lợi. Họ còn có thái độ khinh dể những nơi thờ phượng nữa.
Còn những người tội lỗi, họ chỉ thấy bình thản khi lãng quên Thiên Chúa và cố tránh né mọi bận tâm về tôn giáo.
Thế nhưng sao họ đến với Chúa Giêsu thật đông như thế? Chúa Giêsu không chấp nhận một não trạng duy vật, một cuộc sống xa cách Thiên Chúa, Ngài cũng chẳng có ý làm cho tôn giáo thành dễ theo hơn. Thế mà sao họ vẫn đến với Ngài?
Ngược lại, những người biệt phái, đại biểu cho thành phần tôn giáo ‘đạo gốc’, là những nhà đạo đức chuyên nghiệp, những người sùng đạo nhiệt thành, những người hoàn toàn không thể trách cứ: tóm lại họ là thành phần đạo đức ưu hạng.
Các luật sĩ là những nhà chuyên môn, những người thông thạo lề luật và thực hành về tôn giáo, thông thái về khoa giáo điều, nói những lời đáng tin về Thiên Chúa. Và hẳn là những hạng người này đã không đến với Đức Kitô, có chăng là tính cách địch thủ, hầu hại Ngài và làm cho Ngài ‘mất tín nhiệm’.
Những người thu thuế và tội lỗi vẫn là những kẻ bị lên án, còn luật sĩ và biệt phái là những người ưu tuyển. Dân chúng nghĩ như thế và chắc có lẽ là Thiên Chúa cũng vậy. Thế mà tại sao lại xẩy ra thế khác?
2. Trả lời
Nhưng Thiên Chúa đã và còn đang xét định cách khác. Tư cách của những người thu thuế và tội lỗi có xâú thật, tư cách của luật sĩ và biệt phái có đúng về nhiều điểm thật. Thế nhưng, những ý định bên trong, những động lực của việc họ làm lại chứng tỏ hoàn toàn khác hẳn.
Những người thu thuế và tội lỗi coi mình như hạng hư mất, xa cách Thiên Chúa, không còn sùng mộ chi nữa, đúng ra đầy tội lỗi. Do đó họ xác tín về sự bất lực của họ, không thể tự thoát mà phải chờ mong tất cả từ ân sủng và lòng nhân lành của Thiên Chúa.
Biệt phái và luật sĩ tự hào là những người công chính, được bảo đảm an toàn, nơi họ tất cả đều ổn định và ân sủng đầy tràn. Vì tự lực thánh hoá bản thân, những người như thế đâu cần nhờ nguồn lực thánh hoá độc nhất nữa.
Nhưng Thiên Chúa lại có cái nhìn khác hẳn. Ngài không xét hành vi bên ngoài, nhưng là những ý định trong lòng.
Linh hồn có ý thức sự yếu đuối của mình, sự hèn hạ, giới hạn và tội lỗi của mình, khi ấy nó mới tìm kiếm Thiên Chúa nơi thâm sâu của lòng mình, mới ao ước Ngài, mới có thể đón nhận ân sủng của Ngài và như thế là mở cửa để đón Ngài.
Nương đồng dẫu có sỏi đá cũng không hề chi: nó đã được cày bừa và những luống cày sâu sẵn sàng tiếp nhận hạt giống sẽ gieo vào. Tạo vật mang tật bệnh, vì thế nó cần đến y sĩ; vì thấy mình trống rỗng, nên chỉ có sự viên mãn của Thiên Chúa mới có thể lấp đầy. Sự viên mãn ấy thấu nhập nơi ngõ hẹp cuộc đời của nó: vì thế nó sẵn sàng trở về, sẵn sàng hoán cải, nó khẩn khoản bàn tay cứu nhân độ thế đến cứu thoát mình.
Ngược lại, con người tự hào về sự cao trọng, về sức mạnh của mình, nghĩ rằng mình không thể phạm tội và vinh vang vì giai cấp được tôn trọng, tưởng rằng mình hoàn hảo trong đàng đạo đức, thì họ sẽ chẳng lo kiếm tìm Thiên Chúa, bởi vì họ lấy bản thân làm nơi an nghỉ. Tin tưởng ở mình thì không còn tin tưởng nơi Thiên Chúa; tình yêu mình sẽ thay thế cho lòng yêu mến Thiên Chúa.
Người thu thuế có thể hoán cải khi họ nhận thấy thân phận tội lỗi của mình. Còn biệt phái và luật sĩ không thể hối cải vì họ cứ ngỡ là mình công chính. Trên trời sẽ vui mừng khi có một người cải tà qui chánh, bởi vì đây là một sự quay về, một khuôn mặt nhìn lại Chúa, một con người đã hư mất được cứu thoát. Như thế trên trời sẽ vui mừng mỗi lần có người ‘tội lỗi’ trở về, chứ không phải mỗi khi có người ‘công chính’ tin rằng mình không cần hoán cải nữa. Trên trời vui mừng vì người tội lỗi thực sự được Chúa Kitô, Đấng hằng tìm kiếm những tâm hồn tội lỗi, đến cứu thoát.
 Nhưng trên trời không vui vì số phận của những người –và họ là đa số- không thể được cứu thoát chỉ vì lý do họ nghĩ rằng không cần thiết.
Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là ý tưởng của chúng ta và đường lối của Người chẳng phải là đường lối của ta. Vì đó, Chúa Kitô đã cho họ thấy rằng những ý định của Thiên Chúa khác hẳn của con người, xưa cũng như nay, Ngài đi tìm kiếm những kẻ tội lỗi thực sự, và bỏ qua những người ‘công chính’ giả hiệu.
TÌM KIẾM (15, 8-10)
Liều mất mạng sống vì tình yêu Chúa Kitô, mất mạng sống vì không có Ngài… Bây giờ là vấn đề được Đức Kitô kiếm tìm và đi tìm kiếm theo gương Ngài.
1. Được kiếm tìm.
Người đàn bà đánh mất một đồng bạc. Bà tìm kiếm không ngơi cho đến khi thấy lại đồng bạc đã mất: theo một nghĩa loại suy, dựa theo lời Đức Kitô, ta có thể nói về việc Thiên Chúa tìm kiếm.
Ân sủng không được ban theo kiêủ buôn bán, dè xẻn, mà Thiên Chúa cũng chẳng đưa cho con người một bản tổng kết những gì Ngài đã ban cho họ. Ân sủng của Người tuôn chảy không ngừng, tình Người yêu thương chẳng bao giờ cạn.
Thiên Chúa kiếm tìm tạo vật đã lạc mất bằng những lời khuyên nhủ, cảnh cáo, khích lệ; đó là bề trong, còn bề ngoài người dùng Giáo Hội, các linh mục, sách vở, người này người nọ, biến cố này biến cố khác. Nhiều biến cố có vẻ phũ phàng. Nhưng thực ra đó chỉ là những dấu chân hữu hình của Thiên Chúa, dõi theo từng người chúng ta.
Bệnh tật giúp người ta mau mắn hồi tâm lại, mất mát của cải sẽ tách người ta ra khỏi những sự thế trần. Thất vọng sẽ cho thấy không nên quá tin tưởng vào con người. Thất bại sẽ thanh lọc tính kiêu căng và những lời phê bình gay gắt sẽ giải thoát ta khỏi tính ích kỷ.
Cả khi con người lang thang phiêu lãng, Thiên Chúa vẫn đuổi theo. Không có chỗ nào con người ở một mình cả. Chẳng bao giờ con người có thể tự nhủ Thiên Chúa đã bỏ rơi mình rồi. Một người thợ săn kiên nhẫn, rình chờ con mồi, một ngư phủ lưới người cũng kiên nhẫn đợi chờ chú cá bé nhỏ dính vào lưới ân sủng, hoặc là có dẫy dụa đi nữa, thì cũng mắc vào chiếc lưỡi câu. Đấy Thiên Chúa như thế đấy.
Chỉ có ở thế giới bên kia, tạo vật đã bị chiếm hữu sẽ nhận thấy rằng Thiên Chúa vẫn luôn theo đuổi, tìm kiếm mình, và tình Ngài yêu thương không ngừng đưa ra hết cách, và hết thế để dẫn đưa mình trở về. Tất cả mọi người chúng ta –dầu không nhận thấy- đang sống trong bầu khí yêu thương của Người.
Trước nhan Thiên Chúa, chúng ta tỏ ra phong phú –đây là điều khó có thể tưởng tượng được-. Điều này giải thích niềm vui trên trời khi một người xa lạc được tìm về.
2. Tìm kiếm
Cũng có thể áp dụng dụ ngôn này cho việc tìm kiếm những người con đã hư mất. Người mục tử không bao giờ được bằng lòng với những con chiên sốt sắng ngoan đạo, mà phải biết nghĩ đến những tâm hồn còn đang xa cách, đang gặp nguy khốn, đã sa ngã, đã lầm đường lạc lối.
Thực là một hiện tượng đáng buồn khi thấy trong tiểu thuyết hiện đại, thường các vị linh mục được miêu tả như những vị trưởng giả đầy đủ. Rõ ràng những nguyên tắc bất can thiệp và nhẫn nhục ảnh hưởng nhiều đến đời sống linh mục. Ngạc nhiên hơn nữa là ngày nay các toà Giám mục, đa số gồm có những vị trẻ trung, tinh thần cởi mở, đến độ gần như cách mạng trong khoảng thời gian thế chiến thứ nhất. Kết quả vẫn chán nản biết bao!
Một số lớn các linh mục hiện nay đã tham dự vào thế chiến thứ hai, và rồi người ta mới thấy điều đó.
Có lẽ người ta cho rằng nhận một trọng trách trong Giáo Hội đã có quy củ, chắc chắn sẽ làm cho họ mau an phận và làm suy yếu tinh thần tìm kiếm của họ. Thực sự những người mà Giáo Hội có trách nhiệm, đã tiếp tục lìa xa Giáo Hội.
Nếu người mục tử tốt lành để lại chín mươi chín con chiên để tìm kiếm một con thất lạc, và nếu người đàn bà bỏ mọi công chuyện để tìm đồng bạc đánh mất, thì người mục tử cũng phải tìm ra đường lối và phương pháp để dẫn những kẻ lầm lạc trở về. Chúng tôi có ý nói đến sứ vụ tông đồ tại các gia đình, tổ chức thăm viếng tận nhà, tái phối trí những họ đạo lớn, phát huy tinh thần tìm kiếm trong công tác tông đồ giáo dân, sự chuẩn bị môi trường bằng báo chí, những nỗ lực bác ái xã hội, những điều kiện ưu tiên cho vùng ‘sỏi đá’. Nói tóm lại, ta không thể bằng lòng với những gì mình đang có mà phải nghĩ đến những gì đã mất mát đi.
Làm cho những người vốn đã tốt, trở nên tốt hơn không đủ. Thực tế rất thường chưa hẳn những người đó đã là những người tốt.
Nhiều khi những người tân tòng, những người ăn năn hối cải lại khiến cho người ta mừng rỡ hơn bởi vì họ biết mình lầm lạc và đã được tìm kiếm, họ biết rằng chính bản thân họ đã tìm lại điều đã mất; Họ quí chuộng kho tàng của họ hơn là những người bao giờ đức tin cũng bình thường, không yếu đuối cũng chẳng lu mờ.
NGƯỜI CON HOANG ĐÀNG (15, 11-32)
Xét theo tâm lý, phải là bậc thầy mới hoạ nổi dụ ngôn đứa con hoang đàng. Thế nhưng đây lại chẳng nhấn mạnh về đứa con hoang đàng, về những nỗi khốn nạn và sự trở về của chàng ta. Mà lại nhấn mạnh nhiều đến người cha.
Tất cả những đoạn văn Thánh Luca nói về vấn đề hư mất đã kết thúc một cách ý nghĩa khi đưa chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cứu thoát những gì đã hư hại và bù đắp dư dật.
1. Người cha để cho đứa con hư hỏng.
Trong dụ ngôn, người cha có thể, hoặc tạm thời từ chối không chia cho người con phần gia tài của anh ta, hoặc là nói cho thấy hơn thiệt. Bản văn lại chẳng đả động đến chi tiết. Người cha đã chia gia tài cho anh, và để anh ra đi. Đối với đứa con, chẳng phải vì xung khắc hay vì sự sa đoạ nào đó thúc đẩy anh ra đi, nhưng là vì anh khát khao được sống ngoài vòng kềm toả, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, vì chưa có bản lãnh, vì tính hung hăng và bản năng thích phiêu lưu mạo hiểm.
Thiên Chúa cũng để cho con người hành động. Người có thể gìn giữ con người khỏi tội lỗi bằng những đường lối quan phòng của Người hoặc bằng áp lực của ân sủng mà con người không thể nào cưỡng lại được. Thế nhưng, Người vẫn tôn trọng tự do của con người: điều này làm chúng ta ngạc nhiên và khó hiểu.
Nhưng thể theo Thánh ý của Người, sau khi con người đã được tạo dựng một cách tự do và được ban cho quyền tự do, Thiên Chúa đã thực sự để cho con người làm chủ những quyết định của mình, lại còn ban cho con người sự trợ giúp tự nhiên để thực hiện những quyết định đó nữa. Bởi chưng mọi chuyện con người thực hiện –cả khi con người làm điều ác nữa- con người cần phải có sự trợ lực của Thiên Chúa, nếu không con người hoàn toàn bất lực.
Trong dụ ngôn, đứa con lầm lạc dần dần sa sút, trước tiên là một sự phung phí dại dột, rồi hắn phung phí gia tài cho bọn đĩ điếm cho đến lúc hắn hoàn toàn chìm đắm trong tình cảnh khốn nạn và phải đi chăn heo (ta chớ quên thái độ xa lánh của người Do thái đối với loại thú vật này) rồi suýt chết đói.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài để mặc con người tự do theo con đường đã chọn lựa, để họ xuống dốc theo ý muốn và ao ước của họ. Ai tưởng mình có thể định đoạt giá trị sự vật thì Chúa sẽ để họ theo ý riêng mình, cho đến khi họ hiểu rằng ý muốn tự quyết của họ chỉ là sự sụp đổ bất lực.
Thiên Chúa thường thông cảm với việc con người yếu đuối sa ngã giữa lúc làm bạn với bầy heo và cơn đói ám ảnh. Tuy nhiên –sẽ có một hiện tượng kỳ dị- bao lâu mọi sự tốt đẹp thì con người ít nghĩ đến Thiên Chúa. Họ muốn quán xuyến tất cả và tự mình quyết định. Nhưng khi có trục trặc vì lỗi của họ, họ vội vàng quy trách cho Thiên Chúa.
2. Người cha đón nhận đứa con hư hỏng
Trong dụ ngôn, người con đã trở về với chính mình. Bị lâm vào cảnh phiền muộn, nó mới biết đến kinh vực sâu, thú nhận lỗi lầm của mình và dọn sẵn lời thú tội: ‘Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha’. Nó ý thức mình không còn quyền lợi nữa và chỉ còn trông cậy vào lòng nhân hậu để được coi như một kẻ hèn hạ nhất trong đám thợ làm công.
Khi con người có kinh nghiệm sâu sắc và chua cay về thất bại bản thân, họ dễ ý thức giá trị của ân sủng. Lúc ấy, họ biết không thể tự sức mình mà được việc, nên phải phó thác vào ân sủng của Thiên Chúa. Tội lỗi đã làm cho con người mất địa vị làm con Thiên Chúa, cho nên, làm tôi tớ đối với nó là một đặc ân. Con người không còn đến trước Thiên Chúa Cha với tư cách một người con quấy rầy, nhưng như một kẻ van xin đầy lòng hối hận đứng trước chủ nhân. Và Thiên Chúa chấp nhận họ.
Trong dụ ngôn, người cha đã chờ đợi rồi ông đã chạy ra đón đứa con hư, tỏ lòng tha thứ mà không cần đứa con giãi bày lời thú tội. Ông đã dọn một bàn tiệc, tổ chức một buổi lễ… Đối với tội nhân hối cải, Thiên Chúa cũng có một thái độ tương tự. Ngài đến gặp họ. Phán quyết trong nội tâm và lòng hối cải đã là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa. Kẻ lầm lạc khi tự phán quyết rồi lại quyết định trở về với Thiên Chúa, đó cũng là ân sủng.
Thiên Chúa cầu mong lại đón nhận họ. Đó là do lòng nhân hậu của Ngài. Và, nói một cách sát chữ, Ngài đem lòng yêu thương dạt dào người tội lỗi đã hối cải, quên đi quá khứ, xoá bỏ ác quả và tội vạ, và hơn nữa, cho họ được những đặc ân không ngờ, đây là mầu nhiệm khôn dò của ân sủng Người.
Bữa tiệc sẽ minh chứng là Thiên Chúa yêu thương. Người anh khó tính với cảm nghĩ tầm thường lấy vẻ liêm chính che đậy đầu óc thiển cận, tâm hồn hẹp hòi của mình. Trái lại, qua hành vi quảng đại của người cha, dụ ngôn cho chúng ta thấy bản tính thâm sâu của Thiên Chúa, tầm mức vô biên của tình yêu, nhịp điệu và hài hoà, âm vang trong Thiên Chúa.
Lầm lạc không còn là điều đáng quan tâm. Tăm tối đã biến đi. Ánh sáng chói chan khắp nơi, mọi sự thấy đẹp hơn bao giờ hết. Tội hồng phúc!... Tội lỗi là dịp vô cùng hữu ích để chúng ta nhận ra sự cao cả của Thiên Chúa đến nỗi chính các lỗi lầm của con người lại dẫn đến ơn cứu độ và vinh quang của Thiên Chúa.
AI NẤY SẼ VUI MỪNG
Chú giải của Noel Quesson
Tin Mừng hôm nay, nếu đọc đầy đủ, gồm “ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu, mà Luca đã tập họp trong chương 15: *1. Con chiên bị mất và tìm lại được *2. Đồng bạc bị đánh mất và tìm lại được *3. Đứa con đi mất và trở về. Ba dụ ngôn này được xây dựng trên cùng một sơ đồ và đạt đỉnh cao trong dụ ngôn thứ ba mà nhan đề truyền thống là “dụ ngôn đứa con hoang đàng”. Tuy nhiên, vì dụ ngôn thứ ba này đã được suy gẫm vào Chúa nhật IV Mùa Chay của cùng năm Phụng vụ này, nên hôm nay chúng ta chỉ cần chú giải hai dụ ngôn đầu.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.
“Ông này đón tiếp phường tội lỗi, đó là một định nghĩa về Chúa Giêsu, đồng thời cũng là một mạc khải của Thiên Chúa!”. “Ai thấy tôi là thấy cha tôi” (Ga 14,9).
Những người Pharisêu và các kinh sư là những người rất được trọng vọng. Họ thật sự bị sỉ nhục vì Đức Giêsu thường tiếp phường tội lỗi. Phần chúng ta, chúng ta có thể hoàn toàn bỏ qua khía cạnh “Tin Mừng” của ngày hôm nay, nếu chúng ta không nhận ra rằng bài Tin Mừng này cũng vì chúng ta. Phải chăng chúng ta là những người nói rằng: “Tôi không làm gì xấu, tôi là một người tử tế, tôi không có tội”.
Tuy nhiên, trong phần thư của Thánh Phaolô mà chúng ta đọc hôm nay, thánh nhân lặp lại với chúng ta: “Đức Kitô Giêsu đã đến thế gian, để cứu những người tội lỗi mà kẻ đầu tiên là tôi” (1 Timôtê I,15). Phụng vụ ngày Chúa nhật đầy rẫy thực tại “cứu độ” “tội lỗi được tha thứ”. Chúng ta có đem lại một nội dung cụ thể cho các từ đó? Chúng ta có thuộc phái Pharisêu chỉ nhìn thấy tội lỗi. Trong những người khác? Trước khi đi xa hơn trong sự suy niệm của tôi, tôi cần phải bình tâm và sáng suốt nhận thực rằng tôi là kẻ tội lỗi” khi nhớ đến những thiếu sót mà tôi phạm phải trong đời tôi.
Đức Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này: Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang để tìm cho kỳ được con chiên bị mất?”
Đức Giêsu hỏi. Người kêu gọi kinh nghiệm của các cử tọa, các ông nghĩ gì? Các ông sẽ làm gì? Thật ra, không một mục đồng nào chịu mất dù chỉ một con chiên, nhưng lo lắng để tìm lại nó.
Các triết gia đã biến Thiên Chúa thành một ý niệm vững chắc: Một hữu thể bất động, không hề thay đổi... Còn ở đây chúng ta đứng trước một Thiên Chúa “chuyển động”, đang mở chiến dịch tìm kiếm cái mà Người đã mất? Và Đức Giệsu đặt trước mắt - chúng ta các cậu mục đồng vùng đồi núi Galilê đang chạy hết tốc độ, chân trần trên sỏi đá để tìm lại một con chiên đi lạc khỏi đàn. Chúng ta đoán được sự ngoan cường của các cậu trai ấy, “tìm kiếm cho tới khi nào tìm thấy!”
Thiên Chúa là như thế...
Không bao giờ có người nào bị Thiên Chúa bỏ rơi.
Không bao giờ có người nào “bị mất” hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương người ấy không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về. Người ra đi tìm họ.
Chúng ta còn phải chiêm niệm lâu dài Thiên Chúa đó, Đấng mà Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta. Khi người ta yêu thương, thì số học không còn như cũ. Lúc đó, có thể đặt dấu bằng (=) ở giữa số 1 và số 99. Đối với Thiên Chúa, mỗi người đàn ông, mỗi phụ nữ có một giá trị độc nhất, vô giá. Tôi nhìn thấy con chiên độc nhất ấy đã bò trốn hoặc đã bị mất. Đó là con chiên chiếm hết ý nghĩ của cậu mục đồng. Và xem ra chỉ có nó mới là đáng kể. Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những ai đã bỏ rơi Người, một Thiên Chúa yêu mến những ai không yêu mến Người, một Thiên Chúa đau khổ chỉ vì một trong số các con chiên của Người làm Người lo lắng.
Đôi khi, tôi chẳng phải là con chiên đó sao? Và, xung quanh tôi, như ông nọ, bà kia, cô X..., ông Y... không người nào bị bỏ rơi. Thiên Chúa đang tìm kiếm họ.
“Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai...”
Đây là một hình ảnh kỳ diệu, một trong những tranh thánh đã thể hiện Đức Giêsu như thế ngay từ những thế kỷ đầu: Một người chăn chiên sung sướng, tươi cười, vác trên vai một con chiên. Trong nội tâm mình, chúng ta còn phải chiêm niệm hình ảnh ấy của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã có một sự quan sát rất tinh tế với chi tiết đơn giản đó: “vác con chiên trên đôi vai”, khi một con chiên đi lang thang nhiều giờ hoặc nhiều ngày xa đàn chiên, nó kiệt sức và nằm xuống. Thật ra phải vác nó thời. Và một con chiên nặng đấy? Nhất là khi người chăn chiên cũng đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi nhiều sỏi đá dưới ánh nắng mặt trời... Chính người chăn chiên cũng rất mệt nhọc? Nhưng, Đức Giêsu nói, hoàn toàn vui mừng, người đó quên đi sự mệt nhọc của mình, bế nó lên tay và vác nó.
Chính Thiên Chúa được giới thiệu với chúng ta như thế! Vả lại hình ảnh ấy không mới mẻ. Toàn thể Kinh thánh đã thể hiện Thiên Chúa dưới những đường nét của “Người chăn chiên” (Isaia 40,11; 49,10 v.v...). Và mỗi Kitô hữu thỉnh thoảng phải đọc lại Thánh Vịnh 26 tuyệt vời: “Chúa là đấng chăn dắt tôi, tôi không thiếu thốn chi”.
“Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó”.
Niềm vui của người chăn chiên rất mạnh mẽ nên người ấy không thể, giữ lại cho một mình mình. “Xin chung vui với Ta” Thiên Chúa nói. Vậy giờ đây Thiên Chúa là hữu thể đang vui mừng và chia sẻ nềm vui. Chúng ta hoàn toàn khác với các người Pharisêu và kinh sư hay càu nhàu, bẳn gắt!
Vậy tôi nói cho các ông hay: “Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.
Thiên Chúa vui mừng tha thứ cho những kẻ tội lỗi.
Thiên Chúa vui mừng để cứu độ, vì Người không biết kết án ai. Trên trời có niềm vui! Vậy khi nào? Mỗi lần một kẻ tội lỗi hoán cải. Chỉ một thôi ư! Mỗi lần mà sự ác lùi lại một chút trên mặt đất.
Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà moi móc tìm cho kỳ được?
Luca, vốn rất quan tâm đến các phụ nữ là người duy nhất thuật lại cho chúng ta dụ ngôn đầy “nữ tính” này, để nói lại với chúng ta cùng một sự việc dưới một hình ảnh bổ sung. Sự lặp lại này không đơn thuần là một minh họa mới: Đức Giêsu nhấn mạnh, như để nói với chúng ta rằng điều Người vừa mới mạc khải không phải là một sự nói quá hoặc một sự nhầm lẫn ngẫu nhiên. Tình yêu phi thường của Thiên Chúa được tái xác nhận ở đây.
Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại và nói: “Xin chung vui với tôi vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất”.
Vậy giờ đây một niềm vui rất đơn sơ được chia sẻ giữa những Người phận nhỏ. Đây cũng là một sự quan sát cụ thể của Đức Giêsu. Người phụ nữ được đưa lên sân khấu này là một Người nghèo: Bà không sở hữu “một trăm con chiên”, bà chỉ có mười “đồng quan “! Đồng quan này chỉ số tiền lương trung bình một ngày công nông nghiệp (Mt 20;2). Vì thế không phải là gia tài to lớn gì mà bà đã tìm lại được Nhưng bà cũng muốn chia sẻ niềm vui. Thiên Chúa là như thế đó. Chúng ta còn chưa hiểu đủ bầu khí vui mừng xuất phát từ tấm lòng của Thiên Chúa nằm rải rác khắp nơi trong toàn bộ Tin Mừng như một “Tin Mừng”, và niềm vui ấy muốn tràn ngập nhân loại được “cứu thoát”.
“Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”.
Hình ảnh này rất đẹp. Không nên cụ thể hóa nó. Có một cuộc lễ trên thiên giới. Niềm vui của Thiên Chúa lan truyền và trở thành niềm vui của các thiên thần.
Tất cả lễ hội hân hoan này chỉ vì sự hối cải của một người tội lỗi?
Tư tưởng Kitô giáo, phản ánh tư tưởng của Đức Giêsu đầy sự tinh tế. Phải nhấn mạnh rằng, không hề có một sự làm hại thanh danh với “tội lỗi” trong thái độ đó. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng tội lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì mãnh liệt và không chút mơ hồ. Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải và sám hối (Máccô 1,15). Và nếu các dụ ngôn mà chúng ta vừa nghe là một lời rao giảng về tình yêu Thiên Chúa thì chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết của kẻ tội lỗi. Nhưng điều được nói ở đây một cách mạnh mẽ là luôn luôn Thiên Chúa có sáng kiến “đi tìm” điều đã bị mất. 'Tình yêu cốt ở điều này; không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta trước” (1Ga 4,10 -19).
Chúng ta có để Thiên Chúa yêu thương chúng ta không? Chúng ta có mang lại niềm vui cho Thiên Chúa không? Và có bước vào trong niềm vui của Thiên Chúa không? Cần phải đọc lại phần kế tiếp là dụ ngôn về đứa con hoang đàng, trong Chúa nhật IV Mùa Chay.
TÌNH YÊU VÀ SỰ THƯƠNG CẢM
Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
NHỮNG DỤ NGÔN VỀ NIỀM VUI TẬP THỂ SAU KHI TÌM LẠI ĐƯỢC CÁI ĐÃ MẤT
Trong các chương từ 15 đến 19 sẽ có nhiều giáo huấn của Chúa Giêsu, chủ yếu dưới hình thức các dụ ngôn, được trình bày trước hết để soi sáng trên thái độ ân cần của Thiên Chúa đối với những kẻ bị xã hội tôn giáo khinh chê và ruồng bỏ. Đó là trường hợp của ba dụ ngôn làm nên chương 15. Tình yêu của Thiên Chúa đối với những kẻ không được yêu thương, cũng không đáng thương lên án một cách gián tiếp sự cứng cỏi và nghiêm khắc mà những người”công chính” hơn đối xử với họ.
Điểm bắt đầu ở chương 15 lại là một bữa ăn (cc. 1-3). Nhưng lần này Chúa Giêsu đón tiếp –có thể tại chính nhà Ngài- những người thu thuế và những người tội lỗi (với nghĩa xã hội lẫn tôn giáo của từ này) và Ngài ăn uống với họ. Những người thuộc phái Pharisêu và các Kinh sư lên án cử chỉ này vì nó bẻ gãy những hàng rào truyền thống phù hợp với sự khôn ngoan Kinh Thánh (x. Cn 1,1-15), và như họ đã từng làm nhân bữa ăn tại nhà ông Lêvi (5,29-30), họ lẩm bẩm. Dưới dạng dụ ngôn, lời đáp của Chúa Giêsu ở đây ngắn gọn và đanh thép (5,31-32); sự tương phản giữa những kẻ công chính và người tội lỗi ăn năn sám hối được nói đến ở 5,32 cũng như ở 15,7. Ba dụ ngôn ở đây thiết lập một liên hệ chặt chẽ giữa cách hành xử của Chúa Giêsu và thái độ của Thiên Chúa –đó là điều mới mẻ và căn bản. Những dụ ngôn này được gắn liền với nhau bằng các đề tài (niềm vui, sự hoán cải) và một diễn ngữ (bởi vì cái mất lại được tìm thấy) như một sợi chỉ đỏ chạy xuyên suốt cả chương. Hai đề tài đầu tiên (cc. 4,10) minh hoạ phần đầu của lời khẳng định:”Ta đến không phải để gọi những người công chính mà gọi các tội nhân” (5,32a), đề tài sau cùng minh hoạ phần cuối”để chúng ăn năn sám hối” (5,32b).
Để biện minh cho thái độ của mình, Chúa Giêsu bắt đầu bằng hai dụ ngôn có cấu trúc song song (cc.4,10). Cùng một câu hỏi giả thiết một lời đáp khẳng định. Một cái gì đó bị mất (từ nayù được dùng tới năm lần) mà người ta đã tìm lại được (sáu lần). Một người chăn chiên khá giả và ngược lại, một bà nội trợ nghèo mời bạn bè hàng xóm lại chia sẻ niềm vui của họ. Nếu con chiên tự đi lạc, thì một trong số mười đồng bạc –với một đồng đủ sống một ngày- bị người đàn bà đánh mất. Như vậy các dụ ngôn này không quan tâm tới cách thức sự mất mát; ngay cả việc tìm thấy cái đã mất cũng thuộc về quá khứ. Việc tìm kiếm ít được nhấn mạnh hơn là lời mời gọi cùng chia sẻ niềm vui.
Các dụ ngôn kép này (cc. 4-6.8-9) và việc áp dụng của chúng chỉ hơi khác nhau ở hình thức (cc.7-10), đồng hoá cái đã mất với tội nhân. Điều quan trọng hàng đầu là đừng đọc lời giải thích mà không có con người đi trước: liên hệ giữa chúng nhấn mạnh rằng việc sám hối của tội nhân không thể xảy ra, nếu trước đó Thiên Chúa đã không đi tìm họ. Ở cuối tiến trình này là niềm vui của Thiên Chúa đối với chỉ một tội nhân sám hối, một niềm vui mà Thiên Chúa chia sẻ cho toàn triều thần Thiên Quốc. Ở câu 7 (chứ không ở câu 10) có vấn đề chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn. Phải chăng đó là một lời mai mỉa nói với các người Pharisêu và Kinh sư, vì họ phải biết rằng không ai là công chính trước mặt Thiên Chúa (x. Rm 3,10tt) và chính họ cũng cần hoán cải? Phải chăng đây là một cách nhấn mạnh cách tột cùng – như trong chính dụ ngôn, câu 4 – cái giá trị của từng cá nhân đối với Thiên Chúa khi họ quay về với Ngài?
Như thế, việc Chúa Giêsu năng lui tới các kẻ bị loại trừ được biện minh bằng hành động của chính Thiên Chúa. Và diễn từ dụ ngôn như muốn nêu lên cho các thính giả một câu hỏi: Các bạn có thể chung vui với Chúa Kitô khi thấy những người tội lỗi đến gần Ngài để nghe Ngài chăng?
Dụ ngôn về người có hai con trai (cc.11-32) được trình bày như một bức tranh bộ đôi đưa vào hoạt cảnh người con út, rồi người con cả; trong cả hai trường hợp, người cha giữ một vai trò quyết định. Khi đọc dụ ngôn này chúng ta sẽ nhận thấy rằng: trong một dụ ngôn có hai kết luận, hai”cao điểm” thì cao điểm thứ hai là điều Luca muốn nhấn mạnh hơn cả.
Phần thứ nhất của dụ ngôn trình bày người con út dưới một hình ảnh không có gì đáng khen (cc. 1-24). Nó không đợi cha qua đời rồi mới sử dụng phần gia tài của nó, và nhất là nó hoang phí gia tài khi sống một cách truỵ lạc. Thế là nó phải đi làm công cho một kẻ ngoại giáo đến đỗi đi chăn heo –loại thú vật nhơ bẩn trong Do Thái giáo- và sẵn sàng nhét cho đầy bụng thức ăn của chúng. Nó chỉ quyết định trở về vì tình thế bắt buộc thôi. Chắc hẳn rằng trước một dung mạo như thế những người Pharisêu và luật sĩ đang nghe một câu chuyện phải cảm thấy đối với nhân vật này một tâm tình tương tự như họ đã có đối với các thực khách đồng bàn với Chúa Giêsu! Giọng văn thay đổi với sự suy tư của đứa con hoang đàng (cc. 17-19). Hành động mà anh ta định làm chắc hẳn có một lý do vụ lợi, nhưng nó ghi dấu bước chân khởi đầu của một cuộc hoán cải, một cuộc trở về với Thiên Chúa cũng như với cha của mình. Khi anh ta quả quyết rằng anh chẳng con đáng gọi là”con”, và xin được đối xử như một người làm công cho cha anh, anh không toan tính một mưu mẹo gì, với óc thực tế, anh ta tính toán về cái giá phải trả cho một cuộc trở về của anh.
Thái độ của người cha, trong phần thứ nhất này, làm người ta phải ngạc nhiên, ông không từ chối yêu cầu của đứa con út. Ông chia của cải cho các con, phân phát gia tài cho hai đứa. Đứa út nhận được một phần ba của cải, trong khi hai phần ba kia dành cho con cả (x. Đnl 21,17), thì người cha vẫn quản lý cho tới khi ông qua đời. Người cha để cho đứa con út được hoàn toàn tự do và, khác với người chăn chiên và bà nội trợ trong dụ ngôn trước, ông không làm bất cứ điều gì để tìm lại con mình. Nhưng chính tuy ân cần mà ông đón tiếp con khi nó trở về, có nguy cơ gây nên cho chúng ta, các độc giả, một lời kêu ca trách móc gần giống như lời trách móc mấy ông Pharisêu ở câu 21. Người ta cứ tưởng, như chính đứa con út đã tưởng, cùng làm người cha sẽ đối xử với nó như một người làm công cho mình (c.18), và sẽ đòi buộc nó phải đền bù lỗi lầm. Thay vì làm thế, người cha chạnh lòng thương, ông hạ mình chạy ra đón con –một sự vội vã không xứng đáng với một người Đông phương- ông bày tỏ với nó cách công khai những dấu hiệu yêu thương, ngay cả trước khi nó xưng thú tội lỗi. Rồi ông ngắt lời nó xưng thú, cho nó đeo nhẫn là dấu chỉ uy quyền, cho nó mang giày là dấu hiệu riêng của người tự do. Ông hồi phục nó hoàn toàn trong cuộc sống gia đình và tổ chức một bữa tiệc để cả nhà cùng chia sẻ niềm vui.
Cùng một lý do như người chăn chiên và bà nội trợ:”Vì con ta… đã mất nay lại tìm thấy”. Hơn nữa, lý do ấy được bày tỏ một cách mới mẻ:”Nó đã chết mà nay sống lại”. Hoán cải là trở về với Thiên Chúa và như thế là trở về với cuộc sống đích thức. Nói một cách trống không –với các đầy tớ, mà cũng với các người Pharisêu và cả với chúng ta nữa- lời mời gọi hãy vui mừng mang một hình thức rõ rệt:”Hãy mở tiệc ăn mừng!”. Niềm vui này dễ hiểu đối với con chiên hay đồng bạc bị mất, thì ở đây lại làm cho chúng ta ngỡ ngàng vì tội lỗi của đứa con hoang đàng –một đề tài không có trong hai dụ ngôn đầu này. Niềm vui đó sẽ làm cho người con cả nổi giận như các người Pharisêu: chẳng lẽ cha lại mời nó ăn tiệc mừng với một tên tội lỗi, với một kẻ nhơ bẩn!
Trong phần thứ hai của dụ ngôn, chân dung của người con cả biểu lộ sự giận dữ, ganh tỵ và gây gổ (cc. 25-32) khi anh ta quả quyết rằng đã bao nhiêu năm trời hầu hạ cha và chẳng khi nào trái lệnh (c.19), anh tự đặt mình trong tương quan với cha như là một bổn phận hơn là do tình yêu. Thái độ”công chính” của anh làm ta nghĩ đến thái độ của các người Pharisêu và các luật sĩ. Như họ, anh tỏ ra giữ khoảng cách với tên hoang đàng khi nhắc đến tội của hắn (nó đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm) và gọi hắn là”thằng con của cha đó” –chứ không phải là”em của anh ta”. Anh ta tố cáo cha đã thiên vị và cuối cùng, trách cha đã giết bê béo ăn mừng với một kẻ chỉ là tội nhân.
Hình ảnh người cha phù hợp với chân dung đã có trong phần thứ nhất. Ở đây nữa, thái độ của ông không phải được tạo nên do những ước lệ của Đông phương mà bởi tình yêu đối với con ông: ông ra và năn nỉ con ông (c.28)! Để biện minh cho cách xử sự của mình, ông nhìn nhận rằng người con cả của ông chưa bao giờ đã chết hay bị mất và ông nhấn mạnh đến cuộc sống thân tình giữa hai người. Câu nói”tất cả những gì của cha đều là của con” nhắc nhở rằng, từ khi chia gia tài, người cha và người con cả cùng chung hưởng phần gia tài nhiều gấp đôi thuộc về người con cả (xc.12). Hai điểm được nhấn mạnh với cậu cả đang giận dữ: phải mở tiệc ăn mừng –thái độ này nằm trong chương trình của Thiên Chúa (x.2,49). Bởi vì được dựa trên hành động của chính Thiên Chúa (x.7,10). Và”đứa con” (c.30) cùng là”người em” của anh cả… Cuối cùng người cha nói lại lý do nền tảng, lần này được phong phú hoá nhờ lời giải thích thần học (cc.24-32): việc đi từ sự chết đến sự sống.
Dụ ngôn vẫn còn mở ngỏ: người ta không biết anh con cả có đón nhận lời khuyến dụ của cha và quyết định chia sẻ niềm vui vì cái đã mất lại tìm thấy như các bạn bè và hàng xóm trong hai dụ ngôn trước chăng. Anh có chịu chấp nhận cùng ăn với đứa em”nhơ bẩn” không hay cứ tự nhốt mình trong cơn giận dữ của anh ta? Vậy, nếu chính tôi, là thính giả hay độc giả của dụ ngôn này, đang ở trong hoàn cảnh của người con cả, thì chính tôi phải chọn lựa chấp nhận hay không lời năn nỉ của người cha. Một lời đáp tích cực là điều khó, đôi khi còn đau đớn nữa, dụ ngôn không nói rằng điều đó sẽ tự động có được. Lập trường của người con cả, trong đó phần chót của dụ ngôn đặt chúng ta vào, ngột ngạt hơn những gì phụng vụ thống hối đề nghị: vì phụng vụ này chỉ giới hạn ở phần thứ nhất của dụ ngôn và dẫn dắt chúng ta như thể đồng hoá chúng ta với người con út – điều này có lẽ dễ dàng hơn! Không thể chối cãi và Luca nhấn mạnh nhiều hơn đến phần thứ hai. Dù sao, quan điểm chính nhắm tới tình yêu và sự thương cảm của người cha đối với từng đứa con, được thể hiện qua suốt cả trình thuật. Chính đó là điều làm cho việc trở về của tội nhân thành khả thi và mời gọi chúng ta vui mừng, dù đôi khi có khó khăn lắm cũng phải vui mừng.
VUI MỪNG CỦA NGƯỜI CHĂN CHIÊN
Chú giải của William Barclay
Có thể nói không chương nào trong Tân Ước quen thuộc và đáng yêu cho bằng chương 15 của Luca. Nó được gọi là “Phúc Âm trong Phúc Âm”, như thể chứa đựng chính bản chất tinh tuyền của Tin Mừng Chúa Giêsu đã rao giảng.
Những dụ ngôn này của Chúa Giêsu đã phát xuất trong một bối cảnh đặc biệt. Các Kinh sư và Pharisêu đã vấp phạm vì thấy Chúa Giêsu nhập bọn và bầu bạn với những kẻ mà người Do Thái chính thống gọi là tội nhân. Pharisêu đã xếp tất cả những ai không tuân giữ luật vào chung một hạng, họ gọi những người đó là “dân của đất”. Có một hàng rào ngăn cách dứt khoát giữa Pharisêu và người “dân của đất”. Gả con gái cho một người dân của đất thì chẳng khác gì trói cô gái ấy nộp cho sư tử. Luật của Pharisêu định rằng “Khi có một người dân của đất, thì đừng trao tiền cho nó, đừng nói điều bí mật cho nó, đừng đặt nó coi sóc trẻ mồ côi, đừng để nó giữ của bố thí, đừng đi đường với nó”. Có luật cấm Pharisêu không được mời một người dân của đất đến dùng bữa, cũng không được nhận lời của ai trong hạng người đó. Luật cũng cấm Pharisêu không được liên lạc bình thường với họ, không được mua bán với họ. Pharisêu tránh hẳn mọi liên hệ với đám dân của đất, tức là những người không giữ đủ các chi tiết vớ vẩn, nhỏ nhen trong luật. Dĩ nhiên họ rất khó chịu khi thấy Chúa Giêsu làm bạn với những người không những thuộc hạng cùng đinh mà còn là tội nhân nữa, vì giao thiệp với hạng người đó thì bị ô uế. Chúng ta sẽ hiểu các dụ ngôn này đầy đủ hơn nếu chúng ta nhớ rằng người Do Thái ngoan đạo không nói “cả thiên đàng vui mừng vì một tội nhân hoán cải”, nhưng họ nói “cả thiên đàng vui mừng vị một tội nhân bị diệt mất trước mặt chúng”. Họ hướng cặp mắt độc ác để chờ xem huỷ diệt tội nhân, chứ không chờ mong giải cứu tội nhân.
Vì thế Chúa Giêsu nói cho họ dụ ngôn về con chiên lạc và vui mừng của kẻ chăn. Người chăn chiên ở xứ Do Thái có một công việc khó nhọc và nguy hiểm. Đồng cỏ thì hiếm. Cánh đồng cao nguyên ở giữa xứ chỉ rộng chừng vài dặm thôi, còn phần nhiều địa thế là những khe trũng dốc đứng và cảnh sa mạc hoang vu. Không có những bức tường chắn giữ nên chiên dễ đi lạc. G.A. Smith đã viết về người chăn chiên như sau “Trên mọt cánh đồng khô cỏ cháy, ban đêm chỉ có tiếng chó hú, người chăn chiên với gương mặt tỉnh táo, đôi mắt nhìn xa, màu da cháy nắng, mình đeo khí giới, đứng dựa trên cây gậy, mắt chăm chú nhìn bầy chiên đang ăn”. Chúng ta hiểu tại sao người chăn chiên ở xứ Do Thái lại là những người ở vị trí hàng đầu trong lịch sử nước họ, tại sao người chăn chiên là biểu tượng về sự quan phòng của Thiên Chúa, tại sao Chúa Cứu Thế đã lấy hình ảnh người chăn chiên làm gương mẫu cho sự từ bỏ mình. Người chăn sẽ trực tiếp chịu trách nhiệm về đoàn chiên. Nếu một con chiên bị mất thì người chăn phải mang về nhà ít ra là cái lốt chiên để chứng tỏ là nó đã chết. Những người chăn chiên có tài theo dấu vết cách đặc biệt, có thể theo dõi dấu chân của một con chiên đi lạc hàng dặm qua núi đồi. Không có người chăn chiên nào không coi bổn phận mỗi người của mình là bỏ mạng sống mình vì đoàn chiên. Có nhiều đoàn chiên là tài sản chung, không thuộc cá nhân nào, nhưng thuộc một làng và có hai hay ba người chăn. Những người chăn có đoàn chiên còn đầy đủ thì có thể về nhà đúng giờ và báo tin rằng còn có một người chăn đang lặn lội trên sườn núi để tìm con chiên lạc. Cả làng sẽ thức chờ đợi, rồi khi thấy từ đàng xa một người chăn đang vội vã về làng, trên vai vác một con chiên, cả làng sẽ reo mừng và cảm tạ. Đó là hình ảnh của Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa. Chúa Giêsu nói Thiên Chúa cũng thế, Ngài vui mừng vì tìm lại được một tội nhân đã lạc mất, cũng như người chăn vui mừng vì tìm được chiên lạc đem về chuồng. Một thánh nhân đã nói “Thiên Chúa cũng vậy, niềm vui vô cùng lớn lao khi tìm thấy những sự đã mất”.
Có một ý tưởng kỳ diệu ở đây. Đó là chân lý vĩ đại cho ta biết Thiên Chúa nhân từ hơn loài người. Những người Do Thái chính thống hẳn sẽ gạt bỏ các kẻ thâu thuế, các tội nhân như một thứ phải loại trừ, chỉ đáng tiêu diệt. Chúa thì chẳng bao giờ như thế. Loài người có thể mất hết hy vọng về một tội nhân nào đó, nhưng Chúa thì không thế, Ngài yêu mến nhưng con chiên không hề đi lạc, nhưng trong lòng Ngài, có sự vui mừng cực lớn khi một con chiên lạc được tìm thấy và đem về nhà.
NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI ĐỒNG TIỀN ĐÁNH MẤT RỒI TÌM LẠI ĐƯỢC (15,8-10)
Đồng tiền nói trong dụ ngôn này là đồng Drachma, trị giá chừng 4 xu Anh. Đồng tiền nhỏ nhất rất dễ rơi mất trong nhà của người dân quê xứ Palestine, và cũng phải mất nhiều thì giờ mới tìm được. Nhà của người Palestine thường tối om, vì chỉ có một cửa sổ tròn mà đường kính khoảng 4 tấc rưỡi. Nền nhà thì bằng đất nện được phủ bằng những tấm liếp sậy và cành cây nhỏ. Tìm kiếm một đồng tiền nhỏ trên một nền nhà như vậy không khác gì tìm một cây kim trong đống cỏ khô. Người đàn bà quét nhà, hy vọng nhìn thấy mặt đồng tiền lấp lánh hoặc nghe tiếng kêu của nó khi lăn trên những cành cây nhỏ. Có hai lý do khiến người đàn bà sốt sắng tìm kiếm đồng tiền.
1. Có thể vì nhu cầu.
Dù 4 xu không phải là nhiều, nhưng nó cũng cao hơn tiền công một ngày làm việc của một công nhân tại xứ Palestine. Họ thường sống trong cảnh thiếu hụt và hầu như luôn bị nạn đói đe doạ. Có thể người đàn bà nóng nảy tìm cho ra nếu không tìm được thì gia đình bà sẽ thiếu ăn.
2. Nhưng có thể còn có một lý do khác thơ mộng hơn lý do trên.
Tại Palestine, dấu hiệu của một phụ nữ có chồng là một chiếc vành trên đầu làm bằng một sợi dây bạc. Trong nhiều năm, một cô gái làm lụng và để dành cho đủ mười đồng tiền nhỏ đó, bởi vì cái chuỗi tiền tên đầu của nàng cũng đáng giá gần bằng chiếc nhẫn cưới. Khi nàng đã sắm được nó, thì nó là của riêng nàng, đặc biệt đến nỗi người khác không thể đoạt được của nàng, và nếu có đánh mất một đồng tiền nhỏ thì phải tìm kiếm nó như bất cứ người nào khác cũng làm thế khi đánh mất cái nhẫn cưới.
Vì thế chúng ta dễ hiểu niềm vui mừng khi bà nhìn thấy tia óng ánh của đồng bạc mất và khi tìm lại được nó. Chúa Giêsu phán: Thiên Chúa cũng làm thế, niềm vui mừng của Ngài và của các Thiên Thần khi có một tội nhân quay về nhà, cũng như niềm vui mừng của một gia đình khi đồng bạc quyết định cái no hay đói của họ được tìm thấy và cũng giống như người đàn bà đánh mất một tài sản có giá trị hơn tiền bạc, rồi tìm lại được.
Không có một Pharisêu nào lại mơ đến một Thiên Chúa như vậy. Một học giả Do Thái danh tiếng đã thừa nhận đây là một điều tuyệt đối mới mà Chúa đã dạy cho loài người về Thiên Chúa –đó là Ngài thực sự tìm kiếm con người. Người Do Thái có thể hình dung một người bò về nhà Chúa với tất cả sự hạ mình và kêu xin thương xót và được thương xót. Nhưng họ không bao giờ có thể hình dung ra một Thiên Chúa lại ra đi tìm kiếm con chiên lạc. Chúng ta thấy tình yêu đó hiện thân trong Chúa Giêsu. Con Thiên Chúa, Đấng đến để tìm và cứu những ai lạc mất.
CÂU CHUYỆN VỀ NGƯỜI CHA NHÂN LÀNH (15, 11-32)
Không phải là không có lý do khi người ta gọi chuyện này là chuyện ngắn vĩ đại nhất thế giới. Theo luật Do Thái, người cha không được tự do phân chia gia tài mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được 2/3, đứa con thứ 1/3 gia tài (Đnl 21,17). Không phải là một việc lạ khi một người cha phân chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm trơ tráo nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc chia gia tài này. Thực ra nó đã nói “Cha hãy cho con ngay bây giờ phần gia tài mà trước sau gì con cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để con ra khỏi nơi này”. Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho như ý nó xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi.
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái, vì luật nói: “đáng rủa xả kẻ nào chăn heo”. Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội lỗi một lời khuyên chưa từng có “Khi nó trở về với chính mình (nó tỉnh ngộ)”. Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch với Thiên Chúa thì con người không thực sự là con người, con người chỉ thực sự là chính mình khi con người đang trên đường trở về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người, Ngài tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người trở về nhà với Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng đầy tớ ở thuê thì có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà –theo bản Hy văn tốt nhất- cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tiêu biểu sự tôn trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô lệ thì không được. (Ước mong của người nô lệ trong bài ca của người da đen là mau đến thời kỳ mà “mọi con cái Chúa được mang giày” vì đi giày là dấu hiệu sự tự do). Và một bữa tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con hoang đàng trở về. Chúng ta dừng lại ở đây, thử nhìn xem chân lý trong dụ ngôn này.
1. Không nên gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về người con hoang đàng vì đứa con không phải là nhân vật chính, phải gọi là dụ ngôn về Người Cha Nhân Lành, bởi vì nó cho ta biết về tình yêu của người cha hơn là về tội của người con.
2. Dụ ngôn này nói nhiều về sự tha thứ của Thiên Chúa. Người cha hẳn đã chờ đứa con trở về nhà, vì ông trông thấy từ đằng xa. Đứa con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có tha thứ được ban cho như một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội vẫn còn để đó. Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xử thế nào với quân phiến loạn Miền Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời “Tôi sẽ đối xử với họ như họ chưa bao giờ ly khai với chúng ta”. Thật lạ lùng tình yêu của Chúa khi Ngài tha thứ chúng ta y như vậy.
Nhưng câu chuyện đến đây chưa chấm dứt. Người anh cả đi về, anh thực sự buồn rầu vì em anh đã trở về. Người anh cả đại diện cho Pharisêu tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.
1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh vâng lời cha chẳng qua chỉ là một bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc của tình yêu.
2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh nói về người em nhưng không dùng tiếng “em tôi” nhưng dùng chữ “con của cha”. Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào đã ngã xuống rãnh bùn hôi hám càng ngã sâu hơn nữa.
3. Tâm địa chàng rất dơ bẩn. Câu chuyện không nói tới gái điếm. Chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em chàng về thứ tội chính chàng muốn.
Một lần nữa chúng ta lại gặp một chân lý diệu kỳ là hoán cải, xưng tội với Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa xét xử nhân từ hơn những người ngoại đạo. Tình yêu Chúa rộng lớn hơn tình yêu của loài người. Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không chìm sâu trong kinh ngạc, ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.
BA VẬT LẠC MẤT
Sau cùng chúng ta nên lưu ý rằng ba dụ ngôn này không chỉ là ba cách diễn tả cùng một việc. Có một sự khác biệt. Con chiên bị lạc mất hoàn toàn chỉ vì ngu dại. Nó không biết suy nghĩ. Có nhiều người sẽ tránh được tội lỗi nếu họ suy nghĩ kíp thời. Đồng bạc bị mất không phải vì lỗi của chính nó. Có người đi lạc đường vì bị kẻ khác lừa dối và Thiên Chúa không kể là vô tội kẻ nào xui kẻ khác phạm tội.
Nhưng Thiên Chúa có thể dùng tình yêu của Ngài, chiến thắng sự dại dột của con người, chiến thắng những tiếng cám dỗ, và chiến thắng cả sự tự ý phản loạn của con tim chúng ta nữa.
LẠC MẤT
McCarthy
Không chỉ có chiên cừu và các đồng tiền bị đánh mất. Con người cũng bị lạc mất. Theo tờ The Tablet (Tháng 12-1996) có khoảng 250.000 người ở Anh Quốc bị mất tích mỗi năm. Đủ mọi loại tuổi và thành phần, từ trẻ em cho đến người đứng tuổi, bởi mọi loại lý do và không lý do nào giống lý do nào, và họ bỏ đi mất tích. Những người ở lại, gia đình của họ bị nghi kỵ dày vò, tội lỗi dằn vặt và lo lắng, người ta vừa sống với niềm hy vọng vừa tuyệt vọng, không thể chấp nhận điều đã xảy ra hoặc đau buồn vì họ đã chết. Đường dây những người mất tích của quốc gia được thiết lập ở Anh quốc năm 1992 và mở ra 24 giờ mỗi ngày, 365 ngày mỗi năm. Đây là một trong những hoạt động từ thiện phát triển nhanh nhất ở nước Anh.
Vấn đề còn to lớn hơn ở Mỹ. Người ta ước chừng 50.000 trẻ em xuất tích mỗi năm, trong đó có 5000 em tìm thấy đã chết. Tại sao những em ấy mất tích? Một số em cha hoặc mẹ đã ly dị bắt đem đi. Một số em là bạn thân của các tội ác bạo hành. Một số bỏ trốn khỏi những gia đình không hạnh phúc.
Kevin là một cậu bé mười tuổi hay cười. Cậu sống với cha mẹ cậu và hai người chị ở San Francisco. Một ngày kia, cậu rời khỏi trường sau giờ thực hành bóng rổ. Người ta không còn nhìn thấy cậu nữa.
Phần lớn các quốc gia không có con số chính xác các trẻ em mất tích mỗi năm. Hầu hết các lực lượng cảnh sát không hành động theo một báo cáo có một đứa trẻ mất tích ít nhất trong vòng 24 giờ. Ở Mỹ, cảnh sát liên bang FBI nói rằng nếu họ phải đi tìm mỗi đứa trẻ mất tích, họ sẽ không có thời gian để làm những việc khác. Nhiều quốc gia có những chương trình hiện đại để lần theo dấu vết của các xe cộ bị mất cắp và thẻ tín dụng nhưng khong có chương trình nào cho các trẻ em bị mất tích.
Người ta có thể lạc loài bằng nhiều cách. Có người đã nghiện rượu hoặc ma túy, có người không thể ổn định cuộc sống, có người không thể giữ được việc làm hoặc hoàn tất chương trình học, có người không thể duy trì một tương quan rất khó mà tìm thấy họ. Điều làm cho sự việc thêm trầm trọng là thông thường họ không bỏ đi. Họ biến mất ở giữa chúng ta, họ lạc loài ngay giữa gia đình mình.
Dĩ nhiên xem ra không ai có thể đến gần họ. Trong những trường hợp như thế, nhiệm vụ của người mục tử không tìm kiếm họ cho bằng giúp họ tìm thấy chính mình.
Và dĩ nhiên, người ta lạc loài về tinh thần và tâm linh. Những người như thế giống như con thuyền không neo hoặc một thủy thủ không có la bàn. Trong số họ, có những người lạc loài vì lỗi của họ. Nhưng những người khác lạc loài vì họ không có người hướng dẫn, không có một ai quan tâm tích cực đến những người sống lạc loài.
Đức Giêsu bày tỏ mối quan tâm của Người đối với các “con chiên lạc” – những người thu thuế, những người tội lỗi v.v…là những người đã bị các mục tử chính thức bỏ rơi. Những mục tử chính thức phẫn nộ đối với việc mà mot mục tử xứng đáng với danh xưng ấy phải làm.
Người mục tử không chờ cho con chiên lạc quay về; người ấy đi tìm nó. Đức Giêsu cũng thế. Người là vị sứ giả mà Chúa Cha sai đến với chúng ta. Người không chờ cho những người có tội đến tìm Người. Người ra đi tìm họ. Và khi người tìm thấy họ, Người đưa họ trở về nhà Cha với niềm hoan hỉ.
Hối cải là trở về với Thiên Chúa, và trở về với Thiên Chúa là trở về nhà mình.
QUAN TRỌNG
Người ta có thể nói: Tại sao người mục tử lại quan trọng hóa như thế với một con chiên đi lạc trong lúc người ấy vẫn còn 99 con khác? Và tại sao người phụ nữ lại quan trọng hóa như thế với một đồng tiền đánh mất? Bất cứ cái gì mà chúng ta đánh mất đều có một giá trị thái quá. Ví dụ như bạn đánh mất một cái chìa khóa. Ngay khi bạn làm mất, cái chìa khóa ấy trở nên quan trọng hơn tổng số mọi vật mà chúng ta vẫn có. Không bao giờ chúng ta biết giá trị của một vật chúng ta có cho đến khi chúng ta mất nó.
Một lần kia, có một thanh niên mong ước mình sẽ trở thành một nhà nhiếp ảnh. Mỗi năm, anh đem một gói các bức ảnh đẹp nhất của mình đến nhà một nhiếp ảnh gia lão thành và danh tiếng để xin ông này chỉ dẫn và đánh giá. Nhiếp ảnh gia lão thành nghiên cứu các bức ảnh và chia ra làm hai gói nhỏ, một gói gồm các bức ảnh đẹp và một gói gồm các bức ảnh xấu, chưa đạt. Năm nào ông cũng nhận thấy rằng người thanh niên luôn đem đến một bức ảnh chụp phong cảnh và lần nào cũng bị xếp vào các bức ảnh xấu bị loại. Vì thế, ông mới quay lại người thanh niên và nói: “Rõ ràng là cậu đánh giá cao bức ảnh này. Tại sao cậu lại thích nó như thế?”
Người thanh niên đáp: “Bởi vì cháu phải leo lên núi để chụp nó”.
Một vật trở nên quí giá đối với chúng ta bởi vì chúng ta mất nó. Nhưng nó cũng có thể trở nên quí giá vì công sức mà chúng ta đã bỏ ra cho nó. Những hy sinh mà chúng ta đã thực hiện có được hoặc giữ được nó làm tăng thêm giá trị của nó trong mắt chúng ta.
Có một câu chuyện tuyệt vời kể lại rằng một ngày nọ Đức Giêsu hiện ra với một người mục tử đang gặp chuyện đau buồn. “Tại sao con buồn bã thế?” Người hỏi “Bởi vì con đã để mất một trong các con chiên của con”, người mục tử đáp “và dù con đã tìm kiếm khắp nơi, con đã không tìm thấy nó. Có lẽ chó sói đã xé xác nó”. Nghe đến đây Đức Giêsu nói: “Con hãy chờ ở đây. Chính Thầy sẽ đi tìm nó”.
Nói xong, Người biến mất vào trong các đồi. Ít giờ sau, Người trở lại với con chiên lạc. Đặt con chiên dưới chân người mục tử, Người nói: “Kể từ ngày hôm nay, con phải yêu thương con chiên này hơn những con chiên khác trong bầy chiên của con, vì nó đã mất mà nay đã tìm lại được”.
Trong các câu chuyện con chiên lạc và đồng tiền đánh mất Đức Giêsu nhấn mạnh một điều, đó là: Đối với Thiên Chúa, mỗi người đều quan trọng và quí giá. Nhất là khi người ấy đã hư mất. Thiên Chúa sẽ yêu thương người ấy nhiều hơn chứ không ít đi.
Những người Pharisêu tự coi mình là những mẫu mực về đạo đức nên không liên can gì đến những người tội lỗi. Họ cho rằng Thiên Chúa cũng không quan tâm đến những người tội lỗi. Tín điều chính yếu trong tôn giáo của họ la: “Thiên Chúa yêu thương người đạo đức và ghét bỏ kẻ tội lỗi”. Nhưng Đức Giêsu cho họ thấy có một loại Thiên Chúa hoàn toàn khác hẳn.
Đức Giêsu nhân hậu và yêu thương khi Người tiếp cận với những người tội lỗi. Người biết rằng sự loại trừ và phán xét không bao giờ giúp cho một người thay đổi. Vì thế Người dùng sự hiện diện của Người như một cách để người ta cảm thấy được chấp nhận và yêu thương và trong bầu không khí ấy họ có thể đáp lại và thay đổi.
Dù từ một quan điểm nhân bản, sự tiếp cận của Người cũng mang nhiều ý nghĩa. Nếu một đứa bé bị lạnh và đói lả, nó không cần một bài giảng thuyết; nó cần hơi ấm và lương thực. Jean Vanier cũng nói rất hay: “Con người ở trong cảnh khốn cùng không cần một cái nhìn xét đoán và chỉ trích, nhưng cần một sự hiện diện đầy an ủi đem lại bình an, hy vọng và sự sống”.
“Khi một người cha than khóc đứa con của mình đã đi vào những con đường xấu xa, ông sẽ làm gì? Ông sẽ yêu thương nó nhiều hơn bao giờ hết” (Beal Shem Tov).
CÂY TÁO VÀ MIẾNG VẢI TRẰNG
Niềm Vui Chia Sẻ
Richard Pidell có viết một câu chuyện ngắn nhan đề: “Đứa con trai của một ai đó” (Somebody’s son). Câu chuyện mở đầu với một cậu bé tên là David bỏ nhà ra đi sống bụi đời. Vì khổ quá, không chịu nổi, cậu bèn viết một lá thư gửi về nhà cho mẹ bày tỏ niềm hy vọng được ông bố cổ hủ tha thứ cho cậu và chấp nhận cậu làm con trở lại. Lá thư như sau: “Mẹ kính mến, trong một vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà. Nếu bố bằng lòng nhận con trở lại, thì mẹ yêu cầu bố cột một miếng vải trắng lên cây táo hồng ở miếng đất cạnh nhà chúng ta”. Vài ngày sau, David lên tàu hỏa đi về. Trong lúc tàu hỏa lao nhanh đến nhà thì hai hình ảnh cứ liên tục hiện ra trong trí cậu ta: khi thì trên cây táo có cột một miếng vải trắng, khi thì trên cây chẳng cột một miếng vải trắng nào. Tàu hỏa càng tiến gần nhà, trái tim David càng đập nhanh hơn. Không bao lâu nữa cây táo sẽ hiện ra ở khúc quẹo, nhưng David không dám tự mình nhìn tới vì sợ nhỡ không có miếng vải trắng cột ở đó. Thế là cậu quay sang người đàn ông bên cạnh ấp úng nói: “Thưa ông, ông có thể làm ơn giúp cháu một việc không? Vào khúc quẹo bên tay mặt, ông sẽ thấy một cây táo. Ông làm ơn cho cháu biết trên cành cây táo đó có một miếng vải trắng không nhé”.
Khi tàu hỏa rầm rập lướt qua cây táo, David nhìn chăm chăm về phía trước. Đoạn run run giọng, cậu hỏi người đàn ông: “Thưa ông, có một miếng vải trắng nào treo ở cành cây táo đó không?” Ông ta sửng sốt trả lời: “Ồ, nầy cậu bé, cành cây nào ta cũng thấy có một miếng vải trắng cả!”
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta từng giây từng phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của chúng ta. Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh và sai mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong của chúng ta. Đối với Chúa, mỗi người chúng ta đều đáng kể, không thể có gì khác thay thế được. Mỗi con người là như một con chiên trong đàn, phải được chăm sóc như nhau, không được để thất lạc. Chính mươi chín con chiên yên lành không làm nguôi lòng thương đối với một con chiên lạc. Thiên Chúa cũng cuống quýt như một bà già nghèo đánh mất một đồng bạc quý. Phày hì hục moi móc mọi ngóc ngách trong nhà để tìm cho bằng được. Như người cha già, con mình đã hư quá thể mà trong lòng vẫn lo lắng không nguôi, vẫn không thôi chờ đợi đến mỏi mòn, cho đến lúc ôm lại đứa con vào lòng và rạo rực vui sướng không gì kìm hãm được và cả Thiên đàng cũng vui lây, vui sướng vì một người tội lỗi ăn năn trở lại hơn cả vui sướng vì chính mươi chín người lành thánh không cần sám hối ăn năn.
Thiên Chúa rất khác chúng ta. Đối với Ngài, mỗi con người là như một khúc ruột của mình. Ngài thương mỗi người, để ý chăm sóc mỗi người như chỉ có một không hai trên đời. Nếu chúng ta lỡ lạc đường, Ngài tạo mọi điều kiện để ta có thể trở về. Và điều kiện duy nhất Ngài đòi hỏi là tin vào tình thương tha thứ của Cha để mà dám trở về. Sự trở về của con chiên lạc đem lại niềm vui cho người mục tử nhiều hơn niềm vui có chín mươi chính con ở lại trong đàn.
Thưa anh chị em,
Đến đây, đáng lẽ dụ ngôn về người cha nhân hậu đã có thể kết thúc rất đẹp với nỗi vui mừng của người cha. Nhưng Chúa Giêsu lại nối thêm cái đoạn cuối về người con cả. Chúng ta cũng nên dừng lại một chút với thái độ của người con cả để hiểu hết ý Chúa muốn dạy chúng ta qua dụ ngôn nầy.
Người con cả là một người con chí thú làm ăn ở nhà với cha, nhưng xem ra quan hệ với cha không được thân mật, thẳng thắn. Tuy ở nhà với cha nhưng lòng vẫn xa cách. Và kết quả là người con cả đã không hiểu và không chấp nhận nổi cách xử sự của cha đối với đứa em của anh vừa trở về. Do đó, thay vì nhập tiệc chia vui với cha và với em, người con cả đã dừng lại ở cửa, tự mình đứng ở thể tách biệt với gia đình sum họp.
Người con cả ở đây tiêu biểu cho nhóm người Biệt phái Pharisêu trong dân Do Thái. Họ tưởng rằng họ trung thành với Thiên Chúa và đáng được Chúa thương, có quyền hưởng gia tài, rồi khinh bỉ các dân ngoại và những hạng người mà họ cho là tội lỗi. Thì ra, Tin Mừng hôm nay là một Tin Mừng đối với người tội lỗi sám hối trở về, nhưng đồng thời lại cũng là một lời cảnh cáo đối với những người “ở trong nhà”, những người tưởng mình đạo đức, tốt lành. Người con cả, bao nhiêu nămm ai cũng tưởng là ngoan ngoãn tốt lành lắm. Đến ngày em của anh hồi sinh và trước niềm vui vô bở của người cha, anh đâm ra hậm hực, bực tức… thì ra bề ngoài anh ngoan, nhưng nội tâm của anh thì cay nghiệt, tù túng, đầy những ghen tị, sát phạt. Cả anh nữa, anh cũng chẳng hiểu thế nào là lòng thương xót. Cuối cùng anh không muốn bước vào lòng thương xót đó. Anh chưa gặp được Thiên Chúa. Anh vẫn ở ngoài ơn cứu độ.
Dụ ngôn cho thấy, người cần trở lại hơn hết chính lạ người con cả, người con vẫn ở nhà với cha nhưng lòng thì không ở cùng với cha.
Anh chị em thân mến,
Hãy tin vào tình thương yêu vô bờ bến của Thiên Chúa mà trở về với Ngài, nếu chúng ta lỡ lạc đàng, sa ngã. Và hãy khoan dung tha thứ cho những người anh chị em, nếu chẳng may có ai trượt chân vấp ngã. Phải tìm đến với người anh chị em đó để giúp họ trở lại với Chúa là Cha yêu thương. Đừng có thái độ lên án, loại trừ như thái độ của người con cả trong dụ ngôn. Trái lại, hãy vui mừng vì đã giúp được một người anh em gặp lại niềm vui cứu độ. Hãy coi thái độ khoan dung, quảng đại yêu thương tha thứ của người cha trong dụ ngôn là hình ảnh của lòng nhân từ thương xót của Thiên Chúa, để chúng ta biết đối xử với những người anh em như Chúa đã đối xử với chính chúng ta.
“Lạy Chúa, xin tỏ lòng thương xót con, và lấp đầy trái tim con tình yêu tha thứ của Chúa.
Con là đứa con thứ đã bỏ nhà ra đi rồi lại trở về. Con cảm ơn Chúa đã đón nhận lại con.
Và con cũng là người con cả đã từng khư khư không chịu tha thứ cho anh chị em con như Ngài đã tha thứ cho con. Vậy xin Chúa hãy chạm vào trái tim con với tình yêu tha thứ của Ngài.
Để rồi sau khi an nghỉ trong cõi chết, con sẽ thức dậy trước thánh nhan Ngài mãi mãi cùng với anh chị em từng được con tha thứ lỗi lầm”. Amen.
NGƯỜI CHA SẼ LÀM BÁT CỨ
ĐIỀU GÌ CHO CHÚNG TA
Charles E. Miller
Khi những người cha người mẹ yêu con cái của mình họ sẵn lòng làm bất cứ điều gì cho chúng. Tuy nhiên đã xảy ra là những đứa con ít khi nhận biết tình yêu sâu nặng của cha mẹ dành cho chúng. Cả hai người con trong dụ ngôn hôm nay của Chúa Giêsu đã không hiểu được tình yêu của cha mình. Cũng không thể hiểu được sự dâng hiến của ông dành cho chúng, như là những người con của ông không hề thay đổi, không hề có vấn đề gì. Người cha không thể nào tưởng tượng có gì đổi khác trong mối liên hệ với những người con của mình.
Đầu tiên, tôi nghĩ về người con thứ, người con mà chúng ta hay nhắc tới là người con hoang đàng, người con phung phá hết tất cả tài sản của mình. Khi anh nhận ra sự điên rồ của mình, anh đã sửa soạn một bài diễn văn nhỏ để nói với cha của mình. Trong những lời anh đã soạn sẵn đó, anh cũng nhận ra rằng anh không còn xứng đáng để được gọi là con, và anh mong cha coi anh như một người làm công thôi.
Khi anh trở về nhà và nói lên những lời đã soạn sẵn của mình, nhưng người cha không hề để ý đến điều ấy. Người cha đã ôm choàng lấy người con, hôn lấy hôn để và gọi gia nhân làm tiệc mừng. Ông ta nhấn mạnh: “Hãy xỏ giày vào chân cậu”, một dấu hiệu anh trở về với gia đình như một thành phần của gia đình chứ không phải là một tôi tớ, bởi vì chỉ những phần tử của gia đình mới mang giày trong nhà. (Một bài hát thiêng liêng cổ đã hát: ‘Tất cả những con cái của Thiên Chúa đều được mang giày’).
Người con lớn mà chúng ta cũng không hề có cảm tình. Anh ta không hề rời xa nhà, anh vẫn tiếp tục chu toàn công việc bổn phận với người cha. Anh đã từ chối vào dự tiệc mừng đứa em của mình và lý do anh đưa ra để biện minh cho sự từ chối của mình tiết lộ rằng, anh ta đã quá thất bại trong mối tương quan của anh với cha của mình. Anh ta minh chứng: “Bao nhiêu năm con đã làm việc hầu hạ cha như nô lệ, mà cha không hề cho con một con dê nhỏ để con ăn mừng với chúng bạn”. Người ch của anh đã trở thành một chủ nô, một người chủ keo kiệt bủn xỉn, đứa con đã nghĩ rằng nó như nô lệ, vì anh ta chỉ trông đợi một phần thưởng, anh ta đã không phục vụ người cha của mình với tình yêu. Nhưng người cha đã đáp lại: “Con luôn luôn ở với cha, mọi sự của cha là của con”. Thật sự điều này đã biểu lộ được cảm xúc của người cha, thật ra ông ta đã đáp lại sự giận dữ của con trai bằng một sự dịu dàng. Ông ta không hề khuyên nhủ con mình, ông chỉ nhìn con và nói hai từ: “Con ơi”.
Người Cha trong dụ ngôn là một người đáng để ý. Khi người con thứ quyết định trở về nhà thì ông đã nồng nhiệt chạy ra tiếp đón nó: “Khi người con cả từ chối vào dự tiệc, người cha cũng chạy ra nói anh ta và nài xin anh ta vào”.
Điểm đáng chú ý hơn, Thiên Chúa là Cha của chúng ta. Để bắt đầu hiểu và nhận biết Thiên Chúa, chúng ta phải nhớ chúng ta là ai. Chúng ta là con cái của Thiên Chúa, là những con trai, con gái yêu dấu của Người. Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi tình yêu mà Người luôn luôn qua tâm đến chúng ta ngay cả khi chúng ta từ bỏ Ngài. Không có vấn đề chúng ta điên rồ thế nào trong cách sống, không có vấn đề chúng ta xa rời tình yêu của Thiên Chúa thế nào. Thiên Chúa vươn đến chúng ta bằng ân sủng của Người.
Mỗi ngày Chúa Nhật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến nhà của Ngài, nhà thờ. Thiên Chúa luôn luôn là Cha của chúng ta. Nhà của Người là ngôi nhà gia đình của chúng ta. Nơi đây Ngài mời gọi chúng ta cử hành nghi thức gia đình, một bữa ăn thánh thiện mà tại đó Người Con thần linh của Ngài nói với chúng ta bằng những lời trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thánh Thể. Chúng ta được kêu gọi tới bữa ăn này như là một bữa tiệc vui mừng và một biến cố hạnh phúc của chúng ta, bởi vì chúng ta nhận biết rằng chúng ta đã chết một lần trong tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu bằng cái chết đã phục hồi cho chúng ta sự sống. Chúng ta đã trở nên thành phần của gia đình Thiên Chúa, những con cái yêu dấu của Người và Thiên Chúa sẽ không bao giờ thay đổi mối quan hệ đó. Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta và Ngài đã trình bày rằng Ngài sẵn sàng làm bất cứ điều gì cho chúng ta. Chúng ta có thể điên rồ hoặc là quên lãng được Thiên Chúa là Cha chúng ta và chúng ta là con cái của Người sao?
NIỀM VUI SAN SẺ
Achille Degeest
Suy niệm của chúng ta về dụ ngôn đồng bạc đánh mất rồi tìm thấy, bắt đầu từ ý niệm việc tông đồ của người Kitô hữu phải tỏa rộng niềm vui đã tìm thấy ơn cứu độ.
Người đàn bà nói trong dụ ngôn rất bực vì đánh mất đồng bạc, món tiền nhỏ nhưng rất quý đối với mình. Moi móc các nơi trong nhà, tìm được rồi, bà ấy vui mừng phân phô với hàng xóm. Chúng ta chuyển dụ ngôn sang bình diện đời sống nhân loại. Kitô hữu là một người đau xót vì thiết mất một vật gì, biết rõ nó là của mình trước đây, mình đã vô ý đánh mất; mơ hồ cảm thấy tất cả con người mình khao khát tình thân thiết của Thiên Chúa, nhận thức rằng tai họa do sự tội đã khiến mình đánh mất tình thân thiết quý báu ấy. Nhưng không cam chịu mất mát, người ấy tìm tòi trong mình và quanh mình, tự hỏi lòng mình, hỏi cả người xung quanh. Một ngày kia, gặp thấy ơn cứu độ trong Đức Giêsu Kitô, lại tìm thấy ý nghĩa cuộc đời, người ấy vui mừng. Của bị mất nay lại tìm thấy, nó quý vô cùng, đến nỗi không thể vui riêng một mình, người ấy phải san sẻ với người xung quanh. Người ấy có giống người đàn bà mất tiền không? Có gọi bạn bè hàng xóm đến chung vui không? Vấn đề ấy không đặt ra ở đây. Vấn đề khác sâu sắc hơn là niềm vui phải làm rạng ngời vẻ mặt một kẻ được cứu vớt, vui từ thâm tâm tỏa ra trên nét mặt, lúc nào cũng sẵn sàng chia sẻ niềm vui giữa anh em mình. Hai câu hỏi đặt ra cho chúng ta:
1) Chúng ta có cảm biết sâu sắc không, thế nào là đánh mất rồi tìm lại được?
Có thể rằng chúng ta tự tại trong niềm tin, trong sự giữ đạo đầy đủ, cho nên không hiểu được thấm thía tai họa to lớn xảy đến cho kẻ không có đời sống siêu nhiên. Người Kitô hữu rất có thể -nói theo ngôn từ Phúc Âm- lâm vào tình huống mất tiền mà không biết; vì không biết nên không tìm kiếm; không tìm kiếm nên không tìm được đồng bạc, không có được niềm vui. Chúng ta thử nghĩ về bi kịch đời sống kẻ đã mất Thiên Chúa; chúng ta hãy vui lên vì đã tìm lại được tình thân thiết của Thiên Chúa (hoặc nói đúng hơn, vì tình thân thiết của Thiên Chúa đã tìm lại được chúng ta- đàng nào kết quả cũng vậy).
2) Chúng ta có san sẻ niềm vui với anh em không?
Ở đây đặt ra vấn đề hoạt động tông đồ theo một đường lối nào đó. Một số đường lối truyền giáo (nhất là một số buổi họp đoàn thể) ít lan tỏa niềm vui… Niềm phấn khởi, sức năng động của công việc truyền giáo phải bắt nguồn từ niềm xác tín sâu sắc và kinh nghiệm sống rằng ‘chúng ta đã tìm thấy’. Bình thường thì phát hiện ấy phải khiến chúng ta vui mừng, niềm vui của chúng ta phải tỏa rộng. Chúng ta biết rằng niềm vui thu hút, niềm vui đa dạng. Chúng ta cũng biết, nụ cười tươi của chiến sĩ truyền giáo thu được nhiều thành quả hơn mọi kỹ thuật hành động.
LÒNG CHÚA XÓT THƯƠNG
SƯU TẦM
Qua phần phụng vụ lời Chúa hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩ đơn sơ về tình yêu của Thiên Chúa.
Trước hết đó là một tình yêu đi bước trước.
Thực vậy, hình ảnh mà tiên tri Ezechiel cũng như nhiều vị tiên tri khác đã dùng, đó là hình ảnh một mục tử lặn lội đi tìm kiếm con chiên, không quản ngại đường xa và khó khăn khôn lường.
Chính Chúa Giêsu cũng đã nhiều lần khẳng định chân lý ấy: Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước khi có chúng ta. Người đã cứu độ chúng ta trước khi chúng ta trở về, nghĩa là khi chúng ta còn ở trong tội lỗi. Thái độ và cách thức cư xử của Chúa Giêsu đối với những kẻ thu thuế và tội lỗi đã là một lời nói hùng hồn chứng minh cho sự thật trên.
Từ đó chúng ta nhận thấy tình yêu đi trước cũng chính là tình yêu vô điều kiện và hoàn toàn vô vị lợi, hoàn toàn nhằm tới hạnh phúc của người được yêu thương. Chỉ mình Thiên Chúa, mới có được thứ tình yêu tinh ròng và cao cả như vậy, còn chúng ta chúng ta được Chúa mời gọi để sống trọn lành như Ngài, nghĩa là cũng phải có một tình yêu đi bước trước, một tình yêu không điều kiện, một tình yêu vô vị lợi đối với những người anh em.
Tiếp đến tình yêu của Thiên Chúa là một tình yêu thiên vị.
Lời xác quyết này có lẽ làm cho chúng ta hơi ngạc nhiên. Đúng thế, Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, không trừ một ai, không bỏ bất cứ con người nào, dù người đó xấu xa tội lỗi đến đâu chăng nữa. Tuy nhiên có một điều cũng hết sức hiển nhiên là trong cung cách sống của Chúa Giêsu, chúng ta thấy được một tình yêu ưu tiên, một tình yêu thiên vị, dành cho những kẻ sống bên lề xã hội thời bấy giờ, đó là đàn bà, trẻ em, những người thu thuế, những người ngoại đạo và những kẻ tội lỗi công khai, như đĩ điếm, trộm cướp... Người Do Thái đã gán cho Ngài cái biệt hiệu là bạn đồng bàn với phường tội lỗi, và họ đã nói lên được một sự thật.
Tuy nhiên họ không hiểu được tâm trạng và cõi lòng của Thiên Chúa như chính Ngài đã diễn tả: Tư tưởng và đường lối của Ta thật khác biệt với tư tưởng và đường lối của các ngươi. Quả thật, Chúa Giêsu đã gần gũi, đã làm bạn, đã cứu vớt những kẻ tật nguyền, bệnh hoạn và tội lỗi. Ngài đã khẳng định một cách rõ ràng và minh bạch: Chỉ có bệnh nhân mới cần đến thầy thuốc, và Ngài chính là vị thầy thuốc mà các tâm hồn ốm đau đang chờ đón. Hơn thế nữa, Chúa Giêsu còn xác định mục tiêu Ngài phải theo đuổi, sứ mạng Ngài phải thực hiện khi đến trong trần gian:
- Con Người tới là để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã hư đi.
Chỉ khi nào chúng ta hiểu được cái thế ưu tiên, cái thế thiên vị ấy trong cách chọn lựa của Chúa, chúng ta mới nghiệm ra được tại sao nỗi vui mừng hân hoan của Chúa lại lớn lao đến thế, khi tìm thấy một con chiên lạc, một đồng bạc bị đánh rơi hay một người con hoang đàng trở về nhà cha. Cả thiên đàng sẽ vui mừng vì một kẻ tội lỗi sám hối ăn năn hơn là 99 người công chính không cần ăn năn sám hối.
Và như vậy, ước muốn của Thiên Chúa là con người được cứu rỗi và sống trong tình thương yêu của Ngài, chứ không phải là lặn ngụp trong chốn bùn nhơ tội lỗi, để rồi cuối cùng sẽ bị kết án đoạ đầy muôn kiếp.
NGƯỜI CHA
SƯU TẦM
Khi chiêm ngắm người cha nhân hậu, ta khám phá ra khuôn mặt một Thiên Chúa yêu thương.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa khiêm tốn.
Như người cha chấp nhận chia gia sản cho con, chấp nhận để con bỏ nhà ra đi, Thiên Chúa cũng tôn trọng tự do của con người.
Đấng Toàn Năng đã tự giới hạn quyền năng của mình để chúng ta có thể hiện hữu một cách tự do. Ngài như thể thu mình lại để nhường chỗ cho thụ tạo.
Không phải chỉ con người mới cần cởi giày trước Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa cũng cởi giày trước mầu nhiệm con người, vì lòng con người cũng là phần đất thiêng thánh.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết chờ đợi.
Thiên Chúa vẫn nuôi hy vọng khi con người lìa xa Ngài.
Người Cha vẫn luôn ngóng con từ bên cửa sổ. Lòng Cha luôn hướng về con. Bởi thế ngay khi con còn ở đàng xa, Cha đã thấy. Cha vẫn nhận ra con, dù con xanh xao tiều tụy.
Thiên Chúa không thất vọng về con người. Ngài không bắt ép người ta hoán cải, Ngài chỉ chờ. Ngài chờ vì Ngài tôn trọng tự do của họ.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết tha thứ.
Ngài là Cha yêu con bằng cung lòng người mẹ.
Rõ ràng con thứ thật đáng trách, vì bất hiếu. Nhưng tình thương của Cha còn lớn hơn tội của anh.
Cha thương anh vì anh đã lỗi phạm.
Tội lỗi tự nó đã đem lại hình phạt rồi.
Người cha có vẻ không cần nghe con mình xin lỗi. Sự trở về của anh đã là lời thống hối ăn năn.
“Con ta đã chết, nay đang sống; đã mất, nay lại tìm thấy.”
Thiên Chúa không nhớ mãi chuyện đã qua. Điều quan trọng là hiện tại: con đang sống trong vòng tay Cha.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa luôn chạy ra, như người cha chạy ra để đón đứa con thứ, như người cha đi ra để năn nỉ đứa con cả.
Thiên Chúa dường như không yên trong hạnh phúc của mình, nếu có một người con còn đứng ngoài.
Người cha trong dụ ngôn chẳng sợ mất uy nghi, đạo mạo. Ông chạy đến với con, phá vỡ khoảng cách của quyền uy. Quyền uy của người cha là quyền uy của tình yêu, mà tình yêu thi có can đảm vượt qua mọi khoảng cách.
Thiên Chúa yêu thương là Thiên Chúa biết nhảy mừng.
Thiên Chúa đãi tiệc vì một người ăn năn sám hối.
Nhưng Thiên Chúa nhảy mừng cũng là Thiên Chúa từng đau khổ. Ngài đau nỗi đau của con khi cố tình xa Cha.
Thiên Chúa biết buồn vui với con người và vì con người.
Hãy trở lại và ở lại trong nhà Cha, vì Cha muốn trao cho bạn tất cả những gì Ngài có. Tiệc đã sẵn, vào với Cha cũng là về với anh em.
Gợi Ý Chia Sẻ
Qua bài Tin Mừng này, bạn hãy cho thấy khuôn mặt khiêm tốn của người cha. Bạn thấy Thiên Chúa có khi nào khiêm tốn với bạn không?
Đâu là những nét giống nhau giữa người con thứ và người con cả? Người con cả cần hoán cải về tội gì?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay Cha, nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ.
Hạnh phúc do thế gian ban tặng thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống chỗ cùng cực và bị cái chết đe dọa.
Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha rộng lượng.
Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền hòa hơn với tha nhân.
THA THỨ
SƯU TẦM
Có một vấn đề ngày càng gia tăng trong xã hội hiện nay, đó là con người không thể và không muốn tha thứ cho nhau.
Một sự kiện cụ thể chứng minh cho sự thật trên, đó là tình trạng ly dị mỗi lúc một gia tăng, nó làm cho nhiều cặp vợ chồng phải đau khổ, nhiều gia đình bị đổ vỡ.
Qua sự điều tra về những người vợ đòi ly dị, một tác giả đã rút ra hai kết luận như sau:
Trước hết, họ đã phải tiêu phí một cách khủng khiếp năng lực và tiền bạc để trả thù người chồng cũ của họ. Tiếp đến vì cứ nuôi mãi mối căm hận, nên nhiều người tự gây thương tổn cho mình hơn là cho người chồng cũ mà họ thù ghét.
Để thấy rõ sự giận hờn và căm thù có thể hủy diệt chúng ta như thế nào, hội y khoa nước Mỹ đã mở cuộc thăm dò hàng ngàn bác sĩ với câu hỏi:
- Trong một tuần lễ, bạn điều trị được bao nhiêu bệnh nhân?
Hầu như tất cả đều trả lời rằng họ chỉ điều trị được khoảng 10% bệnh nhân. Còn 90% kia, mặc dù có đau đớn, nhưng nỗi đau đớn của họ lại thuộc lãnh vực tâm lý, mà những thuốc men bình thường không thể giải quyết được. Và nguyên nhân chính gây bệnh đó là nỗi căm giận, sự thù ghét dồn nén, những bất mãn và phản kháng.
Kinh nghiệm cũng cho thấy: khi chúng ta giữ mãi trong mình mối ác cảm, không chịu tha thứ và luôn tìm cách báo thù, thì chúng ta gây thương tổn cho mình không kém gì gây thương tổn cho kẻ thù.
Nói một cách sống động hơn, mũi gươm thù địch chúng ta dùng để gây thương tích cho đối phương sẽ đâm vào bản thân chúng ta trước. Hay như một câu danh ngôn đã bảo:
- Ai cứ quyết tâm nuôi mộng báo thù thì nên đào sẵn hai cái huyệt, một cái cho kẻ thù và một cái cho chính mình.
Tất cả những sự việc trên góp phần làm sáng tỏ lời Chúa về lòng tha thứ qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Đây là sứ điệp mà mỗi người chúng ta cần phải ghi nhớ và thực hành.
Hãy tự vấn lương tâm xem chúng ta đang làm gì đối với sự thù hận, mối ác cảm chua chát đang làm cho đời sống chúng ta mất đi sự bình an? Hãy xét lại mối liên hệ giữa chúng ta và những người chung quanh để xem chúng ta đã thực sự sống lời Chúa truyền dạy về vấn đề này hay chưa:
- Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét bỏ chúng ta. Hãy để của lễ đó, trở về làm hòa với người anh em mình trước đã, rồi hãy đến mà dâng của lễ sau? Hãy tha thứ không phải bảy lần mà là bảy mươi lần bảy lần. Chúng ta đã phản ứng như người cha nhân từ, giàu lòng thương xót, hay như người anh cả vừa nhỏ nhoi lại vừa ích kỷ.
Để kết luận, chúng ta hãy mượn lời kinh hòa bình của thánh Phanxicô mà dâng lên Chúa:
- Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người, để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.
TUYỆT ĐỈNH CỦA YÊU THƯƠNG
SƯU TẦM
Một lần kia, các tu sĩ trong miền dẫn tới Đức Giám Mục Anmôna một thiếu nữ mang bầu xin ngài ra hình phạt. Nhưng Đức cha đã ban phép lành cho thai nhi, rồi ra lệnh ban cho cô sáu tấm vải bằng lanh mịn. Những kẻ tố cáo lại nói:
- Tại sao Đức Cha làm như thế? Xin ra cho nó một hình phạt.
Ngài ôn tồn bảo:
- Anh em thử nghĩ xem, cô ta đã đau khổ muốn chết được; tôi phải làm gì hơn nữa?
Nói thế rồi ngài cho cô ta về. Từ đấy không tu sĩ nào còn dám tố cáo ai nữa.
Cũng như các tu sĩ trong câu chuyện trên đây, nhóm Pharisêu và các kinh sư thường lên án những người tội lỗi, nên khi Đức Giêsu tiếp đón những hạng người này thì họ lẩm bẩm kêu trách Người. Thấy vậy, Đức Giêsu đã trả lời bằng ba dụ ngôn: Con Chiên Lạc Mất, Đồng Bạc Đánh Rơi, và Đức Con Hoang Đàng, để bày tỏ lòng nhân hậu và niềm vui của Thiên Chúa dành cho người tội lỗi hối cải ăn năn.
Còn gì vui bằng khi cái đã mất lại tìm thấy được; còn gì sướng hơn khi cái tìm thấy lại là vật quí. Tìm kiếm chính là mục đích của Con Thiên Chúa khi xuống trần gian: “Con Người đến tìm kiếm những gì đã mất”. Con người là đối tượng duy nhất mà Thiên Chúa mướn kiếm tìm. Con người thật vô cùng quí giá trước mặt Người. Thiên Chúa lao đao vất vả đi tìm kiếm con người. Người không muốn để mất một ai trên trái đất này.
Thiên Chúa yêu thương người tội lỗi, như người mục tử tốt lành sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lạc, đi tìm cho bằng được con chiên lạc mất. Khi tìm thấy rồi mừng rỡ khoác chiên trên vai.
Thiên Chúa yêu thương kẻ lầm lỡ, như người đàn bà cần mẫn, đốt đèn kiếm cho được đồng bạc đánh rơi. Khi thấy rồi tíu tít chia vui với mọi người.
Thiên Chúa yêu thương tội nhân, như người cha già nhân hậu, ngày ngày ra ngõ tìm con. Khi thấy con rồi ông vui mừng chạy lại ôm choàng lấy nó.
Thật vậy, “lỗi lầm là của con người và tha thứ là của Thiên Chúa” (A.Pope). Thiên Chúa yêu thương con người và yêu thương đến cùng. Tuyệt đỉnh của yêu thương chính là tha thứ, vì thế dù phải chịu hấp hối lâu dài và đớn đau khôn tả, phải chịu kinh miệt và chối bỏ, nhưng Người vẫn cầu nguyện tha thiết: “Lạy Cha, xin tha cho họ”. Đây chính là lời rõ ràng và trang trọng nhất nói lên tâm hồn cao thượng và tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa qua Đức Giêsu.
Thiên Chúa luôn sẵn sàng tha thứ cho chúng ta, những con người lầm lỗi; nhưng Người chỉ có thể thứ tha khi chúng ta thật lòng sám hối. Người trộm lành suốt một đời lầm lỡ, thế mà chỉ trong giây phút cuối cùng, tỏ lòng sám hối ăn năn đủ trở nên một vị thánh. Ông trở nên thánh không phải vì ông là người tội lỗi, nhưng vì ông nhận biết mình là người tội lỗi. Đứa con hoang đàng được người cha tha thứ cũng vì anh đã biết nhận ra lỗi lầm, trở về sám hối ăn năn. Người cha không chỉ tha thứ mà còn phục hồi chức vị làm con. Một chiếc nhẫn mới, một đôi giầy mới, một bữa tiệc linh đình, vinh dự còn lớn hơn cả trước khi ra đi.
Nếu Thiên Chúa đã tỏ lòng nhân hậu và tha thứ cho chúng ta, thì Người muốn chúng ta cũng hãy tha thứ cho nhau như người cha nhân hậu xin ông anh cả tha thứ cho đứa em lầm lỗi.
Người ta chỉ có thể dễ dàng tha thứ cho kẻ khác khi ý thức thân phận mỏng dòn yếu đuối của mình. Có nhận ra mình hay lầm lỗi, con người mới dễ cảm thông tha thứ cho những lỗi lầm của anh em. Đừng bắt người có tội phải bị trừng phạt mới hả dạ, đừng đòi hỏi cho được sự công bằng mới thôi, vì Martin Luther King có viết: “Nếu cứ áp dụng luật “mắt đền mắt” thì mọi người đều trở nên mù loà”.
Lạy Chúa, nếu Chúa không tha thứ cho các tội nhân thì thiên đàng sẽ trống rỗng, và thế giới này chẳng có thánh nhân.
Xin cho chúng con mỗi lần được Chúa thứ tha lại thấy mình nên giống Chúa hơn, vì đã biết tha thứ cho anh em. Amen.
TÌNH THƯƠNG VÔ BIÊN
SƯU TẦM
“Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”
Xưa nay, trong xã hội, thường có hạng người đa nghi, hay dòm ngó, xét nét người khác. Việc người thì sáng việc mình thì quáng. Nhóm Biệt phái và luật sĩ Do-thái thuộc về hạng người ấy. Họ tìm cách để bắt bẻ Chúa Giêsu trong lời nói, trong việc làm. Họ không thể vạch ra những sơ hở của Chúa trong lời giảng dạy thì họ theo dõi mọi cử chỉ, mọi giao dịch của Chúa. Chúa Giêsu lại không mấy quan tâm đến. Ngài đi nhiều lần với những người thu thuế, vào trọ trong nhà họ, ngồi ăn với họ; Ngài để cho người đàn bà được coi là tội lỗi đem thuốc thơm xức, xõa tóc lau, lại còn hôn cả lên bàn chân. “Ông này, nếu quả thực là tiên tri, ắt đã biết người đàn bà sợ đụng đến mình kia là ai, và thuộc hạng nào: một đứa tội lỗi!” (Lc 7, 39).
Ngài đi xuống hố thẳm tội lỗi để “cứu những gì hư mất”.
Để minh giải trước bọn đối thủ, nhất là để nói lên tình thương của Ngài đối với người tội lỗi, Chúa Giêsu đã để lại 3 dụ ngôn của Ngài thật cảm động. Hơn nữa, đây không phải chỉ là những dụ ngôn mà là những lời cầu nguyện sống, rất thực tế, đánh động lòng chúng ta là kẻ tội lỗi.
Đó là câu chuyện con chiên lạc, đồng bạc đánh mất, và nhất là câu chuyện người con trai đi hoang hối cải trở về. Trong cả ba câu chuyện, điểm nổi bật hơn cả, đáng chú ý hơn cả, đánh động tâm hồn hơn cả, là sự vui mừng của Thiên Chúa khi gặp lại những người hư mất sau bao công chờ đợi tìm kiếm.
Thiên Chúa, Đấng toàn thiện toàn năng mà lại vui mừng. Thật là một mầu nhiệm: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải”. Nhà Tiên tri Mikha cũng đã nói đến: “Có Thiên Chúa nào như Ngài lại vui mừng khi ban ơn tha thứ” (Mk 7,18).
Đây cũng là bài học cho chúng ta. Bao nhiêu lần chúng ta tuyên bố tha cho kẻ xúc phạm, làm cực lòng ta, nhưng ta vẫn giữ một thái độ lãnh lẽo, mặt nặng như chì với họ.
Ngày 5-7-1902, Maria Goretti bị thanh niên Alexandro đâm 18 lát dao, vì muốn bảo toàn đức trong sạch. Trước khi chết, vô vui vẻ tha thứ cho hung thủ và “muốn cho Alexandro được về Thiên Đàng với cô”. Bức gương của vị nữ thánh phản ánh tình thương hay tha thứ của Chúa.
Dụ ngôn thứ ba về người con trai đi hoang trở về lại càng tô điểm mối tình Chúa thương ta bằng những nét thật sâu đậm. Đọc lại cuộc đón tiếp vồn vã của người cha già với những cái hôn nóng hổi, với nhẫn xỏ tay, áo đẹp phủ người, tiệc tùng thịnh soạn, có người cho rằng làm gì cóm một người cha tốt lành quá như vậy đối với người con thất hiếu bất trung? Nhưng nên nhớ rằng đây chỉ là hình bóng phai mờ của người Cha trên trời đầy tình thương xót hay tha thứ. Tình thương của chúa thật vô biên, “thương đến tận cùng”.
Lạy Đấng chăn chiên, hãy để lại đó 99 con kia,
Và mau đi tìm con chiên duy nhất đã thất lạc,
Hãy đi tìm con, vì con đang tìm Chúa.
Hãy đón nhận con, vác con trên vai Chúa…
Dưới đất Chúa ban vơn cứu độ, và trên trời sẽ có niềm vui lớn.
(Thánh Ambrosiô thành Milan)
CHỨNG TỪ CỦA LÒNG SÁM HỐI
SƯU TẦM
Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu, ta đọc được câu chuyện sau đây: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.Ngày ngày các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều của mỗi người. Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khỏe mạnh, vui tươi, một người thì lại ốm o buồn phiền. Cả hai người đến trình diện trước vị bề trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, theo đó họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã suy niệm về những gì. Con người ốm o buồn phiền lên tiếng đáp: Trong suốt một năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội lỗi tôi đã phạm. Từng giây từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ. Đến lượt mình, con người vui tươi khỏe mạnh trình bày như sau: Suốt một năm qua, từng giây từng phút tôi hằng nghĩ đến những ơn lành Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khỏe mạnh vui tươi. Vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa. Nhưng con người ốm o sầu buồn kia cũng được đón nhận vào cộng đoàn.
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh. Không phải tất cả các vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân. Nhưng tất cả đều bắt đầu có ý thức sâu sắc về tội lỗi và sự yếu hèn của mình. Càng ý thức về thân phận tội lỗi yếu hèn của mình con người càng cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Đó là thực trạng tâm hồn của tất cả các vị thánh trong giáo hội. Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai mạc sứ mệnh của Ngài chính là: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”. Chúa Giêsu đã nối kết lòng sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì nếu không phải là tình yêu của Thiên Chúa thể hiện qua con người của Đức Giêsu Kitô? Sám hối không chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình. Sám hối đích thực không dừng lại ở đau xót, buồn phiền, sợ hãi, mà phải là ngõ dẫn đến Tin Mừng, nghĩa là hoan lạc, vui mừng.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu đã mạc khải qua cuộc sống và nhất là cái chết của Ngài là một người cha yêu thương và tha thứ, một người cha muốn được con cái yêu mến hơn là sợ hãi. Do đó, đạo mà Chúa Giêsu đã thiết lập không phải là đạo của buồn phiền, của khổ đau mà là đạo của Tin Mừng, của Tình Yêu, của hân hoan, của hy vọng. Đành rằng thập giá là biểu tượng của Kitô giáo. Nhưng người Kitô hữu không dừng lại ở chết chóc, buồn phiền, khổ đau. Họ luôn được mời gọi nhìn ra ánh sáng, hy vọng, tin yêu, sự sống bên kia thập giá.
NHÂN LÀNH
SƯU TẦM
Một văn sĩ nọ đã kể lại câu chuyện ngắn về cậu bé David trong câu chuyện có tựa đề là: “Người Con Của Ai Đó” như sau:
David đã bỏ nhà ra đi, nó viết thư về cho mẹ như sau: Thưa Mẹ, vài ngày nữa con sẽ đi ngang qua nhà, con sợ cha lắm, nếu cha tha thứ cho con thì mẹ hãy xin cha cột một dây vải trắng nơi cây xoài trước nhà, nhìn thấy dấu hiệu này con biết là cha đã tha thứ và con sẽ về lại.
Vài ngày sau, David lấy vé xe lửa về quê. Đường xe lửa đi ngang qua trước nhà, cậu nghĩ, nếu cậu thấy được sợi dây vải trắng cột trên cây xoài thì cậu sẽ xuống trạm xe kế bên và đi về nhà, nếu không thì sẽ đi luôn sang nơi khác.
Cậu David rất hồi hộp khi xe gần đến nhà, sợ mình có thể nhìn lầm hay không kịp nhìn, cậu nhờ một người bên cạnh cùng nhìn phụ. Xe chạy ngay qua địa điểm, không những là cậu mà cả người bạn cũng nhìn thấy, người bạn hỏi cậu:
- Tại sao cây xoài nhà đó lại đầy những tấm vải trắng treo trên khắp các cành cây như vậy?
David mỉm cười không trả lời, cậu chỉ giữ lấy ý nghĩa của dấu hiệu đó cho riêng mình mà thôi và hân hoan xuống trạm xe kế tiếp.
Câu chuyện vui trên giúp chúng ta hiểu thêm sứ điệp Phúc âm mà Chúa gởi đến chúng ta hôm nay. Như cậu David, chúng ta mang nặng ý thức về những lỗi lầm của mình và nghi ngờ tình thương tha thứ của Thiên Chúa. David cần đươc củng cố vì tình thương của cha sẵn sàng tha thứ. Chúng ta cũng vậy, Thiên Chúa đã thực hiện nhiều dấu chỉ trong cuộc đời để chỉ cho chúng ta thấy tình thương của Ngài, và dấu chỉ quan trọng nhất hằng ngày chúng ta thấy, đó là thập giá Chúa Giêsu Kitô, dấu chỉ đó cho chúng ta thấy tình thương tha thứ của Thiên Chúa đối với mỗi người chúng ta.
Bài Phúc âm hôm nay ghi lại ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa: dụ ngôn con chiên bị mất; dụ ngôn đồng bạc bị đánh mất, nhất là dụ ngôn người cha nhân hậu.
Qua bài Phúc âm, Giáo Hội nhắc lại cho chúng ta dụ ngôn về tình thương của Thiên Chúa Cha đối với con người tội lỗi. Thái độ của người chăn chiên đi tìm con chiên lạc, của người đàn bà bị mất một đồng tiền và của người cha có đứa con bỏ nhà đi hoang, thái độ yêu thương tha thứ đó vượt quá mức độ bình thường con người có thể tưởng tượng được và phản chiếu thái độ của Thiên Chúa đối với con người.
Theo lệ thường, nếu chúng ta có một trăm con chiên mà lỡ bị mất một con, chúng ta có nhất quyết đi tìm con chiên lạc cho đến khi gặp được mới thôi hay không? Chắc chắn là không, vì số chín mươi chín con còn lại không đáng giá hơn một con bị lạc mất hay sao? Quan niệm của con người chúng ta thường hay căn cứ vào số lượng, và có thể chúng ta cho rằng hành động của người chăn chiên là một hành động khác thường, nếu không muốn nói là điên khùng theo mức độ con người. Nhưng đối với Thiên Chúa thì không điên khùng, vì Ngài không đặt tương quan của Ngài trên căn bản con số, chất lượng nhiều hay ít, nhiều người hay ít người, nhưng trên căn bản tương quan giữa Ngài với từng cá nhân. Mỗi con chiên, mỗi người đều có giá trị duy nhất đối với Ngài, và do đó nếu bị lạc mất thì nhất quyết phải tìm cho được mới thôi. Rồi hành động của người đàn bà cũng thế, theo thường tình thì mất một đồng cũng không sao, vì còn cả chín đồng kia mà. Nhưng để diễn tả mức độ của Thiên Chúa thì một đồng bị mất kia là hết sức quan trọng, phải tìm cho được mới thôi.
Người cha của đứa con đi hoang, theo thường tình thì bỏ mặc kệ nó, nhưng để diễn tả thái độ của Thiên Chúa đối với con người thì người cha kia hằng ngày đứng trông con mình trở về, và đã nhìn thấy con mình trở về trước khi nó nhìn thấy ông. Người cha tha thứ cho đứa con ngay cả trước khi nó mở miệng xin tha, rồi làm tiệc ăn mừng.
Thiên Chúa muốn cứu rỗi mọi người và mỗi người, Ngài muốn tận dụng mọi phương thế có thể để ban ơn cứu rỗi cho con người. Vì Ngài yêu thương con người, yêu thương từng người một cách vô cùng, nhưng con người có chấp nhận ân sủng và tình thương của Ngài hay không?
Trong bài dụ ngôn về người cha của đứa con hoang đàng, chúng ta còn quan sát thái độ giữa hai anh em ganh tị với nhau. Người anh cả ở nhà với cha, thay vì thông cảm và mừng với em mình trở về thì anh lại tỏ ra ganh tị.
Mặt khác, như trong Cựu ước, chúng ta thấy Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ cho dân đã phạm tội đến Ngài, Môisen đã không xin Chúa hủy diệt dân mình, nhưng hãy tha thứ cho dân mình. Cũng thế, chúng ta đừng bắt chước thái độ của người anh cả trong dụ ngôn, đừng ganh tị với anh chị em được ơn Chúa tha thứ cho, nhưng hãy bắt chước thái độ của Môisen cầu nguyện cùng Chúa, xin Ngài tha thứ tội lỗi cho anh chị em và cho cả chính mình nữa.
Trước nhan Thiên Chúa, tất cả mọi người chúng ta đều là những kẻ tội lỗi, đều cần đến lời cầu nguyện của nhau để trở lại cùng Chúa và trung thành với đức tin. Nguyện xin Chúa thương tha thứ các tội lỗi và nâng đỡ thành tâm thiện chí mỗi người chúng ta, giúp mỗi người chúng ta biết trở về cùng Chúa, sống xứng đáng là con cái Cha trên trời.
THƯƠNG XÓT
SƯU TẦM
Có câu chuyện kể rằng, một ngày nọ Abraham mời một lữ hành vào lều của ông dùng một bữa cơm, sau khi đọc kinh chúc tụng trước khi ăn, người khách này bắt đầu chửi rủa Thiên Chúa, ông nói rằng, ông không thể chịu nổi khi nghe gọi tên Thiên Chúa. Phẫn nộ trước thái độ đó Abraham đuổi ngay kẻ phạm thượng ra khỏi lều. Tối đến, khi Abraham cầu nguyện Chúa nói với ông: “Abraham, người kia đã chửi rủa Ta từ 50 năm nay và Ta vẫn cứ ban cho ông ta lương thực hằng ngày. Còn ngươi, ngươi không thể nào cho ông ta chỉ một bữa cơm sao?”.
Tin Mừng theo thánh Luca của Chúa nhật hôm nay vốn được mệnh danh là Tin Mừng về “Lòng thương xót của Thiên Chúa”. Và quả thực như vậy, bài Tin Mừng khá dài nhưng thật cảm động, Chúa Giêsu không chỉ đưa ra một mà tới ba dụ ngôn để phá đổ thái độ hống hách đạo đức giả của những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư. Nhưng quan trọng hơn hết là Ngài bày tỏ lòng nhân hậu đầy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Dụ ngôn đầu tiên, Thiên Chúa như người mục tử nhân lành quyết tâm đi tìm cho bằng được con chiên bị lạc, dù chỉ là một trong số một trăm. Khi tìm được rồi, ông vui mừng vác chiên trên vai, về đến nhà ông mời bà con hàng xóm đến chung vui.
Dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa như người phụ nữ mất một đồng bạc, có lẽ giá trị của nó chỉ bằng tiền lương của một ngày công lúc bấy giờ. Nó không lớn đối với nhiều người trong chúng ta, nhưng nó quan trọng đối với người phụ nữ. Bà đã thắp đèn quét nhà moi móc tìm kiếm cho bằng được, khi tìm được rồi bà mời bạn bè hàng xóm đến chung vui.
Trong cả hai dụ ngôn này, thái độ vui mừng của người mục tử và của người phụ nữ có lẽ trong thời buổi thị trường kinh tế chúng ta thấy thật phi lý, nhưng nó lại là lôgích của tình yêu trong cuộc sống và là bản chất yêu thương của Thiên Chúa. Rõ ràng giá trị của con chiên bị lạc hay đồng bạc bị mất không đặt trong sự so sánh cái này với cái khác, cũng không đặt trong tỉ lệ phần trăm hay phần mười, nhưng giá trị của chính nó trong tương quan của người tìm kiếm, trong lòng thương xót và trong ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đó là sự vui mừng của Nước Trời khi có một tội nhân ăn năn sám hối.
Điều này càng nổi bật hơn trong dụ ngôn thứ ba người cha nhân hậu. Người cha không những đã bày tỏ lòng thương yêu đối với người con thứ, đứa con đã đòi chia gia tài, rồi sau khi ra đi đã ăn tiêu hoang phí, khi trở về lúc nó còn đàng xa người cha đã nhận ra và lập tức chạy đến ôm chầm lấy, hôn lấy hôn để. Ông còn cho mở tiệc ăn mừng, vì điều quan trọng đối với ông là đứa con đã trở về. Đứa con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Người cha còn bày tỏ lòng nhân hậu với người con cả, đứa con hằng ngày vẫn ở bên cha mà hình như tâm hồn của nó đã đi hoang từ lâu. Nó kể công, nó phân bì, nó ghen tị rồi tức tối giận dỗi, nó muốn cắt đứt tình nghĩa huynh đệ không chấp nhận cho đứa em trở về và nó cũng đang cắt đứt luôn tình nghĩa phụ tử không chịu vào nhà, vì trong lòng của nó chưa bao giờ có tình thương. Sự chuyên cần trong công việc hằng ngày của nó xem ra vì thói quen hoặc vì bổn phận hơn là vì một mối tình. Nhưng người cha vẫn nhân hậu đầy yêu thương năn nỉ: “Này con, hằng ngày con vẫn ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”.
Thiên Chúa, Ngài đã kiếm tìm chúng ta trước khi chúng ta tìm kiếm Ngài. Ngài chờ đón chúng ta trước khi chúng ta trở về, và Ngài đã yêu thương chúng ta khi chúng ta vẫn còn là tội nhân. Trong lòng thương xót của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đã trở nên viên ngọc quí mà Ngài là thương gia bán tất cả gia tài đang có để chuộc lấy viên ngọc quí là chúng ta. Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người thế. Người còn tự hạ sống vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Thiên Chúa nhân hậu và hay thương xót. Ngài không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không đánh dập tắt tim đèn còn khói. Ngài vẫn kiên trì, vẫn chờ đợi chúng ta những người con yếu đuối, tội lỗi ăn năn sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là mục tử nhân lành như thế đó; Thiên Chúa là người cha nhân hậu như thế đó, và Thiên Chúa đã tìm kiếm chúng ta như thế đó. Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
THƯƠNG XÓT
SƯU TẦM
Có câu chuyện kể rằng, một ngày nọ Abraham mời một lữ hành vào lều của ông dùng một bữa cơm, sau khi đọc kinh chúc tụng trước khi ăn, người khách này bắt đầu chửi rủa Thiên Chúa, ông nói rằng, ông không thể chịu nổi khi nghe gọi tên Thiên Chúa. Phẫn nộ trước thái độ đó Abraham đuổi ngay kẻ phạm thượng ra khỏi lều. Tối đến, khi Abraham cầu nguyện Chúa nói với ông: “Abraham, người kia đã chửi rủa Ta từ 50 năm nay và Ta vẫn cứ ban cho ông ta lương thực hằng ngày. Còn ngươi, ngươi không thể nào cho ông ta chỉ một bữa cơm sao?”.
Tin Mừng theo thánh Luca của Chúa nhật hôm nay vốn được mệnh danh là Tin Mừng về “Lòng thương xót của Thiên Chúa”. Và quả thực như vậy, bài Tin Mừng khá dài nhưng thật cảm động, Chúa Giêsu không chỉ đưa ra một mà tới ba dụ ngôn để phá đổ thái độ hống hách đạo đức giả của những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư. Nhưng quan trọng hơn hết là Ngài bày tỏ lòng nhân hậu đầy lòng thương xót của Thiên Chúa đối với tội nhân.
Dụ ngôn đầu tiên, Thiên Chúa như người mục tử nhân lành quyết tâm đi tìm cho bằng được con chiên bị lạc, dù chỉ là một trong số một trăm. Khi tìm được rồi, ông vui mừng vác chiên trên vai, về đến nhà ông mời bà con hàng xóm đến chung vui.
Dụ ngôn thứ hai, Thiên Chúa như người phụ nữ mất một đồng bạc, có lẽ giá trị của nó chỉ bằng tiền lương của một ngày công lúc bấy giờ. Nó không lớn đối với nhiều người trong chúng ta, nhưng nó quan trọng đối với người phụ nữ. Bà đã thắp đèn quét nhà moi móc tìm kiếm cho bằng được, khi tìm được rồi bà mời bạn bè hàng xóm đến chung vui.
Trong cả hai dụ ngôn này, thái độ vui mừng của người mục tử và của người phụ nữ có lẽ trong thời buổi thị trường kinh tế chúng ta thấy thật phi lý, nhưng nó lại là lôgích của tình yêu trong cuộc sống và là bản chất yêu thương của Thiên Chúa. Rõ ràng giá trị của con chiên bị lạc hay đồng bạc bị mất không đặt trong sự so sánh cái này với cái khác, cũng không đặt trong tỉ lệ phần trăm hay phần mười, nhưng giá trị của chính nó trong tương quan của người tìm kiếm, trong lòng thương xót và trong ơn cứu độ của Thiên Chúa. Đó là sự vui mừng của Nước Trời khi có một tội nhân ăn năn sám hối.
Điều này càng nổi bật hơn trong dụ ngôn thứ ba người cha nhân hậu. Người cha không những đã bày tỏ lòng thương yêu đối với người con thứ, đứa con đã đòi chia gia tài, rồi sau khi ra đi đã ăn tiêu hoang phí, khi trở về lúc nó còn đàng xa người cha đã nhận ra và lập tức chạy đến ôm chầm lấy, hôn lấy hôn để. Ông còn cho mở tiệc ăn mừng, vì điều quan trọng đối với ông là đứa con đã trở về. Đứa con của ông đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Người cha còn bày tỏ lòng nhân hậu với người con cả, đứa con hằng ngày vẫn ở bên cha mà hình như tâm hồn của nó đã đi hoang từ lâu. Nó kể công, nó phân bì, nó ghen tị rồi tức tối giận dỗi, nó muốn cắt đứt tình nghĩa huynh đệ không chấp nhận cho đứa em trở về và nó cũng đang cắt đứt luôn tình nghĩa phụ tử không chịu vào nhà, vì trong lòng của nó chưa bao giờ có tình thương. Sự chuyên cần trong công việc hằng ngày của nó xem ra vì thói quen hoặc vì bổn phận hơn là vì một mối tình. Nhưng người cha vẫn nhân hậu đầy yêu thương năn nỉ: “Này con, hằng ngày con vẫn ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con”.
Thiên Chúa, Ngài đã kiếm tìm chúng ta trước khi chúng ta tìm kiếm Ngài. Ngài chờ đón chúng ta trước khi chúng ta trở về, và Ngài đã yêu thương chúng ta khi chúng ta vẫn còn là tội nhân. Trong lòng thương xót của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đã trở nên viên ngọc quí mà Ngài là thương gia bán tất cả gia tài đang có để chuộc lấy viên ngọc quí là chúng ta. Ngài vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người thế. Người còn tự hạ sống vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Thiên Chúa vẫn luôn luôn là Thiên Chúa nhân hậu và hay thương xót. Ngài không nỡ bẻ gãy cây lau bị dập, không đánh dập tắt tim đèn còn khói. Ngài vẫn kiên trì, vẫn chờ đợi chúng ta những người con yếu đuối, tội lỗi ăn năn sám hối trở về với Ngài. Thiên Chúa là mục tử nhân lành như thế đó; Thiên Chúa là người cha nhân hậu như thế đó, và Thiên Chúa đã tìm kiếm chúng ta như thế đó. Xin cho mỗi người chúng ta biết ăn năn sám hối để đón nhận lòng thương xót của Thiên Chúa.
NHÂN HẬU
SƯU TẦM
Có một bài hát chúng ta hay hát trong lễ cầu hồn mà tôi rất thích: “Chúa là Đấng Từ Bi và Nhân Hậu, Người đại lượng và chan chứa tình thương”. Vâng, tình thương nhân hậu ấy của Thiên Chúa từ ngàn xưa đến nay vẫn luôn tuôn đổ trên muôn loài Chúa tác thành: trên muôn vật, muôn dân, muôn người, và đặc biệt trong Phúc âm hôm nay, tình thương ấy còn được tuôn đổ trên tội nhân khiến “Người không xử với họ như họ đáng tội, và không trả cho họ theo lỗi của họ”.
Vâng, trong Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay, chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng cách rõ nét và cụ thể lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa, để rồi từ đó ta được mời gọi sống noi gương Ngài, cư xử nhân ái với anh chị em xung quanh.
Trước hết, điều đáng chú ý trong các bài đọc Lời Chúa hôm nay là: có một sự tiến triển trong việc mạc khải khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa. Nói cách khác, từ bài đọc I đến bài Phúc âm, lòng nhân hậu của Thiên Chúa được khắc họa ngày càng rõ nét hơn.
Thật vậy, nếu như ở bài đọc I, tác giả sách Xuất Hành diễn tả cơn thịnh nộ của Thiên Chúa trước tội “thờ bò vàng” của dân Israel, và phải nhờ lời cầu khẩn của Môsê, cơn thịnh nộ ấy mới nguôi dần, cho thấy khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa mới chỉ được phác họa cách mờ nhạt, thì đến bài đọc II, thánh Phaolô đã diễn tả khuôn mặt ấy ở một chiều kích khác, cụ thể hơn, gần gũi hơn: Chúa nhân hậu không chỉ cách chung chung với một dân, một nhóm người, mà Ngài còn nhân hậu với từng người một, như kinh nghiệm chính thánh Phaolô đã thuật lại khi xác tín: “Đức Giêsu đã đến trần gian để cứu chuộc những người tội lỗi, mà kẻ đầu tiên là tôi”. Với câu nói này, khuôn mặt nhân hậu của Thiên Chúa đã được cụ thể hóa nơi Đức Giêsu, Đấng được Chúa Cha sai đến để cứu độ con người.
Tuy nhiên, hình ảnh Thiên Chúa nhân hậu chỉ thực sự được xuất hiện cách rõ nét trong bài Phúc âm qua chính hình ảnh của Chúa Giêsu và ba dụ ngôn nổi tiếng về lòng nhân hậu của Thiên Chúa mà chỉ Phúc âm thánh Luca, một Phúc âm được mệnh danh là “Phúc âm của lòng nhân hậu Chúa” mới ghi lại, đó là các dụ ngôn: “Con chiên lạc”, “đồng bạc mất” và “người cha nhân hậu”.
Đi vào bối cảnh của ba dụ ngôn ta sẽ thấy được chủ ý của Chúa Giêsu khi đưa ra ba dụ ngôn này. Người Biệt phái thấy Đức Giêsu đón tiếp người tội lỗi thì khó chịu và phiền trách Chúa: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”. Trước thái độ ấy, Chúa Giêsu đã cho họ một bài học. Với giáo huấn của Chúa Giêsu, Thiên Chúa không còn là một Thiên Chúa xa xôi, hay giận dữ như trong Cựu ước quan niệm nữa, nhưng là một Thiên Chúa rất gần gũi và giàu lòng nhân hậu đối với những kẻ lỗi lầm.
Lòng nhân hậu ấy của Thiên Chúa được diễn tả qua hai hành động cụ thể: Đi bước trước đến với tội nhân và hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân.
Đi bước trước đến với người tội lỗi: các dụ ngôn hôm nay đều diễn tả điều này. Hình ảnh người chăn chiên không chờ phải nghe tiếng con chiên lạc kêu cứu mới đi tìm, mà ngay khi phát hiện nó đi lạc, ông đã vội vã đi tìm ngay; hay người cha nhân hậu chạy ào ra đón con khi thấy nó từ đàng xa, mà không chờ một lời xin lỗi đã nói lên điều đó. Cũng thế, Thiên Chúa luôn yêu thương và đi bước trước đến với con người. Ngay khi ta còn là tội nhân, Thiên Chúa đã sai Con Một đến cứu độ chúng ta. Chính Chúa Giêsu, trong cuộc đời tại thế cũng vậy, Ngài từng đi bước trước đến với người tội lỗi để cứu chữa họ, nâng họ dậy. Những cuộc gặp gỡ giữa Ngài và Mađalêna, người phụ nữ bên giếng Giacop, Giakêu… đã cho thấy điều này. Cảm nghiệm được tình thương ấy của Thiên Chúa, thánh Gioan đã thốt lên: “Chúa thương ta ngay từ khi ta còn là kẻ có tội”.
Hoàn toàn tha thứ mọi lỗi lầm cho tội nhân: dấu chỉ của sự tha thứ ấy là: phục hồi nguyên trạng cho họ. Hình ảnh người cha sai gia nhân mang áo, nhẫn, giày mới… cho người con trở về đã nói lên điều đó. Anh ta đã được tha thứ mọi lỗi lầm và được lại địa vị làm con trong gia đình. Chúa Giêsu cũng từng phục hồi phẩm giá cho tội nhân khi tha thứ mọi lỗi lầm cho họ: cho Phêrô, cho người phụ nữ ngoại tình, người trộm lành… và nhất là cái chết của Ngài đã phục hồi địa vị làm con cho toàn nhân loại tội lỗi.
Chúng ta cũng cảm nhận được điều này khi lãnh nhận Bí tích Giải tội: được lại những công phúc ta lập đã bị mất đi do tội lỗi gây nên, và nhất là được lại địa vị làm con Thiên Chúa.
Tóm lại, qua giáo huấn và chính cuộc đời Chúa Giêsu, ta nhận ra một Thiên Chúa nhân hậu với những hành động thật cụ thể. Tuy nhiên, không dừng ở lại đó, Ngài còn mời gọi ta hãy noi gương Ngài, cư xử nhân hậu với tha nhân.
Với lời mời gọi: “Hãy chung vui với tôi” và “chúng ta phải vui mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Chúa đang mời gọi chúng ta hãy noi gương Ngài cư xử nhân hậu với tha nhân, những anh chị em của mình, đặc biệt là những người bị coi là tội lỗi.
Tuy nhiên, với bản tính con người ta thấy, thực hiện điều này không phải là dễ: làm sao tôi có thể đi bước trước để đến với kẻ xúc phạm tôi? Làm sao tôi có thể tha thứ cho kẻ đã cướp bóc, chà đạp nhân phẩm tôi …? Vậy thì công bằng ở đâu? Vâng, đó cũng là suy nghĩ của người Biệt phái và người anh cả hôm nay, thế nên họ không thể tha thứ lỗi lầm cho người khác. Với lẽ tự nhiên của con người thì không thể được, nhưng thử nhìn lại cuộc đời mình xem: biết bao lần nếu Chúa cư xử công bằng với ta như ta đáng tội, thì liệu ta có còn tồn tại như ngày hôm nay không? Thế nên, trong cuộc sống không chỉ có công bằng mà còn có bác ái, có lòng nhân hậu nữa, nhất là đối với những người con cái Chúa. Như vậy, lời mời gọi sống nhân hậu của Chúa hôm nay vẫn là lời mời gọi chúng ta. Dù biết rằng khó, ta vẫn phải cố gắng thực hiện, lý do vì:
Mỗi người đều là tội nhân, đều từng được Chúa cư xử nhân hậu, nên phải nhân hậu với nhau. Đừng để lời quở trách trên con nợ bất lương xưa kia giờ lại xuống trên ta: “Sao ngươi không cư xử với anh em ngươi như Ta đã cư xử với ngươi!”. Hơn nữa, “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”, nếu Chúa là Đấng Nhân hậu thì tại sao là con, ta không sống nhân hậu như Thiên Chúa là Cha của mình?
Tóm lại, lời Chúa hôm nay trình bày cho ta hình ảnh một Thiên Chúa từ bi nhân hậu, qua đó mời gọi chúng ta noi gương Ngài trong cư xử với tha nhân. Để kết luận, xin đưa một vài thực hành cụ thể qua Phụng Vụ Lời Chúa hôm nay như sau:
* Đối với Chúa: Ta hãy luôn sống trong tâm tình cảm tạ, vì Chúa đã đối xử nhân hậu với ta, bằng cách tránh xa tội lỗi; đồng thời, mỗi khi lỡ phạm tội, hãy tin tưởng vào lòng Chúa xót thương mà chạy đến với Ngài trong Bí tích Giải tội.
* Đối với tha nhân: Ta hãy noi gương Chúa, luôn thông cảm với những lỗi lầm của anh em, và tha thứ khi anh em xúc phạm đến mình, không mang tật xấu của họ ra bàn tán…
Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn giúp sức để chúng ta biết sống noi gương Ngài, Đấng Từ Bi Nhân hậu, hầu xứng danh là con của Cha trên trời.



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét