CHÚA NHẬT 4 MÙA
CHAY C
Lời Chúa: Gs
5,9a.10-12; 2Cr 5,17-21; Lc 15,1-3.11-32
MỤC LỤC
1. Tấm lòng người cha
2. Ba cha con
3. Trở về
4. Người cha nhân hậu - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Sống trong tình trạng ơn thánh – Radio Veritas Asia
6. Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm con người
7. Trở thành thụ tạo mới – Radio Veritas Asia
8. Hai người con, hai cuộc trở về – Radio Veritas Asia
9. Biết dứt khoát đứng dậy và trở về
10. Cha nhân lành vòng tay rộng mở - Achille Degeest
11. Trở về trong tình thương
12. Người con hoang đàng - McCarthy
13. Người con trai đi hoang
14. Người con hoang đàng - R. Gutzwiller
15. Mọi sự
16. Đôi mắt cha
17. Được yêu
18. Bộc lộ
19. Người anh cả
20. Chú giải của Noel Quesson
21. Chú giải của Fiches Dominicales
1. Tấm lòng người cha.
Dụ ngôn đứa con phung phá hay nói đúng hơn là câu chuyện
về tấm lòng của một người cha, là câu trả lời trực tiếp cho những bàn tán của
bọn biệt phái trước việc Chúa Giêsu thường đi lại và ăn uống với phường thu
thuế và tội lỗi.
Dụ ngôn này, câu chuyện này được chia làm hai phần. Phần
thứ nhất nói đến lòng nhân từ vô biên của Thiên Chúa qua hình ảnh người cha mòn
mỏi trông chờ đứa con trở về. Và khi cậu trở về thì đã mở tiệc ăn mừng, và trao
lại cho cậy đầy đủ quyền làm con như khi trước.
Phần thứ hai có tính cách biện hộ khi diễn tả sự phản đối
với cách cư xử của người cha lúc đứa em tội lỗi trở về. Đó cũng chính là tình
trạng cụ thể mà Chúa Giêsu gặp phải trong cuộc đời rao giảng Tin Mừng cứu độ
của Ngài.
Câu chuyện được kể lại bằng những chi tiết rất sống động. Thực
vậy, tội của đứa con hoang đàng quả là rất lớn. Nó đã sử dụng tiền của làm ra
với bao công lao khó nhọc vào cuộc truy hoan trác táng, để rồi kết thúc trong
nghèo đói và túng quẫn. Đối với người Do Thái heo hay lợn là một con vật nhơ
bẩn. Chăn heo hay chăn lợn là một việc làm nhờm tởm. Tình cảnh khốn quẫn đã đưa
đứa con đến tột cùng của sự thảm hại, bị loại ra khỏi cộng đồng dân Chúa đã
đành, mà còn bị loại ra khỏi cộng đồng con người, bởi vì trong cơn đói khát, nó
đã thầm ước được ăn chút cám bã dành cho súc vật mà cũng chẳng được.
Tuy nhiên, điều làm cho chúng ta xúc động vẫn là thái độ
của người cha. Câu chuyện kể lại rằng: Ông đã thấy đứa con từ đàng xa. Chi tiết
này chứng tỏ ông hằng trông mong và đợi chờ. Và khi đã nhận ra con, ông vội
chạy đến ôm chầm lấy con, hôn con một cách nồng nhiệt, đặt đứa con hối cải vào
đúng vị trí của nó trong gia đình, rồi mở tiệc ăn mừng.
Thái độ của người con cả cũng được trình bày một cách sống
động. Anh là người con chí thú làm ăn, nhưng xem ra quan hệ với người cha không
được đằm thắm cho lắm. Tuy ở nhà với cha, nhưng lòng anh vẫn xa cách. Kết quả
là anh đã không hiểu nổi cách xử sự của người cha đối với đứa em vừa trở về. Do
đó, thay vì nhập tiệc chia vui với người cha và với đứa em, thì anh đã dừng lại
ở cửa, tự mình đứng ở cái thế tách biệt với gia đình sum họp.
Đoạn Phúc Âm hôm nay quả là một tin mừng cho người trở
lại, nhưng đồng thời cũng là một lời cảnh cáo đối với những người ở trong nhà.
Thực vậy, câu chuyện cho thấy người cần phải trở lại hơn hết lại chính là người
con cả, người con vẫn ở nhà với cha, nhưng cõi lòng thì không ở cùng cha.
2. Ba cha con.
Câu chuyện về đứa con phung phá, còn có thể được gọi là
câu chuyện về tấm lòng của một người cha, hay nói đúng hơn là câu chuyện về ba
cha con.
Thực vậy người con thứ chỉ là một tay giang hồ hèn nhát.
Phải chi nếu vì thương cha nhớ mẹ mà anh ta trở về thì còn khá, đằng này chỉ vì
đói khát, thèm ăn cả cám heo mà cũng chẳng được, thôi thì đành trở về. Mà đã
trở về thì cũng phải ca mấy câu cho xong chuyện với ông già.
Nhưng người cha là một nhân vật tuyệt vời. Ông đã món mỏi
chờ đợi kẻ đi hoang. Ông nuôi một con bê và ngày ngày ra tận ngoài đường trông
ngóng. Bằng chứng là khi đứa con rách nát trở về thì ông đã nhận ra nó tự đàng
xa và chạy lại ôm choàng lấy nó mà hôn. Ông đã tha thứ cho nó từ lâu rồi, nên
đâu có để ý đến sáu câu nó vội ca lên khi gặp ông. Ông truyền mặc áo đẹp cho
nó, xỏ nhẫn và xỏ giày cho nó. Đây là những biểu tượng của người con trong gia
đình. Nó chỉ muốn làm đầy tớ để được ăn no, nhưng ông đã trả lại cho nó địa vị
người con để được hưởng mọi quyền lợi. Rồi ông lại truyền giết con bê nuôi sẵn
để thiết tiệc mừng đứa con như đã chết mà nay sống lại.
Nhân vật thứ ba của câu chuyện là người con cả. Anh ta là
một người siêng năng, cần cù, hết mình tận tuỵ với cha, nhưng lại tự ti và ích
kỷ: Là con trưởng nhưng lại chỉ biết sống như một người đầy tớ, như một kẻ nô
lệ, không ý thức rằng hễ đã là con thì cũng có quyền thừa kế, nghĩa là được làm
chủ gia tài của cha. Trái lại, anh ta chỉ biết làm công để được nuôi trong nhà
mình như một kẻ xa lạ. Vì không ý thức địa vị là con, là chủ của mình, nên anh
ta chẳng tình nghĩa gì với cậu em trai, đã không biết chia sẻ niềm vui của cha
thì chớ, anh ta lại còn trách móc hằn học ghen tương.
Bọn biệt phái khi nghe câu chuyện này thì đã hiểu ngay cái
ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắm tới. Người cha là Thiên Chúa hay cũng có thể nói
là chính Ngài. Đứa em giang hồ là những quân thu thuế và kẻ tội lỗi, mà Ngài
thường ưu ái. Còn cậu cả chính là họ. Bởi vì họ thường lấy làm chướng tai gai
mắt khi thấy Ngài đi lại và ăn uống với phường tội lỗi. Điều Chúa Giêsu khiển
trách, đó là họ tuy đạo đức, chẳng hạn như đọc kinh nhiều, ăn chay lắm, nhưng
lại thiếu lòng nhân ái, thiếu tình thương người, và như vậy là thiếu chính cái
mà Thiên Chúa đòi hỏi vì Thiên Chúa đã phán: Ta muốn lòng nhân từ chứ không
phải của lễ.
Ngày nay, khi nghe đọc dụ ngôn này, không hiểu chúng ta,
những người vốn tự hào là những con chiên ngoan, có dám can đảm nhận ra nơi
mình hình ảnh cậu cả hay không. Bằng chứng là vẫn thấy nhiều người sẵn sàng lên
án, ném đá những người ngoại tình, những kẻ tội lỗi. Không thiếu những người
được coi là đạo đức thánh thiện, lại rất khắt khe với kẻ tội lỗi. Tệ hơn nữa,
người ta còn nhân danh sự thánh thiện của Thiên Chúa mà đòi xử phạt kẻ có tội.
Những thái độ trên hoàn toàn đi ngược lại tinh thần của
Chúa Giêsu, Đấng đã đến để tỏ lộ lòng nhân từ khoan dung của Cha chí ái. Qua
đó, Chúa Giêsu nhắm thẳng vào những kẻ thiếu tình huynh đệ, cõi lòng của họ
chai đá, không biết cảm thông nỗi đau khổ của người khác và cũng chẳng biết
chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa, là được đón nhận những đứa con hư hỏng biết
tìm đường trở về.
Để kết luận, là những kẻ tội lỗi chúng ta hãy can đảm trỗi
dậy trở về cùng Chúa, đồng thời cũng hãy có thái độ khoan dung độ lượng với
những kẻ tội lỗi, như thái độ của Chúa Giêsu trong câu chuyện chúng ta vừa
nghe.
3. Trở về
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Người cha không đi tìm đứa con út như tìm chiên lạc.
Nó đã dùng tự do để quyết định ra đi, và người cha tôn
trọng quyết định đó. Nhưng ông vẫn ngong ngóng chờ con.
Niềm hy vọng vẫn không ngừng nhen nhúm.
Người cha thấy con trước khi nó kịp thấy cha. Con ốm yếu,
hôi hám, bội bạc, chẳng làm cha xa tránh.
Tình thương trào dâng khiến bước chân cha vội vã. Vòng tay
cha lớn quá, nụ hôn cha nồng nàn.
Áo đẹp, dép mới, nhẫn đeo tay, ca nhạc, tiệc tùng, múa
nhảy: tất cả chỉ để thông báo cho mọi người biết rằng đây là con tôi, vẫn là
con vì chưa bao giờ không là con.
Nhưng người cha không chỉ thương con út. Con cả mới là
đích nhắm của câu chuyện này.
Anh quá hiếu thảo, quá vâng phục cha từng li từng tí. Anh
không đi hoang, không ăn chơi, chỉ chăm lo đồng áng. Ai cũng thấy anh là người
con mẫu mực.
Nhưng biến cố đứa em trở về đã làm lộ con người thật của
anh.
Tuy luôn ở trong nhà cha, nhưng anh lại ở ngoài tim cha.
Anh không hiểu được tại sao cha lại nhu nhược đến thế, bao dung đến độ bất công
với anh. Đãi tiệc với thịt bê béo để mừng đứa con hoang đàng, còn anh, một con
dê để lai rai với bạn bè cũng không có. Anh không thể vui với cha, càng không
thể vui với em. Anh tức giận vì thấy quyền lợi mình bị xâm phạm. Rốt cuộc anh
không chịu vào nhà!
Hoá ra cả hai người con vừa khác, lại vừa rất giống nhau.
Cả hai đều ở ngoài nhà cha, chấp nhận chịu đói.
Con út không thấy hạnh phúc bên cha nên ra đi. Con cả
không chia sẻ được hạnh phúc của cha nên không vào.
Sám hối là trở về với tình cha. Cả hai người con đều cần
trở về, trở vào.
Sám hối là trở lại với tình yêu, niềm vui, sự sống.
Nhưng trở về chẳng phải là chuyện dễ dàng.
Chẳng ai muốn nhận là mình đã đi lầm đường. Người anh cả
cần dẹp bỏ tự ái để vui vẻ vào nhà. Người em út cần khiêm tốn mới gặp cha và
gia nhân trong tình trạng thân tàn ma dại.
Để trở về cần đứng lên hay bỏ chỗ mình đang đứng.
Từ bỏ thì đớn đau nhưng hạnh phúc thật tuyệt vời.
Hạnh phúc lớn nhất không phải là tài sản vật chất, mà là
khám phá ra mình có chỗ trong trái tim cha. Cha yêu mình dù mình hư hỏng, bất
trung. Cha yêu mình không phải vì mình ngoan ngoãn, được việc. Cha yêu mình chỉ
vì mình là con. Cha không muốn mất một đứa con nào.
Trở về với Cha đòi ta giang tay đón lấy người em. Đó không
phải là "thằng con của cha", nhưng là "em của con".
Trở về với Cha, với tha nhân cũng là trở về với mình. Tôi
chợt nhận ra mình quá ư giàu có.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những lý do khiến người con út trở về?
Bạn thường sám hối trở về vì lý do nào?
Bạn có sợ đi xưng tội không? Bạn nghĩ gì về bí tích Giải
Tội? Bí tích này có giống với việc đứa con út trở về và được cha tha thứ không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, người con thứ đã muốn tự định đoạt lấy đời mình.
Chúng con vẫn rơi vào tội của người con thứ, khi coi Cha như người cản trở hạnh
phúc của chúng con. Chúng con thèm được tự do bay nhảy ngoài vòng tay của Cha;
nhưng tự do ấy lại biến chúng con thành nô lệ. Hạnh phúc do thế gian ban tặng
thì bọt bèo. Như người con thứ, chúng con bỗng thấy mình tay trắng, rơi xuống
chỗ cùng cực và bị cái chết đe doạ.
Lạy Cha đầy lòng bao dung, xin kéo chúng con trở về với
Cha mỗi ngày, giúp chúng con điều chỉnh những đam mê lệch lạc. Xin nâng chúng
con đứng lên trong niềm vui vì tin rằng tình Cha lớn hơn tội chúng con vạn bội.
Ước gì những vấp ngã khiến chúng con lớn lên, thấy mình mong manh, thấy Cha
rộng lượng. Ước gì sau mỗi lần được Cha tha thứ, chúng con lại thấy mình hiền
hoà hơn với tha nhân.
4. Người cha nhân hậu - ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt
Ta thường gọi là dụ ngôn "Người con hoang đàng".
Cách gọi này không được chính xác. Trước hết vì sự trở về của đứa con không
đáng làm khuôn mẫu cho ta. Hơn nữa, xét theo bối cảnh và nội dung, Chúa Giêsu,
khi kể dụ ngôn này, có ý đề cao tình yêu thương, lòng khoan dung nhân hậu của
người cha.
Bối cảnh: Nhóm Pharisêu và các Kinh sư chê trách Chúa
Giêsu vì Người ngồi ăn với những kẻ tội lỗi. Để trả lời họ, Chúa Giêsu kể một
chuỗi 3 dụ ngôn: Con chiên đi lạc, Đồng bạc bị mất và Người cha nhân hậu.
Nội dung: Có thể coi đây là một vở kịch 2 màn.
NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT.
Đứa con ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân.
Sự ích kỷ được biểu lộ trước hết trong việc xin chia gia
tài, ở nhà chung mà chỉ nghĩ đến vun quén riêng. Không đóng góp mà chỉ muốn rút
tỉa. Không làm việc mà chỉ muốn hưởng thụ. Sự ích kỷ đạt đến mức tồi tệ đáng
kinh tởm khi nó dám mở miệng xin chia gia tài. Theo truyền thống phương đông,
gia tài chỉ được chia sau khi cha mẹ đã qua đời. Xin chia gia tài lúc cha mẹ còn
sống có khác nào cầu mong cha mẹ mau chết đi!
Có tiền bạc trong tay, nó bắt đầu ăn tiêu phung phí. Cách
ăn tiêu nói lên tính ích kỷ của đứa con. Nó tiêu tiền mà không nghĩ gì đến mồ
hôi nước mắt của cha mẹ. Nó tiêu tiền chỉ để thoả mãn dục vọng. Nó dùng tiền
bạc để cung phụng bản thân. Khi có tiền nó chẳng nghĩ đến ai, nên khi hết tiền,
chẳng còn ai gắn bó, sẵn sàng giúp nó qua cơn túng thiếu. Túng cùng quá mới
phải trở về.
Sự ích kỷ vẫn còn đó trong toan tính trở về. Nó không hề
nghĩ đến cha mẹ. Nó không hề nghĩ đến tình thương. Nó chỉ nghĩ đến cái bụng. Về
nhà để được ăn no. Chỉ có thế.
Người cha hoàn toàn quên mình vì con.
Khi đứa con xin chia gia tài, ông đã chia ngay, không so
đo tính toán, không hạch sách khó khăn. Ông không nghĩ đến bản thân, không tự
ái, chỉ mong sao con cái được vui lòng.
Khi con đã ra đi, ông ngày đêm thương nhớ, ngày nào cũng
ra ngõ đứng chờ. Thật tội nghiệp, con ra đi chẳng nhớ nhung gì đến cha mà cha
không phút giây nào ngừng thương nhớ con. Con chỉ biết tìm vui cho bản thân trong
khi cha mỏi mòn trông đợi. Con chỉ biết đến tiền bạc, còn cha chẳng quan tâm gì
đến tiền của, nhưng chỉ cần có con.
Cảm động nhất và cũng chan chứa tình thương nhất là phút
giây gặp gỡ. Một phút giây vắn vỏi mà nói lên bao nhiêu điều về tình thương của
cha. "Anh ta còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy". Khi con chưa
nhìn thấy cha thì cha đã nhìn thấy con. Mắt chàng trai trẻ hẳn phải tinh anh
hơn mắt ông cụ đã nhoà dòng lệ vì thương nhớ chứ. Thế mà cha đã nhìn thấy con
trước. Vì cha không nhìn bằng mắt nhưng nhìn bằng trái tim. Trái tim yêu thương
có đôi mắt tinh tường giúp nhận ra ngay bóng người yêu dấu. Trái tim con không
còn yêu thương nên nhìn chẳng thấy cha. Trái tim con khô cằn nên mắt vẫn sáng
mà chẳng khác mù loà. Trái tim cha đầy ắp yêu thương nên đã loà rồi mà vẫn thấy
rõ con ngay từ đàng xa.
"Ông chạnh lòng thương". Trái tim dạt dào yêu
thương quên hết tất cả lầm lỗi của đứa con. Tình cảm đầu tiên dâng lên trong
tim ông không phải là tiếc xót nửa gia tài đã mất, cũng không phải là tức giận thằng
con phá gia chi tử, nhưng lại là chạnh lòng thương. Yêu quá nên người cha chẳng
còn nhìn thấy gì khác hơn là đứa con tiều tuỵ rách rưới. Yêu quá nên người cha
chẳng nhìn thấy lầm lỗi mà chỉ nhìn thấy nỗi khổ của con. Trong trái tim ông,
chỉ có tình thương dành cho con, nên vừa gặp con là tim đã rộn ràng xúc động.
"Chạy lại ôm cổ con". Lại một cử chỉ lạ lùng.
Cha không chờ con tới theo đúng lễ phép mà đã vội vàng chạy lại ôm con. Tình
yêu thương thúc đẩy, niềm vui dâng dạt dào khiến người cha không chần chờ được
nữa. Bất chấp thân phận cao quý của mình, ông chạy đi như một đứa trẻ được quà.
Bất chấp tuổi tác của mình, ông nhanh nhẹn như một thanh niên sung sức. Đứa con
tuổi còn trẻ mà sao chẳng nhanh nhẹn bằng ông già? Vì trong tim nó thiếu tình
yêu. Trái tim không tình yêu cũng giống như cơ thể không sức sống. Ông già mà
nhanh nhẹn vì ông không chạy bằng sức lực của đôi chân. Ông chạy bằng trái tim.
Ông bay bằng tình yêu. Tình yêu chắp cánh cho ông.
"Hôn lấy hôn để". Chẳng còn bút nào tả xiết niềm
vui của người cha khi gặp lại đứa con. Những nụ hôn không ngớt đủ nói lên tình
cảm dạt dào ông dành cho nó. Ông ôm chặt như để giữ không cho nó ra đi nữa.
Trong một thoáng, khi đứa con chưa có một động tác nào thì
người cha đã có 4 động tác: nhìn thấy, chạnh lòng thương, chạy đến, ôm hôn.
Trong một thoáng ngắn ngủi, khi chàng trai tuổi trẻ còn bất động thì ông lão
già nua đã thực hiện 4 động tác rất nhanh nhẹn. Ông thật là người cha phung
phí. Ông đã phung phí sức lực trong cuộc gặp gỡ với đứa con trở về. Ông đã
phung phí tiền bạc khi chia gia tài một cách dễ dãi. Ông đã phung phí khi đem
áo mới, giầy mới, nhẫn vàng, lại còn tổ chức một bữa tiệc mừng có bê béo, có cả
đàn hát múa nhảy để đón đứa con đi hoang trở về. Làm thế chẳng sợ hàng xóm cười
cho! Nói tóm lại ông đã phung phí tình yêu thương. Yêu thương quá độ. Yêu
thương đến vô lý. Mà có lý lẽ nào giải nghĩa được yêu thương? Chỉ có tình yêu
thương mới giải nghĩa được những điều vô lý đó.
MÀN 2: NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ
Đứa con cả đi hoang trong tâm hồn.
Đứa con cả vẫn ở nhà, nhưng thực ra chỉ có thân xác ở nhà,
còn tâm hồn nó đã đi hoang từ lâu. Tuy ở trong gia đình, nhưng tâm hồn nó không
thuộc về gia đình. Nó làm việc không phải với tâm tình của một người con hiếu
thảo coi "mọi sự của cha là của con". Nó muốn vun quén riêng tư. Nó
làm việc với tinh thần nô lệ, mong được trả công, chỉ nghĩ đến con "bê
nhỏ", đến "bạn bè" riêng của nó.
Sống bên cha mà tâm hồn nó xa tâm hồn cha biết bao. Nó
không sao chia sẻ được những tình thương, những ưu tư, hoài bão của cha. Cha là
tình thương nhưng con chỉ là ích kỷ. Cha là bao dung nhưng con chỉ là hẹp hòi.
Tâm hồn cha rộng mở bao nhiêu thì tâm hồn con khép kín bấy nhiêu. Cha chỉ biết
tha thứ trong khi con chỉ biết kết án. Thật là khác biệt ngàn trùng.
Cha đi tìm con
Một lần nữa, người cha lại phải bỏ nhà ra đi, bỏ dở bữa ăn
để tìm đứa con đi hoang trong tâm hồn. Vẫn với cử chỉ dịu dàng cố hữu; vẫn với
những lời lẽ ôn tồn; vẫn với ánh mắt chan chứa cả một trời bao dung, cha cố
gắng thuyết phục đứa con cả trở về.
Nếu đứa con út cần một cuộc trở về thì đứa con cả cần tới
hai cuộc trở về: về với cha và về với em. Đi hoang trong tâm hồn xa xôi diệu
vợi thế!
Qua dụ ngôn này Chúa cho thấy dù tôi là con út hay con cả,
tôi vẫn cần trở về. Vì nếu tôi chưa đi hoang trong đời sống, chắc chắn đã rất
nhiều lần tôi đi hoang trong tâm hồn: suy nghĩ và hành động của tôi khác hẳn
với đường lối của Thiên Chúa là Cha; tôi vẫn không muốn chấp nhận anh em tôi.
Nhưng dụ ngôn cũng cho tôi an tâm trở về. Hình ảnh người
cha hiền đứng đợi mời gọi tôi mau bước. Chúa là người Cha yêu thương tôi trước
khi tôi yêu Người, đi tìm tôi trước khi tôi đi tìm Người, tha thứ cho tôi trước
khi tôi xin lỗi Người.
Lạy Chúa là Cha nhân từ, con cảm tạ tình yêu thương vô vàn
của Cha.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Xét mình, bạn thấy mình giống ai trong hai người con
trong bài Tin Mừng?
2. Bạn có thấy tình yêu thương của người cha không?
3. Bạn có cảm nghĩ gì sau khi đọc dụ ngôn "Người Cha
nhân hậu" này?
4. Bạn có cần sám hối để trở về với Chúa là Cha không?
5. Sống trong tình trạng ơn thánh –
Radio Veritas Asia
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa')
Leonard da Vinci là một họa sĩ tài ba, nhưng khi vẽ bức
tranh Bửa Tiệc Ly trong nhà cơm của tu viện Đức Mẹ Ban Ơn tại thành phố Bắc
Italia, ông phải mất nhiều năm mới hoàn thành bức tranh vì không tìm ra những
người mẫu thích hợp. Một hôm nọ, ông gặp trong công viên Castellô một thanh
niên tên là Francisco, gương mặt bầu dục tuyệt đẹp với phần trán an hòa và quý
phái, đôi mắt suông và trong suốt, tóc vàng hoe có dợn sóng. Leonard liền mời
chàng trai tuấn tú ấy đến ngồi làm mẫu để ông vẽ Chúa Giêsu.
Vài năm sau bức họa vẫn chưa xong. Ông ngày đêm gãi đầu
bứt tai vì không sao tìm ra được một người có gương mặt dữ dằn làm mẫu, để ông
vẽ hình Giuđa, kẻ đã phản bội bán nộp Chúa Giêsu. Tình cờ một buổi chiều, ông
thấy một người đàn ông có gương mặt xấu xa dữ dằn đang nhìn các người khác đánh
cá ngựa, hắn chửi thề luôn miệng. Leonard vui mừng vì đã tìm thấy mẫu người ông
đang cần. Ông gọi hắn ra một góc và đề nghị với hắn nhận làm người mẫu cho ông
vẽ thì sẽ được thưởng nhiều tiền. Gã đàn ông nhận lời và cùng họa sĩ vào tu
viện Đức Bà Ban Ơn. Trong lúc họa sĩ đang chăm chú nhìn gương mặt gã với vầng
trán buồn, đôi mắt dữ tợn, tai dựng đứng và dường như đang nhớ đến một kỷ niệm
nào đó, thì ông nghe một tiếng nghẹn ngào. Ông hỏi hắn: Có chuyện gì vậy? Bác
cảm thấy người không khỏe hay sao? Gã đàn ông trả lời: Thưa thầy, chắc thầy còn
nhớ cách đây ba năm, tôi cũng ngồi trên chiếc ghế này làm mẫu cho thầy vẽ hình
Chúa Giêsu. Gã đàn ông nhìn bức tranh gần hoàn thành trên tường và thở dài nói:
Tôi thật là một tên khốn nạn, đam mê và tội lỗi đã biến tôi ra thân tàn ma dại
như thế này.
Mẩu chuyện liên quan tới cuộc đời Francisco kể trên, giúp
chúng ta cảm nhận thấm thía ý nghĩa dụ ngôn người con hoang đàng của Chúa nhật
hôm nay. Dụ ngôn người con hoang đàng trong Phúc Âm thánh Luca là một trong các
dụ ngôn hay và cảm động nhất, chứng minh cho thấy tài giảng dạy của Chúa Giêsu.
Có ba nhân tố giúp chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu đậm hơn:
Thứ nhất là động từ "lẩm bẩm". Trong ngôn ngữ
của Kinh Thánh, nó là động từ diễn tả thái độ của dân Do Thái phản đối ơn Chúa
và khước từ kiểu cách cứu độ của Ngài. Nó là động từ mà chúng ta thường gặp
trong các sách Xuất Hành, Dân Số, và Đệ Nhị luật đề cập đến 40 năm dân Israel
lang thang trong sa mạc, và thường xuyên nổi loạn chống lại Thiên Chúa và phản
đối các ơn của Ngài. "Lẩm bẩm" cũng là động từ diễn tả thái độ người
tội lỗi bé nhỏ, tối tăm ngu muội, nhưng lại yêu sách muốn chỉ vẽ cho Thiên Chúa
biết phải hành xử như thế nào để cứu rỗi nhân loại. Đây cũng là thái độ mà
người Biệt phái và luật sĩ có đối với Chúa Giêsu. Cũng giống như cha ông họ
ngày xưa, họ lẩm bẩm chỉ trích Chúa Giêsu giao du nói chuyện và ăn uống với
người tội lỗi, bọn thu thuế, đĩ điếm. Khi kể cho họ nghe dụ ngôn người con
hoang đàng, Chúa Giêsu muốn dạy cho họ biết rằng Thiên Chúa không suy tư và
hành động như vậy. Trước lời phản kháng của người con cả, muốn cho cha mình đập
thằng em hư đốn một trận nhừ tử nên thân, rồi tống cổ nó ra khỏi nhà, nhưng
người cha hiền từ trả lời: "Em con hư mất và nay lại tìm thấy".
Động từ "hư mất" là nhân tố thứ hai giúp chúng
ta hiểu rõ sứ điệp của dụ ngôn trong Phúc Âm. Từ "hư mất" không có
nghĩa luân lý như chúng ta thường hiểu trong ngôn ngữ ngày nay. "Hư
mất" ở đây có nghĩa là hoàn toàn thất bại trong ơn nghĩa làm người và làm
con cái Chúa của mình. Nó ám chỉ thái độ khước từ trở về trong vòng tay yêu
thương của Thiên Chúa tạo hóa, trở về trong lòng bàn tay đã nhào nặn nên con
người như Thiên Chúa. Đấng đã sáng tạo nên con người, cho con người được sống
tràn đầy hạnh phúc, đã có thể ngồi yên để nhìn sự thất bại hoàn toàn đó của con
người, và đây là một lý do khác khiến cho Chúa Giêsu kể cho mọi người nghe dụ
ngôn người con hoang đàng. Nói cách khác Chúa Giêsu muốn khẳng định rằng, ơn
cứu độ mà Thiên Chúa ban cho con người là một sự kiện, là một thực tại cụ thể,
con người tiếp nhận ơn cứu độ khi trở về trong vòng tay yêu thương ấp ủ, nhân
từ của Thiên Chúa.
Và nhân tố thứ ba giúp chúng ta hiểu dụ ngôn một cách sâu
xa, đó là sự hiện diện của người anh cả trong câu chuyện. Kiểu cách suy tư và
hành xử của người anh cả diễn tả kiểu sống của tất cả mọi người không hiểu và
không chấp nhận thái độ hành xử của Thiên Chúa đối với con người. Người anh cả
nghĩ rằng Thiên Chúa chỉ có nhiệm vụ thưởng người có công và phạt kẻ có tội thế
thôi, mà không hiểu rằng Thiên Chúa không thể đứng yên nhìn cảnh con người do
chính Ngài tạo dựng nên, và giữ gìn yêu thương quý mến, nâng niu trong lòng bàn
tay vô hình của Ngài phải hư mất, phải thất bại trong ơn gọi làm người và làm
con cái Chúa của mình. Và chính để cứu rỗi loài người khỏi hư mất, khỏi thất
bại trong ơn gọi cao cả ấy mà Thiên Chúa đã nhập thể làm người, làm anh, làm
cha, làm mẹ để đem con người trở về với vòng tay yêu thương của Ngài. Khi rộng
mở vòng tay ôm đứa con hoang đàng vào lòng, là Thiên Chúa canh tân niềm vui tạo
dựng, khi nâng niu con người trong lòng bàn tay thánh thiện, quyền năng của
Ngài trong thời sáng tạo. Con người xinh đẹp vẹn toàn ấy đã hư mất mà nay lại
trở về với Chúa. Chính vì thế nên phải mở tiệc mừng.
Chúng ta không biết câu chuyện kết thúc ra sao. Không hiểu
sau khi tha thứ và phục hồi phẩm giá cho người con đã hư mất ấy, người cha già
có thành công trong việc thuyết phục người con cả để vui vẻ vào nhà dự tiệc
mừng em sống lại hay không? Nhưng chúng ta biết một điều chắc chắn, đó là đa số
trong chúng ta đều có cùng một tâm thức và cung cách hành xử như người con cả.
Chúng ta không bỏ Chúa đi hoang, nhưng chúng ta không ở trong nhà Chúa, không
sống với Chúa, không có tâm tình và kiểu cách hành xử phản ánh Tin Mừng của
Chúa. Nghĩa là chúng ta cũng rất xa Chúa và như thế có khác nào chúng ta cũng
hư mất, cũng giống như người con cả trong dụ ngôn. Cho đến nay, chúng ta chưa
quyết định bỏ Chúa nhưng chúng ta cũng chưa bao giờ nhất quyết bước vào nhà
sống với Chúa thật sự. "Con ơi, mọi sự của Cha là của con". Chính lời
nói đó của người cha già khiến anh cả sợ hãi. Anh sợ hãi vì có một con tim, như
con tim dịu hiền quảng đại vô bờ của cha. Anh sợ hãi phải có cái nhìn yêu
thương đại đồng, tâm tình bao dung của cha. Anh sợ hãi phải sống mà không hề
nuôi các tâm tình thù ghét, báo oán, gian ác trong lòng.
Cũng như anh con cả của dụ ngôn, chúng ta sợ hãi phải trở
nên giống Chúa, hoàn toàn phải chia sẻ mọi sự với Chúa và nên thánh như Chúa.
Do đó chúng ta giữ đạo nhưng không sống đạo. Có thể chúng ta thường xuyên đi
xem lễ mỗi ngày Chúa nhật hay cả ngày thường nữa, thường xuyên lãnh nhận các bí
tích nhưng đạo không thấm vào lòng chúng ta. Ra khỏi nhà thờ, chúng ta ăn nói
chua ngoa và hành xử gian dối như những người không hề biết Tin Mừng của Chúa.
Và đạo đó, quả thật là đạo nhà thờ, như người ta thường gọi. Nếu sống như thế
là chúng ta khước từ chấp nhận mầu nhiệm nhập thể của Chúa và như thế cũng là
đi hoang rồi.
Trong thư thứ hai gởi tín hữu Côrintô 5,17-21, thánh
Phaolô kêu gọi mọi người sống tình trạng ơn thánh mà Chúa Kitô đã trao ban cho
mọi người qua cái chết và sự phục sinh của Ngài. Nghĩa là sống như một thụ tạo
mới, với một con tim mới và một tinh thần mới, như tiên tri Giêrêmia đã khẳng
định trong chương 31 và tiên tri Êdêkiel loan báo trong chương 36. Ơn hòa giải
mà Thiên Chúa trao ban cho con người qua cái chết của Chúa Giêsu, cũng có nghĩa
là ơn tha thứ và ơn cứu độ. Cuộc sống mới ấy trao ban trả lại cho con người các
liên hệ quân bình với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình. Chương 5 sách
Giosuê nhắc cho dân Do Thái biết lời hứa cứu độ hiện thực qua biến cố Thiên
Chúa giải phóng họ khỏi kiếp sống nô lệ bên Ai Cập, đã dẫn đưa họ trở về Đất
Hứa. Cuộc sống khổ nhục buồn thương không tự do, không phẩm giá xưa kia không
còn nữa, giờ đây dân Do Thái bước vào đất Hứa và bắt đầu cuộc sống mới với các
buổi lễ vui, với công việc phụng tự, và các cơ cấu đánh dấu một khúc rẽ mới
trong lịch sử của họ. Lịch sử của một dân tộc luôn được Thiên Chúa yêu thương
che chở và mời gọi bước theo Ngài.
6. Thiên Chúa không ngừng tìm kiếm con
người
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Có một người đàn ông nọ khao khát đi tìm gặp gỡ Chúa. Ông
đi khắp nơi để thọ giáo những bậc thánh hiền, ông cặm cụi đọc sách, nghiền ngẫm
nhưng vẫn không tìm được Chúa. Ngày nọ, ông đến ngồi thơ thẩn bên một dòng sông
nhìn dòng nước trôi lững lờ, ông nhìn thấy một con vịt mẹ và một đàn con đang
bơi lội. Đàn vịt con tinh nghịch muốn rời mẹ để ra đi kiếm ăn riêng. Để tìm con
này đến con nọ, vịt mẹ phải lặn lội đi tìm đàn con mà không hề tỏ dấu giận dữ
hay thất vọng. Nhìn thấy cảnh vịt mẹ cứ mãi đi tìm con như thế, người đàn ông
mỉm cười và đứng dậy trở về quê hương. Ông chợt khám phá ra một chân lý và ông
thốt lên: Tôi đã đi tìm Chúa và cuối cùng tôi đã khám phá ra rằng chính Thiên
Chúa đang đi tìm tôi.
Con vịt mẹ không ngừng đi tìm kiếm con của mình, đó là
hình ảnh nói lên chính tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa không ngừng đi tìm
kiếm con người. Qua bài dụ ngôn "người con hoang đàng" quen thuộc mà
chúng ta có dịp lắng nghe trong Mùa Chay này, Chúa Giêsu cũng mạc khải cho
chúng ta tình yêu cao vời ấy của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng cho chúng
ta có tự do. Thiên Chúa muốn đối xử với chúng ta như một con người trưởng
thành. Đó là điều mà Chúa Giêsu muốn nói lên qua hình ảnh một người cha không
muốn khăng khăng giữ lấy đứa con, mà trái lại chia gia tài cho nó, để nó được
tự do sử dụng tất cả những gì thuộc về nó. Mà dẫu cho người con có lên đường đi
tạo lập một cuộc sống riêng tư, người cha vẫn không ngừng ngóng trông, theo dõi
và chờ đợi đứa con. Ông khắc khoải từng giây từng phút. Ngày ngày ông ra trước
ngõ để ngóng trông. Và khi người con vừa xuất hiện từ đằng xa, người cha đã
chạy đến ôm chầm lấy con và hôn lấy hôn để, rồi ông lại sai gia nhân mặc áo đẹp
cho cậu con, xỏ nhẫn, đeo giày cho cậu và mở tiệc ăn mừng. Có lẽ trong văn
chương nhân loại từ cổ chí kim chưa có một áng văn nào đẹp cho bằng hình ảnh
trên đây. Thiên Chúa yêu thương đến độ tìm kiếm, ngóng trông con người từng
giây từng phút, Thiên Chúa yêu thương đến độ sẵn sàng tha thứ tất cả lỗi phạm
của con người, để phục hồi nó hoàn toàn trong thân phận cao quý của một con
người.
Đó là tất cả Tin Mừng của Kitô giáo. Thánh Gioan đã tóm
tắt tất cả chân lý ấy bằng câu nói: "Thiên Chúa là tình yêu". Thiên
Chúa không mong gì hơn nơi con người, là con người nhận biết được tình yêu ấy.
Không gì xúc phạm đến Thiên Chúa cho bằng khi con người khước từ tình yêu của
Ngài. Chúa Giêsu đã kể câu chuyện dụ ngôn về người con hoang đàng trở về, nhưng
điểm nhắm của Người lại là người con cả, hiện thân của những người biệt phái.
Đây là hạng người tự cho mình là những kẻ yêu mến Chúa, tuân giữ các giới răn
của Ngài, nhưng kỳ thực họ lại tỏ ra lời phát biểu của người anh cả trong bài
dụ ngôn. Anh ta nói: "Đã bao năm con hầu hạ cha, không hề trái lệnh cha
một điều nào, vậy mà không bao giờ cha cho con riêng một con bê nhỏ để ăn mừng
với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi phung phí hết tài sản của cha
với bọn đàng điếm nay trở về, thì cha lại sai làm thịt bê béo ăn mừng nó".
Quả thật, những người biệt phái tuân giữ không sai chạy tất cả mọi luật lệ của
Chúa, nhưng họ chỉ tuân giữ lề luật trong tinh thần sợ sệt cứng ngắt và giả
hình, bởi vì họ không cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa. Và bởi vì không
cảm nhận được tha nhân là người anh em ruột thịt của mình. Khước từ Thiên Chúa,
con người cũng khước từ anh em của mình. Không cảm nhận được tình yêu của Thiên
Chúa, con người cũng không muốn san sẻ tình yêu với người anh em. Tin Mừng hôm
nay quả thực là một quảng diễn về hai giới răn cơ bản trong đạo của chúng ta đó
là: Mến Chúa Yêu Người. Người ta không thể mến Chúa mà không yêu tha nhân.
Mùa Chay qua bí tích hòa giải, Giáo Hội mời gọi chúng ta
cảm nhận một cách sâu sắc tình yêu vô bờ của Thiên Chúa. Thiên Chúa luôn dang
rộng cánh tay để ôm ấp, để vỗ về và tha thứ cho chúng ta. Và tình yêu vô bờ của
Người Cha ấy chờ đợi gì nơi chúng ta hơn là chúng ta biết nhìn ra nơi tha nhân,
người anh em của chúng ta, để chúng ta cũng yêu mến và tha thứ không ngừng.
Nguyện xin Đấng đã chết để mạc khải cho chúng ta bộ mặt
tình yêu của Chúa, giúp chúng ta biết đón nhận tình yêu ấy trong từng giây phút
của cuộc sống và san sẻ tình yêu ấy với mọi người anh em chúng ta.
7. Trở thành thụ tạo mới – Radio
Veritas Asia.
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa')
Ngày nay báo chí và các hãng du lịch ở Tây phương thường
đăng quảng cáo, không những các danh lam thắng cảnh nhưng cả những chương trình
hồi phục sức khỏe, giảm trọng lượng cơ thể, thể dục, tắm hơi nóng, tập Yoga,
hoặc theo các phương pháp đông phương. Các bài quảng cáo đó nói rằng: Sau một
vài tuần, các tham dự viên sẽ trở thành con người mới ăn ngon, ngủ kỹ hơn, hạnh
phúc và trẻ đẹp hơn, họ tìm lại được an bình nội tâm. Những địa điểm hoặc
chương trình phục hồi sức khỏe có lẽ là một điều tốt đối với một số người, cũng
có thể là đắt đỏ. Nhưng cũng có thể là làm cho người tham dự được trở thành một
con người mới, ít nhất là trong một thời gian.
Điều mà những địa điểm và chương trình phục hồi sức khỏe
đó có thể làm cho tâm lý và thể lý của con người như vừa nói, cũng có thể tương
ứng phần nào với điều mà Chúa có thể làm cho chúng ta, để trong việc thiêng
liêng, như thánh Phaolô đã nói với các tín hữu thành Côrintô trong đoạn sau đây:
"Anh em thân mến, nếu ai ở trong Đức Kitô thì người đó sẽ là một thụ tạo
mới. Những gì là cũ đã qua đi, nay đây tất cả mọi sự đã trở thành mới".
Câu nói này của thánh Phaolô có hai ý nghĩa.
Một đàng thánh Phaolô nói về trật tự cũ của nhân loại bắt
đầu từ tổ phụ Adong, đó là tội lỗi và xa lìa Thiên Chúa. Trật tự này đã qua đi
và được thay thế bằng trật tự mới, bắt đầu với Adong thứ hai là Chúa Giêsu
Kitô. Đây là trật tự của ơn thánh và hòa giải với Thiên Chúa, nhưng nay nhờ
công nghiệp của Chúa Kitô, nhân loại được hòa giải với Thiên Chúa và sống trong
ơn nghĩa của Chúa.
Ý nghĩa thứ hai trong câu nói của thánh Phaolô là ngài nói
về trật tự cũ và Do Thái giáo theo Cựu Ước, trật tự này cũng qua đi và được
thay thế bằng trật tự của niềm tin đối với Chúa Giêsu Kitô. Trong lịch sử Giáo
Hội không thiếu những cuộc trở lại ngoạn mục của nhiều người, từ tình trạng tội
lỗi ngập tràn trở thành thánh nhân như Augustinô. Tuy nhiên tất cả mọi tín hữu
đều được mời gọi trở thành thụ tạo mới hằng ngày trong Chúa Kitô dưới nhiều
hình thức. Trở thành thụ tạo mới có thể là biết tự chủ mình, không để cho sự
đam mê hướng dẫn hành động. Thụ tạo mới cũng có nghĩa là có một cái nhìn mới về
cuộc sống lạc quan hơn, ít than thân trách phận và bớt phê bình chỉ trích hơn,
can đảm sống liêm chính mặc dù những người xung quanh rơi vào cám dỗ muốn làm
giàu một cách dễ dàng bằng mọi phương thế, kể cả những phương thế không hợp với
luật Chúa, như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã cảnh giác các giáo hữu thuộc
tổng giáo phận Turinô (Nước Ý), trong cuộc viếng thăm mục vụ ngày lễ thánh
Giuse 19/03/1992. Trở thành thụ tạo mới trong Chúa Kitô có thể là kiến tạo
những mối quan hệ mới mẻ với tha nhân, thay thế xu hướng ích kỷ bằng sự quan
tâm đến những người khác và những nhu cầu của họ. Mùa Chay là mùa đổi mới con
người, là mùa xuân, trong đó Giáo Hội mời gọi các tín hữu ra khỏi mùa đông của
tâm hồn, để can đảm bắt đầu cuộc sống mới với chương trình sống cầu nguyện,
tiết độ và chia sẻ với tha nhân. Chương trình này sẽ đưa tới lễ Phục sinh để họ
có thể hát lên Alleluia.
8. Hai người con, hai cuộc trở về –
Radio Veritas Asia.
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa')
Hôm nay chúng ta đang ở vào thời điểm gần kề lễ Phục sinh.
Giáo Hội muốn cho con cái mình tìm thấy được niềm vui sống, được kinh nghiệm
hạnh phúc của một người được ơn tha thứ. Trên thực tế trong đời sống hằng ngày,
có bao giờ chúng ta sống được niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát
một hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và hiện đang sống trong một thực tế
an toàn và thanh thản chưa? Tôi biết có một người tưởng mình mắc bệnh nan y ung
thư đến thời trầm trọng chỉ còn chờ chết mà thôi. Đương sự buồn và người thân
cũng rất buồn, nhưng sau khi giải phẫu cầu may, bác sĩ lại bảo là không phải
ung thư, sẽ khỏi hẳn. Ai tả được sự vui mừng và hạnh phúc của người đó cũng như
của thân nhân họ? Riêng cá nhân tôi, tôi cũng có kinh nghiệm của những giờ phút
đó. Tôi xin được chia sẻ.
Đó là trong những năm vừa qua, thường trong giấc ngủ tôi
hay có những cơn ác mộng, là thấy mình sống trong một hoàn cảnh bị đủ mọi thứ
kìm kẹp hãi hùng, đến chừng giật mình hoàn hồn lại, nhận ra mình đang ở một
thời đại tiên tiến. Như thế thì phải hiểu sự thoải mái, khoan khoái nhẹ nhàng
đó còn lớn lao biết chừng nào. Khi con người thoát khỏi sự nguy hiểm đời đời là
tội lỗi để trở thành con cái Thiên Chúa, khi con người được từ bờ diệt vong đời
đời trở về sống trong ân sủng và tình yêu vĩnh cửu của Thiên Chúa. Hôm nay gần
đến lễ Phục sinh, phụng vụ mời gọi mọi người chúng ta trên con đường trở về
cùng Chúa, hãy có một kinh nghiệm của niềm vui đó, sự thanh thản đó, cùng chung
bối cảnh đó.
Bài đọc thứ nhất hôm nay cho chúng ta thấy sự vui mừng
hạnh phúc của dân Chúa, sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là được đặt
chân trên miền Đất Hứa. Không còn nữa những ngày nô lệ cực nhọc, nhục nhã, hãi
hùng. Không còn nữa những ngày lang thang trong sa mạc gian lao, nguy hiểm.
Thánh Phaolô, nơi bài đọc thứ hai cũng nhắc nhở chúng ta, những người có đức
tin hãy ý thức và hãy sống được cái kinh nghiệm thoát khỏi hãi hùng đến bến bờ
cứu độ bình an đó. Ngài nhắc nhở rằng: "Anh chị em thân mến, nếu ai ở
trong Đức Kitô thì người đó là một thụ tạo mới, những gì cũ đã qua đi
rồi". Nói chung, tất cả Lời Chúa hôm nay đều mời gọi chúng ta đổi mới, trở
về nhà Chúa để sống niềm vui gia đình và hạnh phúc trong tình cha con, anh chị
em với nhau. Rõ ràng nhất, cảm động nhất phải là lời mời gọi của Chúa Giêsu
trong bài Phúc Âm. Và chúng ta phải thấy rằng, muốn thực hiện cuộc trở về thật
sự để sống trong niềm vui trọn vẹn, hạnh phúc hoàn toàn, mỗi người phải thi
hành hai khía cạnh của một cuộc trở về. Đó là trở về cùng Chúa và trở về cùng
anh chị em của mình, cùng những người chung sống với mình.
Hai người con trong bài Phúc Âm là hình ảnh của hai cuộc
trở về đó. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn rõ hơn vào dụ ngôn nổi tiếng và tuyệt
vời này của Chúa Giêsu, để thấy chính tình yêu, sự tha thứ, sự tìm về lại với
nhau tạo niềm vui hạnh phúc cho con người. Trước tiên là tình yêu, tình yêu của
người cha đối với cả hai người con bao la vô tận. Với người con phung phá trở
về ông bảo: "Con ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy".
Với người con phân bì ghen ghét kia ông bảo: "Hỡi con, con luôn ở với cha,
mọi sự của cha đều là của con". Như thế trước sự phung phá hư thân của đứa
em, cũng như trước sự ganh tỵ bướng bỉnh của người anh, người cha không rầy la
trách móc chi cả, ông chỉ biết yêu thương, tha thứ để tạo lại niềm vui gia
đình.
Kế đó, sự trở về của đứa con phung phá hoang đàng là động
lực chính tạo ra niềm vui. Biết rằng dẫu anh trở về không vì thương cha, nhưng
vì không còn chịu đựng được nữa cảnh nghèo đói túng thiếu, anh lại nhớ đến sự
no đủ thoải mái ở nhà cha và nhất định đứng dậy trở về. Nhưng đối với lòng cha
bao nhiêu đó đủ rồi. Người cha không cần chi nữa, miễn con mình đầy đủ, hạnh
phúc vui tươi là được. Và niềm vui sum họp đó chỉ được trọn vẹn khi người con
cả biết sẵn sàng tha thứ. Thật ra, người con cả ở nhà với cha nhưng cũng chẳng
yêu thương gì cha anh. Nếu thương cha, anh phải cảm thấy lòng anh cùng một nhịp
đập với cha vui mừng đón em về, đừng để cha phải chạy ra năn nỉ. Có lẽ chúng ta
thắc mắc tại sao trong dụ ngôn, Chúa Giêsu không nói người con cả có chịu vào
nhà sum họp không, để người nghe thấy được niềm vui trong gia đình có trọn vẹn
hay không? Thật ra, giải đáp cuối cùng đó Chúa để cho những người biệt phái và
luật sĩ trả lời. Họ phàn nàn vì Chúa Giêsu tiếp đón những kẻ tội lỗi và không
bao giờ chịu vào ngồi chung bàn. Vậy tùy họ kết luận. Nếu họ tha thứ và vào, đó
là người con cả vào nhà; nếu họ cứ tiếp tục phàn nàn: "Ông này tiếp đón kẻ
tội lỗi" tức là anh ta vẫn ganh tỵ và bướng bỉnh, nhất định đứng ngoài
cuộc.
Trong Mùa Chay, để chuẩn bị sống lại với Chúa và hưởng
hạnh phúc niềm vui mà phụng vụ hôm nay mong muốn chúng ta phải có được, mỗi
người chúng ta phải trở về nhà cha. Muốn được một đời sống sung túc, chúng ta
phải cày sâu cuốc bẩm, vất vả suốt ngày mới có; thì đời sống thiêng liêng vô
cùng quí giá, không thể ngồi không mong hưởng được. Dầu đồng hóa mình với người
con thứ nhất hay người con thứ hai, tất cả chúng ta hãy cùng bước chân vào nhà
để chúc tụng lòng thương xót muôn đời của Chúa, và tận hưởng niềm vui, sự an
bình, quên đi những ngày buồn sầu đói khổ, nguy hiểm, hận thù, ganh ghét đã
qua.
9. Biết dứt khoát đứng dậy và trở về.
(Trích trong 'Suy Niệm Lời Chúa' – Radio Veritas Asia)
Chúa nhật IV Mùa Chay mời gọi chúng ta cảm nhận được và
nhất là sống được trong niềm vui, niềm hạnh phúc của một người vừa thoát một
hoạn nạn, một đau buồn, một cơn ác mộng và đang sống trong một thực tế an toàn
và thanh thản. Có bao giờ chúng ta cảm được kinh nghiệm đó chưa? Đó là kinh
nghiệm của một người tưởng mình mắc bệnh nan y đang chờ chết, nhưng sau khi đi
khám bác sĩ bảo không có gì đáng ngại, sẽ khỏi. Đó là kinh nghiệm của hai vợ
chồng cắn đắng nhau, gây gỗ nhau tưởng đã đi đến chỗ đỗ vỡ, nhưng sau đó tìm
lại được sự tha thứ, sự giải hòa và ôm nhau trong nước mắt. Đó là kinh nghiệm
của người vừa an toàn thoát khỏi một tai nạn kinh hoàng, trong những trường hợp
đó, chúng ta sẽ thấy thấm thía khi hát lên thánh vịnh 124: "Hồn tôi như cánh
chim đã vượt thoát bẫy của người đánh chim, bẫy đã tan tành muôn mảnh, còn
chúng tôi, chúng tôi đã thoát".
Bài đọc thứ nhất trích từ sách Giosuê kể lại sự vui mừng
hạnh phúc của dân Do Thái sau khi thoát khỏi nô lệ Ai Cập và nhất là sau khi
đặt chân đến miền Đất Hứa. Không còn nữa những ngày lang thang sa mạc gian lao,
nguy hiểm. Dân Chúa đã về đến quê hương Chúa đã hứa ban cho Abraham làm gia
nghiệp, nơi đó tổ tiên của họ là Abraham, Isaác, Giacóp đã sống. Họ đã xây dựng
lại, đã khai khẩn đất đai làm mùa và nhất là đã bắt đầu tiêu dùng những thổ sản
quê hương, từ ruộng đất và lao công của họ. Vui hưởng ân lành của Chúa cảm thấy
hạnh phúc tràn trề. Trong tình yêu thương săn sóc của Chúa, họ đã hát lên thánh
vịnh 33 dùng làm đáp ca "Hãy nhìn về Chúa để các bạn vui tươi và các bạn
khỏi hổ ngươi bẻ mặt. Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe và Người đã cứu
họ khỏi mọi điều tai nạn".
Nơi bài đọc thứ hai thánh Phaolô đã nhắc cho tín hữu thành
Côrintô một hạnh phúc to lớn, không hạnh phúc, không niềm vui nào có thể so
sánh được. Đó là hạnh phúc của con người trở thành tạo vật mới, trở thành con
Chúa trong Chúa Giêsu Kitô. Công cuộc trở thành tạo vật mới đó được thực hiện
nhờ sự giao hòa lại cùng Thiên Chúa. Tội lỗi làm cho con người sống xa Chúa,
cắt đứt mọi liên lạc cùng Chúa, cuộc đời bị mất hướng, đời sống trở thành vô
nghĩa, nhất là nguy hiểm diệt vong đang chờ đón. Nhưng may mắn cho nhân loại,
cho chúng ta, thánh Phaolô bảo: "Vì Chúa Kitô, chúng tôi van nài anh chị
em hãy giao hòa lại với Thiên Chúa, Đấng không hề biết tội thì Thiên Chúa làm
cho nên thân tội vì chúng ta, để trong Ngài, chúng ta trở nên công chính trước
Thiên Chúa".
Không còn niềm vui nào bằng, từ tội lỗi trở thành công
chính, từ nô lệ sự dữ trở thành con Thiên Chúa, từ đứng bên bờ diệt vong trở thành
sống đời đời, trong ân sủng và tình thương. Niềm vui được cứu thoát nô lệ Ai
Cập về Đất Hứa của dân Do Thái trong sách Giosuê, nơi bài đọc thứ nhất không
thể nào so sánh được với niềm vui to lớn của con người từ nô lệ tội lỗi trở về
làm con cái Thiên Chúa.
Đến bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đưa ra một thí dụ tuyệt vời,
rõ ràng dễ hiểu và nổi tiếng, ai cũng biết cả. Để an ủi để khích lệ người tội
lỗi hãy biết suy nghĩ, hãy biết dứt khoát đứng dậy và mạnh dạn tuyên bố:
"Tôi muốn ra đi trở về với Cha tôi", Chúa Giêsu đưa ra hai người con
tiêu biểu cho hai cuộc trở về. Người con phung phá trở về trong tình yêu của
cha mình, của mái ấm gia đình. Người con cả cần phải trở về trong tình anh em,
phải biết tha thứ cho em mình, phải biết hòa nhập vào niềm vui của gia đình. Sự
trở về trong tình anh em này cũng có một tầm quan trọng giống như sự trở về
cùng tình cha con. Người con cả dầu tự hào là luôn sống trung thành với Cha,
nhưng nếu khước từ tình anh em, thì anh vẫn là người ngoài cuộc không vào nhà
và không cùng chung hưởng hạnh phúc niềm vui của gia đình. Nếu anh không vào
chính là tự ý anh không vào. Người cha vẫn luôn mở rộng cửa nhà, mở rộng vòng
tay, mở rộng cõi lòng năn nỉ anh.
Vậy niềm vui thật của cuộc trở về trong tình yêu thương
của Chúa phải có hai chiều kích, trở về cùng Thiên Chúa là Cha và trở về cùng
anh chị em của mình, chính là tha thứ, làm hòa lại với nhau, giải tỏa những hận
thù và sống trong tình yêu thương. Đó là niềm vui thật, niềm vui mà ca nhập lễ
kêu mời "Mừng vui lên hỡi Giêrusalem, tề tựu cả về đây hỡi những ai hằng
mến yêu thành. Các bạn đang sầu khổ, nào hớn hở vui mừng hân hoan tận hưởng
niềm an ủi chứa chan".
Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi noi gương người
em trong gia đình nơi bài dụ ngôn của Chúa Giêsu. Tôi phải làm một hành động
chứng tỏ tôi nhất định đứng dậy lên đường trở về nhà cha tôi, để sống lại trong
hạnh phúc của tình yêu thương nồng thắm của Người. Hành động đó có thể là một
sự dốc lòng từ bỏ một tật xấu đã từng làm tôi đau buồn, đã kéo ghì tôi trong
tội lỗi hay đã làm cho những người thân yêu trong gia đình tôi phải khổ. Và kế
đó học lấy bài học của người anh: Tôi không đứng để cho Cha tôi phải năn nỉ.
Tôi hãy biết tha thứ cho người khác, hãy hòa mình vào niềm vui của gia đình,
nhất là chia sẻ niềm vui của Thiên Chúa là Cha tôi khi một người anh chị em tôi
trở về nhà Cha.
10. Cha nhân lành vòng tay rộng mở -
Achille Degeest
Trả lời những câu nói xa nói gần ác ý của những người Biệt
phái, Đức Giêsu nêu ra những dụ ngôn đẹp lạ lùng về lòng từ ái, nhất là dụ ngôn
đứa con phá gia. Biệt phái và Ký lục là những kẻ có "môn bài" giải
thích Lề Luật, tự cho quyền xét đoán kẻ khác về phạm vi Lề Luật. Họ rất bất
bình thấy Chúa nói chuyện, hơn nữa, tỏ ra thân mật với những kẻ tội lỗi. Chúa
công khai ghét sự tội vô cùng, lên án sự tội dù nó mai phục trong những chốn
hiểm hóc nhất là tâm và trí con người. Vậy mà Chúa lại dễ tính để người ta gọi
Người là bạn của những kẻ thu thuế và những kẻ tội lỗi. Thật ra Chúa có làm bạn
với hạng người ấy, vì bản thân Chúa hoàn toàn trong sạch cho nên Chúa có thể
thương yêu trong sự thật hạng người tội lỗi. Bài dụ ngôn được thánh chép sử
thuật lại theo một mạch lạc trong sáng, chẳng cần giải thích thêm. Chúng ta
nhặt ra mấy đoạn có giá trị gợi cảm.
1) Hồi tâm lại, nó tự nhủ...
Anh thanh niên khinh bạc và ích kỷ nhận ra hơi muộn, nhưng
không quá muộn, là những hành vi của anh đưa đến những hệ luỵ. Trước đây anh
không muốn nghĩ đến điều đó, nhưng bây giờ những hệ luỵ tai hại xiết chặt lấy
anh. Anh nhận thấy, hưởng thụ bằng cách chỉ vung tiền mà không lao động tiết
kiệm tất đưa đến khốn khổ. Tuy nhiên còn có điểm đáng khen là anh không tuyệt
vọng về cha anh. Nguyên tắc hồi tâm trở lại là không được tuyệt vọng về Thiên
Chúa. Hơn nữa trong thâm tâm phải nhìn nhận mình bất xứng và chỉ trông cậy vào
tình yêu của Cha.
2) Người con cả liền nổi giận và không thèm vào nhà...
Trên bình diện con người, phản ứng như người anh cả rất dễ
hiểu. Nhưng Đức Giêsu dạy rằng trong Nước Trời, phản ứng như vậy không được.
Những kẻ lành ăn ở ngay thẳng là đúng bổn phận, phải quyết chí trung kiên trong
kinh nguyện và cố gắng đạo đức. Tuy nhiên họ không có quyền đặt một giới hạn
cho lòng từ bi của Thiên Chúa. Hơn nữa, phải độ lượng theo lượng cả khoan dung
của Người. Giả sử Thiên Chúa vui mừng thấy một đứa con hư trở về nhà Cha, thì
những kẻ xưa nay vẫn hiếu thảo được mời gọi chung vui đón mừng kẻ sám hối.
3) Truyền thống Kitô giáo từ xưa đã cảm thấy điểm trung
tâm của dụ ngôn này là lòng độ lượng của Cha.
Tất nhiên, điều cần thiết tuyệt đối phải có, là kẻ tội lỗi
phải ăn năn hối hận. Dẫu sao, thực tại trước hết là Thiên Chúa dành cho kẻ có
tội một sự quan tâm âu yếm thương xót. Đứa con hư khỏi mất công gõ cửa vì cửa
mở sẵn chờ ý. Người cha chạy vội ra xa đón chờ con. Tới đây chúng ta thấy Thiên
Chúa nhân lành không biết đến những hạn chế con người đặt cho sự tử tế của
mình, những hạn chế có tên là tự ái, tự trọng, công bằng, v.v... Điều chắc là
Thiên Chúa cầm cân nảy mực, duy trì trật tự trong mọi sự mọi việc, và chẳng
thấy chỗ nào trong Phúc Âm nói rằng đứa con lãng tử khỏi phải tạ tội, khỏi phải
làm điều gì để hàn gắn thiệt hại y đã gây ra cho gia đình –nhưng một vòng tay
rộng mở chờ y.
11. Trở về trong tình thương.
Có một chàng thanh niên chán sống nơi thôn dã, đã bỏ nhà
trốn lên thành thị. Ở đó, chàng đã ăn chơi, trác táng... Kiếp sống sa đoạ đã
đưa chàng đến chỗ thân tàn ma dại. Trong nỗi cùng cực, chàng bắt đầu hồi tâm và
nhớ lại nếp sống ấm êm trong gia đình.
Chàng quyết định trở về. Nhưng trên đường về, nghĩ mình
quá bất xứng, không biết cha mẹ có tha thứ không, nên chàng đã rẽ lối đi nơi
khác. Ở đó, chàng viết thư về cho cha mẹ và thú nhận tội lỗi. Chàng cũng ngỏ ý:
nếu cha mẹ bằng lòng thì hãy lấy chiếc áo bông treo trước cửa nhà.
Mẹ chàng đã làm gì? Bà không những treo một cái áo bông mà
lấy tất cả các áo trong nhà ra treo kín cả bờ dậu trước ngõ như một rừng cờ đón
rước con trở về.
Thưa anh chị em, Thiên Chúa cũng đối xử với chúng ta như
thế. Phiêu lưu trong tội lỗi, chúng ta chỉ cảm thấy chán chường thất vọng.
Nhưng Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về chúng ta. Ngài chờ đợi chúng ta
từng giây phút. Tình yêu của Ngài vượt lên trên mọi tính toán, đo lường của
chúng ta. Ngài thi ân cho chúng ta hơn cả sự mong đợi và cầu xin của chúng ta.
Người con hoang đàng trong Tin Mừng chỉ xin được đối xử như một người làm công
trong nhà, nhưng người cha đã phục hồi anh trong tước vị làm con. Ông đã xỏ
nhẫn cho anh, mặc áo mới cho anh, và sai đầy tớ mở tiệc ăn mừng.
Phải, Thiên Chúa yêu thương và tha thứ hơn cả sự chờ mong
của chúng ta. Chính lòng thương xót của Ngài đã cứu người con. Người con ôm gia
tài của cha ra đi mang theo bao nhiêu ước mơ của tuổi trẻ: tự do, tình yêu,
hạnh phúc... Nhưng rồi tất cả chỉ là ảo tưởng. Ước mơ hạnh phúc không thành.
Cuối cùng chỉ còn là bụng đói, xác xơ, đau khổ và tủi nhục.
Điều gì đã đưa chàng thanh niên đến quyết định trở về?
Phải chăng đau khổ, thất bại, vỡ mộng, bế tắc? – Không, nếu chỉ có vậy thôi, có
lẽ không đủ lý do để anh dám mang mặt trở về. Bởi đã có biết bao người rơi vào
tình cảnh túng quẫn như anh, đã không dám trở về. Họ đã buông xuôi, tuyệt vọng
và đã giải quyết bằng cách tự tử. Phải có một cái gì khác trở thành động lực
thúc đẩy anh trở về. Cái gì khác đó chính là tình yêu của người cha. Phải, nếu
không tin vào tình yêu của người cha, chắc chắn anh sẽ không dám quay đầu trở
về. Nhưng anh vẫn tin tưởng vào lòng yêu thương tha thứ của cha anh. Chính niềm
tin vào lòng yêu thương của người cha đã đem lại tia sáng hy vọng, đã nâng anh
đứng dậy, đã mở đường tạo lối thoát cho anh để trở về cùng cha.
Tội lỗi đưa đến chỗ bế tắc, đường cùng. Con người tự tách
mình khỏi tình yêu của Thiên Chúa là đi vào chỗ chế, là "mất đi".
Tình yêu Thiên Chúa đã mở lối thoát, đã cảm hoá con người tội lỗi. Nếu không có
tình yêu, không có ý thức tội lỗi, thì chỉ có mặc cảm tội lỗi mà thôi. Không
phải nước mắt đổi mới tâm hồn con người mà chính là tình yêu của Thiên Chúa đổi
mới tâm hồn con người sám hối. Nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, nếu không
tin mình được Thiên Chúa yêu thương, con người sẽ không tìm được con đường trở
về. Phải tin mình luôn được Thiên Chúa yêu thương, phải tin rằng mình luôn có
một chỗ rất đặc biệt trong trái tim Chúa, dù có bỏ ra đi, chỗ ấy vẫn không mất,
chỗ ấy vẫn còn để trống, để chỉ dành riêng cho ta.
Tấm lòng của người cha thật nhân hậu, tốt lành. Người con
chỉ mong có được một chỗ ngủ, một bát cơm ăn, một tấm áo mặc. Nhưng cha anh đã
quảng đại vô biên, đã đón nhận người con với niềm vui rộn rã: mặc áo mới cho
con, mang giầy dép cho con, rồi mở tiệc ăn mừng.
Tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của chúng ta. Tình
yêu của Ngài vượt quá mơ ước của chúng ta: "Nếu lòng chúng ta có cáo tội
chúng ta, thì Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Ngài biết hết mọi
sự" (Rm 5,20).
Trở về là gặp lại niềm vui xum họp. Trở về là "tìm
lại được", là "sống lại". Tìm lại được sự sống, đó là ý nghĩa đích
thực của việc hoán cải và cũng là lý do của niềm vui sâu xa nơi người cha.
Người cha vui mừng mở tiệc không phải vì từ nay đứa con trở về sẽ giúp cho ông
việc nầy sẽ làm cho ông việc nọ, mà chỉ vì từ nay anh sẽ được sống và được sống
hạnh phúc dồi dào. Thật là một niềm vui hoàn toàn vị tha và rộng mở của người
cha bao dung, nhân hậu.
Trong khi người cha tràn đầy niềm vui đón nhận sự trở về
của người con với tất cả sự bao dung rộng mở: "Em con đã chết, nay lại
sống" thì lòng người anh lại đầy tị hiềm và từ chối chia sẻ niềm vui của
người cha: "cái thằng con của cha kia..."
Con của cha chứ không phải em của con. Anh tự loại mình ra
khỏi gia đình. Anh kể công với cha anh như một người làm thuê, như một người
tôi tớ, chớ không phải như một người con hiếu thảo: "Bao nhiêu năm qua con
đã hầu hạ cha, chẳng hề trái lệnh cha, thế mà...". Dù không bỏ cha, cũng
chẳng bỏ nhà ra đi như người em, nhưng rõ ràng anh không phải là đứa con sống
hạnh phúc bên cạnh cha mình. Anh vẫn gần mặt mà chẳng gần lòng.
Thưa anh chị em, chúng ta là những người con bướng bỉnh,
những người con bụi đời, những người con ích kỷ của người cha nhân hậu. Người
cha ấy đã đón nhận chúng ta trở về, không phải một lần, dăm ba lần, mà rất
nhiều lần. Thiên Chúa là người cha luôn tha thứ cho chúng ta và đem chúng ta về
với Ngài. Thế nhưng tại sao chúng ta lại cứ muốn trốn khỏi người Cha đầy lòng
khoan dung, nhân hậu? Sao chúng ta cứ muốn tách rời khỏi tình yêu của Thiên
Chúa khi chúng ta biết rằng Thiên Chúa vẫn luôn chờ đợi chúng ta trở về để tha
thứ, để vui mừng, tiếp đón? Lòng nhân hậu Chúa vô biên, chúng ta đừng bao giờ
quên điều ấy. Nếu chúng ta nhớ Thiên Chúa nhân lành vô cùng,chúng ta sẽ không
chống đối Ngài, chúng ta sẽ cố gắng làm vui lòng Ngài.
Hôm nay tôi xin đề nghị: Hãy tỏ lòng biết ơn Chúa vì đã
được tha thứ bằng cách ở lại trong tình yêu của Cha trên trời. Nếu chúng ta lỡ
xa cách Chúa, hãy mau trở về với Ngài. Hãy cầu nguyện cho mình và anh chị em
khám phá ra tình yêu của Chúa ngay giữa cuộc sống. Bắt gặp được tình yêu Thiên
Chúa như Phêrô bắt gặp tia mắt của Chúa Giêsu khi chúng ta sa ngã. Chính tình
yêu của Chúa mới cứu được chúng ta.
Thánh lễ thực hiện điều đó: ngay tại đây, trong lúc này,
chúng ta, những người con đang gặp lại người Cha đầy lòng yêu thương tha thứ.
Hãy tạo cho Ngài niềm vui xum họp và cùng chung vui với Ngài và với anh em một
nhà.
12. Người con hoang đàng - McCarthy
Suy Niệm 1. THIÊN CHÚA ĐỐI VỚI NGƯỜI HỐI CẢI
Gandhi kể lại lúc lên 15 tuổi, ông đã lấy cắp vài đồng
tiền vàng từ người anh của ông. Tuy nhiên, ông cảm thấy hành động đó thật xấu
xa, đến nỗi ông quyết định tự thú với cha của ông. Ông viết tội của mình lên
một tờ giấy, cầu xin được tha thứ và chịu bị phạt, và hứa sẽ không bao giờ tái
phạm nữa.
Lúc cha ông còn nằm liệt giường, Gandhi đưa tận tay cho
ông cụ tờ giấy đó, rồi ngồi ở bên cạnh giường chờ đợi bị xét xử. Cha ông nằm ở
trên giường, và bắt đầu đọc tờ thú tội. Trong khi đọc, những giọt nước mắt cứ
chảy xuống chan hoà từ đôi mắt ông. Gandhi cũng khóc. Thay vì tức giận và trừng
phạt ông, người cha đã ôm lấy đứa con trai đã biết hối cải.
Cảm nghiệm rằng mình vẫn được yêu thương trong khi đang có
tội đã có tác dụng sâu xa đối với Gandhi. Sau này, ông nói: "Chỉ người nào
đã trải qua kinh nghiệm về tình yêu này, mới có thể nhận biết được tình yêu là
gì".
Đây là loại tình yêu mà người con thứ đã cảm nhận được,
khi anh trở về nhà. Không có gì thắc mắc về việc anh ta đã cư xử tồi tệ. Tuy
nhiên, khi anh quay trở về, thì điều gì đã xảy ra? Cha anh không chỉ chấp nhận
cho anh trở về, mà còn đón tiếp anh nữa. Và đó không phải là sự đón tiếp hằn
học hoặc nửa vời, mà là sự đón tiếp nồng ấm, với tất cả tâm tình, và đầy sự
rộng lượng.
Trong sự tiếp đón mà người con thứ đã nhận được, Đức Giêsu
cho chúng ta thấy thái độ của Thiên Chúa đối với các tội nhân. Nếu chúng ta là
tội nhân –và ai trong chúng ta không phải là tội nhân?- thì Thiên Chúa vẫn yêu
thương chúng ta, không phải là ít đi, mà càng yêu thương nhiều hơn nữa. Điều
này không làm cho chúng ta sống tốt đẹp hơn, để được yêu thương vì mình là
người hoàn hảo. Chúng ta cần được đón nhận và yêu thương thực sự, ngay khi
chúng ta còn là tội nhân.
Thái độ của người anh cả đối với người em trai phản ánh
lại thái độ của người Pharisêu đối với các tội nhân. Mặc dù là những người rất
đạo đức, nhưng họ vẫn cho rằng người tội lỗi xứng đáng bị kết án hơn là cứu độ.
Nhưng lòng đạo đức có công dụng gì, nếu nó không làm cho người ta trở nên
thương cảm hơn đối với những kẻ bị sa ngã? Nếu chúng ta tự nhận thấy mình thông
cảm với người anh cả, thì điều này càng chứng tỏ rằng tính cách người Pharisêu
đang ở trong chúng ta.
Theo phạm vi rộng lớn hơn hoặc hạn hẹp hơn tất cả chúng ta
chưa đáng xách giầy cho người con thứ. Bởi ai trong chúng ta có thể nói rằng
mình luôn luôn trung thành? Phải chăng tất cả chúng ta đều đã từng lãng phí và
sử dụng ân sủng của Thiên Chúa? Ai trong chúng ta thích được Thiên Chúa đối xử
theo lẽ công bằng nghiêm khắc? Phải chăng tất cả chúng ta đều cần đến lòng
thương xót hơn là lẽ công bằng?
Chính ở trong và thông qua tội lỗi của mình, mà chúng ta
cảm nhận được lòng từ ái và tình thương xót của Đức Kitô. Nếu không bao giờ
phạm tội, thì chúng ta sẽ không bao giờ nhận biết được ơn tha thứ của Người.
Đây không phải là lời biện hộ cho tội lỗi. Nhưng thật là điều tốt đẹp, khi
chúng ta nhận biết được cách Thiên Chúa đón nhận các tội nhân. Các thánh là
chứng nhân cho ân sủng và sự trung tín của Thiên Chúa. Các tội nhân là chứng
nhân cho tình yêu thương và lòng thương xót của Người.
"Khi một người cha cứ than thở rằng con trai của ông
đã đi theo con đường xấu xa, thì ông nên làm gì? Hãy yêu thương anh ta nhiều
hơn nữa" (Baal Shem Tov)
Suy Niệm 2. SỰ BỘC LỘ TÂM HỒN
Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn của Đức Giêsu từ quan điểm
của tâm hồn.
Một người cha có hai người con trai. Mặc dù người con cả
vâng phục và chu toàn bổn phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta
là một con người lạnh lùng. Trái lại, người con thứ nồng nàn và nhiều tình cảm.
Tuy nhiên, trong con người anh ta, lại có tính cách hoang đàng và vô trách
nhiệm. Anh ta cứ nhất quyết làm theo ý riêng của mình, bất chấp người nào khác
có thể suy nghĩ ra sao. Một ngày kia, anh ta đã ích kỷ đòi được chia phần gia
tài thừa kế, và sau khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi phương xa.
Tại đó, anh ta đã sống buông thả một cách ngu xuẩn và bất
chấp mọi sự, cho những thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi
tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình không còn bạn bè hoặc người nào
giúp đỡ.
Đột nhiên, anh cảm thấy trống rỗng trong tâm hồn. Thế rồi
sau khi đã nhận ra những việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm
ghét bản thân mình. Tuy nhiên, nỗi đau của bản thân đã giúp cho anh nhận ra
được nỗi đau mà anh gây ra cho những người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng
của cha mẹ anh.
Thế là anh quyết định quay trở về nhà. Anh ra đi với đôi
bàn tay trống rỗng. Thứ duy nhất anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn và
hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá lo âu, người cha không bao
giờ rời khỏi nhà, bởi vì ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng của
mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới hoàn hồn. Và cuối cùng,
hai cha con đã ôm chầm lấy nhau.
Nhưng sau đó, một điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến
gặp anh cả, người em chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn nhận
biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn người anh cả. Thay vì vui
mừng khi thấy người em trai của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người anh
cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta đã tìm cách chiếm được tình cảm
của người cha thông qua bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn,
dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn người của người cha, bởi vì
nếu đã đi vào đó được rồi, thì tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng
thay vì được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn cứ nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh
lẽo và không muốn đón tiếp ai.
Câu chuyện về đứa con hoang đàng là một câu chuyện về tâm
hồn: tâm hồn ích kỷ và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn cởi mở,
tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nạn, tâm hồn tan nát và tâm hồn vui mừng. Tâm
hồn không biết hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết tha thứ và
tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và tâm hồn biết ơn.
Câu chuyện này mặc khải cho chúng ta quá nhiều về tính
cách thất thường của tâm hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự
rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người ta có thể tóm tắt điều gì về
tâm hồn? Tâm hồn là cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con người
thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là đêm đen tối nhất so với tất cả. Sự
trống rỗng của tâm hồn là sự nghèo nàn nhất so với tất cả. Một tâm hồn nặng
trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm hồn tan nát chính là vết thương sâu
xa nhất.
Nhưng dụ ngôn trên bộc lộ tính cách kiên định nơi tâm hồn
của Thiên Chúa nhiều đến thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa không toả ra sức nóng
và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao giờ khép lòng lại với bất cứ người con nào
của Người. Bất chấp họ có thể rời bỏ mái nhà để đi xa đến đâu, bất chấp họ làm
gì, nếu họ quay trở về, điều duy nhất mà họ có thể tin chắc, đó là sự đón nhận
nồng ấm và rộng lượng.
13. Người con trai đi hoang
Dụ ngôn "Người con trai đi hoang" này thật quý
báu, chỉ được một mình Luca ghi lại, vì nó đặc biệt phù hợp với mục đích và
tinh thần của sách Tin Mừng này. Không phải là không có lý do khi người ta gọi
truyện này là truyện ngắn vĩ đại nhất thế giới, vì trong đó thể hiện tất cả
những gì như văn chương hoa mỹ, nhân tính sâu đậm, cảm tình rộng lớn, bức tranh
toàn bích về ân điển và tình yêu của Thiên Chúa.
Theo luật của người Do Thái, người cho không được tự do
phân chia tài sản mình tuỳ ý thích, đứa con cả đương nhiên được hai phần ba,
đứa con thứ một phần ba (Đnl 21,1). Không phải là việc lạ khi một ông cha phân
chia gia tài ngay khi còn sống nếu ông ta muốn được nghỉ ngơi khỏi hoạt động
kinh doanh. Nhưng có một sự vô tâm tráo trở nơi đứa con thứ khi nó đề xuất việc
chia gia tài này. Thực ra nói đã nói "cha hãy cho tôi ngay bây giờ phần
gia tài mà trước sau gì tôi cũng được lãnh khi cha chết, và hãy để tôi ra khỏi
nơi này". Người cha không tranh luận gì, ông hiểu rằng nếu con ông cần
được một bài học thì nó phải có một bài học đắt giá, và ông đã cho nó như ý nó
xin. Tức khắc đứa con lấy phần riêng của nó và bỏ nhà ra đi...
Hắn nhanh chóng tiêu xài hết tiền và kết thúc bằng việc
chăn heo, một công việc cấm kỵ đối với người Do Thái vì luật pháp nói:
"Đáng nguyền rủa kẻ nào chăn heo". Và Chúa Giêsu cho nhân loại tội
lỗi một lời khen lớn nhất chưa từng có: "Khi nó trở về với chính mình
(tỉnh ngộ). Chúa Giêsu tin là bao lâu con người còn xa cách và chống nghịch
Thiên Chúa, thì con người không thực sự là con người. Con người chỉ thực sự là
chính mình khi con người đang đi con đường về nhà. Có một điều kỳ diệu nơi Chúa
Giêsu là Ngài không tin rằng con người hư hỏng hoàn toàn. Ngài không bao giờ
tin rằng ai đó có thể tôn vinh Thiên Chúa bằng cách phỉ báng con người. Ngài
tin rằng con người không bao giờ được thực sự là mình cho đến khi nào con người
trở về nhà với Thiên Chúa. Cho nên đứa con đã nhất định trở về nhà và xin cha
nhận lại mình không phải để làm con, nhưng làm một tên nô lệ mạt hạng trong
nhà, một tên đầy tớ ở thuê, một tên lao động công nhật trong nhà cha. Theo một
nghĩa thì người nô lệ là một phần tử của gia đình, nhưng tên đầy tớ ở thuê thì
có thể bị đuổi sau khi chủ báo trước một ngày vì nó không thuộc về gia đình
chút nào. Vậy khi đứa con đã về nhà, cha chàng không để chàng kịp mở miệng xin
làm đầy tớ. Ông đã lên tiếng trước. Chiếc áo dài tượng trưng cho việc được tôn
trọng, chiếc nhẫn tượng trưng cho quyền bính, vì nếu ai cho kẻ khác chiếc nhẫn
ấn tín của mình thì cũng như uỷ quyền cho người đó thay thế mình; đôi giày là
dấu hiệu làm con khác với nô lệ vì con cái trong gia đình mới mang giày, còn nô
lệ thì không. Và một yến tiệc được bày ra để mọi người ăn mừng đứa con đi hoang
trở về nhà.
Chúng ta dừng lại đây để thử nhìn xem chân lý trong dụ
ngôn này:
1. Một hình ảnh đầy đủ về tính chất và hậu quả của tội
lỗi.
Tội lỗi thường do sự lựa chọn tự ý và do lòng muốn hưởng
lạc của con người. Kết quả là tội nhân thấy ảo ảnh của nó: nỗi khổ, ách nô lệ,
niềm thất vọng; về phương diện hậu quả ta không thể thêm gì vào cái cảnh người
con trai ở xứ xa, sau khi tiêu xài nhẵn túi, nạn đói kém đến, chàng ta bán thân
đi giữ heo, phải ăn cả những món khó nuốt dùng cho heo ăn mà cũng chẳng được
no.
2. Nhưng dụ ngôn này phải gọi là dụ ngôn Người Cha Nhân
Lành mới đúng, vì nó cho ta biết vê tình yêu của người cha hơn là về tội của
người con.
Người cha hẳn đã mỏi mắt trông chờ đứa con trở về nhà, vì
ông trông thấy con từ đàng xa. Khi con gặp cha thì cha liền tha thứ cho con và
không một lời trách móc. Có nhiều cách tha thứ, có sự tha thứ được ban cho như
một ân huệ, và tệ hơn nữa là khi một kẻ nào đó được tha thứ nhưng bao giờ cũng
kèm theo một dấu hiệu, một lời nói, một ngăm đe rằng tội kẻ ấy vẫn còn giữ đó.
Một lần kia, Lincoln được hỏi ông sẽ đối xứ thế nào với quân phiến loạn miền
Nam, khi họ thua trận và trở lại liên hiệp với Hoa Kỳ. Người hỏi câu ấy nghĩ
rằng ông sẽ báo thù họ ghê gớm, nhưng Lincoln trả lời: "Tôi sẽ đối xử với
họ như chưa bao giờ họ ly khai với chúng ta".
"Khi được yêu bằng thứ tình yêu này, thì kẻ là đối
tượng của lòng nhân từ sẽ không cảm thấy bị hạ nhục, nhưng như thể được tìm
thấy lại và "thêm giá trị". Trước hết người cha tỏ bày cho đứa con
niềm vui của ông vì nó đã được "tìm thấy lại" và "sống
lại". Niềm vui này cho thấy rằng một sự thiện vẫn được giữ gìn nguyên vẹn:
một đứa con, dù đi hoang, vẫn thực sự là con của cha nó. Hơn nữa niềm vui này
là dấu chỉ của một sự thiện đã tìm thấy lại, trong trường hợp của đứa con hoang
đàng, đây là việc trở lại với sự thật của chính nó". (ĐTC Gioan Phaolô II,
DM6).
Nhưng câu truyện đến đây vẫn chưa chấm dứt. Người anh cả
bước về và anh thực sự buồn rầu vì em của anh đã trở về. Người anh cả đại diện
cho các đạo sĩ Do Thái tự kiêu, tự mãn, họ thà xem thấy tội nhân bị tiêu diệt
hơn là được cứu. Có mấy điều nổi bật nơi người anh cả.
1. Tất cả thái độ của anh chứng tỏ rằng bao nhiêu năm anh
vâng lời cha chẳng qua chỉ là bổn phận buồn rầu, chứ không phải là công việc
của tình yêu.
2. Thái độ của anh là thái độ thiếu hẳn sự cảm thông. Anh
nói về người em nhưng không dùng tiếng "em tôi" mà dùng chữ
"thằng con của cha". Chàng là thứ người tự tôn, sẵn sàng đạp kẻ nào
đã ngã xuống rãnh bùn hôi thối càng ngã sâu hơn nữa.
3. Tâm địa của chàng rất dơ bẩn. Câu truyện không nói tới
gái điếm cho đến khi chính miệng chàng nói ra. Hẳn chàng đã nghi ngờ, tố cáo em
chàng về thứ tội chính chàng rất muốn làm. Dụ ngôn này trình bày khuôn mặt
người anh cả từ chối dự tiệc. Anh ta trách em và những lầm lạc của nó, và trách
cha mình về việc đón tiếp mà ông dành cho nó. Đây là một dấu chỉ cho thấy anh
ta không hiểu lòng tốt của cha. Bao lâu người anh này còn quá tự tín vào bản
thân và những công trạng của mình, ganh ghét và khinh bỉ, đầy chua xót và giận
dữ, không hoán cải và giao hoà với cha và với em mình, thì bữa tiệc chưa thể
hoàn toàn là bữa tiệc liên hoan mừng cuộc gặp gỡ và tái ngộ.
Sự mô tả chính xác tâm trạng của đứa con hoang đàng giúp
ta hiểu một cách đúng đắn thế nào là lòng nhân từ của Thiên Chúa. Không thể
nghi ngờ được rằng, trong hình ảnh đơn sơ và sâu sắc này, gương mặt của người
cha gia đình mạc khải cho chúng ta Thiên Chúa như là Cha. Lối ứng xử của người
cha trong dụ ngôn, cách hành động của ông biểu lộ thái độ nội tâm ông. Người
cha của đứa con đi hoang luôn trung thành với phụ tính của ông, trung thành với
tình yêu lai láng mà ông vẫn có đối với con ông. Sự trung thành của người cha
đối với chính bản thân mình được diễn tả đặc biệt, khi nhìn thấy đứa con trở về
ông chạy ra ôm cổ hôn lấy hôn để. Tuy nhiên lý do của niềm xúc động này phải
được tiến triển sâu xa hơn nữa: người cha ý thức rằng sự thiện cảm lo âu đã
được cứu, đó là tính người của con ông. Mặc dù nó đã phung phí tài sản, nhưng
tính người của nó vẫn còn nguyên vẹn. Hơn nữa, nó như được tìm thấy lại:
"Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ vì em con đây đã chết nay sống lại đã
mất mà nay lại tìm thấy" (DM 6)
Ở đây một lần nữa, chúng ta lại gặp một chân lý kỳ diệu là
ăn năn, xưng tội với Thiên Chúa dễ hơn xưng tội với loài người. Thiên Chúa đoán
xét nhân từ hơn những người ngoan đạo, tình yêu của Thiên Chúa rộng lớn hơn
tình yêu của loài người, Chúa có thể tha thứ khi loài người không muốn tha thứ.
Đứng trước một tình yêu như vậy, chúng ta không thể không trân trọng kinh ngạc,
ngợi khen và yêu mến Ngài hơn.
14. Người con hoang đàng - R. Gutzwiller
Xét theo tâm lý, phải là bậc thầy mới hoạ nổi dụ ngôn đứa
con hoang đàng. Thế nhưng đây lại chẳng nhấn mạnh về đứa con hoang đàng, về
những nỗi khốn nạn và sự trở về của chàng ta. Mà lại nhấn mạnh nhiều đến người
cha.
Tất cả những đoạn văn Thánh Luca nói về vấn đề hư mất đã
kết thúc một cách ý nghĩa khi đưa chúng ta về Thiên Chúa, Đấng cứu thoát những
gì đã hư hại và bù đắp dư dật.
1. Người cha để cho đứa con hư hỏng.
Trong dụ ngôn, người cha có thể, hoặc tạm thời từ chối
không chia cho người con phần gia tài của anh ta, hoặc là nói cho thấy hơn
thiệt. Bản văn lại chẳng đả động đến chi tiết. Người cha đã chia gia tài cho
anh, và để anh ra đi. Đối với đứa con, chẳng phải vì xung khắc hay vì sự sa đoạ
nào đó thúc đẩy anh ra đi, nhưng là vì anh khát khao được sống ngoài vòng kềm
toả, vì háo hức khao khát kinh nghiệm, vì muốn biết cái mới lạ, vì chưa có bản
lãnh, vì tính hung hăng và bản năng thích phiêu lưu mạo hiểm.
Thiên Chúa cũng để cho con người hành động. Người có thể
gìn giữ con người khỏi tội lỗi bằng những đường lối quan phòng của Người hoặc
bằng áp lực của ân sủng mà con người không thể nào cưỡng lại được. Thế nhưng,
Người vẫn tôn trọng tự do của con người: điều này làm chúng ta ngạc nhiên và
khó hiểu.
Nhưng thể theo Thánh ý của Người, sau khi con người đã
được tạo dựng một cách tự do và được ban cho quyền tự do, Thiên Chúa đã thực sự
để cho con người làm chủ những quyết định của mình, lại còn ban cho con người
sự trợ giúp tự nhiên để thực hiện những quyết định đó nữa. Bởi chưng mọi chuyện
con người thực hiện –cả khi con người làm điều ác nữa- con người cần phải có sự
trợ lực của Thiên Chúa, nếu không con người hoàn toàn bất lực.
Trong dụ ngôn, đứa con lầm lạc dần dần sa sút, trước tiên
là một sự phung phí dại dột, rồi hắn phung phí gia tài cho bọn đĩ điếm cho đến
lúc hắn hoàn toàn chìm đắm trong tình cảnh khốn nạn và phải đi chăn heo (ta chớ
quên thái độ xa lánh của người Do thái đối với loại thú vật này) rồi suýt chết
đói.
Thiên Chúa cũng thế, Ngài để mặc con người tự do theo con
đường đã chọn lựa, để họ xuống dốc theo ý muốn và ao ước của họ. Ai tưởng mình
có thể định đoạt giá trị sự vật thì Chúa sẽ để họ theo ý riêng mình, cho đến
khi họ hiểu rằng ý muốn tự quyết của họ chỉ là sự sụp đổ bất lực.
Thiên Chúa thường thông cảm với việc con người yếu đuối sa
ngã giữa lúc làm bạn với bầy heo và cơn đói ám ảnh. Tuy nhiên –sẽ có một hiện
tượng kỳ dị- bao lâu mọi sự tốt đẹp thì con người ít nghĩ đến Thiên Chúa. Họ
muốn quán xuyến tất cả và tự mình quyết định. Nhưng khi có trục trặc vì lỗi của
họ, họ vội vàng quy trách cho Thiên Chúa.
2. Người cha đón nhận đứa con hư hỏng
Trong dụ ngôn, người con đã trở về với chính mình. Bị lâm
vào cảnh phiền muộn, nó mới biết đến kinh vực sâu, thú nhận lỗi lầm của mình và
dọn sẵn lời thú tội: 'Thưa cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha'. Nó ý thức
mình không còn quyền lợi nữa và chỉ còn trông cậy vào lòng nhân hậu để được coi
như một kẻ hèn hạ nhất trong đám thợ làm công.
Khi con người có kinh nghiệm sâu sắc và chua cay về thất
bại bản thân, họ dễ ý thức giá trị của ân sủng. Lúc ấy, họ biết không thể tự
sức mình mà được việc, nên phải phó thác vào ân sủng của Thiên Chúa. Tội lỗi đã
làm cho con người mất địa vị làm con Thiên Chúa, cho nên, làm tôi tớ đối với nó
là một đặc ân. Con người không còn đến trước Thiên Chúa Cha với tư cách một
người con quấy rầy, nhưng như một kẻ van xin đầy lòng hối hận đứng trước chủ
nhân. Và Thiên Chúa chấp nhận họ.
Trong dụ ngôn, người cha đã chờ đợi rồi ông đã chạy ra đón
đứa con hư, tỏ lòng tha thứ mà không cần đứa con giãi bày lời thú tội. Ông đã
dọn một bàn tiệc, tổ chức một buổi lễ... Đối với tội nhân hối cải, Thiên Chúa
cũng có một thái độ tương tự. Ngài đến gặp họ. Phán quyết trong nội tâm và lòng
hối cải đã là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa. Kẻ lầm lạc khi tự phán quyết rồi
lại quyết định trở về với Thiên Chúa, đó cũng là ân sủng.
Thiên Chúa cầu mong lại đón nhận họ. Đó là do lòng nhân
hậu của Ngài. Và, nói một cách sát chữ, Ngài đem lòng yêu thương dạt dào người
tội lỗi đã hối cải, quên đi quá khứ, xoá bỏ ác quả và tội vạ, và hơn nữa, cho
họ được những đặc ân không ngờ, đây là mầu nhiệm khôn dò của ân sủng Người.
Bữa tiệc sẽ minh chứng là Thiên Chúa yêu thương. Người anh
khó tính với cảm nghĩ tầm thường lấy vẻ liêm chính che đậy đầu óc thiển cận,
tâm hồn hẹp hòi của mình. Trái lại, qua hành vi quảng đại của người cha, dụ
ngôn cho chúng ta thấy bản tính thâm sâu của Thiên Chúa, tầm mức vô biên của
tình yêu, nhịp điệu và hài hoà, âm vang trong Thiên Chúa.
Lầm lạc không còn là điều đáng quan tâm. Tăm tối đã biến
đi. Ánh sáng chói chan khắp nơi, mọi sự thấy đẹp hơn bao giờ hết. Tội hồng
phúc!... Tội lỗi là dịp vô cùng hữu ích để chúng ta nhận ra sự cao cả của Thiên
Chúa đến nỗi chính các lỗi lầm của con người lại dẫn đến ơn cứu độ và vinh
quang của Thiên Chúa.
15. Mọi sự.
Câu chuyện được kể lại trong bài Tin mừng hôm nay theo
thánh Luca có thể coi là tấm thảm kịch vẫn xảy ra trong mối tương quan giữa
Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Có một lúc nào đó trong
tiến trình trưởng thành và tự lập, đứa con chợt thấy mình cần đòi lấy quyền tự
do để quyết tách ra khỏi sự giám hộ của cha mẹ. Con người cũng đã từng muốn
được bộc lộ tư thế độc lập tự chủ như vậy trong tương quan với Thiên Chúa. Con
người đã xây dựng tháp Babel, biểu tượng của tiến bộ khoa học kỹ thuật để khẳng
định với Đấng tạo dựng của mình. Con người gần như nắm trọn quyền kiểm soát sử
dụng mọi tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu đời sống của mình:
"Thưa cha, xin chia cho con phần gia tài con được hưởng".
Đối với người cha, lời cầu xin của con là chính đáng, vì
những gì ông đã gầy dựng nên như nhà cửa, ruộng vườn và tất cả tài sản vật
chất, tinh thần cốt là chỉ dành cho con. Không thể có cách đáp ứng nào khác hơn
đối với người cha tốt lành yêu thương con cái đã vui lòng trao cho con tất cả
gia sản của mình. Và đây cũng chính là cách hành xử của Thiên Chúa khi Người
đáp ứng vô cùng rộng lượng hào phóng quá sức muôn đời của con người. Mọi diễn
tiến có lẽ đã êm xuôi tốt đẹp, đã như không có một chi tiết tai hại xảy ra. Ít
ngày sau khi con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa, ở đó anh ta sống
phóng đãng phung phí tài sản của mình.
Vậy, một khi đã rời khỏi nhà cha, rời khỏi tình thương của
cha, khỏi sự che chở hướng dẫn của cha thì đứa con dẫu đã lớn khôn, song một
mặt nào đó vẫn còn là con, vẫn có mối thương tình phụ tử ràng buộc "sinh
tử bất khả phân ly" tất sẽ phải đương đầu với bao hậu quả không lường
được. Tấm thảm kịch bắt đầu ở đây, ở chỗ con người tách ra khỏi quyền năng yêu
thương quan phòng của Thiên Chúa, ở chỗ con người làm ngơ hoặc phủ nhận sự hiện
diện của Thiên Chúa trong cuộc đời như nguồn mạch và sự cảm hứng của con người,
ở chỗ con người gạt bỏ mọi dấu ấn của luật pháp Thiên Chúa trong bản chất,
trong lương tri con người. Chính lúc đó con người phung phí hết mọi gia sản,
phung phí tài năng, sức lực, phung phí luôn cả phẩm giá của mình là con người
được tác tạo giống dấu ấn của Thiên Chúa.
Tách rời Thiên Chúa, phủ nhận Thiên Chúa, loại trừ Thiên
Chúa rút cuộc sẽ đẩy con người xuống tận đáy của mọi thảm hoạ, xuống ngang tầm
với cầm thú. Anh ta ao ước lấy được những đồ cho heo ăn mà nhét cho đầy bụng.
Sự giác ngộ sám hối của con người có vẻ muộn màng, nhưng lại là điều Thiên Chúa
chờ đợi và luôn đưa ra sáng kiến để đón nhận tội nhân cải tà qui chánh. Anh ta
còn ở đàng xa thì người cha đã trông thấy, ông chạnh lòng thương chạy ra ôm cổ
anh ta và hôn lấy hôn để. Có thể có hoán cải làm lại cuộc đời, nếu như không có
chờ đợi những ngày mở đường sinh phúc, mở rộng vòng tay tha thứ đón nhận. Đây
chính là cốt lõi của ơn trở về. Nền tảng cảm hứng và sức mạnh của ơn này chính
là tình thương và quyền năng Thiên Chúa, Đấng muốn cứu vớt tất cả phàm nhân,
một khi Người đã tặng ban cho nhân loại chính Thánh Tử Chí ái của Người.
Tuy nhiên, hệ luỵ của hành vi con người tách rời và phủ
nhận quyền năng quan phòng của Thiên Chúa không phải là không gây tác hại
nghiêm trọng trong mối tương quan giữa con người với nhau, nhưng đã có một sự
rạn nứt đổ vỡ trong tình thương huynh đệ, trong nỗ lực chung sức phục vụ công
trình của Thiên Chúa là Cha với tấm lòng hiếu kính vô vị lợi.
Trái lại, người con thứ sau khi đã nuốt hết của cải của
người cha nay trở về thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Thậm chí đáng buồn hơn
nữa còn thương mại hoá mối tương quan giữa Thiên Chúa, lấy lợi vụ vật chất, lấy
công trạng phục dịch dễ dàng trong nhà cha làm chuẩn mực cho tình nghĩa phụ tử:
"Bao nhiêu năm trời con phục vụ cha thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được
một con bê để con ăn mừng với bè bạn". Ơn hoán cải thực sự và toàn diện
không thể thực hiện, nếu chỉ có nỗ lực đơn phương của một nhân loại đã bị
thương tật tội lỗi và không ngừng bị ảnh hưởng của ác thần khống chế. Nhưng ơn
hối cải ấy chỉ có thể xuất phát từ Thiên Chúa, từ cội nguồn trắc ẩn, từ lòng
yêu thương nhân từ luôn rộng mở chờ đón sự trở về của con người tội lỗi.
16. Đôi mắt cha
(Trích trong 'Sợi Chỉ Đỏ')
Một cô bé đang ngồi trên gối mẹ, chợt lên tiếng hỏi mẹ: Mẹ
ơi, con có thể nhìn thấy lòng mẹ không?
Bà mẹ đáp: Mẹ không biết, nhưng con có thể nhìn vào mắt mẹ
xem có thấy gì trong đó?
Cô bé nhướng mắt nhìn chăm chú vào đôi mắt người mẹ, rồi
sung sướng kêu lên: Mẹ ơi! Con nhìn thấy lòng mẹ rồi, ở đó có một cô bé tí xíu
là chính con đó mẹ ạ?
Trong đôi mắt của cha mẹ, con cái là tất cả. Trong đôi mắt
Thiên Chúa chỉ có con người, nhất là những con người tội lỗi đáng thương. Vua
Đavít đã cầu nguyện cùng Chúa: "Xin giữ gìn con như thể con ngươi, dưới
bóng Ngài, xin thương che chở". Vâng, tấm lòng yêu thương khôn tả của
Thiên Chúa đã được Chúa Giêsu bày tỏ trong dụ ngôn "Người cha nhân
hậu". Một người cha rất đỗi hiền từ, luôn tôn trọng tự do của con cái, sẵn
sàng trao phần gia tài cho người con thứ. Sau khi anh ta đã "Sống phóng
đãng, phung phí hết tài sản" trở về, người cha ấy cũng không trách mắng
nghiêm phạt, từ con. Trái lại, khi thấy bóng dáng cậu từ xa, ông đã vội vã chạy
đến ôm chầm lấy cậu hôn hít vui mừng đến chảy nước mắt.
Lòng nhân hậu, yêu thương, tha thứ đã khiến ông quên hết
lỗi lầm của đứa con hoang đàng, mà chỉ còn thấy trước mặt ông, trong vòng tay
âu yếm, là đứa con ông hằng mòn mỏi đợi trông. Đứa con mà ông tưởng đã mất vĩnh
viễn nay lại tìm thấy được. Ông vui sướng mở tiệc liên hoan, đàn ca múa hát, ăn
mừng người con trở về. Một cuộc đón tiếp quá sức nồng hậu, ngoài sức tưởng
tượng của đứa con.
Người anh đi làm về, chẳng những đã không vui mừng mà con
nổi giận, trách móc cha già, khiến ông lại phải nhẫn nhục ra tận cổng phân
trần, năn nỉ, mời cậu vào nhà chung vui với ông và gặp lại đứa em "đã chết
nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy". Ông khẳng định với cậu rằng:
"Tất cả những gì của cha đều là của con".
Đó là câu chuyện có thật về một Thiên Chúa yêu thương,
quảng đại, và hay tha thứ. Một Thiên Chúa thích dùng hình phạt nhưng luôn tỏ
lòng khoan dung. Một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. "Muôn ngàn đời Chúa
vẫn còn tình thương". Chỉ tiếc một điều là người anh cả đã không chịu vào
nhà. Anh không chịu vào vì anh không thể tha thứ cho người em lầm lỡ. Anh không
chịu vào vì anh sợ quyền lợi của anh bị xâm phạm. Anh không chịu vào vì anh
không hiểu được tấm lòng quá nhân hậu bao dung của người cha. Hoá ra, bấy lâu
nay anh sống trong nhà cha mà như ở bên ngoài: Anh không trái lệnh cha chỉ để
tròn bổn phận chứ không phải vì yêu mến cha. Anh không hề gọi người em mình là
"em tôi" mà là "đứa con của cha kia". Anh không cảm thông
với người em lầm lỡ, cũng không chia sẻ nỗi khổ của người cha mất con.
Anh chỉ nghĩ về mình, quyền lợi của mình, hạnh phúc của
mình. Anh là người đại tiện cho nhóm Pharisêu và các kinh sư, luôn tự hào về
đời sống đạo đức của mình, và muốn cho những kẻ tội lỗi phải chết hơn là được
cứu chữa. Vậy cả hai người con đều phải quay trở về với cha, cả hai đều phải
bước vào nhà cha, cả hai đều phải rũ bỏ nếp sống cũ, nếp nghĩ xưa để về ẩn mình
trong trái tim cha: Nhân hậu, bao dung, tha thứ và tràn đầy yêu thương.
Trở về với cha là giang tay ôm lấy người em lầm lỡ.
Trở về với cha cũng là về với anh em, con cùng một cha.
Trở về với cha để thấy mình là tất cả, trong đôi mắt cha.
17. Được yêu
Chắc hẳn dụ ngôn đứa con hoang đàng là nổi tiếng nhất và
được yêu thích nhất trong các dụ ngôn của Đức Giêsu. Tuy nhiên, một số người
vẫn cứ cho rằng đó là một câu chuyện bất công. Họ cảm thấy tiếc cho người con
cả, họ nhận thấy là anh ta đã bị cư xử bất công, họ tin rằng người con thứ ra
đi vì đã phạm tội giết người, vì thế, anh ta cần phải bị trừng phạt, nên dạy
cho anh ta một bài học. Chúng ta hãy nhận xét xem thái độ đó có đúng đắn hay
không.
Người con thứ đã được xác định là một tay ăn chơi trác
táng. Anh ta đã đi đến một thành phố, mà anh ta có thể thoả mãn tất cả mọi lạc
thú tại đó. Nhưng khi đã hết nhẵn tiền, những ánh đèn sáng trưng đều lu mờ, và
tất cả những cánh cửa đều đóng lại không cho anh vào, thì anh mới cảm thấy hối
tiếc cho bản thân mình. Nỗi đau của bản thân khiến anh nhận ra được nỗi đau mà
anh đã gây ra cho người cha của anh. Do đó, anh tự nhủ "Tôi sẽ trở về với
cha tôi, và xin lỗi người". Đây là một quyết định can đảm, và cần phải có
nhiều can đảm để thực hiện quyết định này. Thật không dễ dàng nói lời "xin
lỗi", ngay cả đối với một vấn đề tầm thường.
Cuộc hành trình trở về thật buồn bã, cô độc và đáng sợ.
Thật dễ dàng trở về nhà, khi bạn là một anh hùng, với đầy chiến công và vinh
quang. Nhưng đứa con hoang đàng không hề có một chiến công nào để đem về cho
cha anh, không hề có thành quả nào, để nhờ đó, anh xứng đáng được khen ngợi,
đón tiếp và yêu thương. Anh đang trở về nhà, với đôi bàn tay trống rỗng. Tệ hơn
nữa, anh đang trở về nhà, lòng trĩu nặng xấu hổ và nhục nhã.
Tất cả mọi sự đều ở ngoài tầm tay của anh. Giả thử cha anh
không chấp nhận cho anh trở về. Vậy thì anh sẽ làm gì đây? Anh xứng đáng bị
trừng phạt:
- Anh vẫn biết điều đó, và thậm chí anh còn yêu cầu điều
đó nữa. Tuy nhiên, sự trừng phạt là điều cuối cùng mà anh cần đến. Trong bất cứ
trường hợp nào, anh đã từng bị trừng phạt rồi. Anh không hề có lúc nào vui vẻ.
Có lẽ anh đã có lạc thú, nhưng chắc chắn anh không hề có niềm vui. Anh đã đau
khổ rất nhiều.
- Đói khát, cô độc, xuống tinh thần, nỗi đau đớn vì hối
hận, cảm giác bị phản bội. Mỗi tội lỗi của anh đều mang theo nó thứ hình phạt
mau lẹ, chắc chắn. Phạm tội là đau khổ. Anh không cần phải chịu đựng thêm hình
phạt nào nữa.
Anh cũng không cần phải được dạy cho một bài học. Anh đã
được học hỏi một bài học:
- Một điều gì đó còn quan trọng hơn nhiều. Anh đã học hỏi
một số sự thật đau lòng về bản thân mình, về những người khác, và về cuộc đời.
Anh đã ăn một thứ trái cấm, và thay vì được thoả mãn, trái cấm đó đã để lại cho
anh một hương vị cay đắng trong miệng. Nếu anh bị khước từ, thì thái độ này sẽ
huỷ hoại anh.
Điều gì đã xảy ra? Khi người cha nhìn thấy người con đã bị
mất đi của ông đang đang tiến về phía ông, ông liền chạnh lòng thương, và một
phút sau đó, cha con đã ôm chầm lấy nhau. Người cha đã không chỉ chấp nhận cho
anh trở về, mà ông còn đón tiếp anh nữa. Tất cả tội lỗi của anh đều được tha
thứ.
Phát hiện vĩ đại nhất mà người con thứ đã nhận ra, đó là
anh vẫn được yêu thương, trong tình trạng tội lỗi của anh. Người cha không bao
giờ ngừng yêu thương anh. Trong tấm lòng nhân hậu của người cha, anh luôn được
yêu thương, đó không những là một điều tốt đẹp, nhưng khi vẫn được yêu thương
ngay trong tình trạng tội lội, thì quả thật đó là một cảm nghiệm tuyệt vời.
Loại tình yêu như vậy giống như một làn gió mát thổi vào ngọn lửa gây chết
chóc, hoặc cơn mưa đổ xuống vùng đất nứt nẻ. Đây chính là ân sủng. những ai đã
từng cảm nghiệm được loại tình yêu này, sẽ nhận biết được nét gì đó về tấm lòng
của Thiên Chúa.
Sự tha thứ của Thiên Chúa không phải là sự tha thứ lạnh
lùng, nửa vời, nhưng là sự tha thứ nồng ấm và quảng đại. Thiên Chúa không chỉ
tha thứ cho chúng ta; mà Người còn yêu thương chúng ta, và để cho chúng ta nhận
biết được tình yêu đó. Câu chuyện này không phải là cho phép chúng ta cứ phạm
tội, nhưng chứng tỏ rằng do bản tính yếu đuối và gian ác của con người, chúng
ta đã phạm tội, nhưng sau đó, chúng ta có thể vượt qua quá khứ của mình, vẫn có
thể làm lại từ đầu. Đây là bài học vĩ đại của dụ ngôn này.
"Giấy phút người còn hoang đàng quỳ gối và khóc lóc,
anh ta đã biến cảnh lãng phí tài sản của mình bên những cô gái điếm, cảnh chăn
heo và thèm khát những thức ăn của heo, trở thành những giây phút đẹp đẽ và
thánh thiện trong cuộc đời của mình. Hầu hết mọi người khó mà thấu hiểu được ý
tưởng đó. Tôi đáng nói rằng người ta phải chịu cảnh tù tội, thì mới thấu hiểu
được điều đó. Nếu như vậy,thì có thể thời gian sống trong tù thật đáng
giá".
18. Bộc lộ
Chúng ta hãy nhìn vào dụ ngôn của Đức Giêsu từ quan điểm
của tâm hồn.
Một người cha có hai người con trai. Mặc dù người con cả
vâng phục và chu toàn bổn phận, nhưng anh lại khá nguyên tắc và xa cách. Anh ta
là một con người lạnh lùng. Trái ngược, người con thứ nồng nàn và nhiều tình
cảm. Tuy nhiên, trong con người của anh ta, lại có tính cách hoang đàng và vô
trách nhiệm. Anh ta cứ nhất quyết làm theo ý riêng của mình, bất chấp người nào
khác có thể suy nghĩ ra sao. Một ngày kia, anh ta đã ích kỷ đòi được chia phần
gia tài thừa kế, và sau khi đã nhận được, anh ta liền bỏ đi phương xa.
Tại đó, anh ta đã sống buông thả một cách ngu xuẩn và bất
chấp mọi sự, cho những thú tính thấp hèn nhất nơi con người của anh. Nhưng khi
tiền bạc đã cạn kiệt, anh mới tự nhận thấy mình không còn bạn bè hoặc người nào
giúp đỡ.
Đột nhiên, anh cảm thấy trống rỗng trong tâm hồn. Thế rồi
sau khi đã nhận ra những việc mình làm, lòng anh tràn ngập nỗi cay đắng và căm
ghét bản thân mình. Tuy nhiên. Nỗi đau của bản thân đã giúp cho anh nhận ra
được nỗi đau mà anh đã gây ra cho những người khác. Anh đã làm tan nát cõi lòng
của cha mẹ anh.
Thế là anh quyết định quay trở về nhà. Anh ra đi với đôi
bàn tay trống rỗng. Thứ duy nhất mà anh có được, đó là một trái tim khiêm tốn
và hối lỗi. Và cha của anh vẫn đang chờ đợi anh. Vì quá lo âu, người cha không
bao giờ rời khỏi nhà, bởi vì ông cứ mãi bận tâm đến người con trai hoang đàng
của mình. Vì thế, ngay khi nhìn thấy anh trở về, ông mới hoàn hồn. Và cuối
cùng, hai cha con đã ôm chầm lấy nhau.
Nhưng sau đó, một điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra. Khi đến
gặp anh cả, người em chỉ phát hiện ra rằng người anh cả của anh không muốn nhận
biết anh. Không hề có chỗ nào cho anh trong tâm hồn của người anh cả. Thay vì
vui mừng khi thấy người em trai của mình trở về an toàn, thì tâm hồn của người
anh cả lại tràn đầy nỗi cay đắng và hằn học. Anh ta đã tìm cách chiếm được tình
cảm của người cha thông qua bổn phận hơn là thông qua tình yêu. Thật đáng buồn,
dường như thể anh ta chưa bao giờ đi vào tâm hồn của người cha, bởi vì nếu đã
đi vào đó được rồi, thì tâm hồn của anh ta sẽ được mở rộng ra. Nhưng thay vì
được như vậy, thì tâm hồn của anh ta lại vẫn cứ nhỏ bé, hẹp hòi, lạnh lẽo và
không muốn đón tiếp ai.
Câu chuyện về đứa con hoang đàng là một câu chuyện về tâm
hồn: tâm hồn ích kỷ và tâm hồn quảng đại, tâm hồn khép kín và tâm hồn cởi mở,
tâm hồn lạnh lùng và tâm hồn nồng nàn, tâm hồn tan nát và tâm hồn vui mừng, tâm
hồn không biết hối cải và tâm hồn biết ăn năn, tâm hồn không biết tha thứ và
tâm hồn hay tha thứ, tâm hồn miễn cưỡng và tâm hồn biết ơn.
Câu chuyện này mặc khải cho chúng ta quá nhiều về tính
cách thất thường của tâm hồn con người. Khi đã nói và làm xong tất cả mọi sự
rồi, thì chính tâm hồn mới là đáng kể. Nhưng người ta có thể tóm tắt điều gì về
tâm hồn? Tâm hồn là cái gì sâu thẳm nơi bản thân mình. Đó chính là con người
thật của tôi. Cảnh tối tăm của tâm hồn là đêm đen tối nhất so với tất cả. Một
tâm hồn nặng trĩu là gánh nặng chán chường nhất. Một tâm hồn tan nát chính là
vết thương sâu xa nhất.
Nhưng dụ ngôn trên bộc lộ tính cách kiên định nơi tâm hồn
của Thiên Chúa nhiều đến thế nào. Tâm hồn của Thiên Chúa không toả ra sức nóng
và hơi lạnh. Thiên Chúa không bao giờ khép lòng lại với bất cứ người con nào
của Người. Bất chấp họ có thể rời bỏ mái nhà để đi xa đến đâu, bất chấp họ làm
gì, nếu họ quay trở về, điều duy nhất mà họ có thể tin chắc, đó là sự đón nhận
nồng ấm và rộng lượng.
19. Người anh cả
Dụ ngôn người con hoang đàng hay còn được gọi là dụ ngôn
người cha nhân hậu là một trong những trang Phúc âm lôi cuốn nhất được thánh sử
Luca ghi lại cách sinh động. Mặc dù dụ ngôn nêu bật lòng nhân từ thương xót của
Thiên Chúa đối với tội nhân biết sám hối trở về. Nhưng có một nhân vật làm cho
chúng ta lưu ý, đó là người anh cả. Người anh cả trong dụ ngôn Chúa Giêsu ám
chỉ đến ai đây? Đồng thời, cũng qua người anh cả, phải chăng Chúa Giêsu muốn
cảnh tỉnh thái độ sống của người Kitô hữu chúng ta hôm nay?
Khi được biết người em trở về và cha anh đã giết bê béo ăn
mừng anh liền nổi giận và không vào nhà. Người cha đã mời anh vào chung vui với
ông thì anh ta kêu trách và lên án người em: "Cha coi, đã bao năm con hầu
hạ cha, không hề trái lệnh cha một điều nào mà không bao giờ cha cho riêng con
một con bê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn. Còn thằng con của cha kia, sau khi
phung phí hết tài sản của cha với bọn đàng điếm nay trở về thì cha lại sai làm thịt
bê béo ăn mừng nó".
Trước hết, người anh cả nói về bản thân mình, anh chứng tỏ
lòng trung thành đối với cha: siêng năng, cần mẫn, chăm chỉ làm việc. Anh tự
cho mình là người hiếu thảo, vâng phục cha không hề trái lệnh, không ăn chơi,
không bỏ nhà đi hoang. Nhưng những lời anh dùng kể công với cha là những lời
đầy ghen tức biện hộ cho chính mình. Anh tức giận vì thấy quyền lợi của mình bị
xâm phạm. Người cha bao dung đến độ bất công đối với anh khi đón nhận và vui
mừng khi người em trở về. Những lời than phiền đó làm lộ rõ khoảng cách giữa
anh đối với cha và người em. Anh đã sống gần cha mà tâm hồn lại khác hẳn người
cha. Anh thiếu tâm tình của một người con và một người anh: từ chối em mình và
không muốn chia sẻ niềm vui của cha. Vì đâu mà anh sống thiếu tình thương coi
vật chất trọng hơn tình nghĩa? Thưa, chỉ vì anh không hiểu được tình cha, không
biết sống như một người con. Anh chỉ biết những bổn phận lạnh lùng nên anh so
đo tính toán. Anh tự biến mình thành một kẻ làm thuê, nghĩ mình phải được trả công,
biến mình thành nô lệ đối với ông chủ – không còn tình nghĩa cha con, không còn
tương quan huynh đệ. Từ đó, anh nhìn cả hai người như xa lạ với mình. Một cái
nhìn khinh bỉ người em tội lỗi và nhìn người cha như một ông chủ bất công. Anh
trở thành người xa lạ chính căn nhà của mình. Sự hiệp thông trong gia đình đã
biến mất.
Đã đành người con thứ khước từ tổ ấm gia đình ra đi tìm
hạnh phúc nơi vùng đất lạ bị hư hỏng. Nhưng ngược lại, người anh cả ở nhà cũng
ra hư hỏng luôn. Vì bên ngoài thì anh làm mọi chuyện mà một người con tốt phải
làm, nhưng bên trong anh thật sự xa cách người cha. Tuy nhiên việc hư hỏng của
người anh cả khó nhận ra hơn. Dù sao anh luôn trung thành vâng phục, làm việc
khổ nhọc, mọi người xem anh như là người con gương mẫu không lỗi lầm. Nhưng khi
đối diện với niềm vui của cha, thấy người em trở về và được cha vui mừng đón
tiếp thì con người thật của anh đã để lộ chân tướng của một người kiêu ngạo,
ích kỷ, ganh ghét... Những điều mà lâu nay được che đậy.
Chúa Giêsu kể dụ ngôn người con hoang đàng trở về nhưng
điểm nhắm của Ngài là người con cả, hiện thân của những người Biệt phái và Luật
sĩ. Những người kêu trách Chúa Giêsu về thái độ của Ngài đối với những người
thu thuế và tội lỗi. Ngài chẳng những đón tiếp mà còn cùng ngồi ăn uống với họ.
Điều này đã làm cho những người Biệt phái tỏ vẻ bất mãn khó chịu. Một vị tiên
tri như Ngài mà lại tiếp đón những hạng người thu thuế tội lỗi như vậy là điều
không thể chấp nhận được. Đối với họ, hành động của Chúa Giêsu đi ngược lại
luật lệ Do thái.
Những người Biệt phái và Luật sĩ luôn tự hào về đời sống
đạo đức của mình, tuân giữ tỉ mỉ, nghiêm ngặt lề luật của Thiên Chúa, như vậy
họ thuộc về Thiên Chúa. Thiên Chúa xem ra mắc nợ họ và họ nghĩ rằng mình có
quyền đòi hỏi. Dưới con mắt của họ, những người thu thuế là những nhân viên làm
việc cho đế quốc Rôma, làm tay sai cho ngoại bang đó là hạng người đáng ghét.
Còn những người tội lỗi là phường đáng khinh bỉ, họ không muốn liên hệ vì sợ dơ
bẩn ô uế.
Vì mang hình thức vụ luật nghĩa là giữ luật vì luật, với
tinh thần cứng nhắc và giả hình, họ không cảm nhận được tình yêu, lòng thương
xót của Thiên Chúa nên họ cũng không nhận ra được tha nhân là anh em mình.
Ngược lại với thái độ kỳ thị phân biệt đối xử của Biệt phái, Chúa Giêsu tỏ ra
cảm thông và xót thương những người thu thuế và tội lỗi, rộng tay đón tiếp và
đồng bàn với họ. Ngài mời gọi họ sám hối và tha thứ tội lỗi cho họ. Quả thực,
Đức Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa, Ngài đến trần gian để đem ơn cứu độ cho
tất cả mọi người không trừ một ai, nhất là những người bị kỳ thị bỏ rơi, những
người bị xã hội Do thái đương thời loại ra khước từ.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn trả lời cho những người Biệt
phái và Luật sĩ thấy rằng: Thiên Chúa yêu thương hết mọi người và đồng thời mời
gọi họ chung niềm vui với Thiên Chúa và hãy có một tâm hồn quảng đại bao dung
như Thiên Chúa trong việc tiếp đón các tội nhân ăn năn trở lại.
Quả thực, dụ ngôn nhằm trả lời cho người Biệt phái và Luật
sĩ nhưng cũng không phải là không liên hệ đến người Kitô hữu chúng ta. Dụ ngôn
nhắc người Kitô hữu nhớ rằng: người ta không thể phục vụ Thiên Chúa đúng ý Ngài
nếu không yêu mến Ngài và không thông hiệp vào tình yêu của Ngài đối với anh
chị em, cho dù những người này là tội nhân. Vì thế, làm sao chúng ta có thể
xưng mình là môn đệ Đức Kitô nếu chúng ta khinh bỉ, xa lánh những người đang
gặp cơn hoạn nạn do tội lỗi?
Cũng như những người Biệt phái và Luật sĩ thời Chúa Giêsu,
nhiều lúc chúng ta thường tự cho mình là những người ngay chính nên ta dễ dàng
phê bình, chỉ trích, khinh bỉ và lên án những ai sa ngã, tội lỗi, nhất là những
người mang những lỗi lầm công khai như: những người mắc bệnh Sida, nghiện ngập
ma tuý, rượu chè, trộm cắp, ngoại tình, những người sa cơ lỡ bước... Vì thế để
hoá giải và sửa chữa những thành kiến, những thái độ trên chắc hẳn chúng ta cần
có cái nhìn cảm thông, những lời nói an ủi khích lệ, những bàn tay đỡ nâng để
giúp họ vượt lên khỏi vũng bùn tội lỗi, để họ can đảm trỗi dậy trở về đón nhận
hồng ân tha thứ của Thiên Chúa.
Dụ ngôn người con hoang đàng làm nổi bật trái tim của
người cha: một trái tim nhân hậu, bao dung tha thứ và tràn đầy yêu thương.
Nhưng đồng thời cũng đưa ra lời cảnh tỉnh về thái độ sống của những người Kitô
hữu chúng ta.
Phụng vụ lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta dù là
con thứ hay con cả cũng cần trở về với cha để nhận được ơn tha thứ, để thực sự
là con của cha. Trở về với cha là dang rộng tay đón lấy người em lầm lỡ. Không
còn là thằng con của cha nữa mà là em của con. Trở về với cha là chia sẻ niềm
vui với cha, nối kết tình huynh đệ, yêu thương anh em một nhà.
Ước gì khi tham dự bàn tiệc Thánh Thể, khi ăn cùng một tấm
bánh và uống cùng một chén, chúng ta được hiệp nhất nên một trong yêu thương
của những người anh em một cha trên trời.
20. Chú giải của Noel Quesson.
Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với
Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì
với nhau: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng". Đức
Giêsu mới kể cho họ dụ ngôn này
Những câu này dẫn nhập cho "ba dụ ngôn về lòng thương
xót". Con chiên lạc được tìm thấy, đồng tiền mất lại tìm được, đứa con mất
được gặp lại. Như thế, ba câu chuyện này đã được Đức Giêsu kể ra để biện hộ.
Vậy tôi bắt đầu nhìn ngắm Đức Giêsu giữa các người tội lỗi, đang đồng bàn với
họ - ôi! Chiếc "bàn" kỳ diệu biết bao.
Những người tội lỗi đang ngồi ở đó với Đức Giêsu. Lạy
Chúa, Chúa đã nói gì với họ, để lôi cuốn họ, khiến những kẻ khác phải lẩm bẩm?
Một người kia có hai con trai
Chúng ta có tập quán không hay chỉ nghe phần đầu của dụ
ngôn, phần nói về người con trai thứ nhất, đứa con hoang đàng. Nhưng người cha
mới là nhân vật chính: "Một người kia có hai đứa con trai". Đó là dụ
ngôn "người cha hoang phí" mà ta sắp nghe. Dụ ngôn là một bi kịch,
gồm hai hồi: Cuộc xung đột giữa một người cha và hai đứa con của ông thương yêu
đồng đều và nồng nàn nhất. Đó là một câu chuyện thường được sống lại trong
nhiều gia đình. Hỡi các người cha và các bà mẹ trên thế gian, đó chính là bi
kịch của Thiên Chúa mà các ông bà đang sống. Vậy các ông bà hãy lắng nghe câu chuyện
tình yêu đẹp nhất hình ảnh đẹp nhất của Thiên Chúa!
1. Hồi thứ nhất: Thái độ của người cha với người "con
út".
Người con thứ nói với cha rằng: 'Thưa cha, xin cho con
phần tài sản con được hưởng.' Và người cha đã chia của cải cho hai con
Người con này chỉ là một kẻ hưởng thụ: Anh ta đòi hỏi
tiền, yêu sách thật nhiều tiền. Anh ta chỉ nghĩ đến mình. Anh ta nhận được tất
cả từ cha mình, nhưng không biết điều đó. Anh ta chỉ biết làm có một việc: đòi
hỏi, yêu sách, áp lực - khiếu nại.
Người cha có thái độ hoàn toàn ngược lại với anh ta. Ông
chỉ cho không, luôn chia sẻ, cho cách vô vị lợi, tôn trọng tự đo kẻ khác. Ông
là chính tình yêu! Qua hình ảnh người cha này, Đức Giêsu nói với ta về Thiên
Chúa. Chúng ta có hình dung Thiên Chúa như thế không?
Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi
phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. "Khi
anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng
khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên phải đi ở đợ cho một người
dân trong vùng; người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu
muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm
và tự nhủ: 'Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà
ta ở đây lại chết đói! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người:
'Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha
nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy.' Thế rồi anh ta đứng lên
đi về cùng cha.
Người con út này là hình ảnh của người tội lỗi, mà người
Pharisêu thường hình dung ra.
a) Đó là người con nổi loạn, đòi độc lập, tượng trưng cho
khuynh hướng vô thần thuộc mọi thời đại: thụ hưởng "của cải" của
Thiên Chúa mà không nhìn nhận Người, lìa xa Thiên Chúa, muốn gì làm đó mà không
cần kiểm soát: "'Đâu biết đến Thiên Chúa, đâu biết đến chủ tể nào".
Thái độ này không phải ngày nay mới có.
b) Hơn nữa với người Pharisêu, người con Israel này đã sa
xuống vực thẳm của đê tiện. Anh ta tự bán mình làm nô lệ cho một người dân ngoại,
như vậy anh không còn tôn trọng ngày Sabát nữa, đâu còn giữ nghi thức ăn uống
theo luật nữa: Anh ta chăn heo loại thú dơ bẩn, bị cấm và đầy ghê tởm.
c) Ngoài ra chỉ nhìn theo quan điểm thuần tuý con người,
thì sống như vậy cũng không có luân lý: Đó là một con người hư hỏng, không còn
bản chất người, bị xuống cấp tụt xuống hạng thú. Chính anh ta cũng sống như một
thứ heo: tiền bạc, ăn uống, dục tính, chỉ biết cái tôi và cái tôi.
Người ta tăng cường sự trang điểm cho anh, vì cảm phục anh
trở về. Nhưng anh ta vẫn lấy lợi ích riêng của mình làm chúa tể: "Nhét cho
đầy bụng". Sự trở về nhà của anh ta, dù có nói hay thế nào đi nữa cũng chỉ
là một sự tinh toán bủn xỉn để tìm được chỗ ăn chỗ ở. Anh ta đau bụng hơn đau
lòng. Đó là đứa con thật tội nghiệp, nạn nhân của bản năng mình, của bạn bè
mình: Nó đã mất thói quen thương yêu. Nó chỉ còn biết nghĩ đến mình.
Lạy Chúa đó cũng là hình ảnh của con! Than ôi, con vẫn
thường sống như thế đó:
Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông
chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để
Chúng ta cần ghi nhận, không cần người con mở miệng thưa
gởi, thì người cha đã làm tất cả rồi. Ông thể hiện bốn cử chỉ: "ông thấy
anh ta đằng xa", "ông chạnh lòng thương", "ông chay đến,
ông ôm hôn". Có lẽ việc "chạy đến" là cử chỉ mạnh nhất trong dụ
ngôn này. Thông thường không khi nào một bề trên lại chay tới một bề dưới, nhất
là khi kẻ dưới lại có một thái độ bất bình với họ.
Vâng, người ta làm sai hoàn toàn ý nghĩa dụ ngôn của Đức
Giêsu khi trình bày cuộc trở về của người con này, như một gương "hoán
cải". Nếu Đức Giêsu chỉ mô tả thái độ "ăn năn" của một người tội
lỗi, thì giáo huấn đó có thể đã không làm cho người Pharisêu bất bình. Vì từ
lâu tại Israel, như toàn bộ Kinh Thánh minh chứng, người ta đều biết rằng, Chúa
luôn tha thứ cho người tội lỗi biết ăn năn. Nhưng ở đây, cách đối xử của người
cha này đi quá xa. Ông không cần biết đến con ông có biểu lộ chút ăn năn thực
sự nào không. Vừa thấy con từ đằng xa, ông đã chay đến gặp nó. Đức Giêsu không
muốn nhấn mạnh đến thái độ của đứa con hoang đàng, những việc làm sám hối đền
tội của nó; nhưng Người chỉ muốn nhấn mạnh về tình yêu nhưng không của người
cha, một người cha đã tha thứ trước khi con ông thú tội, không đặt một điều
kiện nào hết! Đức Giêsu nói với chúng ta làm con là như thế nào: Trước tiên đó
không phải là cần có một thái độ nào đối với cha mẹ mình, nhưng là được cha mẹ
mình thương yêu, dù xứng đáng hay bất xứng. Đó là điều đã được mạc khải trong
ngôn sứ Hôsê: "Chúa vẫn trung thành tiếp tục thương yêu người bất
trung". Lạy Chúa, Chúa thương yêu chúng con với một tình yêu vô bờ.
Các bạn tự cho mình là vô thần, hay thực tế sống như những
người vô thần, các bạn là những người tội lỗi, đang xa cách Thiên Chúa, đang né
tránh người, Đức Giêsu muốn nói với các bạn: "Dù các bạn không tin nơi
Chúa, không yêu Chúa, thì Chúa không bao giờ ngừng tin các bạn và thương yêu
các bạn!" Như vậy, chúng ta mới hiểu những người tội lỗi đã chay theo Đức
Giêsu!
Bấy giờ người con nói rằng: 'Thưa cha, con thật đắc tội
với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa...' Nhưng người cha liền
bảo các đầy tớ rằng: 'Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón
tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở
tiệc ăn mừng!
Người cha không để cho người con nói hết câu mà anh ta đã
chuẩn bị trước. Ông ban cho con mình quá sự mong muốn. Đó là một lễ cưới thực
sự: áo đẹp, nhẫn đeo, giày dép, bữa tiệc, âm nhạc.
Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại
tìm thấy.' Và họ bắt đầu ăn mừng
Đây là điệp khúc kết thúc hồi thứ nhất của bi kịch. Trong
chốc lát, chúng ta sẽ thấy điệp khúc này có hai từ thay đổi: "con ta"
thành "em con". Chết - sống lại -bắt tìm thấy. Đối với Đức Giêsu, đây
là cái chết như thế nào?
Ôi đây là mạc khải bi thảm mà Đức Giêsu muốn rọi chiếu vào
vùng vô thức của ta: Xa cách Chúa, là phải chết. Con thực sự hiện hữu trong
tương quan với Thiên Chúa. Chỉ có đức tin mới cho ta thấy thực tại đích thực.
Ta có thể tưởng mình đang sống mà thực ra đã chết.
"Tiệc mừng" của Thiên Chúa! "Niềm vui, của
Người! Hoán cải, đó chỉ là bước vào niềm vui của Thiên Chúa. Thế mà rõ ràng, đó
là điều mà người anh cả sắp từ chối.
2. Hồi thứ hai: Thái độ của người cha đối với người
"con cả".
Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta
về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra
mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: 'Em cậu đã về, và cha cậu đã làm
thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.' Người anh cả liền nổi giận và
không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu ra năn nỉ
Đối với người con cả, người cha này cũng biểu lộ cùng một
tấm lòng nhân hậu: "Ông bước ra năn nỉ". Kinh Thánh thường trở lại đề
tài: Những hồng ân Thiên Chúa được ban tặng cách tuyệt đối nhưng không, qua đề
tài người con út giành chỗ người con cả (St 2,36,2; Mcb 4,26; Cn 30,23; Hs
12,4). Như vậy, người Pharisêu có thể nhớ tới trường hợp Giacóp đã chiếm chỗ
của Esau, nhận gia tài mà đúng ra ông không được hưởng. Cũng vậy, "những
người thợ giờ chót" sẽ thay chỗ những người đầu tiên "làm vườn nho"
(Mt 20,18). Cũng như thế, "người hàng chót sẽ lên hàng đầu (Lc 13,30,1; Cr
15,18). Y như vậy "dân ngoại sẽ thay thế cho dân được tuyển chọn: Đó là
quyền tuyệt đối và tình yêu nhưng không của Thiên Chúa (Rn 9,30). Trước thái độ
của Thiên Chúa như thế, không thể nói bất công được! Chúa thương yêu tất cả mọi
người. "Chẳng lẽ vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức sao?"
(Mt 20,15). Lạy Chúa Cha, con sẽ tạ ơn Chúa không biết mỏi mệt vì phổ quát của
Chúa. Con thường tự hỏi xem, con yêu Chúa thực sự không, nhưng con vẫn biết
thương yêu con.
Cậu trả lời cha: 'Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu
hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một
con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt
hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!
Như vậy, người con cả cho chúng ta thấy chính mũi nhọn của
dụ ngôn này: Anh ta không nhận thấy trọn vẹn Tình yêu mà anh ta đang thừa
hưởng.
Nhưng người cha nói với anh ta: 'Con à, lúc nào con cũng ở
với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng,
phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.
Qua dụ ngôn hai hồi này, chúng ta được mời gọi bước vào
trong Tình yêu của Thiên Chúa, vào trong niềm vui của Người, khi thấy kẻ tội
lỗi trở lại. Đó là lời loan báo cuộc trở lại của các dân ngoại, dân mới của
Thiên Chúa. Một ngày kia, Luca sẽ đặt vào môi miệng Phêrô những lời sau đây,
khi Phêrô nhận thấy ân sủng được ban cho viên đại đội trưởng ngoại giáo
Conêliô: "Vậy Thiên Chúa đã ban cho họ cùng một ân huệ như Người đã ban
cho chúng ta, vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu - Kitô, thì tôi là ai mà dám ngăn
cản Thiên Chúa" (Cv 11,17). "Không dành đặc ân, cho ai cả". Mọi
người đều được thương yêu.
21. Chú giải của Fiches Dominicales
DỤ NGÔN NGƯỜI CHA NHÂN HẬU
CÂU TRẢ LỜI CHO NHỮNG NGƯỜI PHARISÊU VÀ CÁC KINH SƯ
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Một dụ ngôn nhắm vào đám đông bị xúc phạm.
Tình hình ngày càng trở nên căng thẳng từ khi Đức Giêsu
"lên Giêrusalem". Qua dụ ngôn cánh cửa đã đóng lại, Đức Giêsu tuyên
bố: thuộc về dân Do Thái, không có nghĩa là tự động được dự tiệc cứu rỗi. Người
kết luận: "Anh em sẽ khóc lóc nghiến răng khi thấy Ápraham, Ixaác và
Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được trong Nước Chúa, còn mình lại bị đuổi ra
ngoài. Bấy giờ, thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên
Chúa" (13,28-30). Những người Pharisêu và các kinh sư suýt nghẹt thở mà
chết khi ngay trong ngôi nhà của một vị thủ lãnh Pharisêu đã mời người, Đức Giêsu
không những chỉ chữa một người bệnh thuỷ thủng ngày Sabát, mà còn kể cho họ
nghe dụ ngôn tiệc cưới: những khách được mời đã từ chối, thế là chủ tiệc cho
mời "những người nghèo khó, què quặt, đui mù" gom nhặt "ngoài
công trường, trên phố xá, đường đi, lối ngõ" (14,l5-24). Và rồi, họ cảm
thấy như bị xúc phạm, khi Chúa Giêsu hành động theo những gì đã nói, Người:
"Tiếp đón những người tội lỗi". Điều này còn tệ hại hơn nữa, vì theo
phong tục Đông phương, ý nghĩa biểu tượng của việc nhận biết và đón tiếp qua
bữa ăn có tầm quan trọng đặc biệt -Người "ăn uống với họ!" Bởi vậy,
những người Pharisêu và các kinh sư "kêu trách Người" như ngày xưa,
khi vượt qua sa mạc, tổ tiên họ đã kêu trách Chúa.
Chương 15 có giá trị thực sự là nhờ ba dụ ngôn Đức Giêsu
kể cố ý nhắm vào các kinh sư và những người Pharisêu vì họ tự cho mình là công
chính, mà khinh khi những người tội lỗi, và những người bị loại trừ.
Ba dụ ngôn này, được ngắt nhịp bằng một điệp khúc, ca ngợi
tình thương Thiên Chúa được tỏ bày nơi Đức Giêsu; tình thương ấy dành cho những
người không được thương yêu và không đáng yêu; những người, một cách gián tiếp,
lên án sự nghiệt ngã và nghiêm khắc mà nhưng kẻ tự phụ là công chính dành cho
họ: dụ ngôn con chiên lạc "mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn đồng bạc
"mất rồi lại tìm thấy", dụ ngôn cậu con thứ "mất rồi lai tìm
thấy".
Chỉ dụ ngôn thứ ba này được đọc trong Chúa nhật thứ 4 Mùa
Chay năm C này. Dụ ngôn gồm hai cảnh liên kết với nhau. Cảnh thứ nhất: vai diễn
là người con thứ. Cảnh thứ hai: vai diễn là người con cả; trong cả hai cảnh ấy,
người cha đóng vai quan trọng có tính quyết định.
2. Trong dụ ngôn ấy, người con thứ đã "mất rồi lại
tìm thấy".
Khuôn mặt của người con thứ được diễn tả hơi cường điệu
trong cảnh thứ nhất của dụ ngôn tuyệt diệu này. Không đợi tới khi người cha qua
đời, anh đòi chia gia tài ngay. Rồi ra đi để sống tự do. Mau chóng khánh kiệt
vì cuộc sống phóng đãng. Anh phải làm công cho một người ngoại giáo ở đất khách
quê người, và miễn cưỡng phải "chăn heo" cho chủ - đối với một người
Do Thái, đây là công việc hèn hạ - vì heo là một con vật dơ nhớp đối với Do
thái giáo. Bị dằn vặt bởi ý nghĩ: ở nhà cha thì đồ ăn dư thừa, người làm công
ăn không hết, thế mà ở đây anh đói khát, chỉ mong được "tống đầy bụng
những thứ heo ăn" mà không được.
Vừa đói khát, thiếu thốn vừa ân hận, một ngày kia, anh
quyết định trở về. Anh phác hoạ trong đầu những lời thống thiết nhất để xoa dịu
cơn giận của người cha: "Thưa cha, con đã lỗi phạm đón trời và đến cha,
con thật không xứng đáng được gọi là con cha nữa. Hãy coi con như một người làm
công trong nhà thôi".
Nhưng, chưa kịp thốt lên một lời, người cha đã giang rộng
vòng tay xiết chặt lấy anh. Cho tới bây giờ, anh chưa một lần nghi ngờ tình yêu
vô bờ bến của cha anh. Con tim anh rộn ràng những nhịp đập thổn thức. Không
phải đứa làm thuê? Con ta chứ! Hãy mặc áo đẹp ngày đại lễ. Đeo nhẫn vào tay,
biểu hiệu quyền uy. Xỏ giầy vào chân, biểu hiệu người tự do. Hãy ngồi vào bàn
tiệc. Mọii thành phần gia đình đang quây quần bên bàn ăn cùng chia sẻ niềm vui
của người cha.
3. Còn người anh trong tâm trạng giận dữ
Người anh "từ ngoài đồng" về đến nhà thì cuộc
vui đang diễn tiến. Nghe trong nhà có nhạc vui, anh hỏi xem có chuyện gì? Hiểu
ra, tâm trạng anh chuyển từ ngạc nhiên sang "giận dữ". Lại có thể cư
xử như vậy với thằng con hư đốn ư? Như phản ánh thái độ của các kinh sư và
những người Pharisêu luôn chỉ nghĩ đến phụng sự Chúa không sai một lời, nên,
anh cằn nhằn với cha mình: "Đã bao năm con phụng dưỡng cha, không bao giờ
bất tuân hay trái lệnh, mà chẳng bao giờ cha cho con một con dê để vui với bạn
bè". Để ở lại nhà cha, anh đã cư xử thật không khác một người làm công,
cần mẫn, nhưng vô tình, xa lạ. Anh không thể hiểu được ngôn ngữ của Giao ước mà
cha anh nói với anh: "Con ơi! Con luôn ở bên cha, mọi sự của cha là của
con mà". Anh chỉ nói bằng ngôn ngữ của quyền lợi và nghĩa vụ, của mệnh
lệnh và phần thưởng. Như các kinh sư và những người Pharisêu đối với tội nhân,
anh cũng giữ khoảng cách với đứa em mới trở về mà mọi người đang ăn mừng.
"Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn
điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo để ăn mừng".
4. Lòng quảng đại phi thường của người cha
Nếu phải coi chừng để đừng quên người con cả, thì chúng ta
càng không được quên chân dung người cha mà từ đầu đến cuối dụ ngôn luôn là một
nhân vật trung tâm, một người cha mà tình yêu luôn thôi thúc ông hướng về các
con. Ông không chỉ ngồi chờ. Phải "chạy ra" coi, và ông phải chạy ra
đến hai lần.
Ông chạy ra. hấp tấp, một thái độ đặc biệt đối với người
Đông phương. Ôm lấy cổ đứa con hoang đàng. Hôn nó tới tấp Nâng nó lên, ngắt
quãng những lời nó định nói, đưa nó vào nhà. Nhà của nó mà. "Mau
lên!" ông nói với các đầy tớ không chần chừ một giây. Phải mặc cho cậu
chiếc áo đẹp nhất đúng với cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay cậu, mang giầy vào chân
cậu. Giết bê béo. Dọn tiệc ăn mừng. "Mau lên!" vì một niềm vui đang
trào ngập lòng ông: "Con ta đây đã chết nay sống lại đã mất nay lại tìm
thấy".
Ông lại chạy ra để nài người anh vào nhà, để người anh
nhìn nhận đứa em mà anh ta đã miệt thị, để dự tiệc chung vui với mọi người.
Đây đúng là một dụ ngôn có tầm vóc thần học. Dụ ngôn của
ân huệ Chúa ban tặng con người. Dụ ngôn về tình yêu nhưng không Cha ban cho mọi
người, dầu tội lỗi mấy đi nữa. Cha muốn họ tham dự niềm vui, muốn mời họ khám
phá ra: anh huynh đệ chân chính. Làm sao không nhìn ra qua dụ ngôn này, Đức
Giêsu muốn trao cho chúng ta bí mật trong cách cư xử và đời sống của Người?
Người là Người Con được Cha sai đến loan báo sự hoà giải cho các tội nhân. Đó
là những người mà Đức Giêsu khắc hoạ hình ảnh nơi người em và đó cũng là những
người được mời gọi nhận ra chính mình nơi hình, ảnh của người anh!
5. Một dụ ngôn đặt chúng ta trong tình trạng người anh.
Thật ra, dụ ngôn còn để ngỏ đó. Người anh cả có thuận theo
lời khuyên dụ của cha anh không? Anh có bằng lòng vào chung vui không? Anh có
ưng thuận chung bàn với người em đã trở nên "dơ" không? Hay anh vẫn
giận dữ. Tường thuật của Tin Mừng không trả lời. Có lẽ mục đích của Tin Mừng là
để chúng ta tự phác hoạ cách chúng ta sẽ đối xử với anh em mình.
Huguses Cousin kết luận: "Thính giả là độc giả hãy
đặt mình vào vị trí của người anh: chính tôi sẽ ưng thuận lời thỉnh cầu của
người cha hay không. Thuận thì không dễ đâu, có khi khổ nữa. Dụ ngôn cho thật
sự đáp ứng ý cha không tự đến cách dễ dãi. kết thúc của dụ ngôn đặt chúng ta
vào vị thế người anh. Phụng vụ Mùa Chay như chẳng hoan hỉ đặt chúng ta vào vị
thế này mà trái lại, như muốn chúng ta thấy mình trong tâm trạng người em.
Thánh Luca thì chắc chắn nhấn mạnh hơn đến thái độ người anh. Dẫu sao, qua suốt
câu chuyện, chúng ta vẫn thấy nổi bật lên tình yêu là lòng cảm thương của người
cha đối với từng người. Chính nhờ tình thương này mà tội nhân hối cải, là chúng
ta vui vì họ trở về dù đôi khi rất khó mà vui được".
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Cả hai người con của dụ ngôn cùng hiện hữu trong ta
Niềm vui Phục sinh đã gần. Chúng ta có ưng thuận chia sẻ
niềm vui của người cha và đón nhận lời mời gọi dự lễ?
Như dân Israel vào đất Hứa, chúng ta cũng phải sống kinh
nghiệm vượt qua, đó là cuộc vượt qua của sự hoà giải, cuộc vượt qua này sẽ tái
tạo chúng ta trong một hiện hữu mới.
Dụ ngôn về người cha và hai người con vẫn để ngỏ! không ai
xác định được câu chuyện sẽ kết thúc thế nào.
Chúng ta hãy nhập vai. Cả hai người con cùng hiện diện
trong ta. Chúng ta có thể nhận ra mình trong những ảo tưởng của họ. Cả hai cùng
hiểu lầm về bản chất của mối tương quan giữa họ với cha và không biết tình yêu
của cha mình. Hãy theo sát những toan tính của người con khi trở về. Anh đã
sống lại nhờ người cha hân hoan loan báo sự tha thứ. Nhưng chúng ta cũng là
người anh, xơ cứng trong kiêu căng vì đã trung thành với cha. Anh sẽ cải mở là
chọn một chỗ ngồi trong bàn tiệc tập thể vì những kẻ mời đến, những kẻ từ xa
trở về. Còn đối với chúng ta, ai sẽ là "những người khác" mà cộng
đoàn chúng ta phải mở rộng cửa đón tiếp?
Nhận biết anh em là điều kiện để Cha nhận biết ta. Hoà
giải với anh em là cửa ngõ để hoà giải với Thiên Chúa. Đó là chân lý trong
Thánh lễ tạ ơn (eucharistie) mà chúng ta cử hành.
2. Tha thứ: từ ngữ đúng nhất của đức tin Kitô giáo.
(H. Denis, trong "100 từ ngữ diễn tả đức tin",
DDB, trg 17- 18).
Trong các từ ngữ chỉ đức tin Kitô giáo, thì chắc chắn tha
thứ là ưu việt hơn cả. Không phải tình cờ mà nó nằm trong kinh Lạy Cha.
Con chiên lạc, người con đi hoang, người phụ nữ ngoại
tình. Dakêu trên cây sung, người bại liệt được ròng xuống từ trên mái nhà. Đức
Giêsu đã gặp tất cả nhưng người này. Họ là những người tội lỗi, lầm lạc, hư
mất. Nhưng, Thiên Chúa tha thứ cho họ trong Đức Giêsu mà không cần một điều
kiện tiên quyết nào. Người không đòi hỏi gì. Đức Giêsu không bảo: "Làm cái
này rồi tôi tha thứ cho". Không? Người tha thứ rồi mới nói: "Hãy về
và đừng phạm tội nữa".
Người ta có thể chất vấn: tại sao tha thứ lại là một điều
thần thiêng như vậy? Tại sao tha thứ lại đưa người ta đến gần Thiên Chúa thế?
Câu trả lời có lẽ nằm trong chính từ ngữ: tha thứ vì tha
thứ là một ân huệ ở trên cao, siêu việt.
Ơn huệ thứ nhất ta được là hiện hữu của ta như một tạo
vật. May mắn là chúng ta vẫn là vậy. Nhưng cách cư xử, phong tục, lỗi lầm của
chúng la có thể phá huỷ ơn huệ đầu tiên này nơi ta, làm chúng ta bị "tha
hoá"
Chính lúc đó ơn tha thứ đến, một loại ơn tái tạo. Chúng ta
đã chết mà nay sống lại. Chúng ta không còn phải chịu đựng lẫn nhau nửa, chúng
ta lại chấp nhận lẫn nhau và lại thương yêu nhau. Đó là một cuộc tái sinh, một
sự Phục Sinh, một bước đi vào đời sống mới.
Như vậy thật là tốt đẹp khi chúng ta được tha thứ. Tuy
nhiên, thẳng thắn mà nói, liệu chính chúng ta có thể tha thứ được không? Tha
thứ đây không phải là quên, cũng không phải là chối bỏ những xác tín của chúng
ta, mà là tìm đến với kẻ xúc phạm ta. Và không cần để mất một chút gì về chân
lý, hoặc về lương tri phân biệt tốt xấu, để nói với kẻ phạm lỗi: bạn là anh, là
chị tôi.
Và có thể thêm một lời phi thường này: chính bạn hãy tha
cho tôi, vì bạn đã không xúc phạm đến tôi nếu trước đó tôi đã không xúc phạm
đến bạn.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét