LỄ VỌNG PHỤC SINH
St 1,1-2,2 ; Xh 14,15-15,1a ; Is
54,5-14
Ed 36,16-17a.18-28 ; Rm 6,3-11 ; Lc
24,1-12
CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 24,1-12
(1) Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi
ra mộ, mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn. (2) Họ thấy tảng đá đã
lăn ra khỏi mộ. (3) Nhưng khi bước vào, họ không thấy thi hài Chúa
Giê-su đâu cả. (4) Họ còn đang phân vân, thì kìa hai người đàn ông y
phục sáng chói, đứng bên họ. (5) Đang lúc các bà sợ hãi cúi gầm
xuống đất, thì hai người kia nói: "Sao các bà lại tìm Người
sống ở giữa kẻ chết? (6) Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy
rồi. Hãy nhớ lại điều Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê,
(7) là Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng
đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại. (8) Bấy giờ các bà
nhớ lại những điều Đức Giê-su đã nói. (9) Khi từ mộ trở về, các bà
kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc
ấy. (10) Mấy bà nói đây là bà Ma-ri-a Mác-đa-la, và bà Ma-ri-a mẹ ông
Gia-cô-bê. Các bà khác cùng đi với mấy bà này cũng nói với các Tông
đồ như vậy. (11) Nhưng các ông cho là chuyện lẩn thẩn, nên chẳng tin.
(12) Dầu vậy, ông Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ. Nhưng khi cúi nhìn,
ông chỉ thấy những khăn liệm thôi. Ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên
về những sự việc đã xảy ra.
2. Ý CHÍNH: Bài Tin mừng hôm nay tường thuật
biến cố Phục Sinh của Đức Giê-su theo thứ tự như sau:
- Sự kiện mồ trống: Ngày từ sáng sớm ngày thứ nhất,
mấy người phụ nữ đã đi ra mộ để xức dầu thơm cho Đức Giê-su. Tới
nơi, họ thấy tảng đá che ngoài cửa mộ đã được lăn sang một bên, nhưng
không thấy xác Thầy trong mộ.
- Sứ điệp Phục sinh: Họ đang thắc mắc thì có hai thiên
sứ hiện ra cho biết Đức Giê-su không còn ở trong mộ của kẻ chết nữa,
nhưng đã sống lại, đúng như Người đã nói tại Ga-li-lê.
- Tông đồ cứng tin: Các bà vội trở về báo tin cho Nhóm
Mười Một những điều mới xảy ra. Nhưng các ông không tin và coi là
chuyện lẩn thẩn.
- Phê-rô kiểm chứng: Tuy vậy, để biết rõ thực hư, Phê-rô
cũng chạy ra mộ và đã thấy những khăn liệm còn để lại. Ông trở về
nhà và rất ngạc nhiên về những sự việc vừa xảy ra.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-3: + Ngày thứ Nhất trong tuần: Từ nay ngày thứ
Nhất sẽ trở thành ngày Hưu lễ của Ki-tô giáo, thay thế ngày thứ Bảy
(Sa-bát) của Do Thái giáo, và được gọi là Chúa nhật nghĩa là Ngày
của Chúa. + Các bà đi ra mộ: Các bà này gồm bà Ma-ri-a Mác-đa-la,
bà Gio-an-na, và bà Ma-ri-a mẹ ông Gia-cô-bê và mấy bà khác nữa (x. Lc
24,10). + Mang theo dầu thơm đã chuẩn bị sẵn: Các bà đến mộ sớm, mang
theo dầu thơm để hoàn tất việc mai táng Chúa Giê-su, đã được ông
Giô-sép A-ri-ma-thê vội vã thực hiện vào chiều thứ Sáu trước ngày
Sa-bát (x. Mc 15,42.47). + Họ không thấy thi hài Chúa Giê-su đâu cả: Đây
là lần thứ nhất Tin mừng Lu-ca dùng từ "Chúa Giê-su" để
nhấn mạnh tước hiệu mới của Người là "Chúa". Về sau sách
Công vụ sẽ nhiều lần dùng từ này để gọi Đức Giê-su (x. Cv 1,21; 8,16
; 15,11).
- C 4-5: + Phân vân: Vì không thấy thi hài Đức Giê-su trong
mộ nên các bà phân vân lo lắng không biết người ta đã đem xác Thầy đi
đâu (x. Ga 20,2). + Hai người đàn ông y phục sáng chói đứng bên họ: Sau
này các bà khẳng định đó là hai vị thiên thần (x. Lc 24,23). +
"Người sống": Giờ đây Đức Giê-su trở thành "Người
sống", đúng như Lời Người đã nói (Ga 11,25).
- C 6-7: + Người không còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi:
Thiên thần bảo cho các bà biết về mầu nhiệm Đức Ki-tô đã từ cõi
chết sống lại (x. Rm 6,9). Từ đây Người mở ra một con đường sống cho
những kẻ đã an giấc ngàn thu (x.1 Cr 15,20-26). + Hãy nhớ lại điều
Người đã nói với các bà hồi còn ở Ga-li-lê: Đối với Lu-ca, toàn bộ
mầu nhiệm Vượt qua phải được hoàn tất tại Giê-ru-sa-lem (x. Lc 9,51),
để Giê-ru-sa-lem trở thành nơi xuất phát thông điệp ban ơn cứu độ (x.
Lc 24,49). Do đó, trong Tin mừng Lu-ca, các Tông đồ đã được Đức Giê-su
Phục Sinh trao cho sứ mệnh làm chứng nhân cho Người bắt đầu từ
Giê-ru-sa-lem (x. Cv 1,8).
- C 12: + Phê-rô cũng đứng lên chạy ra mộ: Dù không tin
Thầy sống lại, nhưng Phê-rô cũng đi kiểm chứng thực hư. Kết quả ông
chỉ nhìn thấy khăn liệm (x. Lc 24,12a). Còn Tin mừng Gio-an thì thuật
lại cuộc chạy đua ra mộ giữa hai Tông đồ Phê-rô và Gio-an (x. Ga
20,3-4).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI 1: Đức Giê-su đã được môn đệ liệm xác theo phong tục
Do thái như thế nào?
ĐÁP: Việc liệm xác Đức Giê-su được thực hiện theo phong
tục Do thái gồm các công đoạn như sau: Trước hết là tắm xác, nghĩa
là lau chùi các vết máu cùng các vết nhơ khác trên cơ thể Người. Sau
đó Người được đặt trên một tấm khăn vải trắng, rồi được bôi một
lọai dầu thơm đắt tiền (x Ga 12,3-7), chế biến từ nhựa cây cam tùng
và được gọi là mộc dược. Dầu thơm được bôi trên toàn thân Người
nhiều lần cho ngấm dần vào da thịt để bảo quản xác khỏi bị hư hoại
trong một thời gian dài. Rồi xác Người được quấn lại bằng băng vải
từ đầu đến chân (x. Ga 19,40). Cuối cùng xác Người được môn đệ an
táng trong một ngôi mộ mới đục trong đá và các ông lăn một phiến đá
lớn che kín phía ngoài cửa mộ (x. Ga 19,41-42).
HỎI 2: Tại sao các môn đệ lại phải vội vã an táng Đức
Giê-su?
ĐÁP: Sở dĩ có việc mai táng vội vã là do Luật Mô-sê
qui định: cấm mai táng vào ngày Sa-bát, và xác tử tội bị treo trên
thập giá phải được hạ xuống trước khi mặt trời lặn (x. Đnl 21,22-23).
Đức Giê-su chết lúc 3 giờ chiều áp ngày Sa-bát, nên thời gian còn
lại từ 3 giờ đến 6 giờ là quá ngắn, không đủ để làm đầy đủ các
công đọan của việc mai táng, nên các môn đệ phải làm cách vội vã cho
kịp thời gian qui định.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: "Sao các bà lại tìm Người
Sống ở giữa kẻ chết? Người không còn đây nữa, nhưng đã trỗi dậy
rồi" (Lc 24,5-6).
2. CÂU CHUYỆN: NIỀM TIN CỦA NHÂN LỌAI VỀ SỰ SỐNG ĐỜI SAU
Hầu như mọi người, mọi dân tộc trên thế giới đều tin có sự sống
sau cái chết, ngay cả những người khẳng định mình không theo một tôn giáo nào.
Ngày 19 tháng 9 năm 1987, nhân khi tiễn Đức Giáo hoàng
Gio-an Phao-lô II kết thúc chuyến viếng thăm Hoa kỳ, Phó Tổng thống
Bush đã kể lại câu chuyện về Chủ tịch Mao Trạch Đông mà ông đã có
dịp gặp gỡ trước khi ông này qua đời. Trong lần ấy, Chủ tịch Mao đã
tâm sự với ông Bush như sau: "Tôi sắp sửa về Trời. Tôi đã nhận
được lời mời gọi của Chúa". Còn Tổng thống Mít-tơ-răng (F.
Mitterand) của nước Pháp thì trong mấy ngày cuối đời đã trả lời
phóng viên một tờ báo về cái chết như sau: "Nếu có Chúa, thì
tôi tin rằng Người sẽ nói với tôi: "Cuối cùng thì anh cũng đã
đến đích. Thôi mau vào đi !". Ngoài ra, Chủ tịch HCM cũng đã gián
tiếp bày tỏ niềm tin vào một thế giới khác bên kia cái chết khi trong
chúc thư có đoạn viết như sau: "Tôi sắp về với cụ tổ
Mác-Lê."...
3. SUY NIỆM:
1) Về sự sống đời sau: Hầu như mọi người, mọi dân tộc
đều tin có một thế giới khác sau cuộc sống đời này: Người ta tin
rằng sau khi chết, con người vẫn còn sống một cách nào đó:
"Chết là thể phách, còn là tinh anh". Trần gian chỉ là nơi
ở tạm thời, còn chết là trở về nguồn cội: "Sinh ký, tử
quy" nghĩa là: "Sống gửi thác về". Cũng vì tin người
chết vẫn tiếp tục sống ở một thế giới khác, nên người ta thường chôn kẻ
chết kèm theo những vật dụng cá nhân của họ như quần áo, mùng mền,
những đồ trang sức, và còn đốt vàng mã để gửi về âm phủ cho người
chết sử dụng.
2) Nhưng cuộc sống ấy như thế nào ?: Có nhiều ý kiến
khác nhau: Đức Phật thì chủ trương có luân hồi: Người ta sẽ lần lượt
trải qua nhiều kiếp sống khác nhau. Hồn người chết sẽ đi đầu thai để
trở thành một người hay một con vật khác... tùy theo kiếp trước họ
đã ăn ở tốt hay xấu. Chỉ những người tu hành đắc đạo, diệt dục,
loại trừ "tham sân si" và sống đại từ đại bi... mới được
siêu thoát thành Tiên thành Phật trong cõi Niết bàn cực lạc. Còn Đức
Khổng Tử thì không dám khẳng định về đời sống sau khi chết vì ngài
không được mặc khải rõ ràng. Do đó khi Tử Cống hỏi: "Người chết
rồi có biết gì nữa không?" thì Khổng Tử đã trả lời nước đôi
như sau: "Nếu ta nói người chết rồi vẫn còn biết, thì sợ các
con cháu hiếu thảo sẽ liều mình chết theo ông cha. Nếu ta nói người
chết không còn biết gì nữa, thì sợ con cháu bất hiếu sẽ không thèm
chôn cất cha mẹ nữa" (Khổng Tử gia ngữ số VIII).
3) Riêng Đức Giê-su: Là Con Thiên Chúa từ trời mà đến,
nên đã dạy cho loài người cách rõ ràng về một đời sống vĩnh hằng
sau khi chết. Trong bài giảng về Bánh Hằng Sống, Người đã khẳng
định: "Tôi là Bánh Hằng Sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ
được sống muôn đời" (Ga 6,51). Khi nói chuyện với cô Mác-ta trước
khi làm phép lạ cho La-da-rô đã chết 4 ngày được sống lại, Đức Giê-su
nói: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy
thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ
không bao giờ phải chết" (Ga 11,25). Trong Tin mừng Chúa Nhật Phục
Sinh hôm nay, thiên thần đã nói với mấy người phụ nữ rằng: "Sao
các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết ? Người không còn đây
nữa, nhưng đã trỗi dậy rồi!" (Lc 24,5-6).
4) Những đặc tính của sự phục sinh của Chúa Giê-su:
* Không giống như sự sống lại của những kẻ chết được
Người cứu sống, vì về sau họ đều bị chết lại giống như mọi người (x.
Mc 5,41-42; Lc 7,14-15; Ga 11,39-44).
* Chúa Giê-su cũng không chỉ sống trong thành quả sự
nghiệp của Người như người đời thường nói: "Trâu chết để da,
người chết để tiếng". Nhưng Người đã thực sự sống lại.
* Sự sống lại của Chúa Giê-su là trở nên một "Người
Sống" (x. Lc 24,5), giống như "Thiên Chúa hằng sống!":
Thánh Phao-lô đã diễn tả sự sống siêu việt ấy như sau: "Chúng ta
biết rằng: Một khi Đức Ki-tô đã từ cõi chết sống lại, thì không bao
giờ chết nữa. Cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người. Người đã
chết là chết đối với tội lỗi, và một lần là đủ. Nay Người sống
là sống cho Thiên Chúa" (Rm 6,9b-10).
* Sự sống lại của Đức Giê-su ban ơn cứu độ: Người đã
phá tung mồ đá để sống lại vinh quang và xuống nơi trú ngụ của các
vong linh, gọi là Âm phủ (Shéol) hay ngục Tổ tông, để hoàn tất việc
loan báo Tin mừng cứu độ cho những kẻ đã chết. Người mở một con đường
sống cho nhân lọai chúng ta là "Qua đau khổ vào trong vinh quang" (x
Lc 24,26; Mt 16,21) là "Cùng chết với Đức Giê-su sẽ cùng được sống lại với
Người" (x. 1Pr 3,18). Đó là con đường của đạo Công Giáo (Xem sách Giáo
lý Hội thánh Công giáo số 632, 633, 634, 635).
5) Sống mầu nhiệm Phục Sinh: Mừng lễ Phục sinh hôm nay, Hội
Thánh mời gọi các tín hữu chúng ta cũng phải chết đi cho con người cũ cùng với
những thói hư tật xấu như: ích kỷ, ganh ghét, gian tham, hướng chiều theo các
đam mê bất chính... để nhờ ơn Thánh Thần tái tạo trở thành một con người mới
luôn quên mình nghĩ đến người khác, sống bao dung từ bi nhân hậu, công chính và
luôn khiêm tốn phục vụ tha nhân vô vụ lợi... Có như vậy, việc mừng lễ Phục Sinh
mới thực sự có ý nghĩa và mới mang lại niềm vui ơn cứu độ và niềm hy vọng sẽ
được phục sinh với Chúa sau này.
4. THẢO LUẬN: Khi tuyên xưng đức tin: "Tôi tin
xác loài người ngày sau sống lại. Tôi tin hằng sống vậy", các
tín hữu phải sống thế nào trong xã hội hôm nay, để chứng tỏ niềm tin
về thế giới bên kia và về một cuộc sống vĩnh hằng sau đời tạm này ?
5. NGUYỆN CẦU:
- LẠY CHÚA GIÊ-SU PHỤC SINH, Chúa đã chiến thắng thần
chết. Hôm nay con xin dâng lên Chúa lời chúc tụng tạ ơn, vì Chúa đã
mang lại cho loài người chúng con niềm vui và hy vọng được sống muôn
đời. Chúa đến để chúng con khỏi chết và không ở dưới quyền lực của ma
quỷ và tội lỗi nữa, nhưng được sống lại trong ơn nghĩa Chúa. Chúa
đến để chúng con "được sống và được sống dồi dào", để
chúng con được tham phần vào sự sống đời đời của Thiên Chúa sau này.
- LẠY CHÚA PHỤC SINH, xin giúp chúng con biết tôn trọng
tha nhân, hợp tác với nhau và với mọi người thiện chí để tiêu diệt
các sự gian ác tội lỗi, đẩy lùi những tệ nạn xã hội như sì-ke, ma
tuý, mại dâm, cờ bạc, say sưa, cướp bóc, lừa đảo, thù hận và làm
hại kẻ khác... XIn cho chúng con quyết tâm xóa sạch những điều bất chính
ra khỏi bản thân chúng con, khỏi gia đình và khu xóm chúng con. Nhờ
đó, mọi người sẽ được sống chan hòa yêu thương nhau, cùng nhau kiến
tạo một "Trời Mới Đất Mới", nơi không còn nước mắt, không
còn khổ đau và không còn chết chóc... nhưng là một Thiên đàng đầy tình
yêu thương và hạnh phúc viên mãn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH
LỄ PHỤC SINH – Năm C
Lời Chúa: Lc 24,1-12; Cv 10,34a.37-43;
Cl 3,1-4; Ga 20,1-9
MỤC LỤC
1. Marathon
2. Niềm tin
3. Đức Kitô sống lại
4. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại
5. Rao truyền ơn Phục Sinh - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
6. Ánh sáng và bóng tối – ĐTGM Ngô Quang Kiệt
7. Kỷ nguyên cứu rỗi – Lc 24,1-12
8. Tình yêu dẫn đến đức tin – Radio Veritas Asia
9. Chúa đã sống lại – Radio Veritas Asia
10. Sự nhầm lẫn – Lm Jos Tạ Duy Tuyền
11. Người đã trỗi dậy rồi
12. Mặt trời hé mọc
13. Ngôi mộ trống
14. Ông đã thấy và đã tin
15. Phục Sinh
16. Mầu nhiệm
17. Niềm vui Phục Sinh
18. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
19. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh
20. Xác nhận lòng tin - McCarthy
21. Phục Sinh
22. Phục Sinh
23. Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi
24. Biến đổi trở thành con người mới
25. Hai cái nhìn
26. Ngôi mộ trống -JKN
27. Chú giải của Noel Quesson
28. Chú giải của Fiches Dominicales
1. Marathon.
Hàng năm, báo chí cũng như truyền thanh và truyền hình đều
thường tường thuật về những cuộc chạy marathon. Vậy chạy marathon là gì? Tôi
xin thưa đó là chạy đua đường dài, với khoảng cách là 40 cây số. Nguồn gốc của
việc chạy marathon là như thế này: Vào năm 490 trước Công nguyên, tướng
Miltiade, người Hy Lạp, đã chiến thắng quân Ba Tư tại Marathon, một ngôi làng
cách thủ đô Athène 40 câu số. Liền sau cuộc chiến thắng, tướng Miltiade đã phái
một người chạy bộ, vượt khỏang đường dài này, để loan báo tin vui cho dân chúng
thủ đô Hy Lạp. Người chạy đem tin vui này vừa vào tới thành thì liền tắt thở vì
kiệt sức. Vì thế, anh đã trở thành biểu tượng cho những cuộc chạy đua đường
trường trên thế giới.
Từ cây chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay, và
chúng ta nhận thấy vào buổi sáng Chúa nhật Phục Sinh, đã có hai cuộc chạy
marathon. Cuộc thứ nhất là của Mađalena. Cuộc thứ hai là của Phêrô và Gioan.
Vậy động lực nào đã thúc đẩy họ lên đường, để rồi loan báo Tin Mừng Phục Sinh
cho toàn thế giới?
Như chúng ta đã biết: dưới thập giá của Chúa Giêsu lại chính là
cuộc chiến thắng vĩ đại. Một đàng, Ngài trở nên như con rắn đồng mà Maisen đã
treo nơi sa mạc, để những ai bị rắn độc cắn mà nhìn lên rắn đồng ấy thì sẽ được
chữa lành. Đàng khác, cái chết tự nguyện của Ngài trên thập giá đã trở nên dấu
chỉ chiến thắng của tình yêu Thiên Chúa: Ngài đã yêu thương thế gian đến nỗi đã
ban Con Một để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn
đời. Bằng cái chết, Đức Kitô đã lôi kéo chúng ta đến với Ngài, như lời Ngài xác
quyết: Ngày nào Ta bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi sự đến cùng Ta.
Trở lại với cuộc chạy marathon đi tìm dấu vết của Đấng Phục
Sinh, chúng ta thấy: ở đểm xuất phát, Mađalena chạy đến mồ trước tiên khi trời
còn tối. Thấy tảng đá ở cửa mộ đã bị lăn qua một bên, cô chưa tin gì về Chúa
Phục Sinh, nên nghi người ta đã lấy trộm mất xác Thầy. Cô liền chạy về báo tin
cho Phêrô và Gioan.
Đến lượt hai ông này cùng chạy đến một. Gioan tới trước, nhưng
vì kính lão đắc thọ, nên còn đứng chờ Phêrô. Khi cả hai cùng vào mộ, liền nhận
ra ai đó đã sắp xếp để khăn che đầu ở một nơi. Với trực giác nhạy bén, Gioan
hiểu ngay là không có chuyện ăn cắp xác mà lại để các khăn liệm thứ tự như vậy.
Gioan đã thấy và đã tin.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta thấy được hình ảnh của Giáo
Hội sơ khai đi tìm dấu vết Chúa Phục Sinh. Giáo Hội ấy gồm những người như
Mađalena, Phêrô và Gioan. Đó là những con người rất khác biệt nhau nhưng lại bổ
túc lẫn cho nhau trong cuộc hành trình tìm kiếm Chúa Giêsu. Nếu Mađalena không
tới một sớm để thấy mộ trống rồi về loan báo tin ấy cho các tông đồ, thì Giáo
Hội vẫn còn im lìm, chưa có sự sống. Thế nhưng giữa những cuộc chạy marathon mà
chưa có phản ứng đức tin của Gioan thì Giáo Hội vẫn chưa thực sự là Giáo Hội vì
chưa sống bằng đức tin, một đức tin thấm nhuần lời Chúa. Còn chúng ta thì sao?
Chúng ta đã thực sự gặp được Đức Kitô Phục Sinh trên những bước đường của cuộc
sống chưa, và nhất là chúng ta đã trở nên những chứng nhân cho Đức Kitô Phục
sinh giữa lòng cuộc đời hay chưa?
2. Niềm tin.
Kết quả một cuộc điều tra mới đây tại Pháp cho thấy 84% người
Pháp cho mình là người công giáo, nghĩa là có lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Nhưng
chỉ có 32% là con tin vào sự sống lại. Và người ta phỏng đoán đến năm 2020 thì
con số những người tin vào sự sống lại sẽ giảm xuống, chỉ còn độ 10%. Nếu số
liệu trên là sát với thực tế và điều phỏng đoán trên là đáng tin cậy, thì tình
trạng niềm tin hôm nay quả là bi đát. Tại sao lại có hiện tượng ấy?
Phải chăng con người ngày nay quá quen với những kỹ thuật khoa
học có thể kiểm chứng, để không còn nhạy cảm đủ với niềm tin, vốn khởi đi từ
những cảm nghiệm. Hay nói theo kiểu thánh Phaolô: Vì quá mải mê những sự dưới
đất đến nỗi không còn tha thiết với những sự trên trời. Chính vì thế, chúng ta
cần phải khám phá lại niềm tin vào Đức Kitô phục sinh, là nền tảng cho cuộc
sống của người tín hữu hôm nay.
Như chúng ta đã biết Phục Sinh là một biến cố quan trọng bởi vì
không có nó thì niềm tin sẽ trở thành một việc luống công vô ích, thế mà biến cố
quan trọng ấy chỉ được ghi nhận bằng một sự kiện đơn giản: Ngôi mộ trống rỗng.
Thế nhưng điều đơn giản ấy nếu không là dấu chứng lịch sử để mà biện bạch thì
lại là dấu chỉ mở về một thực tại khác. Đó là niềm tin Phục Sinh qua những
chặng đường khám phá.
Thực vậy, từ khám phá đầu tiên về cửa mồ mở toang, khiến
Mađalena phải hốt hoảng, tới khám phá tiếp theo về dây băng còn nguyên và khăn
liệm được cuộn lại, khiến Phêrô phải kinh ngạc không nói nên lời, để rồi kết
thúc bằng khám phá bất ngờ của Gioan khi ông nối kết những dấu chỉ kia với lời
Kinh Thánh để làm bừng lên một cảm nghiệm mới và hết sức lạ lùng: ông đã tin.
Mồ rỗng và khăn liệm còn đó là gì nếu không phải là một dấu chỉ
cho sự phục sinh theo Kinh Thánh. Thực vậy, Đức Kitô là Thiên Chúa hằng sống,
nên Ngài không thể bị chôn vùi trong cõi chết. Là Đấng quyền năng, nên Ngài
không thể bị giam hãm trong ngục thất của tử thần. Là Đấng của vĩnh cửu, nên
Ngài không thể bị giới hạn trong thời gian. Là ánh sáng, lẽ nào Ngài lại bị bao
vây bởi bóng tối. Là Đấng tạo dựng, lẽ nào Ngài lại bị thân phận con người cầm
chân. Bởi đó không còn một cách nào khác hơn là Ngài đã phục sinh.
Từ đó, ngày Phục Sinh được gọi là ngày Chúa nhật, ngày của Chúa.
Biến cố Phục Sinh không phải chỉ là một biến cố có tính cách lịch sử mà hơn thế
nữa, còn là một biến cố làm nên lịch sử, vì biến cố ấy không ngừng được công bố
và trở thành nền tảng niềm tin cho cả Giáo Hội. Bởi vì một khi Đức Kitô là đầu
đã sống lại, thì chúng ta là chi thể, một ngày kia cũng sẽ sống lại, nếu như
chúng ta trung thành gắn bó mật thiết với Ngài.
3. Đức Kitô sống lại
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau chia sẻ về ba thái
độ. Trước hết là thái độ của Mađalena.
Thực vậy, tập tục liệm xác của người Do Thái bao gồm việc rửa
xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy dây băng cuộn lại từ đầu
đến chân, xong xuôi đâu đó thì đem đặt xác vào trong huyệt được đục sẵn nơi
vách đá và lấy tảng đá to lấp đậy cửa hang.
Vì hối hả, nên khi về nhà, Mađalêna mới nhận ra rằng mình đã
không cẩn thận đủ đối với Chúa Giêsu, bà nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy,
tức là ngày thứ nhất trong tuần.
Phải, vào sáng ngày thứ nhất trong tuần, đối với chúng ta hiện
nay thì đó là ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp xác lại. Khi đến
nơi, bà thấy ngôi mộ trống trơn. Cửa đã được đẩy qua một bên và Chúa Giêsu
không còn ở trong đó nữa. Vì thế, bà vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan.
Rồi cả hai ông đều chạy đến mồ. Đối với Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác
Chúa lại cho chu đáo hơn, nói cách khác, bà đến mồ chỉ để tìm lại một xác chết.
Với tâm trạng như thế, khi nhìn thấy ngôi mộ trống trơn, bà khó có thể nhận ra
Chúa đã sống lại.
Còn Phêrô? Ông đã sợ hãi, ông đã chối Chúa vì sợ bị liên luỵ.
Chúa đã chết và nghỉ yên trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc
rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác
Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào
đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án và xử tử các
ông.
Là trưởng nhóm, ông chạy đến mồ, quan sát những gì đã xảy ra và
tìm cách biện minh: Tại sao thế này và tại sao thế nọ? Với một tâm trạng như
thế, ông cũng khó có thể nhận ra Chúa đã sống lại.
Sau cùng là thái độ của Gioan. Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết
rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất là trong
những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên con đường
thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn
cất Chúa.
Kinh nghiệm cho thấy khi yêu thương ai, chúng ta luôn nghĩ đến
người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc đời mình, cho dù
hoàn cảnh bắt buộc phải xa cách nhau. Với cái nhìn đó, Gioan đã dễ dàng nhận ra
sự kiện Chúa đã sống lại: Ông đã thấy và ông đã tin.
Từ đó, chúng ta kết luận: tình yêu dẫn đến đức tin. Những lo
lắng trần gian, như lo lắng của Mađalêna đi tìm xác chết không vượt lên được.
Những suy tư lý luận của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới
dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta chỉ có thể cảm thấy sự
hiện diện của Chúa và chỉ có thể hiểu được mọi biến cố trong cuộc đời mình, nếu
chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí mình luôn tiến triển trên con đường
tình yêu của Chúa.
4. Chúa Giêsu phải từ cõi chết sống lại.
(Suy niệm của Yvon Daigneault)
Mở đầu.
Bất chấp những bài hát, những lời tung hô và những bài giảng
tuyên bố Chúa Giêsu đã sống lại, mầu nhiệm này vẫn hoàn toàn là mầu nhiệm đối
với chúng ta và nó mãi mãi là mầu nhiệm cho đến tận cùng, cho đến khi chúng ta
được hưởng kiến Thiên Chúa cùng với Chúa Kitô Phục Sinh. Vì vậy Tin Mừng mà
chúng ta vừa mới đọc có một tầm quan trọng đặc biệt. Với một khoa tâm lý sâu
sắc bài Tin Mừng này cho thấy nỗi bàng hoàng của các môn đệ sau cái chết của
Chúa Giêsu – "người ta đã lấy Chúa khỏi mồ, và chúng tôi không biết họ đặt
Ngài ở đâu", và nó mời gọi chúng ta phải có một thái độ đúng đắn, thái độ
chính yếu mà Chúa chờ mong, đó là đức tin, - "ông đã thấy và đã tin".
Sự Phục Sinh.
Người ta thường hay nói về sự Phục Sinh trong nhiều trường hợp:
thiên nhiên sống lại; một người được đưa đến bệnh viện đã hoàn sinh trở về.
Người ta muốn làm sống lại những truyền thống dân gian hoặc những thói quen tốt
đã bị mai một, tất cả những gì đã bị thời gian làm cho mục nát tiêu tan.
Tất cả những điều đó chẳng liên quan gì đến sự Phục Sinh của
Chúa Giêsu cả. Trong những thí dụ trên đây, đó chỉ là việc trở lui về quá khứ,
tìm lại cái đã mất mà thôi. Chúa Giêsu không bắt đầu lại cuộc sống của Ngài như
trước kia. Không thể nào nghĩ rằng Chúa Giêsu tìm lại những con đường xứ
Palestine, những đóm lửa ven bờ hồ, những cuộc gặp gỡ trên đường, hoặc Ngài
tiếp tục sứ vụ của mình trước đây, như thể cuộc tử nạn chỉ là một sự cắt đứt
bất hạnh và tạm thời thôi.
Chúa Kitô đã chết thật sự. Điều này không chỉ có nghĩa là kết
thúc tất cả mạng lưới tương quan, công việc và dự tính, như cái chết của mọi
con người.
Chúa Kitô đã Phục Sinh. Không có nghĩa là Chúa Kitô tìm lại được
sự sống sinh học và những sinh hoạt của Ngài trước kia, nhưng là Thiên Chúa ban
cho Ngài một cuộc sống hoàn toàn mới mẻ trong một cách hiện hữu tuyệt đối mới
mẻ mà nhân tính của Ngài tham gia trọn vẹn. Chúa Giêsu Phục Sinh hiệp thông
hoàn toàn với chính cuộc sống của Thiên Chúa, với Ánh Sáng của Thiên Chúa, với
Quyền Năng của Thiên Chúa, mà vẫn không ngừng đời đời là chính mình với thân
xác của Ngài đã trở nên thần thiêng, và với tất cả những gì thuộc về thân xác:
những mối dây thân ái, những kinh nghiệm đã có được, những bài học của một cuộc
đời và cả những thử thách, những tương quan, những ký ức...
Mầu nhiệm Đức Tin.
Khi chúng ta tuyên xưng đức tin: "Chúa Kitô đã Phục
Sinh!". Chúng ta khẳng định rằng giờ đây Ngài tràn đầy sự sống của Thiên
Chúa và tất cả những gì liên kết Ngài với chúng ta, thay vì kết thúc, đã được
thể hiện cách sung mãn. Vì vậy chúng ta đã tuyên bố rằng cả chúng ta nữa, vì
thuộc về Chúa Kitô, chúng ta sẽ phục sinh với Ngài để dự phần vào vinh quang
của Ngài.
Phục Sinh không phải là một kỷ niệm đẹp nhưng là biến cố luôn
luôn hiện tại và hậu quả của nó liên lỉ được thấy rõ trên thế giới này, nhất là
trong việc thông ban Thánh Thần, Đấng mà Chúa Cha và Chúa Con ban cho các môn
đệ để biến đổi các ông và biến đổi thế giới này.
Phục Sinh là biến cố phải được biết, đón nhận và sống trong đức
tin. Đức tin không phải là nhắm mắt mà nói "đúng thế" mặc dù tôi
không hiểu gì hết, nhưng là tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng thực hiện biến cố
này và khẳng định nó nhờ chứng tá của Thần khí Ngài.
Kết luận.
Đón nhận biến cố Phục Sinh với niềm tin, tức là tin tưởng vào
Thiên Chúa Đấng đã mặc khải biến cố này trước hết cho các tông đồ, và sau đó
cho chúng ta, qua các ngài. Nếu đối với các ngài mồ có vẻ trống, thì từ ngày ấy
nó còn trống hơn nữa và không nơi nào từ hai ngàn năm qua người ta đã nhìn thấy
Chúa Kitô trên trần thế này, nhưng Quyền Năng của Chúa Kitô hằng sống vẫn không
ngớt biểu lộ.
5. Rao truyền ơn Phục Sinh - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Sau, ngày Chúa chịu chết, các môn đệ rơi vào một tình trạng thê
thảm: buồn rầu, sợ hãi, chán nản, thất vọng.
Còn đâu niềm vui khi được ở bên người Thầy yêu dấu. Còn đâu an
ủi khi thấy những người đói khát được ăn no, người bệnh tật được chữa lành, kẻ
tội lỗi được tha thứ, người chết được sống lại. Còn đâu niềm hy vọng tràn trề
khi chứng kiến ma quỷ bị xua đuổi.
Tất cả đã chìm vào quá khứ. Giờ đây sự ác đã chiến thắng, sự dữ
đã thống trị. Cả một bầu trời tang tóc phủ trùm trên những người tin Chúa. Tâm
hồn các ngài như đã chết. Niềm tin yêu hy vọng của các ngài như cùng bị chôn
táng trong mộ với người Thầy yêu quý.
Giữa lúc ấy, Chúa sống lại khải hoàn. Chúa Giêsu Phục Sinh đã
khiến cuộc đời các ngài thay đổi tận gốc rễ.
Khi tảng đá lấp cửa mộ tung ra cũng là lúc tâm hồn các ngài
thoát khỏi màn đêm vây phủ. Khi gặp được Chúa Phục Sinh, tâm hồn các ngài bừng
lên sức sống mới. Máu chảy rần rần. Tim đập rộn ràng. Mắt sáng. Miệng tươi.
Các ngài như người đã chết nay sống lại. Chúa Giêsu đã Phục Sinh
tâm hồn các ngài. Sự sống mới của Chúa đã tràn vào các ngài. Ơn Phục Sinh đã
được ban cho các ngài. Sự sợ hãi đã trở thành mạnh dạn. Sự yếu đuối đã trở nên
mạnh mẽ. Sự thất vọng đã biến thành hy vọng. Nỗi sầu khổ đã biến thành niềm
vui.
Cảm nghiệm ơn Phục Sinh rồi, các môn đệ không còn có thể ngồi
yên trong căn phòng đóng kín cửa nữa. Các ngài mở tung cửa, hăng hái ra đi đem
Tin Mừng Phục Sinh chia sẻ cho mọi người. Các ngài muốn vực dậy những mảnh đời
đang chết dần mòn. Các ngài muốn phục hồi những tâm hồn đang héo úa. Các ngài
muốn thế giới biến đổi trong một đời sống mới, tươi vui, hạnh phúc, dồi dào
hơn.
Hôm nay Chúa muốn cho tất cả mọi người chúng ta, noi gương các
Thánh Tông đồ, tiếp nối công việc của Chúa, đem ơn Phục Sinh đến với mọi người.
Có những người đang chết dần mòn vì không đủ cơm ăn áo mặc. Có
những cuộc đời tàn lụi đi vì bệnh hoạn tật nguyền. Có những tấm thân gầy mòn vì
lao lực vất vả. Có những cuộc đời trẻ thơ bị giam kín trong tăm tối thất học,
nghèo nàn. Tất cả đang đợi chờ được Phục Sinh.
Có những tâm hồn đang ủ rũ vì buồn phiền. Có những mạch máu như
ngừng chảy vì đau khổ. Có những trái tim đang tan nát vì bị phản bội. Có những
cuộc đời cay đắng vì thất bại. Có những tương lai bị chôn kín trong những nấm
mồ đen tối không lối thoát. Tất cả đang đợi chờ ơn Phục Sinh.
Nhất là có những tâm hồn đang lún sâu trong vũng lầy tội lỗi. Có
những linh hồn đang tự huỷ hoại trong đam mê tiền bạc, quyền lợi, danh vọng. Có
những niềm tin héo úa vì lạc hướng. Có những đời sống đang rỉ máu vì chia rẽ
bất hoà. Có những cuộc đời đang chao đảo vì gặp khó khăn thử thách. Tất cả đang
đợi chờ ơn Phục Sinh.
Đem Tin Mừng Phục Sinh đó là giúp cuộc đời anh em thoát khỏi
những bế tắc, giúp cho linh hồn anh em được sống cao thượng và khôi phục niềm
tin yêu của anh em vào Thiên Chúa, vào con người và vào cuộc đời.
Tuy nhiên, để có thể đem Tin Mừng Phục Sinh đến với mọi người,
bản thân ta cần được Phục Sinh trước.
Trong chính bản thân ta cũng đang chất chứa những mầm mống chết
chóc đó là những tội lỗi, đam mê, dục vọng. Trong chính bản thân ta cũng đang
ấp ủ những lực lượng tàn phá đó là thói kiêu căng, ích kỷ, chia rẽ, bất hoà,
tham lam, bất công. Trong chính bản thân ta đức tin đang héo úa, lòng mến đang
nguội lạnh, niềm hy vọng đang lụi tàn.
Để đón nhận được ơn Phục Sinh và để ơn Phục Sinh có thể thấm vào
mọi ngõ ngách trong tâm hồn, ta phải cộng tác với Chúa, tẩy trừ mọi lực lượng sự
chết ra khỏi tâm hồn ta. Cuộc chiến đấu sẽ khốc liệt vì ta phải chiến đấu với
chính bản thân mình. Nhưng với ơn Chúa Phục Sinh trợ giúp, chắc chắn ta sẽ toàn
thắng.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn có nhận thấy những lực lượng sự chết đang ở trong lòng
người bạn không? Bạn có muốn loại trừ chúng không?
2. Bạn có thấy ơn Phục Sinh là cần thiết không?
3. Bạn có sẵn sàng đem ơn Phục Sinh cho mọi người không?
4. Tuần này, bạn sẽ sống mầu nhiệm Chúa Phục Sinh thế nào?
6. Ánh sáng và bóng tối – ĐTGM Ngô Quang Kiệt.
Phụng vụ hôm nay trình bày cho ta sự tương phản giữa bóng tối và
ánh sáng.
Mở đầu phần nghi thức, nhà thờ chìm vào bóng tối. Bóng tối tượng
trưng cho thế lực sự dữ, sự ác. Khi Đức Giêsu chưa Phục Sinh, sự dữ, sự ác còn
thống trị. Nhân loại chìm ngập trong bóng tối sự chết.
Cây nến Phục Sinh tượng trưng cho Đức Kitô Phục Sinh. Đức Kitô
Phục Sinh chiếu lên nguồn sáng mới, xua tan đi bóng đêm. Đức Kitô Phục Sinh là
sự sống mới đã chiến thắng sự chết.
Như cây nến muốn chiếu sáng phải tiêu hao chính mình. Đức Kitô
đã phải chịu tiêu hao đi trong những đớn đau, khổ cực, tủi nhục và cả trong cái
chết, mới đem lại ánh sáng sự sống cho ta.
Chúng ta là con cái Chúa, là con cái của sự sáng. Nhưng trong ta
còn nhiều phần chưa thuộc về Chúa. Nhiều phần trong tâm hồn ta còn thuộc về
bóng tối.
Có thứ bóng tối tội lỗi nhận chìm linh hồn ta trong những vực
sâu tối đen không có đường thoát ra.
Có thứ bóng tối đam mê dục vọng gìm linh hồn ta trong cơn mê ngủ
miệt mài, mất hết ý chí phấn đấu tiến lên.
Có thứ bóng tối tham lam ích kỷ làm lu mờ lương tâm, lý trí,
khiến ta coi tiền bạc trọng hơn tình nghĩa. Vì tiền bạc mà dám phạm những tội
ác tày trời. Vì lợi nhuận của mình mà làm thiệt hại cho người khác.
Có thứ bóng tối ghen ghét oán thù nó làm cho tâm hồn ta không
lúc nào bình an, vì chìm ngập trong nỗi hận thù dai dẳng.
Có thứ bóng tối tự ái kiêu căng khiến cho linh hồn ta không tìm
thấy niềm vui trong sự khiêm nhường tha thứ.
Tất cả những bóng tối đó đang khiến linh hồn ta suy yếu, chết
dần chết mòn. Tất cả những bóng tối đó ngăn chặn ánh sáng của Chúa, ngăn chặn
dòng suối ơn lành của Chúa đổ vào hồn ta.
Để ánh sáng Phục Sinh của Chúa tràn vào hồn ta, ta phải quét
sạch những bóng tối còn vương vấn trong tâm hồn.
Cũng như cây nến phải chịu tiêu hao mòn mỏi mới nuôi được ánh
sáng soi chiếu đêm tối, ta cũng phải phấn đấu với chính bản thân mình, quên
mình, chịu chết cho tội lỗi, để ta sống một đời sống mới.
Khi phấn đấu đẩy lùi bóng tối tội lỗi, ta thoát được ách ma quỷ
và được sống trong ánh sáng của Chúa, trở nên con cái ánh sáng.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, Chúa đã chiến thắng ma quỷ, xin giúp
chúng con chiến đấu với ma quỷ, để được sống một đời sống mới trong ánh sáng
của Chúa.
7. Kỷ nguyên cứu rỗi – Lc 24,1-12
(Trích trong 'Như Thầy Đã Yêu' – Thiên Phúc)
Một bề trên tu viện Công Giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn Giáo tại chân
núi Hy Mã Lạp Sơn. Ông lo âu trình bày về tình trạng bi đát của tu viện. Trước
kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc
nào cũng vang tiếng hát của giáo dân khắp nơi tuôn đến. Nhà dòng không còn chỗ
nhận thêm người xin gia nhập. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi
chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng. Tu sĩ thì leo teo mấy người. Cuộc sống thật
là buồn tẻ. Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn Giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm
nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ Ấn Giáo ôn tồn bảo: Tội của
cộng đoàn đó là tội vô tình. Và ông giải thích: Đấng Cứu Thế đã cải trang thành
một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Người.
Từ đó, mọi người đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao
lâu bầu khí yêu thương huynh đệ thắm thiết, sức sống mới nảy sinh, và niềm vui
tràn ngập tu viện. Khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện tĩnh tâm, cầu nguyện.
Nhiều bạn trẻ lại đến xin gia nhập cộng đoàn.
"Sao các bà lại tìm người sống giữa kẻ chết? Người không
còn đây nữa, nhưng đã chỗi dậy rồi" (Lc 23,5-6). Buổi sáng Phục Sinh đầu
tiên, Đức Giêsu đã vinh thắng ra khỏi mộ tối, để mở đầu cho một kỷ nguyên mới,
kỷ nguyên cứu rỗi. Người đã hiện ra với Mađalêna, với Phêrô, với hai môn đệ trên
đường Emmau, với các môn đệ đang tập họp trong nhà cửa đóng kín, trên bờ biển
Tibêria. Và Người vẫn còn hiện diện giữa chúng ta, những kẻ tin vào Người, ở
mọi nơi, trong mọi thời đại. Đó là một Tin vui không chỉ cho thành Giêrusalem
mà còn cho toàn thế giới.
Tin vui chính là Đức Giêsu Phục Sinh, ánh sáng rạng ngời đã xóa
tan bóng tối của tử thần và tội lỗi, để dẫn đưa con người bước vào miền ánh
sáng sự sống.
Tin vui chính là Đức Giêsu Phục Sinh luôn hiện diện giữa những
kẻ tin Người sống lại, để mang lại cho họ niềm vui và an bình trong cuộc sống
mới.
Nếu ngôi mộ tối đã không thể giam giữ Đức Giêsu Phục Sinh, và
xiềng xích của sự chết đã bị Người bẻ gẫy, thì không còn gì có thể tiêu diệt
chúng ta được. Thánh Phaolô viết: "Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình
yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt
bớ, gươm giáo?" (Rm 8,35). Vì thế, Sống niềm vui Phục Sinh chính là chết
đi cho tội lỗi để sống lại với Chúa trong đời sống mới, đời sống Phục Sinh.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là tin rằng Chúa đã sống lại và đã
cứu thoát chúng ta khỏi vòng tội lỗi, nên chúng ta hãy đặt niềm tin và hy vọng
nơi Người.
Sống niềm vui Phục Sinh chính là sống vui tươi, an bình và yêu
thương trong sự hiện diện của Đức Giêsu Phục Sinh.
Cộng đoàn tu viện trong câu chuyện kể trên chỉ tìm được bầu
không khí yêu thương và niềm vui huynh đệ khi mà mọi người nhận ra Đấng Cứu Thế
đang ở giữa họ, trong người anh em.
8. Tình yêu dẫn đến đức tin – Radio Veritas Asia
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa')
Trong Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh, thánh Gioan kể lại cho chúng
ta câu chuyện 3 người đi tìm Chúa: Maria Mađalêna, Gioan và Phêrô.
Khi đọc đoạn Phúc Âm đó, chắc chắn mỗi người chúng ta đều nhận
thấy rằng tất cả 3 người đều đến mồ, đều thấy cùng một sự kiện mồ trống và khăn
liệm, nhưng chỉ có mỗi mình Gioan là tin Chúa Giêsu đã sống lại. Thánh Gioan đã
viết về chính mình rằng: "Ông thấy và ông đã tin".
Để hiểu rõ câu chuyện, chúng ta hãy trở lại chương 16. Sau khi
Chúa Giêsu chết, người Do Thái đến xin Philatô cho hạ xác những người đóng đinh
xuống vì họ không muốn thấy xác chết treo trên thập giá trong ngày thứ bảy,
ngày sabbat, nhất là ngày sabbat trong lễ Vượt Qua của họ.
Phép tắc, thủ tục xong, xác Chúa được hạ xuống. Theo phong tục
người Do Thái, họ tính bắt đầu ngày mới từ lúc mặt trời lặn.
Maria Mađalêna và các môn đệ có mặt lo hối hả để chôn xác Chúa
cho xong và ra về trước khi mặt trời lặn, nếu không họ sẽ lỗi luật tôn giáo vì
ngày sabbat chỉ được đi bộ một quãng bằng ném hòn đá mà thôi.
Chúng ta cũng nên biết qua cách liệm xác của người Do Thái. Cách
liệm xác của họ là rửa xác, ướp thuốc thơm và gói lại bằng tấm vải trắng, lấy
băng quấn lại từ đầu đến chân như người ta băng bó vết thương, xong xuôi đâu đó
đem đặt xác vào trong hang huyệt đục sẵn trong đá và lấy tảng đá to đậy cửa
hang lại.
Vì hối hả nên Maria Mađalêna về nhà nhận thấy mình không cẩn
thận đủ đối với Thầy Giêsu của mình và nóng lòng chờ đến sau ngày thứ bảy. Vào
ngày thứ nhất trong tuần, tức ngày Chúa nhật, bà đem thuốc thơm đến mồ để ướp
xác lại. Khi đến nơi bà thấy mồ trống, cửa đã được đẩy ra và Thầy không còn
trong đó nên vội vã chạy về báo tin cho Phêrô và Gioan. Gioan là thanh niên
trai trẻ chạy nhanh hơn Phêrô nên ra đến mồ trước. Đến nơi Gioan chỉ đứng ngoài
khom người nhìn vào chờ Phêrô đến, cả hai cùng vào mồ, họ đều thấy dây băng
liệm và vải liệm, nhưng Gioan thú thực trong lòng ông đã tin Chúa sống lại.
Phân tích tâm lý của 3 nhân vật, chúng ta sẽ thấy tại sao?
Đối với Maria Mađalêna, bà đến mồ chỉ mong để ướp xác Thầy lại
cho chu đáo hơn. Bà cầm thuốc thơm trong tay và đầu óc chỉ nghĩ đến thân thể đã
nằm yên bất động. Nói tắt một lời: Bà đến mồ chỉ để tìm xác chết. Một tâm trạng
như thế, thấy mồ trống không, bà khó có thể nhận ra tức thì Chúa Giêsu đã sống
lại.
Còn Phêrô, ông đã sợ hãi. Ông đã chối Thầy của mình trong giờ
phút Thầy bị hành hạ nhục nhã vì ông sợ bị liên lụy. Thầy đã chết và nằm yên
trong mồ. Điều ông mong muốn lúc đó là xin đừng có gì rắc rối xảy ra nữa, xin
được hai chữ "bình yên". Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác này.
Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo âu trong đầu. Ông lo nhóm nào đó sau khi giết
Thầy lại tìm cách phá rối các tông đồ để kết án họ và xử tử họ nữa chăng. Ông
là trưởng nhóm, vậy ông chạy đến mồ để quan sát những gì đã xảy ra. Vậy ông
chạy đến mồ mà trong lòng chỉ lo nghĩ đến việc tại sao thế này, tại sao thế nọ
để tìm cách đối phó. Với tâm trạng đó, Phêrô khó có thể nhận ra Chúa Giêsu đã
sống lại.
Phần Gioan, ông yêu thương Chúa Giêsu và ông biết rằng Chúa
Giêsu đã yêu thương ông. Trong Phúc Âm, khi ông viết một điều gì có đề cập đến
mình trong đó, thánh Gioan luôn dùng kiểu nói "người môn đệ Chúa Giêsu yêu
mến". Thánh Gioan đã yêu mến Chúa Giêsu thật sự, tình yêu mến đó đã thể
hiện ra bên ngoài, nhất là trong những giây phút cuối cùng của Chúa Giêsu.
Thánh Gioan đã theo chân Chúa Giêsu trên con đường thập giá và là tông đồ duy
nhất đứng dưới chân thánh giá cho đến giờ phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với
Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa Giêsu. Kinh nghiệm cho thấy, khi yêu ai thì
ta luôn nghĩ đến người ấy, luôn cảm thấy sự hiện diện của người ấy trong cuộc
đời mình cho dù hoàn cảnh bắt buộc phải xa nhau. Thánh Gioan luôn nhớ lại lời
giảng dạy của Thầy trong lòng và hy vọng Thầy sẽ sống lại vì Thầy đã báo trước.
Với cái nhìn đó, Gioan đã nhận ra dễ dàng sự kiện sống lại. Ông đã thấy và ông
đã tin.
Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ ràng rằng: Tình yêu dẫn đến đức
tin. Những lo âu trần gian như lo lắng của Maria Mađalêna đi tìm xác chết không
vượt lên được. Những suy tư, lý luận lo âu của Phêrô đã không đưa đến đâu. Chỉ
có tình yêu Chúa Giêsu của thánh Gioan đã đưa ông nhanh chóng đến đức tin vào
Chúa Giêsu Phục Sinh.
Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta cùng tìm Chúa, chúng ta
có thể cảm thấy sự hiện diện của Chúa, chúng ta có thể hiểu được ý nghĩa của
mọi biến cố trong cuộc đời mình nếu chúng ta noi gương Gioan, để cho lòng trí
mình luôn tiến trên con đường tình yêu Chúa.
9. Chúa đã sống lại – Radio Veritas Asia.
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Trong đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan chúng ta vừa đọc trên đây,
tác giả chỉ nhắc đến bà Maria Madalena, nhưng qua ba Tin Mừng Nhất Lãm, chúng
ta biết có thêm một vài người nữ cùng ra mộ Chúa Giêsu với bà. Các bà đi đến mộ
và hốt hoảng khi thấy tảng đá chặn cửa mộ đã bị mở ra. Tại sao có chuyện kỳ cục
như thế? Có ai muốn phá rối chăng? Bà Maria Madalena vội vàng chạy về báo tin
cho Phêrô và người môn đệ Chúa Giêsu thương mến. Hai ông hối hả chạy đến mộ,
hai ông đã thấy mộ trống với các khăn liệm còn lại ở đó, nhưng họ chẳng thấy
xác Ngài đâu. Nhìn thấy quang cảnh, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến biết
rằng Thầy đã sống lại như lời Thầy đã nói.
Ngôi mộ trống là một dấu chỉ mà Chúa Giêsu gửi đến các môn đệ
sáng ngày hôm đó. Đứng trước ngôi mộ trống, mỗi người có một phản ứng khác
nhau. Các bà thì hoảng hốt, chạy về nhờ cậy các ông tới cứu. Ông Phêrô thì ngạc
nhiên về sự việc xảy ra. Còn người môn đệ Chúa Giêsu thương mến thì tin rằng
Thầy đã sống lại. Chúa đã sống lại thật. Allêluia.
Sự thật này có sức mạnh biến đổi cuộc đời chúng ta, đưa chúng ta
ra khỏi bóng tối của sự sợ sệt, của nghi nan, để sống đến cùng đức tin của mình
vào Chúa Kitô. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác
nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau.
Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng
trước ngôi mộ trống của Chúa Giêsu, đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm
câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin
Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của
biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối
diện với đức tin của chính mình.
Như nhóm người cùng đi đến mộ Chúa Giêsu sáng sớm hôm ấy, chúng
ta cùng hiệp thông với nhau nhưng không thể quyết định thay thế cho nhau. Giáo
Hội khuyên chúng ta phải trả lời những câu hỏi về đức tin đặt ra cho chính
mình. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ
trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ.
Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta
khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc.
Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra
không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Đức tin
dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế
lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc
mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Đức
tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế
lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở
đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải
theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu
trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay
vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người.
Người gởi đến cho chúng ta những mật thư, những dấu chỉ, những lời nói, những
biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Muốn tìm ra lời đáp, chúng ta phải giải
mã những tín hiệu này.
Khi nhìn thấy ngôi mộ trống, người môn đệ Chúa Giêsu thương mến
nhanh chóng nhận ra rằng Thầy mình đã sống lại, ông không nhìn bằng đôi mắt nhưng
đã nhìn bằng con tim. Tác giả Tin Mừng theo thánh Gioan đã kín đáo không nêu
tên người môn đệ này, nhưng truyền thống Giáo Hội vẫn cho đó chính là tông đồ
Gioan. Ông là người được Chúa Giêsu yêu thương cách đặc biệt và ông cũng đáp
lại Thầy mình với tình yêu thương nồng nàn. Chính tình yêu này mách bảo cho ông
biết đích xác chuyện gì đã xảy ra với Thầy. Tình yêu hun đúc niềm tin và niềm
tin giữ cho tình yêu luôn kiên vững.
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, nhiều lúc con phải giải mã các tín
hiệu mà Chúa gởi đến cho con trong cuộc sống. Xin Chúa giúp con luôn trung kiên
trong tình yêu, để con nhanh chóng nhận ra sứ điệp mà Chúa muốn gởi đến cho con
trước ngôi mộ trống của Chúa, xin cho con vững tin rằng Chúa đã sống lại thật.
Allêluia.
10. Sự nhầm lẫn – Lm Jos Tạ Duy Tuyền.
(Trích trong 'Cùng Nhau Suy Niệm')
Người ta kể rằng: ở một cửa hàng bán hoa vừa xảy ra một sự nhầm
lẫn thật ngộ nghĩnh. Ngày hôm đó, người bán hoa làm hai lẵng hoa cho hai khách
hàng khác nhau. Một là để chúc mừng ngân hàng mới mở thêm một chi nhánh mới, và
một là để chia buồn cho một đám tang. Thế nhưng, hai tấm thiệp đính kèm hai bó
hoa bị đặt lộn, thành ra lẵng hoa gửi cho đám tang lại nhận được lời chúc:
"chúc mừng khai trương cơ sở mới". Ngược lại, thiệp trao cho ngân
hàng lại ghi hàng chữ: "Thành thật chia buồn".
Xem ra sự nhầm lẫn này tuy không hợp tình nhưng lại hợp lý. Vì
đời là bể khổ. Ra khỏi cuộc đời là thoát khỏi khổ luỵ trần gian. Chết là lìa bỏ
chỗ ở dưới đất mà lên trời. Chết là bỏ trần gian với bao bon chen vật lộn để về
quê trời vĩnh cữu không còn khổ luỵ của tham sân si phàm trần. Chết là về nhà
cha trong niềm vui của đứa con xa nhà nay được hồi hương trở về. Như vậy, chết
là vui mừng chứ không còn là thương tiếc. Ai lại thương tiếc khi một đứa con xa
nhà nay trở về? Ai lại buồn khi được đoàn tụ bên Cha trên trời?
Truyền thống văn hoá Việt Nam vẫn tin rằng: chết là sự trở về,
là quy tiên, là trở về nơi mình đã xuất phát ra đi. Ngày xưa tại các nghĩa
trang miền quê, người ta thường chôn người chết dưới lòng đất và vun phần trên thành
hình một người phụ nữ mang thai. Điều này ngụ ý về một cuộc trở về với lòng đất
mẹ. Chính nơi lòng mẹ, ta đã sinh ra. Đó là nơi kín đáo nhất, ấm cúng nhất. Khi
chết là trở về nơi lòng đất mẹ cũng là nơi kín đáo và ấm cúng. Như thế, nấm mồ
không phải là dấu chỉ về một con người đã chết dưới lòng đất lạnh mà là dấu chỉ
cho cuộc trở về nguồn cội đích thực của mình, về nơi mà mình đã xuất phát ra
đi.
Hôm nay, các người phụ nữ đến bên nấm mồ của Chúa. Họ đã kinh
ngạc và hãi hùng. Vì tảng đá che cửa mộ đã bị bật tung ra ngoài. Họ vào trong
nhưng không thấy gì. Họ tưởng rằng xác Chúa đã bị ai đó lấy đi. Họ tìm kiếm
nhưng vô vọng. Họ thấy một người mặc áo trắng, tưởng là người làm công nên mới
hỏi: "Ai đã lấy xác Chúa tôi rồi?". Nhưng các bà lại nghe một lời mà
chưa bao giờ được nghe: "Tại sao các bà lại tìm người sống ở giữa kẻ chết?
Người đã trỗi dạy và ra khỏi mồ". Nấm mồ này và khăn liệm này đã không còn
dùng để phủ kín một đời người nữa! Nó không có ích cho người còn sống, có chăng
là dấu chỉ cho sự thật hiển nhiên là Chúa đã sống lại từ trong cõi chết. Người
không còn ở đây. Người đã ra khỏi mồ. Hãy đi báo tin cho các môn đệ và Người sẽ
gặp các ông tại Ga-li-lê-a.
Vâng, Chúa đã phục sinh. Nấm mồ của sự chết đã bị bật tung. Sự
lặng vắng cô quạnh của đêm tối sự chết đã bị đẩy lùi bằng ánh sáng phục sinh
huy hoàng. Con người sinh ra không phải để chờ chết như bao người lầm tưởng.
Sinh ra - lớn lên - gia nua - rồi chết. Thế là hết một cuộc đời. Sứ điệp phục
sinh cho chúng ta hiểu rằng: con người sinh ra là bước vào một cuộc hành trình
tiền về nhà cha. Nơi mà ngày xưa Adam - Eva đã từ đó ra đi, nay nhờ cuộc Tử Nạn
và Phục sinh của Chúa khai mở cho chúng ta con đường trờ về Nhà Cha. Chúa Phục
sinh. Cửa trời rộng mở. Con người có thể hành hương về trời. Về với hạnh phúc
bất diệt, là nơi "không còn sự chết, không còn than khóc đau thương
nữa". Nơi đó, không còn đêm tối, không còn những cuộc chia ly từ biệt,
cũng không còn nước mắt nhớ thương.
Hôm nay Chúa đã phục sinh. Lòng chúng ta hãy trào dâng niềm hân
hoan vì Chúa đã về nhà Cha. Ngài đã hứa thiên đàng cho người trộm lành. Ngài
cũng hứa thiên đàng cho những ai tin theo Ngài: "Ta đi để dọn chỗ cho các
con, để Thầy ở đâu các con cũng ở đó với Thầy". Đó chính là nền tảng niềm
tin của chúng ta. Chúng ta tin vào Đấng hằng sống để chúng ta được sống muôn
đời.
Ước gì niềm vui Phục sinh sẽ biến đổi chúng ta thành con người
mới. Con người của ân sủng. Con người của tự do không bị những đam mê thấp hèn
thống trị, không bị những thói đời gian dối làm mất đi vẻ đẹp của phẩm giá cao
quý của con người được tạo dựng giống hình ảnh Chúa. Ước gì niềm tin Chúa đã
phục sinh giúp chúng ta biết chiến đấu mỗi ngày để chiến thắng cái ác, chiến
thắng tật xấu bằng những hy sinh khổ chế, bằng cuộc sống bác ái yêu thương để
mai này chúng ta cũng được phục sinh vinh hiển với Chúa. Nguyện xin Chúa là
Đấng đã phục sinh từ cõi chết nâng đỡ chúng ta trên đường thánh giá hôm nay, để
ngày sau chúng ta cùng được chung hưởng hạnh phúc quê trời. Amen.
11. Người đã trỗi dậy rồi
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Có vẻ sau cái chết của Thầy Giêsu chẳng ai buồn nghĩ đến chuyện
Thầy sẽ sống lại.
Các phụ nữ chỉ quan tâm đến việc xức xác Thầy. Nhưng khi thấy
ngôi mộ trống trơn, họ phân vân và bối rối không hiểu.
Là những Kitô hữu ngoan đạo, chúng ta thấy mình quá quen với
chuyện Chúa phục sinh, đến độ coi đó là chuyện tự nhiên. Chính vì thế ta không
cảm được nỗi lo lắng, ngỡ ngàng của các phụ nữ và các môn đệ vào buổi sáng tinh
mơ của ngày thứ nhất.
Các bà chẳng biết làm gì với số thuốc thơm đã chuẩn bị. Cửa mộ
đã mở toang, thi hài Thầy đâu còn.
Nếu sứ thần không hiện ra giải thích thì ngôi mộ trống vẫn là
một bí ẩn khôn dò.
Khi các bà trở về kể lại cho Nhóm Mười Một những gì đã xảy ra
ngoài mộ đá, các ông đã không tin, cho là chuyện lẩn thẩn. Có lẽ ho nghĩ các
phụ nữ là người yếu bóng vía. Làm gì có chuyện sứ thần bảo là Thầy đã phục
sinh!
Phêrô đứng lên chạy ra mộ (Lc 24,12).
Ông cũng thấy như các phụ nữ kể lại. Nhưng ông chỉ kinh ngạc
thôi, chứ không tin.
Quả thật tin Thầy đã sống lại là điều khó, dù Đức Giêsu đã báo
trước nhiều lần về cái chết và sự phục sinh của Ngài.
Các môn đệ chỉ nhớ được nửa đầu của lời loan báo.
Dường như nỗi đau quá lớn làm họ mau quên, vì thế sứ thần hiện
ra là để nhắc cho họ nhớ (c.6), và họ đã nhớ lại những gì Ngài dạy (c.8).
Đức Giêsu phục sinh hiện ra cũng nhắc cho họ nhớ (c.44).
Về sau Thánh Thần cũng sẽ làm công việc này, đó là nhắc cho họ
nhớ mọi lời Đức Giêsu đã nói (Ga 14,26).
Nhắc nhớ là nối quá khứ với hiện tại và tương lai.
Quá khứ bị ám ảnh bởi cái chết đau thương. Chúng ta dễ bị sa lầy
trong quá khứ u buồn, không còn khả năng để hy vọng và vui sống.
"Sao các bà lại tìm Người Sống ở nơi kẻ chết".
Đức Giêsu đã mở tung cửa mộ vào sáng phục sinh. Muốn gặp được
Ngài, phải tìm Ngài ở ngoài phần mộ.
Kitô giáo không kết thúc bằng thập giá và phần mộ.
Đức Giêsu bây giờ là Đấng tràn trề sự sống mới. Xác Ngài không
còn nằm đó, nhưng đã chỗi dậy.
Ngài vẫn đi với ta trên cùng một con đường. Ngài đến khi cả đêm
ta không được một con cá nhỏ. Ngài ở lại nhà ta khi ta đóng cửa vì sợ hãi.
Chúng ta vẫn thường tìm sai địa chỉ của Ngài, bởi chúng ta không
tin Ngài đã sống lại thật.
Nếu chúng ta tin Ngài là Sự Sống và là Nguồn Sống, cuộc đời
chúng ta sẽ chẳng như xưa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Cuộc đời con người kết thúc nơi nấm mộ. Nhưng người Kitô hữu lại
tin nấm mộ là nơi sự sống mới nẩy mầm. Con người sinh ra là để sống mãi. Riêng
bạn, tại sao bạn tin có cuộc sống đời sau? Niềm tin đó có ảnh hưởng gì trên
cuộc sống đời này không?
Lễ Giáng Sinh và lễ Phục Sinh, theo bạn, lễ nào vui hơn, lễ nào
lớn hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt, xin hãy gọi tên
chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc, xin hãy đi với chúng con trên
dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi, xin hãy đến và đứng giữa chúng
con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em, xin hãy kiên nhẫn và
khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì, xin hãy dọn bữa
sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con
tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
12. Mặt trời hé mọc
Suy Niệm
Để hiểu sâu mầu nhiệm Vượt qua, chúng ta cần dừng lại thật lâu
bên mộ Chúa. Một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai (x. Ga 19,41). Ngôi mộ này của
ông Giô-xép, người trong Thượng Hội Đồng, và cũng là một môn đệ âm thầm của Đức
Giêsu. Ông đã đến xin xác và tẩm liệm Thầy cẩn thận.
Hãy đến thăm mộ và ngày thứ bảy, không có ai. Ngôi mộ nằm im lìm
như trăm ngàn ngôi mộ khác. Một tảng đá to ngạo nghễ che cửa mồ.
Kẻ thù Chúa hả hê vui sướng vì đã nhổ được một cái gai. Tử thần
đắc ý vỗ tay reo vì Đấng là Sự Sống đã bị nuốt chửng.
Xác Đức Giêsu nằm trong mộ, tối tăm, như hạt lúa ủ trong lòng
đất. Có ai nghe được tiếng hạt giống cựa mình? Có ai thấy được một mầm non đang
nhú?
Đêm dài quá! Ba phụ nữ chỉ mong cho chóng sáng. Họ thấp thỏm
không ngủ được, chỉ nghĩ đến ngôi mộ, với xác của Thầy nằm đó.
Và khi loé lên những tia nắng đầu tiên của mặt trời, thì cả ba
đã sẵn sàng ra thăm mộ, với dầu thơm vừa mua được để ướp xác.
Khi đi đường, họ chỉ có một nỗi bận tâm: "Ai sẽ lăn giùm
tảng đá ra cho chúng ta?" Tảng đá to thật là một trở ngại. Nhưng lạ thay,
khi đến nơi, các bà thấy tảng đá được lăn ra một bên rồi, và xác của Thầy cũng
không còn ở chỗ cũ. Sứ thần Chúa loan báo Tin Mừng: Đấng bị đóng đinh đã chỗi
dậy rồi, Ngài hẹn gặp lại các môn đệ tại Galilê.
Từ ngôi mộ, từ tối tăm, chết chóc, rữa nát, sự sống đã bật dậy,
làm bàng hoàng sửng sốt.
Không cần phải lăn tảng đá. Không cần phải xức dầu thơm.
Cửa mộ đã mở toang, vì ngôi mộ không thể chứa được Đấng đang
sống, Đấng đang đến để nối lại một cái hẹn.
Vẫn có những ngôi mộ trong đời ta.
Những ngôi mộ chôn vùi bao ước mơ, hy vọng, bao điều chúng ta
yêu mến và ấp ủ. Chúng như dấu hiệu của những đổ vỡ, đớn đau. Ta có chờ gì nơi
đó, hay chỉ biết tiếc nuối?
Chỉ sự phục sinh của Đức Kitô mới làm ta tin rằng chẳng có mất
mát, khổ đau, thất bại nào lại không thể làm ta lớn lên và cứng cáp.
Ước gì giữa nước mắt, ta cảm nghiệm được niềm vui, dám chôn đi
điều phải chôn, mất đi điều phải mất.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có những tảng đá chắn ngang, khiến đời tôi như ngôi mộ khép kín.
Hiện nay có điều gì khiến bạn cảm thấy bị nghẽn lối, đi vào ngõ cụt? Tin Mừng
Phục Sinh có giúp bạn ra khỏi không?
Đức Giêsu chỉ phục sinh sau khi đã chết và được mai táng. Bạn
thấy mình có những điều cần phải chôn, cần phải quên, cần phải từ bỏ không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
Xin ban cho con sự sống của Chúa, sự sống làm đời con mãi mãi
xanh tươi.
Xin ban cho con bình an của Chúa, bình an làm con vững tâm giữa
sóng gió cuộc đời.
Xin ban cho con niềm vui của Chúa, niềm vui làm khuôn mặt con
luôn tươi tắn.
Xin ban cho con hy vọng của Chúa, hy vọng làm con lại hăng hái
lên đường.
Xin ban cho con Thánh Thần của Chúa, Thánh Thần mỗi ngày làm mới
lại đời con.
13. Ngôi mộ trống.
Tại một nghĩa trang bên Đức, có mội ngôi mộ rất được chú ý, đó
là ngôi mộ được làm bằng đá hoa cương, bên dưới đúc xi măng cột sắt rất kiên
cố. Ngôi mộ được nhiều người chú ý vì đó là ngôi mộ của một người đàn bà giàu
có. Trong chúc thư, bà yêu cầu người ta xây cho bà một ngôi mộ kiên cố, để nếu
có sự sống lại của người chết, thì bà vẫn nằm yên dưới mộ. Trên mộ, bà ta xin
được ghi: "Đây là ngôi mộ sẽ không bao giờ mở ra".
Thời gian trôi qua, ngôi mộ xem ra vẫn kiên cố. Thế nhưng một
hôm có một hạt giống rơi vào khe đá của ngôi mộ, gặp đất bên dưới, nó bắt đầu
nẩy mầm, lớn lên thành cây, rễ của nó đâm xuyên qua ngôi mộ để rồi cuối cùng
làm cho quan tài của người đàn bà vỡ ra.
Câu truyện trên đây có thể là một dụ ngôn về tình yêu vô bờ của
Thiên Chúa đối với con người, khi Ngài cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết để mở
lối cho con người vào sự sống vĩnh cửu với Ngài. Con người có thể chối bỏ và
khước từ Thiên Chúa, nhưng với muôn ngàn cách thế mà con người khôn lường được,
Thiên Chúa vẫn tiếp tục theo đuổi con người. Con người tưởng mình có thể lẩn
trốn được Thiên Chúa, nhưng khi một hạt giống nhỏ bé, tình yêu của Ngài vẫn
tiếp tục len lỏi vào tâm hồn của con người. Thiên Chúa là Chúa của sự sống.
Vinh quang, danh dự và niềm vui của ngài là con người được sống. Cho dù con
người có loại bỏ Thiên Chúa để đi tìm cái chết, ngài vẫn đeo duổi và chờ đợi
con người.
Anh chị em thân mến,
Chúa Giêsu đi vào cõi chết của con người. Người ta đã chôn ngài
trong mộ đá. Nhưng rồi sang ngày thứ nhất trong tuần, người ta không thấy xác
Ngài ở đó nữa. Bà Maria Mađalêna ra thăm mộ đã hoảng hốt kêu lên: "Người
ta đã lấy mất xác thầy rồi!" Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mộ kiểm
chứng. Hai ông thấy ngôi mộ mở toang. Nhì vào trong thấy khăn liệm còn đó,
nhưng xác Ngài đã biến mất. Phêrô im lặng suy nghĩ, còn Gioan, người môn đệ
Chúa yêu đã thấy và đã tin: "Đúng như Thầy đã nói, Thầy đã sống lại thật
rồi".
Thưa anh chị em,
Tất cả khởi đầu với ngôi mộ trống. Nhưng nếu chỉ có ngôi mộ
trống mà thôi thì cũng chẳng làm nên chuyện. Câu chuyện chỉ thực sự có ý nghĩa
khi nó có nội dung, và nội dung ở đây là: "Ngài không còn ở trong mộ nữa,
vì Ngài đã sống lại như Ngài đã nói". Từ ngôi mộ ấy đã bật lên sự sống. Đó
là niềm tin của chúng ta. Cả cuộc đời Kitô hữu là những cuộc mai táng liên tục,
nhưng caí chết và từ bỏ liên tục. Đừng sợ những ngôi mộ. Đừng sợ chôn đi điều
phải chôn, mất đi điều phải mất. Đừng sợ bị thối rữa hay bị tảng đá to che chặt
đời mình. Ước gì mọi ngôi mộ của chúng ta cũng giống như ngôi mộ của Chúa
Giêsu: bị mở tung để sự sống bừng dậy.
Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì mọi sự sẽ vẫn như cũ: sự
sống có nghĩa lý gì, nếu bao giờ nó cũng kết liễu bằng cái chết như một trái
thúi rơi nát dưới gốc cây? Con người có nghĩa là gì, nếu mọi cố gắng đạt hạnh
phúc chỉ bảo tồn được ảo tưởng của hạnh phúc, của những hạnh phúc luôn bị cái
chết đe dọa từ bên trong? Tình yêu có nghĩa là gì, nếu mọi cú sét ái tình sẽ
tắt nghẽn trên nấm mộ phân ly? Sống mà giả quên sự chết hiện diện khắp nơi,
phải chăng là một trò chơi không xứng với một con người? Trò chơi của cuộc sống
ấy sẽ phi lý và thất vọng, nếu Chúa Kitô đã không sống lại.
Thánh Phaolô đã nói: Nếu Chúa Kitô đã không sống lại, thì chúng
ta là những người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một
chuyện hão huyền. Nếu Chúa Kitô đã không sống lại thì chúng ta vẫn còn mang tội
lỗi ở trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng ta đến
gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu
của nhục nhã, đau khổ của con người sẽ không có lối thoát và cái chết của con
người sẽ là đường cùng, là ngõ cụt. (x. 1Cr 15,12tt)
Nhưng, Chúa Kitô đã sống lại thật rồi. Ngài đã đem theo những
đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng. Ngài đã làm cho những quằn
quại đau thương của người sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người
mẹ đang sinh con, nỗi đau sẽ phát sinh sự sống mới, một niềm vui mới. Ngài đã
làm cho cuộc sống trần gian không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản ảnh và
là con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu.
Đức Kitô đã sống lại: Từ nay thập giá không còn là dấu hiệu của
nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Chúa Kitô đã sống lại, cái chết của
con người không còn là đường cùng, là ngõ cụt, vì ánh sáng của Chúa Kitô đã
bừng lên trong đêm tối, đã chiếu sáng ở cuối con đường hầm. Chúa Kitô đã sống
lại, niềm hy vọng Phục Sinh của thân xác chúng ta không phải là hão huyền, vì
Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài đang điều khiển giòng lịch sử và khi
Ngài xuất hiện trong vinh quang, thì chúng ta cũng được xuất hiện trong vinh
quan cùng với Ngài.
Chúa Kitô là người chiến thắng chung quyết trên đau khổ, tội lỗi
và sự chết. Trong Ngài, mỗi người và cả nhân loại, quá khứ, hiện tại và tương
lai đều phải chết và đã sống lại. Không còn người nào, không còn một tội nào,
không còn một giây phút nào của cuộc sống chúng ta thoát khỏi cuộc chiến thắng
của Chúa Kitô. Không có gì nằm ở ngoài cuộc cứu độ mà Chúa Kitô đã vĩnh viễn
hoàn thành. Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Anh chị em thân mến,
Chúa Kitô đã Phục Sinh, Ngài đang sống trong vinh quang của Chúa
Cha. Chính vì chúng ta tin rằng chúng ta đã được Phục Sinh trong Chúa Kitô và
sau này sẽ được Phục Sinh như Ngài, nên chúng ta đón nhận cuộc đời, kể cả đau
khổ và cái chết, một cách tích cực, chủ động và vui tươi. Đau khổ không còn phi
lý nữa, bởi vì thập giá đã được đưa vào vinh quang Phục Sinh. Không còn gì là
tuyệt đối bi đát, tuyệt đối hư hỏng, vì từ cái chết, Thiên Chúa đã làm phát
sinh sự sống trong Chúa Kitô. Nếu chúng ta đã tin vào sự Phục Sinh, vào chiến
thắng chung quyết của Chúa Kitô, thì chúng ta sẽ không còn lo âu buồn phiền,
không còn sống ích kỷ hẹp hòi, mà dám từ bỏ, hy sinh, xả thân, liều mạng vì sự
sống và hạnh phúc của mọi người. Phục Sinh không chỉ nhằm ngày mai, nhằm bên
kia thế giới, nhằm thiên đàng đã được hứa ban. Phục Sinh cũng nhằm và còn nhằm
hôm nay, nhằm chính cuộc sống cụ thể của chúng ta.
Chúng ta có thể thực hiện trước kỳ hạn lễ Vượt Qua của chúng ta
trên miền đất chúng ta đang sống hằng ngày bằng cách sống cho tình yêu, chết vì
tình yêu: yêu Chúa, yêu anh em, yêu quê hương, yêu đồng bào, đó phải là chương
trình mới của cuộc sống vượt qua của chúng ta ở cõi đời này: chương trình Phục
Sinh.
14. Ông đã thấy và đã tin.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Niềm vui phục sinh khởi sự bằng thái độ hốt hoảng.
Tảng đá che cửa mộ đã bị ai đó lăn ra.
Xác của Thầy đặt bên trong đã biến mất.
Thật là chuyện kinh khủng đối với bà Maria Macđala!
Bà đã đi thăm mộ lúc trời còn tối.
Có lẽ cả đêm qua bà không chợp mắt được, chỉ mong cho chóng sáng
để lên đường.
Ai có thể hiểu được trái tim của bà?
Tình yêu đã khiến bà đứng dưới chân thập giá (Ga 19,25) và tham
dự cuộc mai táng Thầy Giêsu (Mt 27,61).
Bây giờ tình yêu ấy lại thúc đẩy bà ra mộ trước tiên, trước cả
người môn đệ được Đức Giêsu thương mến...
Maria hốt hoảng chạy về báo tin cho hai môn đệ.
Bà nghĩ chắc có kẻ đã ăn cắp xác Thầy.
Vấn đề duy nhất làm bà âu lo khắc khoải, đó là họ đang để Người
ở đâu (Ga 20,2.13.15).
Bà cần biết chỗ đó, để lấy ngay xác về.
Maria chẳng nghĩ gì đến chuyện Chúa phục sinh, bà chỉ mong tìm
lại xác của Thầy đã chết.
Maria chạy về để kéo theo Phêrô và Gioan chạy đến mộ, những bước
chân hối hả vội vàng.
Chỉ có ngôi mộ trống và những băng vải đặt ở đó, còn khăn che
đầu thì được cuốn lại, xếp riêng.
Thấy mọi điều đó, Gioan tin rằng Thầy đã phục sinh.
Chẳng ai ăn cắp xác mà để lại gọn ghẽ khăn vải liệm.
Chúng ta cần có lòng mến thiết tha của bà Maria Macđala, nhưng
cũng cần có sự nhạy cảm để tin như Gioan.
Khi tin, người ta khám phá ra ý nghĩa của các biến cố: ý nghĩa
của cái chết bi đát trên núi sọ, ý nghĩa của ngôi mộ trống và tấm khăn xếp gọn
gàng.
Chúng ta cần có lòng tin để khỏi rơi vào sự thất vọng hay hốt
hoảng, trước những thất bại, đổ vỡ mất mát trong cuộc đời.
Đời chúng ta lắm khi giống ngôi mộ trống trải.
Những gì chúng ta yêu quý nay chẳng còn.
Chúng ta đôn đáo kiếm tìm điều đã mất, trong nước mắt đau khổ
như bà Maria (Ga 20,11)
Nhưng nếu xác Đức Giêsu cứ nằm yên trong mồ, để cho bà Maria đến
thăm viếng, thì làm gì có chuyện Chúa phục sinh?
Phiến đá cửa mộ không giữ được Ngài, những băng vải không ngăn
được Ngài ra đi.
Sự sống bật dậy từ tro tàn của cái chết.
Ánh sáng bừng lên từ bóng tối mịt mù.
Tình yêu thắng trận khi tưởng như bị hận thù nuốt chửng.
Niềm vui phục sinh là quà tặng bất ngờ cho Maria.
Bà sẽ chẳng bao giờ tìm thấy xác Thầy trong mộ đâu, nhưng bà sẽ
gặp chính Đấng Phục Sinh ở ngoài mộ đá.
Gợi Ý Chia Sẻ
1. Trong cuộc khổ nạn, Đức Giêsu đã vui lòng mất tất cả: danh
vọng và mạng sống; nhưng rồi Ngài đã lấy lại được tất cả. Bạn có dám tin rằng
cuối cùng, tình yêu sẽ thắng hận thù, ánh sáng sẽ thắng bóng tối, chân lý sẽ
thắng sự dối trá không?
2. Chúa Giêsu đã phục sinh và hiện ra với các môn đệ. Đời của họ
giở sang một trang mới. Đời của bạn có đổi khác vì tin rằng Chúa đã phục sinh
không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa phục sinh, vì Chúa đã phục sinh nên con thấy mình chẳng
còn gì phải sợ.
Vì Chúa đã phục sinh nên con được tự do bay cao, không bị nỗi sợ
hãi của phận người chi phối, sợ thất bại, sợ khổ đau, sợ nhục nhã và cái chết
lúc tuổi đời dang dở.
Vì Chúa đã phục sinh nên con hiểu cái liều của người Kitô hữu là
cái liều chín chắn và có cơ sở.
Cái liều của những nữ tu phục vụ ở trại phong.
Cái liều của cha Kolbê chết thay cho người khác.
Cái liều của bậc cha ông đã hiến mình vì Đạo.
Sự phục sinh của Chúa là một lời mời gọi mang một sức thu hút
mãnh liệt khiến con đổi cái nhìn về cuộc đời: nhìn tất cả từ trên cao để nhận
ra giá trị thực sự của từng thụ tạo.
Sự phục sinh của Chúa giúp con dám sống tận tình hơn với Chúa và
với mọi người. Và con hiểu mình chẳng mất gì, nhưng lại được tất cả.
15. Phục Sinh.
Có một chàng sinh viên, vừa thất bại trong việc học hành, lại
vừa thất bại trong tình yêu của mình. Buồn chán, tối hôm đó, chàng đi lang
thang ngoài bãi biển. Chàng ngồi nơi mỏm đá nhìn những ngọn sóng xô vào bờ dưới
ánh trăng. Thế rồi, những chuyện đau buồn dần dần chìm lắng. Tất cả dường như
đã qua đi. Chàng biết rằng: mặt trời lại sắp sửa mọc lên ở phương đông. Và khi
mặt trời mọc lên, chàng cảm thấy như đón nhận được một nguồn sinh lực mới. Mọi
dự tính ồ ạt trở về để rồi chàng đã quyết định một cách hăng say: sẽ bắt đầu
lại tất cả.
Từ mẩu chuyện này, chúng ta đi vào biến cố Phục sinh mà chúng ta
mừng kính hôm nay. Vậy biến cố này có ý nghĩa gì đối với chúng ta? Phục sinh có
nghĩa là cảm nghiệm được quyền năng của Chúa Giêsu đang biến đổi thảm cảnh cuộc
đời chúng ta trở thành một khởi đầu vinh quang đầy mới mẻ.
Đây cũng là điều đã xảy ra cho các môn đệ. Thực vậy, trước buổi
chiều ngày thứ sáu Tuần thánh, các môn đệ đã tìm thấy một hướng đi, một ý nghĩa
cho cuộc sống, các ông đã dâng hiến bản thân cho Ngài và đã đặt mọi ước mơ vào
Ngài.
Thế nhưng với cái chết của Ngài trên thập giá, thì mọi hy vọng,
mọi mơ ước đều tan theo mây khói. Và khi bóng tối buông xuống, thì cuộc đời các
ông dường như cũng bị chôn vùi trong lòng huyệt lạnh. Mọi sự thế là đã chấm
dứt. Tan vỡ và phá sản, có những ông đã vội vã trở về với làng xưa và nghề cũ,
như hai môn đệ trên đường đi Emmaus. Thế nhưng biến cố Phục sinh đã xảy ra và
làm đảo lộn tất cả. Mặt trời mọc lên và Đức Kitô đã sống lại.
Kể từ lúc đó, quyền năng của Đấng Phục sinh bắt đầu hoạt dộng và
biến đổi các ông. Từ một nhóm người tuyệt vọng, các ông trở thành một binh đoàn
thừa sai gan dạ. Theo lệnh Chúa, các ông đã lên đường loan báo Tin mừng Phục
sinh cho muôn dân.
Bất cứ nơi nào các ông rao giảng, thì quyền năng của Đấng Phục
sinh cũng đều hoạt động trong mọi người, như đã từng hoạt động trong chính các
ông. Và những điều kỳ diệu bắt đầu xảy ra. Tuyệt vọng đã nhường bước cho hy
vọng. Hận thù đã nhường bước cho thương yêu. Đau khổ đã nhường bước cho niềm
vui. Còn chúng ta, chúng ta phải làm gì để hưởng được những sự kỳ diệu ấy?
Trước hết, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy mở rộng cõi lòng
cho Đức Kitô để Ngài thực hiện nơi chúng ta những điều Ngài đã thực hiện cho
các môn đệ và cho những người nghe lời các ông giảng dạy.
Tiếp đến, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp
chúng ta biết yêu thương trở lại sau khi tình yêu của chúng ta đã bị ai đó
khước từ, đồng thời hãy để cho Đức Kitô giúp chúng ta tin tưởng trở lại sau khi
niềm tin của chúng ta đã bị ai đó phản bội, cũng như hãy để cho Đức Kitô giúp
chúng ta hy vọng trở lại sau khi chúng ta nhìn thấy niềm hy vọng của chúng ta
bị lung lay và tàn lụi.
Sau cùng, lễ Phục sinh kêu mời chúng ta hãy để cho Đức Kitô giúp
chúng ta lau khô những giọt nước mắt, tìm thấy nguồn sinh lực mới, sau khi đã
thất bại, đã khổ đau. Đó là ý nghĩa, là Tin mừng mà Đức Kitô Phục sinh đem lại
cho chúng ta.
16. Mầu nhiệm.
Chúa Giêsu Kitô, một vị tướng lãnh có một chiến lược hết sức ly
kỳ: lùi một bước để tiến hai bước, Ngài lùi để tiến mạnh mẽ và chắc chắn hơn,
Ngài nhượng bộ cho địch thù, để đang khi họ đàn hát vui mừng vì đã loại trừ
được một đối thủ nguy hiểm thì Ngài quay lại mà chiếm cuộc toàn thắng cuối
cùng, Ngài đã tự nộp mình cho những vua quan văn võ đạo đời về cả hai dân Do
Thái và Rôma, họ đã đối xử với Ngài như bọn sói rừng hung dữ xông vào cắn xé
con chiên hiền lành: đánh đập Ngài, bắt Ngài vác thập giá và căng thây Ngài
trên cái giá khổ hình đó, họ đã giết Ngài, chưa hết, một tên lính lại lấy lưỡi
đòng đâm thủng trái tim Ngài. Lẽ nào một người đã bị đâm thủng trái tim mà còn
sống được sao? Một người đã được chôn táng cẩn thận trong mộ đá mà còn sống
sao?
Đúng thế, đúng như Chúa đã báo trước nhiều lần: "Con Người
sẽ bị nộp cho kẻ gian ác, chúng sẽ giết Người, nhưng ngày thứ ba Người sẽ sống
lại". Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người tin
Chúa Kitô trên khắp thế giới đều hân hoan mừng cuộc chiến thắng khải hoàn của
Chúa Giêsu: Ngài đã sống lại, Ngài đã Phục sinh. Không có tác giả Tin Mừng nào
thuật lại chính sự việc Chúa sống lại: Ngài sống lại đích xác vào giờ nào và
như thế nào, điều đó không ai được biết, nhưng cả bốn sách Tin Mừng khi kể biến
cố Chúa Giêsu sống lại đều nhất trí về ba điều: Thứ nhất, thời gian sống lại là
sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, theo cách tính bây giờ là sáng sớm ngày Chúa
nhật. Thứ hai, sự việc xảy ra là mộ trống, Chúa Giêsu không còn ở trong mộ, có
những nhân vật chứng kiến sự kiện này là cô Maria Macđala, hai tông đồ thế giá
nhất là Phêrô và Gioan. Thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra nhiều lần với các tông đồ
và với nhiều người khác trong những hoàn cảnh khác nhau.
Quả thực, một con người có tên là Giêsu, và còn được gọi là
Kitô, đã từng khuấy động cả nước Do Thái, con người đó đã bị xét xử trong một
vụ án công khai làm xôn xao cả thủ đô Giêrusalem, liên hệ đến cả chính quyền
bảo hộ cao cấp nhất thời đó ở Palestine, con người đó đã bị giết chết trên thập
giá, được an táng trong mộ đá, và mộ đã được niêm phong cẩn thận có lính gác.
Thế rồi, đúng như đã nghe nói trước, ngày thứ ba sau khi chết, con người đó
không còn trong mộ, Ngài đã sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô
tiền khoáng hậu, độc nhất vô nhị, có một không hai trong lịch sử: Chúa Giêsu
Kitô Phục sinh.
Đây là một sự kiện minh giáo hùng hồn nhất, chứng tỏ sứ mệnh thần
linh của Chúa Giêsu, đồng thời đây cũng là một chân lý nòng cốt của đức tin
Công giáo, là nền tảng căn bản cho lâu đài đức tin của chúng ta: Chúa sống lại
mới cứu chuộc được nhân loại, nếu như Ngài chết luôn như các giáo chủ khác thì
Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta, nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ
Ngài là Thiên Chúa, là Thiên Chúa hằng sống và là nguồn sống, từ đó Ngài ban sự
sống cho tất cả mọi người, ai tin vào Ngài thì được sống đời đời.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Phục sinh không thể
minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một sự kiện tự nhiên, không
thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì cả nhân loại chỉ có một mình
thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm, kinh nghiệm, cho nên, việc Chúa
sống lại, vấn đề chính yếu là đức tin: không thấy mà tin, bởi vì sự việc đó
vượt trên phạm vi của khoa học thực nghiệm cũng như không thể nào dùng những lý
luận hay những bằng chứng khoa học để minh chứng. Tuy nhiên, khi xem xét hậu
quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người ta có thể nhận ra mầu nhiệm ấy chân
thật, vững chắc.
Hậu quả của niềm tin đó là Kitô giáo nói chung và Giáo Hội Công
giáo nói riêng. Nói rõ hơn, Kitô giáo chính là bằng chứng lịch sử cho sự kiện
Phục sinh của Chúa Kitô, chính sự kiện Chúa Kitô Phục sinh đã phát sinh ra Kitô
giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm Phục vinh vẫn là nền tảng của Kitô giáo,
không có Chúa Kitô Phục sinh không thể có Kitô giáo, hủy bỏ được Chúa Kitô Phục
sinh, đạo Kitô không còn. Lời thánh Phaolô xưa kia đã đúng, ngày nay vẫn đúng
và sẽ còn đúng mãi: "Nếu Đức Kitô không sống lại thì tất cả niềm tin của
chúng ta sụp đổ". Như vậy, tất cả những điều trên đây cho chúng ta biết:
mặc dầu Kinh Thánh đã cống hiến cho chúng ta một số bằng chứng về sự Phục sinh
của Chúa Kitô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả và nòng cốt này vẫn đòi hỏi chúng
ta phải có một niềm tin, hay đúng hơn, một đức tin. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi
chúng ta phải tin những điều Ngài giảng dạy và những việc Ngài làm nhân danh
Thiên Chúa, thì Ngài lại càng đòi hỏi chúng ta phải đặt niềm tin sắt son gắn bó
với mầu nhiệm Phục sinh, là cao điểm, là trung tâm điểm của toàn thể các mầu
nhiệm của Ngài.
Tóm lại, sự kiện Chúa Kitô Phục sinh là một trong những chân lý
đức tin, một mầu nhiệm. Đây là chân lý nền tảng cho cuộc sống đức tin và niềm
hy vọng của chúng ta. Chân lý đức tin này giúp cho chúng ta có một cái nhìn mới
về Thiên Chúa, về chính mình, về cuộc đời, về sự sống, sự chết, đời này, đời
sau, về lịch sử, về những biến cố thăng trầm... những cái nhìn mới ấy không
sách vở nào ban cho chúng ta được, mà chính mỗi người phải cảm nghiệm để hướng
dẫn và giúp chúng ta sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Như vậy cũng có nghĩa là
chúng ta đừng bao giờ hài lòng với một đức tin lý thuyết và hình thức, nhưng
phải sống một đức tin chân thật và thân ái. Nói rõ hơn, chính cách sống tốt đẹp
của chúng ta, như thực hành các việc đạo đức cho nghiêm chỉnh, sống hài hòa,
công bằng và yêu thương với mọi người... Sống như vậy là chúng ta đang thể hiện
niềm tin vào Chúa Kitô Phục sinh và sự phục sinh của chính mình.
17. Niềm vui Phục Sinh.
Niềm vui mà các tông đồ cảm nghiệm được trong ngày Phục sinh hẳn
phải lớn lao biết bao. Câu chuyện sau đây sẽ giúp chúng ta hiểu được phần nào
cảm hứng nơi niềm vui của họ:
Trong thế chiến thứ nhất, một người Nga Cô-dắc có hai cậu con
trai tên Peter và Gregory. Ngày kia, ông nhận được một lá thư từ tiền tuyến. Vì
không biết đọc, nên ông đã đưa cho cô con gái. Đó là lá thư từ viên sĩ quan chỉ
huy của Gregory, được mở đầu như sau: "Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông
biết rằng cậu con trai của ông là Gregory đã bị tử nạn trong khi thi hành công
vụ vào ngày 10 tháng 7. Gregory là một anh lính xuất sắc, và đã chết một cái
chết anh dũng. Ông có đủ lý do để tự hào về anh ấy..."
Tin này gây ra hậu quả ngay tức khắc và hoảng hốt đối với người
cha. Dường như ông bị suy kiệt một cách rõ rệt. Chỉ trong khoảng vài ngày, ông
già hẳn đi, gần như trong một đêm, mái tóc của ông đã ngả màu bạc. Trí nhớ của
ông bắt đầu xuống dốc, và thậm chí trí khôn của ông cũng bị ảnh hưởng. Ông bắt
đầu uống nhiều rượu.
Ông đặt lá thư đó bên dưới tượng thánh trong nhà bếp. Mỗi ngày,
ông đều lấy lá thư đó ra, và yêu cầu cô con gái của ông đọc lại. Nhưng ngay khi
cô bắt đầu đọc "Tôi rất tiếc khi báo tin cho ông rằng..." thì ông
liền lấy lá thư đó lại và cất đi. Sau khi vị linh mục ở địa phương dâng thánh
lễ cầu hồn cho con trai ông, thì ông cảm thấy hơi khá hơn.
Mười hai ngày qua đi trong tình trạng đó. Đến ngày thứ mười ba,
một lá thư thứ hai gửi về từ tiền tuyến. Lá thư này nói rằng con trai của ông
chưa chết! Anh chỉ bị thương, và bị bỏ mặc cho chết ở trên chiến trường. Sáng
hôm sau, anh đã bò suốt 4 dặm đường, để trở về hàng ngũ của anh, kéo lê theo
một sĩ quan cũng bị thương. Anh đã được phong quân hàm hạ sĩ, và được trọng
thưởng huy chương ghi nhận sự can đảm của anh. Cho đến nay, những vết thương
của anh đã được phục hồi tại bệnh viện, và anh sẽ sớm được trở về với gia đình.
Khi nghe đến đây, người cha sôi sục niềm vui, ông chộp lấy lá
thư, và đem vào làng. Ông chặn lại bất cứ người nào ông gặp gỡ trên đường, ép
từng người đọc lá thư đó. Ông giải thích "Con trai tôi vẫn còn sống! Nó đã
được trọng thưởng huy chương vì lòng can đảm của nó!".
Câu chuyện này đem đến cho chúng ta một số ý tưởng về niềm vui
mà các môn đệ cảm nghiệm được trong lễ Phục sinh đầu tiên. Nhưng cũng có những sự
khác biệt. Con trai của người Cô-dắc thực sự chưa chết. Đức Giêsu đã chết. Các
môn đệ đã chứng kiến tận mắt cái chết của Người. Lúc bấy giờ, ngôi mộ trống
trơn, và họ đã thấy Đức Giêsu vẫn sống! Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ rằng
sự sống lại không phải là trở về với cuộc sống trần thế – Đức Giêsu sống lại
với một sự sống mới vượt ra ngoài cái chết.
Niềm vui của họ sôi sục lên, vì Đức Giêsu, người đứng đầu và bạn
bè của họ, đã bẻ gãy những xiềng xích của sự chết bằng chính sức mạnh của Thiên
Chúa. Sự chết, kẻ thù cuối cùng và vĩ đại nhất, đã bị khuất phục nơi Người.
Niềm vui của các tông đồ cũng có nghĩa là niềm vui của cả chúng
ta nữa. Điều này không ngay tức khắc lấy đi khỏi chúng ta nỗi sợ hãi đối với
cái chết. Bởi vì chúng ta vẫn còn phải đi ngang qua cái chết. Nhưng chính bằng
cách đi ngang qua cái chết, mà Đức Giêsu đã khuất phục được nó. Như vậy, điều
này cũng dành cho chúng ta, là những kẻ tin tưởng nơi Người.
Nếu không có lễ Phục sinh, thì câu chuyện về Đức Giêsu sẽ chỉ
sáng hơn đôi chút, so với một ánh lửa lóe lên trong đêm tối mà thôi. Bóng tối
sẽ vẫn còn có tiếng nói sau cùng. Nhưng với sự sống lại, chúng ta biết rằng
bóng tối sẽ không có tiếng nói sau cùng nữa. Chúng ta đừng e ngại trong việc
tắm mình trong ánh sáng rạng ngời, mà Đức Kitô sống lại đã đưa vào thế giới
bóng tối và cái chết của chúng ta.
Chúng ta không bao giờ nên để cho bất cứ điều gì lấy đầy nỗi
buồn nơi chúng ta, đến nỗi chúng ta quên mất niềm vui Phục sinh, niềm vui của
Đức Kitô sống lại từ cõi chết.
18. Đức Kitô Phục Sinh niềm vui cuộc sống
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Giáo Hội Chính Thống có một truyền thống rất ý nghĩa về lễ Phục
Sinh: Sau Thánh Lễ mỗi người được phát cho một quả trứng gà đã được làm phép.
Khi đến chúc mừng lễ cho nhau, người ta đập vỡ quả trứng và nói: "Đức Kitô
đã sống lại". Người kia cũng đập quả trứng và đáp lại: "Quả thật, Đức
Kitô đã sống lại, Halleluia".
Ngày nay, ở các nước Âu Châu vào dịp lễ Phục Sinh, người ta vẫn
thấy trưng bày các quả trứng được trang trí tô vẽ đủ màu sắc rực rỡ, thậm chí có
cả những quả trứng chocolate lớn nhỏ đủ cỡ dành để làm quà tặng mừng Chúa Phục
Sinh.
Thưa anh chị em,
Quả trứng có vỡ ra, con gà mới có thể chào đời. Cũng thế, ngôi
mồ có mở ra, Đức Kitô mới sống lại từ cõi chết. Trước khi đập vỡ quả trứng để
chào đời, con gà đã phải ngủ vùi trong quả trứng. Cũng thế, Đức Kitô đã bị chôn
vùi trong mồ ba ngày rồi mới sống lại. Tin Mừng hôm nay đã cho chúng ta thấy
ngôi mồ trống và loan báo tin Đức Kitô đã sống lại.
Ngài đã chết. Người ta đã chôn Ngài trong mồ đá. Cửa mồ mở ra.
Xác Ngài không còn đó nữa. Maria Madalena hoảng hốt kêu lên; "Người ta đã
lấy mất xác Thầy rồi!". Hai môn đệ Phêrô và Gioan chạy ra mồ kiểm chứng.
Hai ông thấy mồ mở toang. Nhìn vào trong thấy khăn liệm còn đó, nhưng xác Ngài
đã biến mất. Gioan, người môn đệ Chúa yêu, đã thấy và đã tin: Chúa đã sống lại
thật như Ngài đã tiên báo.
Chúa đã sống lại. Chúa đã từ trong cõi chết sống lại. Ngài sống
lại thật sự chứ không phải chỉ sống trong tưởng tượng, trong lòng tin của chúng
ta, tuy chúng ta không thấy Ngài, tuy chúng ta chỉ nhận ra Ngài nhờ đức tin.
Nhưng Ngài đang sống thật, dù chúng ta không tin. Ngài cũng đang sống thật,
đang điều khiển dòng lịch sử.
Chúa Giêsu đã sống lại. Ngài không tỏ mình cho quần chúng từng
đi theo Ngài khi Ngài đi rao giảng, nhưng chỉ cho một số người được tuyển chọn
để làm chứng nhân. Họ đã được thấy Ngài Phục Sinh, được ăn uống với Ngài sau
khi Ngài từ cõi chết sống lại.
Người Do Thái không chịu tin, đút tiền cho lính canh để lấp
liếm. Người Hy Lạp cười khinh bỉ khi nghe Thánh Phêrô nói đến hai tiếng
"Phục Sinh". Nhưng đối với chúng ta thì Chúa Giêsu sống lại đem ý
nghĩa cho cuộc sống của chúng ta: Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta vẫn
còn mang tội lỗi trong mình và không ai giải cứu được chúng ta, không ai đem chúng
ta đến gặp Thiên Chúa được. Nếu Chúa Kitô không sống lại, chúng ta sẽ là những
người vô phúc nhất, ngu đần nhất, vì chúng ta đặt tin tưởng vào một chuyện hão
huyền. Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì thập giá chỉ là dấu hiệu của ô nhục,
những đau khổ của con người không có lối thoát và cái chết của con người là ngõ
cụt, là đường cùng.
Nhưng Chúa Kitô đã sống lại. Ngài đã cho chúng ta niềm hy vọng.
Ngài đã đem theo những đau khổ của loài người qua bên kia bờ tuyệt vọng, làm
cho những đau thương quằn quại của con người không còn là nỗi quằn quại của kẻ
sắp bị cái chết tiêu diệt, nhưng là nỗi đau của người mẹ đang sinh con, nỗi đau
làm phát sinh sự sống mới. Chúa Kitô đã sống lại, thập giá không còn là dấu
hiệu của ô nhục, nhưng là dấu hiệu của vinh quang. Tin Mừng theo Thánh Gioan
quan niệm thập giá là nơi Chúa Giêsu được tôn vinh. Cái "Giờ" mà Chúa
Giêsu vừa trông đợi vừa lo sợ, chính là giờ Ngài được giương cao trên thập giá
để kéo mọi người lên cùng Ngài. Chúa Giêsu đã sống lại, khiến cho cái chết của
chúng ta không còn là ngõ cụt, không còn là đêm tối tuyệt vọng nữa, vì ánh sáng
của Chúa Kitô đã bừng lên trong cõi chết. Chúa Kitô đã sống lại, niềm hy vọng
của chúng ta không phải là hão huyền, vì Ngài đang ngự bên hữu Thiên Chúa, Ngài
đang điều khiển dòng lịch sử, và khi Ngài tỏ hiện trong vinh quang, thì chúng
ta cũng được xuất hiện cùng với Ngài trong hạnh phúc và vinh quang bất diệt.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta đã được sống lại với Chúa Kitô Phục Sinh. Nhờ phép Rửa,
chúng ta đã được tham dự vào sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô, được mang
mầm sống mới trong mình, mầm sống ấy phải lớn lên trong cuộc sống mỗi ngày và
sẽ đưa chúng ta vượt qua chính cái chết tự nhiên của con người để vào cuộc sống
vinh quang với Chúa Kitô. Sự sống của chúng ta, vinh quang của chúng ta được
dấu ẩn trong Chúa Kitô. Hiện giờ chúng ta chưa thấy vinh quang ấy như thế nào,
nhưng khi Chúa Kitô xuất hiện, chúng ta sẽ thấy. Vì Ngài thế nào thì chúng ta
cũng sẽ giống như vậy.
Chúa Kitô đã chết và đã sống lại vì chúng ta, chính là để chúng
ta không còn sống cho mình nữa, không còn khư khư giữ lấy mạng sống, giữ lấy sự
bảo đảm an toàn ích kỷ của mình nữa, nhưng là phải sống cho Chúa Kitô và như
Chúa Kitô, hoàn toàn vì Thiên Chúa và cho tha nhân. Nếu đã được sống lại với
Chúa Kitô, chúng ta đừng tìm những gì con người ích kỷ hẹp hòi, con người theo
xác thịt xui chúng ta tìm kiếm; nhưng hãy nhìn thẳng về cùng đích của chúng ta
mà tiến lên. Chúa Kitô đã mang lại cho những đau khổ của con người một ý nghĩa,
đã làm cho cuộc sống trần gian nầy không còn là một ảo tưởng, nhưng là một phản
ảnh và là con đường đưa đến cuộc sống vĩnh cửu.
Nếu sự Phục Sinh của Chúa Giêsu thật là cần thiết cho chính Ngài
và cho những người tin vào Ngài, thì nó cũng lại rất cần cho cuộc sống hôm nay
của chúng ta, khi mà nhiều người chán sống, khi mà cuộc đời có quá nhiều cái
làm chết con người hoặc coi thường mạng sống con người. Chúa sống lại là một
tin vui cho người đang tin vào cuộc sống đời sau, và còn là lời cảnh tỉnh cho
người tưởng chết là hết, chết là giải quyết tất cả...
Nếu chúng ta tin như vậy, thì hơn ai hết, chúng ta phải làm
chứng cho niềm tin Phục Sinh nầy bằng cách dám chấp nhận gian khổ, chấp nhận hy
sinh, để cùng với mọi người xây dựng một xã hội tốt đẹp, cho mọi người được
sống xứng đáng phẩm giá con người hơn. Nếu chúng ta tin rằng mọi sự từ bỏ đều
được Chúa đền bù, mọi hy sinh đều là tham dự vào hy sinh cao cả của Chúa Kitô,
thì tại sao chúng ta không dám từ bỏ, không dám hy sinh? Nếu chúng ta tin rằng:
Chúa Kitô đã giải thoát chúng ta khỏi ách tội lỗi, khỏi con người theo xác thịt
ích kỷ hẹp hòi và cho chúng ta một Thần Khí mới, một tinh thần mới, thì tại sao
chúng ta cứ tiếp tục sống ích kỷ hẹp hòi? Tại sao chúng ta cứ khư khư giữ lấy
sự an toàn bản thân, không dám liều mạng, xả thân vì anh em, vì tha nhân? Hạt
giống chỉ có thể nẩy mầm khi nó có thể phá huỷ được cái vỏ bao bọc nó. Con gà
chỉ có thể ra đời khi phá vỡ vỏ trứng. Con tằm phải phá ổ kén mới thành con
bướm. Có cuộc chuyển hoá hay vượt qua nào mà không đau khổ, rướm máu?
Trong ngày mừng Chúa Phục Sinh, chúng ta hãy kiểm điểm xem:
chúng ta đã thật sự sống niềm tin Phục Sinh chưa? Chúng ta đã đánh giá đúng
những thực tại trần thế chưa? Chúng ta đã nhìn gian khổ, hy sinh, nỗ lực của
con người bằng cặp mắt nào, cặp mắt của một người chỉ tin vào của cải vật chất
hay của một người tin vào một cuộc sống vượt trên cuộc sống trần gian nầy và
làm cho cuộc sống trần gian nầy có ý nghĩa cao cả thật sự của nó?
Trong Thánh Lễ Phục Sinh hôm nay, khi chúng ta mừng Chúa Kitô đã
chết và đã sống lại vì chúng ta, chúng ta hãy cầu xin Ngài cho chúng ta biết
sống như Ngài: sống cho Chúa và sống cho mọi người anh em.
19. Niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh.
(Suy niệm của Achille Degeest)
Những bài tường thuật khác nhau về Chúa Phục Sinh trong bộ Phúc
Âm hoặc trong các thư thánh Phaolô đặt ra một vấn đề đồng nhất. Những bài ấy
cùng nói về một sự kiện, nhưng không hoàn toàn giống nhau. Nhiều công trình
khảo cứu cố gắng tìm những điểm trùng hợp trong các bản văn nói trên để đem lại
những thành quả có thể thoả đáng nhưng không giải quyết được chú ý nhiều là của
cha de Grandmaison trình bày trong cuốn "Đức Giêsu Kitô". Lĩnh vực
này vẫn mở ra cho môn nghiên cứu Kinh Thánh và có nhiều quan điểm mới mẻ xuất
hiện kể từ sau cha de Grandmaison). Nhân bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta có thể
chú ý đến một số điểm nổi bật như những đỉnh cao của một dãy núi, cho thấy ý
nghĩa tổng quát của những sự kiện.
1) Sự kiện Phục Sinh đặt nền tảng cho niềm tin của các tông đồ
và cộng đồng giáo hữu tiên khởi.
Người ta cho rằng có thể có những bài tường thuật khác nhiều chi
tiết hơn và có tính chất mô tả. Thật ra không phải vậy. Trong những đoạn thuật
về sự kiện Phục Sinh, không có điểm nào cho trí tưởng tượng khai thác. Chúng ta
phải nhìn nhận rằng đôi khi những yêu cầu hợp lý của hành vi tin như vậy là
tốt.
2) Việc phát hiện ngôi mộ trống không khiến cho những phụ nữ đạo
đức cũng như các tông đồ tức khắc xác tín rằng Chúa đã sống lại.
Câu của thánh Gioan: Ông đã thấy, và ông đã tin, phải được đặt
trong tương quan với sự thấu hiểu Kinh Thánh –và không có bằng chứng nào rằng
niềm tin của thánh Gioan đột xuất như một làn chớp, cho dẫu ngài hiểu biết
nhanh hơn các tông đồ khác. Ở đây sự kiện lịch sử là ngôi mộ trống trở nên như
một thứ cầu nhún bỗng nhiên được một lò xo bí ẩn nhập vào làm bật lên, phóng
tâm trí vượt lên cao quá tầm lịch sử. Thuộc về thượng tầng ấy là những lần Chúa
hiện ra cho các môn đệ, và hành vi tin do đó phát sinh –là sự thấu hiểu Kinh
Thánh- là sự làm chứng của các tông đồ. Ở đây chúng ta tiếp xúc với một điều gì
khiến chúng ta có được niềm vững tin mạnh hơn sự kiểm chứng lịch sử, đó là hành
vi tin, một hành vi không do sự cưỡng ép bên ngoài hay bên trong, nhưng được
kích động cả ngoài và trong, một hành vi hợp lý, tự do, được sự giúp đỡ của ân
sủng –hành vi ấy là hành vi tin của chúng ta ngày nay.
3) Những lần Chúa hiện ra cho các môn đệ làm biến đổi tâm hồn
các ông.
Chúa hiện ra bất thần, trong những trường hợp các ông ý thức rõ
về bản thân mình, Chúa chợt đến trong đời sống thật sự của các ông. Điều đó cần
nói rõ ra để thấy những thuyết chủ trương ảo giác là không vững. Điều quan
trọng nhất: Đức Giêsu đảo ngược tâm trạng và não trạng các môn đệ. Não trạng Do
Thái của các ông không chấp nhận cuộc thương khó, vậy mà giờ đây các ông chấp
nhận cuộc khổ nạn của Thày là liên quan mật thiết với chương trình cứu độ của
Thiên Chúa. Các ông đã ngã lòng, vậy mà bây giờ các ông có một niềm xác tín
chiến thắng. Các ông đại diện cho Giáo Hội đang phát triển cách mạnh mẽ và hân
hoan, các ông phát khởi một lịch sử và một mầu nhiệm ngày nay chưa chấm dứt sức
năng động làm cho nhân loại dậy lên (Tất nhiên phải hiểu rằng những hình ảnh
trên đây chỉ muốn gợi ý cho sự suy niệm và cầu nguyện, tuyệt nhiên không có cao
vọng bàn đến những vấn đề bao quanh lịch sử và mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa).
20. Xác nhận lòng tin - McCarthy
Suy Niệm 1. BƯỚC NHẢY VỌT CỦA LÒNG TIN
Đôi khi, chúng ta ghen tị với các Tông đồ và các môn đệ đầu
tiên. Chúng ta cho rằng họ có lợi thế hơn tất cả các Kitô hữu sau này, bởi vì
họ thực sự nhìn thấy Đức Giêsu, đôi bàn tay của họ đã được đụng chạm vào Người.
Do đó, lòng tin thật dễ dàng đối với họ. Và chúng ta cho rằng cũng thật dễ dàng
đối với chúng ta, nếu giống như các Tông đồ, chỉ cần cá nhân chúng ta có thể
được gặp gỡ Đức Giêsu, hoặc giống như các môn đệ đầu tiên, chúng ta được nhìn
thấy những phép lạ mà Người đã thực hiện cho chúng ta.
Vâng, các môn đệ đầu tiên có lợi thế được tận mắt nhìn thấy Đức
Giêsu. Nhưng phải chăng điều đó tạo ra bất cứ sự dễ dàng nào hơn cho lòng tin
của họ? Khi nhìn vào Đức Giêsu, họ có thể nhìn thấy gì? Họ không thể nhìn thấy
và không thể nhìn thấy được Thiên Chúa, bởi vì không ai ngay lập tức có thể
nhìn thấy và nhận biết Thiên Chúa được. Nơi Đức Giêsu, họ chỉ nhìn thấy một con
người có bên ngoài hình giống như họ.nhưng khởi đi từ đó, để tin tưởng được
rằng Người chính là Con Thiên Chúa, đòi hỏi một động tác vĩ đại của lòng tin.
Điều này giải thích cho sự kiện rằng có nhiều người đã từng được
nghe Đức Giêsu nói và được nhìn thấy Người hành động, mà vẫn không hề có lòng
tin nơi Người. Ngay cả chính bản thân các Tông đồ, đã từng được ở với Người
ngay từ đầu, mà vẫn tỏ ra chậm tin. Được nhìn thấy không nhất thiết là tin
tưởng.
Cú sốc do cuộc thương khó và cái chết trên thánh giá của Người
gây ra, quả thật là quá lớn lao, đến nỗi làm cho các Tông đồ chậm tin tưởng vào
nguồn tin tức về Sự Sống Lại. Khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối ngày
Phục Sinh. Người đã khiển trách họ vì sự không tin tưởng và sự cứng lòng của
họ, bởi vì họ đã không chịu tin lời những người đã được nhìn thấy Người, sau
khi Người sống lại (Mc 16,14).
Tất cả những điều này để lại cho cái gì cho chúng ta? Chúng ta
không thể nhìn thấy Đức Giêsu theo cách thức mà các Tông đồ đã nhìn thấy Người.
Chúng ta không thể hiện diện trong căn phòng nơi diễn ra các sự kiện của Tuần
Thánh, khi Đức Giêsu ghé vào. Chúng ta không thể được xỏ tay vào những vết
thương của Đức Giêsu. Chúng ta không thể được nhìn vào khuôn mặt của Người và
nói "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con". Chúng ta phải sống bằng lòng
tin, chứ không phải bằng sự nhìn thấy. Tuy nhiên, nếu tin tưởng nơi Đức Giêsu,
thì chúng ta phải nhìn thấy Người bằng một cách nào đó. Nhưng bằng cách nào để
những người như chúng ta có thể nhìn thấy Đức Giêsu? Chúng ta phải làm gì, để
có được lòng tin?
Chúng ta là những môn đệ gián tiếp. Mà vì là những môn đệ gián
tiếp, nên mọi sự đều khó khăn hơn theo cách thức nào đó, nhưng lại dễ dàng hơn
theo cách khác. Mọi sự đều khó khăn hơn, bởi vì 20 thế kỷ đã trôi qua, kể từ
khi Đức Giêsu bước đi trên trái đất này. Nhiều lớp bụi đã phủ lên, ánh sáng đã
bị phai mờ. Nhưng về khía cạnh tích cực, khái niệm rằng Con Thiên Chúa bước đi
trên trái đất đã trở nên "tự nhiên" theo thời gian, và vì thế, theo
cách thức nào đó, đã lại trở nên dễ dàng hơn để tin. Nhưng đến khi mãn thời,
thì về cơ bản, tất cả các môn đệ đều như nhau –tất cả đều phải làm một cú nhảy
của lòng tin. Chúng ta trở nên những người môn đệ thông qua lòng tin.
Các bạn bè của Đức Giêsu đã được nhìn thấy và nghe tiếng Người
nói, chỉ một thời gian ngắn sau ngày Phục Sinh, nhưng cuộc sống của họ đã được
hoàn toàn thay đổi. Và bằng cách chia sẻ lòng tin của họ, cuộc sống của chúng
ta cũng sẽ được thay đổi. Chúng ta sẽ có khả năng bước đi trong niềm hy vọng,
bởi vì chúng ta biết rằng lòng tốt sẽ chiến thắng sự dữ, và sự sống sẽ chiến
thắng cái chết, bởi vì Đức Giêsu đã sống lại.
Suy Niệm 2. VIẾNG MỘ
Vào buổi sáng Phục Sinh, các phụ nữ đi ra ngôi mộ, nơi chôn cất
Đức Giêsu. Họ phải thực hiện một công việc u buồn –hoàn tật việc ướp xác Đức
Giêsu. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất để họ đi ra mộ. Họ muốn được gần
gũi với Đấng đã đem lại thoả mãn cho cuộc sống của họ, và cái chết của Người đã
nhận chìm họ vào một nỗi u buồn không thể nào khuây khoả được.
Bản thân chúng ta cũng thường làm điều tương tự như vậy. Khi một
người thân yêu nào đó của chúng ta qua đời, chúng ta nhận thấy thật khó chấp
nhận được là người đó đã vĩnh viễn rời xa khỏi chúng ta. Chúng ta cảm thấy có
nhu cầu duy trì mối quan hệ với người chết. Một trong những cách thức để chúng
ta đáp ứng được nhu cầu này, đó là đi viếng mộ. Tuy nhiên, thay vì làm dịu đi
nỗi đau của sự mất mát, thì điều này lại có thể làm cho nỗi đau đó càng gia
tăng thêm. Điều này thậm chí có khuynh hướng làm cho kẻ chết lại càng đúng là
kẻ chết hơn, bởi vì không có nơi nào làm cho chúng ta tin chắc chắn rằng người
thân yêu của chúng ta đã bị chết, cho bằng ở ngay tại mộ.
Trong buổi sáng ngày Phục Sinh đầu tiên đó, nếu mọi việc cứ diễn
tiến như lòng mong muốn, thì các phụ nữ sẽ ướp xác Đức Giêsu, đóng cửa mộ lại,
và hơn bao giờ hết, họ càng thêm tin tưởng rằng sự kiện xảy ra trong ngày Thứ
Sáu không phải là một cơn ác mộng, mà là một thực tại khủng khiếp. Nhưng mọi
việc lại không diễn ra như dự định.
Tại mộ, họ đã gặp hai thiên thần, hai vị đó đã nói với họ
"Tại sao các bà lại đi tìm người sống giữa kẻ chết? Người không còn ở đây
nữa, nhưng Người đã sống lại rồi". Sứ điệp Phục Sinh lần đầu tiên được gửi
đến cho những nữ môn đệ có lòng tin này: Đức Giêsu không chết, Người đang sống.
Như vậy, họ không được phí phạm thì giờ trong việc tìm kiếm Người tại chốn mồ
mả.
Tất cả chúng ta thường cảm thấy đau buồn khi ở trong nghĩa
trang, vì tại đó, tất cả mọi sự đều nói lên cái chết. Tuy nhiên, chính tại một
nơi như vậy, mà lần đầu tiên sự sống lại đã được loan báo. Thật là phù hợp khi
tại nơi đây, một nơi dường như cái chết thống trị, mà tin vui về sự sống lại
của Đức Giêsu lần đầu tiên đã được công bố.
Thông qua tiếng nói của Phụng vụ, cũng sứ điệp đó đem đến cho
chúng ta: Đừng tìm kiếm người thân yêu của bạn tại mộ. Người chết không còn ở
đó nữa. Đức Giêsu đã chế ngự cái chết, không phải chỉ cho bản thân Người, nhưng
cho tất cả chúng ta. Người là Đấng đầu tiên sống lại từ cõi chết, chúng ta sẽ
được đi theo Người. Vậy đối với người Kitô hữu, theo ý nghĩa cuối cùng của sự
huỷ diệt, không có điều gì giống như cái chết. Những người thân yêu đã qua đời
của chúng ta không phải là người chết nữa, họ vẫn còn sống, thậm chí họ còn
được sống một cuộc sống thực sự và đẹp đẽ hơn cả chúng ta. Họ không ở cách xa
chúng ta. Những người nào được chết trong ơn nghĩa Chúa, họ không ở cách xa
chúng ta hơn so với Thiên Chúa, mà Thiên Chúa thì rất gần gũi với chúng ta.
Chúng ta hãy tiếp tục cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua
đời của chúng ta, trong trường hợp họ vẫn còn cần đến sự giúp đỡ của chúng ta.
Và chúng ta hãy tiếp tục đi viếng nghĩa trang, nếu điều này giúp cho ký ức về
họ được sống động. Nhưng chúng ta đừng tìm kiếm họ tại đó. Và nếu nỗi buồn vẫn
cứ đeo đẳng trong tâm hồn chúng ta, thì nhờ sự kiện đã xảy ra vào buổi sáng
ngày Phục Sinh, nỗi buồn của chúng ta sẽ được hoà lẫn với một niềm hy vọng âm
thầm.
NHỮNG CÂU CHUYỆN KHÁC
1. Viktor Frankl đã trải qua 3 năm tại Auschwitz. Anh vẫn còn
sống sót, mặc dù vợ và gia đình của anh đều đã chết. Anh kể lại rằng vào một
ngày kia, liên sau khi được phóng thích khỏi trại giam, anh đã đi bộ xuyên suốt
vùng đồng quê, hướng về khu phố chợ, cách trại giam vài dặm đường.
Cánh đồng cỏ trổ đầy hoa. Những con chim chiền chiện hót vang
trong khi bay vào bầu trời. Suốt nhiều dặm khắp chung quanh đó, anh không nhìn
thấy một người nào, không có gì cả, ngoại trừ mặt đất và bầu trời bao la, tiếng
hót của những con chim chiền chiện, và sự thoáng đãng của không gian. Anh dừng
chân lại, nhìn ra chung quanh mình, rồi ngước mắt nhìn lên bầu trời trong xanh.
Thế rồi anh quỳ gối xuống cám ơn Thiên Chúa, vì đã được phóng thích. Trong khi
cầu nguyện, một câu nói chợt nảy đến trong anh, diễn tả được cảm giác mà anh
đang có: "Tôi đã kêu cầu Thiên Chúa từ nơi nhà tù chật hẹp của tôi, và
Người đã đáp lại trong sự tự do của không gian".
Anh không thể nói được là mình đã quỳ gối tại đó trong bao lâu,
miệng cứ lập đi lập lại câu nói này. Nhưng sau này, anh kể "Trong ngày hôm
đó và ngay tại thời điểm đó, cuộc sống mới của tôi bắt đầu. Tôi tiến triển từng
bước một, cho đến khi một lần nữa, tôi được trở thành một con người".
Chúng ta không thể tách biệt niềm vui mà Frankl đã cảm nhận được
ngày hôm đó, trong một cánh đồng phủ đầy hoa, với nỗi đau khổ mà anh đã trải
qua trong trại giam. Trên thực tế, niềm vui này sẽ không có ý nghĩa, nếu trước
đó, không xảy ra nỗi đau khổ. Tương tự như vậy, chúng ta không thể tách biệt sự
sống lại của Đức Giêsu với cuộc thương khó và cái chết của Người. Không thể
tách biệt vinh quang của Người với nỗi đau đớn của Người. Mặc dù một cách chậm
chạp, nhưng các Kitô hữu tiên khởi đã thấu hiểu rằng cuộc thương khó và cái
chết của Đức Giêsu chính là cách thế để Người đi vào trong vinh quang của
Người. Chúng ta không thể có được ngày Chúa Nhật Phục Sinh, mà không có ngày
Thứ Sáu Tuần Thánh. Nhưng khi đang trải qua ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, thì chúng
ta nên nhớ đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh.
2. Sáng ngày Chúa Nhật Phục Sinh, khi các nữ môn đệ lên đường đi
ra viếng mộ Đức Giêsu, thì họ rất thắc mắc rằng: Ai đã lăn tảng đá lớn đặt ở
lối đi vào mộ?
Có một người đàn ông đã cãi nhau với cha của mình, hậu quả là
suốt mấy năm trời, anh ta không hề nói chuyện với ông cụ, mặc dù hai cha con
chỉ sống cách xa nhau vài dặm đường. Anh ta là người con trai duy nhất; mẹ của
anh đã rời bỏ gia đình. Vì thế hiện nay, ông cụ sống cô đơn một mình. Thế giới
của ông càng ngày càng nhỏ bé và tối tăm hơn, với từng ngày trôi qua. Ông cụ
chưa chết đi, nhưng về mặt ý nghĩa, thì ông cụ đã như ở trong mồ rồi.
Chúng ta kinh ngạc về năng quyền mà Đức Giêsu có, để cho kẻ chết
sống lại, quả thật đúng là như thế. Chẳng hạn, người con trai trong câu chuyện
trên có thể lăn tảng đá ra khỏi ngôi mộ của người cha. Bằng một lời nói hoặc
một cử chỉ, anh ta có thể giải thoát ông cụ khỏi ngôi mộ của nỗi cô đơn và
tuyệt vọng của ông. Và bằng cách giúp đỡ người cha, anh ta cũng sẽ giúp đỡ được
chính bản thân mình. Đây là một trong những cách đền bù đáng quý của cuộc sống,
mà chúng ta không thể làm phấn chấn tinh thần cho người khác, nếu chúng ta
không biết cũng tự gây phấn khởi cho chính bản thân mình.
21. Phục Sinh.
Hôm nay, không riêng gì Giáo Hội Công giáo mà tất cả những người
tin Chúa Kitô trên khắp thế giới, đều hân hoan mừng kính cuộc chiến thắng khải
hoàn của Đấng Cứu Thế trên tội lỗi và sự chết. Chúa Giêsu đã bị giết chết trên
thập giá, được an táng trong mộ đá, nhưng ngày thứ ba sau khi chết, Ngài đã
sống lại. Đây là một biến cố vĩ đại, một sự kiện vô tiền khoáng hậu, độc nhất
vô nhị, có một không hai trong lịch sử.
Chúa đã sống lại thế nào? Ai đã khám phá ra điều này? Cả bốn
sách Tin Mừng đều tường thuật về biến cố này nhưng đều không cho biết Chúa
Giêsu đã sống lại thế nào. Vì thật sự không có ai có mặt để chứng kiến biến cố
lịch sử quan trọng đó. Nhưng có những nhân chứng đã nhìn thấy ngôi mộ trống, họ
quả quyết xác Chúa không còn trong mộ và sau đó Chúa đã hiện ra nhiều lần với
họ, xác nhận Ngài đã sống lại, đồng thời dạy bảo họ nhiều điều. Đó là các tông
đồ và một số phụ nữ... những nhân chứng về sự sống lại của Chúa Giêsu.
Như vậy, một điều chắc chắn: sự kiện Chúa Giêsu Phục sinh không
thể minh chứng một cách rõ ràng như chúng ta minh chứng một biến cố, một sự
kiện tự nhiên, nghĩa là không thể chụp hình, đo lường hay thí nghiệm được, vì
cả nhân loại chỉ có một mình thân xác Chúa sống lại, lấy đâu mà thí nghiệm,
kinh nghiệm. Cho nên, việc Chúa sống lại, đối với chúng ta hôm nay, vấn đề
chính yếu là tin: không thấy mà tin.
Anh chị em có bao giờ thấy, chụp hình hay đo lường được tình yêu
không? Chỉ thấy qua hậu quả thôi phải không? Thấy họ hay đi với nhau, thấy họ
thường ngồi nói chuyện với nhau, thấy họ có những cử chỉ thân mật với nhau...
chúng ta biết họ yêu thương nhau. Niềm tin vào Chúa Giêsu Phục sinh cũng thế,
chúng ta không thấy Chúa sống lại, nhưng chúng ta tin, vì Kinh Thánh đã nói về
việc Ngài Phục sinh, lòng tin của Giáo Hội hai mươi thế kỷ qua: Chúng ta tôn
thờ Đấng bị đóng đinh trên thập giá, chúng ta tôn thờ Đấng đang ngự trong nhà
chầu... là chúng ta tin Chúa Giêsu đang sống, chứ không phải tôn thờ Ngài đã
chết, không còn liên hệ gì đến chúng ta. Không, chúng ta tin Chúa đang sống,
Ngài đang điều hành vũ trụ này, Ngài có mặt khắp nơi, Ngài đồng hành với chúng
ta trên mọi nẻo đường, ngõ ngách... đâu đâu cũng có Ngài, Ngài là Thiên Chúa
toàn năng và hằng hữu. Vì thế, biến cố Phục sinh là nòng cốt của niềm tin Công
giáo. Niềm tin này kéo theo nhiều niềm tin khác: tin Chúa Giêsu Phục sinh không
chỉ là một nhân vật lịch sử được ghi chép lại, nhưng là một lòng tin vẫn sống
động trong lịch sử hôm nay. Chúng ta không chỉ biết về Ngài mà thôi, nhưng
chúng ta thực sự gặp gỡ chính Ngài, như Ngài đang sống động hiện diện giữa
chúng ta.
Nói rõ hơn, vì Chúa đã sống lại thật, nên chúng ta không chỉ
nghe biết về Chúa như nghe biết một nhân vật nào đó, chẳng hạn như ông tổng
thống Mỹ, ông chủ tịch nhà nước Trung Quốc, ông vua này, bà hoàng nọ. Nhưng có
một khác biệt sâu xa giữa việc nghe biết về một con người bình thường hay về
những nhân vật lịch sử, vì họ đã chết và đã biến khỏi mặt đất. Với Chúa Giêsu
thì khác hẳn, Ngài đã sống lại và đang sống. Chúng ta biết Ngài và gặp gỡ Ngài
một cách thực sự.
Tiếp đến, chúng ta tin Chúa sống lại là chúng ta tin chúng ta
được cứu chuộc. Bởi vì Chúa sống lại mới cứu chuộc được nhân loại. Nếu như Ngài
chết luôn như các giáo chủ khác, thì Ngài không có quyền gì cứu chuộc chúng ta,
nhưng Ngài đã sống lại để chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa và Ngài có quyền cứu
chuộc tất cả chúng ta.
Đàng khác, Chúa sống lại còn là niềm hy vọng cho chúng ta: tất
cả chúng ta cũng sẽ sống lại. Thân xác chúng ta sẽ sống lại, đúng như chúng ta
tuyên xưng trong kinh Tin Kính: "Tôi tin xác loài người ngày sau sống
lại". Bởi vì thân xác sống lại là hiệu quả của mầu nhiệm Phục sinh của
Chúa Giêsu, như Kinh Thánh đã nói: "Đấng đã làm cho Chúa Giêsu sống lại
cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại với Chúa Giêsu". Như vậy, Chúa Giêsu đã
chiến thắng sự chết và cho hết thảy chúng ta được chung hưởng chiến thắng đó.
Tóm lại, ngày đại lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta xác tín: Chúa
Giêsu đã sống lại. Ngài đã chiến thắng tội lỗi và sự chết. Ngài đang sống thật
sự và đang ở với những ai tin Ngài, trong đó có chúng ta. Chúng ta hãy cảm tạ
Chúa và cố gắng sống như những người đã được cứu chuộc: sống công bình và yêu
thương, sống vui vẻ và phấn khởi, để cuộc đời chúng ta luôn là một lời ca
"Allêluia" chứng nhân cho Chúa.
22. Phục Sinh
Tầm thức trả thù ăn sâu vào trong con người tội lỗi chúng ta đến
nỗi chết rồi mà cũng không dung tha. Thật là một tâm thức nghịch lại với thái
độ sống của Chúa Kitô, Ngài đã giảng dạy sự tha thứ, đã chịu chết và đã sống
lại, đã tha thứ cho con người và dạy con người sống tha thứ cho nhau.
Tin Mừng Chúa sống lại là Tin Mừng của sự tha thứ. Thiên Chúa
tha thứ cho con người và con người một khi chấp nhận Tin Mừng sống lại cũng
phải sống tinh thần tha thứ này. Chúa Kitô sống lại có ích gì cho chúng ta, nếu
chúng ta không sống lại, không để cho ơn Chúa biến đổi mình trở nên con người
mới giống hình ảnh của Ngài.
Nơi bài đọc 2 chúng ta nghe thánh Phaolô khuyên các tín hữu
Côlôsê như sau: "Nếu anh em đã sống lại với Đức Kitô thì anh em hãy tìm
những sự trên trời nơi Đức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến
những sự trên trời chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất". Những sự trên trời
đó không phải là những viễn vông, mơ mộng, không thực tế theo tâm thức người
đời, không tin Thiên Chúa, nhưng là những điều rất đòi hỏi và rất thiết thực.
Đó là sự sống đời đời, và để đạt đến sự sống đời đời này người đồ đệ của Chúa
phải cố gắng hết sức mình để yêu thương phục vụ anh chị em.
Sống hướng về trời để có đủ tinh thần mà tha thứ những xúc phạm
của tha nhân và hy sinh những lợi lộc ích kỷ mà từ bỏ những mưu toan hại người,
để ra tay nâng đỡ phục vụ anh chị em, nêu cao khuyến khích anh chị em khi anh
chị em lỡ lầm đồng thời giúp họ đừng tiếp tục làm điều xấu nữa.
Sống hướng về trời, về những điều trên trời là điều cần thiết
như người đi ngoài biển khơi không có địa bàn phải nhìn lên những ánh sao sáng
trên trời để định hướng thuyền đời mình đạt đến bến bờ. Chúng ta sẽ bị lạc vào
trong những tranh chấp hận thù, bị rơi vào trong sự u buồn liên lỉ, trong sự áy
náy bứt rứt lương tâm, nếu chúng ta không hướng về Chúa và lãnh nhận ơn Phục
sinh của Ngài.
Các tông đồ đã sống trong lo âu hồi hộp khi Chúa bị treo trên
thập giá, khi họ chưa hiểu gì về mầu nhiệm sống lại của Chúa. Biến cố mồ trống
mà Phúc âm hôm nay kể lại cho chúng ta là một lời mời gọi Maria, Gioan, Phêrô,
mời gọi những kẻ đã theo Chúa hãy vượt qua những giới hạn của tâm thức trần tục
của họ để nhìn thấy được sự Phục sinh của Chúa, để cho ơn Chúa biến đổi cuộc
đời mình, hầu giúp chúng ta trở thành những chứng nhân rao giảng sự tha thứ của
Thiên Chúa.
Có một du khách đến thăm xưởng chế tạo các địa bàn, khi qua
phòng trưng bày các mẫu kiểu địa bàn, du khách đã thắc mắc hỏi: Tại sao có một
số địa bàn có cây kim luôn chỉ về hướng bắc, còn một số địa bàn khác thì không,
kim chỉ lung tung. Hướng dẫn viên trả lời: Những địa bàn có kim chỉ đúng phương
hướng là những địa bàn đã thực sự trọn hảo, đã được chuyển sức hút từ trường
vào trong đó để cây kim chính luôn hướng về hướng bắc. Còn những địa bàn có kim
chỉ lung tung là những địa bàn chưa nên trọn, chưa có sức từ trường và không
thể hoạt động theo từ trường. Đây là những mẫu trưng cho du khách nhìn chơi mà
thôi, chứ không có ích lợi gì cả.
Hình ảnh chiếc địa bàn có thể được dùng để nói về người đồ đệ
của Chúa Giêsu Kitô trong một thời đại, như có hai loại địa bàn cũng có thể có
hai loại người Kitô. Chiếc địa bàn chưa trọn không có sức từ trường tượng trưng
cho người Kitô "hữu danh vô thực", có tên gọi là người Kitô hữu nhưng
không có thực tế, không có sức sống của Chúa Kitô Phục sinh chuyển vào, nên như
chiếc địa bàn chỉ lung tung, làm lung tung, nói lung tung, dở dở ương ương đang
theo những chiều gió cám dỗ thổi đâu cũng được.
Còn mẫu người Kitô hữu thứ hai như những địa bàn đã nên trọn, đã
hoàn tất, có sức thu hút từ trường. Họ là những người Kitô hữu đã lãnh nhận sức
sống từ Chúa Phục sinh, luôn luôn sống kết hợp với Chúa, luôn qui hướng về
Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh như địa bàn chỉ về hướng bắc mà do đó mới có thể
trở nên trọn nơi chính thực thể của mình và nên hữu ích cho anh chị em xung
quanh.
Việc chuyển sức từ trường vào chiếc địa bàn là một tác động tự
động máy móc, việc chuyển sức sống của Chúa Kitô Phục sinh vào con người chúng
ta là một hành động đặc biệt không thể nào giống như một trò ảo thuật chỉ hô
một tiếng thì có liền ngay.
Chúa Kitô đã chọn các tông đồ và huấn luyện các ngài nhiều năm
tháng với nhiều công sức, chuẩn bị cho các ngài trong giây phút trọng đại cuối
cùng để tin nhận Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã đi qua cái chết để tiến đến sự Phục
sinh, để thực hiện trọn vẹn ơn cứu chuộc con người. Nhưng thử hỏi chúng ta đã
nhìn thấy gì? Chúng ta đã nhìn thấy thái độ của các tông đồ như thế nào trước
biến cố chết và sống lại của Chúa hay không?
Một thái độ không tin, lưỡng lự hay có tin thì cũng chưa vững
vàng lắm. Hai người nữ đến mồ Chúa nhìn thấy dấu lạ, hòn đá che cửa mồ đã bị
đẩy qua một bên thì vội vàng kết luận là có người ăn cắp xác của Thầy mình.
Phêrô chạy đến nhìn thấy sự việc cũng không hiểu sao, chỉ có tông đồ Gioan
người được Chúa Giêsu yêu dấu thì thấy và tin, nhưng thái độ tin lúc này cũng
mới là khởi đầu. Lòng tin đó cần phải tiến sâu hơn nữa nhờ lời cầu nguyện, suy
niệm lại những lời Chúa nói, những việc Chúa làm và được Chúa Thánh Thần tiếp
sức thì mới đủ mạnh để làm chứng cho Chúa, để luôn luôn sống định hướng về Chúa
như chiếc địa bàn đã được chuyển sức từ trường.
Từ một Phêrô lưỡng lự chưa hiểu Kinh Thánh, chưa hiểu chương
trình hành động cứu rỗi của Thiên Chúa. Qua Chúa Kitô Phục sinh đến, một Phêrô
đã vững tin dám đứng trước dân chúng để rao giảng Chúa Kitô Phục sinh là Đấng
cứu rỗi duy nhất như được mô tả trong bài đọc 1 của thánh lễ hôm nay.
Chúng ta hiểu là phải có biến cố tiếp sức của Chúa, biến cố Chúa
Thánh Thần hiện xuống tràn đầy trên các tông đồ, trong mọi đồ đệ của Chúa Kitô.
Không thể nào chỉ dừng lại ở Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá để than
khóc lo sợ, nhưng không thể nào chỉ chú mình tôn thờ Chúa Kitô Phục sinh cho
riêng mình như Maria khi được Chúa hiện ra thì bà sụp lạy quỳ dưới chân Chúa.
Chúa bảo bà hãy ra đi, hãy mang Tin Mừng đến cho các tông đồ khác, cho những ai
chưa tin. Chúa muốn như chiếc địa bàn chỉ hướng về phía bắc. Người tín hữu Kitô
chỉ hướng về một Chúa Kitô Phục sinh để từ đó mà có sức làm chứng cho Chúa
trong mọi hoàn cảnh.
Mừng lễ Phục sinh hôm nay, chúng ta hãy đem cuộc đời mình đến
cho Chúa chuyển sức sống vào đó, cho chúng ta được Phục sinh với Chúa, được
sống sức sống của Chúa, trở thành người Kitô hữu sống động.
23. Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi
Một người đàn bà nọ thường hay than phiền với bác sĩ tâm thần là
bà thường hay thấy ngứa ngáy. Lạ kỳ thay, bệnh ngứa thường xảy ra là lúc mà bà
ta ở trong nhà thờ. Sau một thời gian nói chuyện, bác sĩ nhận ra là sự thù ghét
đã ăn rễ sâu trong lòng bà ta. Bà mang tư tưởng thù ghét người chị của bà bởi
vì bà nghĩ rằng khi người cha của bà chết, người chị đã không chia gia tài một
cách đồng đều. Sau đó, vị bác sĩ tâm thần đã cho bà thử qua cuộc xác nghiệm
"eczema", và kết quả là bà ta ngứa ở trong tâm thần chứ không phải ở
ngoài thân xác. Vị bác sĩ nói, "Chỉ khi nào bà biết chữa chạy cái bệnh ở
trong tâm linh của bà thì bà mới hết được cái bệnh ngứa."
Ngày xưa, Chúa Giêsu đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới
đó, và chữa lành mọi bệnh tật. Chúa Phục Sinh vẫn tiếp tục làm điều mà Ngài đã
làm.
Hôm nay ở tại thành thánh Giêrusalem, những người hành hương sẽ
tấp nập chen nhau vào cái chỗ mà người ta gọi là ngôi mộ của Chúa Giêsu. Một
vài người hành hương vẫn đả kích những thói tục hoá của những nơi thánh thiện.
Họ bảo ngôi mộ thánh thiện là chỗ những người hành khất đi xin ăn, những người
bán rong lợi dụng các du khách để bán đồ, còn các tu sĩ thì lợi dụng chỗ thánh
để xin dâng cúng. Hôm nay, ngày mừng kỷ niệm Chúa Phục Sinh, chúng ta đến đây
để gặp gỡ một Chúa Kitô Phục Sinh.
Đấng phục sinh không phải là Chúa Giêsu của Madison Avenue, hoặc
của Roma, hoặc của Athens, nhưng là Chúa Giêsu Nagiarét: một chỗ bình thường,
một chỗ mà không có gì hay ho cả.
Thánh Phêrô đã diễn tả về Chúa Giêsu Nagiarét như sau,
"Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người.
Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỉ
kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người" (Cv 10:38). Điều mà Ngài đã làm,
bây giờ Ngài vẫn đang làm. Cách mà Ngài đã hiện diện, thì bây giờ cũng đang
hiện diện.
Những kẻ tìm kiếm Ngài sẽ không phải thất vọng. Đúng thế, quyền
năng cao cả của Ngài đã được tỏ bày trong những lá cây hoặc những ngọn cỏ. Thế
nhưng, chúng ta có thể tìm thấy Ngài hiện diện một cách đích thật hơn hết là ở
trong những anh chị em của chúng ta, những người đang mong mỏi thoát khỏi cái
ách của ma quỉ, đói khát, chiến tranh, cô đơn, và thất vọng.
Chúa Giêsu Nagiarét là "Ai" trong mùa Phục Sinh? Và
chuyện gì đã xảy ra trong mùa Phục Sinh này? Cái chết của Ngài không phải là
một biểu tượng, nhưng là một cái chết thật mà không có hoá trang, hoa lá, và âm
nhạc. Sự phục sinh của Chúa Kitô không phải là sự sống lại theo nghĩa tượng trưng,
nhưng là một sự khải hoàn thật sự của Ngài. Cộng đoàn Kitô giáo đã không gọi
"Linh hồn của Ngài sống mãi", hoặc là "Tư tưởng của Ngài còn
sống", hay là "Ngài sống qua những người môn đệ." Không phải
thế, Chúa Giêsu Nagiarét sống luôn mãi! Một vài người đã muốn dùng khoa học để
chứng mình sự phục sinh, thế nhưng phương thức của khoa học là so sánh một sự
việc này với một sự việc khác để xác nghiệm, còn sự phục sinh thì không thể nào
làm như vậy được, bởi vì nó vượt trên mọi sự ở thế gian này. Những điều mà
Thánh Kinh kể lại cho chúng ta chưa từng có bao giờ xảy ra. Có một số người đã
sống lại theo như các Phúc Âm kể lại, nhưng rồi họ lại phải chết. Chúa Giêsu đã
sống lại và không chết nữa, và Ngài khải hoàn trong sự sống mới. Ngài đã mở cửa
Nước Trời, nơi mà sự chết không còn thống trị. Sự sống lại của Chúa Giêsu là
dấu cho những người môn đệ theo Ngài, đó là những ai sống theo tinh thần của
Ngài thì một ngày cũng sẽ được vinh hiển như Ngài.
Chúng ta hãy nghe những lời Thánh Phaolô gởi giáo đoàn Colôxê:
"Anh em đã được chỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì
thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy hướng
lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ
giới. Thật vậy, anh em đã chết, và sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng
với Đức Kitô nơi Thiên Chúa" (Col 3:1-4).
Bạn có nhớ lúc nào mà bạn đã bắt gặp Chúa Kitô? Nói một cách rõ
ràng hơn, lúc nào Chúa Kitô đã bắt gặp bạn? Qua Bí tích Rửa Tội, bạn đã trở nên
một phần thân thể của Ngài, đó chính là Giáo Hội. Chúa Kitô Phục Sinh đã nối
kết bạn với Ngài qua sự tụ họp ở nơi bàn tiệc thánh ở đây. Chúa Kitô Phục Sinh
đổi mới bạn qua bài giảng này, và qua Lời của Ngài. Tính chất độc nhất của
chúng ta hiện thời bây giờ bị ẩn dấu, nhưng rồi sẽ đến một ngày sự ẩn dấu này
sẽ được mặc khải mà "mọi đầu gối sẽ phải quỳ xuống khi nghe tên danh thánh
Chúa Giêsu." Khi tiếng loa cuối cùng được thổi lên để báo hiệu lịch sử của
con người đã đến chỗ hoàn thành, thì chúng ta sẽ được biết một cách hoàn toàn
điều mà chúng ta đang biết một phần ở đời này. Và chúng ta sẽ được cảm nghiệm
sự vinh thắng mà chúng ta đang phải dùng đức tin.
Thánh Phêrô viết: "Chúc tụng Thiên Chúa và là Cha của Chúa
chúng ta, Đức Giêsu Kitô, Đấng đã thể theo lòng thương hải hà mà tái sinh chúng
ta cho hy vọng hằng sống nhờ sự phục sinh từ cõi chết của Đức Giêsu Kitô"
(1 Pt 1:3). Chúng ta tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ cứu chữa chúng ta, sẽ ban cho
chúng ta sự sống mới và đường hướng mới, sẽ tăng cường sức mạnh cho chúng ta
bằng tình yêu.
24. Biến đổi trở thành con người mới
Một câu chuyện dụ ngôn của Nhật Bản kể về Hoàng tử bị gù lưng,
theo tục lệ của Hoàng Triều đang trị nước, bất cứ Hoàng tử nào được chỉ định
thế nghiệp Vua Cha thì phải đúc tượng của mình đặt vào trong Bảo Tàng Viện của
Quốc Gia để lưu danh muôn thuở. Tiếc thay vị Hoàng tử được chỉ định này lại là
vị Hoàng tử bị khuyết tật gù lưng nên nhất định không chịu cho tạc tượng mình
trưng trong Bảo Tàng Viện.
Cuối cùng với áp lực của nhà Vua, Hoàng tử chấp nhận nhưng với
hai điều kiện:
Thứ nhất, tạc tượng Hoàng tử không bị gù lưng, nhưng đứng thẳng
người như thể không bị khuyết tật nào cả.
Thứ hai, Hoàng tử được giữ bức tượng này trong phòng riêng cho
tới khi nào mình chết thì bức tượng mới được đem trưng trong Bảo Tàng Viện Quốc
Gia.
Làm như vậy Hoàng tử muốn giấu đi những khuyết tật của mình
không cho thần dân trong nước biết đến. Vua cha để tuỳ ý. Sau khi đã có bức
tượng rồi, Hoàng tử đem trưng trong phòng riêng, hàng ngày đứng ngắm mình lâu
trước bức tượng, vừa cố gắng thẳng người lên như bức tượng và điều lạ lùng xảy
ra, sau thời gian dài ngắm bức tượng thẳng người, Hoàng tử cảm thấy mình như
thật sự đã đứng thẳng người, không còn gù lưng nữa.
Đây là một chuyện dụ ngôn nhưng cũng có thể được người Kitô
chúng ta áp dụng vào trong cuộc sống tinh thần của mình. Đến với Chúa Giêsu
Kitô, khuyết tật gù lưng thể xác không có gì là xấu phải giấu diếm, nhưng gù
lưng tinh thần không những là khuyết tật xấu, mà còn là tội lỗi, là những tật
xấu bám chặt với điều xấu.
Hoàng tử gù lưng không bằng lòng với khuyết tật thân thể của
mình. Người Kitô chúng ta cũng ý thức về những khuyết tật tinh thần của mình.
Không bao giờ bằng lòng với những khuyết tật này, Hoàng tử có
một ước muốn mãnh liệt thoát ra cảnh gù lưng. Người Kitô cũng cần có ước muốn
mạnh mẽ thoát ra khỏi những tật xấu của mình. Hoàng tử nhờ nhìn vào bức tượng
thẳng người, là lý tưởng của mình và trở thành thẳng người; người Kitô chúng ta
cần nhìn thẳng vào lý tưởng của chúng ta là Chúa Giêsu Kitô và không những phải
nhìn từ cái nhìn bên ngoài mà thôi mà còn thực hiện điều Chúa Giêsu mong ước,
đó là sống kết hiệp với Ngài để trở nên giống Chúa đến mức độ trở nên giống
Chúa đến mức độ như thánh Phaolô Tông Đồ đã sống: "Tôi sống nhưng không
phải tôi sống, mà là Chúa Kitô sống trong tôi".
Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống
trong tôi. Chúa Giêsu là mẫu gương của chúng ta, Chúa đã thực hiện cuộc vượt
qua, đã chết và sống lại để thực hiện ơn cứu rỗi cho chúng ta, để giải thoát
chúng ta khỏi những gì gù lưng tật xấu, để trở thành của ăn nuôi sống chúng ta
và biến đổi chúng ta thành con người mới được tái tạo theo hình ảnh Chúa Kitô,
và chúng ta cần luôn nhìn vào Chúa Giêsu Kitô để giải thoát mình khỏi những tật
xấu, để chúng ta không còn bị gù lưng tinh thần mà đứng thẳng lên sống lại cuộc
sống mới với Chúa.
Vậy mừng Lễ Phục Sinh hôm nay, chúng ta phải nhất quyết luôn
nhìn vào Chúa để sống đồng hoá với Chúa, để mình sống sự sống của Chúa, để trở
nên giống như Chúa và được phục sinh với Chúa. Alleluia.
25. Hai cái nhìn
Trước ngôi mồ trống của Đức Giêsu, có hai cái nhìn, dẫn đến hai
cái thấy khác nhau:
- Cái nhìn của bà Maria Magdala là cái nhìn tự nhiên, bị ảnh
hưởng bởi tình cảm: chỉ mới nhìn tảng đá đã lăn khỏi mộ, tình cảm của bà bị tác
động ngay khiến bà không còn thấy thêm điều gì khác mà chỉ nghĩ đến tình huống
xấu nhất: "Người ta đã đem Chúa ra khỏi mộ!" Cái nhìn tình cảm này
không giúp thấy được sự thật mà chỉ làm cho bà buồn rầu, lo lắng, khóc lóc.
- Cái nhìn của người môn đệ Chúa yêu được đức tin hướng dẫn: Ông
nghe nói tảng đá đã lăn khỏi mộ, ông chạy đến nơi để xem và xem xét rất kỹ. Ông
cúi xuống nhìn vào trong, quan sát những tấm khăn liệm và dừng lại để suy nghĩ.
Rồi ông nhớ lại những lời Thánh kinh mà Đức Giêsu đã dạy. Cái nhìn này giúp ông
thấy được sự thật: Đức Giêsu đã sống lại. Cái nhìn đức tin này đem lại cho ông
niềm vui: "Ông đã thấy và đã tin".
Có thể so sánh cái nhìn đức tin giống như người ta nhìn các sự
vật trong đêm tối bằng ánh sáng của tia hồng ngoại, nên có thể thấy được những
điều mà mắt thường không trông thấy. Theo định nghĩa, "Tín hữu" là
người tin. Vì thế tín hữu vừa có cái nhìn tự nhiên như mọi người, vừa phải có
cái nhìn đức tin. Ai biết nhìn sự việc bằng đức tin thì sẽ thấy mọi sự rất
thanh thản và lạc quan.
Chẳng hạn thánh Phaolô trong lúc đang ngồi tù và sắp bị đem ra
xử, ông nghĩ đến hai tình huống có thể xảy ra: một là bị xử tử, hai là được tự
do. Bằng cái nhìn đức tin, ông đã thấy sống hay chết đều tốt cả: "Đối với
tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi". Còn thánh nữ Têrêxa Hài
Đồng Giêsu sau khi đã nhìn lại mọi sự việc xảy đến trong đời mình bằng cặp mắt
đức tin, đã kết luận "Tất cả là hồng ân".
Đức Giêsu Phục sinh đã chiếu một luồng sáng mới lên tất cả mọi
sự. Thiết tưởng, việc đầu tiên mà chúng ta cần cố gắng và cũng là ơn đầu tiên
mà chúng ta cần xin trong mùa Phục sinh là biết nhìn mọi sự bằng cặp mắt đức
tin. Có như thế, trong tất cả mọi sự chúng ta mới đều có thể lạc quan cất lên
tiếng hát đặc trưng của Mùa Phụng vụ này: Halleluia!
26. Ngôi mộ trống -JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn
không? Đã bao giờ làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?
2. Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là trở
nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể là ta
phải làm gì?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại.
Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh.
Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó
quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô
nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống
rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã
không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống
trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô
cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà
thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).
2. Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?
Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay ích
lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại
đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một
kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua
đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có lễ
Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời
sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ,
chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ,
cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là
một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?
Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không
sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan
trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tuỳ thuộc ở tôi rất
nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài.
3. Ngài sống lại để biến ta thành con người mới
Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và
trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô
nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu
sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng
sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh
em được sự sống mới» (Rm 8,11). Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới
ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại,
cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống
mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Ki-tô sống lại;
chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr
6,14). Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải
chúng ta nên con người mới?
4. Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi
Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự
sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở
nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói
hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ: «Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi
chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội
lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa»
(Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp
sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để
Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã
được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh
thiện» (Ep 4,22-24).
5. Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ
Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con
người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới
hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai.
Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt
trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới:
«Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi
anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).
Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự
lột xác, một tinh thần tự huỷ: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi,
thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga
12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá huỷ, nó sẽ mãi mãi là một
nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào;
nhưng nếu bị phá huỷ, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm
nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá huỷ «cái tôi ích kỷ» của ta,
thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hoá thành một thực tại mới, con
người mới, vĩ đại, cao quý, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh
mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.
6. Một nghịch lý thực tế
Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của mình, chăm
chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái
lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp
lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý
mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ
giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25). Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ
ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng
chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những
gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều
hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người
sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem
ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.
7. Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương
Con người mới được thánh Phaolô xác định: «Con người mới là con
người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24); «con người mới là
con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình» (Cl
3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về
với tình trạng tốt đẹp nguyên thuỷ khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con
người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là
Tình Yêu. Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người
mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con
người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là
con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân. Khi ta quyết tâm như
thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho
Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều
quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống
đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh
em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hoá anh em cho tâm
trí anh em đổi mới» (Rm 12,2). Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta
một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để
trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới
thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như kỷ
niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của
con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm
trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin
Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.
27. Chú giải của Noel Quesson
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần
Cả bốn Tin Mừng đều đồng ý về điểm lịch sử này. Đó là biến cố
Phục sinh xảy ra vào hôm sau ngày Sabát, hôm sau ngày Lễ Vượt qua của người Do
Thái. Là người rất nhạy cảm với các biểu tượng, Gioan cho rằng, "ngày thứ
nhất" trên đây gợi lên một thế giới mới đang khởi đầu; một cuộc tạo dựng
mới, một tuần lễ sáng thế mới.
Đau khổ và cái chết là những chứng cớ hiển nhiên chống lại sự
hiện diện của Thiên Chúa: Làm sao lại xảy ra việc Thiên Chúa có thể tạo dựng
một thế giới đầy bất hạnh như thế?
Vấn nạn đó không thể trả lời được, nếu ta phủ nhận biến cố Phục
sinh. Các giáo phụ cũng như những người quen suy niệm Kinh Thánh, đều nghĩ
rằng, Thiên Chúa có thể không bao giờ "dựng nên" công cuộc sáng tạo
đầu tiên (mọi tạo vật đều phải chết), nếu Người đã không tiên liệu từ thuở đời
đời công cuộc sáng tạo thứ hai của Người, nhờ đó sẽ không còn sự chết, cũng
không còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất"
(Kh 21,4).
Lúc trời còn tối, bà Maria Mácđala đi đến mộ
Bốn Tin Mừng đều nhất trí về sự kiện lịch sử trên. Đó là các phụ
nữ là những người đầu tiên đã khám phá ra "biến cố". Là người ở trong
cuộc, Gioan đặc biệt quan tâm tới một người phụ nữ, chị Maria Mácđala. Ông gán
cho chị là Người đã được Đức Giêsu hiện ra đầu tiên (Ga 20,11-18).
Thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. Bà liền chạy về gặp ông Simôn Phêrô
và người môn đệ Đức Giêsu thương mến
Chi ta "chạy". Chi tiết này rất có ý nghĩa.
Chị chưa gặp Đức Giêsu. Chị chưa tin. Chị mới chỉ đứng trước sự
kiện ngôi mộ mở ngỏ! Đó là điều bất thường. Chị không ngờ được việc đó. Chị cảm
thấy hốt hoảng. Chị chạy đi báo tin cho các vị có trách nhiệm. Ở đoạn văn trên,
ta nên ghi nhận một tên gọi đặc biệt được gán cho "môn đệ" không nêu
rõ danh tánh: "Người môn đệ Đức Giêsu thương mến". Truyền thống vẫn
thừa nhận Gioan, tác giả của trình thuật trên, là chính người môn đệ đó. Ngoài
ra, trong nhóm Mười Hai, không phải là không có sự ghen tị, vì Gioan vẫn thường
được Đức Giêsu quan tâm cách hết sức đặc biệt. Chi tiết này cũng rất quan
trọng. Ta nên ghi nhận điều đó.
Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi
chẳng biết họ để Người ở đâu
Lúc này, chị mới chỉ đưa ra giả thuyết: Người ta đã đem Chúa đi
khỏi mộ. Người ta không giải thích sự kiện theo lý trí: Vì quá mong ước Người
sống lại, nên không tránh khỏi một ảo giác. Đúng ra, tất cả các bản văn đều nói
ngược lại.
Rõ ràng, trình thuật trên được kể lại để giúp ta cảm thấy rằng,
sự kiện ngôi mộ trống không là một bằng chứng, tự nó có khả năng khiến ta tin.
Tuy nhiên, ngôi mộ trống kỳ diệu đó là một đối tượng đòi hỏi ta phải thắc mắc.
Chỉ vỏn vẹn trong một trang, mà từ "ngôi mộ" được nhắc tới bảy lần!
Cho đến lúc này, mới chỉ có thế!
Ông Phêrô và môn đệ kia liền đi ra mộ. Cả hai người cùng chạy.
Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phêrô và đã tới mộ trước
Gioan nhớ lại, ông đang ở đó. Nhưng giải thích chi tiết hơn, chỉ
nguyên dựa vào sự kiện chưa đủ. Còn một yếu tố khác Gioan nhận ra một biểu
tượng: Phêrô có thể tự để cho kẻ khác vượt qua mình, để cho các môn đệ hăng say
hơn đi trước ông. Và đó không phải là trường hợp duy nhất Gioan đã đi trước
Phêrô (Ga 13,24; 18,12-16; 21,20-23). Nhưng tại sao ở đây lại nhấn mạnh đến
điểm bất thường này?
Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không
vào. Ông Simôn Phêrô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những
băng vải để ở đó, và khăn che đầu Đức Giêsu. Khăn này không để lẫn với các băng
vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi.
Cách dịch sát nhất bản văn Hy Lạp, do Gioan đã mục kích và viết
lại có thể như sau: "ông nhìn thấy băng vải bung ra, và khăn quấn đầu
Ngài, không tuột ra cùng với băng vải, nhưng được cuốn lại riêng biệt, đặt đúng
chỗ của nó".
Tóm lại, không có bàn tay bên ngoài nào đã tham dự vào. Chỉ thấy
thân xác đã biến mất, và những khăn liệm tuột bung ra tại chỗ. Gioan cũng ghi
nhận rằng, khăn quấn đầu (đó là thứ băng vải quấn chung quanh đầu để giữ quai
hàm, theo như tập quán tẩm liệm của người Do thái) vẫn còn ở đó, được cuốn lại
đặt đúng chỗ, bên trong băng vải.
Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào
Gioan nhấn mạnh: chính ông cũng bước vào!
Đó không thể là một chi tiết không quan trọng, không ý nghĩa.
Ông đã thấy và đã tin.
Phêrô vẫn chưa hiểu gì. Khi thuật lại cảnh Phêrô đến thăm mộ,
Luca nói rõ ràng, ông ta chỉ chứng kiến, nhưng trở về nhà rất đỗi ngạc nhiên,
không hiểu gì hết" (Lc 24,12).
Maria Mácđala đã giải thích theo kiểu nhân loại: "Người ta
đã đem Chúa đi khỏi mộ".
Phêrô thì không hiểu gì hết.
Còn Gioan sáng suốt hơn, "ông đã thấy và đã tin".
Vây ông đã thấy những gì?
Ông đã chứng kiến cũng một sự việc như Phêrô, nhưng Phêrô không
biết giải thích.
Để tin, cần phải có đôi mắt của tâm hồn. Cần những con mắt của
tình yêu. Giờ đây chúng ta mới hiểu rõ, tại sao Gioan lại nói đến "người
môn đệ Đức Giêsu thương mến". Vì tình yêu này mà Gioan đã chạy nhanh hơn!
Vì tình yêu này mà ông là người đầu tiên đã tin sau này, trên bờ hồ Galilê,
chính "người môn đệ Đức Giêsu thương mến" sẽ nhận ra Đức Giêsu trước
Phêrô (Ga 21,7).
Ở đây chúng ta lại nhận thấy tình yêu luôn tác động tới đức tin.
Những người nắm giữ quyền bính trong Giáo hội chưa hẳn đã có đặc ân này. Thay
vì ganh tị nhau "quyền bính", trong Giáo hội, tất cả chúng ta được
mời gọi trở nên những người đi tiên phong "trong tình yêu". Đó là
điều quan trọng hơn cả.
Ông đã thấy và đã tin.
Đối với Gioan, sự kiện khăn liệm được sắp xếp gọn gàng là một
dấu chỉ còn ý nghĩa hơn ngôi mộ trống. Khi vừa nhìn thấy "băng vải tuột
ra" và "khăn quấn đầu vẫn ở nguyên tại chỗ", nhờ một thứ trực
giác soi sáng, ông đã nhận ra ngay rằng, Người đã không thể dùng tay chân mà di
động thân xác ra khỏi mộ, nhưng chỉ có thể Người đã hết hiện hữu cách thể lý
bên trong những khăn băng tẩm liệm vẫn còn y nguyên.
Thế mà những dấu chỉ đó đã không nói lên điều gì với Phêrô.
Dấu chỉ không có khả năng "trao ban đức tin" cho một
ai. Dấu chỉ không tuyệt đối thúc ép ta. Cần phải vượt qua "cái thấy
được", để đi tới "điều tin nhận". Chính Đức Giêsu sắp tuyên bố:
"Phúc thay những người không thấy mà tin" (Ga 20,29). Như thế, Gioan
đã tỏ ra là một môn đệ tuyệt vời: Ông tin, dù không thấy.
Đức tin cũng tương tự như những thực tại thâm sâu của con người.
Chúng ta không bao giờ thấy được tình yêu mà những người yêu chúng ta. Chúng ta
chỉ nhận được những dấu hiệu của tình yêu. đó. Do đó, những dấu chỉ trên đây
chỉ thông tỏ ý nghĩa cho những ai biết đoán nhận ra chúng. Một cử chỉ, một lời
nói, một sự vật là những cử chỉ còn hàm hồ, bấp bênh! Chúng cần phải được giải
thích, nhưng không phải là không có nguy cơ sai lầm: "Sự việc đó muốn nói
với tôi điều gì đây? Tôi cần phải hiểu cử chỉ đó thế nào?" Đó là điều rất
cảm động trong mọi cuộc gặp gỡ của con người. Cuộc gặp mặt nào cũng đòi buộc
những kẻ tham dự phải ở trong tình trạng cởi mở và quan tâm chú ý. Tất cả chúng
ta đâu có kinh nghiệm chua xót, vì đã ra một dấu hiệu mà không được hiểu biết,
đã phát biểu một lời mà không được đón nhận, đã làm một cử chỉ mà người ta giải
thích sai. Hai người cần phải yêu thương nhau hết tình thì sứ điệp trao đổi mới
được nhận biết trọn vẹn ý nghĩa.
Vì thế, sự kiện "mộ trống" và "những khăn liệm
được sắp xếp gọn gàng", chỉ những ai yêu nhiều, mới có thể hiểu được.
Ta cũng cần hiểu các bí tích, như những dấu chỉ giống thế.
Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức
Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết
Đúng hơn, ta nên dịch câu trên như sau: "Các ông không hiểu
Kinh Thánh nói rằng, Ngài phải Phục sinh kẻ chết".
Thực vậy, các sự kiện chưa đủ! "Ngôi mộ trống" chỉ là
một dấu chỉ đối với Gioan, trước khi ông gặp Đức Giêsu trong những lần hiện ra,
bởi vì ông đã để cho Thánh Thần lay chuyển, mạc khải cho ông ý nghĩa của dấu
chỉ. Trước những chứng cớ ông ghi nhận, Gioan còn biết nhớ lại những đoạn Kinh
Thánh của Đức Giêsu đã trích dẫn cho các ông (Hs 6,2; Tv 2,7; Gn 2,I).
Ta cũng nên hành xử như thế, trước những biến cố của đời sống.
Chúng ta chỉ có thể hiểu sâu sắc các biến cố đó, nếu ta làm sáng tỏ chúng, nhờ
việc luôn suy niệm Lời Chúa, trong Thánh Thần.
Chính tình yêu làm cho ta hiểu rõ chân lý: Muốn tin, cần phải
yêu mến.
28. Chú giải của Fiches Dominicales
NGÔI MỘ MỞ TUNG VÀ TRỐNG RỖNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Người đang sống
Thật nghịch lý, Tin Mừng ngày lễ Phục sinh chỉ dừng lại ở chỗ
khám phá ra ngôi mộ mở tung và trống rỗng mà không dẫn ta đi đến cùng câu
chuyện, cho đến khi gặp Maria Madalêna cùng với Đấng Phục sinh và lời loan báo
cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Đức Chúa, và đây là lời Người nói với tôi
(câu 28). Dường như phụng vụ hôm nay muốn mời ta đi lại hành trình đức tin theo
gót những chứng nhân đầu tiên.
Trong đoạn Tin Mừng ta đọc sáng nay, tác giả rõ ràng đã sắp xếp
một quá trình "tiệm tiến gây ấn tượng".
- Trước tiên đó là những "di chuyển" rất nhiều và rất
nhanh: động từ "chạy" được lặp lại ba lần chỉ trong một câu. Sau khi
khám phá ra ngôi mộ mở tung, Maria Madalêna chạy đi tìm Simon Phêrô và môn đệ
kia. Simon Phêrô và môn đệ kia chạy đến mồ, môn đệ kia tới trước. Các cuộc chạy
nối tiếp nhau để tìm ra một câu trả lời đầu tiên cho câu hỏi không thể hiểu nổi
về ngôi mộ mở tung và trống rỗng.
- Kế đó là những "dấu chỉ" ngày càng rõ nét (với những
động từ "nhìn", "thấy"), và "lời giải thích" về
các dấu chỉ do chính các tác nhân đưa ra.
- Maria Madalêna "thấy" phiến đá lập cửa mồ "được
cất đi", và kết luận rằng thi thể của Thầy mình cũng đã "bị lật
đi". Môn đệ kia tới trước. Tuy nhiên ông không vào mộ trước Phêrô,
"cúi xuống, ông thấy tấm khăn liệm còn đó".
- Còn Simon Phêrô, sau khi đã vào trong mộ. "Ông nhìn tấm
khăn liệm nằm đó, tấm vải phủ đầu không ở cùng chỗ với khăn liệm, nhưng cuộn
lại và để riêng ra". Khác với Tin Mừng của Luca (24, 12) gợi lên ở đây sự
"kinh ngạc" của Phêrô, thánh Gioan không đi xa hơn những gì nhận
thấy. Mãi sau này, khi đã gặp gỡ Đấng Phục sinh và đã nhận tràn đầy Thánh Thần,
Phêrô mới hiểu tại sao ngôi mộ lại trống và tâm hồn ông mới mở ra để hiểu lời Thánh
Kinh. Tin Mừng thứ tư nói rõ: "Thật vậy cho đến lúc ấy các môn đệ vẫn chưa
tin rằng theo Thánh Kinh Đức Giêsu phải phục sinh từ trong kẻ chết".
- Riêng người môn đệ kia, sau đó cũng vào mộ, ông nói rằng ngay
lần cảm nghiệm phục sinh đầu tiên đó "ông đã thấy và ông đã tin".
2. Và ông đã tin
Dưới mắt Giáo Hội, Phêrô vào trước và đương nhiên trở thành
chứng nhân thứ nhất. Trái lại, "Môn đệ kia" được trình bày ở đây như
mẫu mực của người môn đệ, người môn đệ tuyệt hảo; "Người môn đệ được Đức
Giêsu yêu mến"; Người trong bữa Tiệc ly đã "tựa đầu vào lòng Đức
Giêsu", với trực giác của tâm hồn, đã nhìn thấy trong cõi rỗng không của
ngôi mộ, vị trí của tấm vải liệm -xếp đặt gọn gàng chứ không bừa bãi- biết bao
dấu chỉ về một thực tại khác, chỉ có đức tin mới cảm nhận được: "Ông đã
thấy và ông đã tin". Theo ông, chẳng có ai "lấy đi" thi thể của
Đức Giêsu như Maria Madalêna đã loan báo: Kẻ cắp nếu đã lấy trộm xác Thầy làm
sao có thời giờ cởi bỏ vải liệm rồi cẩn thận xếp đặt gọn gàng đến thế? Theo
ông, sự chết đã hoàn toàn bị sự sống tước đoạt hết sức mạnh. Trong ông đã hình
thành một 'chuyển biến từ thấy đến hoàn toàn tin' vào Đức Giêsu phục sinh. Khăn
liệm được xếp đặt ngay ngắn đã chứng tỏ rằng thi thể Đức Giêsu không hề bị lấy
cắp, nhưng chính Đức Giêsu đã đi ra, để lại khăn liệm gọn gàng thứ tự tại nơi
Người đã được liệm. Khác với Lazarô đi ra vẫn quấn khăn liệm, Đức Giêsu chẳng
cần y phục vì Người giã từ thế giới loài người" (A. Marchadour, "Tin
Mừng thánh Gioan". Ccnturion, trg 244).
Là một trong những chứng nhân đầu tiên đã "thấy Đức Giêsu
Phục sinh, người môn đệ kia đồng thời là mẫu mực cho những ai tin theo lời
chứng của ông: "tin dù không thấy" (Ga 20, 29, Tin Mừng Chúa nhật
tới).
BÀI ĐỌC THÊM
1. Khi sinh ra trong đức tin. Phêrô và Gioan mời ta theo các ngài:
('Cử hành' -tạp chí của Trung tâm Quốc gia về Mục vụ và phụng
vụ, số 237, trg 41-42).
Các động từ chỉ sự di chuyển tràn ngập trình thuật: ra đi, chạy,
vào những động từ ấy nói lên các giai đoạn trong hành trình của các môn đệ đồng
thời kéo theo hành trình của độc giả. Hành trình này không kết thúc ở đoạn cuối
của một giai thoại. Các cuộc hiện ra với Maria Mađalêna, với các môn đệ, với
Tôma, vẫn còn biết bao chặng đường thiết yếu để đi đến cùng: "Tin dù không
thấy" và "tin nhờ vào quyển sách của các chứng nhân" (Ga 20,
29-31).
Trong chặng đầu tiên, ta đuổi theo một câu trả lời đầu tiên. Bí
hiểm ngay ở khởi điểm: "Chúng tôi không biết họ đã đặt Đức Chúa ở
đâu". Cần một cuộc điều tra. Một hoạt động từ thứ hai điểm nhịp theo tiến
trình: nhìn, thấy. Ta đi từ ghi nhận này đến ghi nhận khác. Ghi nhận đầu tiên
là của Maria Mađalêna: tảng đá được cất đi, thi thể bị lấy đi. Ghi nhận thứ hai
là của các môn đệ: vải liệm xếp gọn gàng. Ghi nhận thứ ba nhưng liệu có trùng
với hai ghi nhận trên không? Người môn đệ Đức Giêsu yêu quý "đã thấy và đã
tin".
Ánh sáng đức tin phát xuất từ Kinh Thánh và Lời Đức Giêsu. nhưng
ngôi mộ mở tung, đầy những dấu chỉ của một thi thể người chết nhưng biến mất,
bước đầu cho phép ta có cảm tưởng rằng Đức Chúa đang sống ở nơi khác. Hai con
người đang sinh ra trong đức tin, mỗi người cất bước theo con đường riêng, dắt
dìu nhau. Họ mời ta hãy bước theo họ.
2. Tại ngôi mộ để ngỏ
(G. Boucher trong "Thiên đường tại thế")
Buổi sáng hôm ấy một phụ nữ, Maria Madalena đến viếng mộ Đức
Giêsu. Nhưng, sững sờ: cửa mộ để ngỏ, mở tung ra. Ai đã lăn tảng đá lấp cửa mộ
ra rồi. Thoạt nhìn ngôi mộ mở tung gợi lên một trò lừa đảo, gian lận, một trò
bỡn cợn đê tiện hoặc một sự tục hoá không chấp nhận được.
Phải, phản ứng thế nào trước một xì căng đan như thế trước hết
Maria Madalêna tham vấn các môn đệ. Bà chạy đến với Phêrô. Tức tốc Phêrô và
Gioan thoát ra khỏi tính e dè, khỏi sự im lặng sợ sệt. Ông rời bỏ nơi ẩn náu.
ông chạy đến xem và ghi nhận tại chỗ. Thật là một sự báng bổ, ghi nhận đầu tiên
là thế.
Phêrô và Gioan cùng chạy. Họ chạy đến ngôi mộ mở ngỏ. Họ phải
đối diện với một biến cố quan trọng. Và Gioan đã thấy. Ông đã thấy và đã tin.
Gioan thấy. Mà thấy gì? Chẳng thấy gì cả! Có gì đâu mà thấy. Vậy
mà điều ông thấy đã khiến ông tin.
Ta hãy cùng Gioan cúi xuống. Ta thấy gì? Một lỗ hổng đen ngòm,
đầy màu trắng. Một sự trống rỗng mênh mông chứa đầy sự sống. Những vật trang
hoàng cho lễ tang đã biến thành y phục sáng láng. Một sự vắng mặt la lên sự có
mặt. Một sự im lặng chết chóc hùng hồn hơn tất cả những bài diễn văn. Một bức
tường chỉ thấy được phần bị khoét lỗ. Một kết thúc tất cả mang vóc dáng sự khởi
đầu. Một cái chết nối kết với một sinh thành. Một mầu nhiệm mà ta khám phá ra
bí quyết.
Ai đã sáng chế ra từ ngữ ngôi mộ trống rỗng? Ngôi mộ đâu có
trống rỗng. Bằng chứng là Gioan thấy được trong mộ chân dung đích thực của Đức
Giêsu, bạn ông.
Ngôi mộ đâu có trống rỗng. Đâu có hoang vu. Đâu có câm nín. Đâu
có bay mùi chết chóc. Ngôi mộ nói. Nó sẽ nói. Hôm nay nó vẫn còn nói với ta. Ta
sẽ bỡ ngỡ. Vì sự vắng mặt ấy tuy to lớn như một nấm mồ, lại là một sự hiện
diện, vĩ đại như một phép lạ.
Dưới ánh mắt của não trạng hiện đại đã ăn sâu vào mỗi người,
chết là chấm dứt tất cả. Là dấu chấm hết. Sau đó chẳng còn gì. Chẳng còn gì
ngoài đêm đen. Chẳng còn gì ngoài sự trống rỗng và hư vô. Cái chết khép lại tất
cả. Cái chết giam kín ta.
Nhưng này đây cái chết mở ra. Ngôi mộ của Người mở tung. Mở ra
một mầu nhiệm lớn lao. Một mầu nhiệm loan báo sự sống. Có tên là chỗi dậy. Phục
sinh.
Ngôi mộ mở tung lòng trí và tâm can ta. Ký ức ta lấy được sự
sống và hồi sinh. Ta mở lòng ra cho đức tin. Sau cùng ta hiểu rằng khi vượt qua
bức tường sự chết, khi nâng tảng đá cửa mộ lên, Đức Giêsu hoàn thành cuộc phục
sinh đã báo trước.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét