CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY C
Lời Chúa: Is 43,16-21; Pl 3,8-14; Ga
8,1-11
MỤC LỤC
1. Lòng thương xót của Chúa
2. Gặp gỡ Đức Kitô
3. Đừng phạm tội nữa
4. Lòng thương xót của Thiên Chúa
5. Tội bắt quả tang – Thiên Phúc
6. Tình thương cứu độ
7. Chiến thắng sự dữ và tội lỗi – R.
Veritas
8. Suy niệm của Radio Veritas Asia
9. Dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân
đời sống
10. Hãy về và đừng phạm tội nữa – R.
Veritas
11. Bắt đầu lại cuộc sống mới trong ân
sủng
12. Nhìn vào nội tâm để nhận biết tội
mình
13. Đừng kết án anh em
14. Làm chứng cho lòng từ bi vô biên
15. Người phụ nữ ngoại tình - McCarthy
16. Hãy đi, đừng phạm tội nữa
17. Tha thứ trong thinh lặng
18. Lòng Chúa khoan dung
19. Lòng thương xót
20. Khoan dung
21. Thức tỉnh
22. Thiên Chúa đang làm điều mới
23. Luật yêu thương đòi hỏi thông cảm
và tha thứ
24. Chú giải của Noel Quesson
25. Chú giải của Fiches Dominicales
1. Lòng thương xót của Chúa.
Người Do Thái là những kẻ xác tín rằng
con người chỉ có thể được coi là công chính nếu tuân giữ trọn vẹn luật Maisen.
Thực ra, nếu họ là những người sống công chính theo lề luật, thì điều đó tự nó
không phải là một chuyện xấu, mà còn tốt nữa là đàng khác. Nhưng cái làm cho họ
trở thành những kẻ xấu và thậm chí có thể là những kẻ ác, đó là vì họ vênh vang
tự đắc về cái thành tích giữ luật của mình, và nhất là tự biến mình thành những
"cảnh sát" của đạo, những loại chó săn, chuyên môn đi rình mò, đánh
hơi để tố cáo những người phạm luật. Và họ không ngại nhân danh lề luật, nhân
danh lòng nhiệt thành bảo vệ luật pháp mà lên án và ném đá những kẻ lỗi luật.
Câu chuyện người đàn bà ngoại tình hôm
nay thật là tiêu biểu cho cái thái độ đạo đức giả của những tín đồ Do Thái
cuồng tín và cái ác ý của họ. Thực ra ở đây họ không chỉ nhằm tố cáo những phụ
nữ yếu đuối đáng thương, nhưng chủ yếu là giăng trước mặt Chúa Giêsu một cạm
bẫy: Họ tố cáo người phụ nữ ngoại tình để gài bẫy bắt lỗi chính Chúa Giêsu và
như vậy để có bằng chứng tố cáo Ngài.
Chúng ta biết rằng luật Maisen truyền
ném đá giết chết những kẻ ngoại tình. Nhưng vào thời Chúa Giêsu, thì quyền xử
tử đã bị tước khỏi người Do thái, vì chỉ có tổng trấn Rôma, đại diện hoàng đế
tại Giêrusalem mới có quyền ấy. Vậy nếu Chúa Giêsu tuyên bố là phải ném đá
người phụ nữ, thì họ sẽ đi tố cáo với quan tổng trấn là Ngài đã phạm pháp. Còn
nếu như Ngài tuyên bố là tha bổng thì điều đó có nghĩa là Ngài không tôn trọng
luật Maisen.
Chúa Giêsu đã phá vỡ cạm bẫy của họ
bằng cách giăng trước mặt họ một cạm bẫy tinh vi hơn nhiều. Ngài bảo họ: Ai
trong các ông vô tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Thế là "dĩ đào vi
thượng sách", bọn biệt phái liền đánh bài chuồn. Tác giả Kinh Thánh đã hóm
hỉnh ghi lại một chi tiết: Họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những
người lớn tuổi. Sở dĩ như thế là vì câu thách thức của Chúa Giêsu khiến cho mỗi
kẻ trong bọn họ phải ngó lại chính lương tri của mình và khám phá ra rằng: mình
càng già thì càng lắm tội.
Lời nói của Chúa Giêsu là ánh sáng chân
lý vạch trần sự đạo đức giả của họ. Chân mình những lấm bê bê, lại cầm bó đuốc
mà rê chân người. Như thế toà án nhân dân bỗng trở nên vắng lặng, chỉ còn lại
có tội nhân được dùng như con mồi, như cái bẫy, và Chúa Giêsu mà bọn biệt phái
muốn gài bẫy để đưa ra trước vành móng ngựa. Toà án chỉ còn lại một phạm nhân
và một người cũng đang bị kẻ khác muốn luận tội, hay nói cách khác, đối với bọn
biệt phái thì cả hai đều là những kẻ có tội đứng trước luật pháp của Maisen.
Phiên toà kết thúc một cách nhẹ nhàng với lời lẽ đầy từ bi của Chúa Giêsu: Tôi
cũng vậy, tôi không lên án chị đâu. Thôi chị cứ về và từ nay đừng phạm tội nữa.
Có người nói Chúa Giêsu đã giải tội mà
quên cả việc đền tội, quên cả công thức giải tội. Thái độ của Chúa Giêsu thật
khoan dung độ lượng với người tội lỗi, còn chúng ta thì ssao, chúng ta đối xử
như thế nào đối với những kẻ tội lỗi?
2. Gặp gỡ Đức Kitô.
Gặp gỡ người khác trong cuộc đời là
chuyện thường ngày. Tuy nhiên có những cuộc gặp gỡ đã ghi lại dấu ấn sâu xa.
Chẳng hạn gặp người bạn khác phái để rồi yêu thương và cùng nhau xây dựng mái
ấm gia đình. Gặp thầy gặp thuốc trong cơn bệnh nặng để tồi được chữa lành. Gặp
người bạn biết an ủi khích lệ để rồi tìm thấy niềm vui mừng và hy vọng. Đó là
những cuộc gặp gỡ cứu sống, biến đổi toàn bộ con người và cuộc đời chúng ta.
Còn với Đức Kitô thì sao? Cuộc gặp gỡ
với Ngài có phải là cuộc gặp gỡ cứu độ như một bài hát quen thuộc: Gặp gỡ Đức
Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh... Qua Tin
mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau dừng lại để suy nghĩ về những cuộc gặp gỡ với
Chúa.
Trước hết là cuộc gặp gỡ Chúa của bọn
biệt phái. Họ đến gặp ngài để hỏi Ngài xem có nên ném đá người đàn bà ngoại
tình, mà chiếu theo luật Maisen, sẽ bị ném đá cho chết. Thế nhưng bên trong, họ
muốn gài bẫy làm hại Ngài. Bấy giờ Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên
đất. Ngài thinh lặng và bình tĩnh làm như không có chuyện gì xảy ra. Ngài không
giận dữ, vạch mặt chỉ tên những kẻ giả hình. Ngài kiên nhẫn chờ đợi. Một sự im
lặng dành cho những kẻ đang hung hăng đòi lên án, đang mưu đồ ám hại người
lành. Một sự im lặng như để mời gọi họ hãy tự xét về chính hành động của mình.
Song họ đã không hiểu được ý Ngài. Vì họ cứ hỏi mãi, nên cuối cùng Ngài mới
nói: Ai trong các ông sạch tội thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi. Rồi Ngài lại
cúi xuống viết trên đất như chẳng có chuyện gì xảy ra cả.
Thế nhưng có chuyện đã xảy ra, bởi vì
họ bắt đầu bỏ đi, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi nhất.
Chúa Giêsu đã tỏ ra hiền lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và khoan dung. Ngài
luôn trân trọng đối với những bậc thầy trong dân, những người trí thức, có một
tinh thần đạo đức nào đó. Không có chuyện kết án, phạt tội nhãn tiền. Trong
thái độ yên lặng và kiên nhẫn, Ngài mời gọi họ hãy trở về với cõi lòng của
mình, với chính cuộc sống của mình mà suy xét và hành động cho xứng hợp. Ngài
mời gọi họ sống ý thức chân thật, chứ đừng hung hăng mà đánh mất chính mình.
Như thế chẳng phải là Ngài đã cứu họ sao? Ngài cứu họ khỏi mưu kế giết chết hai
người, là người đàn bà và chính họ nữa.
Tiếp đến là cuộc gặp gỡ của người đàn
bà ngoại tình. Chị bị dẫn độ đến gặp Ngài. Chị thật xấu hổ, đứng im như tượng
đá, mặt cúi xuống, sẵn sàng đón nhận hình phạt nặng nề nhất do hành vi sai phạm
của mình. Thế nhưng Chúa Giêsu vẫn im lặng làm ra vẻ không có chi quan trọng để
phải dùng đao to búa lớn đối với con người hèn yếu này. Ngài cúi xuống và viết
trên cát. Ngài hiền lành và khiêm nhường, kiên nhẫn và đợi chờ, cho đến khi
chẳng còn một ai, mới ngẩng đầu lên và hỏi: Họ đâu cả rồi, không ai kết án chị
sao? Phải chăng Ngài muốn mời gọi chị đích thân kiểm tra sự thay đổi tình hình
đang xảy ra, một sự thay đổi do chính thái độ của Ngài gây nên. Và sau đó, Ngài
mới kết luận, mới tỏ thái độ của mình: Tôi không lên án chị đâu. Chị hãy về và
từ nay đừng phạm tội nữa. Qua đó Chúa muốn nói: chị đã phạm tội và đáng bị lên
án. Nhưng chị đã gặp được Ngài, là tình yêu tha thứ. Ngài tin tưởng ở chị một
sự thoát xác, một sự đổi đời. Chị đã được thoát chết, thì kể từ giờ, chị hãy
tỉnh ngộ và hướng dẫn đời mình theo một chiều hướng tích cực hơn.
Chúng ta không biết điều gì đã xảy ra
cho bọn biệt phái và người đàn bà sau cuộc gặp gỡ với Đức Kitô. Nhưng qua bài
đọc thứ hai, chúng ta biết được sự chuyển biến nơi thánh Phaolô sau khi gặp
được Đức Kitô trên đường đi Đamas. Trước kia, Phaolô đã coi Đức Kitô như kẻ thù
không đội trời chung và Phaolô đang lùng bắt những người tin theo Ngài. Cuộc
gặp gỡ với biến cố ngã ngựa đã khiến cho Phaolô trở về với chính mình. Và sau
một thời gian ẩn mình trong hoang địa, Phaolô đã bị Đức Kitô chinh phục và đã
hoàn toàn đổi thay hướng đi cho cuộc đời mình.
Xuyên qua những cuộc gặp gỡ trên, Chúa Giêsu
đều mời gọi chúng ta bước đi trên con đường cứu độ, trở lại với chính mình để
rồi từ đó xác định hướng đi mới cho cuộc đời, như bài hát chúng ta thường nghe:
Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời mình. Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái
sinh...
3. Đừng phạm tội nữa
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Bị bắt quả tang phạm tội là điều đáng
xấu hổ. Nhưng nếu tội đó là tội ngoại tình thì thật là kinh khủng.
Ta cần hình dung người phụ nữ ấy, xốc
xếch, rối bù, bị lôi đi, mắt cúi xuống tránh những cái nhìn khinh miệt.
Trời tang tảng sáng, nơi Đền Thờ
Giêrusalem, Đức Giêsu đang ngồi giảng dạy cho đám đông. Chị ta bị đặt trước mặt
Ngài, đứng ngay giữa. Các kinh sư và pharisêu hí hửng với cái bẫy của mình.
Người phụ nữ này thật là một cơ may hiếm có để họ có bằng chứng tố cáo Ngài.
"Luật Môsê truyền cho chúng tôi
phải ném đá hạng người này. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?".
Quả là một câu hỏi bất ngờ, lịch sự và
nham hiểm.
Đức Giêsu không thể nói ngược với luật
Môsê, và cũng không thể nói ngược với trái tim của mình. Ngài cúi xuống, lấy
tay vẽ nguệch ngoạc trên đất. Có vẻ như Ngài thờ ơ, không muốn can dự vào hay
Ngài đang suy nghĩ cho ra câu trả lời thích hợp.
Thời gian thinh lặng trôi qua, các kẻ
tố cáo sốt ruột. Họ đắc thắng gặng hỏi, tưởng Ngài bị dồn vào thế bí.
"Ai trong các ông vô tội thì hãy
ném đá trước đi." Ngài trả lời, rồi lại cúi xuống viết trên đất. Câu trả
lời của Ngài bất ngờ vang trong tĩnh lặng, bắt người ta phải trở về đối diện
với lòng mình. Ai dám tự hào mình vô tội?
Có bao tội bất trung nặng chẳng kém tội
ngoại tình.
Có bao tội ngoại tình thầm kín không bị
bắt quả tang.
Có bao tội ngoại tình trong tư tưởng và
ước muốn.
Khi tố giác người khác, người ta thường
quên tội của mình. Không thấy cái xà ở mình mà lại thấy cái rác nơi người khác.
Các kinh sư và pharisêu đã khiêm tốn
xét mình. Họ lần lượt rút lui, gián tiếp nhận mình có tội. Kẻ trước người sau,
người lớn tuổi đi trước. Chúng ta trân trọng thái độ chân thành của họ. Họ ra
đi, để lại hai người mà họ tố cáo và định tố cáo. Cuối cùng chỉ còn lại người
đáng thương và chính Tình Thương.
Bầu khí trở nên nhẹ hơn, êm hơn cho
cuộc đối thoại.
Đấng duy nhất có thể ném đá lại nói:
"Tôi không lên án chị đâu! Chị về đi, từ nay đừng phạm tội nữa."
Lắm khi việc áp dụng luật lại dẫn đến
bế tắc.
Ném đá quả là một hình phạt răn đe hữu
hiệu, nhưng lại không ích lợi gì cho người phạm tội.
Đức Giêsu chẳng những đã cứu một mạng
người, Ngài còn làm sống lại một đời người.
Dù con người vốn yếu đuối, dễ sa ngã,
nhưng Ngài vẫn tin tưởng, yêu mến và hy vọng vào họ.
Ngài không dung túng cái xấu, nhưng
Ngài khơi dậy cái tốt còn đang yên ngủ nơi người phụ nữ và cả nơi các kinh sư.
Gợi Ý Chia Sẻ
Chỉ có tình thương mới biến đổi được
con người. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin người phụ nữ ngoại tình sẽ đổi
đời không?
Để sống với nhau cần có luật lệ và
nguyên tắc. Có khi nào bạn thấy luật lệ bóp chết con người không? Cần phải làm
gì để tránh rơi vào những nguyên tắc cứng nhắc?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính
mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa: vươn lên cao, vượt mọi tình
cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi hờn oán nhỏ
nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong
sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn
con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành
công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người
con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để có
thể ôm cả những người thù ghét con.
4. Lòng thương xót của Thiên Chúa
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt)
Càng đi sâu vào mùa Chay, ta càng đi
sâu vào tình yêu của Thiên Chúa. Tuần trước ta đã được tắm gội trong tình yêu
tràn trề của người cha nhân hậu. Tuần này ta lại được hưởng nếm lòng khoan dung
nhân hậu của Chúa Giêsu.
Bài Tin Mừng hôm nay trình bày một
phiên toà. Bị cáo là người phụ nữ. Nguyên cáo là các Kinh sư và những người
Pharisêu. Tội phạm là tội ngoại tình. Bản án là tử hình bằng cách ném đá. Thực
ra họ không cần đến Chúa Giêsu làm quan toà. Họ có thể căn cứ vào luật Môsê để
thi hành án. Họ đến hỏi ý kiến Chúa Giêsu không phải với thiện ý nhưng nhằm gài
bẫy Người. Tha cho người phụ nữ là Người chống lại luật Môsê. Kết án người phụ
nữ là Người mâu thuẫn với chính mình vì Người vẫn giảng dậy về lòng nhân từ
thương xót. Cái bẫy thật hiểm độc. Đằng sau bản án của người phụ nữ chính là
bản án dành cho Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu im lặng, cúi xuống viết trên
đất. Người im lặng vì không đồng tình với thái độ của họ. Người im lặng để mọi
người có thời gian lắng đọng tâm hồn. Người không trả lời vì câu hỏi họ đặt
chưa đúng chỗ. Người không trả lời câu hỏi của họ để đưa ra cho họ một câu hỏi
khác cơ bản hơn.
Người cúi xuống để người phụ nữ khỏi
xấu hổ. Người cúi xuống để những Kinh sư và những người Pharisêu biết nhìn vào
tâm hồn mình. Người cúi xuống buồn phiền vì sự độc ác của con người.
Vì họ cứ hỏi mãi nên Người đành ngẩng
lên. Họ chờ đợi Người lên tiếng thì Người lên tiếng. Nhưng lời Người khiến họ
chới với. "Ai trong các ông sạch tội, cứ việc lấy đá mà ném trước
đi". Họ mời Chúa Giêsu làm quan toà xét xử người phụ nữ, không ngờ Chúa
Giêsu lại trở thành quan toà xét xử họ. Họ đợi chờ Chúa Giêsu kết án người phụ
nữ, không ngờ Chúa Giêsu lại kết án họ. Họ mang đá đến để ném vào người phụ nữ,
không ngờ Chúa Giêsu lại ném một hòn đá vào lương tâm họ.
Có điều, họ muốn Chúa Giêsu làm quan
toà giết chết, nhưng Chúa Giêsu lại là quan toà cứu sống. Hòn đá họ mang đến
với mục đích ném chết người phụ nữ. Hòn đá Chúa Giêsu ném vào lương tâm giúp
lương tâm họ sống lại, bừng tỉnh khỏi mê muội, nhận biết mình tội lỗi, nên họ
đã lần lượt rút lui không dám kết án người phụ nữ nữa.
Xét xử các Kinh sư và những người
Pharisêu rồi, Chúa Giêsu mới xét xử người phụ nữ. Với ánh mắt dịu dàng, lời lẽ
hiền từ, Người đã đưa ra lời phán xét: "Tôi không kết án chị đâu! Thôi chị
cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa". Thật là một lời phán xét lạ lùng.
Lời phán xét của Chúa không tàn nhẫn độc đoán nhưng dịu dàng nhân hậu. Lời phán
xét của Chúa không soi mói xét nét nhưng đại lượng bao dung. Lời phán xét của
Chúa không cay đắng trách móc nhưng ân cần vỗ về. Lời phán xét của Chúa không
sỉ nhục con người tội lỗi nhưng phục hồi nhân phẩm cho ta. Lời phán xét của
Chúa không giam cầm tội nhân trong quá khứ, nhưng mở ra cho ta một tương lai.
Chúa đã dứt bỏ và quên hết quá khứ lầm lỗi của ta. Chúa không nghi ngờ ta vốn
hay phản bội. Chúa hoàn toàn tin tưởng khi trao tương lai vào tay người phụ nữ:
"Hãy về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa".
Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi hiểu
rằng tình yêu và sự tha thứ của Chúa là vô điều kiện. Với lời tha thứ của Chúa
Giêsu tôi hiểu rằng con đáng quý trọng không phải ở quá khứ nhưng ở tương lai,
không phải ở cái họ đã là nhưng ở cái họ sẽ là. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu
tôi yên tâm đóng lại quá khứ để bắt đầu một tương lai mới, bước đi trong tình
yêu thương và niềm tin tưởng của Thiên Chúa. Với lời tha thứ của Chúa Giêsu tôi
hiểu rằng lòng thương xót của Chúa là vô biên. Người không lên án người phụ nữ
phạm tội, cũng không lên án những người tố cáo chị.
Lạy Chúa, con cảm tạ lòng thương xót vô
biên của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Lên án và tha thứ, bạn làm điều nào
nhiều hơn?
2. Mỗi khi xét người, bạn có xét mình
trước không?
3. Bạn có cảm nhận được lòng thương xót
của Chúa trong đời sống của bạn không?
4. Khi đã tha thứ cho ai, bạn có hoàn
toàn tin tưởng vào thiện chí của người đó không?
5. Tội bắt quả tang – Thiên Phúc.
(Trích trong 'Như Thầy Đã Yêu')
Vua Quang Vũ nhà Đông Hán có người chị
là Hồ Dương, công chúa goá chồng. Nhà vua muốn tìm cho chị người bạn trăm năm,
liền đem danh sách các quan của mình ra hỏi ý kiến chị. Công chúa nói:
"Tất cả bá quan trong triều đình chỉ có Tổng Hoằng là người có tư cách
khác thường, những người khác không sao bì kịp, vua Quang Vũ biết ý chị đã vừa
lòng Tổng Hoằng, liền bảo chị hãy ra ngồi phía sau tấm bình phong, rồi cho đòi
Tổng Hoằng đến. Nhà vua bảo:
- Ta nghe tục ngữ có câu: "Giàu
đổi bạn, sang đổi vợ" có phải thế không? Tổng Hoằng liền quỳ xuống tâu:
- Bạn bè giao du với nhau còn nghèo hèn
không nên quên nhau, người vợ trong cảnh hàn vi không nên cho xuống ở nhà dưới.
Vua Quang Vũ biết Tổng Hoằng là người
thuỷ chung, nhân nghĩa, không thể nào lay chuyển được, nên càng đem lòng yêu
mến hơn. Rồi nhà vua nói với chị: "Việc hôn nhân không thành được, con
người này không thể đem danh lợi và phú quí để mê hoặc".
Câu chuyện trên đây là một tấm gương
cao đẹp về lòng chung thuỷ, khác hẳn với câu chuyện về người phụ nữ bị bắt quả
tang phạm tội ngoại tình trong bài Tin Mừng hôm nay.
Gia đình là nền tảng của xã hội, một khi
vợ chồng đã đánh mất lòng chung thuỷ thì không những gia đình ấy bị đổ vỡ, mà
còn băng hoại đến toàn xã hội. Vì thế, các kinh sư và nhóm Pharisêu dẫn người
phụ nữ ngoại tình đến xin Chúa Giêsu xét xử là hợp lý, vì chính luật Môsê cũng
truyền phải ném đá hạng người đó. Nhưng đó chỉ là cái bẫy để có bằng chứng tố
cáo Người mà thôi.
Nếu Chúa Giêsu bảo đừng ném đá chị ta
thì lỗi luật Môsê, nếu Người truyền phải ném đá thì Người đã làm sai lời dạy
của mình là "Các con hãy yêu thương nhau". Một cái bẫy vừa tinh vi
vừa nham hiểm.
Chúa Giêsu cúi xuống vẽ trên đất. Người
đang viết tội của họ ra hay Người đang suy nghĩ tìm câu trả lời, điều đó không
ai biết nhưng có một điều chắc chắn là họ đang đắc thắng vì dồn ngược Người vào
chân tường, họ sốt ruột nên gặng hỏi mãi. Người đã trả lời một câu như mũi dao
xoáy vào tâm can họ, và mũi dao ấy vẫn tiếp tục xoáy vào lương tâm mỗi người
chúng ta khi nghe lại lời đó: "Ai trong các ông vô tội thì hãy ném đá
trước đi".
Quả thật, không một ai dám can đảm ném
hòn đá đầu tiên, và cũng chẳng có hòn đá cuối cùng. Có chăng chỉ là những bàn
tay cách đây ít phút nắm chặt những viên đá đầy sát khí chuẩn bị tấn công, giờ
đây đang nới lỏng các cơ bắp để các viên đá kia lặng lẽ kín đáo rơi nhẹ nhàng
trên đất.
Vâng, không ai dám tự hào mình vô tội.
Có biết bao tội bất trung bất nghĩa còn xấu xa chẳng kém tội ngoại tình. Có
những tội ngoại tình trong ước muốn, trong tư tưởng. Có những tội ngoại tình
lén lút chẳng ai hay.
Dường như ngày nay người ta chỉ nhận
mình phạm tội khi bị bắt quả tang, còn những tội phạm trong thầm kín thì kể như
không có. Vì thế người ta tìm mọi cách để che đậy, giấu giếm những hành vi tội
lỗi để không ai bị bắt quả tang. Và họ cứ an tâm thanh thản trong cuộc sống. Họ
hoàn toàn đánh mất cảm thức về tội lỗi.
Có một điều trớ trêu là khi người ta
thấy một ai đó bị bắt quả tang phạm tội, họ không ngại ngùng vung hòn đá ra ném
vào người đó. Có lẽ để gián tiếp minh chứng mình vô tội chăng? Người ta dễ dàng
bỏ qua cho mình, nhưng lại không buông tha cho kẻ khác. Tuy nhiên, Đấng duy
nhất vô tội lại chẳng lên án tội nhân: "Tôi không lên án chị đâu? Chị hãy
về đi, từ nay đừng phạm tội nữa!". Thật là an ủi biết bao cho chúng ta,
những con người tội lỗi. Chúa không răn đe, không sửa phạt, chỉ an ủi, khích
lệ, tin tưởng và hy vọng nơi chúng ta. Người không giết chết, nhưng cứu sống.
Người không dung túng cho tội lỗi, nhưng nâng đỡ kẻ có tội. Người ghét tội
nhưng lại thương xót tội nhân.
Lạy Chúa, chúng con rất sợ bị bắt quả
tang đang phạm tội. Nhưng có tội nào chúng con phạm mà Chúa chẳng am tường. Xin
cho chúng con biết cởi bỏ những mặt nạ giả dối, để luôn sống chân thật và trong
sáng trước mặt Chúa và anh em.
Nếu Chúa đã không lên án chúng con, thì
xin Chúa giúp chúng con đừng bao giờ kết án anh em của mình. Amen.
6. Tình thương cứu độ
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Văn hào Ngài Léon Tolstoi có kể câu
chuyện: Có một người hành khất nọ đến trước cửa nhà của một người giàu có để
xin bố thí. Một đồng xu nhỏ hay một miếng bánh vụn, đó là tất cả những gì người
ăn xin chờ đợi nơi người giàu có. Nhưng mặc cho người khốn khổ van xin, người
giàu có vẫn ngoảnh mặt làm ngơ. Đến một lúc, không còn chịu nổi những lời van
xin của người hành khất, thay vì lời bố thí, người giàu đã lấy đá ném vào con
người khốn khổ.
Người hành khất lặng lẽ nhặt lấy hòn đá
cho vào bị rồi thì thầm trong miệng: "Ta mang hòn đá nầy cho đến ngày nhà
ngươi sa cơ thất thế. Ta sẽ dùng nó để ném đá trả lại ngươi".
Đi đâu, người hành khất cũng mang theo
hòn đá ấy. Tâm hồn ông lúc nào cũng cưu mang sự báo thù.
Năm tháng qua đi. Lời chúc dữ của người
hành khất đã thành sự thật: Vì biển lận, người giàu có bị tước đoạt tất cả tài
sản và bị tống giam vào ngục. Ngày hôm đó, người hành khất chứng kiến cảnh
người ta áp giải người giàu vào tù ngục. Nỗi căm hờn sôi sục trong lòng ông.
Ông đi theo đoàn người áp tải. Tay ông không rời bỏ hòn đá mà người giàu đã ném
vào người ông cách đây mười mấy năm. Ông muốn ném hòn đá đó vào người tù để rửa
sạch mối nhục hằng đeo đẳng bên ông. Nhưng cuối cùng, nhìn thấy gương mặt tiều
tuỵ đáng thương của kẻ đang bị cùm tay, người hành khất thả nhẹ hòn đá xuống
đất rồi tự nhủ: Tại sao ta phải mang nặng hòn đá nầy từ bao nhiêu năm qua? Con
người nầy, giờ đây, cũng chỉ là một con người khốn khổ đáng thương như
ta!"
Chúa Giêsu hôm nay cũng không ném đá
người thiếu phụ ngoại tình. Và những người tố cáo chị ta cũng không ai dám ném
hòn đá đầu tiên. Câu chuyện kể về người thiếu phụ ngoại tình như sau:
"Khi ấy, Đức Giêsu đang ngồi tại
hành lang Đền Thờ Giêrusalem thì bỗng có một nhóm đàn ông điệu đến trước mặt Ngài
một thiếu phụ run lẩy bẩy, mặt mày tái mét. Họ trình với Ngài rằng: họ đã bắt
được quả tang người thiếu phụ nầy đang phạm tội ngoại tình. Theo lề luật, Môisê
truyền phải ném đá mụ nầy. Về phần Ngài, Ngài nghĩ sao?".
Dĩ nhiên là họ muốn gài bẫy Chúa Giêsu:
Nếu Ngài nói ngược lại với luật Môisê thì những người Do Thái sẽ chống lại
Ngài, còn nếu Ngài khuyến khích họ ném đá người thiếu phụ, điều mà luật lệ Rôma
không cho phép, thì chắc chắn Ngài sẽ gặp khó khăn với chính quyền Rôma lúc đó
đang chiếm đóng. Thực sự, Đức Giêsu đã không trả lời ngay câu hỏi của họ. Tin
Mừng thuật lại là: Ngài cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất. Chẳng ai biết
Ngài viết gì. Có lẽ Ngài muốn nhắc cho chính nhóm đàn ông kia là muốn phạm tội
ngoại tình thì phải có hai người, và Lề Luật đã quy định là cả hai đều bị phạt
chịu ném đá cho đến chết. Thế mà họ chỉ điệu đến trước mặt Ngài có một mình
người thiếu phụ nầy. (Còn người đàn ông kia đâu?). Vậy thì chính họ, nhóm đàn
ông ấy, đã phạm tội bất công, kỳ thị nam nữ, phân biệt đối xử và phạm tội giả
hình... (chứ thì phái mày râu các ông không phạm tội ngoại tình sao?)
Sau khi viết xuống đất một hồi, Đức
Giêsu ngẩng đầu lên và bảo họ: "Ai trong các ông không có tội thì hãy ném
viên đá đầu tiên đi!".
Rồi Ngài lại cúi xuống viết tiếp... Ngài
còn đang viết thì có một sự kiện thật ngoạn mục xảy ra: nhóm đàn ông nầy bắt
đầu lặng lẽ rút lui có trật tự, những người già hơn rút lui trước. Có lẽ vì họ
đã phạm tội nhiều hơn những người trẻ. Cuối cùng, chỉ còn lại có hai người: Đức
Giêsu và người thiếu phụ. Lúc nầy, Đức Giêsu mới ngẩng đầu lên và cùng đối
thoại với người thiếu phụ. Ngài hỏi chị ta:
- Những người kia đã đi đâu cả rồi?
Không có ai lên án chị sao?
- Thưa Ngài, không có ai, thiếu phụ đáp
lại.
- Vậy thì Ta cũng không lên án chị đâu,
chị hãy về và đừng phạm tội nữa nhé!"
Chúng ta có thể tưởng tượng: lúc đó,
người thiếu phụ vui mừng như thế nào? Và chắc chắn chị không quên cảm tạ Chúa
và quyết tâm làm lại cuộc đời.
Thưa anh chị em,
Chúng ta đang sống trong một thế giới
của những kẻ ném đá. Người ta chỉ thích phê bình, chỉ trích, lên án, hạ nhục
hoặc chống đối người khác. Chúng ta quên đi một câu nói rất có ý nghĩa của
người Anh: "Những ai đang sống trong nhà bằng kính thì đừng nên ném
đá" (ném đá vỡ kính hết).
Tất cả chúng ta đều đang sống trong
những căn nhà bằng kính, bởi vì tất cả chúng ta đều rất mỏng dòn, dễ vỡ, đã
không đáp ứng đúng mức đòi hỏi của Thiên Chúa và tất cả chúng ta đều rất cần
đến sự tha thứ của Ngài.
Cũng như nhóm đàn ông kia ở Giêrusalem,
chúng ta thường tự đặt mình vào hạng những người công chính. Chúng ta sáng mắt
nhìn thấy điều sai trái của kẻ khác, nhưng lại quá đui mù chẳng nhìn thấy các
lỗi lầm của chính mình.
Tuy nhiên, anh chị em thân mến,
Câu chuyện trên đây không chỉ đề cập
đến những kẻ ném đá, những kẻ tự cho mình là kẻ công chính, những kẻ tự đặt
mình vào chức vụ bảo vệ nền luân lý công cộng, những kẻ luôn nghĩ rằng tất cả
những điều mình làm đều đúng, đều tốt, những kẻ vẫn tự hào rằng mình tốt lành
và nhân đức hơn những người khác... Câu chuyện còn đề cập đến chính người thiếu
phụ bất hạnh ấy nữa. Đức Giêsu đã không nhắm mắt làm ngơ trước tội ngoại tình.
Ngài đã không nói rằng: điều người thiếu phụ đã làm đó chỉ là một chuyện vặt,
một chuyện nhỏ mọn, hoặc là một chuyện có tính cách riêng tư không dính líu gì
tới ai. Ngài cũng đã không khuyên nhóm người kia hãy bỏ qua chuyện nầy, hoặc
hãy chấp nhận mà sống với những yếu đuối của mình, nhưng Ngài đã khẳng định
Ngài không lên án thiếu phụ nầy. Nói cách khác, Ngài đã sẵn lòng chấp nhận
người thiếu phụ bất hạnh nầy trong chính tình trạng hiện nay của chị – Chị là
người có tội đấy-Chị hãy chừa cải, sửa đổi nên người mới.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ mọi tội lỗi
chúng ta dù cho tội đó nặng đến độ phải tử hình như tội ngoại tình nơi anh em
Do Thái ngày xưa. Lòng Chúa hải hà vết nhơ của tội lỗi. Thái độ của Chúa Giêsu
trong bài Tin Mừng so với thái độ của các vị luật sĩ và biệt phái cho thấy tấm
lòng của Thiên Chúa mênh mông, bao la hơn tâm hồn con người thế nào, như đại
dương với các ao tù nước đọng: một bên thì bình tĩnh thản nhiên, nhẹ nhàng đón
nhận cục đá lớn ném xuống, còn một bên sôi nổi sùng sục và hỗn loạn trước cũng
một biến cố ấy. Thiên Chúa vẫn đối xử với chúng ta như thế, không phải để ta
coi thường tội lỗi, mà là để ta, một khi đối diện với lòng nhân lành của Chúa,
sẽ hoán cải mà trở nên tốt hơn.
Chúa Giêsu, Đấng vô tội, chính Ngài đã
từ chối không ném viên đá đầu tiên hoặc viên đá cuối cùng, nhưng lời chấp nhận
của Ngài đã được gắn lại lệnh truyền: "Chị hãy về và đừng phạm tội
nữa". Có nghĩa là: "Con hãy về đi và từ bỏ cuộc sống tội lỗi của
con". Những kẻ tố cáo, những kẻ sẵn sàng ném đá kia thực ra đã có thể kết
liễu cuộc sống của người thiếu phụ nầy, nhưng trái lại phần Đức Giêsu, Ngài đã
ban tặng cho chị ta một cuộc sống mới, một sự bắt đầu hoàn toàn mới mẻ:
"Con hãy về và đừng phạm tội nữa".
Ngày nay, Ngài cũng cư xử đối với nhân
loại tội lỗi và đối với mỗi người chúng ta đúng như Ngài đã đối xử với người
thiếu phụ ngoại tình nầy. Trên thánh giá, Ngài ban ơn tha thứ cho tất cả và
cùng với muôn triệu người được cứu thoát, Ngài tạo nên một dân mới. Một lần
nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta nhìn vào cõi lòng mình vào tình thương tha thứ
của Thiên Chúa để tự nhận ra mình là kẻ tội lỗi, hầu lãnh nhận ơn tha thứ và từ
nay đừng tái phạm nữa.
7. Chiến thắng sự dữ và tội lỗi – R.
Veritas.
Người ta kể lại dưới thời các hoàng đế
trị vì xưa kia. Cứ sau thánh lễ Phục sinh, bên cạnh cây nến phục sinh cháy
sáng, hoàng đế cho thắp thêm một cây đèn lớn khác gọi là "Cây đèn ân xá
Phục sinh". Cho tới khi nào ánh đèn còn cháy, tất cả mọi người có tội nặng
đáng xử tử mà đến đặt tay trên cây đèn ấy xưng thú tội lỗi mình thì được ân xá,
không phải chịu án phát. Từ một phía cửa hông nhà thờ, các tội nhân xếp hàng
dài. Nào là những người cướp của giết người, ngoại tình, phá thai, gian dối,
lừa đảo, làm tiền bạc giả. Sau khi đặt tay trên Cây đèn ân xá Phục sinh xưng
thú lỗi lầm, công khai trước mặt hoàng đế và đông đảo tín hữu tò mò đến xem, họ
sang chiếc bàn bên cạnh ghi tên tuổi và nhận chứng thư tha tội, trong đó có những
lời khuyên phải cải tà qui chánh.
Người sau cùng tiến đến Cây đèn ân xá
Phục sinh là một phụ nữ trong sắc phục sám hối. Trong số các tín hữu tò mò đứng
xem có cả ông chồng, tay cầm tờ đơn tố cáo tội bà vợ và xin hoàng đế đừng khoan
hồng đối với bà. Trong nhà thờ im lặng như tờ. Người đàn bà đưa tay lên chạm
đến Cây đèn ân xá Phục sinh, bà lớn tiếng thú tội: "Tôi đã phạm tội ngoại
tình với tất cả những người đàn ông nào tôi ưa thích. Tôi không xứng đáng được
khoan hồng". Nói xong, bà thổi Cây đèn ân xá Phục sinh tắt ngấm. Rồi bà
nhắm mắt nói về đứa con mà bà đã có với một sinh viên, sau cùng bà kết luận:
"Tội tôi thì quá lớn không đáng được tha thứ". Bà mở mắt ra. Thì ô
kìa! Cây đèn ân xá Phục sinh đã lại cháy sáng từ bao giờ. Chồng bà đứng gần đó
đã dùng tờ đơn tố cáo bà, đốt trở lại Cây đèn ân xá Phục sinh mà chính bà đã
thổi tắt. Thấy thế, hoàng đế nghiêm mặt hỏi: "Ngươi là ai mà dám tự tiện
thắp Cây đèn ân xá Phục sinh?" Ông ta thưa: "Tâu hoàng đế, hạ thần là
chồng của phụ nữ này. Với tờ đơn tố cáo tôi tự tay mình viết, hạ thần đốt bỏ nó
trên ánh nến ân xá Phục sinh để lấy lại ánh sáng cho Cây đèn ân xá Phục sinh đã
tắt". Nghe vậy hoàng đế nghiêng mình trước người chồng và nói: "Ngươi
đã hành động rất đúng, theo mẫu gương của Chúa Giêsu Kitô".
Không kết án, không vào hùa kết tội
người khác, rút đơn tố cáo, bỏ hòn đá xuống đất. Mỗi người hãy nhìn sâu vào
trong tâm lòng mình để nhận ra các tội lỗi, lầm lẫn thiếu sót của mình trong
cuộc sống. Thống hối ăn năn và cải thiện, đó là sứ điệp mà Giáo Hội trao gởi
chúng ta qua các bài đọc hôm nay.
Người đàn bà bị bắt quả tang đang lúc
phạm tội ngoại tình như kể trong Phúc Âm theo thánh Gioan, là một ví dụ chứng
minh cho chúng ta thấy cung cách hành xử và lòng nhan từ của Chúa Giêsu đối với
những người có tội. Chiếu theo luật Do Thái, như ghi trong sách Lêvi chương 20
câu 10 và sách Đệ Nhị Luật chương 22 câu 22: "Phụ nữ có chồng bị bắt quả
tang đang phạm tội ngoại tình phải bị ném đá cho chết cùng với người đàn ông
đang phạm tội ngoại tình với bà". Đây là cách thức người xưa khử trừ cuộc
sống hoang dâm khỏi cộng đoàn. Theo bài Phúc Âm, các biệt phái và những luật sĩ
chỉ dẫn đến cho Chúa Giêsu người đàn bà mà thôi. Trong thâm tâm, họ muốn kết
tội hai người: người đàn bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình và Chúa Giêsu,
mà họ đang tìm mọi dịp để lên án.
Tuy nhiên, cung cách hành xử của Chúa
Giêsu theo cái lôgíc của Thiên Chúa, không theo tâm địa hẹp hòi gian ác và giả
hình của con người, lại cho thấy, Thiên Chúa luôn mở ra cho người tội lỗi một
lối thoát, lối thoát của cuộc đời hoán cải. Qua cách hành xử của Thiên Chúa đối
với người tội lỗi là còn nước còn tát, nghĩa là luôn cống hiến ơn tha thứ và ơn
cứu độ cho họ. Không ai biết Chúa Giêsu đã viết trên cát điều gì hay Ngài đang
cần phải qui chiếu theo một thứ luật lệ khác: luật lệ của tình yêu thương tha
thứ. Chúa Giêsu không chối bỏ những cái nặng nề và những hệ lụy do cuộc ái tình
trong cuộc sống con người. Nhưng Ngài muốn ném cho người phạm tội một sợi dây
của lòng trông cậy. Bởi vì đối với Thiên Chúa, quá khứ tội lỗi của con người
không quan trọng, điều quan trọng là nỗ lực tìm lại sự trong trắng, thơ ngây,
vô tội trong tâm hồn từ giây phút này trở lên. Nói cách khác, trước mặt Thiên
Chúa điều quan trọng duy nhất là ý chí hoán cải tâm lòng và cách mạng cuộc sống
của chúng ta.
Kiểu cách giải quyết vấn đề của Chúa là
một tiếng sét cách mạng quật ngã mọi người hiện diện. Theo sách Đệ Nhị Luật
17,7: "Những ai đã bắt được quả tang người phạm tội ngoại tình, nghĩa là
đã chứng kiến tận mắt, thì hãy ném viên đá đầu tiên khai mào cuộc xử kẻ có
tội". Nhưng đây Chúa Giêsu nói: "Ai không có tội, hãy ném đá trước
đi", mà có ai trong gia đình nhân loại là người vô tội đâu? Bởi vì ai
trong chúng ta cũng có tội cả. Và phạm tội mỗi ngày, cho nên càng nhiều tuổi
thì lại càng phạm tội nhiều. Đủ thứ tội và đủ cỡ, đủ cách: tội lớn, tội nhỏ,
tội kín, tội hở. Tâm lòng và thân xác chúng ta rỗ chằng rỗ chịt, và mọi thứ vi
trùng tội lớp dưới đội lớp trên, lớp trên đè lớp dưới.
Say giây phút im lặng làm choáng váng
mặt mày, mọi người tố cáo người đàn bà ngoại tình bắt đầu bỏ rơi viên đá xuống
đất và rút lui có trật tự, già trước trẻ sau. Được phép dạy phải sửa chữa tội
lỗi, nhưng mỗi một người phải bắt đầu từ chính mình trước. Nếu Chúa Giêsu đã mở
ra cho người đàn bà ngoại tình con đường mới của cuộc sống hoán cải thánh
thiện: "Tôi cũng không kết án chị. Hãy ra về và đừng phạm tội nữa".
Thì Ngài cũng chỉ cho tất cả mọi người đã hăng hái tố cáo và đòi ném đá xử tử
chị ta một con đường mới, con đường của lòng khiêm tốn, từ nay biết nhận mình
là người có tội.
Hãy cảnh giác với lương tâm mình để tìm
thấy cái mặt lọ lem của mình, để nhìn thấy tâm hồn đen đủi, xấu xa của mình.
Hãy cầm lấy cục đá, không phải để ném người khác mà là để vạch lên ngực, lên
tim của mình cho chảy máu ăn năn sám hối, rồi bỏ nó xuống đất. Phải làm điều đó
một cách công khai trước mặt mọi người. Nói cách khác, lời nói và cách giải
quyết vấn đề của Chúa Giêsu đã khiến cho mọi thứ mặt nạ che giấu gương mặt tâm
hồn bệnh hoạn, phong cùi của mỗi người hiện diện rơi xuống đất cùng với viên đá
trong tay họ. Chúa Giêsu muốn dạy cho chúng ta biết rằng, chỉ khi nào chúng ta
ý thức được tội lỗi yếu hèn của chính mình, chúng ta mới có thể bắt đầu sống
trong sạch, vì không còn phải đeo mặt nạ, để đóng kịch, để bênh vực vai trò của
chúng ta để khỏi mất mặt nữa. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta hãy biết có một cái
nhìn mới để hiểu rằng, một tâm hồn dầu có tội lỗi và xấu xa đến đâu đi nữa,
cũng vẫn còn một góc nhỏ xíu tinh tuyền, sẵn sàng rộng mở cho những người biết
thương mến họ, và con đường duy nhất giúp tiến vào đó là con đường của lòng
kính trọng, cảm thông, chấp nhận và yêu thương.
Đó là phương thế duy nhất giúp con
người biến đổi từ bên trong, để bắt đầu một cuộc xuất hành mới ra khỏi tình
trạng sống tội lỗi và tiến bước trên con đường công chính, thánh thiện. Cuộc
xuất hành mới ấy cũng được tiên tri Isaia nói đến trong chương 43, tình yêu
thương mà Thiên Chúa dành để cho dân Israel là tình yêu thương giải phóng khỏi
kiếp nô lệ, tôi đòi, đày ải, buồn thương.
Trong lịch sử cứu độ, nước và sa mạc có
ý nghĩa đặc biệt. Nước biểu hiệu cho chướng ngại cản bước xuất hành của dân Do
Thái, biểu tượng cho mọi sức mạnh chống đối với Thiên Chúa và với con người.
Còn sa mạc khô cằn không cây cối, không nước uống, biểu tượng cho sự chết.
Nhưng cũng như xưa kia trong lần xuất hành thứ nhất khỏi Ai Cập, Thiên Chúa
dùng bàn tay uy quyền của Ngài dẹp nước Biển Đỏ thế nào, thì giờ đây trong lần
xuất hành thứ hai khỏi Babylon, Ngài cùng giơ tay dũng mạnh loại bỏ sa mạc như
vậy. Nói cách khác, tiên tri Isaia muốn khẳng định với dân Israel rằng, các
biến cố lịch sử cho thấy Thiên Chúa chiến thắng mọi chướng ngại, mọi biển sâu,
mọi sa mạc mà loài người đã tạo ra với cuộc sống tội lỗi của mình. Nhưng trong
lịch sử cứu rỗi, tình yêu thương nhân thứ và chương trình mà Thiên Chúa đã có
đối với con người khi tạo dựng lên loài người sẽ chiến thắng sự dữ và tội lỗi.
Chương trình cứu độ đó Thiên Chúa thực
hiện trong cuộc đời của từng người trong chúng ta, như thánh Phaolô cho thấy
trong thư gởi tín hữu Philipphê, nhắc lại ơn đời đời mà Chúa Giêsu Kitô
Phụcsinh đã trao ban cho thánh nhân trong cuộc gặp gỡ trên đường đến thành
Đamas xưa kia. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng: Lòng tin mà Thiên Chúa đã ban cho
chúng ta phải giúp chúng ta sống theo một tâm thức mới, với một cái nhìn mới.
Chúa Giêsu Kitô và Tin Mừng của Ngài phải trở thành trung tâm điểm và là điểm
qui chiếu duy nhất, hướng dẫn kiểu cách sống và hành xử của chúng ta. Tâm thức
mới ấy phát xuất từ cuộc cách mạng mà lòng tin vào Chúa Giêsu khơi dậy trong
tâm lòng chúng ta, nó giúp chúng ta đảo lộn bậc thang giá trị cuộc sống và biết
đánh giá mọi sự dưới ánh sáng Tin Mừng mà thánh Phaolô khuyên nhủ chúng ta noi
gương Ngài. Cố gắng chạy, nghĩa là sống tâm thức mới ấy trong tươi vui, không
nghi ngờ tình yêu của Chúa Giêsu và lời Ngài, không hối hận vì đã từ bỏ cuộc
sống và kiểu cách suy tư cũ, không chấp nhận dàn xếp lắt léo với sự dữ và đi
ngược lại giáo huấn Tin Mừng của Chúa.
8. Suy niệm của Radio Veritas Asia
THIÊN CHÚA BÊNH VỰC NGƯỜI YẾU ĐUỐI VÀ
PHÂN TRẦN SỰ BẤT CÔNG
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa')
Theo luật người Do Thái như được trình
bày trong sách Lêvi 2,10 thì bất cứ ai phạm tội ngoại tình với một người phụ nữ
đã có chồng và bất cứ ai phạm tội ngoại tình với vợ của người khác, thì cả
người đàn bà ngoại tình và người đàn ông đó đều bị tử hình. Tuy nhiên về sau
trong chiều hướng kỳ thị phụ nữ, người ta bóp méo luật pháp và chỉ ném đá trước
người đàn bà ngoại tình, còn người nam ngoại tình thì không bị hình phạt nào cả
hoặc chỉ bị phạt một số tiền tượng trưng.
Cử chỉ của Chúa Giêsu trong trường hợp
Phúc Âm trên đây gọi là cách mạng đối với tâm thức xã hội và luật pháp thời đó.
Ngài bênh vực người yếu và phân trần sự bất công của người phụ nữ phải chịu,
cũng như thái độ giả hình của những kẻ muốn trừng phạt người phụ nữ tội lỗi.
Trong chiều hướng đó, đoạn Phúc Âm này vẫn giữ được tính cách đặc biệt thời sự
ngày nay.
Cũng vì thế, trong Tông thư
"Mullieris dignitatem" (Về phẩm giá người phụ nữ), công bố nhân dịp
năm Thánh Mẫu năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã dành chương V để chú
giải về đoạn Phúc Âm này. Sau khi nhắc đến thái độ kỳ thị nữ giới như một hậu
quả của tội nguyên tổ, Đức Thánh Cha ghi nhận rằng, theo tường thuật Phúc Âm,
Chúa Giêsu đã khơi dậy nơi tâm hồn của những kẻ muốn ném đá người phụ nữ ngoại
tình, ý thức về chính tội lỗi của họ. Qua đó Chúa Giêsu cho thấy Ngài muốn đánh
mạnh vào lương tâm và các hành động của con người, đồng thời dường như Ngài
muốn nói với những người tố cáo rằng: Phụ nữ này với tất cả tội lỗi của nàng,
đã chẳng cho thấy những vi phạm của chính các ông, những bất công nam giới và
những lạm dụng của các ông hay sao? Đức Thánh Cha viết: "Đây là một sự
thật có giá trị cho tất cả mọi người. Câu chuyện mà Phúc Âm theo thánh Gioan đã
kể lại: người đàn bị bỏ một mình, bị phơi bày trước dư luận quần chúng với tội
lỗi của nàng. Nhưng sau tội lỗi của riêng nàng, còn có người đàn ông tội lỗi
nữa đồng chịu trách nhiệm về tội lỗi đó. Vậy mà tội lỗi của người đàn ông thì
không lôi kéo chú ý. Được trôi qua trong im lặng như thế, người đàn ông không
có trách nhiệm gì về tội lỗi ngoại tình ấy. Đôi khi người đàn ông còn nhắm mắt
trước tội lỗi của chính mình và đã trở thành người tố cáo người khác như Phúc
Âm kể lại. Có biết bao lần người nữ đã phải trả giá cho tội lỗi mình như thế và
phải đền tội một mình, mặc dầu tội cả hai người phạm chung. Biết bao nhiêu lần
người phụ nữ bị bỏ rơi với bào thai trong bụng, vì người cha của thai nhi không
muốn chấp nhận trách nhiệm làm cha của mình. Và bên cạnh nhiều bà mẹ độc thân
trong xã hội ngày nay, chúng ta còn phải nhớ tới số phận phụ nữ bị trục xuất
bào thai của mình rất nhiều, khi vì những áp lực khác nhau kể cả áp lực của
người đàn ông tội lỗi tác giả bào thai đó. Dư luận quần chúng ngày nay tìm
nhiều cách để xóa bỏ cách thức xấu xa của cuộc phá thai đó, nhưng nhiều khi
lương tâm người phụ nữ không thể quên rằng mình đã tước đoạt sự sống của đứa
con mình".
Trong phần kế tiếp, Đức Thánh Cha nhấn
mạnh sự bình đẳng của nam giới và nữ giới, theo ý định nguyên thủy của Thiên
Chúa, khi tạo dựng loài người và Ngài kết luận rằng: "Mọi người nam phải
nhìn nhận người nữ như một người chị em của mình và không bao giờ được coi
người nữ như đối tượng cho mình thỏa mãn và khai thác hoặc như đối tượng của
tội ngoại tình trong tâm hồn của mình hay qua hành động bên ngoài".
9. Dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân
đời sống
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa' –
Radio Veritas Asia)
Cách đây khá lâu, tình cờ tôi đã đọc
được một mẩu tin từ hãng tin quốc tế AFP phổ biến một sự việc xảy ra bên Trung
Quốc. Và hãng tin quốc tế này lấy tin từ tờ nhật báo Trung Quốc, nói rằng chính
phủ mới ra lệnh tử hình cho một người cha vì đã can tội giết đứa con gái của
mình mới ba tuổi. Và lý do, vì ông ta muốn có con trai.
Theo luật của Nhà Nước Trung Quốc được
thiết lập từ năm 1978, thì mỗi gia đình chỉ được phép có một đứa con mà thôi.
Vì thế người cha này là một công chức của nhà nước làm việc trong ngành lâm
sản, đã giết đứa con gái của mình mới lên ba tuổi để hy vọng sau đó có thể có
được một đứa con trai. Việc làm sát nhân này đã bị tòa án Nhà Nước kết án tử
hình vào tháng 11 năm 1988, và hôm mùng 10 tháng 3 năm 1989 thì bản án được thi
hành.
Đọc qua bản tin vừa kể, tôi không khỏi
bồi hồi xúc động và thấy đây là một thảm trạng gia đình có thể xảy ra bất cứ
nơi nào khác trên thế giới này. Thử hỏi ai là người có trách nhiệm trong thảm
trạng này? Dĩ nhiên người cha đã vô tâm giết chết đứa con gái mới lên ba. Nhưng
thử hỏi, còn ai khác có trách nhiệm khiến cho người cha đã nhẫn tâm hành động
như vậy không? Những kẻ có trách nhiệm ca tụng xã hội cho phép phá thai, phải
chăng họ không đáng tội chết hơn người cha đã giết đứa con gái của mình mới lên
ba tuổi hay sao? Tại sao họ lên án những kẻ khác mà quên lên án chính mình?
Phải chăng đây là một thái độ sống giả hình. Thái độ sống giả hình của thời đại
mới chúng ta hôm nay không khác gì với thái độ giả hình của những người biệt
phái vào thời Chúa Giêsu.
Phúc Âm hôm nay kể lại cho chúng ta:
những người biệt phái có quyền thế trong dân Do Thái, họ là những kẻ nắm giữ
luật lệ hay đặt thêm những luật lệ cho dân Do Thái, đã gắt gao lên án một người
phụ nữ bị bắt phạm tội ngoại tình và muốn Chúa Giêsu cũng lên án theo. Điểm trớ
trêu là chính những người biệt phái này cũng là những kẻ tội lỗi, nhưng họ
không kết án chính mình trước mà đi kết án kẻ khác.
Thái độ của Chúa Giêsu mở ra một viễn
tượng mới đó là sự tha thứ. Thiên Chúa tha thứ cho con người tội lỗi nhưng đồng
thời cũng muốn cho con người tội lỗi đừng lạm dụng lòng nhân từ của Ngài, nhưng
hãy dốc quyết từ bỏ tội lỗi, canh tân đời sống: "Ta không kết án con".
Đó là lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ phạm tội ngoại tình. "Nhưng từ
nay đừng phạm tội nữa". Mỗi người Kitô chúng ta, đồ đệ của Chúa Giêsu đều
ý thức về thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, dốc quyết canh tân đời sống và
noi gương Chúa mà tha thứ cho những lầm lỗi của anh chị em, như chính Chúa đã
nêu gương. Chúng ta hãy xét lại thái độ sống của mình đối với anh chị em xung
quanh, đừng kết án anh chị em nhưng hãy tha thứ, hãy nâng đỡ anh chị em trở về
với Chúa. Hơn nữa mỗi người Kitô chúng ta cần được mời gọi cầu nguyện, cầu
nguyện cho người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại.
Các vị thánh trong mọi thời đại đã thực
hiện điều này. Cầu nguyện cho chính mình và cầu nguyện cho anh chị em xung
quanh được ơn ăn năn trở lại, đừng làm phiền lòng Chúa, đừng phạm tội nữa. Cầu nguyện
với những hy sinh, cầu nguyện với những đánh tội, hãm mình.
Và trong bài đọc thứ hai hôm nay mà
chúng ta vừa nghe qua, trích thơ của thánh Phaolô cũng đề ra cho chúng ta một
bí quyết, có thể nói được là bổ túc cho những gì chúng ta mới vừa nói, đó là
sống kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô, và kể từ nay ngài không nhìn về quá khứ tội
lỗi của ngài cũng như của những kẻ khác nhưng hãy nhìn tới tương lai.
"Chính tôi chưa tin rằng tôi đã chiếm được Ngài. Nhưng tôi đinh ninh một
điều là quên hẳng đằng sau, quên đi quá khứ tội lỗi của mình mà hướng về phía
trước hướng về tương lai. Tôi cứ nhắm đích đuổi theo để được đoạt giải ơn kêu
gọi của Thiên Chúa đã ban cho từ trời cao trong Đức Giâsu". Đó cũng là mẫu
gương cho tất cả mọi người chúng ta, quên đi quá khứ tội lỗi của mình, quên đi
quá khứ tội lỗi của anh chị em xung quanh. Để rồi cố gắng tiến lên mãi đạt đến
lý tưởng mà Chúa đề ra cho mỗi người chúng ta và sống kết hiệp với Chúa Giêsu
Kitô. "Vì Chúa tôi đành chịu thua thiệt mà coi mọi sự như phân bón để được
lợi Đức Kitô và được ở trong Người".
Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng ta
được luôn luôn sống kết hiệp với Chúa, và từ nay không nhìn về quá khứ của mình
nữa nhưng nhìn đến tương lai, để có những dốc quyết mới canh tân đời sống của
mình, từ bỏ những tội lỗi, để giữ vững niềm tin mà chúng ta đã lãnh nhận.
10. Hãy về và đừng phạm tội nữa – R.
Veritas
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa')
"Tin Mừng sự sống". Đó là tựa
đề một thông điệp của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được ký ban hành ngày 25
tháng 3 năm 1995.
Như chính Đức Thánh Cha đã giải thích,
đây là một bài suy niệm của ngài về sự sống. Đứng trước nền văn hóa chết chóc
đang lan tràn trên thế giới ngày nay, bên cạnh những tiến bộ vượt bực về khoa
học kỹ thuật và ý thức mỗi ngày một gia tăng về nhân quyền, về bình đẳng, về
liên đới huynh đệ... Nhân loại ngày nay lại đang đứng trước một đe dọa khủng
khiếp nhất, đó là đe dọa của sự tự hủy. Mối đe dọa ấy có lẽ không đến từ chiến
tranh, từ khoa học, vũ khí hạt nhân mà chính là từ sự đánh mất ý thức, về sự
thánh thiêng của sự sống con người.
Một cách cụ thể chúng ta hãy nghĩ đến
nạn phá thai và làm cho chết một cách êm dịu đang lan tràn trong thế giới ngày
nay. Hai hành động giết người này đã được luật pháp của không biết bao nhiêu
quốc gia nhìn nhận và hợp thức hóa. Cái mâu thuẫn lớn nhất của nhân loại ngày
nay chính là, trong khi mạng sống của thú vật càng ngày càng được đề cao thì sự
sống của những thai nhi và những người vô phương tự vệ lại càng ngày càng bị
khinh rẻ. Điều khủng khiếp nhất chính là những hành động tội ác ấy lại được hợp
thức hóa. Hành động xúc phạm đến mạng sống con người được đưa vào pháp luật. Từ
nay nhân danh luật pháp do chính mình làm ra, con người tự cho mình có quyền
sinh sát trên người khác. Con người dựa vào luật pháp do chính mình làm ra để
chối bỏ lẫn nhau, đó là thảm trạng của nhân loại ngày nay.
"Tin Mừng sự sống". Chọn lấy
đề tài này cho thông điệp của ngài, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II hẳn muốn ban
cho con người thời đại Tin Mừng của chính Chúa Giêsu. Tin Mừng mà Chúa Giêsu
mang lại cho nhân loại là Tin Mừng của sự sống, Tin Mừng ấy được cụ thể hóa qua
sự tiếp cận thiết thân của Thiên Chúa làm người, với các trẻ thơ, với những
người tàn tật bệnh hoạn, với những cô gái điếm, với những người thu thuế tội
lỗi, với những người bị xã hội đẩy ra bên lề. Tin Mừng mà Giáo Hội muốn cho
chúng ta lắng nghe hôm nay là một trong những trang cảm động nhất của Tin Mừng
sự sống ấy.
Đối với thái độ đầy sát khí của đám
đông nhất là của các luật sĩ và biệt phái, Chúa Giêsu đáp lại bằng thái độ của
thinh lặng, cảm thông và tha thứ. Đám đông các luật sĩ và biệt phái nhân danh
luật pháp để xử lý người đàn bà bị bắt quả tang phạm tôi ngoại tình, còn Chúa
Giêsu lại kêu gọi tình thương. Đám đông các luật sĩ và biệt phái đặt mình vào
ghế thẩm phán để xét xử người đàn bà ngoại tình, Chúa Giêsu lại đặt chính họ
vào hàng bị cáo. Đám đông các luật sĩ và biệt phái xây dựng quan hệ giữa người
với người trên luật pháp, còn Chúa Giêsu thì nói với họ rằng, tương quan với
tha nhân sẽ được xây dựng trên sự cảm thông, lòng tha thứ, tình yêu thương. Và
để có thể xây dựng được mối quan hệ yêu thương ấy, thì trước tiên con người
phải cảm nhận được chính tình yêu của Thiên Chúa.
Những giây phút thinh lặng khi Chúa
Giêsu cúi mình viết trên cát là lúc để cho mỗi người trong cái đám đông hung
hãn ấy nhìn sâu vào tận đáy thẳm tâm hồn của mình. Ở đó con người sẽ nhận ra
thân phận tội lỗi xấu xa của mình và đồng thời cảm nhận được tình yêu tha thứ
của Chúa.
Đám đông đã từ từ kéo nhau về sau khi
đã nhìn sâu vào trong tâm hồn tội lỗi yếu hèn của mình. Họ ra về chắc chắn với
một ý thức mới, không phải ý thức về sức mạnh của luật pháp do con người làm
ra, mà về chính thân phận tội lỗi của mình. Ít nhất đó cũng là bước đầu của sự
sám hối. Riêng người đàn bà cũng ra về, nhưng ra về với lời vỗ về yêu thương,
tha thứ và cổ vũ của Chúa Giêsu: "Con hãy về và đừng phạm tội nữa".
Đó cũng là lời vỗ về mà Chúa Giêsu đang nói với mỗi người chúng ta. Đó là Tin
Mừng của sự sống.
Người đàn bà đang đứng bên bờ vực thẳm
của chết chóc và thất vọng, đã được Chúa Giêsu kéo lên và ban cho một sức sống
mới, một niềm hy vọng mới. "Con hãy về và đừng phạm tội nữa". Lời Tin
Mừng sự sống này cần phải được chúng ta cảm nhận như một lời sai đi, cảm nhận
được tình yêu tha thứ của Chúa. Chúng ta được sai đi để loan báo, làm chứng và
chia sẻ tình yêu ấy với mọi người. Chúa đã ban cho chúng ta một cơ may để bắt
đầu lại, chúng ta cũng được mời gọi để cảm thông, để tha thứ không ngừng và
mang lại một cơ may mới cho người khác. Có sống như thế, chúng ta mới thật sự
góp phần vào việc kiến tạo nền văn minh của tình thương, một nền văn minh không
phải chỉ dựa vào khoa học kỹ thuật hay luật pháp của con người, mà được xây
dựng trên tình yêu và lòng tha thứ.
11. Bắt đầu lại cuộc sống mới trong ân
sủng
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa' –
Radio Veritas Asia)
Phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta hãy
dứt khoát giở qua trang lịch sử đời mình, quên đi những ngày đã qua của tội
lỗi, của âu sầu, của đau khổ, của bất hạnh. Bắt đầu lại cuộc sống mới trong ân
sủng, trong tình yêu của Chúa, thể hiện qua đời sống vui tươi và an bình.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia
loan báo cho dân Chúa thời lưu đày ở Babylon sắp chấm dứt. Ngài nhắc lại cho họ
thấy trong quá khứ, Chúa đã thương họ, đã cứu họ ra khỏi Ai Cập bằng cuộc vượt
qua Biển Đỏ lạ lùng. Dầu hành động uy hùng đó đã xảy ra, nhưng Chúa phán:
"Các ngươi đừng nhớ đến dĩ vãng và đừng để ý tới việc thời xa xưa nữa. Đây
Ta sẽ làm những cái mới và giờ đây chúng sẽ xuất hiện". Những cái mới đó
là mở đường trong hoang địa, đồng hoang khô cằn trở thành vùng đất phì nhiêu
mầu mỡ, có đường đi lại tấp nập, có sông thấm nhuần tươi mát. Và với tư cách là
tiên tri, Isaia cũng loan báo tất cả những sự cứu thoát kia vẫn chưa lạ lùng
bằng sự cứu thoát khỏi làm nô lệ tội lỗi, trở thành con cái Chúa.
Vậy hãy quên đi quá khứ vì Chúa đang
làm những việc mới lạ phi thường, không biến cố, không sự kiện nào so sánh
được. Từ cõi lòng tội lỗi chai đá, khô khan của con người, ơn Chúa như dòng
sông tươi mát tình yêu, Chúa mở lối đi vào để xâm nhập, để hoán cải. Còn gì lạ lùng
bằng và bỡ ngỡ bằng những việc kỳ diệu đó của Thiên Chúa, đến nỗi con người chỉ
còn biết thốt lên với thánh vịnh 125 dùng làm đáp ca: "Chúa đã đối xử đại
lượng với tôi, nên tôi mừng rỡ hân hoan".
Nơi bài đọc thứ hai, thánh Phaolô tâm
sự cùng các tín hữu thành Philipphê rằng: Từ khi biết được Chúa Giêsu Kitô
người coi mọi sự ở đời này không còn giá trị đích thực gì cả, nhưng giá trị
đích thực của đời sống chính là làm sao được ở trong Chúa Kitô và sinh lợi ích
cho đời sống ân sủng. Thánh Phaolô còn dạy chân lý đó một cách thật rõ ràng và
cụ thể. Đó là dầu những ngày còn sống trên trần gian chúng ta đã sống trong
Chúa, nhưng không phải là đã đạt đến mục đích đuổi theo để chiếm lấy, và ngài
so sánh công việc tiến đến cùng Thiên Chúa đó như một cuộc chạy đua nước rút.
Đừng bao giờ nhìn lại phía sau, hãy quên đi từng khoảng đường bước chân mình
đang bỏ lại, chỉ biết hướng về phía trước mắt, đăm đăm nhìn về mục đích, vận
dụng cả sức lực từng bắp thịt, từng hơi thở để băng mình tiến tới, để đạt được
mục đích Chúa hứa ban từ trời cao. Dưới nét họa của Phaolô, chúng ta thấy mỗi
tín hữu là một lực sĩ đang tham dự cuộc chạy đua, nhưng khác ở điểm là phần
thưởng không phải chỉ dành riêng cho người đến trước mà cho tất cả những người
trung thành bền chí chạy theo đến cùng. Đến trước đến sau không thành vấn đề,
miễn đừng bỏ, cũng đừng thất vọng ngã lòng là được, là chắc chắn rồi sẽ đến
nơi. Tóm lại thánh Phaolô dặn: Có được đức tin là chúng ta dang chạy đúng
đường. Muốn đến nơi đừng bận tâm đến dĩ vảng, hãy hướng mắt về tương lai nhắm
đến mục đích và kiên tâm tiến bước.
Trong bài Phúc Âm, ý tưởng từ bỏ quên
đi dĩ vãng đau buồn, tội lỗi bắt đầu lại cuộc sống mới được chỉ dạy thật một
cách rõ ràng với câu Chúa Giêsu nói với người đàn bà phạm tội ngoại tình bị dân
chúng định ném đá. "Ta không kết tội chị, vậy hãy về và từ nay đừng phạm
tội nữa". Thật là một sự sống lại trong đời sống thứ hai của người đàn bà
tội lỗi đó. Không phải sống lại vì những người muốn ném đá bà còn có lương tri
là nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi không dám cầm viên đá để ném vào đầu bà, nhưng
sống lại vì sự tha thứ của Đấng Cứu Thế và lời dặn: "Từ nay đừng phạm tội
nữa". Chắc chắn người đàn bà đó sẽ không phạm tội nữa, sẽ ăn năn sám hối
không phải vì được tha chết, nhưng vì được chính Đấng Cứu Thế tha tội "Ta
tha tội cho chị, vậy chị hãy về bình an và từ nay nhớ đừng phạm tội nữa".
Dĩ vảng đau buồn tối tăm tội lỗi kia ra sao? Đừng nhìn lại nữa, đừng bận tâm
nữa, đừng lo âu nữa. Từ nay hãy sống đời sống mới trong ân sủng, trong tình
yêu, trong an bình, trong hạnh phúc, trong niềm vui Nước Trời. Tất cả những ân
lành đó chỉ những ai dứt khoát được với dĩ vảng tội lỗi, trở về sống với Chúa
mới cảm nghiệm được. Hạnh phúc thiên đàng không phải chỉ được hưởng ở đời sau
nhưng ngay cả ở đời này khi con người biết sống và nếm thử. "Lạy Chúa,
Chúa là ánh sáng thế gian, xin cho con bước theo Chúa để được hưởng ánh sáng
ban sự sống".
Để có việc làm cụ thể trong tuần, tôi
sẽ chuẩn bị tâm hồn mừng lễ Phục sinh bằng cách tưởng tượng rằng: đời tôi là
một trang giấy, những ngày qua tôi đã tự tay viết đủ thứ vào đó. Hôm nay nhìn
lại thấy đủ thứ lem luốc bẩn thỉu, tôi hãy giở qua trang và một trang giấy mới
trắng tinh sạch sẽ đang trải ra trước mắt tôi. Tôi hãy ngước nhìn lên Chúa, xin
Người cầm tay tôi, soi sáng cho tôi, chỉ dẫn cho tôi để viết lên đó những dòng
vàng son tươi đẹp làm vui lòng Chúa, làm hài lòng những người cùng chung sống
với tôi.
12. Nhìn vào nội tâm để nhận biết tội
mình
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm
Ignatiô Trần Ngà)
Người ta thường nhìn ra ngoại giới
nhưng rất ít khi nhìn vào nội giới, nhìn vào nội tâm mình. Con người có mắt
nhìn ra mà không có mắt nhìn vào. Khuôn mặt duy nhất trên đời chúng ta không
bao giờ có thể nhìn thấy trực diện, đó là khuôn mặt của chính chúng ta. Thế nên
một nốt ruồi nhỏ trên mặt người khác, ta thấy rõ ràng; còn vết sẹo lớn trên
trán mình, ta không thấy được. Lỗi lầm nho nhỏ của người khác thì mình thấy rõ
ràng, còn lỗi lầm to lớn nặng nề của mình thì lại không hay. Thế rồi, chúng ta
dành nhiều thì giờ để phê phán người khác mà chẳng bao giờ biết phê phán bản
thân.
Các kinh sư và người Pha-ri-sêu trong
bài Tin Mừng hôm nay cũng thế. Họ nhìn thấy rõ ràng tội lỗi của người phụ nữ
phạm tội ngoại tình, nhưng không nhìn thấy tội lỗi của mình. Họ bận tâm đến
việc kết án người khác, nhưng không quan tâm đến việc sửa chữa lầm lỗi của
mình. Chính vì thế, Chúa Giê-su muốn nhân cơ hội để dạy cho họ một bài học tâm
linh cần thiết là hãy nhận ra tội lỗi của mình trước, hãy trách phạt mình trước
rồi lo trách phạt người khác sau. Cổ nhân cũng thường dạy ta như vậy:
"Tiên trách kỷ hậu trách nhân."
Khi các kinh sư và người Pha-ri-sêu dẫn
người phụ nữ phạm tội ngoại tình đến với Chúa Giê-su, họ hối thúc Chúa Giê-su
ra ngay một phán quyết định đoạt số phận của người đàn bà tội lỗi. Thế nhưng
Chúa Giê-su không vội phán xét ai. Trước hết, Ngài muốn cho những người tưởng
mình vô tội hãy xét lại chính mình.
Thế nên, đứng trước những con người
đang lăm le kết án người phụ nữ và mưu toan ám hại mình, Chúa Giê-su lặng thinh
không nói một lời.
Ngài thinh lặng và tạo nên bầu khí vắng
lặng để cho mọi người tự vấn lương tâm. Ngài muốn kéo dài sự thinh lặng bằng
cách ngồi xuống viết, viết trên đất.
Khi người ta cứ hỏi mãi, phá tan sự im
lặng cần thiết cho sự rà soát tâm hồn, Chúa Giê-su lên tiếng kêu mời họ hãy xét
lại mình: "Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước
đi!".
Rồi Ngài ngồi xuống trong thinh lặng.
Ngài cứ viết, viết trên đất để tạo bầu khí thinh lặng cho mọi người hồi tâm.
Nhìn lại nội tâm mình trong thinh lặng,
những con người hăm hở kết tội người khác giờ đây dần dần nhận ra tội lỗi mình,
có khi còn nhiều hơn, còn nghiêm trọng hơn cả tội lỗi của người phụ nữ. Thế là
các viên đá trên tay lần lượt rơi xuống, họ xấu hổ lặng lẽ rút lui, để lại một
mình Chúa Giê-su và người thiếu phụ. Hoá ra rốt cuộc ai cũng nhận ra mình là
người có tội, mà đã là người có tội thì sao không kết án mình trước? Sao lại
đang tâm kết án người khác cũng tội lỗi như mình!
Nhìn lại mình để thấy được tội lỗi của
mình là điều hết sức quan trọng để cải thiện bản thân.
Nếu tôi biết được là mình hôi hám, tôi
sẽ đi tắm ngay. Còn nếu tôi không nhận ra mùi hôi của cơ thể mình, thì mãi mãi
tôi vẫn là người hôi hám.
Nếu tôi thấy được mặt mình dơ bẩn, tôi
sẽ lau rửa tức khắc không chần chừ. Còn nếu không thì chẳng có gì thay đổi.
Nếu tôi thấy được sự xấu xa của nội tâm
mình, sự bê bối của đời sống mình, tôi sẽ cải thiện ngay không trì hoãn.
Sự chuyển hóa bản thân, cải thiện cuộc
sống chỉ thực sự bắt đầu lúc ta tự nhận biết tội lỗi mình.
Nhìn lại mình, nhìn vào mình để thấy
được những tội lỗi của mình là khởi điểm, là bước đầu cho việc cải thiện đời
sống. Không có bước nầy, chẳng thể có bước thứ hai, chẳng có gì được cải thiện.
Lạy Chúa Giê-su, nhìn lại mình để rà
soát chính mình, để thấy được tội mình là điều rất khó mà cũng là việc không
mấy ai muốn làm. Xin Chúa thương giúp đỡ chúng con.
Xin cho Lời Chúa trở nên gương soi cho
chúng con, giúp chúng con nhận ra những vết nhơ trong tâm hồn chúng con, những
nết xấu trong cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Giê-su, xưa kia, Chúa Giê-su
đã giúp đám người Do Thái nhận ra tội lỗi của họ thì nay xin Ngài cũng giúp
chúng con nhận ra lầm lỗi của mình để sửa đổi ăn năn.
13. Đừng kết án anh em
(Trích trong 'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm
Jos. Tạ Duy Tuyền)
Nếu có lúc nào đó chúng ta sa ngã vì
yếu đuối, vì lầm lỡ, chúng ta cần điều gì nơi tha nhân? Cần trừng trị cho thích
đáng hay cần khoan dung tha thứ? Cần những lời kết án cay nghiệt hay cần những
lời cảm thông nâng đỡ? Có lẽ ai cũng cần được khoan dung để có cơ hội làm lại
cuộc đời. Có lẽ ai cũng cần sự cảm thông để tìm lại sự bình an tâm hồn. Thế
nhưng, giòng đời thường không đối xử tốt với chúng ta như vậy. Người đời thường
dễ kết án hơn tha thứ. Người đời thường tìm cách xa lánh kẻ phạm tội hơn gần
gũi để cảm thông. Có biết bao nhiêu lý do để người ta luận tội và kết án lẫn
nhau, và chắc chắn cũng có rất nhiều lý do để họ xa tránh kẻ phạm tội để khỏi
lụy vào thân.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy một
quang cảnh rất đời thường. Có một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại
tình. Chị đã phạm phải trọng tội mà theo luật Do Thái phải chịu ném đá tử hình.
Các luật sĩ và biệt phái đã dẫn người phụ nữ này đến trước mặt Chúa Giêsu. Mỗi
người một hòn đá. Mỗi người một khuôn mặt mang đầy sát khí hôi tanh. Họ sẵn
sàng trị tội một người để làm gương cho nhiều người. Tất cả đang sẵn sàng một
án tử hình cho người phụ nữ thấp cổ bé miệng, lại cô thân cô thế. Kẻ đã từng
tòng phạm với chị cũng đã được tẩu thoát. Vì phúc âm nói rằng: "người ta
dẫn tới trước mặt Chúa một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại
tình". Ngoại tình phải là hai người. Quả tang tức là bắt tại chỗ. Thế mà
chỉ có một mình chị bị dẫn ra trước đám đông, còn kẻ đồng phạm với chị đâu? Có
thể anh ta là người có thế lực và giầu có nên đã mua chuộc các hương chức trong
làng? Có thể anh ta là loại người "vừa ăn cướp vừa la làng" chăng? Và
như thế, có thể anh ta cũng cùng đứng chung với nhóm người đang chờ đợi ném đá
người phụ nữ tội lỗi này. Chị cúi đầu chẳng dám nhìn ai. Chị biết tội mình đã
làm nên chẳng thốt lên lời van xin. Chị đã sẵn sàng cho một cái chết dành cho
một người phụ nữ lăng loàn.
Nhưng phúc đức cho chị, những kẻ chủ
mưu ném đá chị lại muốn "mượn gió bẻ măng". Họ muốn dùng một mũi tên
mà "bắn chết hai con nhạn". Họ đòi Chúa Giêsu làm trọng tài để nhân
cơ hội này, hãm hại chính Chúa Giêsu. Nếu Chúa bảo tha, là chối bỏ luật của
tiền nhân. Nếu Ngài bảo phải chết, lại vi phạm quyền xét xử của Đế quốc Rôma
đang cai trị nước Do Thái.
Chúa Giêsu đã không kết án, nhưng cũng
không dung túng sự xấu mà chị ta đã phạm. Ngài đã im lặng lấy tay viết trên
cát. Có nhiều người cho rằng Ngài đã viết lên những tội lỗi của con người đã
từng phạm. Ngài đã viết trên cát chứ không ghi khắc vào bia đá hay giấy vở. Cát
sẽ bị xoá nhoà. Tội lỗi con người luôn được Chúa khoan dung tha thứ, vì
"nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được, nhưng Chúa luôn rộng lượng thứ
tha". Có nhiều ngừơi cũng cho rằng: Ngài muốn trì hoãn thời gian, để mỗi
người tự vấn lương tâm. Có cần kết liễu một đời người mà thanh danh đã bị bôi
nhọ bởi hành vi lăng loàn của mình hay không? Ngài muốn có một khoảng thời gian
tĩnh lặng để những cảm xúc: hỉ, nộ, ái, ố được lắng dịu hầu có thể đối xử công
bằng với nhau hơn. Cuối cùng, Ngài đã nói với đám đông rằng: "ai trong các
ông trong sạch, thì hãy ném đá người này đi". Sự trong sạch không chỉ là
không làm những điều xấu, mà còn đòi hỏi sự trong sạch trong tâm hồn chưa một
lần ước muốn phạm tội. Sự trong sạch không chỉ là không phạm tội mà còn là
không làm gương mù gương xấu cho người khác. Tất cả đều lặng lẽ bỏ cuộc. Từ
người lớn tới người nhỏ, xem ra không ai là người trong sạch đủ để có thể thi
hành một lề thói dã man này. Họ đã bỏ đi hết. Một quang cảnh thanh bình đã đến
với chị. Chân trời mới đã mở ra với chị. Chúa Giêsu đã mở ra cho chị một con
đường sống, bằng một giọng nói dịu dàng nhưng chứa đựng một nguyên tắc sống cho
cả cuôc đời của chị: "Ta cũng không kết án chị phải chết đâu! chị hãy về
bình an và từ nay đừng phạm tội nữa". Một làn gió của yêu thương đã xoá bỏ
quá khứ tội lỗi của chị. Làn gió của yêu thương đã mang lại cho chị một niềm hy
vọng những điều tốt đẹp sẽ đến trong cuộc đời của chị.
Kính thưa, quý Ông Bà Anh Chị Em, Có
bao giờ chúng ta đã từng nói điều đó với anh em chúng ta chưa? Có bao giờ chúng
ta đã đối xử khoan hồng với nhau chưa? Có bao giờ chúng ta đã can đảm xoá bỏ đi
những thành kiến xấu về người anh em hay chưa? Nếu chưa, chúng ta hãy tập để
đối xử tốt với nhau hơn. Nhiều người vẫn biết rằng "nhân vô thập
toàn", thế nhưng vẫn để "bụng" và cố chấp về những lầm lỗi của
anh em. Nhiều người vẫn đầy rẫy khuyết điểm nhưng lại dễ dàng la rầy, kết án
anh em. Nhiều người đã quên cái đà trong mắt mình, mà lại chỉ thích tìm kiếm
bới móc, bêu xấu, những cái rác của tha nhân.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta:
"đừng kết án để khỏi bị kết án". Hãy sống độ lượng với nhau để xây
dựng một thế giới thanh bình. Và hãy nhớ rằng: "điều gì anh em không muốn
người khác làm cho mình thì cũng đừng làm cho người ta như vậy". Amen.
14. Làm chứng cho lòng từ bi vô biên
(Trích trong 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật' – Achille Degeest)
Vụ người đàn bà ngoại tình cho thấy
thành kiến dễ đưa đến thái độ đê tiện phi nhân tới mức nào –mà tư tưởng và tâm
hồn Đức Kitô thì quảng đại vô cùng. Người Do Thái đưa ra một thảm kịch con
người để định lừa Chúa. Họ không chú trọng đến thảm trạng người phụ nữ tội lỗi
bị bắt quả tang, mà chỉ cốt làm Chúa lúng túng. Họ tự phụ là hiểu luật, họ nghĩ
thế nào cũng loại được một kẻ gây trở ngại. Chúa biết rõ dã tâm họ, Người đem
một vụ thuộc tầm mức nhỏ nhen của họ đặt thành vấn đề lương tâm. Chúa bắt buộc
mỗi người phải đối diện với Thiên Chúa, chỉ có thể bỏ chạy, hoặc ăn năn trở
lại. Từ một vụ tai tiếng nhỏ đáng buồn trong đó các địch thù của Chúa, thưởng
thức một sự khoái trá xấu xa, Chúa Giêsu đổi thành một "cánh hoa đơn"
tuyệt vời (nói theo kiểu Phan sinh) của lòng từ bi của Chúa. Người đàn bà ngoại
tình đã gặp đại lượng khoan dung và có được dịp may phục hồi nhân phẩm. Bọn
người ưa bắt bẻ, thích lên án, thấy vậy rút lui. Cho hay, chỉ hạng người tội
lỗi nào trốn tránh lượng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa, hạng đó mới không được
tha thứ.
Chúng ta có thể suy đoán mấy nét về tôn
nhan Đức Giêsu.
1) Trước hết, sự điềm tĩnh của Chúa.
Người không do dự dù trong giây phút, khi trả lời kẻ vấn nạn. Lên án người phụ
nữ ngoại tình là trái với chủ thuyết của Chúa, mà tha là trái với Lề Luật. Thế
mà, như theo một phản ứng tự nhiên, Đức Giêsu trả lời không lưỡng lự, để làm
chứng cho lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa. Hơn nữa, Chúa cho thấy con mắt
Thiên Chúa xuyên qua dáng vẻ bên ngoài, thấu tới thâm tâm người ta. Tính điềm
tĩnh của Người bắt nguồn mạch từ Thiên Chúa. Người nhìn nhân loại và sự việc
theo con mắt Thiên Chúa. Khi nào chúng ta nhìn theo con mắt Thiên Chúa, chúng
ta chẳng cảm thấy sao, dưới một nguồn sáng mới, chúng ta điềm tĩnh lạ lùng nhờ
tâm hồn được thanh thản sáng suốt?
2) Quyền tha tội của Chúa không những
không buộc tội người đàn bà hư hỏng, Đức Giêsu nói thêm: Hãy đi và chớ phạm tội
nữa. Hiểu theo bối cảnh tổng quát Phúc Âm, có nghĩa là Chúa ban cho người đó ơn
tha thứ của Thiên Chúa. Chúa tỏ ra có quyền tha tội, an ủi, khuyến khích, phục
hồi nhân phẩm cho kẻ có tội –và Chúa làm công việc ấy một cách nhân từ, vì
Người hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Tha thứ, nhưng cương quyết bài trừ
sự tội. Chúa nói: chớ phạm tội nữa. Đối xử từ bi với kẻ có tội không phải là
nhân nhượng với sự dữ. Sự dữ trước sau vẫn là sự dữ, phải xua đuổi. Đức Giêsu
xét xử theo đường lối Thiên Chúa, tự cho mình đặc quyền Messia cứu vớt kẻ có
tội nhưng kết án sự tội. Đức Giêsu thân thiết với Chúa Cha nên biết rõ sắp tới
giờ Người đổ máu ra chuộc tội cho nhân loại, để nhân loại được tha thứ. Đàng
sau Lời Chúa nói với người đàn bà tội lỗi, chúng ta đoán thấy Tình yêu từ bi
nhân lành nóng cháy biết chừng nào.
15. Người phụ nữ ngoại tình - McCarthy
Suy Niệm 1. KHÔNG AI LÀ NGƯỜI VÔ TỘI
Ngày xưa, có một người đàn ông bị bắt
vì tội trộm cắp, và bị giải ra trước mặt nhà vua, ngay tức khắc, nhà vua liền
ra lệnh treo cổ người đó. Tuy nhiên, khi bị áp tải đến giá treo cổ, người đàn
ông đó đã nói với viên cai ngục rằng anh ta biết một điều bí mật, do cha của
anh ta chỉ dạy. Anh tuyên bố rằng khi sử dụng bí quyết này, thì anh có thể
trồng một hạt giống của cây lựu, và làm cho nó mọc lên trổ sinh hoa quả chỉ
trong một đêm. Anh ta nói rằng thật đáng tiệc, nếu bí quyết này bị chôn vùi đi
theo cái chết của anh, và sẵn lòng bộc lộ bí quyết này cho nhà vua.
Viên cai ngục quá bị gây ấn tượng, đến
nỗi ông ta lưỡng lự việc thi hành án, và giải tù nhân trở lại trước mặt vua.
Tại đó, người ăn trộm đào một cái lỗ trong lòng đất, lấy hạt giống cây lựu ra
và nói: "Thưa bệ hạ, hạt giống này phải được trồng từ bàn tay của một
người nào chưa bao giờ lấy cắp bất cứ thứ gì không thuộc về người đó. Vì là một
tên trộm, nên tôi không thể trồng nó được". Thế rồi anh ta quay sang một
trong những viên quan của nhà vua và nói "Ngài có thể trồng hạt giống này
được chứ ạ?".
Nhưng vị quan này từ chối, nói rằng
"Khi còn trẻ, tôi đã giữ một vài thứ không phải là của tôi". Sau đó,
người ăn trộm quay sang người canh giữ kho tàng của nhà vua và nói "Vậy
ngài có thể trồng hạt giống này chứ?". Nhưng người canh giữ kho tàng cũng
từ chối "Từ nhiều năm nay, tôi đã giữ nhiều tiền bạc. Bây giờ và một lần
nữa, tôi đã có thể giữ một ít tiền cho bản thân tôi".
Và cứ thế, cuối cùng chỉ còn lại một
mình nhà vua. Quay sang nhà vua, người ăn trộm nói "Có lẽ bệ hạ sẽ vui
lòng trồng hạt giống này". Nhưng nhà vua nói "Ta xấu hổ mà phải nói
rằng, có một lần ta đã lấy một chiếc đồng hồ của cha ta".
Sau đó, người ăn trộm nói "Tất cả
các ngài đều vĩ đại và có quyền lực, và không còn gì để mong muốn nữa. Tuy
nhiên, không một ai trong các ngài có thể trồng được hạt giống này, trong khi
tôi đã ăn cắp một thứ nhỏ nhoi, chỉ vì tôi đang chết đói thế mà tôi lại bị kết
án treo cổ".
Nhà vua tha thứ cho anh ta. Câu chuyện
này sẽ có kết thúc khác hẳn, nếu nhà vua không được chuẩn bị để lắng nghe. Thay
vào đó, nhờ sự kiên nhẫn của nhà vua, và nhờ óc tưởng tượng của người đàn ông
đã bị kết án, mà không ai phải chết, và tất cả đều học được một bài học bổ ích.
Bối cảnh của Tin Mừng có thể có một kết
thúc rất tồi tệ. Nếu Đức Giêsu thuận theo ý của các Kinh sư và người Pharisêu,
thì người phụ nữ phụ nữ ngoại tình sẽ phải chết một cách bi thảm. Ai sẽ được
ích lợi từ cái chết này? Thay vào đó, nhờ sự hiểu biết và lòng thương xót mà
Đức Giêsu đã bày tỏ cho người phụ nữ này, mà chị ta có thể bỏ lại tội lỗi của
mình phía sau, và có một bước khởi đầu mới.
Sự kiện Đức Giêsu không kết án chị ta
không có nghĩa là Người coi thường tội ngoại tình. Người nhận ra rằng chị ta đã
bị kết án rồi. Điều mà bây giờ chị ta cần đến đó là lòng thương xót. Cách thức
Người đối xử với người phụ nữ này đã làm cho chị ta muốn đổi mới cuộc đời của
mình. Điều mà Thiên Chúa mong muốn không phải là cái chết của tội nhân, nhưng
Người mong muốn rằng người đó sẽ cải tạo và được sống. Thiên Chúa thấu hiểu sự
yếu đuối của chúng ta, và trong lòng thương xót của Người, Người tha thứ những
tội lỗi của chúng ta. Người không chỉ giúp chúng ta bỏ lại những tội lỗi của
chúng ta ở phía sau, nhưng còn rút ra được điều tốt đẹp từ các tội lỗi đó. Và
điều chắc chắn là bởi vì tất cả chúng ta đều là tội nhân, vì vậy, chúng ta luôn
luôn cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa, điều này sẽ làm cho chúng ta biết
tự kiềm chế mình, trong việc ném đá người khác.
Suy Niệm 2. ĐƯỜNG LỐI CỦA THIÊN CHÚA
Không một người nào đáng bị phê phán và
kết án cho bằng kẻ tự mạo nhận là người công chính. Điều gì liên quan đến người
khác, thì người đó tạo ra những tiêu chuẩn thật cao, rất hay đòi hỏi, không
chấp nhận lời xin lỗi, không đặt ra trường hợp ngoại lệ, không khoan dung cho
bất cứ một sai lầm nào. Nhưng đối với những gì liên quan đến bản thân, thì họ
lại có thể rất mù quáng và tha thứ tất cả.
Cũng có thể xảy ra điều trái ngược lại.
Không người nào có lòng thương xót và hiểu biết đối với những người lỡ bị sa
ngã, cho bằng người thực sự thánh thiện. Đây là gương mẫu của các thánh, và đặc
biệt là trong cuộc đời của Đức Giêsu. Chúng ta có một ví dụ tuyệt vời về điều
này, trong cách thức Người đối xử với người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội
ngoại tình.
Xét về bề mặt, chúng ta chỉ nhận thấy
người phụ nữ đó phạm duy nhất một tội –tội ngoại tình. Nhưng còn có những tội
khác nữa, và là tội rất nặng.
Theo các Kinh sư và người Pharisêu, thì
người phụ nữ này đã phạm một tội kinh khủng. Họ phơi bày chị ta ra, với nỗi ô
nhục đáng khinh bỉ nhất –nỗi ô nhục trước công chúng. Có người thà tự tử, còn
hơn bị đương đầu với nỗi ô nhục trước công chúng. Họ không hề nhìn đến những
cảm xúc của chị ta, cũng không hề có một chút quan tâm đến chị ta, với tư cách
là một con người. Chị ta chỉ được coi như một con người nào đó, mà họ có thể sử
dụng để đánh bẫy Đức Giêsu. Đối với họ, chị ta giống như một con mồi đối với
người câu cá. Để bắt được Chúa, người câu cá sẵn sàng hy sinh con mồi. Việc sử
dụng người khác theo cách này đúng là một thủ đoạn hèn hạ.
Thế rồi thái độ của họ đối với Đức
Giêsu cũng là một tội. Ở đây, họ là những con người đang theo đuổi một ý đồ đen
tối. Họ chỉ có duy nhất một mục đích –loại trừ Đức Giêsu. Nói cách khác, họ đã
giết người trong tư tưởng.
Tuy nhiên, bất chấp cách thức mà cách
Kinh sư và người Pharisêu muốn buộc tội và hạ nhục người phụ nữ đó, và những
thái độ giết người mà họ che giấu đối với chính Người, cách thức Đức Giêsu đối
xử với họ vẫn có nét gì đó ân cần và tế nhị một cách tuyệt vời. Người không hề
kết án họ. Người giãi bày với họ, nhưng không tuyên bố điều đó ra trước công
chúng. Thậm chí Người cũng không phê phán họ. Người kêu gọi họ tự nhận xét bản
thân mình. Thay vì trả lời thẳng câu hỏi của họ. Người lại bắt đầu viết trên
mặt đất. Người làm công việc này, để tạo cho họ có thì giờ xem xét lương tâm
của họ.
Có sự trái ngược nhau trong cách cư xử
của Đức Giêsu và người Pharisêu đối với người phụ nữ ngoại tình. Người khước từ
việc kết án chị ta. Người sửa sai chị một cách rất tinh tế. Phương pháp của
Người giống như của một bác sĩ phẫu thuật tài tình: có một sự kết hợp giữa sự
lịch thiệp, tinh tế và nhẹ nhàng trong khi sử dụng con dao mổ. Sứ mạng của
Người chuyên về lòng thương xót và ơn tha thứ, chứ không phải là chuyên phán
xét và kết án. Người không đến nỗi phơi bày những đau khổ của ngài, nhưng là để
chữa lành cho họ.
Trong bối cảnh tối tăm, Đức Giêsu đã
chiếu toả ra tia sáng của lòng thương xót. Ở đây, có một bài học tuyệt vời cho
chúng ta. Để kết án người khác thì thật là dễ dàng. Chúng ta phải học hỏi từ
gương mẫu không kết án của Đức Giêsu. Chính hành động kết án người khác lôi kéo
theo tội lỗi. Chắc hẳn là chúng ta vẫn có đủ thời gian để sửa lỗi cho người
khác. Nhưng để làm được điều đó, là cả một nghệ thuật. Công việc này bao gồm
đồng thời cả thái độ hoàn toàn tử tế lẫn chân thành. Nhưng sự chân thành chỉ vì
mục đích chân thành mà thôi, thì lại có thể mang lại tác dụng xấu.
Chúng ta phải nhìn vào chính bản thân
mình. Chúng ta phải sẵn lòng cởi mở tâm hồn mình cho người khác, với cùng một
tấm lòng cảm thương, mà chúng ta mong muốn được đón nhận, nếu chúng ta cũng bị
lâm vào hoàn cảnh tương tự như vậy. Trong cuộc đời, không có gì quan trọng hơn
là bày tỏ lòng thương xót đối với người đồng loại.
"Hãy cứ để cho ai không phạm tội
ném hòn đá đầu tiên. Quả thật là đáng sống để có được câu nói đó" (Oscar
Wilde).
MỘT CÂU CHUYỆN KHÁC
Có một câu chuyện kể về Vua Salômôn. Từ
trong Kinh Thánh, chúng ta được biết rằng ông là một thẩm phán khôn ngoan. Hết
năm này sang năm kia, ông ngồi ở vị trí phán xét dân chúng. Nhưng dường như năm
tháng trôi qua, dần dần ông trở nên khắc nghiệt và vô cảm. Thật vậy, ông đã trở
thành một con người cực kỳ nhẫn tâm và lạnh lùng đối với thần dân. Một ngày nọ,
trong khi ông đang ngồi trên ngai, trước khi bắt đầu một phiên toà xử án, thì
chiếc vương miện mà ông đang đội tụt xuống tới mắt của ông. Ngay tức khắc, ông
kéo nó lên, thì đồng thời nó lại tụt xuống nữa. Điều này diễn ra đến 8 lần.
Cuối cùng, ông nói với chiếc vương miện "Tại sao nhà ngươi cứ rơi xuống
tới mắt của ta như vậy?". Chiếc vương miện đáp lại "Tôi phải rơi xuống
thôi. Chừng nào mà quyền lực mất đi sự thương xót, thì tôi vẫn còn phải cho
ngài thấy được tình trạng đó ra sao?". Nói cách khác, đó là sự mù quáng.
Vua Salômôn thấu hiểu ngay được sự thật. Và bằng lòng tin, ông liền quỳ gối cầu
xin Thiên Chúa tha thứ. Ngay tức khắc, chiếc vương miện tự ở yên trên đỉnh đầu
của ông.
Khi có điều gì bất ổn, trước hết, bạn
hãy nhìn vào thái độ cư xử của chính mình, để xem xét có thể nguyên nhân nằm ở
nơi bản thân bạn. Ngay cả sự khôn ngoan của Vua Salômôn vẫn có thể biến thành
sự mù quáng.
16. Hãy đi, đừng phạm tội nữa.
(Trích trong 'Tin Mừng Chúa Nhật')
Các Kinh sư và các, đạo sĩ Do Thái cố
tìm một lời tố cáo để hạ uy tín của Chúa Giêsu; và đây là một sự việc mà họ
nghĩ có thể lợi dụng để đưa Ngài vào ngõ bí. Động lực của họ không phải là lòng
tôn thờ Thiên Chúa, tuân giữ luật ngài, hay ước muốn sống thánh thiện, nhưng
chỉ muốn gài bẫy Chúa Giêsu. Khi có một vấn đề khó khăn liên hệ đến luật pháp
xảy ra, theo thói quen, tự nhiên người ta tìm đến một vị thầy, một vị ra-bi để
nhờ giải quyết. Xem Chúa Giêsu như một ra-bi, các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái đã
đem đến Ngài một phụ nữ bị bắt quả tang đang phạm tội ngoại tình.
Theo luật pháp Do Thái, ngoại tình là
một trọng tội. Các ra-bi dạy: "Người Do Thái phải bị xử tử khi phạm tội
thờ hình tượng, sát nhân và ngoại tình". Ngoại tình là một trong ba tội
lớn nhất và phạm nhân phải chịu chết, mặc dù cách xử tử có thể khác nhau. Kinh
Mishnah, bộ luật thành văn của người Do Thái quy định một phụ nữ đã hứa hôn mà
phạm tội ngoại tình thì phải bị xử tử bằng cách ném đá. Theo quan điểm thuần
tuý pháp lý thì các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái hoàn toàn đúng. Người phụ nữ này
đáng bị ném đá chết.
Các Kinh sư và đạo sĩ này muốn Chúa
Giêsu phải đối đầu với một vấn đề nan giải: Nếu Chúa Giêsu bảo người đàn bà này
phải bị ném đá cho chết sẽ có hai hậu quả: thứ nhất, Ngài không còn được nổi
tiếng là người đầy yêu thương và nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là người
đầy yêu thương và nhân từ, sẽ chưa bao giờ còn được gọi là bạn thân thiết của
tội nhân. Thứ hai, nếu ra lệnh xử tử, Ngài sẽ đi ngược với luật pháp La mã, vì
người Do Thái không có quyền kết tội tử hình hay xử tử bất cứ một ai. Còn nếu
Ngài bảo tha cho người đàn bà ấy thì Ngài sẽ bị tố cáo là dạy người ta phá bỏ
luật pháp Môsê, là chẳng những dung tha mà còn khuyến khích người ta phạm tội
ngoại tình. Đó là cách mà các Kinh sư và đạo sĩ đã gài bẫy Chúa Giêsu. Nhưng
Chúa đã khiến cuộc tấn công này đổ ngay lên đầu họ. Trước hết Ngài cúi xuống
lấy tay viết trên đất. Tại sao Ngài làm thế? Có thể có bốn lý do:
1. Ngài muốn trì hoãn trong chốc lát để
khỏi phải quyết định vội vàng. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Ngài có thể vừa
suy nghĩ, vừa trình vấn đề lên Thiên Chúa.
2. Có vài cổ bản Kinh Thánh thêm câu:
"Như thể Ngài không nghe họ nói gì". Có thể Chúa Giêsu cố tình buộc
phải lập lại lời tố cáo, để trong khi nhắc lại, họ nhận thức được sự tàn ác của
họ.
3. Trong quyển Ecce Homo, Seeley có một
gợi ý rất hay: "Chúa cảm thấy xấu hổ vô cùng, Ngài không thể nào chịu được
cái nhìn của đám đông, của những người buộc tội, và có lẽ ít hơn hết, của người
đàn bà đó. Trong lúc bối rối và xấu hổ cực độ đó, Ngài cúi xuống dường như giấu
mặt đi và bắt đầu viết trên đất. Rất có thể những cái liếc mắt đầy dục vọng của
bọn Kinh sư và đạo sĩ Do Thái, cái nhìn trừng trợn và tàn bạo của họ, sự tò mò
dâm đãng của đám đông, sự xấu hổ của người đàn bà, tất cả đã kết hợp lại giày
vò tấm lòng vừa đau đớn, vừa thương hại của Chúa Giêsu, cho nên Ngài che giấu
đôi mắt của Ngài".
4. Nhưng điều gợi ý thú vị hơn hết phát
xuất từ một số thủ bản sau này. Bản Tân Ước tiếng A-mê-ri dịch như sau:
"Chính Ngài cúi xuống, lấy ngón tay viết trên mặt đất để tuyên bố tội lỗi
họ, và họ thấy nhiều trọng tội của họ viết trên đất". Ý ở đây là Chúa
Giêsu đã viết trên mặt đất các tội lỗi của chính những kẻ đang tố cáo người phụ
nữ ấy. Điều này có thể đúng, vì từ viết "Katagraphain" được dùng ở
đây có nghĩa là viết (một bản cáo trạng) chống lại một người nào. Có thể Chúa
Giêsu buộc những kẻ đang tố cáo người khác phải đối diện với bản liệt kê các
tội lỗi của chính mình.
Dầu vậy các thầy luật sĩ và đạo sĩ vẫn
một mực đòi hỏi Chúa Giêsu phải trả lời, và họ đã được trả lời. Ngài nói đại
khái như sau: "Được rồi! Ném đá đi! Nhưng phải để người nào vô tội ném đá
trước!". Chữ vô tội chẳng những có một nghĩa là không có tội, mà còn có
nghĩa là không có một ước muốn tội lỗi nào cả. Chúa Giêsu nói rằng: "Phải,
các ông có thể ném đá bà ta, nhưng với một điều kiện là chính các ông phải chưa
bao giờ muốn làm như bà này đã làm". Mọi người đều im lặng, và những người
tố cáo lần lần rút lui.
Chúa Giêsu còn lại một mình với người
đàn bà. Thánh Âu tinh đã viết: "Bây giờ chỉ còn lại một nỗi đau khổ tràn
đầy và một tấm lòng thương xót vĩ đại". Chúa Giêsu nói với người phụ nữ:
không còn ai buộc tội ngươi sao? Bà ta đáp: "thưa không". Ngài phán: "Ta
cũng không định tội ngươi. Hãy đi, làm lại cuộc đời và từ nay đừng phạm tội
nữa".
Đoạn Kinh Thánh này cho chúng ta biết
hai điều và Kinh sư và đạo sĩ Do Thái.
1. Quan niệm của họ về thẩm quyền:
Các Kinh sư và đạo sĩ Do Thái là những
chuyên viên về luật pháp thời đó. Các vấn đề khó khăn đều được đưa tới cho họ
quyết định. Đối với họ, thẩm quyền là để phê phán, khống chế và kết tội. Họ
hoàn toàn không thể thấy rằng thẩm quyền phải được xây dựng trên tình thương,
thông cảm và nhằm mục đích cải hoá kẻ phạm tội. Họ quan niệm vai trò của họ là
có quyền đứng trên mọi người khác, như những giám thị nghiêm khắc tìm ra từng
lầm lỗi, từng hành động trái pháp luật, và thẳng tay giáng xuống những hình
phạt không dung thứ. Họ chẳng bao giờ thấy họ có nhiệm vụ cứu giúp tội nhân.
Ngày nay vẫn còn nhiều người xem địa vị
cầm quyền cho mình quyền kết án và nhiệm vụ trừng phạt. Họ nghĩ thẩm quyền của
họ đã cho phép họ làm những người bảo vệ chân lý, được huấn luyện để trừng trị
tội nhân. Nhưng thẩm quyền chân chính phải được xây dựng trên sự cảm thông. Khi
thấy một tử tù đi trên đường đến nơi hành quyết George Whitefeld đã thốt ra lời
bất hủ này: "Nếu không nhờ ân sủng của Chúa thì tôi cũng đi đến đó".
Nhiệm vụ đầu tiên của người cầm quyền
là cố tìm động lực thúc đẩy tội nhân phạm tội, và hoàn cảnh đưa đẩy, lôi cuốn
vào tội lỗi. Không ai có quyền phê phán kẻ khác, trừ phi đã cố gắng tìm hiểu
hoàn cảnh của kẻ bị phê phán. Nhiệm vụ thứ hai của người cầm quyền là phải tìm
cách cải hoá người làm sai. Cầm quyền mà chỉ quan tâm tới việc trừng phạt là
sai lầm; cầm quyền mà khiến kẻ làm sai tuyệt vọng hay ấm ức là thất bại. Nhiệm
vụ của người cầm quyền không phải là để lưu đày hay loại trừ kẻ phạm tội ra
khỏi xã hội lành mạnh, nhưng để khiến tội nhân trở thành người tốt. Người cầm
quyền phải giống như lương y, chỉ có một ước ao duy nhất là cứu giúp người
khác.
2. Biến cố này cho thấy cách sống động
thái độ thô bạo của họ đối với dân chúng.
Họ không xem người phụ nữ này là một
con người, nhưng như một đồ vật, một dụng cụ nhờ đó họ có được lý cớ để tố cáo
Chúa Giêsu. Họ dùng bà như một dụng cụ để thực hiện ý đồ riêng của mình, bà chỉ
như một con chốt trong một ván cờ được dùng để tìm cách diệt trừ Chúa Giêsu.
Đối với họ, bà không là gì cả, ngoại trừ là một trường hợp ngoại tình trắng trợn
và có thể được dùng như một dụng cụ để thoả mãn chủ đích của họ. Họ sẵn sàng sử
dụng bất cứ phương tiện nào để đạt cho được mục đích họ mong muốn. Ta thấy tâm
tính của con người thường biểu lộ bằng những phương tiện họ sử dụng để đạt mục
đích.
Biến cố này cho chúng ta biết nhiều về
Chúa Giêsu.
1. Nguyên tắc đầu tiên Chúa là chỉ
người vô tội mới được quyền đoán xét lỗi lầm của kẻ khác. Chúa đã phán:
"Các ngươi đừng xét đoán ai, để mình khỏi bị đoán xét" (Mt 7,1).
Người đoán xét anh em mình chẳng khác gì kẻ có cả một cây đà trong mắt mình lại
muốn tìm cách lấy cái rác nhỏ trong mắt người khác (x.Mt 7,3-5). Một trong
những lỗi lầm thông thường nhất trong đời sống là, chúng ta đòi hỏi kẻ khác đạt
những tiêu chuẩn mà chính mình không hề cố gắng đạt tới; nhiều người trong
chúng ta kết án người khác về những lỗi lầm mà chính mình đã mắc phạm. Không
thể dựa trên kiến thức để đoán xét người khác, vì ai cũng có tri thức. Phải dựa
trên sự thành đạt đạo đức để đoán xét, nhưng không ai trong chúng ta là người
toàn thiện cả. Thực trạng của con người cho thấy chỉ có một mình Thiên Chúa có
quyền đoán xét, lý do hết sức giản dị là, không một ai lành đủ để đoán xét
người khác.
2. Một nguyên tắc khác không kém quan
trọng đối với Chúa Giêsu là khi đối diện với người lỗi lầm, trước tiên phải có
lòng thương cảm. Có người bảo nhiệm vụ của một bác sĩ là "Thỉnh thoảng
chữa lành, thường thường làm bớt đau đớn, và luôn luôn an ủi". Khi một
bệnh nhân được đưa đến một bác sĩ, thì một lương y chẳng bao giờ ghê tởm bệnh
nhân, cho dù người ấy đang mắc phải chứng bệnh đáng ghê tởm. Thật ra, sự ghê
tởm, nhờm gớm thường khó tránh được, nhưng nó bị lòng ước muốn trợ giúp, chữa
trị lấn át. Khi đối diện với người phạm lỗi, trước tiên chúng ta không nên có
cảm nghĩ: "Đối với hạng người như vậy mình không nên tiếp tục liên
hệ" nhưng phải nói "mình có thể làm gì để giúp người ấy? Mình có thể
làm gì để hoà giải những hậu quả của lỗi lầm?". Nói cách đơn giản, ta phải
dành cho người khác sự thương cảm mà chúng ta vẫn mong chờ người khác dành cho,
khi chúng ta lỡ sa vào cùng một hoàn cảnh ấy.
3. Điều quan trọng chúng ta phải thấu
triệt là cách Chúa Giêsu đối xử với phụ nữ này. Từ việc này, chúng ta dễ rút ra
bài học hoàn toàn sai lầm là Chúa Giêsu tha thứ cách nhẹ nhàng, dễ dàng như tội
này chẳng có gì đáng quan tâm. Điều Ngài nói: "Lúc này Ta cũng không định
tội ngươi, hãy đi và đừng phạm tội nữa". Trong một cách Chúa Giêsu đã
không huỷ bỏ việc xét đoán và nói: "Đừng lo, không sao đâu!". Điều
Ngài làm là hoãn lại lời kết án, Ngài phán: "Bây giờ Ta chưa xét đoán
ngươi. Hãy đi và chứng minh rằng ngươi có thể sống tốt lành hơn. Ngươi đã phạm
tội, hãy đi và đừng tái phạm. Ta sẽ luôn giúp đỡ ngươi. Đến ngày tận thế Ta sẽ
xét lại xem ngươi đã sống như thế nào." Thái độ của Chúa Giêsu đến với tội
nhân bao giờ cũng bao gồm một số điều sau đây:
a. Một dịp thuận tiện thứ hai.
Chúa ban cơ hội để sửa chữa lỗi lầm,
như thể Người đến bảo người đàn bà ấy rằng: "Ta biết ngươi lộn xộn lắm,
nhưng cuộc đời vẫn chưa chấm dứt. Bây giờ Ta cho ngươi thêm một cơ hội để chuộc
lấy mình". Trong Chúa Giêsu, có Tin Mừng về một dịp thứ hai, Ngài luôn tha
thiết quan tâm đến một người, không những đã sống như thế nào, mà còn có thể
trở nên như thế nào. Ngài không hề bảo những gì người ta đã làm là không quan
trọng. Vi phạm luật pháp và làm người khác đau khổ luôn luôn là việc hệ trọng.
Nhưng Chúa Giêsu biết rõ mỗi người đều có một tương lai cũng như đã từng có một
quá khứ.
b. Một sự thương cảm.
Điều khác nhau căn bản giữa Chúa Giêsu
và nhóm Do Thái là họ muốn kết tội, còn Chúa Giêsu muốn tha thứ. Nếu đọc kỹ câu
truyện chúng ta sẽ thấy họ chỉ muốn ném đá người đàn bà này cho chết, và họ cảm
thấy rất thích hợp được làm điều này. Họ cảm thấy vui sướng khi hành quyền kết
tội, còn Chúa Giêsu vui sướng khi hành quyền tha thứ. Chúa Giêsu nhìn tội nhân
với sự cảm thương phát xuất từ tình yêu thương, còn các Kinh sư và đạo sĩ Do
Thái nhìn tội nhân với thái độ ghê tởm, bắt nguồn từ việc coi mình là thánh
thiện.
c. Một niềm tin vào bản tính con người.
Nghĩ cho kỹ chúng ta phải bàng hoàng
khi nghe Chúa Giêsu nói với người đàn bà xấu nết: "Hãy đi, đừng phạm tội
nữa". Điều lạ lùng và phấn khởi là Chúa Giêsu tin vào con người. Đối diện
với một người từng làm ác, Ngài không bảo "ngươi thật là một kẻ xấu xa,
chẳng còn hy vọng gì nữa". Ngài tin rằng với sự trợ giúp của Ngài, tội
nhân có thể trở thành bậc thánh. Phương pháp của Chúa Giêsu không phải là tống
cho con người, ý thức, mà họ đã có, rằng họ là tội nhân khốn nạn, nhưng ban cho
họ một niềm hứng khởi để khám phá một điều mà trước đây họ chưa hề trông thấy, đó
là toàn năng trở thành thánh nhân.
d. Một hàm ý cảnh cáo.
Tại đây chúng ta đối diện với sự kiện
vĩnh cửu, đời đời. Ngày hôm ấy Chúa Giêsu bắt người đàn bà phải lựa chọn, hoặc
trở về đường lối cũ, hoặc cùng Ngài tiến trên con đường mới. Đây là câu truyện
chưa kết thúc, vì mỗi đời sống chưa kết thúc cho đến khi ra đứng hầu toà trước
mặt Thiên Chúa.
17. Tha thứ trong thinh lặng
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Phiên tòa xử người đàn bà phạm tội
ngoại tình diễn ra khi Chúa Giêsu bắt đầu bài giảng của Ngài. Thánh Gioan không
nói rõ nội dung của bài giảng của Chúa Giêsu, nhưng khi đặt phiên tòa vào khởi
đầu của bài giảng của Chúa Giêsu, thánh nhân hẳn đã muốn nêu bật một cung cách
rất đặc biệt trong sự giảng dạy của Chúa Giêsu. Khi các biệt phái đưa người đàn
bà bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình đến trước mặt Chúa Giêsu và hỏi ý kiến
Ngài. Chúa Giêsu đã giữ thinh lặng. Ngài không còn nói nữa mà lại cúi xuống lấy
ngón tay viết trên đất. Từ hàng bao thế kỷ qua, các nhà chú giải Kinh Thánh đã
nhọc công nghiên cứu mà vẫn không ra, đối với thánh Gioan, người ghi lại biến
cố này, điều quan trọng không phải là nội dung của những lời Chúa Giêsu đã viết
ra mà chính là sự thinh lặng của Ngài.
Cử chỉ không lời của Chúa Giêsu trong
bài Tin Mừng hôm nay cũng có thể được xem như một bài dụ ngôn bằng hành động mà
Ngài muốn dạy cho dân chúng. Ngài muốn cho dân chúng thấy rằng những gì Ngài
làm còn quan trọng hơn là những lời Ngài nói. Chúa Giêsu đã dạy bằng nhiều dụ
ngôn. Có những dụ ngôn bằng lời nói nhưng cũng có những dụ ngôn bằng hành động.
Khi Ngài đến ngồi đồng bàn với các tội nhân, khi Ngài quỳ xuống rửa chân cho
các môn đệ, đó là những dụ ngôn bằng hành động, qua đó Ngài muốn nói lên tình
yêu của Thiên Chúa đối với con người.
Chỉ trong thinh lặng, con người mới có
thể trở về với cõi lòng và nghe được tiếng nói của Chúa trong lương tâm. Đây là
sứ điệp mà Chúa Giêsu muốn nói với các biệt phái và đám đông đến nghe Ngài
giảng dạy. Người ta ồn ào và hung hãn bao nhiêu khi lôi người đàn bà ngoại tình
tới trước mặt Chúa, thì giờ đây trong thinh lặng do Ngài gợi lên người ta lại
càng nhận ra chính bản thân tội lỗi của mình hơn. Trước đó, người ta càng mạnh
bạo để kết án người khác bao nhiêu, thì giờ đây người ta lại càng rụt rè xấu hổ
bấy nhiêu.
Có thinh lặng con người mới đi sâu vào
cõi lòng mình. Có thinh lặng con người mới nhận ra thân phận tội lỗi bất toàn
của mình. Có thinh lặng con người mới có thể tha thứ cho người khác. Có thể đó
là bài học mà đám đông dân chúng đã tiếp thu được trong phiên tòa xử người đàn
bà phạm tội ngoại tình ngày hôm đó.
Mọi người đều rút lui, bắt đầu từ những
người lớn tuổi. Họ rút lui trong thinh lặng. Có lẽ đây là lần đầu tiên đám đông
dân chúng ra về trong thinh lặng. Họ đã nắm bắt được nội dung của bài giảng
ngày hôm đó. Hôm ấy Chúa Giêsu không chỉ tha thứ và giải cứu cho người đàn bà
ngoại tình. Ngài cũng đã loan báo chính số phận của Ngài, rồi đây Ngài cũng bị
điệu ra trước tòa án để xét xử. Nhưng như Ngài đã cúi xuống và thinh lặng trong
phiên tòa xử người đàn bà ngoại tình, Ngài cũng phải giữ thinh lặng trong suốt
phiên tòa của Ngài. Và tuyệt đỉnh của sự thinh lặng ấy là cử chỉ tha thứ của
Ngài khi bị treo trên thập giá. Ngài đã thể hiện sự tha thứ bằng thinh lặng.
Không phải chỉ có ấn phẩm mới đáng kể, im lặng cũng là nói lên một cách phát biểu,
đó là im lặng của cái chết, im lặng của phẩm cách, im lặng của tĩnh tâm, im
lặng của quá trình tăng trưởng, im lặng của thận trọng và nhất là im lặng của
tha thứ.
Ngày nay, có quá nhiều những lời nói
suông. Trong nền văn minh tràn đầy những ấn phẩm và trào ứa thông tin, những
thứ tiếng ồn ào phát ra từ các phương tiện truyền thông, từ lãnh vực thương mại
và chính trị. Ngay cả tình yêu cũng được diễn tả bằng những lời nói suông.
Trong những ngày này, Giáo Hội mời gọi
chúng ta đi vào thinh lặng của cõi lòng và lắng nghe sự thinh lặng của Chúa
Giêsu trên thập giá. Từ trên thập giá Chúa Giêsu mời gọi chúng ta trở về với
cõi lòng để nhận ra thân phận tội lỗi của chúng ta, để nghe được lời tha thứ
của Ngài và nhất là để tha thứ cho người khác.
18. Lòng Chúa khoan dung
Trong kinh Tin kính, chúng ta hằng
tuyên xưng: Tôi tin phép tha tội. Phải chăng đó là một sự tưởng tượng, một giấc
mơ, hay một sự thật? Kinh nghiệm cho thấy: Nhân vô thập toàn, đã là người thì
ai cũng có những sai lỗi và khuyết điểm của mình. Phải chăng chúng ta cứ mãi
mãi vùng vẫy trong chốn bùn nhơ tội lỗi, không có cơ may trỗi dậy để được thanh
tẩy?
Đoạn Tin mừng hôm nay đem lại cho chúng
ta niềm xác tín: Thiên Chúa luôn tha thứ cho chúng ta vì Ngài là một người cha
nhân từ và giàu lòng thương xót khoan dung. Mọi tội lỗi của chúng ta sẽ được
Ngài xoá bỏ, nếu chúng ta biết trở về với Ngài.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy khi nói
về sự tha thứ tội lỗi, Chúa Giêsu đã dùng những ngôn từ thật phong phú và những
hình ảnh thật cảm động. Thực vậy, Ngài đã xuống trần gian để làm gì, nếu không
phải là để giải phóng con người khỏi sự trói buộc của tội lỗi.
Ngài đã sánh ví mình như người mục tử
nhân lành, lên đường tìm kiếm con chiên bị là mất và khi tìm thấy, liền vác nó
lên vai, đem về nhà, mời bạn hữu đến chia vui với mình. Ngài không phải chỉ
nhắm mắt làm ngơ trước những tội lỗi của chúng ta, mà hơn thế nữa, Ngài còn xoá
bỏ và tha thứ, như lời Ngài đã xác quyết: Một kẻ tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả
thiên đàng vui mừng hơn chín mươi chín người công chính không cần sám hối ăn
năn. Ngài sánh ví mình như người đàn bà đốt đèn tìm kiếm đồng bạc đã bị đánh
rơi và Ngài nhấn mạnh: Không phải những người khoẻ mạnh, mà là những kẻ đau yếu
mới đến thầy thuốc. Ngài không đến để kêu gọi người công chính, nhưng đến để kêu
gọi kẻ tội lỗi biết đường sám hối ăn năn. Ngài sánh ví mình như người cha mòn
mỏi trông chờ đứa con hang đàng, để khi cậu trở về thì liền tha thứ và mở tiệc
ăn mừng.
Ngài không phải chỉ giảng dạy về lòng
nhân hậu khoan dung, mà hơn thế nữa, Ngài còn biểu lộ lòng nhân hậu khoan dung
ấy qua những hành động cụ thể. Ngài đã tha thứ cho Mađalêna, người đàn bà tội
lỗi. Ngài đã tha thứ cho Phêrô, người môn đệ đã chối bỏ Ngài. Ngài đã tha thứ
cho tên trộm lành vào những giây phút cuối cùng trên thập giá. Và hôm nay, Ngài
đã tha thứ cho người thiếu phụ ngoại tình, mà chiếu theo luật Do Thái, thì sẽ
bị ném đá cho chết.
Dựa vào những sự kiện trên, chúng ta có
thể vui mừng tuyên xưng: Tôi tin phép tha tội. Kể từ nay, chúng ta không còn
phải mang gánh nặng tội lỗi trong tâm hồn, nếu chúng ta biết chạy đến nơi toà
cáo giải, bí tích của lòng nhân từ và khoan dung. Vật bí tích giải tội là gì?
Tôi xin thưa, bí tích giải tội trước
hết là sự quét tước lau chùi cho sạch sẽ. Thực vậy, để dọn dẹp một căn phòng,
chúng ta thường phải mở cửa, quét dọn mọi xó góc và lau sạch mọi bụi bẩn. Sau
đó, chúng ta kê lại bàn ghế, sắp xếp lại mọi đồ đạc và rồi chúng ta sẽ có được
một bầu khí trong lành và ấm cúng. Thánh Bernađô đã coi những giọt nước mắt của
cõi lòng sám hối ăn năn là như một bí tích rửa tội. Chúng ta được rửa sạch mọi
vết nhơ tội lỗi bởi những giọt nước mắt ấy. Và tôi có thể đưa ra một so sánh:
Kẻ chạy trốn tiếng nói lương tâm cũng giống như một người đàn bà già. Đúng thế,
thuở trước khi còn trẻ người ấy thích soi gương để chiêm ngắm nhan sắc của
mình, nhưng từ khi khám phá ra những nếp nhăn trên khuôn mặt, người ấy đã đập
bể tấm gương để không còn nhìn vào đó nữa. Cũng vậy, kẻ có tội không bao giờ
muốn tự vấn lương tâm, không bao giờ muốn nhìn vào tận đáy tâm hồn mình vì hắn
sẽ khám phá ra những vết nhơ của tội lỗi. Hắn không muốn đi xưng tội, cũng
giống như người đàn bà già không muốn nhìn thấy khuôn mặt mình trong gương.
Ngoài ra, bí tích giải tội còn là một
sự thức tỉnh, kéo chúng ta ra khỏi cơn mộng dữ, giải thoát chúng ta khỏi gánh
nặng tội lỗi và bảo đảm cho chúng ta sự sống ơn sủng. Thực vậy, bởi một người
mà tội lỗi đã đột nhập vào thế gian. Và hậu quả của tội lỗi là sự chết. Sự chết
được truyền thông cho mọi người, bởi vì tất cả chúng ta đều phạm tội. Nếu tội
lỗi là nguồn gốc sinh ra cái chết, thì việc tha thứ sẽ đem lại cho chúng ta sự
sống ân sủng. Nếu tội lỗi sinh ra lo âu và buồn phiền, thì sự tha thứ sẽ đem
lại bình an và hạnh phúc. Nếu tội lỗi là những con sâu cắn hại lá cây, thì sự
tha thứ sẽ là những giọt sương mai làm cho cây cối xanh tươi.
Sa ngã, vấp phạm là chuyện thường tình
của thân phận con người yếu đuối. Nhưng sám hối ăn năn mới là chuyện đáng kể do
lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa. Tất cả chúng ta đều có thể sa ngã
vấp phạm, đó là bi kịch của đời sống con người. Nhưng tất cả chúng ta cũng đều
có thể trỗi dậy, đó là niềm an ủi của đức tin Kitô giáo. Nếu biết ăn năn sám
hối, chúng ta sẽ không còn phải lo sợ, vì máu Đức Kitô sẽ mạnh hơn mọi thế lực:
Nếu chúng ta xưng thú tội lỗi, thì Thiên Chúa trung thành và công chính sẽ tha
thứ cho chúng ta và xoá bỏ khỏi tâm hồn chúng ta những bồn chồn lo lắng. Hãy
đến quì bên toà cái giải để được Chúa tha thứ. Tâm hồn chúng ta là một tấm
gương phản chiếu hình ảnh Thiên Chúa, đừng làm cho nó bị lu mờ. Tâm hồn chúng
ta là một chiếc bình quí giá, đừng làm cho nó bị vỡ ra thành từng mảnh. Tâm hồn
chúng ta là một cây đàn, đừng làm cho nó trở thành ngang cung. Tâm hồn chúng ta
là một cánh hoa tươi xinh, đừng vùi dập nó trong đống bùn nhơ. Tâm hồn chúng ta
là một ngọn lửa, đừng dập tắt nó.
Đavít đã khóc thương cho tội lỗi của
mình và đã được Chúa tha thứ. Mađalêna đã quỳ gối lấy tóc lau chân Chúa và đã
được Chúa tha thứ. Phêrô đã đấm ngực ăn năn và đã được Chúa tha thứ. Chúng ta
cũng vậy, với tâm tình sám hối, chúng ta hãy chạy đến nơi toà cáo giải để được
Chúa thứ tha, bởi vì Chúa chẳng bao giờ chê bỏ những tấm lòng tan nát khiêm
cung.
19. Lòng thương xót
Trong cuộc đời của mình, chúng ta có
khuynh hướng đưa ra một giá trị cao hơn về nhân đức tốt lành – sự tử tế rõ rệt,
thông thường và diễn ra hằng ngày. Khi nhìn lại cuộc sống của mình, chúng ta
cảm thấy tiếc nuối, khi nhớ đến những hành vi thiếu sự tử tế. Nhưng khi nhớ lại
những hành động ân cần tận tuỵ của mình, thì đó thật là những giây phút đáng
yêu. Sự tử tế chủ yếu là lẽ công bằng đích thực. Đức Giêsu đặc biệt thương cảm
đối với những kẻ mà người ta đưa ra cho Người phán xét. Một ví dụ kinh điển là
câu chuyện nói về người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình.
Câu chuyện này cảnh báo chúng ta chống
lại thói quá vội vã trong việc đưa ra phạm vi luân lý cao. Ai trong chúng ta là
người vô tội? Chúng ta phải học hỏi từ ví dụ của Đức Giêsu. Người kết án tội
lỗi của người phụ nữ đó, nhưng Người từ chối không kết án bản thân chị ta.
Không phải là tội lỗi đó không thành vấn đề đối với Người. Có chứ. Nhưng Người
phân biệt giữa tội lỗi và tội nhân. Người kết án tội lỗi, nhưng lại tha thứ cho
tội nhân.
Và động cơ quan trọng nhất trong tất cả
hành động này của Người, đó chính là tấm lòng thương xót. Vấn đề không phải là
hào phóng, nhưng là biết thương xót. Một người thánh thiện,, thì càng ít có
khuynh hướng phán xét người khác. Trong mỗi con người, đều có khuynh hướng muốn
tránh né quyền phê phán của bất cứ người nào khác.
Đức Giêsu từ chối việc phán xét người
phụ nữ ngoại tình. Nhưng Người nói với chị ta "Chị cứ về đi, và từ nay
đừng phạm tội nữa!". Nói cách khác, Người không hề phủ nhận tội lỗi của
chị ta. Người bảo chị ta hãy thừa nhận và chịu trách nhiệm về tội lỗi của mình.
Thật là dễ dàng hơn nhiều, khi người ta chối tội, biện hộ, hoặc đổ tội cho
người khác. Khi người ta biết trực diện với tội lỗi và giải quyết nó, thì không
còn gì để đổ tội, hối tiếc, ân hận, hoặc thất vọng nữa.
Lòng thương xót và sự tha thứ của Đức
Giêsu mang lại sự sống. Người phụ nữ đó đã được tự do ra đi – tự do để thay đổi
thái độ sống của mình, và lấy lại được lòng tự trọng. Đức Giêsu nhắc nhở chúng
ta rằng con người có khả năng thay đổi, nếu được tạo cho cơ hội.
Sứ vụ của Giáo Hội phải là một nơi dành
cho sự tha thứ, sao cho những kẻ đã bị sa ngã (tất cả chúng ta đều đã từng sa
ngã, theo nhiều cách thức và mức độ khác nhau) đều cảm nghiệm được tình yêu
thương và lòng thương xót của Đấng đã khước từ việc kết án. Giáo Hội phải trở
thành một cộng đoàn của ân sủng, một cộng đoàn không câu nệ vào luật lệ, một
cộng đoàn sẽ không kết án, nhưng sẽ yêu thương, một cộng đoàn quan tâm đến lòng
thương xót, hơn là sự công bằng.
Ngày kia, có một phụ nữ đến van xin
hoàng đế Napoléon tha thiết cho người con trai của bà. Anh thanh niên đó đã
phạm một tội nặng. Lề luật đã rõ rệt. Công lý đòi buộc anh ta phải chết. Hoàng
đế quả quyết rằng đảm bảo phải thi hành công lý. Nhưng bà mẹ nài nỉ "Thưa
bệ hạ, tôi đến van xin lòng thương xót của ngài, không phải vì công lý".
Hoàng đế Napoléon trả lời "Nhưng hắn ta không xứng đáng được thương
xót". Bà mẹ nói "Thưa bệ hạ, nếu nó xứng đáng, thì không còn gọi là
lòng thương xót nữa".
Hoàng đế Napoléon đáp "Thôi được.
Ta sẽ rủ lòng thương xót nó". Và ông sai thả người thanh niên đó ra.
Về bản thân, sự thương xót thuần tuý là
một quà tặng. Đây là điều gì đó mà tất cả chúng ta đều cần đến, và do đó, chúng
ta phải sẵn sàng mở lòng ra với người khác. Chúa nói "Phúc cho kẻ có lòng
thương xót".
20. Khoan dung
Những người Pharisêu và kinh sư thời
Chúa Giêsu luôn cố gắng tìm mọi cách để tố cáo và hạ bệ Ngài. Ngài là một
chướng ngại, một cái gai rất khó chịu trước mắt họ, vì họ thấy Ngài đối xử nhân
từ với những người thu thuế, những người tội lỗi, những phụ nữ xấu nết và những
người sống ngoài luật Môsê. Để đối đầu với Ngài, nhiều lần họ đã giương cao cạm
bẫy, nhưng lần nào cũng vậy, họ đều thất bại và phải xấu hổ bỏ đi. Vì thế, lần
này, họ nhất định ăn thua đủ với Ngài. Họ đã kinh nghiệm rồi, họ không đặt ra
những vấn đề lý thuyết như việc đóng thuế cho hoàng đế Xêda hay những trường
hợp giả tưởng như chuyện người đàn bà goá lấy bảy anh em làm chồng. Trái lại,
lần này là một việc cụ thể, với những vai chính sống động, rõ ràng, chắc chắn.
Đó là trường hợp một phụ nữ phạm tội
ngoại tình bị bắt quả tang. Theo luật Môsê thì tội này bị kết án tử hình ném
đá. Như vậy, người phụ nữ này có thể bị giết chết mà không cần một lời tố cáo
nào và cũng chẳng cần cho người có dịp bào chữa, vì đã trở thành đồ bỏ rồi. Vậy
tại sao họ còn đem người phụ nữ này đến để hỏi Chúa Giêsu về cách trừng phạt,
vì tội bà ta đã rõ ràng và hình phạt đã được luật pháp qui định cũng rõ ràng?
Thưa, họ muốn gài bẫy Chúa để loại trừ ảnh hưởng của Ngài và bêu xấu Ngài. Hoặc
là Ngài phải đứng về phía luật pháp với tất cả sự gay gắt của nó, điều đó trái
ngược với thái độ nhân từ Ngài thường có. Hoặc là Ngài xác định sự biệt lập của
mình để trở thành kẻ bất trung và lạc giáo vì chống lại luật Môsê. Nói rõ hơn,
nếu Chúa tuyên bố không ném đá, tức là Ngài chống lại luật Môsê. Còn nếu Chúa
tuyên bố ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài là phạm đến quyền của đế quốc Rôma, vì
người Do thái lúc đó đang sống dưới sự đô hộ của Rôma, họ không có quyền xử tử
ai, chỉ quan toàn quyền Rôma mới có quyền đó. Thật không dễ gì trả lời. Chống
lại luật Môsê thì sẽ bị dân phản đối, chống lại quyền của đế quốc thì sẽ bị đế
quốc trừng trị. Chúa Giêsu sẽ chọn đàng nào? Chúa xử trí vụ này ra sao?
Chúa không nói lời nào, Ngài im lặng và
cúi xuống lấy ngón tay viết trên mặt đất. Đây là lần đầu tiên Tin Mừng ghi lại
Chúa Giêsu viết nhưng không nói Ngài đã viết gì. Người ta đã tìm đủ cách để
đoán xem Chúa viết gì. Có người cho rằng Chúa chỉ nguệch ngoạc, không viết rõ
chữ gì để tỏ thái độ không muốn dây mình vào việc xét xử ai. Có người cho rằng
Chúa viết những lời than trách của ngôn sứ Giêrêmia về tội dân Do thái phản bội
Chúa còn nặng tội gấp mấy người phụ nữ này. Có người cho rằng lần nhất Chúa
viết số thứ tự của mười điều răn, lần hai Ngài viết các tội nặng của những kẻ
đứng ra tố cáo về ngày giờ, nơi chỗ và lý do phạm tội với ai. Nhưng tất cả chỉ
là phỏng đoán mà thôi. Bản văn Tin Mừng đã cố ý không nói Chúa Giêsu viết gì.
Có thể Chúa chỉ lấy tay vạch vẽ trên đất mà chẳng viết chữ gì cả. Đây chỉ là
cách Chúa tạo một khoảng thinh lặng chờ đợi để cho những kẻ tố cáo người phụ nữ
này kịp suy nghĩ lại.
Những người Pharisêu và kinh sư thấy
thái độ của Chúa có vẻ như không quan tâm gì đến vấn đề họ đặt ra, nên họ phải
nhắc đi nhắc lại câu hỏi. Và bây giờ Chúa mới đưa ra quyết định. Ngài không trả
lời câu hỏi của họ, nhưng lời Ngài nói ra làm cho họ ngạc nhiên đến choáng
váng. Chúng ta thấy Chúa không nói: "Đừng ném đá chị ta", vì Ngài
không muốn tỏ vẻ chống lại luật pháp. Và Ngài cũng không nói: "Hãy ném đá
chị ấy", vì Ngài đến không phải để làm mất đi những gì Ngài đã tìm lại
được, nhưng là để tìm kiếm những gì đã hư mất. Vì vậy Chúa nói với họ: "Ai
trong các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi". Chúa không
phủ nhận tội của người đàn bà kia, cũng không phủ nhận luật Môsê, nhưng Chúa
đưa ra một quan điểm mới: hãy tự xét xử mình trước khi xét xử người khác. Họ
đang dựa vào luật Môsê để xét xử người khác, thì Chúa bảo họ hãy dựa vào đó mà
xét xử chính mình trước đã. Ngài yêu cầu họ hãy trở về với chính mình. Họ mưu
toan bên ngoài nhưng họ lại không nhìn vào đáy lòng mình. Họ trông thấy người
ta ngoại tình nhưng họ không nhìn vào chính mình, vì hễ ai chú ý xét mình,
người ấy sẽ thấy mình là kẻ tội lỗi. Vậy hoặc là trả tự do cho người phụ nữ ấy,
hoặc hãy cùng với bà ta chịu sự trừng phạt của lề luật đi. Nói rõ hơn, họ đang
đòi xử tội người đàn bà này vì tội ngoại tình, nhưng thật sự ý đồ của họ là
đang tìm cách mưu giết Chúa. Những lời của Chúa Giêsu đã đánh trúng tim đen của
họ. Thế là họ lần lượt bỏ đi, vì họ nhận ra rằng chính họ cũng là những kẻ có
tội.
Cuối cùng, chỉ còn lại một mình người
đàn bà đứng trước mặt Chúa, chỉ còn lại hai bên: kẻ đáng thương đối diện với
tình thương. Kẻ đáng thương chờ đợi tình thương xót; và tình thương xót chờ đợi
kẻ đáng thương. Chúa Giêsu ngẩng đầu lên và nói với người đàn bà: "Này
chị, họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?". Chị ta thưa lại: "Thưa
ông, không có ai cả". Chúa Giêsu nói tiếp: "Tôi cũng vậy, tôi không
lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa". Đó là lời
của tình thương, tôi đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn sám hối chứ không phải
để lên án.
Tóm lại, Chúa Giêsu đến trần gian để
kêu gọi người tội lỗi ăn năn sám hối chứ không phải để kết án. Câu chuyện người
phụ nữ ngoại tình là một bằng chứng. Và Chúa dạy chúng ta hãy theo gương Chúa
mà đối xử với nhau như thế: đừng bao giờ kết án ai hay vào hùa với ai để kết án
người khác; đừng đấm ngực ai, nhưng hãy đấm ngực mình, nhìn nhận mình cũng
chẳng khá hơn ai, mình cũng đầy những tội lỗi và thiếu sót, cần ăn năn sám hối
để được tha thứ. Đó cũng là lời kêu gọi tha thiết cho mỗi người trong Mùa Chay
này.
21. Thức tỉnh
Hôm nay Tin Mừng dẫn chúng ta tham dự
vào một vụ xử án có thật xảy ra cách đây hơn 2000 năm. Vụ án "Người phụ nữ
ngoại tình". Một vụ án được xét xử thật kỳ lạ: vụ xử kết thúc mà không có
một bản án. Chỉ một lời thẩm vấn của Đức Giêsu, các nguyên cáo bỏ đi hết chỉ
còn lại bị cáo.
Vụ án không oan uổng đối với bị cáo với
chứng cứ rõ ràng, tưởng chừng nắm chắc cái chết trong tay, nhưng bị cáo lại tìm
được con đường sống.
Phải chăng mấu chốt của sự kỳ lạ ấy nằm
ở con người vị thẩm phán tên Giêsu?
Từ sự kỳ lạ ấy giúp chúng ta khám phá
ra sứ điệp của Tin Mừng hôm nay đó là: Đến với Thiên Chúa lương tâm ta được
thức tỉnh, ta biết thật về con người mình, và ta được mời gọi sống đời sống
mới.
Căn cứ trên trang Tin Mừng trước hết
chúng ta thấy các nguyên cáo có vẻ hăm hở đắc thắng khi mang bị cáo đến trước
Đức Giêsu, với những chứng cớ rõ ràng: "Thưa Thầy, người phụ nữ này bị bắt
quả tang đang phạm tội ngoại tình. Theo luật Môsê thì người đàn bà này phải bị
ném đá. Còn Thầy, Thầy xử thế nào?". Thế nhưng sự việc đã không xảy ra như
dự đoán và mong muốn của họ.
Sự thinh lặng của Đức Giêsu cùng với cử
chỉ viết trên đất cho câu trả lời, đó như một sự nhắc nhở khéo léo nhẹ nhàng và
tế nhị đối với những người kết tội. Một khoảng lặng để cho họ bình tĩnh nhìn
lại mình. Một khoảng lặng để họ xét lại những việc họ đang làm. Thế nhưng họ
như không hay biết điều đó hoặc cố tình lờ đi để rồi tiếp tục ép buộc Chúa lên
tiếng.
"Ai sạch tội thì hãy ném đá người
này trước đi". Đức Giêsu trả lời. Một câu trả lời thay vì xét xử và kết
tội phạm nhân thì lại là một câu thẩm vấn đánh sâu vào lương tâm các nguyên cáo
để họ có thể nhận ra chân tướng của mình, con người thật của mình với đầy tội
lỗi chẳng kém. Chính họ cũng đã đồng loã liên kết với nhau, dùng mưu mẹo để hại
người, để loại trừ kẻ mà họ không ưa, một người đang có ảnh hưởng trong dân có
vẻ như lấn át vị thế của họ. Lại một khoảng lặng nữa bắt đầu.
Và thái độ "bỏ đi hết, kẻ trước
người sau bắt đầu từ những người lớn tuổi" cho thấy rõ lương tâm của các
nguyên cáo đã được đánh động và thức tỉnh họ như đã dần dần nhận ra con người
thật của mình.
Còn với bị cáo: Người phụ nữ ngoại
tình? Tội đã rõ rành rành, chẳng cần chứng cớ, không chạy đâu được. Nếu như ta
thử đặt câu hỏi: giả như chị ta không bị bắt quả tang phạm tội, thì hỏi rằng
chị sẽ còn làm sự tội ấy nữa không? Điều đó sẽ cho chúng ta nghĩ rằng: có lẽ
chị cho rằng chuyện tội lỗi chị làm trước đây khi chưa bị phát hiện, chẳng tội
lỗi gì? Khi đến trước Đức Giêsu lương tâm của chị cũng đã được thức tỉnh bởi
lời của Ngài: "Chị hãy về và đừng phạm tội nữa". Đừng phạm tội nữa,
một lời khẳng định cho chị thấy rõ chuyện chị làm là tội lỗi.
Vâng! Con người ngày hôm nay cũng đang
có những cách sống và thái độ sống không khác gì các kinh sư và Pharisêu hoặc
như người phụ nữ ngoại tình. Đó là thái độ dửng dưng trước tội. Làm sự tội mà
không biết mình tội. Sống trong sự tội mà cho rằng mình không mắc tội. Lương
tâm của họ xem ra như chai lì hoặc bị ngủ mê. Hầu như vô tư trước những tội lỗi
của mình xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân.
Thật vậy có những người bỏ việc thờ
phượng Thiên Chúa nhất là thánh lễ Chúa nhật với những lý do biện hộ rất đơn
giản khi nại vào công việc hoặc đạo tại tâm, hoặc có tham dự cũng chỉ máy móc
cho qua.
Có những người đang sống thiếu thành
thật trong lời nói, thiếu ngay thẳng trong công việc làm ăn: gian lận thủ đoạn,
lừa gạt... nhưng vẫn coi đó là bình thường chẳng tội lỗi gì.
Có những bạn trẻ hôm nay đang lao đầu
vào những thú vui giải trí thiếu lành mạnh nhưng vẫn nghĩ rằng xã hội nhiều
người làm được như thế, nên tôi làm cũng chẳng sao. Họ tự do yêu đương, tự do
quan hệ, tự do luyến ái.
Có những người cho rằng rất bình thường
chẳng có tội lỗi gì khi nói xấu, lên án người khác hoặc có thái độ cố chấp
không cho rằng mình có lỗi khi gây ra những tổn thương cho tha nhân.
Ngay trong cuộc sống gia đình cũng vậy,
chồng hoặc vợ xúc phạm đến nhau mà chẳng ai chịu nhận lỗi về mình.
Vâng, còn rất nhiều nếu đi vào từng chi
tiết ngõ ngách của cuộc sống, chúng ta sẽ thấy chẳng thiếu những cung cách sống
và thái độ sống thiếu ý thức về tội như vậy, đến nỗi Đức Thánh Cha trong Tông
huấn "Sám hối và hoà giải" đã phải lên tiếng: "Con người ngày
nay gần như mất cảm thức về tội, họ làm điều tội mà không biết là tội, họ sống
trong tội mà không biết mình mắc tội".
Trước mặt Thiên Chúa, không ai không là
tội nhân. Chẳng ai có thể tự vỗ ngực nói rằng mình không có tội, như thánh
Gioan nói: "Ai bảo mình không có tội là kẻ nói dối tự lừa dối mình".
Điều quan trọng tôi có ý thức mình là tội nhân không? Hãy có những khoảng lặng
để gặp Chúa, để cho lời Ngài thức tỉnh chúng ta như Ngài đã thức tỉnh các kinh
sư, người Pharisêu và người phụ nữ ngoại tình để chúng ta có thể nhận ra mình
là tội nhân.
Thiên Chúa không chỉ thức tỉnh lương
tâm chúng ta, nhưng Thiên Chúa còn mời gọi và đề nghị chúng ta sống một đời
sống mới.
"Ta không kết tội chị, chị hãy về
và đừng phạm tội nữa". Một lời thức tỉnh, tha thứ nhưng cũng là một lời đề
nghị.
"Hãy đi và đừng phạm tội nữa"
cũng là lời đề nghị và mời gọi của Thiên Chúa đối với chúng ta hôm nay khi đã
nhận ra lỗi lầm và sám hối rồi, chúng ta không chỉ dừng lại ở đó, nhưng phải
tiến xa hơn, vượt lên trên bằng một sự thay đổi tận gốc rễ với một cuộc sống
mới. Một lời xin lỗi xong chưa đủ, nhưng là đừng để cho điều lỗi xảy ra nữa.
Đời sống mới là đời sống không còn như đời sống cũ trước đây đang sống tội nữa.
Ví như trước đây tôi sống gian dối, nay tôi sống thành thật và ngay thẳng.
Trước đây tôi hay vu khống kiện cáo, nay tôi sống khiêm tốn hoà nhã với tha
nhân.
Mùa chay đã bước vào tuần thứ năm.
Những ngày đại thánh mừng cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô sắp đến gần.
Thiên Chúa đang rộng mở bàn tay đón chờ và mời gọi chúng ta đến với Ngài để
lãnh nhận ân phúc. An phúc trước hết đó là chúng ta được Thiên Chúa đánh động
và thức tỉnh lương tâm; ân phúc được ơn giao hoà với Thiên Chúa và được mời gọi
sống đời sống mới qua việc tham dự các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể và
Giải tội. Chúng ta hãy xin Thiên Chúa ban cho chúng ta ơn can đảm, lòng khiêm
nhường để chúng ta mạnh dạn đến gặp Chúa.
22. Thiên Chúa đang làm điều mới
(Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm)
Tiên tri Isaia nói với dân Do Thái:
không còn cần nhìn vào quá khứ để nhận biết Thiên Chúa nhưng có thể nhìn vào
hiện tại, vì Thiên Chúa đang làm điều mới cho con người. Ngày đó Thiên Chúa
đang giải phóng họ khỏi ách lưu đày ở Babylon; hôm nay, Đức Yêsu là điều mới
Thiên Chúa đang làm cho con người.
Chị phụ nữ ngoại tình
Hãy nhìn chị phụ nữ bị bắt quả tang
phạm tội ngoại tình. Đây là lần đầu tiên chị phạm tội này, hay đã nhiều lần?
Phải chăng người ta đã rình rập để bắt quả tang, và họ đã thành công, để chị
không còn có thể chối cãi được?
Không còn nét kênh kiệu, không còn thái
độ thách thức! Chị biết mình không thể thoát cái chết bởi bao người "đạo
đức", bao người "có trách nhiệm bảo vệ cương thường" đang vây quanh
chị. Sợ hãi, hối hận hiện lên gương mặt và thái độ của chị.
Không ai có thể cứu chị trừ phi có một
phép lạ, trừ phi chính Thiên Chúa ra tay! Nhưng liệu Thiên Chúa có còn thương
người tội lỗi như chị, có nghe tiếng van xin của chị không?
Những kinh sư và biệt phái
Những kinh sư và biệt phái nghiêm khắc.
Cứ theo luật thì chị ta phải chết. Phải ném đá chị ta, để bảo vệ sự công bằng
của xã hội, để bảo vệ sự trong sáng của đạo giáo, và ai cũng phải làm như vậy
thôi.
Họ giải chị ta tới với Đức Yêsu, người
hay giảng dạy yêu thương tha thứ, người hay nói Thiên Chúa là Thiên Chúa của
những tội nhân. Xem ông ta dạy gì? Đây cũng là dịp để cho thấy con người thực
và những giáo huấn của ông ta. Có thể họ cũng chẳng muốn gài bẫy Đức Yêsu,
nhưng để làm "cho ra lẽ" một giáo huấn "nhân từ" hay
"Thiên Chúa thương xót" không thể có chỗ đứng trong xã hội.
Hãy chờ xem.
Đức Yêsu- Đấng thương cảm và tha thứ
Đức Yêsu cảm thấy khó giải quyết. Ngài
cúi xuống và bắt đầu viết. Có người nói Ngài viết tội của từng người hiện diện.
Có thể, nhưng cũng có thể giải thích: đó là thái độ bối rối không biết giải
quyết ra sao.
Vì người ta tiếp tục ép Ngài phải trả
lời, Ngài đứng lên và nói: "ai trong các ông vô tội, hãy là người đầu tiên
ném đá chị ấy đi", rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất. Ngài không thách
thức ai. Ngài trách ánh mắt thách thức họ, để có thể vì tự ái họ "làm
liều". Có thể Ngài cầu nguyện cho họ được trung thực với chính mình. Vì
chính khi trung thực với chính mình, thì họ không thể ném đá chị phụ nữ.
Tạ ơn Chúa. Không có ai ném đá chị phụ
nữ. Đức Yêsu đã thành công. "Không có ai kết án chị ư?" Thưa thầy:
"không"! Tôi cũng không kết án chị, hãy đi và đừng phạm tội nữa. Chỉ
có mỗi một người có thể ném đá chị, mà người đó lại không muốn ném đá chị. Bởi
vì người đó nhân từ, cảm thương con người tội lỗi hơn là lên án họ.
Hãy đi và đừng phạm tội nữa. Có lẽ từ
đó trở đi, chị ta là con người mới vì chị ta đã cảm nhận được một tình yêu.
Tình yêu tha thứ và tôn trọng. Tình yêu mời gọi chị làm lại cuộc đời. Thiên
Chúa làm mới chị, và cũng là một phép lạ đối với những người kinh sư và biệt
phái, vì hôm nay họ trung thực với chính họ, hôm nay họ gặp gỡ Thiên Chúa qua
hành vi "nhận biết chính mình".
Phaolô trở thành con người mới nhờ biết
Đức Yêsu
Với Phaolô, mối lợi tuyệt vời là được
biết Đức Yêsu. Phaolô sẵn sàng mất tất cả, để được Đức Yêsu. Tương lai của
Phaolô ở trong tay Chúa, sự công chính của Phaolô cũng tuỳ thuộc Chúa. Phaolô
không cậy dựa vào sức riêng mình. Hiện tại Phaolô không cho mình là người thành
toàn, nhưng Phaolô vẫn tiếp tục tiến bước trong niềm hy vọng vào Thiên Chúa,
Đấng đã làm và sẽ làm những điều tốt nhất cho Phaolô.
Một điều rất quan trọng với Phaolô:
quên phía sau và lao mình tới trước, nhắm đích Thiên Chúa kêu gọi ngài trong
Đức Yêsu. Đức Yêsu đã là tất cả cho Phaolô.
Ngài là ai đối với tôi?
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Điều gì đánh động bạn nhất trong
trình thuật "chị phụ nữ ngoại tình"?
2. Theo bạn, tại sao Đức Yêsu chi phối
đời Phaolô đến thế?
3. Đức Yêsu có chi phối đời bạn không?
Tại sao? Đến độ nào?
23. Luật yêu thương đòi hỏi thông cảm
và tha thứ
(Suy niệm của JKN)
Câu hỏi gợi ý:
1. Luật Môsê - cũng là luật của Thiên
Chúa - buộc phải xử tử những kẻ ngoại tình bị bắt quả tang. Đức Giêsu có tuân
theo luật ấy không? Tại sao?
2. Luật mới của Đức Giêsu - luật yêu thương
- đòi hỏi những gì? Nếu không biết thông cảm và tha thứ, mà chỉ thích phán xử
và kết án, ta có phải là kẻ giữ luật mới của Ngài không?
Suy tư gợi ý:
1. Các kinh sư Do Thái gài bẫy Đức
Giêsu
Các nhà lãnh đạo Do Thái giáo muốn dùng
trường hợp người phụ nữ ngoại tình này để gài bẫy Đức Giêsu hầu tìm ra cớ tố
cáo Ngài. Nếu Ngài tuyên bố không nên ném đá phụ nữ này, thì Ngài đã không tuân
luật Môsê. Môsê viết: «Nếu một người đàn ông bị bắt gặp đang nằm với một người
đàn bà có chồng, thì cả hai phải bị xử tử» (Đnl 22,22; x. Lv 20,10). Mà Ngài đã
không tuân luật Môsê, thì họ sẽ tố cáo Ngài trước dân chúng, và dân chúng buộc
phải tẩy chay Ngài. Vì giữa luật Môsê và Ngài, thì dân chúng phải tin vào luật
Môsê hơn. - Nếu Ngài tuyên bố phải ném đá, thì họ sẽ tố cáo Ngài với chính
quyền Rôma, và Ngài sẽ bị chính quyền Rôma xét xử, vì Ngài đã vi phạm luật
Rôma. Theo luật Rôma, người dân thuộc địa không có quyền lên án giết ai cả (x.
Ga 18,31). Nhưng cách giải quyết của Ngài chẳng những giúp Ngài thoát cái bẫy
này một cách tài tình, mà còn làm ê mặt các nhà lãnh đạo tôn giáo, đồng thời
còn cho họ và cho chúng ta một bài học để đời.
2. Tại sao Đức Giêsu không tuân theo
luật Môsê?
Luật Môsê là luật của Thiên Chúa
(x.2Mcb 7,11; Tv 1,2; Lc 2,23-24). Thời Cựu ước, dân Do Thái ai nấy đều tin
rằng đã là luật của Thiên Chúa thì sẽ là luật muôn đời không bao giờ thay đổi.
Trong Kinh Thánh, có rất nhiều câu xác định luật này là luật vĩnh viễn cho con
người (x. Xh 12,17.24; 27,21; 30,21; Lv 6,11.15; 7,34; Br 4,1; v.v...), là luật
chung cho cả địa cầu (x.1Sb 16,14; 2Sm 7,19; Tv 105,7). Và con người phải tuân
giữ luật, vì có như thế mới là tôn kính và yêu mến Thiên Chúa (Đnl 17,19; Gs
22,5; Hc 2,16; 15,1). Ai tuân giữ luật thì được hạnh phúc, được sống đời đời
(Tv 119,1.165; Cn 29,18; Kn 6,18). Ai không giữ luật thì chính mình và cả con
cháu ba bốn đời sẽ Thiên Chúa bị nguyền rủa, trừng phạt (x.1Sb 15,13; Xh 34,7;
Er 7,26; Gr 19,15).
Vậy, luật Môsê buộc phải xử tử hình
những kẻ phạm tội ngoại tình, tại sao Đức Giêsu không tuân theo luật ấy mà lại
tìm cách tha cho người phụ nữ này? Đức Giêsu không giữ luật? Có phải vì Ngài
không muốn vi phạm luật Rôma nên đành vi phạm luật Môsê? Hay Ngài chỉ muốn tìm
cách nào thoát khỏi cái bẫy này? Hay Ngài là một nhà làm luật mới?
3. Đức Giêsu đến lập luật mới là luật
yêu thương và tha thứ
Nhiều người tưởng rằng hễ đã là luật
của Thiên Chúa thì sẽ là thứ luật muôn đời không thay đổi theo không gian và
thời gian, nghĩa là luật của Ngài phải được áp dụng cho mọi dân tộc trong mọi
thời đại. Nhưng không phải như vậy! Thiên Chúa lập luật cho con người chứ không
phải cho Ngài. Luật đó vì con người, nên phải phù hợp với con người. Mà con
người thì luôn luôn thay đổi: trình độ tâm linh và sự hiểu biết của con người
luôn luôn tiến triển. Nên để phù hợp với con người, luật Chúa cũng phải thay
đổi. Thật vậy, lịch sử cứu độ cho thấy luật cũ của Môsê đã được thay thế bằng
luật mới của Đức Giêsu: «Ngày nay, sự công chính của Thiên Chúa đã được thể
hiện mà không cần đến Luật Môsê» (Rm 3,21; x. Ep 2,15; Dt 7,18). Các tông đồ đã
chính thức tuyên bố bãi bỏ luật Môsê (x. Cv 15,28-29).
Con người thời Cựu ước giống như nhân
loại còn là trẻ con. Khi ta còn là trẻ con, cha mẹ ta ra luật cho ta, và bắt ta
giữ. Nếu ta không giữ thì bị đòn, nếu ta giữ thì được khen thưởng. Động cơ giữ
luật của ta là sợ phạt và ham thưởng. Nhưng khi lớn lên, ta không còn giữ những
luật đơn sơ ngày xưa nữa, không giữ luật một cách nô lệ nữa. Động cơ khiến ta
giữ luật không còn là sợ hãi hay ham thưởng nữa, mà là tình yêu (đối với Thiên
Chúa, với chân, thiện, mỹ, với cha mẹ, với mọi người). Khi trưởng thành, ta
biết điều nào là đúng, là hợp lý, là phù hợp với tình yêu, và ta biết ta phải
hành động thế nào.
Thời Đức Giêsu, nhân loại đã trưởng
thành về tâm linh hơn thời Môsê, nên Ngài đã khai mạc một kỷ nguyên mới, với
luật mới của Ngài. Luật của Ngài chỉ có một khoản duy nhất: «Thầy ban cho anh
em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh
em» (Ga 13,34). Vì thế, Ngài cũng như chúng ta, những kẻ theo Ngài, không còn
hành xử theo luật Môsê nữa, mà hành xử theo sự thúc đẩy của tình yêu.
4. Luật yêu thương đòi hỏi sự thông cảm
và tha thứ
Tình yêu đòi hỏi phải thông cảm và tha
thứ... Thông cảm vì bản thân ta cũng như mọi người khác đều rất yếu đuối và bị
lệ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh. Kết cuộc, con người «ai cũng phạm tội» (Rm
5,12): «Không ai là người công chính, dẫu một người cũng không» (Rm 3,10; x.1Ga
1,10). Nếu mình cũng phạm tội, mà mình lại kết án người khác, thì quả thật có
chút gì «vô liêm sỉ» ở trong đó.
Đức Giêsu tuy không hề phạm tội (x.1Pr
2,22), nhưng Ngài lại không lên án ai. Ngài đã từng chịu ma quỉ cám dỗ, nên
Ngài rất am hiểu sự yếu đuối của con người. Vì thế, đứng trước người phụ nữ
này, Ngài hiểu hết những tình huống đã dẫn chị ta đến với cơn cám dỗ, và từ cơn
cám dỗ đến những hành vi tội lỗi. Ngài hoàn toàn thông cảm với chị. Ngài ghê
tởm những kẻ tuy cũng cảm thấy mình yếu đuối như chị, cũng đã từng sa ngã khi
gặp cám dỗ như chị, nhưng lại vẫn muốn kết án chị. Dường như kết án chị, họ mới
thoả mãn niềm kiêu hãnh phát xuất từ một ảo tưởng rằng họ vô tội. Họ thích sống
trong ảo tưởng đó, và muốn củng cố ảo tưởng đó bằng cách kết án người khác. Họ
nghĩ càng kết án thì càng chứng tỏ mình trong sạch, vô tội.
Đức Giêsu thấy ác tâm của họ, Ngài kêu
gọi lương tâm họ, đánh thức tính liêm sỉ trong lòng họ. Ngài bảo họ: «Ai trong
các ông sạch tội, thì cứ việc lấy đá mà ném trước đi». Ngài biết đã là con
người yếu đuối, nếu không có ơn siêu nhiên giúp, họ không thể nào tránh được
tội lỗi. Lời nói của Ngài buộc họ phải tự xét lại chính mình. Và một khi đã tự
xét mình một cách thành thật, chắc chắn ai cũng thấy ít nhiều tội lỗi của mình.
Ngài đã cho họ một kinh nghiệm tâm linh: hãy thông cảm với tội lỗi của kẻ khác,
vì chính bản thân mình cũng có tội.
Một khi đã thông cảm với tội lỗi người
khác, thì chỉ còn biết tha thứ, bỏ qua, rồi lại tiếp tục yêu thương, tôn trọng
họ.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, con cảm thấy mình rất yếu
đuối. Nhiều khi con đã phạm tội, và con đã từng phải xấu hổ vì tội của con.
Nhưng lạ thay, khi thấy tha nhân chung quanh con phạm tội, nhiều khi con lại
mạnh mẽ lên tiếng kết án họ. Khi con phạm tội, con muốn Cha và tha nhân thông
cảm và tha thứ cho con. Nhưng khi người khác phạm tội, con lại không muốn thông
cảm và tha thứ cho họ. Tại sao con lại mâu thuẫn như vậy? Con là như vậy sao?
Trái tim con quả là bằng đá. Xin Cha hãy sửa dạy con. Cho con một trái tim bằng
thịt thật sự, biết yêu thương, thông cảm với những yếu đuối của mọi người, và
sẵn sàng tha thứ tất cả.
24. Chú giải của Noel Quesson
Còn Đức Giêsu thì đến núi Ô-liu. Vừa
tảng sáng, Người trở lại Đền Thờ
Ngài có thói quen, nhất là trong tuần
lễ cuối cùng, đến vườn Ghếtsêmani và trải qua đêm tại đó, để tìm sự yên tĩnh và
cầu nguyện.
Toàn dân đến với Người. Người ngồi
xuống giảng dạy họ. Lúc đó, các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước mặt Đức
Giêsu một phụ nữ bị bắt gặp đang ngoại tình.
Vừa tảng sáng, Đức Giêsu đã ngồi trong
sân Đền thờ, có đám dân vây quanh Ngài. Tự nhiên, ở đằng kia ồn ào nổi lên. Một
nhôm người Pharisêu cố kéo một phụ nữ đang vùng vẫy. Đám đông giãn ra và làm
thành vòng tròn. "Người ta đã bắt gặp người phụ nữ này nơi nhà một người
đàn ông... Chị ta phản bội chồng mình... Chị ta đáng chết... luật lệ đã rõ
ràng" (Đnl 22,22-24; Lv 20, 10). Làm sao họ chỉ dẫn đến có một người đàn
bà? Trong bất cứ một vụ ngoại tình nào, cũng có đàn ông nữa chứ và luật lệ cũng
lên án đàn ông rõ ràng, như đàn bà vậy! Nhưng chúng ta biết rằng, các Thánh sử
(nhất là Luca, vì theo thủ bản cổ nhất, có lẽ ông là tác giả trang Tin Mừng này
hơn là Gioan). Không ngừng nhấn mạnh về thái độ mới lạ của Đức Giêsu trước quan
niệm đương thời về phụ nữ. Trong khi phụ nữ bị xã hội khinh bỉ và gạt bỏ ra
ngoài, thì Đức Giêsu lại làm tảng giá trị và luôn phục hồi danh dự cho họ.
Họ để chị ta đứng ở giữa, rồi nói với
Người: "Thưa Thầy, người đàn bà này bị bắt quả tang đang ngoại tình. Trong
sách Luật, ông Mô-sê truyền cho chúng tôi phải ném đá hạng đàn bà đó
Quả thực, ngoại tình là một lỗi nặng,
mà mọi nền văn minh đều lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội không thể coi
thường lâu đài vấn đề này mà không tự huỷ diệt. Có cần bao dung cho sự dữ và
bất công mà một người phối ngẫu phải chịu không? Trong một bối cảnh quá phóng
túng và lệch lạc về dục tính như thế, nếu gia đình, con cái có thể phát triển
mà không gặp thương tổn sao?
Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?
Mọi người đều biết rằng, Đức Giêsu tái
biểu dương tính bất khả phân ly của hôn phối để cứu tình yêu khỏi những tình
trạng bất trung (Mt 5,31-32). Đức Giêsu đã dứt khoát và mạnh mẽ lên án việc
ngoại tình bằng cách khẳng định, dù chỉ ưng thuận trong lòng đối với ý muốn xấu
xa đó thì đã có tội rồi: "Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong
lòng đã ngoại tình với người ấy rồi" (Mt 5,28). Lòng nhân lành của Đức
Giêsu không có nghĩa là Ngài chấp nhận tình trạng phóng đãng.
Họ nói thế nhằm thử Người, để có bằng
cớ tố cáo Người
Những người pharisêu và kinh sư biết
rằng, Đức Giêsu thương yêu các tội nhân và họ cũng yêu thương Người. Họ vì giao
du với người tội lỗi. "Ông ấy ăn uống với người tội lỗi". Thực sự, vụ
xét xử người đàn bà ngoại tình chỉ là cớ để họ lên án Đức Giêsu, để họ gài bẫy
Người. Nếu người lên án tử hình người đàn bà này, Ngài sẽ xoá bỏ hình ảnh xót
thương mà Người đã để lại trong tâm trí kẻ tội lỗi: Nhờ đó, Người được quần
chúng mến phục, vì tình yêu, vì sự tốt lành của Người. Nếu người tha bổng người
đàn bà tội lỗi này, Người sẽ vi phạm luật Chúa, và cổ thể bị tử hình vì đã xúc
phạm đến Thiên Chúa, Đấng đã cấm phạm tội này. Như vậy, đây là "vụ xử án
của Đức Giêsu" đang diễn ra sau vụ xử án người đàn bà này.
Vụ án biểu tượng:
Bị cáo: Một người phụ nữ.
Người tố cáo: Kinh sư và những người
pharisêu
Tội phạm: Ngoại tình, bị phạt theo luật
Môsê.
Bản án: Tử hình
Vụ án thực sự:
Bị cáo: Đức Giêsu
Người tố cáo: Cũng nhóm kinh sư và
Pharisêu
Tội phạm: Phạm thượng
Bản án: Tử hình
Nhưng Đức Giêsu cúi xuống lấy ngón tay
viết trên đất
Sư im lặng này khởi đầu cho sự im lặng
quan trọng của Đức Giêsu trong vụ xử án chính Người.
Nhưng ở đây, phản ứng trên rất gây ngạc
nhiên. Người không làm gì cả. Người không trả lời gì hết. Người đang vẽ Như thể
một người muốn lờ đi không gì chung quanh mình. Đó không phải là một thứ tế nhị
sao? Người không ngước mắt lên nhìn người đàn bà, vì Người biết chị ta xấu hổ.
Nhưng cũng nhận ra việc Đức Giêsu khước từ phán quyết các biến cố dựa trên
những phân tích của con người. Chẳng hạn, Người đã có thể điều tra, đặt câu
hỏi, tìm xem những trách nhiệm? Liệu có những trường hợp giảm khinh hay không?
Quá khứ của người đàn bà này có giải thích được thái độ của chị ta không? Chồng
chị đối xử với chị như thế nào? Có nên phân biệt trường hợp ngoại tình trơ
trẽn, công khai và lâu dài thường xúc phạm, làm nhục người phối ngẫu, làm con
cái đau khổ...Với trường hợp ngoại tình kín đáo, tuy cũng có tội nhưng do yếu
đuối chóng qua, chỉ gây nhục nhã trong tâm hồn? Luật lên án tử hình một tội như
vậy có quá đáng chăng? Người ta có nên mở một chiến dịch để xin bãi bỏ luật này
không? Những câu hỏi như thế, con người và xã hội vẫn thường đặt ra. Nhưng Đức
Giêsu tự ý đặt mình trên một bình diện khác. Hình như Người không quan tâm gì.
Người đang viết trên cát. Đó có phải là một thái độ thoái thác không? Hẳn là
không. Vì Đức Giêsu sắp đề cập đến "lãnh vực khác".
Vì họ cứ hỏi mãi, nên Người ngẩng lên
và bảo họ
Chính họ cứ vẫn hỏi mãi. Lạy Chúa, Chúa
đã giữ im lặng bao lâu? Lúc này, con đang hình dung ra Chúa đưa mắt nhìn từng
người trong bọn họ. Con ngắm nhìn đôi mắt đang di động, khi Chúa ngửa mặt lên.
Trước tiên, Chúa nhìn người đàn bà đáng thương, rồi những người tố cáo, rồi tới
đám đông...
Ai trong các ông sạch tội, thì cứ việc
lấy đá mà ném trước đi
Chúa đòi hỏi họ phải trở về với lương
tâm của mình. Cũng ngày nọ, người ta tìm thủ phạm trong cuộc "Philatô tàn
sát những người Galilê" hay trong tai hoạ do "tháp Silôa" đổ
xuống.
Đức Giêsu đặt cuộc tranh luận trên một
bình diện khác: Dưới mắt Thiên Chúa, tất cả mọi người đều là tội nhân, và cần
phải được tha thứ? anh em hãy có lòng nhân từ, như cha anh em là Đấng nhân từ.
Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng
lên án, thì sẽ không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được
Thiên Chúa thứ tha. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho
anh em bằng đấu ấy" (Lc 6,36-38). Vâng, lạy Chúa, con đang cần lòng nhân
hậu thương xót của Chúa và của kẻ khác. Vậy xin Chúa hãy ban cho con, một trái
tim biết thương xót.
Ngôn sứ Hôsê (2,4-25) đã so sánh dân
ít-ra-en với một người vợ được Chúa yêu thương mà lại "ngoại tình"
bằng những hành động "điếm đàng". Mọi sự lìa bỏ Thiên Chúa đều là một
thứ ngoại tình, vì xúc phạm đến một Thiên Chúa dễ bị tổn thương và si tình.
Nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương một cách không mệt mỏi và tha thứ cho
người vợ bất trung, là nhân loại tội lỗi. Đó là điều khác hẳn với những cuộc
tranh cãi nới toà án, dù những cuộc tranh cãi đó hữu ích đến đâu cũng thế. Tội
lỗi của tôi đã gây tổn thương cho Chúa, cho Đấng yêu mến tôi. Chính Đức Giêsu
đã nói điều đó. Ngài đã đến để mạc khải như thế!
Rồi Người lại cúi xuống viết trên đất.
Nghe vậy, họ bỏ đi hết, kẻ trước người sau, bắt đầu từ những người lớn tuổi
Lạy Chúa Giêsu, lần thứ hai này, Chúa
đã giữ im lặng bao lâu? Lạy Chúa, thực sự Chúa chứng tỏ lòng thương xót với
những người Pharisêu nữa. Chúa cũng không nỡ ném đá họ. Sau này, trên thập giá
Chúa sẽ cầu xin: "Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm"
(Lc 23,34). ôi! Sâu thẳm thay lòng Chúa. Thay vì lột mặt nạ họ ở chỗ công khai,
Chúa đã cho phép họ "lần lượt" âm thầm rút lui, nhờ thái độ im lặng
của Chúa.
Trong một lúc lâu im lặng, người đàn bà
cũng có thời giờ suy nghĩ vì tội lỗi của mình. Nhiều điều đang diễn ra trong
đầu óc của Chị. Có thể chị đã không bao giờ thực sự nhận ra tính nặng nề của
tội chị phạm? Nhưng tình yêu xót thương của Thiên Chúa, "không lên
án" chị, sẽ phút chốc mạc khải cho chị biết thế nào là tình yêu thực sự.
Giờ chị đang nhìn Đức Giêsu. Ngài là một con người nhân hậu. Có lẽ chị ta đang
khóc... Chị ta đã thoát chết... Chị không còn là người "ngoại tình"
nữa. Chị ta đã được thanh tẩy.
Chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, và
người phụ nữ thì đứng ở giữa
Sự "khốn khổ" đối với
"lòng xót thương", Thánh Âutinh đã bình luận như vậy. Đó là một hình
tượng mà con muốn chiêm ngắm lâu giờ. Lạy Chúa Giêsu, xin tạ ơn Chúa.
Người ngẩng lên và nói: "Này chị,
họ đâu cả rồi? Không ai lên án chị sao?" Người đàn bà đáp: "Thưa ông,
không có ai cả." Đức Giêsu nói: "Tôi cũng vậy, tôi không lên án chị
đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"
Tất cả những người tội lỗi khác, các
kinh sư và người pharisêu đều không hiểu gì nổi Đức Giêsu, không hiểu gì nơi
Thiên Chúa cả! Nếu họ ở lại với Đức Giêsu hẳn là họ cũng được tha thứ như người
đàn bà này. Vì Đức Giêsu vẫn thường nói: "Phần tôi, tôi không xét đoán ai
cả" (Ga 8,l5). "Tôi đến để tìm và cứu những gì đã mất" (Lc
19,10). Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian,
nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người mà được cứu độ " (Ga 3,17).
Lạy Chúa, con cũng vậy, lúc này con
đang cầu xin Chúa, con cần được cứu độ. Con ở lại với Chúa. Trong cuối Mùa Chay
này, con sẽ lãnh nhận dấu chỉ nhạy cảm và hữu hiệu, đó là bí tích tình yêu
thương xót của Chúa. Con muốn nghe từ nơi vị đại diện của Chúa, như thể chính
Chúa, những lời sau đây: "Tôi không lên án anh chị, cứ về đi, và từ nay
đừng phạm tội nữa".
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Thầy và là
người Anh của chúng con, Chúa tốt lành và hài hoà tế nhị biết bao! Chúa vô cùng
thông cảm và đối xử nhân hậu với chúng con, là những người tội lỗi. Xin tạ ơn
Chúa! Chúa tuyệt đối không thoả hiệp với tội lỗi và sự ác.
"Đừng phạm tội nữa". Tạ ơn
Chúa! Chúa là Đấng không bao giờ giam hãm chúng con trong quá khứ. Đứng tước
người này người nọ mà chúng con thường nói tới. "Không thể làm gì cho hắn
được nữa... Tôi đã thử hết cách rồi...Đành chịu thôi... " Thì chắc Chúa sẽ
dừng lại trước con người đó với lòng tin cậy, Chúa sẽ thương yêu người đó với
thái độ trìu mến, Chúa sẽ nhìn họ với một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, đến nỗi có
thể làm phát sinh trong họ một trái tim mới. Vậy Chúa là ai mà yêu thương chúng
con như thế? Là Đấng vô cùng cao cả, là Đấng rất dễ bị tổn thương, là Đấng hết
sức nghèo nàn ư? Chúa là tình yêu vô biên. Chúa là tình Yêu!
25. Chú giải của Fiches Dominicales
Đức Giêsu mở ra một con đường hướng về
tương lai cho người phụ nữ phạm tội ngoại tình; trong khi những kẻ tố cáo lại
muốn giam hãm chị trong quá khứ tội lỗi.
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Trước bẫy giăng của đối thủ
Câu chuyện quí giá này tự nó có thể là
một Tin Mừng nhỏ mà cốt lõi là: Đức Giêsu từ nơi Thiên chúa đến, không phải để
tố cáo tội nhân, nhưng để cứu rỗi họ, và nhờ đời sống, sự chết, sự sống lại của
Người, Người dâng tặng họ chính sự sống của Thiên Chúa. Một văn bảo, nhưng sự
có mặt của nó trong các bản văn Tin Mừng bị nghi ngờ. Các thủ bản đầu tiên của
thánh Gioan không có. Với những lý do tương cận về văn thể và từ ngữ, các thủ
bản của thánh Luca lại đặt câu chuyện sau Lc 21, 38.
Tại sao có sự do dự này? A. Marchadour
giải thích: "Câu chuyện thì xác thực nhưng, các vị lãnh đạo Giáo Hội sơ
khai ngại sự phóng túng. Ngoại tình bị coi như một trọng tội ít gặp. Để được
tha, cần làm việc đền tội công khai, lại chỉ được tha một lần thôi. Cách cư xử
của Đức Giêsu đối với người phụ nữ ngoại tình, một số vị chức trách cho là quá
dễ dãi quá. (Họ quên mất câu "Hãy về và đừng phạm tội nữa"). Dễ dãi
thế đe doạ sự trung tín trong hôn nhân" ("L'Eavngile de Jean",
Centurion 1992. trg 121).
Sau một ngày giảng dạy ở đền thờ, chiều
xuống, theo thói quen, Đức Giêsu lên núi Ôliu. Sáng sớm hôm sau, Người lại vào
Đền thờ giảng dạy dân chúng.
"Các kinh sư và những người
Pharisêu thù nghịch nghĩ rằng giáo huấn của Đức Giêsu làm đảo lộn tất cả, nên
họ quyết định trừ khử Người. Tuy nhiên, để đưa người ra xét xử, cần phải có một
chứng cứ đúng đắn.
Một cơ hội không mong đã đến. Một thiếu
phụ "bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình". Rẽ đám đông, các kinh sư
và những người Pharisêu dẫn chị vào "giữa" đám đông đang tụ họp và
nói với Đức Giêsu: "Trong sách Luật, ông Môsê truyền cho chúng tôi phải
ném đá hạng đàn bà đó. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao?"
Bẫy đã giăng, thoát thế nào được! Tha,
Đức Giêsu sẽ chống lại luật Môsê. Ném đá, Người tự mâu thuẫn vì Người vẫn rao
giảng lòng nhân từ của Thiên Chúa. Đằng sau án xử người thiếu phụ là chính án
xử Đức Giêsu.
Giờ đây, dây thòng lọng đang xiết dần
cả người thiếu phụ, lẫn Đức Giêsu. Tệ thật! Đây không còn là một vấn nạn nơi
lớp học, nhưng là một câu hỏi sinh tử, đối với người thiếu phụ cũng như đối với
chính Đức Giêsu.
Vẫn ngồi trong dáng điệu của một ông
thầy đang giảng dạy, Đức Giêsu "cúi xuống" và thay vì trả lời, Người
dùng ngón tay vẽ vẽ trên đất.
Các nhà chú giải rất quan tâm tìm hiểu
xem Đức Giêsu viết gì trên đất? Thánh Hiêrônimô nghĩ: Người vạch tội những kẻ
tố cáo. Nhiều tác giả khác thì cho rằng: Người viết lại một câu trong Jêrêmia
(17,l3): "tất cả những ai lìa bỏ Ngài sẽ phải hổ thẹn, những kẻ quay lưng
lại với Ngài sẽ phải ghi tên mình trong lòng đất ". A. Marchadour cho
rằng: "Tốt nhất nên trung thành với sự mơ hồ của bản văn. Đức Giêsu vạch
trên đất để kéo dài thời gian thinh lặng, làm cho lời phân xử sắp thốt ra thêm
trọng lượng". (sđd; trg 124).
Người ta như không chú ý tới điều được
ghi nhận tới hai lần: Đức Giêsu "cúi xuống", rồi "ngước
lên". X. Léon-Dufour thắc mắc: "Sao lại nhấn mạnh đến cử chỉ ấy trong
một câu chuyện ngắn ngủi như vậy?" Rồi trả lời: "Tên núi Ôliu được
nhắc đến ở đầu câu chuyện đã đặt giai thoại này trong bối cảnh cuộc khổ nạn sắp
đến. Cử chỉ của Đức Giêsu mang một ý nghĩa Kitô học: nó nhắc đến sự hạ xuống,
và đưa lên cao mà qua đó, Đức Giêsu sẽ hoà giải nhân loại bị giam hãm trong tù
ngục tội lỗi với Thiên Chúa" ("Lecture de l'evangile selon
Jean", Cerf, tập 2, trg 313).
2. Trước hết, câu trả lời của Đức Giêsu
là sự thinh lặng.
Họ nài nỉ. Trước khi lại chìm trong
thinh lặng, Đức Giêsu nhắc họ lời Kinh Thánh: "Ai trong các ngươi sạch
tội, thì cứ lấy đá mà nén trước đi". (Dnl 13,9-10 và 11,7: "Người làm
chứng sẽ ném đá kẻ phạm tội trước). Từ lúc ấy, vụ án xử bị cáo lại trở thành vụ
án xử nguyên cáo.
Các kinh sư và những người Pharisêu
đinh ninh mình công chính, nấp sau luật để tố cáo người phụ nữ. Ở đây, Đức
Giêsu đưa chính họ ra xét xử dưới ánh sáng của Luật. Người buộc những quan toà
phải tự xét xử chính mình, trước hết, phải trở lại với lương tâm mình, nhìn
nhận mình cũng là tội nhân, cùng một thân phận như "người phụ nữ
kia", người mà họ đã lôi ra giữa đám đông và giam hãm chị trong quá khứ
tội lỗi của mình.
Trong vòng vây của những nguyên cáo
hung hăng, sự lưỡng lự biến thành cuộc lui binh như thánh sử ghi nhận cách hài
hước: "Họ rút lui từng người một, bắt đầu từ người già nhất".
3. Rồi lời giải thoát đến:
Khi Đức Giêsu ngẩng đầu lên "lần
thứ hai thì chỉ còn mình Người đối diện với người phụ nữ". Thánh Augustinô
chú giải: "Chỉ còn hai. Lòng thương xót và người được xót thương".
Nếu trước đó, những người tố cáo gọi
chị là "hạng đàn bà đó" một cách khinh bỉ, coi chị như đồ vật, thì
giờ đây, chị thấy một ánh mắt khác nhìn chị, nghe một giọng khác gọi chị như
gọi một con người: "Này chị". Hơn bất cứ ai khác, Đức Giêsu là người
đo lường chính xác nhất mức nặng nhẹ của tội lỗi; và thay vì giam hãm chị trong
quá khứ tội lỗi như các kinh sư và những người Pharisêu đã làm, Người thúc đẩy
chị bước vào con đường hối cải, và mở cho chị một tương lai một "Không ai
kết án chị sao? Tôi cũng vậy. Hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa ".
Sau đó thì sao? Câu chuyện để ngỏ đó
giống như dụ ngôn Chúa nhật trước bỏ ngỏ thái độ người anh. Một khi đã gặp Đức
Giêsu Đấng không lên án mà kêu gọi sống đời sống thánh thiện "độc giả cũng
thấy mình được kêu gọi để đừng khép mình vào cái khuôn dĩ vãng chết chóc, nhưng
là bước đi trong tự do của con cái Thiên Chúa" (x. Léon-Dufour, Sđd, trg
332).
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Một mạc khải sâu xa về bản chất của
tội lỗi
Câu chuyện là hạt ngọc quí của Tin
Mừng. Chúa Giêsu rời núi ôliu, trở lại đền thờ để cứu vớt một phụ nữ ngoại
tình, một kẻ tội lỗi. Đừng hạ thấp giá trị của trang Tin Mừng tuyệt vời này khi
cho nó chỉ là bài học về sự khoan dung đối với những yếu đuối nhân loại, sự
khoan dung mà các bậc hiền triết thời nào cũng mến chuộng.
Thật ra, trang Tin Mừng hôm nay là một
mạc khải rất sâu xa về bản chất của tội lỗi, và bản chất của sự tha thứ... theo
cái nhìn của Thiên Chúa.
Tội lỗi, trước tiên là một thực tại
loài người, rồi là một thực tại của lòng tin. Khi nghiên cứu cách cư xử của con
người, các nhà xã hội học khám phá ra sự phạm pháp: Xã hội bao gồm nam, nữ, gia
đình, cộng đồng... không thể vận hành nếu như không có một số luật lệ, cấm
đoán. Không trộm cắp. Không nói dối. Tôn trọng đời sống lứa đôi. Không ngoại
tình. Đừng hiểu ý nghĩa của trang Tin Mừng này cách trái ngược: Đức Giêsu kết
án tội ngoại tình là điều rất rõ. " Đừng phạm tội nữa".
- Ý niệm về lỗi phạm... Nếu trẻ em
thường sai lỗi trong những điều cấm -đáng tin cũng có cả một số người lớn còn
ấu trĩ như vậy-, thanh thiếu niên chưa trưởng thành trong nhận thức về điều
cấm, điều được phép. Họ khám phá ra rằng: những điều người ta cấm họ tác hại
đến cá nhân họ: khi tôi nói dối, trộm cướp, ngoại tình, tôi huỷ hoại một điều
gì đó về nhân tính nơi tôi. Lỗi phạm như một con sâu gặm nhấm một trái cây, một
thiếu sót nơi bản thân, nơi ý chí tôi. Ý niệm về tội lỗi: ở một mức cao hơn,
theo nghĩa đúng nhất, tội lỗi làm gián đoạn "mối tương quan với Thiên Chúa".
Chúa nhật trước, chúng ta đã thấy Chúa Giêsu gợi ý, tội lỗi chính là sự đứt
đoạn tình yêu với Cha: người ta cắt đứt mối tương quan và bỏ đi xa. Hôm nay,
Tin Mừng nêu lên một quan hệ khác: toàn bộ Kinh Thánh ví tội của Israel như
hành vi ngoại tình, phản bội giao ước giữa Chúa và dân yêu dấu của Ngài. Các
ngôn sứ thì ví loài người như một người vợ bất trung đối với chồng. Cắt đứt
giao ước tình thương. Xúc phạm một ngươi luôn yêu mình. Đó là mạc khải xác thực
và sâu xa về tội lỗi.
Như vậy, đối với Đức Giêsu, người ta
chỉ hiểu ý nghĩa của tội lỗi, khi hiểu ý nghĩa về Thiên Chúa. Rốt cục, các
thánh là những người sáng suốt nhất, vì các ngài nhận ra hành vi phạm pháp và
lỗi lầm làm tổn thương tình yêu của Thiên Chúa, Đấng dựng nên ta và yêu thương
ta vô cùng. Chính chúng ta làm tổn thương "khuôn mặt" của Người...
nơi chúng ta, chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Ngài.
2. Một lời nói và một ánh mắt giải
phóng và cứu độ.
Những người Pharisêu tốt lành và trung
thành có một cơ hội tuyệt vời để tố cáo Đức Giêsu. Người bị dồn vào chân tường.
Hy sinh người phụ nữ để giữ Lề Luật hay hy sinh Lề Luật để cứu người phụ nữ.
Người bị kẹt giữa cả hai phía. Kết án người phụ nữ tội lỗi này thì mâu thuẫn
với những lời giảng về lòng thương xót và ơn tha thứ. Tha cho chị thì phạm pháp
vì bất tuân luật Môsê. Bị cáo sẽ chính là Đức Giêsu.
Sẽ không có sự kết án, cũng không có
viên đá nào được ném ra (hình phạt ném đá đến chết). Bẫy sẽ sập xuống trên
chính những kẻ gài nó. Chỉ vài lời thôi, Đức Giêsu đã hoán đổi vị trí, nguyên
cáo biến thành bị cáo. Chị ta đã phạm tội. Đúng vậy. Còn các ông? Chị không đến
nỗi hư hỏng và tội lỗi như các ông nghĩ và các ông cũng không công chính và
trung tín như các ông tự phụ.
Một bài học thật là nặng nề, khó chịu
nhưng cũng tuyệt vời Đó là bài học về chân lý, về cách Chúa dạy dỗ, về sự công
chính theo Tin Mừng và về lòng thương xót rất phù hợp với truyền thống mà các
ngôn sứ bênh đỡ và duy trì trước những trận gió và cơn sóng khắc nghiệt xuất
phát từ lòng hẹp hòi của con người. "Đừng nghĩ tới chuyện xa xưa nữa. Hãy
quên đi quá khứ. Này ta đang tạo lập một thế giới mới: Nó đang hình thành. Các
ngươi có thấy không? "
Phán quyết của Chúa là lời tha thứ. Sự
tha thứ không giam cầm người khác trong lỗi lầm và trong quá khứ. Anh mắt và
lời nói của Đức Giêsu giải thoát và cứu rỗi. Khác hẳn với những cái răng sắc
nhọn, những lời nói như đá ném vào mặt, những cái nhìn kết án như viên đạn
xuyên tim. Cơn giận giả dối của "những người công chính" cho rằng
mình chẳng có điều chi đáng phiền trách nhưng lại luôn sẵn sàng trừng phạt tội
người khác.
3. Một vết nứt trên các hệ thống khép
kín của chúng ta.
("Célébrer", tạp chí của
Trung tâm quốc gia về Mục vụ Phụng vụ số 217, trg 26).
Ai cũng khát vọng một thế giới mới. Ai
cũng nói về đổi đời Đồng thời, đều cảm thấy bị giam hãm trong những cơ chế gò
bó (trong Xã hội cũng như Giáo Hội). Làm sao thoát ra? Theo các bài đọc hôm
nay, gặp gỡ Đức Kitô và Tin Mừng của Người sẽ phá tung ngục tù của thất vọng
(bài đọc I), làm tan vỡ khối rắn chắc của một lương tâm sơ cứng vì lợi lộc tư
riêng (bài đọc 2), bẻ gầy gọng kìm bạo lực của những lời kết án (Tin Mừng).
Trong hoang mạc của chủ nghĩa pháp chế
khô cằn, lời kêu gọi biết dùng tự do có trách nhiệm vọt lên như một dòng suối
trong mát. Ngay đối với những người Pharisêu khô cằn về luân lý, Chúa Giêsu vẫn
có thể cấy trồng sự sống khi làm cho họ hết phương chống đỡ, khi làm cho họ
nhận ra rằng họ liên đới với nhau cả trong sự dữ, qua đó, cho thấy có hy vọng
vào một lối thoát ra khỏi mọi hệ thống độc đoán và hay kết tội người khác.
Người mở trước mắt ta cái nhìn nhận ái
đích thực về mọi lời: cái nhìn không đóng kín chúng ta vào thất bại và tuyệt
vọng của quá khứ, cái nhìn tái tạo cuộc sống khi mời gọi chúng ta tiến bước.
Tóm lại, đó là một tình yêu loan báo tương lai.
Vết nứt trên các hệ thống khép kín của
chúng ta cùng cái nhìn tái tạo này không phải là điều chúng ta cảm nhận và
" sống trong bí tích hoà giải đó sao? Không phải là cơ hội cảm nghiệm
quyền năng của sự phục sinh đó sao. Bàn tiệc Thánh Thể loan báo thế giới mới.
Dân được cứu rỗi hát mừng những kỳ công của Đấng mở lối vào tương lai.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét