Thứ Ba, 7 tháng 5, 2013

LỄ GIỖ ĐỨC CHA PHAOLÔ BÙI CHU TẠO TẠI CĐ ƯNG SINH SÀI GÒN

LỄ GIỖ ĐỨC CHA PHAOLÔ BÙI CHU TẠO TẠI CĐ BÌNH HƯNG HÒA

NĂM NAY KỶ NIẸM LẦN THỨ 12 GIỖ ĐỨC CHA PHAO LÔ BÙI CHU TAO, NGUYÊN GIÁM MỤC PHÁT DIỆM VÀ LẦN THỨ 2 TẠI CĐ BÌNH HƯNG HÒA, SÀI GÒN CĐ. ỨNG SINH, HỘI THỪA SAI VIỆT NAM
Đức Cha Phaolô Bùi Chu Tạo, nguyên GM Phát Diệm, sinh ngày 21/01/1909 , tại Gx Tam Châu, là Nghĩa tử của Cha Cố Phaolô Dương Đức Liêm. Ngài về Nhà Chúa ngày 05/05/2001.

























1. Tiểu sử ĐỨC CHA PHAOLÔ BÙI CHU TẠO
Đức cha Phaolô Bùi Chu Tạo sinh ngày 21-01-1909 tại Tam Châu, là con ông bà cố Liên, nghĩa tử của cha già Phaolô Dương Đức Liêm. Năm 12-15 tuổi ngài theo học tại trường thử Ba Làng, sau đó về học tại Tiểu chủng viện Phúc Nhạc, rồi Đại chủng viện Thượng Kiệm sau16 năm, 26 t. Ngài được Đức cha Gioan B. Nguyễn Bá Tòng phong chức linh mục tại Phát Diệm ngày 13-03-1937. Sau đó, giáo sư tại Tiểu chủng viện Phúc Nhạc (1937-1940), linh hướng Đại chủng viện Thượng Kiệm (1945-1951). Từ 1951 đến 1954, ngài dưỡng bệnh tại đền Đức Mẹ Cứu Giúp ở cạnh chợ Nam Dân. Sau năm 1954, ngài về nhận nhiệm sở tại Tam Châu cho tới ngày được Tòa Thánh bổ nhiệm làm giám quản tông tòa Phát Diệm (30-11-1956). 47 tuỏi Ngài chính thức về nhận giáo phận ngày 25-01-1957. Ngày 26-04-1959, ngài được ĐC Trịnh Như Khuê tấn phong Giám mục giáo phận Phát Diệm, tại Hà Nội. Lm Phúc ..Ngài được gọi về nhà Cha ngày 05-05-2001, hưởng thọ 92 tuổi. Suốt cuộc đời  64 năm linh mục, 42 năm giám mục, ngài đã nên gương sáng trong đời sống cầu nguyện, thực thi bác ái , khẩu.hiệu "Incaritaste non ficta" Nghĩa là “Ta hãy yêu thương nhau thật tình đừng giả dối”. 
2. Chủ Chăn gương mẫu, hết mình vì đoàn chiên Phát Diệm
Đức Giám quản Phaolô Bùi Chu Tạo giữa lúc xã hội VN cũng như giaó phận Phát Diệm đầy biến cố phức tạp. Cuộc di cư 1954 để lại trong giáo phận những khoảng trống khó lấp đầy; số linh mục di cư gần hết, giáo dân di cư hơn một nửa; giáo phận xơ xác, tiêu điều. Chính Đức Tân Giám quản khi vừa nhận trách nhiệm nặng nề này, trong Thư Chung đầu tiên gửi toàn giáo phận đề ngày 25.01.1957, đã khiêm nhường xác tín: “… Biết mình tài hèn sức yếu, tôi hết sức từ chối, nhưng ‘La-mã đã phán’ tôi nhận là thánh ý Chúa, nên cúi đầu vâng theo…”, “… Con thuyền này vẫn chở Chúa Giêsu và đoàn chiên yêu dấu của Chúa, cũng không khi nào Chúa để nó đắm chìm. Bất kỳ tay lái là ai, Gioan hay Phaolô, ta cứ yên trí vì có Chúa ở bên tay lái.” 2 giờ sáng, lên nhà nguyện. Ngài quỳ cầu nguyện sốt sắng trước Thánh Thể đến 5 giờ rồi dâng lễ. Ngài có thói quen rất đáng khâm phục là đọc các Giờ Kinh Phụng vụ trước Thánh Thể. Đức cha phải từ tầng hai xuống gọi dậy giúp lễ. Thái độ ôn tồn, bao dung của Đức cha khiến người giúp lễ quyết tâm từ đây tự điều chỉnh để dậy đúng giờ. Ngày thứ hai, nghe tiếng chân Đức cha bước lên cầu thang, đã vội bật dậy lên theo. Hầu hết các xứ, họ vắng bóng các linh mục, giáo dân phải tự sống đức tin của mình. Để nâng đỡ họ, Đức cha Phaolô đã tìm mọi cách để Bí tích Thánh Thể đến với đoàn chiên. Ngài lựa chọn các ông trùm, ông quản, những người đạo đức, trao thừa tác vụ ngoại lệ để họ kiệu Mình Thánh về cho giáo dân chầu buổi tối; buổi sáng có cử hành Lời Chúa và Hiệp lễ, rồi trao Mình Thánh Chúa cho kẻ liệt. Ngài mời gọi những ai không hiệp lễ được thì hợp lòng rước lễ thiêng liêng. Nhờ vậy giáo dân vẫn giữ vững được đức tin.   “Đức cha Phaolô Bùi Chu Tạo, con người hom hem ốm yếu, cân nặng chừng 36 ký. Con người như thế, lẽ ra theo nhận xét loài người, với sức đè nặng của nhiệm vụ Giám quản, giám mục trong suốt thời loạn ly bi đát (1954-1960), đã phải kiệt sức và mất sớm. Tuy nhiên chương trình của Thiên Chúa thì khác hẳn: hơn 40 năm trong chức vụ chủ chăn, ngài đã cầm cự với thời gian, với thời cuộc, luôn luôn phấn đấu kiên cường, trí khôn vẫn minh mẫn sáng suốt, và tuy sức khỏe đã giảm nhiều, nhưng ngài vẫn minh chứng phong độ khí khái, dẻo dai! Con người thầm lặng, ít nói, nhưng nếu nói ra thì câu nào cũng như đinh đóng cột, và thế đứng của ngài lúc nào cũng bình chân như vại!” Dù gặp hoàn cảnh nào ngài cũng luôn bình tĩnh, từ tốn và khôn ngoan. Cũng một linh mục Phát Diệm kể lại:  Một hôm, sau khi dâng lễ ngoài nhà thờ lớn, ngài trở về Nhà Chung theo lối Núi Sọ. Có một anh công an y phục chỉnh tề đứng bên cạnh đường lên giọng hỏi ngài: Ông đi đâu? Ngài vẫn bình thản, thinh lặng bước đi. Anh ta đi theo, tới cổng vào nhà, anh ta lại hỏi lớn hơn: Ông đi đâu? Trước khi khép cổng, ngài dừng lại một chút và nhỏ nhẹ trả lời: “Nhà tôi đây”, rồi tiếp tục về phòng không chút bực bội hay khiển trách. Sau khi thay lễ phục, ngài chỉ nói như để bào chữa cho người công an: “Hình như anh này mới đến đây.”Đối diện với biết bao khó khăn, bị hạn chế đi lại, bị những lời la mắng của chính những giáo dân mà ngài yêu thương, bị những người một thời được ngài coi là thân thuộc quay lưng lại,  ngài vẫn một thái độ điềm đạm, bao dung. Bởi ngài biết họ chỉ làm theo yêu cầu nào đó. Quả thực, lời Chúa Giêsu đã thấm nhuần nơi ngài: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” và “Ngài đã yêu thương họ đến cùng”. Hoàn cảnh khó khăn đã cầm chân ngài tại Tòa giám mục. Không thể đến với giáo dân, ngài viết thư luân lưu giáo huấn hàng giáo sĩ và giáo dân bằng những lời tâm huyết được kín múc từ nguồn mạch khôn ngoan là Lời Chúa và Thánh Thể. Từ năm 1959 đến năm 1988, ngài viết khá nhiều thư về các đề tài, vào các dịp khác nhau, nhằm nâng đỡ đức tin và hướng dẫn đoàn chiên sống đức tin trong hoàn cảnh mới.Có thể nói, Đức cha hiếm khi lớn tiếng. Ngài luôn  nhỏ nhẹ, nhưng giọng nói âm trầm, rành rọt và khúc chiết, thâm thúy pha chút hóm hỉnh. Dáng người nhỏ nhắn, yếu ớt mà sự ung dung tự tại đến vĩ đại vẫn luôn toát lộ ra ngoài; ánh mắt luôn nhân hậu, hiền lành không sắc sảo mà vẫn đọc được tâm can người đối diện, dù là người thiện hay tà tâm. Đức cha sống đơn sơ, đạm bạc: từ tiện nghi trong phòng tới ăn mặc. Căn phòng của ngài chỉ là chiếc giường chiếu đơn sơ với bộ bàn ghế mộc mạc. Bữa ăn thường ngày là rau mắm đạm bạc. Ngài tự giặt giũ quần áo cho mình và tự tay thu dọn phòng riêng. Ngài chẳng tích trữ gì riêng cho mình, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ những người túng thiếu, bệnh tật. Quả thật gương sống thanh bần của ngài đã ảnh hưởng tới nhiều tâm hồn. 
3. Thánh ý Thiên Chúa nhiệm mầu
Nhân ngày sinh nhật Đức Cha môt Lm đã chúc:
                                                       ...Một chín chín chín ơi là chín
                                                 Năm hai ngàn khẽ vịn cũng rơi.
                                                          Chúng con chúc đến thế thôi,
                                                 Chúc thêm chút nữa Chúa Trời bảo tham.
Thế mà Đức Cha sống tới ngày 05/05/2001 thọ 92 tuổi
Cuộc đời của ngài hoàn toàn xả thân cho giáo dân, liên tục sống đời trong suốt, chiếu dọi một nếp sống thánh thiện. Đối với chính quyền địa phương, ngài đối xử lịch thiệp, biết lui biết tới, mặc dù vẫn kiên trì trong phong độ cương nghị. Có người nói: Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, không thấy Ngài kêu goi tòng quân, nhưng khi xảy ra cuộc chiến tranh chống Trung Quốc, Đức Cha đã lên tiếng hưởng ứng lệnh tổng động viên...Điều mà ai ai cũng cảm phục và nhận thấy nơi Đức cha là lòng bác ái, bao giờ cũng sẵn sàng tham gia với chính quyền chống nạn đói, chống bão lụt và mưu tìm lợi ích cho dân chúng.Ngài thật là Kitô thứ hai, thành mẫu gương sáng cho mọi thế hệ. Chính vì thế, trong dịp mừng Ngọc khánh Linh mục của ngài, người ta đã không ngại tặng ngài danh hiệu: “Mục tử hiền lành, chủ chăn can đảm”. Thật xứng đáng!  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét