DÂNG HOA MÂN CÔI |
ĐGH. KÊU GOI HOA BÌNH CHO
SUĐANG
. LU Y DÂNG LỄ TẠ ƠN |
LM. GIOAN B. PHẠM NĂNG TRÍ QUA ĐỜI |
GIÁO ĐIỂM TÂN AN |
LỄ
CÁC THÁNH
CÁC NGƯƠI HÃY TRỞ NÊN
THÁNH THIỆN , VÌ TA LÀ ĐẤNG THÁNH
SUY NIỆM PHÚC ÂM ( IV A
55), (Mt 5, 1-14), ( 01.11.2011)
LỄ
CÁC THÁNH NAM NỮ
Suy
niệm 1
"Phúc cho những ai có
tâm hồn trong sạch,
họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.”
-----------------------------------
họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa.”
-----------------------------------
Khi đề cập đến đặc tính chóng qua của
cuộc sống trần gian qua bài Tin Mừng lễ Các Thánh hôm nay, Giáo Hội mời gọi
chúng ta hãy tự đặt cho mình những câu hỏi, để thẩm định về ý nghĩa
cuộc đời. Hôm nay, cũng là đầu tháng các linh hồn, Giáo Hội muốn nói
rằng: chúng ta đang phải đối diện với cái hố sâu đang há ra, nơi mà
chiếc quan tài của mỗi người sẽ phải đặt ở đó. Nói như thế, liệu có hàm
chứa một cái gì đó bi quan chăng? Nhưng thực sự là thế!
Tuy nhiên, cái bi quan ấy lại là căn nguyên chính để chúng ta tìm cách bước vào hạnh phúc vĩnh cửu. Toàn bộ hạnh phúc sẽ ở đằng sau cái quan tài ấy, ở thế giới bên kia đầy ánh sáng diệu huyền. Hạnh phúc ấy cũng có thể có ngay ở trần gian này trước khi chúng ta phải đi vào hố sâu, nếu chúng ta biết sống các mối phúc, mà trong đó có mối phúc của một tâm hồn trong trắng. Các mối phúc ấy là kim chỉ nam hạnh phúc của mỗi người không phải chỉ sống bằng cơm bánh vật chất.
Vậy sống hạnh phúc ngay ở đời này là thế nào?
Thời đại chúng ta vẫn có nhiều người xem ra là thông minh tài giỏi mà vẫn không nhận ra khía cạnh ẩn dấu nơi bản tính tự nhiên đích thực của họ. Cái nhìn về đời sống vật chất quá chao đảo đến nỗi phần lớn cuộc đời họ chỉ làm việc vì đồng tiền. Cuối cùng cũng chỉ để nghỉ hưu, để ăn dưỡng và để chết. Ăn uống, ngủ nghỉ, và cả yêu đương... đều là những lo lắng chiếm đoạt.
Đúng ra chúng ta phải tự đặt câu hỏi: tôi là ai? Một dụng cụ sản xuất, một cần câu cơm hay một cái máy tính?
Không! Con người đâu phải là như vậy. Con người hơn thế nhiều! Con người còn có cái bên trong sâu thẳm, cái bề dày của đời sống thiêng liêng. Con người không phải chỉ là một người thợ sản xuất. Con người còn có tinh thần, biết trả lời cho những vấn đề lớn. Con người còn có một tâm hồn quảng đại, một trái tim say đắm cái đẹp, sự thiện. Mà sự thiện, cái đẹp tuyệt đối lại là chính Thiên Chúa, như một nhạc sỹ Công Giáo đã sáng tác: "Chúa là chân thiện mỹ, là chân lý là tình yêu là ánh sáng. Chúa là đường, là sự thật và là sự sống vinh quang".
Nhiều khi con người què quặt đời sống thiêng liêng, khập khiễng tâm hồn và teo đi những điều chính yếu:
- Biết bao người và nhất là giới trẻ mỗi ngày không biết dừng lại năm ba phút để suy nghĩ về cuộc đời mình!
- Biết bao người dám thờ ơ trước những nỗi đau của người khác!
- Biết bao người quá ồn ào và xô bồ về cuộc sống mà không biết giành một chút yên lặng để tìm gặp Chúa trong kinh nguyện! Và cuối cùng họ chẳng hạnh phúc chút nào!
- Biết bao người đi lễ chỉ vì thói quen có mặt trong nhà thờ, nhưng không gặp được Chúa. Như vậy, Thánh Lễ đối vói họ chẳng có ý nghĩa gì.
Ngày lễ hôm nay, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta đừng quá tự hào về cái bên ngoài. Hôm nay Giáo hội chúc tụng những con người khiêm tốn và bé nhỏ. Những con người mà suốt cuộc đời họ không làm gì khác thường. Họ sống trong các làng mạc, hay các khu phố ít người biết đến. Đôi khi họ còn là những con người bị khinh bỉ. Trong cái đơn sơ nghèo hèn mà ít người biết đến ấy, họ là những người lương thiện,"có tâm hồn trong sạch".
Và vì thế hôm nay họ được cả hoàn vũ, trải qua đời này qua đời khác hoan hô chúc mừng họ. Họ là những người chiến thắng. Họ là những vị thánh đích thực. Có khi họ cũng thuộc gia đình chúng ta. Khi họ còn sống, với con mắt thường, có lẽ chúng ta không biết đến sự thánh thiện của họ, vì họ không phải là những con người hoàn thiện. Họ cũng có những khuyết điểm như mọi người.
Nhưng nhìn lại, chúng ta thấy cuộc đời họ chất chứa một kho tàng tình yêu. Dù bao thách đố và mịt mù của cuộc sống, họ đã tìm kiếm và chiếm được hạnh phúc. Hạnh phúc mà Chúa đã ban cho những con người đơn sơ, dịu hiền, có lòng thương xót, khát khao sự công chính và tâm hồn trong sạch. Dù họ tội lỗi, nhưng họ biết ăn năn và đượcThiên Chúa thứ tha. Họ là những người rất gần chúng ta. Họ là thánh đấy!
Vậy mỗi người chúng ta tại sao lại không có thể nên thánh như họ được? Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu nói: "Thánh thiện là biết đặt trái tim chúng ta vào trong tay Cha. Lúc đó, chúng ta sẽ ý thức mình yếu đuối và nhỏ bé, phó thác tuyệt đối vào cánh tay của người Cha nhân lành".
Thánh thiện không phải là làm được việc này việc nọ. Thánh thiện là biết chấp nhận thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và luôn phó thác tin tưởng vào tình thương của Người. Như vậy, bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể nên thánh được và phải nên thánh.
Thánh thiện là làm điều tốt với tâm hồn đơn sơ trong sạch, không hám danh, không tính toán và không khoe khoang. Cha Guy Gilbert nói: "Nếu bạn tính toán điều thiện mà bạn làm, thì Thiên Chúa sẽ không tính điều đó. Hãy để vinh quang cho người khác, thì Thiên Chúa sẽ ban tặng vinh quang cho bạn"!
Lạy Thiên Chúa của con, Chúa vẫn yêu con, dù con đang sống giữa đường đời đầy gian nan thử thách. Chúa yêu con để con nên thánh. Phần con, con chỉ là hạt cát bụi trong lòng đại dương và bên cạnh một ngọn núi khổng lồ. Nhưng con nghĩ: Đại dương ấy, ngọn núi ấy là chính Chúa. Tình yêu Chúa lai láng như đại dương mênh mông. Sự thánh thiện của Chúa vĩ đại như ngọn núi khổng lồ và vút cao. Xin Chúa giúp con luôn ý thức và sống được như vậy. Sống được như vậy là con hạnh phúc lắm rồi! Amen.
Tuy nhiên, cái bi quan ấy lại là căn nguyên chính để chúng ta tìm cách bước vào hạnh phúc vĩnh cửu. Toàn bộ hạnh phúc sẽ ở đằng sau cái quan tài ấy, ở thế giới bên kia đầy ánh sáng diệu huyền. Hạnh phúc ấy cũng có thể có ngay ở trần gian này trước khi chúng ta phải đi vào hố sâu, nếu chúng ta biết sống các mối phúc, mà trong đó có mối phúc của một tâm hồn trong trắng. Các mối phúc ấy là kim chỉ nam hạnh phúc của mỗi người không phải chỉ sống bằng cơm bánh vật chất.
Vậy sống hạnh phúc ngay ở đời này là thế nào?
Thời đại chúng ta vẫn có nhiều người xem ra là thông minh tài giỏi mà vẫn không nhận ra khía cạnh ẩn dấu nơi bản tính tự nhiên đích thực của họ. Cái nhìn về đời sống vật chất quá chao đảo đến nỗi phần lớn cuộc đời họ chỉ làm việc vì đồng tiền. Cuối cùng cũng chỉ để nghỉ hưu, để ăn dưỡng và để chết. Ăn uống, ngủ nghỉ, và cả yêu đương... đều là những lo lắng chiếm đoạt.
Đúng ra chúng ta phải tự đặt câu hỏi: tôi là ai? Một dụng cụ sản xuất, một cần câu cơm hay một cái máy tính?
Không! Con người đâu phải là như vậy. Con người hơn thế nhiều! Con người còn có cái bên trong sâu thẳm, cái bề dày của đời sống thiêng liêng. Con người không phải chỉ là một người thợ sản xuất. Con người còn có tinh thần, biết trả lời cho những vấn đề lớn. Con người còn có một tâm hồn quảng đại, một trái tim say đắm cái đẹp, sự thiện. Mà sự thiện, cái đẹp tuyệt đối lại là chính Thiên Chúa, như một nhạc sỹ Công Giáo đã sáng tác: "Chúa là chân thiện mỹ, là chân lý là tình yêu là ánh sáng. Chúa là đường, là sự thật và là sự sống vinh quang".
Nhiều khi con người què quặt đời sống thiêng liêng, khập khiễng tâm hồn và teo đi những điều chính yếu:
- Biết bao người và nhất là giới trẻ mỗi ngày không biết dừng lại năm ba phút để suy nghĩ về cuộc đời mình!
- Biết bao người dám thờ ơ trước những nỗi đau của người khác!
- Biết bao người quá ồn ào và xô bồ về cuộc sống mà không biết giành một chút yên lặng để tìm gặp Chúa trong kinh nguyện! Và cuối cùng họ chẳng hạnh phúc chút nào!
- Biết bao người đi lễ chỉ vì thói quen có mặt trong nhà thờ, nhưng không gặp được Chúa. Như vậy, Thánh Lễ đối vói họ chẳng có ý nghĩa gì.
Ngày lễ hôm nay, Giáo Hội nhắc nhở chúng ta đừng quá tự hào về cái bên ngoài. Hôm nay Giáo hội chúc tụng những con người khiêm tốn và bé nhỏ. Những con người mà suốt cuộc đời họ không làm gì khác thường. Họ sống trong các làng mạc, hay các khu phố ít người biết đến. Đôi khi họ còn là những con người bị khinh bỉ. Trong cái đơn sơ nghèo hèn mà ít người biết đến ấy, họ là những người lương thiện,"có tâm hồn trong sạch".
Và vì thế hôm nay họ được cả hoàn vũ, trải qua đời này qua đời khác hoan hô chúc mừng họ. Họ là những người chiến thắng. Họ là những vị thánh đích thực. Có khi họ cũng thuộc gia đình chúng ta. Khi họ còn sống, với con mắt thường, có lẽ chúng ta không biết đến sự thánh thiện của họ, vì họ không phải là những con người hoàn thiện. Họ cũng có những khuyết điểm như mọi người.
Nhưng nhìn lại, chúng ta thấy cuộc đời họ chất chứa một kho tàng tình yêu. Dù bao thách đố và mịt mù của cuộc sống, họ đã tìm kiếm và chiếm được hạnh phúc. Hạnh phúc mà Chúa đã ban cho những con người đơn sơ, dịu hiền, có lòng thương xót, khát khao sự công chính và tâm hồn trong sạch. Dù họ tội lỗi, nhưng họ biết ăn năn và đượcThiên Chúa thứ tha. Họ là những người rất gần chúng ta. Họ là thánh đấy!
Vậy mỗi người chúng ta tại sao lại không có thể nên thánh như họ được? Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu nói: "Thánh thiện là biết đặt trái tim chúng ta vào trong tay Cha. Lúc đó, chúng ta sẽ ý thức mình yếu đuối và nhỏ bé, phó thác tuyệt đối vào cánh tay của người Cha nhân lành".
Thánh thiện không phải là làm được việc này việc nọ. Thánh thiện là biết chấp nhận thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh và luôn phó thác tin tưởng vào tình thương của Người. Như vậy, bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể nên thánh được và phải nên thánh.
Thánh thiện là làm điều tốt với tâm hồn đơn sơ trong sạch, không hám danh, không tính toán và không khoe khoang. Cha Guy Gilbert nói: "Nếu bạn tính toán điều thiện mà bạn làm, thì Thiên Chúa sẽ không tính điều đó. Hãy để vinh quang cho người khác, thì Thiên Chúa sẽ ban tặng vinh quang cho bạn"!
Lạy Thiên Chúa của con, Chúa vẫn yêu con, dù con đang sống giữa đường đời đầy gian nan thử thách. Chúa yêu con để con nên thánh. Phần con, con chỉ là hạt cát bụi trong lòng đại dương và bên cạnh một ngọn núi khổng lồ. Nhưng con nghĩ: Đại dương ấy, ngọn núi ấy là chính Chúa. Tình yêu Chúa lai láng như đại dương mênh mông. Sự thánh thiện của Chúa vĩ đại như ngọn núi khổng lồ và vút cao. Xin Chúa giúp con luôn ý thức và sống được như vậy. Sống được như vậy là con hạnh phúc lắm rồi! Amen.
Lm. Gioan Đặng Văn Nghĩa
=========================
Suy niệm 2
“TÔI SẼ NÊN THÁNH”
(Kh 7, 2-4. 9-14; 1Ga 3, 1-3; Mt 5, 1-12a)
“TÔI SẼ NÊN THÁNH”
(Kh 7, 2-4. 9-14; 1Ga 3, 1-3; Mt 5, 1-12a)
Hôm nay, cùng với Giáo Hội hoàn vũ mừng kính
trọng thể Lễ Các Thánh. Đây là niềm vui, vinh dự và là gia sản thiêng liêng lớn
lao của Giáo Hội và của từng người chúng ta. Bởi vì, trong mỗi gia đình, dòng
tộc, ít nhiều, đều có những vị thánh đang được hưởng tôn nhan Chúa.
Tuy nhiên, mỗi khi mừng lễ các thánh, có lẽ nhiều người trong chúng ta đặt ra cho mình những câu hỏi: các thánh là ai? Cuộc sống tại thế của các ngài có lẽ quá phi thường chăng? Liệu chúng ta có nên thánh được hay không?
1. Các thánh là ai?
Tuy nhiên, mỗi khi mừng lễ các thánh, có lẽ nhiều người trong chúng ta đặt ra cho mình những câu hỏi: các thánh là ai? Cuộc sống tại thế của các ngài có lẽ quá phi thường chăng? Liệu chúng ta có nên thánh được hay không?
1. Các thánh là ai?
Các thánh là ai? Đây là câu hỏi của rất nhiều người thuộc mọi giai tầng, tôn giáo trong xã hội cũng như của mỗi chúng ta! Đặt ra cho bản thân câu hỏi như thế, để từ đó tìm ra cho mình một câu trả lời.
Có người thì nói: “Các thánh là những người để cho Ánh Sáng Mặt Trời chiếu qua”; hay: “Các thánh là những người 99 lần ngã và lần 100 thì đứng dạy”; hoặc: “Các thánh là những người bình thường, nhưng sống cách phi thường”!
Giờ đây, chúng ta sẽ cùng nhau lần lượt chia sẻ những khái niệm mà người đời đã nhận thấy nơi cuộc sống của các thánh. Từ đó, tìm ra cho mình con đường nên thánh theo cung cách cá biệt của mỗi người.
- Các thánh là những người để cho Ánh Sáng Mặt Trời chiếu soi
Mặt Trời ở đây phải hiểu là chính Đức Kitô. Bởi vì Đức Kitô là Mặt Trời soi đàng công chính. Ngài đến để chiếu rọi vào trong tâm hồn mỗi người, hầu dẫn mỗi người đi trên đường lối của Thiên Chúa để được cứu độ. Thánh sử Gioan đã nói: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1, 9).
Chính Đức Giêsu cũng quả quyết: "Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống" (Ga 8, 12).
Như vậy, các thánh chính là những người chấp nhận để cho Ánh Sáng của Đức Kitô chiếu sáng trên cuộc đời của mình. Các ngài cũng là những người sẵn sàng đi theo Ánh Sáng một khi đã được Ánh Sáng soi dẫn. Từ đó, nhờ Ánh Sáng của Đức Kitô chiếu sáng, cuộc đời của các ngài không còn những bóng tối của tội lỗi, mà thay vào đó là sự hiền lành, hối cải, khát khao công chính, xót thương người, sống trong sạch, xây dựng hòa bình và sẵn sàng đón nhận đau khổ…
- Các thánh còn là những người 99 lần vấp ngã
Khi nói về cuộc đời các thánh, có lẽ chúng ta không khỏi ngạc nhiên với khái niệm trên! Nhưng trong thực tế, chúng ta thấy câu nói này quá đúng. Đúng là bởi vì không ai trước khi làm thánh mà không là phàm nhân. Đã là phàm nhân thì không thể tránh khỏi những thiếu xót. Đọc lại lịch sử các thánh, chúng ta nhận thấy rõ điều này. Chẳng hạn như Phêrô, vị Giáo hoàng đầu tiên của Giáo Hội, ngài là một người nhát đảm, hèn nhát, nóng nảy, giận hờn, nhất là phạm vào cái tội trời không tha, đất không dung là: trối Chúa tới ba lần. Hay như Phaolô, một kẻ hung bạo, khát máu đến tàn ác trong việc bắt bớ đạo và chém giết những ai dám cả gan tin theo Đức Giêsu. Danh Giêsu đối với Phaolô quả là một tên đáng tiêu diệt!
Chúng ta cũng nhận thấy nơi Mađalêna, một vị thánh nổi tiếng về lòng yêu mến Chúa. Nhưng trước đó, sự nổi tiếng của ngài lại nằm ở chỗ đàn điếm, ăn chơi trác táng. Hay như Augustinô, vị thánh của ân sủng. Nhưng lúc sinh thời, ngài cũng làm đình đám trong những chuyện ngang tàng, kiêu ngạo, nhất là phản đạo, chống Chúa bằng những triết thuyết mà bè rối Nhị Nguyên đầu độc. Và, gần chúng ta hơn cả, đó là một số thánh tử đạo Việt Nam! Đây đó, chúng ta cũng đọc thấy những trang sử viết về một thời của các ngài rất đen tối như: trối Chúa, chống đạo, ham quyền, hám lợi, thích chơi ngông....
Tuy nhiên, cũng một mẫu số chung, đó là: sau khi đã nhận ra và cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa đối với mình, đồng thời nhận ra những sai lỗi trong quá khứ, các ngài đã để cho lòng thương xót của Thiên Chúa rợp bóng trên cuộc đời các ngài với ý thức rằng: ở đâu tội lỗi tràn đầy, ở đó chứa chan ân sủng, bởi vì: dù tội lỗi có đỏ như son hay thẫm tựa vải điều, thì với ân sủng của Thiên Chúa, các ngài sẽ được trở nên trắng như tuyết, sạch như bông.
Các ngài đã hoàn toàn đi ngược lại với những người mất ơn cứu độ, họ là những người 99 lần tốt lành, nhưng lần cuối cùng thì ngã gục trong sự kiêu ngạo.
- Các thánh còn là những con người bình thường như bao người
Có những vị chẳng có gì gọi là chiến công hiển hách. Có những vị khi còn sinh thời đã bị coi khinh đến độ như một con lừa, đó là thánh Gioan Vianney. Có những vị trở thành trò cười cho thiên hạ như thánh Phanxicô Assisi. Hay tầm thường như Têrêxa Hài Đồng Giêsu. Có những vị bị người khác coi là bất thường như Gioan Thánh Giá, Têrêxa Avila. Lại có những vị sống âm thầm với những công việc chẳng có gì đáng kể như Martino Porresvà Giêrađô. Hay có những vị đơn thuần chỉ là ông bố, bà mẹ trong gia đình như song thân thánh Têrêxa. Cũng có những vị chết lúc tuổi đời còn quá trẻ, chưa có gì đáng để lưu dấu chốn trần gian như Saviô và Maria Gôretti.... Cũng không thiếu những vị suốt cuộc đời ẩn dật, âm thầm đến độ người đời không hề biết đến....
Các ngài là những con người bình thường. Tuy
nhiên, tất cả đã làm nên bất thường khi chính cuộc đời của các ngài là một bản
tình ca: “Tình yêu đáp trả tình yêu; mạng sống đáp đền mạng sống” một cách phi
thường. Vì thế, chúng ta không lạ gì khi cuộc đời của các ngài mê say Đức Giêsu
đến độ: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl 1, 21), vì: “Không có gì có thể
tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa thể hiện cho chúng ta trong Đức Giêsu
Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 8, 39).
Với tất cả những gì đã chia sẻ ở trên, giờ đây, mỗi người chúng ta có lẽ sẽ tiếp tục đặt ra cho mình những câu hỏi đại loại như: trong nội căn con người của tôi, tôi có mầm mống thánh không? Ông nọ bà kia nên thánh được, tôi có nên thánh được không?
2. Chúng ta có trở thành những vị thánh được không?
Với những câu hỏi vừa đặt ra, chúng ta cần phải khẳng định ngay rằng: tự căn nguyên nơi mỗi người, chúng ta thuộc về Chúa là Đấng Thánh và luôn được mời gọi nên thánh: “Hãy Nên Hoàn Thiện Như Cha Trên Trời” (Mt 5, 48). Hơn nữa, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa. Nơi ta và Chúa cùng chung nhau một giòng máu qua Đức Giêsu Kitô. Vì thế, lời mời gọi và mầm mống thánh nơi chúng ta luôn luôn thường trực trong tâm hồn.
Điều quan trọng, đó là: chúng ta có để cho mầm thánh nơi chúng ta lớn lên và phát triển như các thánh hay không mà thôi. Nếu chúng ta ngoan ngùy để cho Mặt Trời Công Chính chiếu qua bằng việc lắng nghe Lời Chúa và sẵn sàng buông theo ân sủng cũng như sống khiêm nhường, biết sám hối ăn năn, thì: “Ông nọ bà kia nên thánh được, tôi cũng sẽ nên thánh”. Và lời quyết tâm của thánh Giêrađô, tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế khi từ giã mẹ để lên đường đi tu đáng để cho chúng ta suy gẫm trong ngày lễ kính các thánh hôm nay: “Vĩnh biệt mẹ con đi làm thánh”.
Mong sao, mỗi khi mừng lễ các thánh, chúng ta hãy cố gắng noi gương các ngài và chu toàn bổn phận hằng ngày trong lòng mến, ngõ hầu mai ngày, chúng ta cũng sẽ là những vì sao sáng chiếu rọi trên không trung quanh Mặt Trời Công Chính là Đức Giêsu Kitô, để làm cho trần gian này sáng hơn và thánh hơn. Amen.
Với tất cả những gì đã chia sẻ ở trên, giờ đây, mỗi người chúng ta có lẽ sẽ tiếp tục đặt ra cho mình những câu hỏi đại loại như: trong nội căn con người của tôi, tôi có mầm mống thánh không? Ông nọ bà kia nên thánh được, tôi có nên thánh được không?
2. Chúng ta có trở thành những vị thánh được không?
Với những câu hỏi vừa đặt ra, chúng ta cần phải khẳng định ngay rằng: tự căn nguyên nơi mỗi người, chúng ta thuộc về Chúa là Đấng Thánh và luôn được mời gọi nên thánh: “Hãy Nên Hoàn Thiện Như Cha Trên Trời” (Mt 5, 48). Hơn nữa, ngày lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta thuộc về Chúa. Nơi ta và Chúa cùng chung nhau một giòng máu qua Đức Giêsu Kitô. Vì thế, lời mời gọi và mầm mống thánh nơi chúng ta luôn luôn thường trực trong tâm hồn.
Điều quan trọng, đó là: chúng ta có để cho mầm thánh nơi chúng ta lớn lên và phát triển như các thánh hay không mà thôi. Nếu chúng ta ngoan ngùy để cho Mặt Trời Công Chính chiếu qua bằng việc lắng nghe Lời Chúa và sẵn sàng buông theo ân sủng cũng như sống khiêm nhường, biết sám hối ăn năn, thì: “Ông nọ bà kia nên thánh được, tôi cũng sẽ nên thánh”. Và lời quyết tâm của thánh Giêrađô, tu sĩ dòng Chúa Cứu Thế khi từ giã mẹ để lên đường đi tu đáng để cho chúng ta suy gẫm trong ngày lễ kính các thánh hôm nay: “Vĩnh biệt mẹ con đi làm thánh”.
Mong sao, mỗi khi mừng lễ các thánh, chúng ta hãy cố gắng noi gương các ngài và chu toàn bổn phận hằng ngày trong lòng mến, ngõ hầu mai ngày, chúng ta cũng sẽ là những vì sao sáng chiếu rọi trên không trung quanh Mặt Trời Công Chính là Đức Giêsu Kitô, để làm cho trần gian này sáng hơn và thánh hơn. Amen.
Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP
============================
Suy niệm 3
Các Thánh là ai vậy?
(Mt 5, 1-12a)
Chúng ta hôm nay mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên Trời.
Có thể nói, hôm nay là ngày hội lớn, ngày vui mừng của mọi thành phần con cái
trong đại gia đình Hội Thánh. Mừng kính Các Thánh, là mừng kính những người
đang sống sự sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quang tràn đầy
trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.
Hỏi: Thiên đàng là gì ?
Thưa: Thiên đàng là nơi đầy dẫy những sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy mặt Đức Chúa Trời liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21).
Thiên đàng là cùng đích tối hậu, nơi ấy khát vọng sâu xa nhất của con người trở thành hiện thực, đó là tình trạng hạnh phúc cao nhất và vĩnh cửu (x. GLCG số 1023-1025), nơi người ta yêu thương nhau, là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và nước mắt. Trái lại, chỉ có hòa thuận và thương yêu, Các Thánh là những người đã đạt tới hạnh phúc đó.
Hỏi : Các Thánh là ai vậy ?
Là những người không bằng lòng với sự kém cỏi; với những biện pháp nửa vời. Các Thánh là những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát, nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như Chúa Giêsu công bố: “Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả” (Mt 5, 6).
Chi tiết trong bài đọc I của ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm Các Thánh là ai. Các Thánh là “những người giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Như thế, sự thánh thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ “thánh” có nghĩa chung là “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn quy tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm tục. Các Thánh tràn đầy sự thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các Thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.
Hỏi : Các Thánh làm gì trên thiên đàng?
Câu trả lời cũng được tìm thấy trong Bài đọc I: “Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Ca đoàn các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên trời, “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1, 46). Chính trong sự ca ngợi này mà Các Thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui, “Thần trí tôi hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa ngập tràn các ngài.
Hỏi : Các Thánh mặc áo gì?
Các Thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo mình trong máu Con Chiên. Các Thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của Đức Kitô. Các Thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ công bình đạo lý. Các Thánh mặc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.
Hỏi : Các Thánh là bao nhiêu?
Sách Khải Huyền nói : “Số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành, nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên Chúa ; họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót thương ; họ là những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ là những người xây dựng hòa bình nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những người bị bắt bớ, “họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến” (Kh 7, 14). Họ là các Tổ phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, các thánh Hiển tu, Ẩn tu, các thánh Đồng trinh thủ tiết, các thánh nam nữ.
Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được vào số những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn mà thôi.
Thánh Gioan đã nhìn thấy: “Đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng” (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội. Ðó là lý do tại sao Giáo hội thiết lập ngày Lễ Các Thánh, để mừng kính chung Các Thánh gồm cả Các Thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ tiên, họ hàng gần xa của mỗi chúng ta.
Giáo hội hôm nay mừng kính, có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cao sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người. Vì mọi người đều được kêu gọi nên thánh trong Đức Kitô. Các Thánh đã đạt tới hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.
Mừng kính Các Thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các ngài sống Hiến Chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.
Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của Các Thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh hóa bản thân như Các Thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với thánh ý Chúa.
Được như thế, chúng ta có thể “vui mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời” (Mt 5, 12a).
Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
Hỏi: Thiên đàng là gì ?
Thưa: Thiên đàng là nơi đầy dẫy những sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy mặt Đức Chúa Trời liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21).
Thiên đàng là cùng đích tối hậu, nơi ấy khát vọng sâu xa nhất của con người trở thành hiện thực, đó là tình trạng hạnh phúc cao nhất và vĩnh cửu (x. GLCG số 1023-1025), nơi người ta yêu thương nhau, là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến tranh, hận thù và nước mắt. Trái lại, chỉ có hòa thuận và thương yêu, Các Thánh là những người đã đạt tới hạnh phúc đó.
Hỏi : Các Thánh là ai vậy ?
Là những người không bằng lòng với sự kém cỏi; với những biện pháp nửa vời. Các Thánh là những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát, nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như Chúa Giêsu công bố: “Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả” (Mt 5, 6).
Chi tiết trong bài đọc I của ngày lễ giúp chúng ta hiểu thêm Các Thánh là ai. Các Thánh là “những người giặt áo và tẩy áo trắng trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Như thế, sự thánh thiện mà các ngài có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là “tách biệt” khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ “thánh” có nghĩa chung là “kitô hữu”, hợp thành cộng đoàn quy tụ chung quanh Đức Giêsu làm thành Dân thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm tục. Các Thánh tràn đầy sự thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các Thánh là những người đã được Thiên Chúa làm gia nghiệp.
Hỏi : Các Thánh làm gì trên thiên đàng?
Câu trả lời cũng được tìm thấy trong Bài đọc I: “Họ đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: “Kính lạy Thiên Chúa chúng tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên”. Ca đoàn các ngài được Đức Mẹ Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên trời, “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa…” (Lc 1, 46). Chính trong sự ca ngợi này mà Các Thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui, “Thần trí tôi hơn hở vui mừng trong Chúa Đấng Cứu Độ tôi” (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa ngập tràn các ngài.
Hỏi : Các Thánh mặc áo gì?
Các Thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo mình trong máu Con Chiên. Các Thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của Đức Kitô. Các Thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ công bình đạo lý. Các Thánh mặc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức Kitô, và hy vọng vào Thiên Chúa.
Hỏi : Các Thánh là bao nhiêu?
Sách Khải Huyền nói : “Số người được đóng ấn là một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel” (Kh 7, 4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành, nghèo khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên Chúa ; họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót thương ; họ là những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ là những người xây dựng hòa bình nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những người bị bắt bớ, “họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến” (Kh 7, 14). Họ là các Tổ phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, các thánh Hiển tu, Ẩn tu, các thánh Đồng trinh thủ tiết, các thánh nam nữ.
Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi thì quả là một điều đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được vào số những người đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn là con số biểu tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống đếm của người Do thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai ngàn nhân với mười hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn vẹn tuyệt đối, chứ không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn mà thôi.
Thánh Gioan đã nhìn thấy: “Đoàn người đông đảo không thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ tiếng” (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội. Ðó là lý do tại sao Giáo hội thiết lập ngày Lễ Các Thánh, để mừng kính chung Các Thánh gồm cả Các Thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ tiên, họ hàng gần xa của mỗi chúng ta.
Giáo hội hôm nay mừng kính, có những vị rõ ràng là thánh, những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh với đỉnh cao sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người. Vì mọi người đều được kêu gọi nên thánh trong Đức Kitô. Các Thánh đã đạt tới hạnh phúc đó, giờ đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ hành tiến về quê trời vinh phúc.
Mừng kính Các Thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các ngài sống Hiến Chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.
Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của Các Thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh hóa bản thân như Các Thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với thánh ý Chúa.
Được như thế, chúng ta có thể “vui mừng hân hoan vì phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các Thánh hiện nay là những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời” (Mt 5, 12a).
Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng con. Amen.
Bài
Phúc Âm Tám Mối Phước Thật hôm nay chúng ta đọc trong tinh thần ngày đại lễ
mừng Các Thánh, Anh Chị Em của chúng ta trong niềm tin Chúa Ki Tô, đã thực
hiện trọn vẹn ý nghĩa của cuộc sống và đang hạnh phúc hưởng dung nhan Chúa.
Sự thánh thiện, theo ý nghĩa của Thánh
Kinh, không phải là một cái gì chúng ta có thể tự do tùy hỷ thêm vào cuộc sống
của chúng ta, mà là chính những gì đòi buộc phải có một cuộc sống trọn hảo:
- " Các
ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng
Thánh" ( Lev 19, 2).
Sứ điệp của Tám Mối Phước Thật một đàng đưa
ra một đường lối sống phải có, dấn thân thực hiện và bảo vệ nhũng giá trị của
Nước Trời,
- " …có tâm hồn
khó nghèo,…ai không dùng bạo lực,…ai đau khổ,…ai khao khát sự công chính, ai
thương xót người,…ai có tâm hồn trong sạch,…ai xây dựng hòa bình, ai bị bách
hại vì công chính, …bị sỉ vả, bách hại vì danh Thầy",
đàng khác cũng loan báo cho chúng ta rằng
thực hiện những sứ điệp vừa kể là tìm được ý nghĩa của cuộc sống thánh thiện,
đạt đến hạnh phúc hoàn hảo của con người:
- " …vì Nước Trời
là của họ,… vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa,… vì họ sẽ được gọi là con Thiên
Chúa" ( Mt 5, 1.8.9.10)
Hay nói như Thánh Phêrô:
- " …đó là anh em
được dự phần vào bản tính Thiên Chúa" ( 2 Pet 1,4),
tức là chúng ta được Chúa cho sống bằng sự
sống mà chính Thiên Chúa đang sống.
Bài Phúc Âm của Tám Mối Phước Thật hôm nay
luôn luôn được khởi đầu bằng điệp ngữ:
- " Phúc cho
nhũng ai…".
Và qua những điều chúng ta vừa trích dẫn,
" Phúc cho những ai…", mà Đức Giêsu khuyên dạy chúng ta
là cách thức sống và hành động của Thiên Chúa, trước khi là khuôn mẫu mà Ngài
muốn cho chúng ta phải noi theo.
Nói cách khác, sự thánh thiện và hạnh phúc
của con người là hội nhập vào cách sống và hành động của Thiên Chúa, sống, suy
tư và hành động theo khuôn mẩu của Thiên Chúa
- " …vâng ý
Cha dưới đất cũng như trên trời" ( Mt 6,10)
Hay nói như người La Tinh thường nói :
- " Talis pater,
qualis filius" ( Cha nào, con nấy).
Cha sống sao, thì con cũng có cuộc sống như
vậy, sống và hành xử theo gương sống của cha.
Như vậy sự thánh thiện mà con người hướng
đến, hạnh phúc mà con người mơ ước để đạt được, " phúc cho những
ai…" nói như lời Đức Giêsu trong Tám Mối Phước Thật, chính là Thiên
Chúa, chính vì chúng ta được gần gũi Ngài.
Sự thánh thiện hay hạnh phúc của con người
không phải vì con người trở nên " …khó nghèo", "…không
dùng bạo lực","… đau khổ","… khao khát sự công
chính","… thương xót người","…có tâm hồn trong
sạch","… xây dựng hoà bình","… bị bách hại vì công
chính","…bị bách hại, sỉ vả và vu khống", mà vì trong những
nghịch cảnh và trong những trường hợp nổ lực, dấn thân để thực hiện vừa kể, họ
có Thiên Chúa ở bên cạnh. Chính Ngài là nền tảng của thánh thiện và hạnh phúc.
Trước nghịch cảnh , bất hạnh cũng như
trong những nổ lực đem lại hòa bình,
- tạo ra một xã hội
xứng đáng với nhân phẩm con người ( Gaudium et Spes, 57),
chúng ta cần có Chúa nâng đỡ. Và vì đó
chính Chúa Giêsu xác nhận:
- " Vì Ta đến
không để kêu gọi người công chính, mà kêu gọi ngưòi tội lỗi" ( Mt 9, 13).
Và
- " Phúc cho ai
xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa" ( Mt 5,9).
Tám Mối Phước Thật nói lên cho chúng ta
những giá trị của Thiên Chúa Giáo, và nói cho chúng ta biết Thiên Chúa
cảm thông và liên đới với nhân loại.
Sự thông cảm và liên đới đó, chính Đức
Giêsu là gương mẫu cho chúng ta noi theo qua suốt cuộc đời của Ngài. Ngài đứng
về phía những người nghèo, người thất học, người tội lỗi, nguời bệnh tật yếu
thế để nâng đỡ họ:
-" Lạy Cha là
Chúa Tể Trời Đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn
ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mạc khải cho những kẻ bé
mọn" (Mt 11,25)
Và cả cuộc đời Ngài là cuộc đời can thiệp
đê nâng đở những khốn cùng của con người:
- " người mù xem
thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống
lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng" ( Mt 11,5).
Cách hành xử đó của Đức Giêsu đã được Phúc
Âm ghi lại cho chúng ta, để soi sáng lối đi của nhũng ai muốn tiến đến sự thánh
thiện và hạnh phúc mà Chúa Giêsu đã tiên báo "phúc cho những ai…".
Như vậy, Phúc Âm của Chúa Giêsu không phải
chỉ là quyển sách chứa đựng những sứ mệnh để đem đến cho con người Tin Mừng cứu
rổi khỏi ách nô lệ của tội lổi,
- " hầu
ngày sau được hưởng phước đời đời "
và loan báo cho chúng ta địa vị cao cả của
con người, con Thiên Chúa, mà còn chúa đựng sứ mạng giải thoát toàn vẹn con
người, ngay cả ở cuộc sống trần gian, giải thoát khỏi áp lực và nô lệ bất cứ từ
đâu đến.
Tại sao?
Vì con người là con Thiên Chúa.
Đó là ý nghĩa của Huấn Dụ của Thánh Bộ Tín
Lý Đức Tin:
- " Phúc Âm của Chúa
Giêsu là Thông Điệp của tự do và sức mạnh để giải thoát. Trước tiên và chính
yếu Phúc Âm là Thông Điệp và sức mạnh giải thoát khỏi nô lệ căn cội của tội
lỗi. Và từ đó là sự giải thoát toàn vẹn con người. Điều đó có nghĩa là Phúc Âm
giải phóng con người khỏi ách nô lệ của văn hóa, kinh tế, xã hội và chính trị.
Tất cả những căn cội nô lệ đó, chung quy điều phát xuất từ tội lỗi ( từ ý thúc
hệ băng hoại về con người), tạo nên muôn vàn nghịch cảnh, ngăn cản con người có
được một cuộc sống xứng đáng với địa vị của mình" ( S. Congregazione per
la Dottrina della Fede, Instructio Libertatis Nuntius, 06.08.1984, n.866).
Và như vậy, sống thánh thiện và sống trong
niềm ao ước của Tám Mối Phước Thật, là tin và đem ra thực hiện lời mời gọi của
Đức Giêsu trong Phúc Âm của Ngài, lấy cách hành xữ của Thiên Chúa làm cách sống
của mình và hành động như lời huấn dụ của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin vừa trích
dẫn.
Lời mời gọi đó không phải chỉ dành cho
những hành động anh hùng phi thường, dám liều mạng tranh đấu để bảo vệ đức tin,
" TỰ DO TÔN GIÁO HAY LÀ CHẾT", mà là lời kêu gọi đối với bất cứ ai,
trong cuộc sống thường nhật, nếu họ muốn chiếm hữu được Thiên Chúa:
- " …vì họ sẽ
được gọi là con Thiên Chúa" ( Mt 5, 9).
Hay nói như sách Khải Huyền được trích dẫn
trong bài đọc thứ nhất hôm nay:
- "
Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt
sạch và tẩy áo trắng mình trong máu Con Chiên " ( Ap 7, 14).
- Mừng Các Thánh Nam Nữ
(Mt 5, 1-12a)
Phụng vụ lễ trọng kính
Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa hôm nay, với lời kinh, tiếng hát, các bài đọc,
thánh ca lôi cuốn tâm hồn chúng ta vượt qua không gian và thời gian, bay lên
cõi trời cao để chiêm ngưỡng Các Thánh, những người được coi là diễm phúc.
Thánh Phêrô nói với chúng ta rằng Thiên Chúa muốn tất cả chúng ta sẽ là những
vị thánh :" Bởi chưng đã viết rằng: Các ngươi hãy là thánh vì Ta là
Thánh " (1Pr 1, 16). Ở đầu mỗi câu Tin Mừng (Mt 5, 1-12) hôm nay là
một loạt các từ "phúc", chúng ta có thể suy diễn rằng, Thiên
Chúa muốn chúng ta là những người hạnh phúc, những thánh nhân, phúc nhân.
Suy diễn này không quá
ảo tưởng, vì vào lúc khởi đầu Kitô giáo, các thành phần của Giáo Hội được gọi
là "những người thánh". Chẳng hạn như nơi thư Côrintô, thánh Phaolô
ngỏ lời với những kẻ được thánh hoá trong Chúa Giêsu Kitô là "chư thánh đã
được (Thiên Chúa) hiệu triệu"(x.1 Cr 1, 2), được mời gọi trở nên thánh
thiện, cùng với tất cả những ai khẩn cầu danh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Quả thực, người kitô đã là "thánh" rồi, vì Bí tích Rửa tội kết hiệp
họ với Chúa Giêsu và với mầu nhiệm Vượt Qua của Người; nhưng đồng thời người
kitô còn phải trở nên thánh, trở nên giống như Chúa Kitô, mỗi ngày một mật
thiết hơn.
Ðôi khi người ta nghĩ
rằng sự thánh thiện là một điều ưu tiên dành cho vài người được tuyển chọn.
Nhưng thật ra, việc trở nên thánh là trách nhiệm của từng kitô hữu, hay có thể
nói là của mọi người! Theo thánh Tông Ðồ Phaolô thì từ muôn thuở, Thiên Chúa đã
chúc lành cho chúng ta và đã tuyển chọn chúng ta trong Chúa Kitô, "để trở
nên thánh thiện và không tì ố trước nhan Ngài trong tình bác ái" (Eph 1, 3-4).
Như thế, tất cả mọi người đều được mời gọi sống thánh thiện; ai trong chúng ta,
dù yếu đuối và tội lỗi, dù nhỏ bé và nghèo hèn, đều có thể trở nên thánh nhân,
và được mời gọi trở nên thánh : "Các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các
ngươi trên trời là Ðấng trọn lành" (Mt 5, 48).
Nên trọn lành là trở
nên giống Chúa, và ai trong chúng ta cũng có thể trở nên giống Chúa, vì Thiên
Chúa đã dựng nên chúng ta theo hình ảnh của Người, giống như Người (St 1,
26-27). Tự bản chất, chúng ta giống Chúa, tâm hồn chúng ta đẹp như Chúa. Chính
tội lỗi làm cho tâm hồn chúng ta ra nhem nhuốc, xấu xí, không còn giống Chúa
nữa. Tội lỗi làm cho chúng ta bị tha hoá, bị khác đi, không còn giữ được bản
chất tốt lành của mình nữa, hạnh kiểm của chúng ta trước mặt Chúa là yếu kém.
Nhưng ai trong chúng
ta lại không ước mơ trở nên tốt lành? Chúng ta mong lắm, thích lắm, vì trở nên
tốt lành là trở về với bản chất của mình, trở nên giống Chúa là Chân Thiện Mỹ.
Có điều là chúng ta ngại khó, ngại hy sinh, ngại cố gắng, ngại từ bỏ những điều
vui sướng nhất thời trước mắt, chúng ta không có can đảm. Sự thánh thiện hệ tại
việc sống như là những con cái Thiên Chúa, trong việc "trở nên giống"
Thiên Chúa, như đã được tạo thành.
Điều làm cho chúng ta
phấn khởi trong ngày lễ hôm nay, là Các Thánh trên trời rất đông, rất nhiều
người trong nhân loại, trong đó có thể có những người thân của chúng ta, khi
còn sống, họ đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ và thăng trầm, nhưng cuối cùng
đã được thanh tẩy mình trong máu Con Chiên là Chúa Giêsu, họ đã trở nên tinh tuyền,
sạch đẹp và đang hưởng hạnh phúc với Chúa.
Hôm nay Các Thánh Nam
Nữ thúc giục chúng ta cách dặc biệt: hãy cố lên! Ai trong chúng ta cũng có thể
cố lên. Có rất nhiều người đã thành công. Sách khải huyền nói đến một đoàn
người thật đông đảo không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi nước và mọi ngôn
ngữ (x. Kh 7, 9).
Còn chúng ta đang ở
dưới thế, nơi có quá nhiều cám dỗ và cạm bẫy, chúng ta yếu đuối khó vươn lên,
hoàn cảnh của chúng ta có khi lại quá phức tạp và khó khăn, nhiều khi chúng ta
nản chí buồn lòng, không còn muốn phấn đấu nữa. Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng
lúc nào cũng nhìn đời với cặp kính màu đen, hãy lạc quan, tin tưởng, yêu đời
hơn, dù cuộc đời có đủ thứ rắc rối, có phũ phàng mấy đi nữa. Lời thánh Phêrô
khuyên chúng ta "cả anh em nữa, hãy nên thánh trong tất cả hạnh kiểm"
(1Pr 1, 15).
Hãy tin tưởng vào
Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên mọi sự tốt lành, Đấng nắm giữ vận mệnh của lịch
sử. Hãy nghe lời thánh Gioan nói xem "Tình yêu của Thiên Chúa Cha đối với
chúng ta thế nào, khiến chúng ta được gọi là con Thiên Chúa" (1 Ga 3, 1).
Chính sự tin tưởng vào Thiên Chúa làm cho chúng ta tự tin hơn và yêu đời hơn.
Mỗi lần cố gắng trở nên tốt hơn, là một lần chúng ta trở nên giống Chúa hơn.
Chúa Giêsu đã vạch ra con đường Tám Mối Phúc Thật cho tất cả chúng ta đi theo
hầu trở nên giống Người. Đó là con đường mà Người đã đi, khi Người còn sống
thân phận lữ thứ trần gian như chúng ta: " Phúc cho những ai..." (x.
Mt 5, 1-12)
Mừng lễ Các Thánh Nam
Nữ hôm nay, ngự giữa cộng đoàn Các Thánh, có Ðức Nữ Ðồng Trinh Maria, Ðấng
khiêm nhu nhưng cao trọng hơn mọi tạo vật. Chúng ta hãy đặt đôi bàn tay ta vào
trong tay của Mẹ để Mẹ hướng dẫn, có Mẹ dẫn lối chỉ đường, chúng ta cảm thấy
mình được khích lệ tiến bước với niềm hăng say hơn trên con đường thánh thiện.
Hãy phó thác cho Mẹ cố gắng dấn thân hằng ngày và khẩn cầu Mẹ cho những người
thân yêu của chúng ta đã qua đời. Trong niềm hy vọng sâu xa một ngày kia tất cả
chúng ta sẽ gặp lại nhau, trong sự hiệp thông vinh quang của Các Thánh trước
tòa Chúa. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lễ Các
Thánh Nam Nữ
(Mt 5, 1-12a)
Hôm nay cùng với toàn
thể Giáo hội mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên Trời. Có thể nói, hôm
nay là ngày hội lớn, ngày vui mừng hân hoan của tất cả mọi thành phần con cái
trong đại gia đình Giáo hội. Mừng kính Các Thánh, nghĩa là mừng kính những
người đang sống sự sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quang
tràn đầy trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.
Hỏi : Thiên đàng là
gì ?
Thưa : Thiên đàng là
nơi đầy dẫy những sự vui vẻ vô cùng, mà phúc nhất trên thiên đàng là xem thấy
mặt Đức Chúa Trời liên (Sách Bổn Hà Nội tr. 21).
Thiên đàng là cùng
đích tối hậu, nơi ấy khát vọng sâu xa nhất của con người trở thành hiện thực,
đó là tình trạng hạnh phúc cao nhất và vĩnh cửu (x. GLCG số 1023-1025), nơi
người ta yêu thương nhau, là nơi chỉ còn tình yêu là đáng kể, nơi có Thiên
Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau, nơi không còn chết chóc, chiến
tranh, hận thù và nước mắt. Trái lại chỉ có hòa thuận và thương yêu, các thánh
là những người đã đạt tới hạnh phúc đó.
Hỏi : Các Thánh là ai vậy ?
Là những người không bằng lòng với sự kém cỏi; với những
biện pháp nửa vời. Các Thánh là những người đói và khát sự công chính, theo
ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát, nên Thiên Chúa
đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như Chúa Giêsu công bố :
"Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả"
(Mt 5, 6).
Chi tiết trong bài đọc thứ nhất của ngày lễ giúp chúng ta
hiểu thêm Các Thánh là ai. Các Thánh là "những người giặt áo và tảy áo
trắng trong máu Con Chiên" (Kh 7,14). Như thế, sự thánh thiện mà các ngài
có được là từ Chúa Kitô. Trong Cựu Ước, làm thánh có nghĩa là "tách
biệt" khỏi tất cả những gì ô uế. Chữ "thánh" có nghĩa chung là
"kitô hữu", hợp thành cộng đoàn qui tụ chung quanh Đức Giêsu
làm thành Dân thánh. Sự thánh tách khỏi sự phàm tục. Các Thánh tràn đầy sự
thánh, còn người phàm mang đầy sự phàm. Các Thánh là những người đã được Thiên
Chúa làm gia nghiệp.
Hỏi : Các Thánh làm gì trên thiên đàng?
Câu trả lời cũng được tìm thấy trong Bài đọc I: "Họ
đứng trước ngai vàng và trước mặt Con Chiên, mình mặc áo trắng tinh, tay cầm
nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô rằng: "Kính lạy Thiên Chúa chúng
tôi, Đấng ngự trên ngai vàng, và Con Chiên". Ca đoàn các ngài được Đức Mẹ
Maria hướng dẫn, Mẹ tiếp tục thánh thi ca ngợi của Mẹ trên trời, " Linh
hồn tôi ngợi khen Đức Chúa..." (Lc 1, 46). Chính trong sự ca ngợi này mà
Các Thánh gặp được hạnh phúc và niềm vui , "Thần trí tôi hơn hở vui mừng trong
Chúa Đấng Cứu Độ tôi" (Lc 1, 47). Vinh quang và hạnh phúc của Thiên Chúa
ngập tràn các ngài.
Hỏi : Các Thánh mặc áo gì?
Các Thánh mặc áo chùng trắng, giặt áo mình trong máu Con
Chiên. Các Thánh mạc áo đỏ, mặc áo theo con đường tử đạo của Đức Kitô. Các
Thánh mạc áo xanh vì đã xây dựng hòa bình, yêu thương và phục vụ công bình đạo
lý. Các Thánh mạc áo vàng khi tham dự vào chức huy hoàng của Đức Kitô, và hy
vọng vào Thiên Chúa.
Hỏi : Các Thánh là bao nhiêu?
Sách Khải Huyền nói : "Số người được đóng ấn là
một trăm bốn mươi bốn ngàn người, thuộc mọi chi tộc Israel" (Kh 7,
4). Tôn chỉ của họ là Tám Mối Phúc Thật. Phúc cho những ai hiền lành, nghèo
khó; họ là những người khóc lóc nay tìm được sự ủi an ở nơi Thiên Chúa ;
họ là những người biết thương xót người nay được Chúa xót thương ; họ là
những người trong sạch nay được nhìn thấy Thiên Chúa; họ là những người xây
dựng hòa bình nên được gọi là con Thiên Chúa; họ là những người bị bắt bớ,
"họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến" (Kh 7, 14). Họ là các Tổ
phụ, các Tiên tri, các Tông đồ, Tử đạo, các thánh Hiển tu, Ẩn tu, các thánh
Đồng trinh thủ tiết, các thánh nam nữ.
Tuy nhiên nếu con số chỉ có thế thôi thì quả là một điều
đáng lo sợ, bởi vì người tín hữu như ta đâu có hy vọng được vào số những người
đó? Vậy con số đó là thế nào? Số một trăm bốn mươi bốn ngàn là con số biểu
tượng cao đầy đủ, chỉ những người được cứu rỗi. Theo hệ thống đếm của người Do
thái, một người có thể đếm cao tới mười hai ngàn. Mười hai ngàn nhân với mười
hai, thành một trăm bốn mươi bốn ngàn, một con số cao trọn vẹn tuyệt đối, chứ
không phải chỉ theo nghĩa đen là một trăm bốn mươi bốn ngàn mà thôi.
Thánh Gioan đã nhìn thấy: "Đoàn người đông đảo không
thể đếm được, họ thuộc đủ mọi nước, mọi chi họ, mọi dân tộc và mọi thứ
tiếng" (Kh 7, 9). Họ thuộc đủ mọi thành phần và mọi tầng lớp trong xã hội.
Ðó là lý do tại sao Giáo hội thiết lập ngày Lễ Các Thánh, để mừng kính chung
Các Thánh gồm cả Các Thánh không tên tuổi, trong đó phải có tổ tiên, họ hàng
gần xa của mỗi chúng ta.
Giáo hội hôm nay mừng kính, có những vị rõ ràng là thánh,
những vị được tôn phong hiển thánh, những vị có tên trong kinh cầu các thánh
với đỉnh cao sáng rực. Nhưng cũng nhớ và kính mừng những vị thánh chìm sâu
trong lòng đất, trong xác thịt mồ hôi nước mắt của kiếp người. Vì mọi người đều
được kêu gọi lên thánh trong Đức Kitô. Các Thánh đã đạt tới hạnh phúc đó, giờ
đây trên thiên quốc vui mừng hân hoan tận hưởng phần thưởng trọng đại Chúa dành
cho các ngài. Đó cũng là niềm hy vọng của tất cả chúng ta đang sống phận lữ
hành tiến về quê trời vinh phúc.
Mừng kính Các Thánh, chúng ta cậy nhờ các ngài nguyện
giúp cầu thay cho chúng ta bao lâu còn sống ở đời tạm nay, biết noi gương các
ngài sống Hiến Chương Nước Trời, thực hành Tám Mối Phúc như Chúa Giêsu dạy, để
mai sau cũng được Chúa ân thưởng thiên đàng.
Với niềm hy vọng, cùng với gương sáng và sự trợ giúp của
Các Thánh, chúng ta cũng có thể làm thánh, và phải nên thánh bằng cách tự thánh
hóa bản thân như Các Thánh đã làm, tức là sống theo tinh thần và mệnh lệnh của
Tin Mừng là : hiền lành, bác ái, hòa thuận, trong sạch, với tâm hồn luôn
hướng về những thực tại siêu nhiên, chịu đựng những vất vả, đau khổ tự nhiên
hay do người khác mang đến, luôn tìm kiếm Chúa và cố gắng sống phù hợp với
thánh ý Chúa.
Được như thế, chúng ta có thể "vui mừng hân hoan vì
phần thưởng của chúng ta sẽ trọng đại ở trên trời như Các Thánh hiện nay là
những anh em chúng ta đang ca tụng Chúa muôn đời" (Mt 5, 12a).
Lạy Các Thánh Nam Nữ của Thiên Chúa, xin cầu cho chúng
con. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn
Độ
LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
Lời Chúa: *Rm 6,3-9; Ga 6,51-59 *Kn 3,1-9; Lc 23, 33.39-43;
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Ml. 1,14b – 2,2b.8-10; 1Tx. 2, 7b-9.13; Mt. 23, 1-12
MỤC LỤC
SUY NIỆM LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
1. Cái chết
2. Bốn bà vợ
3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh Hồn
4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn
5. Thân xác và linh hồn – John W. Martens
6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền Lâm
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
8. Lịch sử ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn
9. Tưởng nhớ người đã ra đi
10. Bài giảng của ĐTGM. Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
11. Lòng biết và thảo kính đối với tổ tiên
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
13. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đình Thái
14. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
15. Tri ân tình cha, tình mẹ - Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
16. Luyện ngục
17. Nghĩ về sự chết – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
18. Luyện ngục
19. Bóng câu cửa sổ
20. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
21. Bên kia sự chết
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
23. Các tín hữu đã qua đời
24. Các linh hồn
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
1. Khiêm nhường
2. Khiêm nhường
3. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Hãy sống trong sự thật
5. Là anh em với nhau
6. Đạo đức thật và đạo đức giả
7. Đầy tớ
8. Đóng kịch
9. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm. Trần Ngà
10. Biệt phái giả hình
11. Sống chân tình
12. Nói và làm
SUY NIỆM LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
1. Cái chết
Hôm nay chúng ta tụ tập trong nhà thờ này để cử hành lễ các Linh
Hồn, để tưởng nhớ đến những người đã khuất nhất là những người đã có một mối liên
hệ thương yêu và ơn nghĩa đối với chúng ta như ông bà cha mẹ. Chính vì thế mà
tôi muốn chia sẻ một vài ý nghĩa về sự chết. Vậy cái chết là gì và nó đem lại
cho chúng ta những bài học nào?
Cái chết là một sự dứt bỏ có tính cách cưỡng bức, nó chia lìa hai
người bạn thân thiết nhất đó là linh hồn và thể xác. Cái chết là một cuộc hành
trình, một chuyến đi cô đơn nhất vì người ra đi sẽ phải để lại sau lưng tất cả
những gì mình quyến luyến nhất, từ những người thân yêu đến tiền bạc và địa vị
được gầy dựng do mồ hôi nước mắt. Nó sẽ chấm dứt tất cả những gì chúng ta đã
đầu tư trong cuộc đời. Chính vì thế nó thường làm cho chúng ta bàng hoàng và sợ
hãi.
Thế nhưng, là người Kitô hữu chúng ta phải nhìn cái chết dưới
ánh sáng đức tin. Thực vậy dưới ánh sáng đức tin thì cái chết không phải là một
chấm dứt mà là một khởi đầu, không phải là một ra đi mà là một trở về nhà Cha,
không phải là một chia lìa nhưng là một kết hợp mật thiết với Thiên Chúa. Từ đó
chúng ta rút ra được những bài học quý giá.
Bài học thứ nhất đó là ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Ý nghĩa
đó được tóm gọn trong câu giáo lý: Hỏi người ta sống ở đời để làm gì? Thưa, ta
sống ở đời để nhận biết, thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời và thương yêu mọi
người như anh em. Hầu ngày sau được mưu hạnh phúc đời đời. Câu trả lời này thật
ngắn gọn và rõ rệt, giúp chúng ta giải quyết những vấn đề đã từng làm cho chúng
ta băn khoăn và thắc mắc. Không hiểu được chân lý này, hay cố tình quên lãng
chân lý này, chúng ta sẽ trở nên những kẻ lầm đường lạc lối, không còn thấy được
phương hướng cho cuộc sống, liều mình mất đi cả chì lẫn chài, cả đời này lẫn
đời sau. Murillo, một hoạ sĩ Tây Ban Nha, đã khắc trên tường phòng mình hàng
chữ như sau: Hãy sống như là sẽ phải chết. Hãy tập làm quen với cái chết bằng
tinh thần từ bỏ liên tục.
Bài học thứ hai là bài học khôn ngoan. Trong mọi hoàn cảnh, hãy
chuẩn bị sẵn sàng để ra trước mặt Chúa mà tính sổ cuộc đời. Đừng bao giờ quên
rằng, chúng ta được xét xử dựa trên tình yêu: tình yêu đối với Thiên Chúa và
đối với anh em, chứ không phải là được xét xử theo dáng bộ bề ngoài và những
việc đạo đức nặng phần trình diễn. Bởi vậy trong nhịp sống thường ngày, chúng
ta có lo thực thi bác ái hay không, có biết thực tâm tha thứ cho kẻ lỗi phạm
đến chúng ta hay không? Có biết nở nụ cười hoà giải đối với những kẻ đã gây nên
xích mích, có biết đem lại niềm vui và hạnh phúc cho những kẻ xung quanh? Có
biết làm chứng nhân cho Chúa bằng đời sống yêu thương hay không?
Nếu trong cuộc sống trần gian, chúng ta đã thực sự yêu thương
anh em thì chúng ta mới có thể tiến lại gần cùng Thiên Chúa, Đấng có một trái
tim cảm thông với đau khổ sẵn sàng để tha thứ và ân thưởng những người thiện
chí. Khi tâm hồn chúng ta đã giao hoà cùng Thiên Chúa, thì bấy giờ cái chết
không còn nhuốm vẻ tang tóc bi ai nữa. Chúng ta không còn nói như Laffirgue:
Điều đau buồn nhất trong cuộc sống là cái chết. Trái lại chúng ta sẽ bảo: Đối
với người tín hữu thì điều an ủi và khích lệ nhất trong cuộc sống là cái chết,
bởi vì cái chết sẽ chấm dứt những đau khổ phần xác, để rồi dẫn đưa chúng ta vào
niềm hạnh phúc vĩnh cửu.
2. Bốn bà vợ
(Suy niệm ngày Lễ Các Linh Hồn của Frère Trần An Phong)
Một phú gia kia cưới đến 4 bà vợ.
Ông ta rất thương bà vợ thứ nhất, mỗi khi kiếm được tiền là ông
liền mua sắm cho bà đủ thứ áo quần sang trọng, dẫn bà đi ăn tại các nhà hàng
trứ danh. Không những thế, ông còn tung tiền mua sắm cho bà đủ thứ hột xoàn,
trân châu. Bà muốn gì ông cũng chiều chuộng. Ông cưng bà như cưng trứng, hứng
bà như hứng hoa!
Và mỗi lần đi họp, hay đi kinh doanh, ông đều sung sướng và hãnh
diện mang theo bà vợ thứ hai. Ông luôn khoe bà với bà con lối xóm, với đồng
nghiệp, khách hàng. Bà là niềm hãnh diện của ông!
Mỗi khi gặp khó khăn, cho dù lớn hay nhỏ, ông đều thủ thỉ, tâm
sự với bà vợ thứ ba. Ông tin tưởng bà lắm, vì bà luôn là người cố vấn cho ông,
một người cố vấn khôn ngoan, trung tín và đầy yêu thương. Bà thật là người bạn
đời tri kỷ có một không hai trên đời!
Còn bà vợ thứ tư lại rất thương ông, thương ông tha thiết,
thương ông nồng nàn, thương ông chứa chan. Nàng dành hết cả cuộc đời mình để lo
cho cuộc sống của ông, sự nghiệp của ông. Nàng không từ chối một hy sinh nào
cho chồng cả. Ngay cả những khi ông lầm lỗi, bà cũng can đảm thầm nhắc nhở,
khuyên lơn, và rộng lòng tha thứ. Thế nhưng! Ông lại chẳng mấy khi để ý đến
nàng.
Rồi một ngày kia, ông phát bệnh. Bệnh ung thư của ông đã đến
thời cuối cùng, các bác sĩ đều bó tay. Biết mình chả còn sống được bao lâu, ông
bèn cho mời các bà vợ đến để nói lời cuối cùng.
Bà thứ nhất mặc xiêm y lộng lẫy, nữ trang óng ánh, nước hoa lan
tỏa khắp phòng, đến bên chồng đang hấp hối.
- Em, anh sắp chết rồi. Em là người anh yêu mến nhất, chăm sóc
cho em từng li từng tí. Em có muốn theo anh về bên kia thế giới để chung sống,
để lo lại cho anh không?
- Không!
Nàng lạnh lùng đáp.
- Anh đi đường anh, em đi đường em. Tình nghĩa đôi ta có thế
thôi.
Nói xong, nàng ngoảnh mặt, vội vã bước ra khỏi phòng. Lời bà như
một nhát dao đâm thấu tim ông!
Người phú gia vừa cố gắng nắm tay bà vợ thứ hai, vừa run run
hỏi:
- Em, suốt đời anh, em là niềm hạnh phúc, là niềm kiêu hãnh của
anh. Giờ đây anh sắp chết, em có muốn theo anh về bên kia, như hào quang chói
sáng cho anh, như người tiến cử anh vào cuộc sống huy hoàng không?
- Không! Anh chết rồi, tôi sẽ cưới người khác. Tôi phải thuộc về
người khác chứ! Ai lại theo kẻ chết xuống mồ bao giờ.
Nói xong, nàng trở gót bỏ đi. Mỗi tiếng gót giày nàng nện xuống
thềm nhà, là một nhát búa đóng đinh xuyên qua tim chàng.
Đau buốt, nát tim, người phú gia quay nhìn bà vợ thứ ba và ân
cần hỏi:
- Em, trong suốt cuộc đời, em là người luôn sát cánh cùng anh.
Không có chuyện gì mà anh không chia sẻ cùng em. Em luôn bên cạnh anh, lúc vui
cũng như lúc buồn. Giờ đây, anh sắp chết, em có chịu theo anh không?
- Anh yêu, em biết anh yêu em lắm, và em cũng yêu anh. Nhưng
cùng lắm, em chỉ có thể theo anh ra nghĩa trang, nhìn anh đi vào lòng đất lạnh,
rồi thắp cho anh những nén hương lòng. Em sẽ nhớ anh thật nhiều, nhưng theo
anh, em không thể nào làm được.
Nói xong, nước mắt nàng tuôn trào.
Bỗng đâu, một giọng nói yếu ớt vang lên:
- Em sẽ theo anh về bên kia thế giới. Anh yêu, cho em theo anh.
Đừng bỏ em!
Chàng phú gia lấy hết sức tàn ngồi chổm dậy, nhìn về phía phát
xuất ra giọng nói. Và kià! Người vợ thứ tư của chàng đang ôm mặt khóc nức nở.
Thân hình nàng qúa mảnh khảnh tựa hồ dễ bị cuốn theo chiều gió. Một người vợ
yêu chàng tha thiết, nhưng đã bị chàng bỏ bê cả cuộc đời.
* * *
Trước cái chết, chàng phú gia mới chân nhận ra giá trị tình yêu.
Ngày hôm nay, ngày nhớ đến Các Tín Hữu Đã Qua Đời, 2 tháng 11 mỗi năm, mình nhớ
đến cái chết, và nhận ra bốn bà vợ của đời mình.
Mình đã quá yêu bà vợ thứ nhất - thân xác mình. Cho dù mình có
mặc cho nó đủ thứ lụa là gấm vóc, nuôi dưỡng bằng cao lương mỹ vị, mình cũng
chẳng đem theo được về bên kia thế giới.
Mình đã hãnh diện với chức tước, bằng cấp - bà vợ thứ hai -
nhưng chức tước ấy sẽ thuộc về người khác khi mình giã từ cõi thế.
Họ hàng, gia đình mình - bà vợ thư ba, sẽ theo mình ra tận nghĩa
trang, sẽ hằng năm kỵ giỗ cho mình, nhưng nào ai theo mình xuống huyệt.
Còn cái linh hồn của mình - bà vợ thứ tư - mà mình đã vì qúa
chăm lo thể xác, chạy theo tiền tài danh vọng, bon chen chức tước quyền cao, ít
khi mình buồn nghĩ đến thì sẽ theo mình đi vào thiên thu.
* * *
"Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!
Suốt cuộc đời, tôi xin hát mừng Chúa,
Sống bao lâu, nguyện đàn ca kính Chúa Trời.
Đừng tin tưởng nơi hàng quyền thế,
Nơi người phàm chẳng cứu nổi ai.
Họ tắt hơi là trở về cát bụi,
Dự định bao điều: ngày ấy tiêu tan.
Phúc thay người được Chúa Trời nhà Gia-cóp phù hộ
Và cậy trông Chúa, Thiên Chúa họ thờ." (Thánh Vịnh 145: 1-5)
3. Suy Niệm & Sống Tháng Các Linh Hồn
(Suy niệm của Lm. Gioan B. Nguyễn Đình Lưu)
"Con hãy nhớ đến mẹ mỗi khi dâng thánh lễ". Lời thánh
Monica cũng chính là ý nguyện mà các linh hồn tiền nhân muốn nhắc nhở cùng
chúng ta là con cháu của các ngài.
Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh tối Thứ Năm tuần trước có
phát đi chương trình: "Những đứa con hiếu thảo". Một trong những
khuôn mặt được giới thiệu đó là anh Kim Sơn. Tuổi thơ của anh là những tháng
ngày đen tối, bởi cha mẹ đã sớm ly dị khi đã có với nhau ba mặt con. Thiếu sự
yêu thương dạy dỗ, Kim Sơn xa dần trường học để bước vào trường đời. Bài học
đầu đời mà Kim Sơn học được đó là bài học lừa lọc, dối trá, đấu đá để dành
quyền sống. Kết cục của những tháng ngày ngang dọc là những ngày đen tối trong
chốn lao tù, là sự hận đời đen bạc, là nỗi buồn tuyệt vọng cô đơn.
Trong lúc đó, mẹ của anh vẫn tần tảo với gánh bún riêu, lê gót
qua các phố chiều, chắt chiu từng đồng, để đổi lấy cho anh những hũ chao, những
lon ruốc sả. Trải qua nhiều năm tháng, tình thương của người mẹ không hề xói
mòn, hy vọng của mẹ không hề bị dập tắc. Cuối cùng tình mẹ đã chiến thắng. Năm
2005, anh được ra khỏi trại và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ổn định cuộc sống,
anh lập gia đình và đưa mẹ về sống chung để có dịp phụng dưỡng. Anh dứt khoát
không để mẹ phải gánh bún đi bán, anh hứa với lòng mình: mẹ muốn ăn gì, mặc gì,
anh sẽ mua cho mẹ. Anh còn tuyên bố: hạnh phúc nhất của đời tôi là được sống
với mẹ, là được ở bên mẹ mãi mãi.
Câu chuyện của anh Kim Sơn, hẳn phải làm ấm ấp bao tấm lòng của
các bà mẹ, đang được sống trong sự chăm sóc ân cần của con cháu, sau một đời
tần tảo vất vả. Tuy nhiên, không phải ai cũng được hưởng những ngày tháng hạnh
phúc trong sự đùm bọc của con cái. Lại càng ít người còn nhớ và lo lắng cho cha
mẹ khi các ngài đã qua đời. Chính vì thế mà Giáo hội đã dành ngày 2 tháng 11
này, và trọn tháng 11 để khơi dậy lòng hiếu thảo nơi những người Kitô hữu, cũng
là những người con của gia đình.
Ai trong chúng ta lại chẳng một lần sinh ra bởi cha mẹ, chẳng
được ấp ủ trong mái ấm gia đình. Đây chính là chiếc nôi của tình yêu, ngôi
trường của lòng nhân ái. Từ trong cái xã hội nhỏ bé ấy, chúng ta đã được bú
mớm, nuôi dạy, và từng ngày lớn lên trong vòng tay yêu thương của tình cha, và
tiếng ru ầu ơ của mẹ. Để đổi lấy cho chúng ta sức khỏe, cha mẹ đã phải đổ bao
mồ hôi sức lực để có bữa cơm miếng cá cho con; lại còn biết bao trăn trở lo
lắng cho chúng ta về đường đức tin, học vấn. Hôm nay, chúng ta thành người, có
địa vị, có cuộc sống an lành, có gia đình ổn định, lại chính là lúc mà các ngài
nhắm mắt xuôi tay. Cái giá mà các ngài phải trả cho sự thành đạt, thành nhân
của chúng ta, đâu chỉ là công sức, là nước mắt, là những héo hắt khổ đau, mà có
khi còn cả mạng sống mình. Ca dao ViệtNam đã mượn hình ảnh rất quen thuộc để
diễn tả sự hy sinh ấy:
"Con cò lặn lội bờ ao, gánh gạo nuôi chồng..."
hay:
"Cha mẹ thương con như biển hồ lai láng,
con thương cha mẹ tính tháng tính ngày".
Giờ phút này, nghĩ lại công ơn to lớn của các bậc tổ tiên ông bà
cha mẹ, ai trong chúng ta lại không cảm thấy dạt dào niềm xúc động nhớ thương.
Nỗi niềm trắc ẩn thôi thúc chúng ta phải làm một cái gì đó cho các ngài, giúp
đỡ các ngài, báo hiếu các ngài.
Ai dám quả quyết: hạnh phúc đang ở trong tầm tay của các người
thân yêu chúng ta, hay vẫn còn đang là số phận đau thương của chốn hỏa hòa rên
xiết.
Vì vậy cùng với lòng tưởng nhớ tri ân, chúng ta hãy thực hiện
điều mà các ngài ngày đêm mong chờ khao khát: đó là sớm giúp các ngài ra khỏi
chốn luyện hình đau thương, vào chung hưởng hạnh phúc với Chúa. Công việc này, tự
sức các ngài không làm được, chỉ biết trông cậy vào chúng ta là con cháu.
Theo lời khuyên bảo của Giáo hội, chúng ta hãy gửi đến cho các
đẳng linh hồn nhiều lời cầu nguyện, nhiều việc lành hy sinh, nhất là những
thánh lễ trên Bàn Thờ. Bài đọc sách Mikea mà chúng ta vẫn nghe trong thánh lễ
an táng đã đề cao việc quyên góp xin lễ cho các linh hồn, là một điều hết sức
cần thiết và quí giá. Bởi vì khi cử hành thánh lễ, là tái hiện hy tế Thập giá
của Chúa Giêsu, là hiện tại hóa Mầu Nhiệm cứu độ cho các đẳng linh hồn, là mở
ra cánh cửa hy vọng cho các người thân của chúng ta, là đưa các ngài từ chốn
đau khổ tối tăm vào nơi ánh sáng hạnh phúc.
Và còn gì hạnh phúc hơn, khi chúng ta biết rằng một khi được đón
nhận vào tham dự hạnh phúc với Thiên Chúa, các linh hồn sẽ cầu bầu cùng Chúa
cho chúng ta là con cháu của các ngài còn đang phải từng ngày chiến đấu vật lộn
với những cam go thử thách. Cuộc thử thách ấy đang diễn ra từng ngày không cân
sức, giữa thế lực của ma quỷ, của sự tội, của đam mê với niềm tin còn quá mỏng
dòn và non yếu của người Kitô hữu.
Như Đức Kitô đã từng an ủi các Tông đồ trong giờ phút biệt ly
đầy nước mắt và đau thương: Lòng các con đừng xao xuyến... thì các đẳng linh
hồn cũng đang khích lệ và ngỏ lời cùng chúng ta:
- Đừng xao xuyến vì Con Thiên Chúa đã chết để đền thay tội lỗi
của chúng ta.
- Đừng xao xuyến vì Ngài đi là để dọn đường cho chúng ta.
- Hãy tin vào Thiên Chúa vì Ngài là Đấng từ bi và giàu lòng
thương xót.
- Hãy tin vào Thiên Chúa và trung thành với Ngài qua các công
việc bổn phận hằng ngày và việc giữ các giới răn của Chúa.
Xin vì công nghiệp của Đức Kitô, nhờ lời cầu bầu của các thánh
và cầu nguyện của cộng đoàn dân Chúa, Chúa sẽ tha thứ, và sớm đưa các đẳng linh
hồn về hưởng hạnh phúc, sau cả đời đã tin tưởng phó thác nơi Chúa.
Kim Sơn sau cả một quãng thời gian đi hoang, không màng đến sự
hy sinh vất vả và nước mắt của mẹ, nhưng cuối cùng, anh đã làm cho người mẹ
mình thỏa lòng mát dạ khi đã hối hận trở về, cùng dành trọn thời gian còn lại
để lo lắng chăm sóc tuổi già của mẹ.
Còn phần chúng ta, được đánh thức qua câu chuyện của anh Kim
Sơn, chúng ta sẽ làm gì cho các bậc tổ tiên ông bà cha mẹ, anh chị em thân yêu
của mình trong ngày hôm nay và trong tháng các đẳng linh hồn này?
Xin Chúa cho mỗi chúng ta, luôn biết tỏ lòng thảo kính đối với
các bậc tổ tiên ông bà, cha mẹ, anh chị em đã qua đời, bằng việc đọc kinh, dâng
những hy sinh việc lành, và đặc biệt là thánh lễ mồng 2 tháng 11 hôm nay, xin
vì công nghiệp của Con Chúa trên Thập giá, mà thứ tha muôn tội lỗi và đưa các
ngài về hưởng hạnh phúc tôn nhan Nước Chúa.
4. Suy niệm Lễ Các Linh Hồn
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên)
Trong 4 tháng lang thang trên đất Mỹ, tôi nghe và thấy nhiều
cảnh ngộ của cái chết:
Một người VN ở Cali chết thật bình thường, nhưng nghe
nói tang lễ cho cụ ít ra cũng 20,000.00 USD, riêng cỗ quan đã hết 7,000.00 rồi.
Kể ra cái chết ở đấy cũng có giá cao đấy.
Ở Florida tôi nghe kể về cái chết của một Bác Sỹ VN,
sau năm 75, Ông đã nỗ lực để nuôi con ăn học thành tài trên đất khách quê
người, ai cũng thành tài và thành công. Bà Cụ thì mất trước khá lâu. Ông đến
tuổi hưu. Sống một mình, lấy việc dạy võ dưỡng sinh cho các đồng hương làm niềm
vui. Rồi cụ phải vào bệnh viện. Cuối cùng cũng đã chết ở đó, không người thân
bên cạnh. Người ta phải theo giấy tờ trong người cụ, để điện cho các con cụ.
Khi các con có mặt, tất cả đã ký giấy để hiến cụ cho khoa thí nghiệm của bệnh
viện: vì tương lai khoa học! Chuyện ấy cũng rất bình thường, nếu như không có
cái chuyện sau đó. Phải, các đồng hương của cụ, vì mến yêu tinh thần hy sinh và
phục vụ cộng đồng của cụ, muốn đến làm lễ truy điệu cho cụ tại tang gia. Nhưng
ở đây con cái cụ quá ngạc nhiên về cái yêu cầu ấy, vì gia đình không làm gì cả,
mọi việc là bệnh viện đã làm theo cách của bệnh viện rồi. Cuối cùng, vì sự tha
thiết của các đồng hương, người gia đình bằng lòng cho họ mượn một tấm ảnh cụ
để tổ chức lễ truy điệu cho Thầy ở nơi khác.
Ở Arlington, tôi nghe kể về cái chết của một cụ già người Mỹ. Cụ
sống với cụ Bà ở đây đã lâu, cho dù có 2 người con, cũng thành đạt, nhưng chẳng
bao giờ thấy họ tới thăm các cụ. Trong trường hợp cụ bà thế nào không biết,
nhưng hàng xóm thấy mùi hôi nồng nặc từ nhà các cụ, báo cảnh sát, người ta mới
khám ra cụ ông đã chết mấy ngày rồi!
Tôi cũng được thông tin về cái chết của 17 thủy binh trên chiến
hạm Cole. Tôi nhìn trên TV thấy người ta đang tìm kiếm Thống
Đốc Missouri sau tai nạn máy bay. Tôi cũng thấy cảnh chiếu người ta
quăng xác 2 cảnh sát chìm Do Thái qua cửa sổ, và những cái chết do sự trả thù.
Cái chết vẫn ám ảnh cuộc sống con người, cho dù con người luôn
tự hào về tiến bộ, văn minh, giàu sang và no đủ, dường như là đã đẩy lùi bóng
ma sự chết.
Tuy nhiên, có lẽ người ta khá thành công trong việc khiến cho
con người không còn nhiều suy nghĩ về những vấn đề siêu hình, kể cả cái chết.
Con người hầu như chỉ còn kịp suy nghĩ về công việc làm mỗi ngày của họ thôi.
Họ đi bên cạnh cái chết với sự rất xa lạ.
Nếu như chỉ có cái hiện tại là quan trọng, thì tôi thiết nghĩ
những cái chết cụ thể trên kia thật vô cùng phi lý. Những cái chết chỉ vì cho
một hiện tại tốt đẹp, lại bị chính đứa con mình cưu mang phủ nhận cách thật phũ
phàng. Cho dù bằng lý trí, con người muốn chối bỏ cái bên kia sự chết, nhưng
bằng chính mỗi một cái chết của mình, con người lại khẳng định họ tin vào thế
giới bên kia cái chết, cho dù nó là gì, thì không ai nói thành lời.
Đức Giêsu Kitô, đã đến, và cũng bằng cái chết của mình, Ngài
khẳng định bên kia sự chết, có thế giới của sự sống thật: Sự sống chan hòa yêu
thương. Tình Yêu được đảm bảo bởi Tình Yêu Vô Biên của MỘT NGƯỜI CHA. Đức Giêsu
đến để đem lửa yêu thương ấy vào trần gian, để biến đổi mọi hiện tại của cõi
nhân sinh nên hiện tại vĩnh hằng của Tình Cha với con cái mình.
Ngày lễ Các Linh Hồn chỉ có ý nghĩa trong Tình Yêu Vĩnh Hằng ấy:
Cuộc sống hôm nay, không chỉ là cơm bánh, nhưng còn là ánh sáng
yêu thương của Cha rọi soi mọi giây phút cuộc đời mình. Tình yêu phải phủ trùm
mọi cảnh huống, kể cả cõi sống bên kia cái chết.
5. Thân xác và linh hồn – John W. Martens
(Văn Hào, SDB chuyển ngữ)
"Ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết" (Ga 6,40).
Khi chúng ta chết, điều gì sẽ xảy ra? Đây là vấn nạn chúng ta
thường đặt ra, đặc biệt đối với các Kitô hữu, khi mọi người đều hướng vọng về
sự sống mai sau. Nhưng trước khi thân xác chúng ta được phục sinh trong ngày
sau hết, trong thời gian chuyển tiếp, điều gì sẽ xảy ra. Khi chúng ta giã từ
trần gian, chúng ta sẽ đi về đâu? Đây là điều thường gây ngộ nhận, nếu chúng ta
không quán triệt giáo lý của Giáo hội. Hồi còn nhỏ tôi vẫn nghĩ tưởng về sự
phục sinh mai sau, và cho rằng khi tôi chết, tôi sẽ được sống lại ngay lập tức
trên quê trời, cùng với tất cả những ai đã được quyền năng của Chúa cho sống
lại. Đây không phải là cái nhìn theo quan điểm Kitô giáo. Tuy nhiên nhiều Kitô
hữu vẫn ngộ nhận rằng sau khi chết, chúng ta sẽ sống trên quê trời, tuy không
mang hình hài thân xác, nhưng linh hồn chúng ta được giải thoát khỏi những ràng
buộc của thể lý, và đó cũng là cuộc sống mà mọi người phải hướng vọng về. Cuộc
sống mai hậu, khi thân xác chết đi, là một điều rất khó giải thích, bởi vì những
bản văn Kinh Thánh chỉ nói tới cách rời rạc, và không nhất quán đưa ra một cắt
nghĩa tổng thể. Về cuộc sống chúng ta sau khi chết đi, Kinh Thánh chỉ mặc khải
một cách tiệm tiến và dần dần.
Những người Do Thái cổ đại không đặt trọng tâm vào thế giới mai
sau, nhưng họ chỉ nhắm đến cuộc sống hiện sinh với những phần thưởng và chúc
lành từ nơi Thiên Chúa. Đó là một cuộc sống trường thọ của ngày hôm nay, được
đông con nhiều cháu, được dư dật của cải, cụ thể có đầy tràn hoa màu ruộng đất
và đàn gia súc dư giả. Theo quan niệm cổ xưa, người chết sẽ xuống âm phủ, là
nơi không phải để thưởng phạt, nhưng chỉ là nơi bóng tối của sự chết bao trùm
khi chúng ta an giấc ngàn thu.
Cựu ước rất ít nói về sự phục sinh. Mãi về sau này, trong các
bản văn thuộc thế hệ sau lưu đầy, khi dân Israel trở về kiến thiết
lại Giêrusalem, sự phục sinh thân xác mới được nhắc tới. Vài thế kỷ trước công
nguyên, dần dần xuất hiện sự phát triển quan điểm về số phận muôn đời của người
đã chết. Muộn thời sau này, người Do Thái mới có tư tưởng, tuy không hệ thống
hóa, nhưng nhấn mạnh rằng trọn vẹn con người chúng ta, cả xác lẫn hồn, sẽ được
chỗi dậy trong ngày sau hết.
Trong khi khá ít những tư tưởng nói về cuộc sống con người sau
cái chết để chờ đợi được phục sinh, thì tác giả sách Khôn ngoan, bộ sách đã
được viết vào khoảng từ năm 30 đến năm 40 trước công nguyên tại Alexandria,
thành phố nói tiếng Hy Lạp, có đề cập đến "linh hồn những người công
chính" đã chết. Tác giả viết "Linh hồn những người công chính ở trong
tay Chúa và chẳng cực hình nào động tới được nữa. Bọn ngu si coi họ như đã chết
rồi. Khi họ ra đi, chúng cho là họ gặp phải điều vô phúc. Lúc họ xa rời chúng
ta, chúng ta tưởng là họ bi tiêu diệt. Nhưng thật ra họ đang hưởng bình an (Kn
3 1-3). Quan niệm âm phủ không còn nữa, nhưng thay vào đó, là tình trạng con
người thoát khỏi cực hình và được an bình. Toàn bộ trình thuật đưa ra một tiến
trình phán xét sau khi chết, và nói về sự hiện diện tiếp mãi của Thiên Chúa.
Nhưng bản văn cũng tiên báo một Vương quốc của Thiên Chúa trong tương lai, khi
đó linh hồn người công chính sẽ thống trị muôn dân nước và xét xử muôn dân tộc,
và Đức Chúa sẽ cai trị họ đến muôn đời (Kn 3, 7-8).
Đối với người Kitô hữu, Vương quốc tương lai này sẽ được khai mở
khi Đức Giêsu trở lại, lúc đó tất cả mọi người, kẻ sống cũng như kẻ chết, sẽ
được tham phần vào sự sống lại của Đức Kitô nơi thân xác họ. "Vì chúng ta
đã nên một với Đức Kitô nhờ được chết như người đã chết, thì chúng ta cũng sẽ
nên một với người, nhờ được sống lại như Người đã sống lại (Rm 6,5). Đức Giêsu
đã nói về sứ mạng cứu thế của Ngài, khi chiến thắng tội lỗi và sự chết "
Quả thật, đây là ý muốn của Cha tôi, những ai thấy Chúa Con và tin vào Người
Con, sẽ có sự sống đời đời, và ta sẽ cho họ chỗi dậy trong ngày sau hết".
Tất cả những ai còn sống trong thân xác trần thế, chúng ta đợi
chờ cái chết chắc chắn sẽ đến, và hướng vọng về Vương quốc mai sau trong sự
hiện diện của Thiên Chúa. Họ cũng ngóng đợi sự viên thành của Vương quốc nước
trời, khi hồn và xác được kết hiệp lại để sống muôn đời. Sách Giáo lý Công giáo,
điều 1005, cũng cắt nghĩa theo lời dạy của Thánh Phaolô, với một viễn cảnh tràn
trề hy vọng: "Để được chỗi dậy với Đức Kitô, chúng ta phải chết với Đức
Kitô, tức là chúng ta phải xa lìa thân xác để được cư ngụ với Chúa". Sự
chia lìa tạm thời này, chính là cái chết, khi thân xác tách rời khỏi linh hồn.
Linh hồn sẽ được kết hiệp lại với thân xác trong ngày kẻ chết sống lại. Vì thế,
cùng với những linh hồn công chính đã ra đi trước chúng ta, các Kitô hữu sẽ chờ
đợi Vương quốc của Thiên Chúa, nơi đó tất cả sẽ được viên toàn, và Thiên Chúa
sẽ là tất cả trong mọi sự.
6. Suy niệm Lễ Các Đẳng Linh Hồn – Hiền Lâm
I. THÁNH LỄ I – Tin mừng Gioan 6,37-40
Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng mầu nhiệm các thánh
thông công, là sự hiệp thông mật thiết giữa ba thành phần Hội Thánh, bao gồm
Hội Thánh Vinh Thắng, Hội Thánh Lữ Hành và Hội Thánh Thanh Luyện. Ngày hôm qua,
trong sự tương giao, Hội Thánh Lữ Hành chúng ta hân hoan chia sẻ niềm vui và
cảm tạ Chúa với Hội Thánh Vinh Thắng trên trời, thì hôm nay, chúng ta cùng hiệp
thông cầu nguyện cho Hội Thánh Thanh Luyện là các đẳng linh hồn trong luyện
ngục.
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra cho chúng ta một tiêu chuẩn giúp
chúng ta sẽ đạt tới vinh thắng, đồng thời cũng nâng đỡ niềm tin cho chúng ta
khi dâng lời cầu xin cho các tín hữu đã qua đời.
1) Vâng theo Thiên Ý (x.Ga 6,37-39)
Mở đầu bài Tin Mừng, Chúa Giêsu khẳng định sứ mạng của Người là
đến trần gian để làm theo ý Chúa Cha, hầu cứu độ hết mọi người, không loại trừ
một ai.
- Noi gương Chúa Giêsu, chúng ta sống sứ mệnh người Kitô hữu, là
vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, để được thông phần vào cuộc
Tử Nạn của Chúa Giêsu Kitô, mưu ích cho các linh hồn, và mai sau cũng được phục
sinh với Người.
- Các tín hữu đã qua đời, cũng là những người như chúng ta, đã cùng
được dìm trong nước Thánh Tẩy, được lãnh lấy của ăn thần linh là Thánh Thể, và
đã vượt qua cái chết thể lý. Chúng ta tin tưởng lời Chúa Giêsu hứa hôm nay
rằng, những ai Chúa Cha ban cho Tôi thì Tôi không muốn để mất một ai, mà sẽ ban
sự sống đời đời cho họ, và cho họ sống lại trong ngày sau hết. Tuy nhiên, trong
thời gian còn sống, các linh hồn còn vướng những vết nhơ tội lỗi và chưa được
hoàn toàn xứng đáng diện kiến Chúa. Mầu nhiệm hiệp thông các thánh thông công,
chúng ta tin tưởng cầu xin cho họ.
2) Tin vào Chúa Giêsu Kitô (x.Ga 6,40)
Chúa Giêsu nói rõ cho chúng ta biết, ý Thiên Chúa Cha muốn mọi
người chúng ta là tin vào Con Thiên Chúa, tức là tin vào Chúa Giêsu, để nhờ đó
họ sẽ được mãi mãi chiêm ngưỡng thánh nhan Người và được sống lại trong ngày sau
hết.
- Như thế, điều kiện tiên quyết để được cứu độ là phải tin và
sống niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô. Nên dù mặc nhiên hay minh nhiên, không qua
Đức Giêsu Kitô thì không thể vào Nước Thiên Chúa.
Sẽ khó trả lời khi nói điều này với người ngoài Kitô Giáo, nhưng
hết những ai qua tôn giáo của họ hoặc qua tiếng lương tâm mà ăn ở tốt lành
thánh thiện thì mặc nhiên ở trong Đức Kitô (được rửa tội "bằng lửa").
Cũng thế, những ai dám hy sinh tính mạng vì niềm tin hoặc vì Đức Ái, thì dù
chưa được lãnh nhận bí tích rửa tội, thì cũng mặc nhiên ở trong Đức Kitô toàn
thể (rửa tội "bằng máu"). Lại nữa, Ơn Cứu Độ của Chúa Giêsu mang tính
vượt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Chính vì thế mà trong bài đọc I, ông
Gióp đã nói: "Tôi tin rằng Đấng Cứu Chuộc tôi hằng sống, và ngày sau hết
khi thân xác tiêu tan, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Người" (G 19,25-27).
- Một điều đáng khích lệ chúng ta nữa là, như trong bài đọc II,
thánh Phaolo dạy: "Chúa Giêsu đã chết để cứu chúng ta là tội nhân..."
(Rm 5,8). Như thế, dù tội lỗi như thế nào đi nữa, chúng ta không thất vọng,
chúng ta chắc chắn sẽ được cứu độ vì đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, miễn là chúng
sống xứng đáng với niềm tin đó.
Và đó cũng là tâm tình mà chúng ta dâng lên Chúa trong ngày hôm
nay, để cầu nguyện cho các linh hồn. Amen.
II. THÁNH LỄ II – Tin mừng Luca 23,33.39-42
Phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ này, tập chú nói về niềm hy
vọng đạt tới thực tại tương lai vĩnh hằng:
Hình ảnh ngôn sứ Isaia được nhìn thấy (bài đọc I), miêu tả việc
Thiên Chúa bù đắp lại cho những gian lao đau khổ mà con người chịu khi còn sống
nơi trần thế là: "...Thiên Chúa sẽ lau khô mọi dòng lệ, xé bỏ khăn tang,
xoá sạch mọi ô nhục và thiết đãi muôn dân một bữa tiệc... Chính Người là Đức
Chúa ta hằng đợi trông..." (x. Is 25,6a.7-9).
Trong thư Rôma (bài đọc II), thánh Phaolô cho biết chúng ta là
con cái Thiên Chúa sẽ được đồng thừa kế gia nghiệp cùng với Đức Kitô. Và gia
nghiệp đó vượt xa mọi thực tại hạnh phúc thế gian, bởi vì những đau khổ đời này
sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải (x. Rm 8,14-23).
Qua bài Tin Mừng, niềm hy vọng và khích lệ lớn dành cho chúng
ta, là dù quá khứ chúng ta có đầy tội lỗi, nhưng chỉ cần một thời gian ngắn
ngủi trở về với Chúa, thì tình thương hải hà của Chúa sẵn sàng tha thứ và nhận
chúng ta vào Nước của Người.
Tuy nhiên, để được vào Nước Chúa như người "trộm lành"
kia, theo Chúa trong "giờ thứ 11", nghĩa là giờ phút cuối cùng, vẫn
cần ít nhất hai thái độ:
1. Nhận ra con người tội lỗi của mình.
Ở Nga, người ta vẫn coi anh chàng "trộm lành" có tên
là Dismat này là một vị thánh và là bổn mạng của các tội nhân mang án tử. Anh
đã nên thánh ngay phút chót của cuộc đời trần thế, chỉ vì anh đã thống hối và
tin vào Chúa Giêsu.
Người trộm lành đã ý thức tội lỗi của mình và đáng chịu phạt
xứng với tội lỗi anh đã gây ra.
2. Tin và cầu xin với Chúa Giêsu Kitô.
Tuy nhiên, chỉ dừng lại ở sám hối mà thôi thì chưa đủ để được
vào Nước Thiên Chúa, người trộm lành cần đến niềm tin nơi Đấng bị đóng đinh kia
là Thiên Chúa và là Đấng Cứu Độ. Đây là một đặc điềm của đạo Công Giáo chúng
ta. Chúng ta không chỉ sám hối mà còn phải tin vào Tin Mừng là tin vào Chúa
Giêsu Kitô (khác với Phật Giáo), không phải tự cứu mình bằng nỗ lực bản thân mà
là cần kết hợp với ơn Chúa, hoàn thiện bản thân trong sự kết hợp với ơn Cứu Độ
của Chúa Giêsu Kitô. Cũng không phải chỉ tin là đủ, mà phải hành động cụ thể là
sám hối và tin và Tin Mừng.
- Cùng hiệp thông cầu cho các tín hữu đã qua đời hôm nay. Chúng
ta cùng biết ý thức về thân phận yếu đuối mỏng giòn của mình, đồng thời tin
tưởng vào giá máu cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô, sẽ giải thoát các linh hồn
đang phải thanh luyện trong luyện ngục. Các đẳng từng, là những người như chúng
ta, đã tin vào Chúa Giêsu Kitô, nhưng trong đời sống niềm tin đó còn thiếu sót,
hoặc chưa có một sự sám hối đền tội cho đủ, nên bây giờ còn phải thanh luyện
nơi luyện ngục.
Chúng ta tin tưởng và cậy trông vào Thiên Chúa, nhưng không ỷ
lại vào giờ phút chót, vì chúng ta không biết lúc nào Chúa gọi mình ra đi, nên
cần luôn có một sự tỉnh thức và sẵn sàng.
III. THÁNH LỄ III – Tin mừng Gioan 11,17-27
Trong thánh lễ III, Giáo Hội cho đọc đoạn Tin Mừng Gioan kể về
việc Chúa Giêsu đến thăm gia đình Bêtania sau khi được tin Lazarô chết. Đoạn
Tin Mừng này làm nổi bật lên hai bài học sau đây:
1. Chân lý đức tin qua các lời tuyên xưng của cô Martha.
- "Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không
chết"
Phải, "được Chúa thì được tất thảy, mất Chúa thì mất sạch
tay". Lời nói của Martha như là một lời than trách vì Chúa Giêsu đến chậm
nên Lazarô em chị đã chết, nhưng đây là một cách diễn tả của Tin Mừng Gioan là:
linh hồn chúng ta được coi là đã chết khi vắng Chúa Giêsu.
- "Bất cứ điều gì Thầy xin thì Thiên Chúa cũng ban cho
Thầy"
Nghĩa là dù em con đã chết rồi, nhưng bây giờ Thầy xin thì Thiên
Chúa vẫn cho em con được sống lại. Thật vậy, dù linh hồn chúng ta đã bao lần
chết đi vì vắng Chúa, chúng ta xưng thú tội lỗi và đón rước Chúa vào lòng thì
Chúa Giêsu sẽ lại phục hồi cho ta sự sống thiêng liêng với muôn vàn ơn phúc.
- "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong
ngày sau hết"
Đây là điều chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính: "Tôi
tin xác loài người ngày sau sống lại". Đức tin Công Giáo chúng ta xác nhận
rằng, những người lành thánh sau khi lìa đời, linh hồn sẽ được hưởng tôn nhan
Chúa, và ngày tận thế thân xác cũng sẽ được phục sinh để hưởng hạnh phúc trường
cửu. Niềm tin này đã có từ thời Cựu Ước, mà trong bài đọc I, sách Macabê đã ghi
lại việc quyên góp tiền để xin dâng hy lễ đền tội cho các chiến sĩ đã tử trận.
Ngày nay, nơi Giáo Hội Công Giáo, trong sự hiệp thông, chúng ta vẫn cầu nguyện,
dâng việc lành và xin lễ đền tội cho các linh hồn.
2. Lời khẳng định của Chúa Giêsu về sự sống.
- "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống"
Chúa Giêsu Kitô là sự sống của linh hồn. Vì thế, khi chúng ta
không ăn Bánh Sự Sống thì linh hồn chúng ta sẽ chết yểu và hư đi.
Chúa Giêsu còn là sự sống lại. Chính Người là Đấng đầu tiên sống
lại từ cõi chết, mở đường cho những ai tin vào Người và thông hiệp trong cái
chết của Người sẽ được phục sinh như Người.
- "Ai tin vào Thầy thì dù chết rồi thì vẫn sẽ được
sống"
Hôm nay chúng ta dâng lễ và viếng nghĩa trang cầu nguyện cho các
linh hồn, chính là vì chúng ta đang tin vào điều này. Các đẳng linh hồn vẫn
sống vì đã tin vào Chúa Giêsu, nhưng còn mang ít nhiều vết nhơ của tội. Vì thế,
lời cầu xin và việc dâng hy lễ của chúng ta là cậy nhờ dòng Máu Sự Sống của
Chúa Giêsu đến giải thoát các linh hồn cho về hưởng sự sống vĩnh cửu.
- "Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải
chết"
Lời này hướng đến chúng ta là những người đang còn hiện hữu trên
trần gian. Vì chúng ta tin vào Chúa Giêsu Kitô nên sẽ không sợ cái chết, cái
chết thể lý chỉ là cửa ngõ đưa chúng ta về cuộc sống vĩnh cửu.
7. Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
"Tôi nhận ra rằng mọi sự Thiên Chúa làm sẽ tồn tại mãi mãi.
Không có gì để thêm, chẳng có gì để bớt. Thiên Chúa đã hành động như thế để
phàm nhân biết kính sợ Người". (Gv 3, 14)
Suy niệm 1: Xin nhớ đến tôi
Người ta kể rằng: Có một người duy nhất sống sót trong một tai
nạn đắm tàu và trôi dạt trên một hoang đảo nhỏ. Kiệt sức, nhưng cuối cùng anh
đã gom được những mẫu gỗ trôi dạt và tạo cho mình một túp lều nhỏ để trú ẩn và
cất giữ một vài đồ đạc còn sót lại. Ngày ngày anh nhìn về chân trời cầu mong
được cứu thoát, nhưng dường như vô ích.
Thế rồi một ngày, như thường lệ anh rời khỏi chòi để tìm thức ăn
trong khi bếp lửa trong lều vẫn cháy. Khi anh trở về thì túp lều nhỏ đã ngập
trong lửa, khói cuộn bốc lên trời cao. Điều tồi tệ nhất đã xảy đến. Mọi thứ đều
tiêu tan thành tro bụi. Anh chết lặng trong sự tuyệt vọng: "Sao mọi việc
lại thế này lại xảy đến với tôi hở trời!".
Thế nhưng, rạng sáng hôm sau, anh bị đánh thức bởi âm thanh của
một chiếc tàu đang tiến đến gần đảo. Người ta đã đến để cứu anh. "Làm sao
các anh biết được tôi ở đây?" - Anh hỏi những người cứu mình. Họ trả lời:
"Chúng tôi thấy tín hiệu khói của anh".
Những người đã chết cũng đang sống trong hoài bão chờ mong. Họ
chờ mong có ai đó nhớ đến họ. Họ chờ mong có ai đó cứu thoát họ. Họ đã bị âm
dương xa cách ngàn trùng. Cuộc đời của họ đã trôi dạt vào một bến bờ xa lắc.
Không lối thoát. Không tự mình cứu mình. Họ chỉ còn trông mong nơi những người
còn sống.
Người thanh niên trên đảo đã vô tình đốt lều tạo thành khói lửa
báo hiệu cầu cứu. Những người đã chết theo những mạc khải tư họ vẫn hiện về với
lửa, với nóng, với lời cầu xin "xin cứu giúp họ". Những ánh lửa vẫn
là lời mời gọi con người hãy nhớ đến những người đã khuất. Họ đang chịu sự hình
phạt do tội mình gây nên. Họ đang phải thanh luyện nên hoàn hảo hơn. Thế nhưng,
họ bất lực vì không thể làm gì khác hơn để cứu mình. Họ mong chúng ta hãy cứu
giúp họ.
Trong bí mật Fatima chúng ta cũng thấy: Mẹ Maria đã
mạc khải qua lời chị Lucia như sau:
"Đức Mẹ đã tỏ cho chúng con thấy một biển lửa lớn, dường
như ở dưới lòng đất. Ma quỉ và các linh hồn dưới hình người bị chìm ngập trong
lửa này, giống như những cục than hồng thông suốt, hoàn toàn như thỏi đồng đen
đủi hay bóng láng, bập bềnh trong một đám cháy rực lửa, lúc thì bị tung lên
không trung bởi những ngọn lửa xuất phát từ chính mình họ cùng với những đám
khói cả thể, lúc thì bị rớt một cách nhẹ bỗng xuống khắp nơi như những tia lửa
của một đám cháy khổng lồ, với những tiếng la thất thanh và rên xiết đớn đau
tuyệt vọng, khiến chúng con kinh khiếp và rùng mình sợ hãi. Có thể nhận ra đám
ma quỉ bằng những hình thù rùng rợn và ghê tởm giống các con thú kinh khiếp
chưa từng thấy. đen ngòm và thông suốt. Thị kiến này kéo dài trong giây lát.
Chúng con làm sao có thể tỏ lòng biết ơn cho đủ đối với Người Mẹ thiên đình
nhân ái của chúng con, Đấng mà trong lần hiện ra thứ nhất đã sửa soạn trước cho
chúng con bằng lời hứa sẽ đem chúng con về thiên đàng. Bằng không, con nghĩ
rằng chúng con sẽ chết đi vì sợ hãi và kinh hoàng.
Tháng 11 Giáo hội mời gọi chúng ta nhớ tới những người thân yêu
của chúng ta đã ly trần. Họ có thể là ông bà, cha mẹ của chúng ta. Họ có thể là
bằng hữu của chúng ta. Họ cũng có thể là những người đã gây nên không biết bao
nhiêu đau khổ cho chúng ta. Họ đã hối hận nhưng không còn cơ hội sửa lỗi hay
lập công. Họ đang trải qua ngọn lửa thanh luyện để được xứng đáng vào dự yến
tiệc Con Thiên Chúa.
Theo giáo lý về luyện ngục, Giáo hội cũng khẳng định: "Tất
cả những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn,
mặc dù chắc chắn được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết,
nhằm đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phước Thiên Đàng. Hội Thánh
gọi việc thanh luyện cuối cùng của những người được chọn là luyện ngục. Điều
này khác hẳn với hình phạt đời đời" (các số 1030-1031).
Vậy chúng ta có thể làm gì cứu giúp các linh hồn?
Trong sách Macabêô II, 12: 25, tác giả nói rằng việc nhìn nhận
phần thưởng dành cho những người an nghỉ cách đạo đức mang ý nghĩa lành thánh;
do đó ông Yuda đã xin dâng lễ tế cầu ơn xá tội cho những linh hồn người chết để
họ được tha thứ tội lỗi".
Mỗi người chúng ta đều có những người rất thân yêu đã ly trần.
Họ chỉ mong chờ chúng ta một lời kinh, một thánh lễ,một việc lành thay cho họ.
Họ đang nói với chúng ta "Xin đừng quên tôi". Xin cho chúng ta biết
dùng tháng 11 như là một tháng đền ơn đáp nghĩa những người đã yêu thương chúng
ta mà nay đã ly trần bằng việc nhớ và cầu nguyện cho họ. Amen
Suy niệm 2: Dụ ngôn cây chuối
Có một cậu bé hỏi bố rằng:
"Bố ơi, trong cuộc đời của một cây chuối nó sinh ra được
bao nhiều buồng?"
"Chỉ một buồng duy nhất." – Bố tôi trả lời.
Cậu nhỏ ngạc nhiên về câu trả lời của bố. Nó cứ đinh ninh trong
cuộc đời của mình một cây chuối ít nhất cũng phải cho vài buồng quả.
"Khi buồng chuối chín cũng là lúc cây chuối mẹ chết
đi." – Bố nói thêm.
Thực vậy, nếu có dịp quan sát một cây chuối mang một buồng quả chín
ta sẽ thấy: Lá của cây chuối mẹ héo rũ và xác xơ, và thân của nó oằn xuống như
sắp gãy vì nó phải mang trên mình một buồng chuối nặng trĩu quả. Chỉ một thời
gian ngắn nữa thôi, khi buồng chuối chín hoàn toàn, cây chuối mẹ sẽ gục hẳn
xuống.
Trong quá trình nuôi buồng chuối, cây chuối mẹ đã hy sinh những
phần tinh túy nhất của mình – chất dinh dưỡng trong gốc, thân và lá – để dồn
cho những quả chuối được chín, để dâng cho đời những trái chuối ngon ngọt.
Hóa ra lâu nay hàng ngày tôi vẫn ăn chuối và thỉnh thoảng vẫn
nhìn thấy một bụi chuối mà không hề hay biết cây chuối tượng trưng cho một hình
ảnh đẹp về sự hy sinh.
Cây tốt lại sinh trái tốt. Cây chuối từ đời này đến đời kia cứ
tiếp tục dâng hiến, hy sinh để cho một mần sống mới phát triển. Phẩm chất của cây
chuối không chỉ là thơm ngon, là chất bổ dinh dưỡng mà còn là bài học quý báu
của tình yêu hy sinh đến quên cả tính mạng mình. Đó là mẫu gương của sự hy
sinh, của tình yêu bất diệt.
Tháng 11 là dịp để chúng ta nhớ tới biết bao hy sinh của những
bậc làm cha mẹ đã quên mình vì chúng ta. Họ đã đánh đổi cuộc đời cho chúng ta
sự sống, cho chúng ta tiếng cười và bình an. Họ đã một cuộc đời tận hiến thân
mình như cây chuối chỉ mong mang lại cho đời trái chin thơm ngon và chấp nhận
gục ngã theo số phận an bài.
Vâng, khi nói đến cha mẹ, chúng ta không thể quên những hy sinh
mà các ngài đã dành cho chúng ta. Điều này đã thể hiện qua biết bao ca từ của
lời hát, của những câu ca. Văn học luôn phát triển cùng với những vần thơ ca
tụng về tình cha tình mẹ. Và có lẽ, từ bé đến già, không nhiều thì ít, ai cũng
cảm thấy thấm thía ơn đức cao cả của mẹ cha:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân".
"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi
chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần
nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của mẹ hiền như non cao cũng chưa
xứng đáng:
"Ai rằng công mẹ như non
Thực ra công mẹ lại còn lớn hơn".
Tình thương của cha mẹ thật lớn lao. Tình thương ấy thật bao la,
bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, những tình yêu mà cha mẹ dành cho chúng ta, các ngài cần gì
nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm
để cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa chẳng còn
ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của chúng ta qua
sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Niềm mơ ước đó đã thể
hiện qua những lời mẹ ru con:
"Ai về tôi gửi buồng cau,
Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.
Ai về tôi gửi đôi giầy,
Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi".
Trong đạo hiếu đôi khi những người con còn dám chấp nhận hy sinh
hạnh phúc, hy sinh cuộc đời riêng tư của mình, một lòng chỉ quyết phụng dưỡng
mẹ cha:
"Ơn hoài thai, to như bể!
Công dưỡng dục, lớn tợ sông!
Em nguyện ở vậy không chồng,
Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con".
Không chỉ ở nhà mới phụng dưỡng cha mẹ mà ngay cả khi sang nhà
chồng hay khi làm ăn nơi xa vẫn một niềm lắng lo, vẫn canh cánh bên lòng một
cuộc đời già nua của cha mẹ:
"Chim đa đa đậu nhánh đa đa,
Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.
Mai sau cha yếu, mẹ già.
Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?
Lòng thảo hiêu ấy được tỏ bày một cách chân
thành khi các ngài đã qua đời, luôn cầu nguyện, thắp hương tưởng nhớ mẹ cha.
Giáo Hội Công Giáo mời gọi chúng ta lấy
tinh thần thảo hiếu của người Việt vào trong đời sống tôn giáo bằng việc dùng
tháng 11 như là tháng ân hiếu mẹ cha.
Đạo hiếu luôn dạy chúng ta "ăn quả nhớ
kẻ trồng cây". Đạo hiếu luôn nhắc nhở chúng ta phải tỏ lòng hiếu thảo với
cha mẹ. Xin cho chúng ta luôn sống thảo hiếu với cha mẹ. Khi còn sống biết kính
trọng vâng lời. Khi các ngài đã qua đời luôn nhớ đến các ngài trong kinh tối,
kinh sáng và trong thánh lễ hằng ngày. Amen
8. Lịch sử ngày Lễ Các
Đẳng Linh Hồn
(Trích từ vietcatholic.net - LM. Nguyễn
Phước).
Ngay từ thời tiên khởi, Giáo Hội đã khuyến
khích chúng ta cầu nguyện cho người chết như một nghĩa cử bác ái. Thánh
Augustine viết, "Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng
ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ." Tuy nhiên, các nghi thức cầu
cho người chết có tính cách dị đoan thời tiền-Kitô Giáo đã ảnh hưởng mạnh mẽ
đến nỗi mãi cho đến đầu thời Trung Cổ, nhờ các dòng ẩn tu có thói quen cầu
nguyện cho các tu sĩ đã qua đời hàng năm thì một nghi thức phụng vụ cầu cho
người chết mới được thiết lập.
Vào giữa thế kỷ 11, Thánh Odilo, Tu Viện
Trưởng dòng Cluny, ra lệnh rằng mọi tu viện dòng Cluny phải cầu nguyện đặc biệt
và hát kinh Nhật Tụng cầu cho người chết vào ngày 2 tháng Mười Một, ngay sau lễ
Các Thánh. Truyền thống này được lan rộng và sau cùng được Giáo Hội chấp nhận
đưa vào niên lịch Công Giáo La Mã.
Ý nghĩa thần học làm nền tảng cho ngày lễ
này là sự thừa nhận bản tính yếu đuối của con người. Vì ít có ai đạt được một
đời sống trọn hảo, mà hầu hết đã chết đi với vết tích tội lỗi, do đó cần có
thời gian thanh tẩy trước khi linh hồn ấy được đối diện với Thiên Chúa. Công
Đồng Triđentinô xác nhận có luyện tội và nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của
người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.
Sự dị đoan vẫn còn dính dấp đến ngày lễ
này. Thời trung cổ người ta tin rằng các linh hồn trong luyện tội có thể xuất
hiện vào ngày lễ này dưới hình thức các phù thủy, các con cóc hay ma trơi. Và
họ đem thức ăn ra ngoài mộ để yên ủi người chết.
Tuy nhiên việc cử hành lễ với tính cách tôn
giáo vẫn trổi vượt. Người ta tổ chức đọc kinh cầu nguyện ở nghĩa trang hay đi
thăm mộ người thân yêu đã qua đời và quét dọn, trang hoàng với nến và hoa.
***
Có nên cầu nguyện cho người chết hay không
là một tranh luận lớn khiến chia cắt Kitô Giáo. Vì sự lạm dụng ơn xá trong Giáo
Hội thời ấy nên Luther đã tẩy chay quan niệm luyện tội. Tuy nhiên, đối với
chúng ta, cầu cho người thân yêu là một phương cách cắt bỏ sự chia lìa với
người chết. Qua lời cầu nguyện, chúng ta cùng đứng với những người thân yêu, dù
còn sống hay đã ra đi trước chúng ta, để dâng lời cầu xin lên Thiên Chúa.
***
"Chúng ta không thể coi luyện tội là
một nhà tù đầy lửa cận kề với hỏa ngục - hoặc ngay cả "một thời gian ngắn
của hỏa ngục." Thật phạm thượng khi nghĩ rằng đó là một nơi chốn mà Thiên
Chúa bủn xỉn đang bòn rút từng chút thân xác... Thánh Catherine ở Genoa, vị
huyền nhiệm của thế kỷ 15, viết rằng "lửa" luyện tội là tình yêu
Thiên Chúa "nung nấu" trong linh hồn đến nỗi, sau cùng, toàn thể linh
hồn ấy bừng cháy lên. Đó là sự đau khổ của lòng khao khát muốn được xứng đáng
với Đấng được coi là đáng yêu quý vô cùng, họ đau khổ vì sự mơ ước được kết hợp
đã cầm chắc trong tay, nhưng lại chưa được hưởng thật trọn vẹn" (Leonard
Foley, O.F.M., Tin Chúa Giêsu).
***
Lạy Chúa Giêsu,
nếu người ta cứ phải sống mãi trên cõi đời
này
thì thật là phiền toái.
Nhưng cái chết vẫn làm chúng con đau đớn
vì phải chia tay với những người thân yêu,
vì bao mộng mơ, dự tính còn dang dở.
Xin cho chúng con đừng nhìn cái chết
như một định mệnh nghiệt ngã và phi lý,
nhưng như một hành trình trở về nguồn cội
yêu thương.
Lạy Chúa Giêsu, trước cái chết thập giá,
Chúa đã run sợ, nhưng không tháo lui,
và Chúa đã chết trong niềm vâng phục tín
thác,
để trở nên người đầu tiên bước vào cõi sống
Vĩnh Hằng.
Xin cho chúng con nghe được lời dạy dỗ của
cái chết.
Cái chết cho thấy cuộc sống mong manh, ngắn
ngủi,
chính vì thế từng giây phút trôi qua thật
quý báu.
Cái chết bất ngờ mời gọi chúng con luôn
tỉnh thức.
Cái chết nhắc nhở chúng con là khách lữ
hành
đang trên đường về quê hương vĩnh cửu.
Sống một đời và chết một lần.
Lạy Chúa, đó là thân phận làm người của
chúng con.
Xin dạy chúng con biết cách chết nhờ biết
cách sống.
Amen!
(theo Maranatha 89)
9. Tưởng nhớ người đã ra
đi.
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long)
Khi tưởng nhớ đến người đã qúa cố, tâm tình
buồn thương nhớ tiếc khơi dậy nơi những người còn đang sống trên trần gian.
Tâm tình này đạo đức và rất tình người. Tâm
tình này cũng dẫn đưa chúng ta đến suy nghĩ về những khác biệt trong đời sống
của con người. Nhưng mọi người đều có ngày mở mắt chào đời từ trong cung lòng
mẹ đi ra. Và ai cũng có ngày sau cùng của đời sống rồi được bọc trong cỗ áo
quan chôn vùi dưới lòng đất.
Những người đã ra đi khỏi cuộc sống trần
gian về thế giới bên kia và những người còn đang sống, trước sau vẫn thuộc về
nhau. Tất cả đã cùng chung sống với nhau. Chúng ta và họ đã cùng chia sẻ cuộc
sống niềm tin, cuộc sống tình người với nhau.
Họ đã ra đi. Nhưng họ vẫn hằng hiện diện
trong trái tim tình yêu mến của chúng ta. Họ vẫn hằng sống động trong tâm tình
biết ơn của chúng ta, cùng trong những kỷ niệm ngày đã cùng nhau sống trải qua.
Mỗi khi cùng nhau dâng thánh lễ tưởng nhớ
đến người qúa cố, chúng ta muốn nói lên: Không chỉ một mình tôi làm việc này.
Nhưng tất cả mọi người trong thánh đường đang cùng dâng thánh lễ cũng tưởng nhớ
đến thân nhân của họ đã qúa cố.Vì cuộc đời ai mà không có lần đau buồn chia lìa
vĩnh biệt người thân của mình đã qua đời.
Và trong thánh lễ tưởng niệm sự chết và sự
sống lại của Chúa Giêsu Kitô không chỉ chúng ta người còn đang sống, mà cả
những người đã qúa cố cùng quây quần bên bàn tiệc thánh lễ: Tôi tin các Thánh
cùng thông công. Tôi tin phép tha tội. Tôi tin xác loài người ngày sau sống
lại. Tôi tin hằng sống vậy. Amen.
Bánh Thánh, Mình Máu Chúa Giêsu nối kết
người còn sống và người đã qua đời lại với nhau trong niềm tin và tình yêu mến.
Với niềm tin và tâm tình yêu mến chúng ta
hôm nay:
1. Tưởng nhớ đến Tổ tiên, Ông Bà, cha mẹ đã
ra đi về cùng Thiên Chúa.
Họ là những người đã sinh thành, nuôi
dưỡng, dạy dỗ chúng ta nên người khôn lớn. Họ là những người đã không chỉ nuôi
dưỡng chúng ta bằng sữa, bằng cơm ăn áo mặc, lo lắng cho sức khỏe. Nhưng họ đã
hy sinh suốt cả cuộc đời làm tròn nhiệm vụ là cha mẹ được Thiên Chúa giao phó,
nuôi dạy uốn nắn đời sống đức,tin tinh thần đạo đức của chúng ta.
Tình yêu đó, công ơn đó xin muôn đời ghi
nhớ, và mỗi khi dâng Thánh lễ chúng con đều nhớ đến và mang dâng lên bàn thờ
Chúa.
2. Tưởng nhớ đến những người thân yêu ruột
thịt trong gia đình đã an giấc ngàn thu: họ là chồng hay vợ; là con cái, cháu
chắt, anh chị em, cậu cô chú bác, cô dì.
Với họ chúng ta đã cùng nhau trải qua những
chặng đường đời sống vui buồn cay đắng ngọt bùi, đã cùng nhau sống những giờ
phút thành công cũngnhư thất bại, hy vọng có lo âu sợ sệt cũng có. Một phần đời
sống của ta từ nơi họ và một phần đời sống của họ cũng từ nơi ta.
Ân nghĩa, tình yêu và những kỷ niệm này
luôn hằng khắc ghi trong tâm khảm ngươì còn đang sống, và xin dâng lên bàn
thánh hợp cùng hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá.
3. Xin tưởng nhớ đến các linh mục, những
người được Thiên Chúa và Hội Thánh trao nhiệm vụ săn sóc việc tinh thần đạo đức
cho các tín hữu trong các xứ đạo. Sau những năm tháng âm thầm hy sinh làm việc
tông đồ, họ đã nghe tiếng Chúa gọi trở về đời sau.
Sự hy sinh và lòng quảng đại sống rao
giảng, làm nhân chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa trong các xứ đạo của linh mục
là ân đức của Chúa ban tặng cho con người.
Người tín hữu Chúa Kitô vui mừng và cảm
thấy an ủi vì có linh mục, vị hướng dẫn tinh thần, là người cùng đồng hành với
trong cuộc sống niềm tin vào Thiên Chúa.
Linh mục vui và cảm thấy được nâng đỡ vì có
Thiên Chúa ở cùng ông trong mọi hoàn cảnh và nhất là được cùng chung sống xây
dựng phát triển đời sống niềm tin với mọi người tín hữu.
Các cha nằm nơi nghĩa trang sâu trong lòng
đất mẹ. Nhưng những người tín hữu xưa kia đã cùng chung sống trải qua trong xứ
đạo không quên ơn các cha. Nơi bàn thánh xưa kia các cha cùng dân Chúa dâng
thánh lễ, ngày nay khi dâng thánh lễ họ cùng hợp với của lễ Chúa Giêsu nhớ đến
cầu nguyện cho các cha.
4. Xin nhớ đến các Nữ Tu cùng các Thầy Dòng
đã chọn đời sống thanh tịnh theo tiếng gọi của Chúa trong Hội Dòng, đã được
Thiên Chúa gọi về đời sau.
Xưa kia các Thầy, các chị em Nữ Tu đã nghe
tiếng Gọi của Chúa từ trời cao từ bỏ mọi sự có thể có và được phép hưởng dùng,
chọn nhận sống đời khiết tịnh nhiệm nhặt, đời phục vụ cho ích chung của nước
Chúa và cho con người.
Đời sống từ bỏ hy sinh vác thánh giá và âm
thầm cầu nguyện của các Thầy, các chị em Nữ tu là nhân chứng sống động cho tình
yêu Thiên Chúa giữa trần gian.
Xin dâng lên bàn thờ Chúa trong các thánh
lễ cầu cho các Thầy, các anh chị em Nữ tu.
5. Xin nhớ đến các Bạn Bè người quen thân,
các vị ân nhân ngày xưa đã cùng nhau trải qua những giờ phút vui buồn, những kỷ
niệm êm đẹp. Giờ đây họ đã thành người thiên cổ.
Xin cám ơn lòng ưu ái tình người chúng ta
đã trao cho nhau và xin dâng các Bạn lên bàn thờ Thiên Chúa, Đấng là đời sống
và ơn cứu chuộc của con người chúng ta.
6. Xin nhớ đến những nạn nhân đã qua đời vì
thiên tai bão lụt, hạn hán, chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật và những người mồ
côi bơ vơ không có ai nhớ đến.
Họ tất cả cũng là con Chúa và niềm tin dạy
chúng ta: Họ cũng được Thiên Chúa cứu độ. Nơi bàn tiệc thánh Chúa Giêsu họ có
chỗ ngồi đồng hàng với tất cả mọi người.
Xin cùng với ánh nến tình tương liên đới
dâng lên bàn thờ Thiên Chúa nguồn tình yêu thương lời kinh cầu nguyện cho linh
hồn họ đã về nơi chín suối ngàn thu.
7. Xin tưởng nhớ đến những thành viên trong
Cộng đoàn chúng ta đã được Thiên Chúa gọi trở về đời sau.
Cộng đoàn chúng ta được thành lập cho chúng
ta, và do chúng ta cùng chung lưng đấu cật xây dựng nên từ những chục năm qua.
Những hy sinh đóng góp của mỗi người trong cộng đoàn là những viên gạch xây
dựng nên ngôi nhà cộng đoàn đức tin sống động vào Thiên Chúa Ba ngôi.
Mỗi khi nhớ đến những người xưa kia đã cùng
chung vai sát cánh xây dựng nên Cộng đoàn, mà giờ đây họ đã ra đi về với Chúa
trước chúng ta, Cộng đoàn chúng ta ngậm ngùi nhớ đến họ với lòng biết ơn và cảm
phục.
Xin cùng dâng lời kinh tiếng hát hòa lẫn
trong làn hương khói và ánh nến cầu nguyện cho họ trước bàn thờ Thiên Chúa Ba
ngôi.
8. Xin nhớ đến các em hài nhi đã qua đời
hay bị phá hủy sự sống ngay khi đang còn là thai nhi trong thời kỳ phát triển
thành hình nơi cung lòng mẹ.
Các em thai nhi vô tội bị phá hủy hình hài
sự sống là những Thiên Thần bé nhỏ tí hon của con người trước tòa Thiên Chúa,
Đấng là nguồn sự sống và lòng nhân lành.
Xin thắp những ngọn nến hồng nhỏ bé nhớ về
các Thiên Thần vô tội. Các Thiên Thần tí hon vô tội là những vị cầu bầu cho
chúng ta trước ngai tòa Thiên Chúa tình yêu.
9. Trước nấm mồ chúng ta muốn đọc lại sứ
điệp của những người đã ra đi về đời sau nhắn gửi lại:
- Tôi ra đi bây giờ nằm sâu dưới lòng đất,
hay đã bị thiêu hủy thành tro bụi. Nhưng tôi tin rằng tôi trở về cùng Thiên
Chúa, Đấng sinh thành ra tôi.
- Tôi nằm sâu trong lòng nấm mồ này. Nhưng
tôi vẫn hằng hy vọng trông mong Thiên Chúa sẽ cứu độ linh hồn tôi và sẽ cho tôi
sống lại được hưởng đời sống bất diệt, như Ngài đã cho Chúa Giêsu sống lại từ
cõi chết.
- Tôi bây giờ nằm chôn kín trong nấm mồ xây
kín bằng xi-măng cát đá. Nhưng tôi hằng có tâm tình yêu mến Thiên Chúa của tôi.
Vì Ngài là Cha đời tôi, Ngài hằng yêu mến tôi.
Và tôi tâm niệm rằng:
- Những gì ngày xưa tôi xây dựng làm ra,
giờ này tôi phải bỏ lại.
- Những gì ngày xưa tôi thu góp tích lũy để
dành, giờ này tôi không mang đi được.
- Nhưng những gì ngày xưa tôi cho đi, bây
giờ tôi nhận lãnh trở lại.
10. Bài giảng của ĐTGM.
Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Anh chị em thân mến,
Biến cố ngày 11.9 tại Hoa Kỳ đã làm chúng ta bàng hoàng. Mỗi lần
nhắc lại hoặc thấy những hình ảnh đó, chúng ta không khỏi buồn sầu, lo lắng, tức
giận. Có thể mỗi người nhìn biến cố đó với một góc độ khác nhau. Nhưng có một
góc độ có lẽ ít người nghĩ đến. và đó là vấn đề mà chúng ta sẽ cùng nhau chia
sẻ.
Trên thế giới từ xưa tới nay, không phải chỉ có biến cố ngày
11.9, mà còn vô vàn biến cố khác, chẳng hạn sự kiện hai quả bom nguyên tử ở
Nhật Bản năm 1945. có một câu hỏi được đặt ra: Thế thì số phận của những người
đã chết trong các biến cố đó ra sao?
Ngày nay người ta chỉ nói đến sự trả thù, phải trả thù cho những
người chết oan, trả thù cho những người đau khổ. Công lý thế gian, công lý của
con người thực hiện ra sao chúng ta không biết, nhưng về mặt đức tin, chúng ta
sẽ suy nghĩ như thế nào??? Phải dựa vào Lời Chúa, vì chính Chúa muốn chúng ta
hãy dùng Lời của Ngài để an ủi nhau, cách riêng trong những biến cố thảm thương
như vậy.
Bài đọc I của ngày lễ hôm nay, cách nào đó, khiến chúng ta phải
suy nghĩ. vì nhiều người chết rất bi thương, cái chết không xứng hợp chút nào
với đời sống của họ, người ta chỉ còn biết thương tiếc và nghĩ rằng như thế là
chấm dứt một cuộc đời, chấm dứt cách buồn thảm, tràn đầy thất vọng. Thế nhưng
Lời chúa lại nói với chúng ta: Những người công chính khi chết đi, họ sẽ được
đưa vào trong vinh quang của Thiên Chúa, nếu cái chết của họ hay sự đau khổ của
họ xảy đến cũng giống như vàng phải được trui luyện trong lửa, để chắt ra chất
vàng tinh ròng và loại bỏ những thứ cặn bã.
Con người mà Thiên Chúa đã tạo dựng, yêu thương và cứu chuộc.
chính là vàng. (Nếu chúng ta có thì giờ để hiểu rằng, trên Thiên Quốc có biết
bao nhiêu người công chính, bao nhiêu con người đã được Thiên Chúa rước và cho
vào trong vinh quang của Ngài. Đó chỉ mới nói về những con người được tạo dựng
ở trần thế. Còn thế giới của thiên thần, thế giới thần linh, tất cả đều ở trong
vinh quang đó). Có thể nào chúng ta vào Nước Trời với một tấm áo đầy bụi bặm,
nhơ bẩn. phải được tinh luyện, sự tinh luyện đó không phải bởi sức lực của
chúng ta, nếu bởi chúng ta chắc chúng ta sẽ thất vọng vì thấy rõ sự yếu đuối
của mình, thì đây, thánh Luca nói trong bài Phúc Âm của ngài: Khi suy niệm về
sự chết, khi cầu nguyện cho những người đã chết, bao giờ chúng ta cũng phải đặt
trên nền tảng Đức Kitô Tử Nạn-Phục Sinh, không đặt trên nền tảng và không đi từ
chân lý đó thì không có một thắc mắc hay một vấn nạn nào được giải quyết, được
soi sáng.
Mầu Nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh, cao điểm được thể hiện trên núi
Canvariô (dù rằng chưa Phục Sinh), Chúa đã biểu lộ vinh quang của Ngài như lời
thánh Gioan: Chính khi Ngài được treo dựng lên nơi cao, vinh quang chói ngời
của Ngài sẽ tỏa ra. Vậy thánh Luca cho chúng ta thấy: một thế giới sa đọa tội
lỗi, (và thế giới đó) đã nhạo cười, đã đóng đinh Chúa Giêsu và đưa Ngài đến cái
chết thảm thê trên thập giá. Trong thế giới đó, còn có những con người thiện
tâm, có những con người sẵn sàng hoán cải, dù rằng trước mắt thế gian con người
đó xứng đáng với cái chết (vì cũng đã bị treo trên thập giá). Nhưng Chúa Giêsu
nói: Quả thật, ngày hôm nay ngươi sẽ được vào trong Nước Thiên Đàng.
Nhưng nếu chỉ thấy Ngài chịu chết thì làm sao chúng ta được sống
lại? Cái chết của Ngài đem đến những gì cho chúng ta? Vì nếu Ngài chết mà Ngài
không sống lại thì cái chết của Ngài cũng vô ích, tình thương của Ngài cũng vô
ích!
Chúa Giêsu chết và Ngài đã Phục Sinh. Chính Ngài là đầu mối của
tất cả mọi việc, chính nơi Ngài mà chúng ta (những người cách này hay cách khác
đã tin vào Ngài) tìm được niềm tin và hy vọng. Nhưng không chỉ những người được
Rửa Tội mới gọi là tin vào Ngài. Có những người rất thành tâm, thiện chí, nhưng
vì một hoàn cảnh nào đó. họ vẫn cố gắng sống theo lương tâm, Ngài vẫn đón nhận
trong tình yêu và trong Ơn Cứu Chuộc của Ngài.
Chúng ta cám ơn người trộm "lành", vì nhờ có anh, như
một dấu chứng nếu chúng ta tin vào Ngài "Lạy Thầy, khi vào Nước Thiên Đàng
xin nhớ đến con". Anh ấy biết gì về Chúa Giêsu? Biết gì về Mầu Nhiệm Nhập
Thể? Biết gì về Mầu Nhiệm Cứu Chuộc? Biết gì về Mầu Nhiệm sống lại??? Nhưng anh
đại diện cho một số đông trên trần thế này, một cách nào đó vẫn hướng về một sự
linh thiêng, hướng về một Đấng Tối Cao, muốn làm những việc tốt lành. Những
người đó sẽ được Máu của Chúa đổ ra để thanh tẩy tội lỗi và cho vào Nước Trời.
6000 người chết trong một khoảnh khắc, chắc chắn có một số đông được tình yêu
và Máu Chúa đổ ra để xóa tội lỗi và cứu chuộc họ. Tại sao chúng ta cứ muốn ấn
định cho Thiên Chúa những người được vào Nước Trời, mà không đặt niềm tin của
chúng ta nơi lượng khoan hồng từ bi và nơi công lao của Ngài? Vì Ngài đã hạ
mình chịu chết trên thập giá, nên Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Ngài và đặt mọi
loài dưới quyền của Ngài, trong cái chết và sự Phục Sinh của Ngài, Ngài xin với
Chúa Cha là hãy tha thứ, hãy cứu độ, hãy chuộc lại hết những tâm hồn (lúc này
hay lúc khác), đã có sự tin tưởng vào Ngài. Từ đó chúng ta thấy rằng sẽ không
bao giờ tìm được sự công bằng nơi trần thế này, sự công bằng và yêu thương chỉ
tìm thấy nơi một mình Chúa mà thôi.
Nếu có được niềm tin đó, cuộc đời trở nên sáng tỏ hơn. Đứng
trước các biến cố, chúng ta đỡ buồn phiền thất vọng, chúng ta thấy cuộc đời vẫn
đáng sống và những đau khổ xảy đến triền miên vẫn có ý nghĩa, vẫn có giá trị,
vì chúng ta được tham dự vào Mầu Nhiệm Tử Nạn của Đức Kitô để được sống lại với
Ngài.
Vậy trong tháng các linh hồn, với niềm tin đó chúng ta sẽ thấy
được những điều gì?
1. Những linh hồn trong lửa luyện ngục là những vị thánh, tuy
không được tuyên phong trên bàn thờ, cũng chưa được hưởng vinh quang, nhưng
phần rỗi thì đã chắc chắn. Không phải vì họ ít tội, nhưng vì tình yêu của Thiên
Chúa và công nghiệp của Con Một Ngài. Giờ đây họ chịu thanh luyện để trở nên
tinh ròng, để mang một chiếc áo cưới thật mới mẻ vào dự tiệc cưới, vào Nước
Trời. Không ai có thể chia cắt, không gì làm họ mất niềm hy vọng vào đời sống
vinh phúc đó.
2. Đàng khác, các linh hồn giờ đây không làm được gì cho họ nữa,
vì thời gian để lập công nghiệp đã qua (không phải họ không biết, nhưng cũng
giống chúng ta biết rằng giây phút đang sống là thời gian tích lũy công phúc,
là thời gian chuẩn bị để được vào Nước Chúa. Chúng ta còn có thì giờ, chúng ta
hãy làm). Các vị ấy chỉ còn trông cậy vào lòng nhân thứ của Chúa, Ngài kêu gọi và
ban cho chúng ta được tham dự và tiếp tục sứ mạng cứu độ qua lời cầu nguyện,
qua sự hy sinh hãm mình, chúng ta sẽ giúp được các linh hồn đó.
Lẽ dĩ nhiên đừng nghĩ rằng Chúa phải chờ đời những lời cầu
nguyện của chúng ta để Chúa cứu vớt, Ngài đã cứu vớt rồi. Nhưng Chúa muốn chúng
ta sống trong sự thông hiệp, muốn cho chúng ta có sự liên đới hữu hiệu, Ngài
tạo điều kiện để chúng ta thấy rằng: thì ra chúng ta còn có thể làm được rất
nhiều cho những người thân yêu của chúng ta. Biết đâu khi họ còn sống, chúng ta
chưa có một tâm tình, chúng ta chưa đối xử tốt, thì giờ đây chúng ta có một cơ
hội rất tốt.
Phát xuất từ những tâm tình trên, cách đây hơn 1000 năm, ngày lễ
cầu cho các linh hồn 02.11 được thiết lập, đó là niềm an ủi rất lớn cho những
người còn sống, cho chúng ta có một phương tiện tuyệt hảo để yêu thương và biểu
lộ tình yêu, cứu giúp những người mình yêu thương. Ngày hôm nay, trong tháng
này và suốt cả cuộc đời, chúng ta hãy tập nhân đức yêu thương, nhớ đến các linh
hồn.
(Cách đây 100 năm, cũng có một nhà dòng được thiết lập chỉ nhằm
mục đích để cầu nguyện, ăn chay, hãm mình cho các linh hồn trong lửa luyện
ngục, mà điều đó tất cả chúng ta đều làm được).
3. Anh chị em nghĩ sao nếu những người nhờ lời cầu nguyện chúng
ta, đã được về Thiên Đàng, được hưởng vinh quang Chúa mà các ngài lại quên
chúng ta??? Chắc chắn trong vinh quang (và sự khôn ngoan) của Thiên Chúa, các
ngài biết dưới trần thế này, đã có những con người yêu thương, cầu nguyện, hy
sinh cho các ngài. chắc chắn lời cầu nguyện của các ngài cho chúng ta sẽ có uy
tín và hiệu quả (lời cầu nguyện của chúng ta lúc thì chia trí, lúc thì không
xứng đáng. đủ hết mọi lý do). Trong lịch sử Giáo Hội, nhiều biến cố cho thấy
rằng: các thánh thông công là sự sống rất sinh động, không phải là một chân lý
chết ngắt, nhưng là sự sống được diễn tả mỗi ngày. Khi chúng ta ngồi đây, chúng
ta vẫn liên kết với các thánh trên trời và các linh hồn trong lửa luyện ngục để
cầu nguyện và nâng đỡ nhau. Sống trong một sự liên đới như vậy, anh chị em có
thấy chúng ta là những con người diễm phúc, là những con người rất giàu tình
yêu thương, là những con người được nâng đỡ???
Khi tôi nói những điều này, các bạn trẻ lại càng phải suy nghĩ
nhiều hơn, để thấy rằng trong từng giây phút, chúng ta phải sống cho có ý
nghĩa, vì từng giây phút của cuộc sống, có thể xây dựng hạnh phúc và phần rỗi
cho rất nhiều người và cho chính bản thân chúng ta. Nhờ lời chuyển cầu của các
thánh và các linh hồn trong lửa luyện tội (chúng ta tin rằng) chúng ta vẫn tiếp
tục đón nhận hồng ân Chúa, đón nhận cách đặc biệt mỗi lần chúng ta cử hành
thánh lễ, là lễ tế tạ ơn đồng thời là lễ tế đền tội cho chúng ta.
11. Lòng biết và thảo kính đối với tổ tiên
(CHẾT CHÓC VÀ THƯƠNG NHỚ)
(Bài giảng của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Kính thưa quý OBACE, bầu không khí của những ngày cuối năm dường
như làm cho con người vội vã tất bật hơn, ai cũng vội vàng và tranh thủ thời
gian để hoàn tất kế hoạch của một năm. Có lẽ cũng vì mải chạy theo dòng thời
gian và công việc, khiến cho nhiều người đã quên cả sự hiện diện của người bên cạnh,
quên cả người thân đang ở trong cùng một mái nhà. Trong không khí vội vàng ấy,
thì Giáo Hội đã dành cả một tháng cuối năm để nhắc cho người tin hữu nhớ rằng:
dù mỗi người có vất vả bon chen đến đâu thì cũng phải nhớ đến chung cuộc đời
mình, và cái chết là điểm hẹn chung của mỗi người. Cũng trong tâm tình ấy, Giáo
hội nhắc cho mọi người nhớ đến và cầu nguyện cho các bậc tổ tiên ông bà, cha
mẹ, người thân, những người đã ra đi trước chúng ta và đã đang an nghỉ trên
mảnh đất này, đồng thời biết quý trọng, biết ơn và thảo hiếu với những bậc sinh
thành những người đang còn sống.
Tất cả chúng ta sẽ phải chết, đó là sự thật không thể thay đổi,
thế nhưng điều quan trọng là chúng ta sẽ chết như thế nào và sau cánh cửa sư
chết, điều gì sẽ đến với chúng ta, niềm vui sướng hạnh phúc, hay đau khổ hối
hận đời đời, điều đó sẽ tùy thuộc ở nơi mỗi người biết sống hôm nay như thế
nào. Tất cả sẽ phải chết, vì đó là thân phận của con người có sinh thì có tử,
không ai có thể trốn tránh được. Cái chết nó vốn là tiến trình tự nhiên, nhưng
từ khi con người phạm tội, cái chết nó còn mang một ý nghĩa khác, nó trở thành
hình phạt cho con người, chính vì thế, cái chết nó trở nên kinh khủng cho con
người. Vì sợ hãi, nên con người tìm cách tránh né nó, không dám đương đầu đối
diện với nó, và vì thế nhiều người còn tìm cách lẩn trốn nó bằng một cuộc sống
ồn ào náo nhiệt, một cuộc sống bận rộn với công việc và quay cuồng với tiền bạc
của cải, và khi cái chết đến khiến họ tiếc nuối và sợ hãi.
Mọi người đều phải chết, nhưng điều quan trọng là mỗi người sẽ
chết như thế nào và điều gì sẽ đến với chúng ta sau cái chết? Cứ nhìn vào những
nấm mồ của những người an nghỉ, chúng ta có thể thấy, nhiều người khi sinh thời
họ đã từng là những con người nổi tiếng, ngang dọc khắp nơi, và bây giờ cũng chỉ
có một nấm mồ, điều đó chẳng còn ý nghĩa gì, điều quan trọng là tình trạng hiện
nay của họ ra sao, họ đang ở nơi nào? Nhìn như thế để mỗi người có dịp kịp thời
điều chỉnh lại nếp sống của bản thân, chúng ta chỉ có thể bước vào nhà của Chúa
nếu từ bây giờ chúng ta yêu mến Chúa và chọn Chúa. Chúng ta sẽ phải để lại tất
cả ở trần gian và ra đi với hai bàn tay trắng, vì chúng ta không mang gì vào
trần gian, thì chúng ta cũng sẽ không thể đem theo bất cứ thứ gì ra khỏi thế
gian. Chỉ một thứ tài sản duy nhất chúng ta có thể mang theo đó là tình yêu đối
với Chúa và tình thương của chúng ta đối với anh em, và chỉ có một thứ hành lý
duy nhất là các việc lành việc tốt, việc bác ái và hy sinh.
Mỗi lần ra đất thánh này không chỉ nhắc cho chúng ta về cái
chết, mà còn dịp nhắc cho chúng ta biết cách sống, phải sống thế nào cho trọn
đạo làm người và đạo làm con đối với ông bà tổ tiên. Đứng bên nấm mồ của người
thân, sẽ không chỉ có những giọt nước mắt thương nhớ, mà còn có những giọt nước
mắt của sự hối hận muộn màng vì đã sống vô tình hay phũ phàng với người đã
khuất.
Ngày hôm nay trong xã hội mọi sự đều tăng giá, chỉ có đạo đức
làm người là giảm giá và mất giá trầm trọng, con người đối xử với nhau càng
ngày càng như dã thú, tình cảm gia đình anh em ruột thịt cũng bị coi như hàng
hóa, đạo làm con đối với cha mẹ cũng bị tính toán, bao nhiêu cảnh đối xử tệ bạc
với mẹ cha đang diễn ra từng ngày xung quanh chúng ta. Có nhưng người đã không
tiếc lời chửi mắng cha mẹ, coi cha mẹ không bằng một đứa ôsin trong gia đình,
không chỉ chửi bới, nhiều kẻ còn đánh đập nhục mạ những đấng đã dày công sinh
thành dưỡng dục mình, người ta có thể bỏ ra bạc triệu cho những bữa nhậu với
bạn bè, nhưng cha mẹ lại không được một lời hỏi thăm, một tấm bánh. Đám tang tổ
chức cho lớn, xây mộ cho to cho đắt tiền, việc làm đó không phài là báo hiếu,
không phải là lòng biết ơn, mà nó chỉ còn là giả hình, là phô trương che mắt
thiên hạ.
Thảo hiếu biết ơn tổ tiên và các bậc sinh thành không chỉ là bổn
phận của đạo làm con, mà còn là một đòi buộc của Đạo Chúa: Thứ bốn thảo kính
cha mẹ. Giới răn này đòi buộc chúng ta phải hết lòng yêu mên, kính trọng, và
biết ơn đối với cha mẹ của mình và cả cha mẹ vợ cha mẹ chồng của mình, khi các
ngài còn sống và cả khi các ngài đã qua đời; Vì chính cha mẹ là những đấng đã cộng
tác với Thiên Chúa để sinh ra chúng ta, nuôi cho chúng ta khôn lớn với biết bao
vất vả gian nan, bao hy sinh, bao mồ hôi nước mắt. Cha mẹ chính là những người
đã hy sinh cả cuộc đời để nuôi chúng ta khôn lớn và dạy chúng ta nên người, vì
thế chúng ta mắc nợ các ngài món nợ sư sống và món nợ của tình yêu thương. Hãy
kính trọng các Ngài, thông cảm an ủi khi các ngài tuổi cao sức yếu, đừng nặng
lời, đừng khiến các ngài tủi thân, hãy chịu đựng và chăm sóc các ngài, như ngày
xưa các ngài cũng đã từng phải chịu đựng và chăm sóc cho chúng ta. Hãy lo lắng
cho phần thiêng liêng của cha mẹ bằng việc giúp các ngài được lãnh nhận các bí
tích và ơn Chúa để nâng đỡ cho tuổi già của các ngài, hãy làm tất cả những gì
tốt nhất cho cha mẹ khi các ngài còn sống, vì khi cha mẹ mất đi, sẽ mãi mãi
không bao giờ tìm lại được.
Không chỉ biết ơn khi cha mẹ còn sống, mà còn phải biết ơn cha
mẹ khi các ngài đã qua đời, bằng việc đọc kinh cầu nguyện, bằng việc hy sinh
hãm mình, dâng lễ cầu nguyện cho các ngài, nhắc nhở cho con cháu biết ơn các
bậc tổ tiên. Hãy nhớ đến cha mẹ chồng cha mẹ vợ bằng việc chu toàn việc hiếu
thảo hương khói, giỗ chạp trong gia đình, đừng để mang tiếng, những người có
đạo là những người vô ơn bất hiếu với tổ tiên.
Hãy biết ơn và thảo hiếu với tổ tiên bằng việc giữ lấy nề nếp
gia phong của gia đình, thực hiện và làm phát triển tài sản tinh thần mà cha
ông đã để lại cho con cháu qua việc giáo dục con cái nên người, qua việc giữ
gìn đạo đức gia phong của gia tộc, bảo vệ danh dự của tổ tiên, đừng để cho đồng
tiền cho sự nghèo đói làm cho chúng ta trở nên bần tiện nhỏ nhen. Đừng quên
giáo dục con cái biết sống hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ, bằng chính gường
sáng của mình qua việc tôn kính thào hiếu với ông bà, vì sóng trước đổ đâu,
sóng sau đổ đấy; chúng ta gieo giống nào thì sẽ gặt quả ấy, chúng ta vạch mực
đến đâu, thì con cái chúng ta sẽ đi đến đó. Vì thế không có bài học nào sâu đâm
và lay động cho bằng bài học bằng gương sáng của cha mẹ.
Điều răn thứ bốn của Thiên Chúa đồng thời cũng đòi buộc bổn phận
của cha mẹ đối với con cái, trước hết là bổ phận giáo dục, nuôi dưỡng. Hãy giáo
dục dạy dổ cho con cái sống đúng với đạo làm người làm con Chúa, sống đúng với
phẩm giá con người. Đừng quá chú trong đến việc học hành văn hóa mà bỏ qua hoặc
coi nhẹ việc giáo dục đức tin cho con cái, và xây dựng nếp sống đạo đức cho cả
gia đình. Cha mẹ hãy tạo nên một bầu khí đạo đức và cầu nguyện cho gia đình, và
trở thành gương sánh cho con cái trong việc cầu nguyện và các việc đạo đức. Hãy
tập cho con cái yêu mến và hăng say làm việc tông đồ trong giáo xứ theo lứa
tuổi của mình, vì khi còn nhỏ, các em có thói quen và tinh thần tông đồ, thì
sau này các em sẽ trở thành người tín hữu nhiệt thành. Hãy làm cho gia đình
mình mỗi ngày trở nên ấm cúng thuận hòa qua các giờ kinh sáng tối mỗi ngày, qua
các bữa cơm chung đầm ấm. hãy cố gắng làm cho bữa cơm gia đình thật sư là lúc
mọi người được tràn ngập niềm vui và sự chia sẻ, đừng biến bữa cơm trở thành
tòa án để kết tội nhau.
Nhưng người cha, hãy thực sự là cột trụ trong đời sống của gia
đình, là điểm tựa cho vợ con và cả nhà. Các người mẹ hãy dùng đời sống đạo đức
và sự đảm đang của một phụ nữ làm cho gia đình thêm ấm cúng, hãy cùng nhau làm
cho căn nhà cùa mình rộn rã tiếng cười, đừng biến gia đình mình trở thành căn
nhà trọ sáng đi tối về. Các người làm con hãy góp phần mình làm vơi đi sự nhọc
nhằn của cha mẹ bằng việc sống ngoan ngoãn vâng lời và chịu khó học tập và làm
việc. Mỗi người hãy sống thế nào để khi ngườui tân có mất đi, mình sẽ không
phải hối hận vì đã chưa làm được gì cho họ. Amen
12. Bài giảng của ĐGM. Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản
(Rm 5,5-11; Ga 17, 24-26)
Anh chị em thân mến,
Đoạn Tin Mừng chúng ta vừa nghe là đoạn cuối của Lời nguyện Hiến
Tế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy cho các ngài bài
học yêu thương phục vụ trong khiêm tốn, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ về con
đường tiến về nhà Cha: Ngài chính là con đường dẫn mọi người đến với Thiên
Chúa. Không ai có thể đến được với Cha mà không qua Ngài. Ngài chính là vinh
quang của Thiên Chúa Cha, ai thấy Ngài là thấy Cha. Ngài còn hứa ban Thánh Thần
cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ mệnh lệnh của Ngài. Chúa Giêsu còn nói
đến mối liên hệ giữa Ngài và các môn đệ qua hình ảnh của cành nho gắn liền với
thân nho. Cành nào kết hợp với cây, sẽ được cây nuôi dưỡng và sinh nhiều hoa
trái. Cành nào lìa cây sẽ bị khô héo. Vì người môn đệ gắn liền với cuộc sống
của Thầy, nên cũng được chia sẻ vinh quang cũng như sự đau khổ với Thầy. Nếu
thế gian có ghét các môn đệ, là bởi họ không chấp nhận Chúa Giêsu, và bởi vì
các ngài không thuộc về thế gian. Và Chúa Giêsu an ủi các môn đệ: "Thầy
nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an.Trong thế gian,
anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên Thầy đã thắng thế
gian" (16,33).
Sau đó, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời và cầu nguyện: "Lạy
Cha, giờ đã đến! Xin
Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha. Thật vậy, Cha đã ban cho Người
quyền trên mọi phàm nhân là để Người ban sự sống đời đời, đó là họ nhận biết
Cha, Thiên Chúa duy nhất vầ chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến, là
Giêsu Kitô».
Chúa Giêsu có quyền ban sự sống đời đời cho
những ai đến với Người. Và sự sống đời đời được ban cho người môn đệ là họ nhận
biết Thiên Chúa Cha, Đấng Duy Nhất, để ngoài Ngài ra không còn tôn thờ đấng nào
khác. Và nhận biết Đức Giêsu Kitô là Đấng Chúa Cha sai đến trần gian làm Đấng
Cứu Chuộc. Để có thể nhận biết Thiên Chúa Cha và Đấng Người sai đến là Đức
Giêsu Kitô, con người phải biết đón nhận, tin vào Ngài, để Ngài dạy cho chúng
ta cách sống của người con Thiên Chúa.
Và Chúa Giêsu cầu nguyện tiếp: «Lạy Cha,
con muốn rằng con ở đâu, thì những người Cha đã ban cho con cũng ở đó với con,
để họ chiêm ngưỡng vinh quang của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha
đã yeu thương con trước khi thế gian được tạo thành».
Người môn đệ được chia sẻ điều kiện sống
của Thầy, sự vâng phục trong sự hạ mình và sự tôn vinh trong vinh quang.Sự
chiêm ngưỡng vinh quang của Đức Giêsu Kitô cũng là sự hiểu biết về tình yêu
liên kết Chúa Cha và Chúa Con: chính trong sự hiệp nhất này mà nền tảng của sự
hiện hữu con người tìm thấy chỗ đứng của mình.
Vì người tin vào Chúa Giêsu và trở thành
môn đệ của Ngài, hiện diện trong Chúa Ba Ngôi, nên người đó được tham dự vào sự
sống của Thiên Cha: đó là sự sống đời đời. Chúa Giêsu ao ước là Ngài ở đâu thì
người tin vào Ngài cũng được ở đó. Nơ Chúa Giêsu ở không phải tùy thuộc vào nơi
chốn, vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi và Chúa Giêsu luôn hiện diện với Chúa
Cha.khi Chúa nhập thể làm người, Ngài hiện diện hữu hình giữa các môn đệ và vẫn
liên kết với Thiên Chúa Cha. Khi Ngài chịu an táng trong mồ, các môn đệ không
thấy Ngài, nhưng Ngài vẫn luôn hiện diện giữa các ông trong sự vắng mặt. Bằng
chứng là sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đệ và Ngài biết rõ những
điều họ lo lắng, nghi ngờ. Sau khi về trời ngự bên hữu Thiên Chúa, hứa Giêsu
vẫn tiếp tục hiện diện bên các môn đệ trong Thánh Thần, Đấng làm cho các môn đệ
nhớ lại Lời Chúa Giêsu và bầu cử cho họ trước mặt Thiên Chúa.
Vì thế, trong khi đi rao giảng, các môn đệ
vẫn luôn cảm nhận được sự hiện diện của Thầy Chí thánh bên cạnh. Dẫu cho các
ngài sống trong điều kiện thuận tiện, hay chịu thử thách trăm bề, các ngài vẫn
luôn gắn bó với Chúa Giêsu.
Anh chị em thân mến,
Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giới thiệu Ngài là "Bánh
Hằng Sống từ trời xuống, ai ăn bánh này thì có sự sống đời đời. Và bánh ta sẽ
ban, chính là thịt TA, để cho thế gian được sống". Ngài còn nhấn mạnh:
"Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy
sống lại trong ngày sau hết".
Bánh Hằng Sống là lương thực làm cho sống. Không phải như mân
trong sa mạc chỉ nuôi dưỡng phần xác, Bánh Hằng Sống làm cho người ăn có được
sự sống đời đời. Câu hỏi "làm thế nào có được sự sống đời đời", là
thao thức của nhiều người tìm đến với Chúa Giêsu. Người hướng dẫn họ tuân giữ
Lề Luật theo một tinh thần mới, hoán cải đời sống và tin vào Đấng được Thiên
Chúa sai đến.
Tin vào Chúa Giêsu không chỉ là một sự chấp nhận của lý trí,
nhưng còn phải sống theo Lời Người và kết hợp mật thiết với Người. Trong đoạn
Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến việc "ăn thịt và uống máu Người"
"Ăn thịt và uống máu Người" nói lên sự hiệp thông giữa
người môn đệ và Chúa Giêsu, giống như hình ảnh cành nho gắn liền với thân nho.
Những ai ăn và uống máu Người thì có sự sống của Người thông truyền ngay khi
còn ở đời này. Sự sống này không bị gián đoạn do cái chết, vì Chúa hứa cho sống
lại trong ngày sau hết. Giữa khoảng cách của cái chết và sự sống lại trong ngày
sau hết, sự sống của Chúa Giêsu vẫn tiếp tục nuôi dưỡng người tín hữu.
Tin vào Chúa Giêsu mang lại sự sống đời đời; "Như ông
Môi-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc. Con Người cũng sẽ phải được giương
cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng
được sống muôn đời. (Ga 3, 14-16)
Anh chị em thân mến,
những người thân của chúng ta đã tin vào Chúa Giêsu, đã cố gắng
cả cuộc đời mình để nên hoàn thiện như Chúa Cha, Đấng ngự trên trời, đã nổ lực
không ngừng vượt lên trên những sự yếu đuối trong thân phận con người để bươc
theo Chúa Giêsu trong đời sống thực tế của mình. Chỉ có Chúa mới biết sự thiện
chí và lòng trung thành của mỗi người. Và cũng chỉ có Chúa đánh giá đúng mức
những điều tốt đẹp hay sai lỗi.
Chúng ta tin rằng những người thân của chúng ta đã từng sống
trong đức tin, sống trong niềm trông cậy, sống trong sự hoán cải không ngừng,
chắc chắn đã nhận biết Thiên Chúa là Đấng hay thương xót, biết Chúa Giêsu là
Đấng cứu chuộc. Dẫu cho những người thân của chúng ta bước vào một thế giới
khác, một cách hiện hữu khác, chúng ta vẫn tin rằng các ngài đang thông hiệp
với sự sống của Thiên Chúa. Và vì thế, chúng ta tiếp tục cầu nguyện để họ được
luôn sống trong sự sống đời đời trong khi trông chờ ngày sống lại cùng với Chúa
Giêsu.
Trong tháng cầu nguyện cho các linh hồn, Giáo hội tạo điều kiện
cho chúng ta có dịp thông công với những người đã khuất. Vì thé từ trưa ngày lễ
Các Thánh đến nửa đêm ngày cầu cho các tín hữu đã qua đời, nếu ai viếng nhà
thờ, thì được ơn đại xá. Từ ngày 01 đến hết ngày 08, nếu ai viếng nghĩa địa,
cầu nguỵen cho các linh hồn cũng được ơn đại xá. Những ơn đại xá này sẽ được
nhường lại cho các linh hồn.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết sống kết hợp với Chúa Ba Ngôi và
với những anh chị em đang chịu thanh luyện.
Xin Chúa chúc lành cho tất cả anh chị em.
13. Lễ CÁC ĐẲNG – Lm. Đaminh Vũ Đình Thái
(Ga 19, 1.23-27a ; Rm 5, 5-11; Ga 6, 37- 40)
Chúng ta vừa bước vào tháng 11, tháng dành riêng cầu nguyện cho
các kẻ đã qua đời. Thực ra, chẳng ngày nào mà Giáo Hội, qua các Thánh Lễ, lại
chẳng cầu nguyện cho họ. Nhưng tháng này, Giáo Hội muốn chúng ta sống ý thức
hơn và thực hành mạnh mẽ hơn việc đạo đức này. Như vậy, hôm nay quả là dịp tốt
để dâng lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã khuất; trong đó có ông bà, cha mẹ,
thân quyến, bạn hữu và các bậc thầy của chúng ta nơi Chủng Viện này. Nhờ Ơn cứu
chuộc của Đức Kitô, xin cho mọi người đã "vắng bóng"được tha thứ mọi
tội lỗi và hưởng phúc lộc Thiên đàng".
Để xứng đáng dâng lễ và cầu ơn, chúng ta xin Chúa thanh luyện
chúng ta trước.
Giảng lễ:
I. Tôi tin có đời sau.Tôi tin sự sống lại và sự sống vĩnh cửu.
Chẳng phải là tín hữu ngày nay chúng ta mới hùng hồn tuyên tín
như thế (Credo). Nhưng từ xa xưa, Gióp đã tuyên bố: "Sau khi da tôi đây bị
tiêu hủy, thì với tấm thân này, tôi sẽ được ngắm nhìn Thiên Chúa. Chính tôi sẽ
được ngắm nhìn Ngài, Đấng mắt tôi nhìn thấy không phải là người xa lạ" (G
19, 26-27a). Ông tin có đời sau. Ông tin rằng Đấng hằng bênh vực ông vẫn sống
và sau cùng, Ngài sẽ đứng lên trên cõi đất để cứu ông. Niềm tin của ông bền
vững, chắc chắn đến độ ông ước ao lời ấy của ông được tạc vào đá cho đến muôn
đời.
Là tín hữu, chúng ta xác tín mạnh mẽ vào lời của Đức Giêsu, Con
Thiên Chúa, là Đấng Cứu chuộc chúng ta, khi Người nói: "Ý của Đấng sai tôi
là tất cả những kẻ Ngài đã ban cho tôi, tôi không để mất một ai, nhưng sẽ cho
họ sống lại trong ngày sau hết" (Ga 6, 39). "Ai tin vào Người Con,
thì được sống muôn đời" (Ga 6, 40).
Không để mất một ai nghĩa là thế nào? Thánh Phaolô, qua thư
Rôma, giải thích rõ ràng rằng "ngay khi chúng ta còn là tội nhân, Đức Kitô
đã chết vì chúng ta. Người chết cho chúng ta được cứu, khi chúng ta không có
sức làm được gì để cứu lấy mình". Không để mất một ai là "bằng chứng
Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng. Ngay khi chúng ta còn thù nghịch với
Thiên Chúa, Ngài vẫn để Con Ngài chết. Ngài muốn cứu chúng ta khỏi cơn thịnh nộ
của Thiên Chúa, bằng cách cho chúng ta được nên công chính nhờ máu Đức Kitô đổ
ra. Làm như vậy là để chúng ta được hoà giải với Thiên Chúa. Giải pháp ấy là kế
hoạch cứu chuộc được thực hiện nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta" (Rm 5,
6-11).
Chúng ta nhắc lại Lời Chúa như vậy để củng cố thêm niềm tin của
chúng ta vào đời sau, vào sự sống lại và cuộc sống trường sinh hạnh phúc với
Chúa. Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện cho những người đã chết được, nếu tiên
vàn chúng ta còn hiểu nhạt nhoà mơ hồ về Tình yêu Cứu độ của Thiên Chúa được
thực hiện trong Đức Kitô như thế.
II. Phải cầu nguyện cho những vong nhân.
Cầu nguyện cho những người đã khuất là một bổn phận không thể
xao lãng của chúng ta.
Biết Chúa cứu, tin rằng Chúa không để mất một ai là một chuyện.
Nhưng Giáo Hội luôn dạy chúng ta phải, bằng tinh thần hiệp thông luôn cầu
nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời, chứ không được ỷ lại vào Chúa.
Công đồng Vatican II nhắc lại mầu nhiệm Giáo Hội cùng thông công
như sau: "Trong số những môn đệ Chúa, có những kẻ tiếp tục cuộc hành trình
nơi dương thế, có những kẻ đã hoàn tất cuộc sống này nhưng đang được tinh luyện
và có những người đang được chiêm ngưỡng rõ ràng Thiên Chúa Ba Ngôi vinh hiển.
Cả ba thành phần đều hiệp thông với nhau trong đức mến và truyền thông cho nhau
những của cải thiêng liêng. Nhận biết đúng đắn sự hiệp thông này trong toàn
Nhiệm thể Chúa Kitô, ngay từ buổi đầu, Giáo Hội lữ hành hết lòng kính nhớ, cầu
nguyện cho những người đã chết".
Hơn nữa, người tín hữu đã chết trong Ơn nghĩa Chúa, nhưng chưa
sạch hết mọi tội, và chưa đền tội bằng những hình phạt tạm thời đời này, thì
không thể vào thẳng Thiên đàng được, vì chưa xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa.
Thánh Gioan cảnh báo rõ trong sách Khải huyền: "Tất cả những gì ô uế, cũng
như bất cứ ai làm điều ghê tởm và gian tà, đều không được vào thành..."
(Kh 21, 27). Tất nhiên, họ phải chờ tinh luyện xong mới vào được Thiên đàng.
Thời gian đó là thời gian xa cách Chúa. Nên Công đồng Florence (1439)
mới định tín có luyện ngục để tinh luyện các linh hồn.
Purgatorium, chỉ luyện ngục, có nghĩa là tinh luyện.
Bởi thế, hằng ngày Giáo Hội dâng lễ nài xin Ơn tha thứ cứu độ
của Chúa Giêsu cho các linh hồn; suốt tháng 11 này và đặc biệt hôm nay ngày
2.11 còn tăng lên gấp 3 (mỗi Linh mục được làm 3 lễ trong ngày). Giáo Hội kêu
gọi chúng ta luôn nhớ về và sốt sắng cầu nguyện cho những người đã khuất. Cầu
nguyện là góp phần mình vào mở kho Ân xá, nhường cho các linh hồn nơi luyện
ngục, khi họ không thể làm được việc lành cứu mình. Giáo Hội còn khuyến khích
đi viếng nghĩa địa, sửa sang mồ mả và cầu nguyện cho các linh hồn, vì: "Mồ
thật chôn các người chết là trái tim của người sống" (Tục ngữ).
Thế nên, người sống có nhớ đến, có cầu...thì người chết mới mát
mẻ thanh nhàn. Thật ra, không phải cầu cho người "chết". Nếu chết là
chấm tận, hết chuyện thì cầu làm gì và ích lợi gì? Nhưng là cầu cho nguời vượt
qua cõi chết, đi vào cõi sống muôn đời.
14. Nguồn nước mắt – ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
Trí nhớ của tôi lưu giữ nhiều hình ảnh. Trong số đó, có một thứ
hình ảnh rất thầm lặng, nhưng thường gây trong tôi nhiều cảm xúc và suy nghĩ.
Thứ hình ảnh đó là các nghĩa trang.
Tôi đã viếng nhiều nghĩa trang. Tại Việt Nam, tại Ý, tại
Đức, tại Pháp, tại Nga, tại Vaticăng.
Tôi đến viếng các nghĩa trang, chủ ý để suy gẫm, cầu nguyện, và
cũng để tìm cảm nghiệm. Có thứ cảm nghiệm chỉ tìm được ở nghĩa trang. Tôi đã
nghĩ như vậy và đã làm như vậy, khi tôi viết luận án: "Đau khổ của tình
yêu".
Đã có những cảm nghiệm độc đáo in rất sâu vào lòng tôi từ các
nghĩa trang. Đặc biệt là từ những dòng nước mắt ở nghĩa trang.
Có những nước mắt của tình yêu dạt dào.
Có những nước mắt của nỗi buồn, nhung nhớ.
Có những nước mắt của lòng hối hận khôn nguôi.
Có những nước mắt của tấm lòng tha thứ muộn màng.
Có những nước mắt của ân tình, hiếu nghĩa.
Có những nước mắt của niềm tin sâu sắc mong chờ.
Khi đi sâu hơn một chút giữa các dòng nước mắt, tôi có thể cảm
nghiệm được một số khám phá quan trọng:
Khám phá ra những chân lý nhân sinh.
Khám phá ra những hy vọng ứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Khám phá ra chân lý.
Những nước mắt ở nghĩa trang là những tiễn biệt thân thiết. Tiễn
biệt người đã chết, người vĩnh viễn ra đi. Sự chết là một sự thật không cần bàn
tới. Nhưng đó lại là một chân lý cực kỳ quan trọng.
Bất cứ ai, rồi cũng phải chết. Cái chết đáng sợ. Nhưng đáng sợ
hơn lại là cái gì đàng sau cái chết. Đáng sợ, vì nó quá bất ngờ. Biết đâu,
trong số mồ mả, cũng có những hồn vì thế mà đang khóc ròng rã đêm ngày.
Ở đây, tôi chỉ xin trích dẫn một đoạn Phúc Âm: "Có một ông
nhà giàu nọ, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một
người nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu
đó. Anh thèm được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rơi xuống mà ăn cho đỡ đói.
Lại thêm mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta.
Thế rồi, người nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng
ông Apraham.
Ông nhà giàu cũng chết, và người ta đem chôn. Dưới địa ngục,
đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên, thấy tổ phụ Apraham ở trên đàng
xa, và thấy Ladarô trong lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên: Lạy tổ phụ
Apraham, xin thương xót con, xin sai anh Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước,
nhỏ trên lưỡi con cho mát, vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm.
Ông Apraham đáp: Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con đã nhận phần
phước của con rồi. Còn Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ
Ladarô được an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng
ta đây và con đã có một vực thẳm quá lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên con cũng
không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được" (Lc
16,19-26).
Với dụ ngôn trên, Chúa dạy ta những chân lý quan trọng. Ai cũng
phải chết. Nhưng sự Chúa đánh giá từng người sau khi chết thường vượt quá sự
con người suy nghĩ. Người phú hộ đó sống đời này được đầy đủ, sung sướng, an
nhàn, xét mình chẳng thấy gì là xúc phạm Chúa, chẳng thấy gì là làm hại ai.
Nhưng người phú hộ đó đã bị rơi vào hoả ngục. Chỉ vì sống thiếu thương cảm,
thiếu liên đới, thiếu chia sẻ, thiếu xót thương. Trái lại, người ăn mày kia đã
được lên thiên đàng. Vì dù bị chìm trong cảnh khổ, anh đã sống nêu gương về đức
khiêm nhường, hiền lành và chân thật. Không được người dư dật chia sẻ, anh phải
sống đói khổ, nhưng anh vẫn chia sẻ với mấy con chó đói ăn.
Nhờ ơn Chúa, những sự thực như trên đã được nhiều người nhận ra
một cách sâu sắc trong những dòng nước mắt tại nghĩa trang. Những chân lý đó đã
thay đổi đời họ.
Ngoài ra, biết bao người nằm trong nghĩa trang và khóc tại nghĩa
trang cũng đã tìm được hy vọng cuộc đời qua một ngả khác.
Khám phá ra hy vọng
Không thiếu trường hợp, tôi đã chứng kiến những cuộc trở về. Họ
đã trở về từ những dòng nước mắt của một người nào đó. Người đó cầu nguyện cho
họ. Người đó khóc với họ thay vì nói với họ.
Một lúc bất ngờ, lời Chúa Giêsu phán xưa trở thành chuyện đời
họ. Chúa an ủi họ rằng: "Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc. Người đau
ốm mới cần. Hãy về học biết ý nghĩa của câu này: Cha muốn lòng nhân, chứ đâu
cần của lễ. Vì Cha đến, không để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người
tội lỗi" (Mt 9,12-13).
Những lời dịu dàng đó đã đi sâu vào lòng họ. Cõi lòng vốn đóng
kín, khoá chặt, chất chứa những u uất, thất vọng, nay mở ra để hy vọng tràn
vào.
Họ cảm thấy mình được xót thương, được yêu thương. Họ sám hối.
Họ cảm thấy mình được tha thứ. Và chính họ cũng dễ dàng tha thứ. Một sự bình an
lạ lùng trùm phủ tâm hồn họ. Họ ra đi bình an trong sự tin tưởng phó thác tuyệt
đối ở Chúa giàu lòng thương xót. Họ khóc vì xúc động, đây là những dòng nước
mắt đầy tình cảm tạ.
Những người chứng kiến cũng không cầm được nước mắt. Những dòng
nước mắt ấy không nói nên lời, nhưng ngọt ngào niềm hy vọng cứu độ.
Khám phá ra chính mình.
Tại những nghĩa trang, thấy người ta khóc, nhất là khi chính
mình khóc, tôi như nghe được tiếng Chúa Giêsu nói: Cha thương con, Cha thương mọi
người. Cùng với lời Chúa trao ban tình yêu, tôi khám phá ra chính mình tôi, với
những vết thương, với những tang tóc đau buồn. Khám phá ra chính mình trong sự
thực trần trụi.
Khám phá để giúp trút bỏ những cái nhìn ảo. Nhìn ảo về mình.
Nhìn ảo về những công việc của mình. Nhìn ảo về người khác. Nhìn ảo về cuộc
đời.
Để cũng nhận ra rằng: dù với những yếu đuối, tội lỗi, mong manh,
tôi vẫn được Chúa gọi với tình xót thương:
Gọi hãy cảm thương.
Gọi hãy chia sẻ.
Gọi hãy trở về.
Gọi hãy hiến dâng.
Gọi hãy cầu nguyện và đền tạ.
Gọi hãy sám hối và tín thác.
Gọi hãy vượt qua sự chết và mọi nghĩa trang, để bay vào cõi phúc
đời đời.
Ơn gọi đó sẽ thực hiện được, miễn là tôi biết nhờ ơn Chúa, ở lại
trong tình Chúa yêu thương. Như lời Chúa kêu gọi: "Hãy ở lại trong Cha,
như Cha ở lại trong các con" (Ga 15,4).
15. Tri ân tình cha, tình mẹ - Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Đây là một câu chuyện có thật về sự hy sinh của một người mẹ
trong trận động đất kinh hoàng ở Nhật Bản năm 2011. Sau khi trận động đất đã
qua đi, khi các nhân viên cứu hộ đến thu dọn ngôi nhà của một người phụ nữ trẻ,
họ nhìn thấy thân thể cô ấy qua các vết nứt. Nhưng cách tạo hình cơ thể của cô
có gì đó rất lạ, tựa như một người đang quỳ gối cầu nguyện, cơ thể nghiêng về
phía trước, và có một vật gì đó được hai tay của cô đỡ lấy. Ngôi nhà bị sụp và
đổ ập lên lưng và đầu cô.
Người đội trưởng đội cứu hộ đã rất khó khăn khi luồn tay mình
qua khoảng cách hẹp trên tường để chạm tới cơ thể của người phụ nữ. Anh ấy đã
hy vọng rằng người phụ nữ này có thể vẫn còn sống. Nhưng, cơ thể lạnh và cứng
của cô nói với anh rằng, cô ấy chắc chắn đã qua đời.
Đội cứu hộ rời khỏi ngôi nhà và tìm kiếm tại những toà nhà sụp
đổ khác. Nhưng không hiểu sao, người đội trưởng dường như bị một lực hút kéo
trở lại căn nhà sụp đổ của người phụ nữ đã chết. Một lần nữa, anh quỳ xuống, và
lần tìm qua những khe nứt hẹp một chút không gian dưới cơ thể đã chết. Rồi đột
nhiên, anh hét lên đầy phấn chấn: "Một đứa bé!!!! Có một đứa bé!".
Cả đội cùng nhau cẩn thận bỏ từng cái cọc trong đống đổ nát xung
quanh xác người phụ nữ. Có một bé trai 3 tháng tuổi được bọc trong một tấm chăn
hoa ngay bên dưới xác người mẹ. Người phụ nữ rõ ràng đã thực hiện một hành động
hy sinh cuối cùng để cứu con trai mình. Khi ngôi nhà của cô rơi xuống, cô đã
dùng cơ thể của mình để làm tấm chắn bảo vệ con trai mình. Cậu bé vẫn ngủ một
cách yên bình khi đội trưởng đội cứu hộ nhấc bé lên.
Bác sĩ đã nhanh chóng kiểm tra sức khoẻ cậu bé. Sau khi ông mở
tấm chăn, ông nhìn thấy một chiếc điện thoại di động bên trong. Có một tin nhắn
văn bản trên màn hình, nói rằng, "Nếu con có thể sống sót, con phải nhớ
rằng mẹ rất yêu con"...
Chiếc điện thoại này đã đi từ bàn tay này đến bàn tay khác và
qua bàn tay khác... Tất cả những người đọc tin nhắn đều đã khóc. "Nếu con
có thể sống sót, con phải nhớ rằng... mẹ rất yêu con...".
Tháng 11 lại về đem lại cho chúng ta một chút tâm tình tri ân
tình cha, tình mẹ. Một tình yêu bao la như trời bể mà cha ông ta vẫn nói rằng:
"Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân".
"Biết thờ song thân", thờ trong khi sống, thờ sau khi
chết, thờ thế nào cho phải đạo làm con, cho xứng đáng phần nào công lao tảo tần
nuôi con của mẹ:
"Nuôi con buôn tảo bán tần
Chỉ mong con lớn nên thân với đời
Những khi trái nắng trở trời
Con đau làm mẹ đứng ngồi không yên
Trọn đời vất vả triền miên,
Chạy lo bát gạo đồng tiền nuôi con".
Thế nên, nếu so sánh công đức của cha mẹ như non cao cũng chưa
xứng đáng. Tình cha tình mẹ còn vượt xa không gian và thời gian. Có thể nói
tình cha tình mẹ mãi không già luôn tươi trẻ trong cuộc đời của con. Cha mẹ có
thể không để lại cho con gia tài lớn lao hay những công trình vĩ đại nhưng cha
mẹ luôn để lại cho con một tình yêu thương vô ngần dành cho con. Vì thế mà có ai
đó nói rằng:
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha
Tình cha mẹ thương con là một tình yêu không biên giới. Một tình
yêu vượt qua mọi toan tính vật chất để có thể bảo vệ che chở đời con. Đó là một
tình yêu to lớn đầy hy sinh cho đàn con khôn lớn:
Mây trời lòng lộng không phủ kín công Cha
Tần tảo xóm hôm Mẹ nuôi con khôn lớn
Lá cây trong rừng dẫu nhiều cũng không thể sánh bằng công ơn của
cha mẹ. Sao trên trời thật khó đếm, nhưng công ơn của cha mẹ lại càng khó đếm
hơn những vì sao:
"Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy từng trời cao
Đố ai đếm được những vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẫu từ".
Chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, sinh lực hao mòn, nặng nhọc
gánh chịu, làm sao ta có thể quên được tình mẹ bao la như biển cả ấy:
"Nhớ ơn chín chữ cù lau
Ba năm nhủ bộ biết bao nhiêu tình".
Tình ở đây là tình mẹ thương con. Tình thương ấy thật bao la,
bát ngát, nên mỗi khi mẹ cất tiếng ru con thì đời con thêm tươi sáng:
"Ví dầu cầu ván đóng đinh,
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi.
Khó đi mẹ dắt con đi,
Con đi trường học mẹ đi trường đời".
Vậy, đổi lại sự hy sinh của tình cha tình mẹ, các ngài cần gì
nơi chúng ta? Chắc chắc không phải là tiền bạc, vì tiền bạc các ngài dành giụm
để trao lại cho chúng ta. Chắc chắc đó không phải là danh vọng, vì tuổi gìa
chẳng còn ham muốn những tham sân si của dòng đời. Các ngài cần tình yêu của
chúng ta qua sự chăm sóc, thăm nom của chúng ta khi các ngài còn sống. Và khi
các ngài đã qua đời, đó chính là lời cầu nguyện của chúng ta dành cho các ngài.
Người phụ nữ Nhật trước khi chết chỉ để lại một thông điệp cho
con chính là: "con phải nhớ rằng mẹ rất yêu con"... Đó chính là thông
điệp của tất cả các đấng sinh thành kẻ còn sống cũng như người đã qua đời đang
nói trong con tim mỗi người chúng ta. Chúng ta được sinh ra trong tình cha tình
mẹ, được lớn lên trong tình thương đó và tình thương đó mãi mãi theo chúng ta
trong suốt hành trình cuộc đời. Đó cũng là bổn phận mà chúng ta phải báo hiếu
qua hai chữ yêu thương. Yêu thương thể hiện của lòng thảo kính vâng phục các
ngài. Yêu thương thể hiện qua chữ hiếu luôn phụng dưỡng cha mẹ lúc tuổi già.
Yêu thương thể hiện qua lời cầu nguyện ngày đêm dành cho những người đã qua
đời.
Ước gì mỗi người chúng ta từng được cưu mang trong tình yêu của
cha mẹ thì hãy sống sao cho tròn chữ hiếu. Hãy biết tận dụng tháng 11 để tích
luỹ ơn ích thiêng liêng mà cầu nguyện cho các ngài. Hãy làm việc bác ái, hy
sinh và cầu nguyện giúp các ngài vượt qua cuộc thử thách trước toà phán xét của
Thiên Chúa. Ước gì những hy sinh và lời cầu nguyện chân thành của chúng ta là
lễ vật đẹp nhất để dâng về Thiên Chúa và dâng kính tổ tiên. Amen.
16. Luyện ngục
CẦU NGUYỆN CHO NHỮNG NGƯỜI ĐÃ QUA ĐỜI
Vấn đề chúng ta tìm hiểu hôm nay, đó là có những sự gì xảy ra
cho các linh hồn nơi luyện ngục? Hai chữ luyện ngục mà thôi cũng đã đủ cho
chúng ta thấy đó là nơi đau khổ, đền bù và thanh luyện. Vào ngày phán xét,
chúng ta sẽ thấy mình còn xa cách với lý tưởng mà Chúa đã ấn định. Mặc dù linh
hồn ra đi trong tình trạng ơn thánh, nhưng còn biết bao nhiêu những sau lỗi,
biết bao nhiêu những tỳ vết khiến chúng ta phải kêu lên: Lạy Chúa, con không
thể nào trở về cùng Chúa khi chưa xóa bỏ hết những hoen ố của biết bao nhiêu
lần vấp phạm.
Có lẽ ngay trong lúc này, chúng ta cũng cảm thấy: Chưa bao giờ
tôi đã lên tới đỉnh trọn lành, chưa bao giờ tôi được thỏa mãn với chính bản
thân mình?
Làm sao chúng ta có thể hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong
cuộc sống hiện tại như Đức Kitô ngày xưa? Thì đây, luyện ngục sẽ là nơi để
chúng ta kết thúc những công trình còn dang dở. Lửa thanh luyện càng bừng cháy
để thiêu đốt những bụi bậm, những rác rưởi, những cặn bã, thì hình ảnh Chúa
càng rực sáng trong tâm hồn chúng ta. Và khi hình ảnh ấy đã trở nên chói lòa,
rực rỡ và huy hoàng, thì luyện ngục sẽ chấm dứt và chúng ta sẽ được bước vào
niềm hạnh phúc thiên đàng.
Nếu quan niệm như thế, chúng ta sẽ cảm thấy nông cạn và hời hợt
khi cho rằng: Hình phạt luyện ngục thì không xứng đáng với lòng nhân từ và
thương xót của Chúa. Ngài sẽ tha thứ cho chúng ta một cách nhưng không, mà
chẳng cần phải đều bù thanh luyện chi cả.
Nếu suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ thấy không thể nào chấp nhận
được quan niệm ấy, bởi vì nó đi ngược lại với sự thánh thiện và công thẳng
tuyệt đối của Chúa.
Thánh vịnh 118 đã bảo: Thiên Chúa thật công bằng và phán quyết
của Ngài thật ngay thẳng.
Chính Chúa Giêsu cũng đã xác quyết: Ngươi sẽ không ra khỏi đó
cho đến khi trả xong đồng xu cuối cùng.
Lòng thương xót và sự công bằng của Thiên Chúa thoạt xem ra như
tương phản lẫn nhau, nhưng lại vô cùng hòa hợp với nhau qua tín điều về luyện
ngục.
Thực vậy, trong khi sự công bằng đòi phải đền bù và thanh luyện,
thì lòng thương xót lại đưa ra những phương tiện, những cách thức giúp đỡ để
được rút ngắn thời gian đau khổ. Từ đó, chúng ta thấy được hai khía cạnh của
luyện ngục, đó là đau khổ và an ủi. Bởi vì hình phạt ở luyện ngục cũng giống
như hình phạt ở hỏa ngục, nhưng chỉ khác một điều, đó là ở luyện ngục thì chỉ
tạm thời, còn ở hỏa ngục thì vĩnh viễn. Và hình phạt đau khổ nhất chính là phải
xa lìa Thiên Chúa vào giữa lúc chúng ta nhận biết Ngài là ai và đang cố gắng
tiến đến với Ngài. Tuy nhiên, không phải chỉ có thế.
Mặc dù là một nơi đau khổ và thanh luyện, nhưng luyện ngục không
phải là hỏa ngục, trái lại luyện ngục chính là lối dẫn vào thiên đàng.
Những linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn không phải rơi vào tay
ma quỉ, nhưng sẽ được nghỉ yên trong Chúa. Ơn cứu rỗi của họ đã được bảo đảm và
họ sẽ không bị kết án. Đó là khía cảnh đầy vui mừng và an ủi của luyện ngục.
Vậy luyện ngục là gì?
Tôi xin thưa: Luyện ngục là hỏa ngục, nhưng
ở đó có niềm vui.
Hay nói một các khác: Luyện ngục là thiên
đàng, nhưng ở đó có đau khổ.
Họ đau khổ vì hiện tại còn đang phải tạm
thời xa cách Chúa. Nhưng đồng thời họ vui mừng vì một ngày kia sẽ được nhìn
ngắm tôn nhan Chúa, mặt đối mặt.
Niềm tin vào luyện ngục sẽ đem lại một sự
an ủi và khích lệ, khiến chúng ta không bao giờ phải tuyệt vọng. Thế nhưng tín
điều này còn là một lời cảnh cáo gửi đến mổi người chúng ta đang sống trong
cuộc sống này: Đừng bình thản trong tội lỗi.
Đồng thời cũng là một thôi thúc: Đừng thất
vọng trước những sai lỗi vấp phạm của mình.
Sau cùng, hãy thêm lời cầu nguyện cho các
linh hồn nơi luyện ngục, bởi vì như sách Macabêô đã xác quyết:
Cầu nguyện cho những người đã chết để họ
được giải thoát khỏi mọi tội lỗi là một việc làm thánh thiện và có giá trị cứu
rỗi.
17. Nghĩ về sự chết –
ĐGM. Gioan B. Bùi Tuần
Tôi biết là có ngày tôi sẽ chết. Mặc dầu
tôi không biết sẽ chết ngày giờ nào, nơi nào, cách nào.
Chắc chắn tôi phải chết. Đó là một chân lý
hết sức rõ ràng và chắc chắn. Chân lý này, không ai đã dạy tôi. Nó nằm ngay
trong con người của tôi.
Cái chết cũng là một biến cố đụng tới mọi
người. Nó là một vấn đề chung. Vấn đề này được coi là hết sức quan trọng. Bởi
vì nó đặt ra câu hỏi: Đâu là ý nghĩa cuộc sống? Cuộc đời đi về đâu? Bên kia sự
chết có gì không?
Câu trả lời theo lý thuyết có thể tìm được
trong nhiều sách, nhất là sách đạo. Nhưng câu trả lời theo cảm nghiệm sẽ thường
chỉ hiện lên một cách sống động, khi ta ở bên cạnh những người sắp chết, hoặc
chính ta đã có lần thập tử nhất sinh.
Những lúc đó, câu trả lời sẽ không phải là
một kết luận lạnh lùng của triết học hay của giáo lý. Nhưng sẽ là cái gì linh
thiêng thăm thẳm chứa trong những cảm tình, cảm xúc, cảm động, cảm thương, khi
hiện tượng sự chết rập rình sát tới.
Những hiện tượng khác thường nơi người sắp
chết rất đa dạng. Có thể là những lo âu sợ hãi, những khắc khoải đợi chờ, những
nắm bắt bâng khuâng, những ngóng trông mệt mỏi, những cái nhìn xa xăm. Cũng có
thể là những bất bình tức giận, những chán nản phiền muộn, những buông xuôi
tiếc nuối, những phấn đấu tuyệt vọng. Cũng có thể lại là những ăn năn đầy bình
an toả sáng, mang dấu ấn của một nghị lực thiêng liêng và một tin tưởng đến từ
cõi đời đời.
Tất cả những hiện tượng như thế phản ánh
những trực cảm nội tâm: Đã tới lúc vĩnh biệt. Đã tới lúc ra đi. Đã tới lúc phải
bỏ lại tất cả. Đã tới lúc phải trực diện với lương tâm. Lương tâm hỏi về trách
nhiệm: Trách nhiệm làm người nói chung và trách nhiệm làm con Chúa nói riêng.
Trước đây, có nhiều điều về trách nhiệm đã
lẩn trốn lương tâm. Nhưng lúc con người sắp chết, những điều lẩn trốn đó sẽ trở
về trình diện rất nghiêm túc.
Tôi có cảm tưởng là người sắp chết lúc đó
sẽ nhận ra: Sự sống của mình là một quà tặng Chúa ban. Ơn gọi được làm con Chúa
càng là một ân huệ quí báu Chúa trao cho nhưng không. Chúa ban sự sống và ơn
làm con Chúa, để mình phát triển mình và những người xung quanh trong những
chặng đường lịch sử nhất định. Sự phát triển sẽ tuỳ ở ơn Chúa, nhưng cũng tuỳ
thuộc vào sự tự do và tinh thần trách nhiệm của mỗi người.
Thực tế cho thấy là đã có những phát triển
đạo đức, và trái lại cũng có những phát triển tội lỗi. Với những phát triển
tốt, người sắp chết cảm thấy được an ủi, coi như nhiệm vụ được trao đã phần nào
hoàn thành.
Trái lại nếu thấy những phát triển của mình
là xấu, nhiệm vụ được trao đã không hoàn thành, họ sẽ không thể không sợ hãi.
Bởi lẽ hậu quả sẽ vô cùng quan trọng. Vì chết là bước sang cõi đời sau với hai
ngả: thiên dàng và hoả ngục. Mà hai ngả này đều rất rõ ràng công minh.
Vì thế, nói cho đúng, vấn đề đặt ra cho ta
về cái chết sẽ không phải là sợ chết, mà là sợ chết dữ, chết mà sau đó không
được lên thiên đàng, nhưng phải xuống hoả ngục.
Những tư tưởng trên đây thường nhắc nhủ tôi
về ba chọn lựa này:
1. Hãy tiến về sự chết của mình như tiến tới
một quãng phải vượt qua, để về với Cha trên trời.
Một khi nhìn sự chết của mình như thế, thì
cuộc sống của mình cũng được hiểu theo hướng đó.
Để đi đúng hướng về Cha trên trời, tôi chỉ
có một đường phải chọn, đó là Chúa Giêsu Kitô. Người là đường, là sự thực và là
sự sống (Ga 14,6). Đón nhận Người, lắng nghe Người, đi theo Người, bắt chước
Người. Người là gương mẫu cho ơn gọi làm người và ơn gọi làm con Thiên Chúa.
Điều quan trọng tôi sẽ hết sức quan tâm trong việc theo Chúa Giêsu sống ơn gọi,
là phải phấn đấu thanh luyện mình, phải biết khiêm tốn quên mình, dấn thân sống
theo ý Chúa, để được trở thành tạo vật mới. Nếp sống kiêu căng cần phải bị loại
tận gốc. Nếp sống cầu nguyện khiêm nhường cần được thường xuyên phát huy.
2. Hãy tiến về sự chết của mình như người
được sai đi truyền giáo, mong trở về với Đấng sai mình.
Sống như người truyền giáo và chết như
người truyền giáo. Truyền giáo một cách cụ thể ở địa phương này, ở thời điểm
này. Nghĩa là một địa phương và thời điểm có nhiều khác biệt. Vì thế, tôi phải
tỉnh thức lắng nghe hướng dẫn của Thánh Thần Đức Kitô. Ngài đang dẫn người
truyền giáo vào chiều sâu. Ngài đang giúp người truyền giáo mở rộng nhiều liên
đới. Ngài đang tạo ra cho nhà truyền giáo nhiều dịp để loan báo Tin Mừng. Tôi
có luôn khiêm tốn cầu nguyện hồi tâm, để trở thành dụng cụ ngoan ngoãn trong
tay Ngài không?
3. Hãy tiến về sự chết của mình như người
khắc khoải trở về với Đấng đã trao cho mình điều răn mới.
Điều răn mới này, tôi nhận được từ Lời
Chúa: "Thầy ban cho chúng con một điều răn mới là chúng con hãy yêu thương
nhau như Thầy đã yêu thương các con" (Ga 13,34).
Để hiểu thấm thía hành trình tình yêu, tôi
nên hằng ngày gẫm suy đoạn văn sau đây của thư thánh Gioan:
"Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ
cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em. Kẻ không yêu thương,
thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình, ấy là kẻ sát nhân. Và anh em
biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó. Căn cứ vào điều
này, chúng ta biết được tình yêu là gì: đó là Đức Ki-tô đã thí mạng vì chúng
ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em. Nếu ai có
của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng
thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được? Hỡi anh em
là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi,
nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm. Căn cứ vào điều đó,
chúng ta sẽ biết rằng chúng ta đứng về phía sự thật, và chúng ta sẽ được an
lòng trước mặt Thiên Chúa" (1Ga 3,14-19).
"Phần chúng ta, chúng ta hãy yêu
thương, vì Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước. Nếu ai nói: "Tôi yêu
mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai
không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên
Chúa mà họ không trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta đã nhận được từ Người:
ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình" (1 Ga 4,19-21)
Khi tôi sống với những hướng kể trên, tôi
sẽ coi sự chết như là một điểm chấm dứt nhiệm vụ.
Nhiệm vụ được chấm dứt. Nhưng nhiệm vụ có
được hoàn thành hay không, đó là chuyện khác và đó mới là điều quan trọng. Chúa
sẽ phán xét công minh điều đó. Ở đây, tôi có lý do để lo, bởi vì tôi biết tôi
đã lỗi phạm nhiều.
Biết lo là điều tốt. Không phải lúc gần
chết mới lo, mà phải lo ngay bây giờ. Biết lo ở đây là tìm cách sửa mình, đổi
mới mình nên tốt hơn. Coi như bắt đầu lại.
Khởi sự từ quyết tâm tận dụng ngày giờ còn
lại và những phương tiện trong tầm tay để chu toàn các nhiệm vụ được trao một
cách tốt đẹp nhất. Nhất là tỉnh thức ưu tiên đón nhận Nước Trời vào bản thân
mình bằng sám hối và tin mến khiêm cung.
Những nỗi lo như thế là chính đáng. Khi
chúng ta làm hết sức mình, thì những nỗi lo đó sẽ đem lại những tiến triển và
hân hoan. Với hân hoan và tin tưởng nơi Chúa giàu tình yêu thương xót, chúng ta
bình tĩnh đi về sự chết. Sự chết lúc đó chỉ là bước sang sự sống mới vô cùng
tốt đẹp hơn trước. Và như thế, sau cùng, chỉ có thần chết là phải chết thôi.
18. Luyện ngục
Từ cổ chí kim, cũng như từ đông sang tây,
người ta đều có truyền thống thương tiếc và an táng người quá cố một cách kính
cẩn. Ngày xưa, người ta thương tiếc và dâng tặng người quá cố một thánh lễ an
táng trọng thể, một bài điếu văn chải chuốt, rồi tụ tập ăn uống linh đình,
tiếng khóc biến thành những câu chuyện ròn rã bễn cỗ bàn rượu thịt ê hề. Nỗi
thương nhớ trôi mất theo từng ly rượu của bàn tiệc, để rồi khi tiệc tan, trở về
nhà và không còn nghĩ gì đến người quá cố đang khổ đau vì bị thanh luyện nữa.
Có một người sau khi chết được dẫn vào luyện
ngục. Anh ta thấy mọi người trong đó đang đứng trong một vũng bùn lên tới quá
đầu gối. Có người đang hút thuốc. Người khác thì uống cà phê và mọi người đều
cười nói với nhau một cách vui vẻ. Anh ta thầm nghĩ: Nếu luyện ngục là như vậy,
thì đâu có gì tệ lắm.
Vừa nghĩ thế, anh ta liền nhìn thấy một
người trong bọn trông giống như một viên cai ngục, vỗ tay ra hiệu và tuyên bố:
Hết giờ nghỉ xả hơi rồi. Bây giờ hãy chống cằm xuống đất và chổng hai chân lên
trời.
Nghe đến đây, anh ta bỗng ngất xỉu. Thì ra
đó chỉ là một giấc mơ.
Vậy luyện ngục là gì?
Dĩ nhiên luyện ngục không phải là một căn
hầm hay một vũng bùn như trong câu chuyện vừa nghe. Theo lời các thánh, luyện
ngục chính là nơi các linh hồn được thanh tầy, để trở nên trong sạch, xứng đáng
được hưởng kiến tôn nhan thánh Chúa.
Các linh hồn nơi luyện ngục chắc chắn đã
được cứu độ, nhưng chưa phải là trong giây phút hiện tai. Do đó, luyện ngục
thực sự là một dấu chứng của lòng Chúa xót thương.
Một ông cụ luôn khuyên nhủ con cháu hằng
ngày đọc kinh sớm tối kẻo mất linh hồn. Thế nhưng, một người con của cụ trả
lời: Không cần đọc nhiều, mà chỉ cần đọc ba kinh Kính mừng là đủ lên thiên đàng
cả giường lẫn chiếu.
Ông cụ đáp lại: Lên thiên đàng, thì chúng
mày đừng hòng. Tao chỉ mong chúng mày xuống luyện ngục là đã phúc lắm rồi.
Thực trạng bất toàn của con người khiến
chúng ta cảm thấy không xứng đáng được diện kiến, gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên
Chúa, bởi vì Ngài là đấn thánh thiện vô cùng.
Sự thánh thiện của Thiên Chúa và tội lỗi là
hai cái gì đối kháng nhau, như lửa với nước, như ánh sáng với bóng tối. Do đó,
tội lỗi làm cho chúng ta phải xa lìa Thiên Chúa, khiến chúng ta quay lưng chống
lại Ngài và đi ngược lại với bản tính thánh thiện tuyệt vời của Ngài. Thực vậy,
Thiên Chúa thánh thiện không thể nào chấp nhận một chút bợn nhơ xấu xa nào
trong vương quốc của Ngài.
Đối với các linh hồn đáng thương còn mang
dấu ấn của tội lỗi, thì luyện ngục chính là nới ẩn náu đầy yêu thương, là tiền
đường của thiên đàng. Các ngài vui mừng trong đau khổ. Và nỗi đau khổ nặng nề
nhất không phải là cực hình hỏa ngục, mà là khát vọng được diện kiến thánh nhan
Thiên Chúa, mà hiện nay chưa được trở thành sự thật, mà vẫn còn bị trói buộc
trong sợ mòn mỏi trông chờ và mong đợi.
Với ý thức về tội lỗi của mình, các ngài sẽ
không rời xa luyện ngục, cho tới khi được tẩy sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Còn
mang lầy một chút dấu vết của tội lỗi trong tâm hồn mình cũng là một đớn dau
cho các ngài, khi cảm thấy mình bất xứng.
Chính vì thế, trong niềm hiệp thông, chúng
ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ
chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến,
đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài
một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
19. Bóng câu cửa sổ
Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi,
Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,
Một cơn gió thoảng là xong,
Chốn xưa mình ở cũng không biết mình.
(Tv 103, 15-16)
Vào ngày 31 tháng giêng năm 2000, một hung
tín được loan ra: chuyến bay 261 của hãng Alaska với 83 hành khách và 5 nhân-viên
phi-hành-đoàn, cất cánh từ Mễ Tây Cơ để đi Seattle, tiểu bang Washington, đã
rớt xuống Thái-Bình-Dương, cách Los Angeles chừng 20 dặm đường chim bay. Khoảng
10 xác chết đã được vớt lên, số còn lại đã bị tan nát trong lòng biển cả. Trong
số nạn-nhân nầy, có một bé gái thiên-thần mới được bốn tháng. Vì thân-mẫu là
người gốc Mễ-Tây-Cơ, cha mẹ đã đưa em về quê ngoại để được rửa tội.
Chỉ trong năm 1999, ba cánh chim sắt đã lao
xuống biển cả. Đêm 16 tháng bảy năm 1999, máy bay do Kennedy, 38 tuổi, con trai
duy-nhất của cố Tổng Thống John Kennedy, chở vợ là Carolyn Bessette và chị vợ
là Lauren Bessette, đi dự lễ cưới cháu mình, đã bị rớt xuống Đại Tây Dương. Một
tuần sau, đoàn cấp cứu đã vớt được các thi-hài.
Mấy tháng sau, chiếc máy bay của Ai-Cập với
trên 200 hành-khách, đã rớt xuống Đại-Tây-Dương và không một xác nào được tìm
thấy.
Vào sáng thứ ba (11-09-2001). một đại-họa
khủng-khiếp đã làm chấn-động thế-giới: nhóm khủng-bố Osama Bin Laden đã cướp
giựt bốn máy bay và chỉ trong một giờ đồng-hồ đã làm nổ tung hai ngọn tháp chọc
trời của Trung-Tâm Thương-Mại Thế-Giới ở Nữu-Ước và sau đó đánh sập một cánh
của Ngũ-Giác-Đài ở Hoa-Thịnh-Đốn. Tổng số thương-vong khoảng trên ba ngàn
người, trong số đó không thiếu những chuyên-gia lỗi -lạc về kinh-tế, tài-chánh,
ngân-hàng, kỹ-thuật và quân-sự...
Trong huấn-từ nhân cuộc triều-yết chung vào
sáng thứ tư (ngày 12-09-2001), Đức Thánh Cha Gioan-Phaolồ Đệ-Nhị đã mô tả
đại-họa đó là "một ngày đen tối nhất trong lịch-sử loài người, một xúc
phạm ghê-gớm cho phẩm-giá con người."
Tôi mới có dịp nói chuyện với một người bạn
rất khỏe mạnh, nhưng ba hôm sau, người bạn đó đã được khâm-liệm vì bị ngã gục
dưới họng súng tấn-công của một địch-thủ.
Ngay cả hôm nay đây, biết bao người đang
nối tiếp nhau lìa đời bằng sự chết chóc để đi vào nơi vĩnh-cữu. Những
trường-hợp ra đi vĩnh-viễn được nêu ra đây quả rất thông thường, nhưng cũng đủ
cho chúng ta hiểu rằng tử-thần sẽ đến viếng chúng ta một cách bất ngờ không một
lời báo trước.
Khi quan-sát một số người đang cuồng-nhiệt
theo đuổi danh-vọng, thú vui hay của-cải vật-chất thì chúng ta sẽ hết sức
ngạc-nhiên với ý-nghĩ là họ đang sống mà không chút ưu-tư về cuộc sống đời đời.
Con người trong thời-đại văn-minh tiến-bộ nầy dường như đang sống theo lý-tưởng
quá ư trần-tục của một tư-tưởng-gia thời xưa: "Chúng ta đừng quan-tâm đến
sự chết, nhưng hãy nghĩ đến sự sống thiên-đàng mà chúng ta tìm kiếm không phải
là những đường phố bằng vàng nhưng là những túi vàng vậy. Những khát vọng của
chúng ta chỉ thuộc về cõi tạm nầy chứ không phải thuộc về cõi đời đời, và
thiên-đàng mà chúng ta suy tưởng phải là một cõi phong-phú về tiền bạc và đủ
các tiện-nghi cho chúng ta hưởng-thụ. Quả thật, chúng ta không cần phải lo nghĩ
đến sự chết." Tuy-nhiên, sách Giảng-Viên đã nói rõ ràng: "Có thời để
sinh ra, có thời để lìa đời." (Gv 3, 2).
Kinh Thánh cũng cho biết ông A-Dong sống
đến chín trăm tuổi rồi mới qua đời. Ông Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi
rồi từ trần. Ông Hê-nóc sống chín trăm lẻ năm tuổi rồi cũng phải từ giả cõi
đời. Hơn sáu tỷ người đang sống trên mặt đất hiện nay rồi cũng sẽ ra đi trong
vòng một trăm năm nữa, không ai sẽ thấy ánh mặt trời của thế-kỷ hai mươi hai.
Trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, Thánh Phaolồ đã viết: "Thân phận con người
là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét." (Dt 9, 27).
Mặc dầu khoa-học đã tiến-bộ, sau khi vượt
qua giới-hạn của không-gian địa-cầu và đang tiến sâu vào không trung, nhưng
trên cương-vị con người, chúng ta luôn luôn bị ràng buộc bởi cuộc sống trên mặt
đất. Có rất ít bài giảng-luận về sự chết, thiên-đàng, hỏa-ngục. Tuy-nhiên,
chân-lý bất-biến là tất cả mọi người trên mặt đất đều phải kết-thúc bằng sự
chết và vấn-đề chuẩn-bị cho cuộc sống trong đời sau rất là hệ-trọng, như lời
Thánh-Kinh: "Nếu con luôn luôn suy gẫm về sự chết, sự phán xét,
thiên-đàng, hỏa-ngục thì con sẽ không bao-giờ phạm tội."
Ở Âu-Mỹ, có một thành-ngữ như sau: "Ở
đời nầy, chỉ có hai việc chắc-chắn không ai thoát khỏi là sự chết và nộp
thuế." Chúng ta thường lo lắng dành tiền dể nộp thuế mà quên mất vấn-đề
quan-hệ hơn là sự chết. Ta cần phải ý-thức hơn về việc tử-thần đang tiến gần
mỗi người chúng ta một cách nhanh chóng. Lời Chúa đã căn dặn: "Thế thì của
Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên-Chúa, trả về Thiên-Chúa." (Mt 22, 21).
Người giàu không thể nhờ tiền bạc xin sửa
đổi hình phạt đang chờ đợi mình thành một án treo; người nghèo cũng không thể
nói với sự chết cho mình sống thêm một ngày nữa vì nó đã chiếm-hữu con người từ
lúc mới lọt lòng mẹ cho tới khi đi vào mồ-mả. Sẽ có lúc sau khi mọi người
đông-đảo họp nhau cầu-nguyện thì đã ra về và "còn lại một mình tôi"
trong nơi hoang vắng...!
Thánh Giacôbê đã viết: "Anh em không
biết cuộc đời mình ngày mai sẽ ra sao. Thật vậy, anh em chỉ là hơi nước xuất
hiện trong giây lát, rồi lại tan biến đi." (Gc 4, 14). Như đám sương mù
buổi sáng, rất mong manh, bốc thành hơi nước dưới ánh triêu-dương rồi biến mất
giữa ban ngày, đời người cũng giống như giọt sương mai hiện ra chốc lát rồi lại
tan ngay.
Thật vậy, sự sống chẳng khác gì cái thoi
dệt cửi: "Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt, không một
tia hy-vọng." (Gióp 7, 6). Một văn-sĩ đã viết: "Chỉ khi nào thời
gian, với một bàn tay không biết chán, xé hết phân nửa số trang sách của đời
mình để nung đốt lò dục-vọng, lúc ấy con người mới bắt đầu nhận thấy những
trang còn lại của đời sống mình không còn bao nhiêu nữa". Tiên-tri I-Sai-A
đã suy ngắm: "Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mãi dệt đời mình, bỗng
nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ." (Is 38, 12). Sách Biên-Niên-Sử
quyển I cũng viết: "Ngày đời của chúng con trên mặt đất như bóng câu cửa
sổ, không để lại dấu vết." (1 Sb 29, 15).
Khi William Russel lên đoạn đầu đài, ông đã
lấy đồng hồ trong túi áo ra rồi trao cho vị y-sĩ săn-sóc ông và nói: "Xin
ông làm ơn giữ hộ cái đồng-hồ nầy vì tôi không cần đến nó nữa. Bây giờ tôi sắp
bước vào cõi đời đời."
Thánh Gióp cũng đã từng than-thở: "Vì
tuổi con người đã được Ngài ấn-định, sống được bao năm tháng là tùy thuộc ở
Ngài. Ngài định giới-hạn rồi, sao có thể vượt qua." (G 14, 5). Tác-giả
Thánh-Vịnh cũng đã nói: "Kiếp phù-sinh, tháng ngày vắn-vỏi, tươi thắm như
cỏ nội hoa đồng, một cơn gió thoảng là xong, chốn xưa mình ở cũng không biết
mình." (Tv 103: 15,16).
Ngày nầy nối tiếp ngày khác, trôi qua với
một tốc-độ tăng dần mãi dường như theo nhịp tiến của chúng ta tới tuổi già.
Những ngày của chúng ta trên mặt đất nầy giống hệt kiếp hoa: "Người phàm
nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi
thần khí Đức Chúa thổi qua." (Is 40, 6-7).
Trong những giờ phút cuối cùng đời mình,
Cesar Bergia đã nói: "Trong suốt đời sống của tôi, tôi đã tiên-liệu mọi
sự, trừ sự chết, và bây giờ, ôi, thật khốn nạn cho tôi, tôi phải chết mà không
chuẩn-bị được gì trước cho sự chết của tôi."
Một thanh-niên mới hai mươi bốn xuân xanh,
suốt đời mạnh khỏe, nhưng bất thình-lình lâm trọng bệnh. Trước khi sắp từ-giả
cõi đời, anh đã rên-rỉ, than-van và quằn-quại trên giường bệnh với những lời
gào thét sau đây: "Ôi, tôi đã phung-phí những ngày xanh của tôi, tôi đã
làm khánh-tận đời tôi. Tôi sẽ thưa gì với Đức Chúa, khi tôi phải ứng hầu trước
mặt Ngài?" Thánh Phaolồ. trong thư gởi tín-hữu Do-Thái, đã cảnh-cáo:
"Và nếu mọi vi-phạm cũng như bất tuân đều bị phạt đích đáng, thì làm sao
chúng ta thoát khỏi, nếu chúng ta thờ-ơ với ơn cứu-độ cao-quý như thế?"
(Dt 2, 3).
Một văn thi-sĩ khuyết-danh đã viết những
câu sau đây, trong bài thơ 'Sách Sự Sống':
"Tôi quì cầu-nguyện, nhưng chẳng lâu
được; tôi có nhiều việc phải làm. Tôi phải cấp-tốc đi làm vì hóa-đơn đòi tiền
chồng chất.
Vì vậy, tôi quì gối, đọc vội một kinh và
nhảy đứng dậy. Việc bổn-phận Kitô-hữu của tôi đã làm xong và tâm-hồn tôi
thanh-thản, bình-an.
Suốt ngày tôi không có thời-giờ để buông
một lời chào hỏi vui-vẻ hoặc nói về Chúa Kitô với bạn-bè vì sợ họ cười nhạo
tôi.
Tôi luôn miệng la lớn: Không có thời-giờ,
không có thời-giờ, nhiều chuyện phải làm quá! Không có thời-giờ để lo cho việc
rỗi linh-hồn, nhưng cuối cùng giờ chết đã đến.
Tôi trình-diện trước mặt Đức Chúa; tôi đứng
với đôi mắt cúi xuống, vì Đức Chúa đang cầm trong tay một quyển sách, sách sự
sống.
Đức Chúa nhìn vào trong sách và nói: 'Cha
không tìm thấy tên con, vì có lần Cha dự-tính viết xuống, nhưng Cha chẳng lúc
nào có thời-giờ.' "
Khi thể xác của chúng ta chết và sự sống
của chúng ta ở trên mặt đất nầy chấm dứt, phần linh-hồn của chúng ta vẫn
tiếp-tục sống động trong cõi đời đời. Victor Hugo, một đại văn-hào Pháp đã nói:
"Tôi cảm biết có sự sống tương-lai trong tôi." Cyrus cũng đồng
ý-kiến: "Tôi không thể nghĩ rằng linh-hồn chỉ sống khi còn ở trong một
thân-thể hay chết." Chính Emerson cũng nói: "Bằng chứng hiển-nhiên về
sự bất-diệt của linh-hồn là chính nơi sự bất mãn của chúng ta đối với mọi
kết-luận trái ngược." Mark Twain đã viết: "Tôi không bao giờ tìm thấy
mảy-may sự thật có thể chứng-minh về đời sống tương-lai, nhưng tôi có
khuynh-hướng chờ-đợi nó."
Xưa kia Đức Chúa đã phán với vua Hezekiah:
"Hãy lo thu xếp việc nhà, vì ngươi chết, chứ không sống nổi đâu." (2
V 20, 1). Do môi miệng của tiên-tri A-mốt, Đức Chúa cũng tuyên phán cho mọi
người: "Ngươi hãy chuẩn-bị đi gặp Thiên-Chúa của ngươi." (Am 4,12).
John Bunyan, tác-giả cuốn "Thiên-lộ
lịch-trình", đã nói lúc ông gần qua đời: "Các bạn đừng than khóc cho
tôi, nhưng hãy than khóc cho chính các bạn. Tôi sẽ về nhà đời đời nơi có Đức
Chúa Trời là Cha Đức Giêsu Kitô: Ngài sẽ tiếp rước tôi dù tôi là một tội-nhân
bởi công-lao cứu chuộc của con Ngài. Tôi tin rằng chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ
gặp nhau trên nước sáng láng của Chúa để hát bài ca mới và sống sung-sướng
trong cõi đời đời."
Chúng ta hãy lợi-dụng những giây phút chóng
qua của đời người để chuẩn-bị cho cuộc sống đời đời: "Thiên-Chúa yêu
thương thế-gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi
phải chết, nhưng được sống muôn đời." (Ga 3,16).
"Sinh ký tử qui" (sống gởi thác
về). Người có Đức Tin đặt niềm tín-thác trọn-vẹn nơi Chúa Quan-Phòng trong cuộc
sống cũng như giờ phút lâm-chung, như lời Thánh Phao-Lồ đã nói: "Vì đối
với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi." (Pl. 1,21).
Trong tinh thần phó-thác tuyệt-đối đó, các
Anh Chị trong dòng Tiểu-Muội và Tiểu-Đệ, mỗi ngày đã đọc kinh "Dâng
Mình" của Cha Charles de Foucauld như sau:
"Lạy Cha, con phó-thác mình con cho Cha. Xin hãy làm nơi
con mọi sự đẹp ý Cha. Cha làm cho mặc lòng, con cũng cám ơn Cha. Con sẵn-sàng
luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha được trọn-vẹn trong con, trong tất
cả loài Cha tạo-dựng. Con chẳng ước muốn chi khác nữa. Lạy Cha là Chúa Trời
con, con phó-thác linh-hồn con trong tay Cha. Con dâng linh-hồn con cho Cha.
Lạy Cha, với tất cả tình yêu của lòng con, vì con mến Cha và vì mến Cha nên con
thấy cần phải hiến-thân con, phó trót mình con trong tay Cha, không do-dự
đắn-đo song vô-cùng tin cậy, vì Cha là Cha của con. Amen."
20. Họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
Một linh mục đang chuẩn bị cho trẻ em lãnh bí tích thêm sức,
Ngài kiểm tra những điều các em học hỏi. Ngài hỏi một em trai: "Thiên Chúa
sẽ nói gì trong ngày phán xét chung với những người đã sống cuộc đời rất tốt
lành?" Không do dự, chú bé đáp: "Hãy lên trời sống với Ta". Rồi
linh mục hõi một em bé gái: "Còn những người sống cuộc đời rất xấu xa thì
sao? Thiên Chúa sẽ nói gì với họ?". Cô bé đáp: "Các người không được
lên trời. Các người phải đi nơi khác". Linh mục nói tiếp: "Vậy Thiên
Chúa sẽ nói gì với những người chưa tốt lành đủ để lên trời và cũng không xấu
đến nỗi phải vào hỏa ngục?" Một em bé nhanh nhảu giơ tay và trả lời theo
kiểu mới bằng những lời rất đúng: "Thiên Chúa sẽ nói: "Ta sẽ nhìn các
con".
Câu chuyện này làm nổi bật hai trong nhiều chân lý mà chúng ta
cần nhắc lại trong ngày lễ các linh hồn hôm nay và trong cả trong tháng 11 này
được dành riêng để kính nhớ các linh hồn còn trong luyện hgục. Chân lý thứ nhất
là: một số linh hồn chưa đủ tốt lành để lên trời và không xấu đến nỗi phải vào
hỏa ngục. Vậy những người đó đi đâu khi họ qua đời? Chỉ Giáo hội công giáo có
câu trả lời, là họ vào luyện ngục. Chân lý khác được em bé gái diễn tả là: đau khổ
lớn nhất của luyện ngục là các linh hồn ở đó không được nhìn thấy Thiên Chúa,
vì Thiên Chúa sẽ nhìn xem họ sau này, cho nên họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa
về sau.
Bạn không tìm thấy từ "luyện ngục" trong Thánh Kinh,
nhưng bạn có thể tìm được ý tưởng về nó. Chính Chúa chúng ta muốn nói rằng: một
số tội được đền chuộc lại ở đời sau khi Ngài nói về tội không thể tha thứ vì từ
chối kêu xin sự tha thứ (Mt 12,32)
Chúa Giêsu cũng nói về một ngục tù nơi linh hồn sẽ bị tống vào
đó vì một số tôi. Họ sẽ chẳng được ra khỏi đó cho đến khi trả hết đồng xu cuối
cùng (Mt 5,26), thánh Phaolô nói về những người sống ở thế gian này không hoàn
thiện, tuy nhiên họ sẽ được cứu độ như bằng lửa thử luyện (ICor 3,13).
Cựu ước cũng chỉ cho thấy luyện ngục. Giuda Macabê, nhà lãnh đạo
Do thái, đã dâng lễ tế đền tội cho người đã chết: "Cầu nguyện cho người đã
chết là một ý tưởng lành thánh và đạo đức, để họ được tha thứ tội lỗi"
(Amac 12,46).
Các linh hồn lành thánh không được lập công được nữa vì họ cũng
không thể phạm tội nữa. Họ không thể giúp mình nhưng có thể giúp chúng ta. Họ
đau khổ chính là vì họ không có thể ở cùng Thiên Chúa và nhìn xem Thiên Chúa.
Họ chịu thứ đau khổ thanh tẩy có thể so sánh với đau khổ vì lửa. Nhưng họ vẫn
vui mừng: họ nắm chắc là họ sẽ được lên trời.
Nhiêu linh hồn lành thánh này là những người thân yêu của chúng
ta. Chúng ta có thể giúp đỡ họ bằng cầu nguyện, bằng việc lành và đặc biệt nhờ
thánh lễ mà chúng ta cầu nguyện: "Xin Chúa nhớ đến tổ tiên, thân thuộc
chúng con và anh chị em tín hữu đang an nghỉ chờ ngày sống lại, xin cho tất cả
được hưởng ánh sáng tôn nhan Chúa".
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
21. Bên kia sự chết
Trên giường hấp hối, thánh Monica đã nhắn nhủ con ngài là
Augustino như sau: "Mẹ chỉ xin con một điều là hãy nhớ đến mẹ khi tới bàn
tiệc thánh".
Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng đã được nghe nhiều lời van
xin tương tự phát ra từ môi miệng của những người thân của chúng ta, trước khi
từ giã cõi đời... Nhưng xa mặt cách lòng, nhiều người trong chúng ta lãng quên
những lời van xin thống thiết ấy. Cần được thương, cần được nhớ: đó là khát
vọng tự nhiên của con người. Không ai muốn là một hoang đảo cô đơn. Dưới cái
nhìn Đức Tin, lời van xin kẻ khác cầu nguyện cho, còn chứng tỏ một lòng khiêm
tốn, một thái độ chấp nhận cái giới hạn mỏng manh bất lực của mình.
Để giúp chúng ta có dịp đáp lại thỉnh cầu của những người đã đi
vào thế giới bên kia và để thể hiện mối tình thông hiệp "các thánh thông
công", Giáo Hội ngay từ buổi đầu kỷ nguyên Kitô đã cổ động việc tưởng nhớ
cầu nguyện cho những người quá cố. Những thế kỷ gần đây đã dành tháng 11 hằng
năm cho việc đạo đức ấy. Hai ngày lễ mừng kính các thánh và cầu cho các linh
hồn được ấn định vào hai ngày mùng một và mùng hai đầu tháng với những kinh
nguyện rất ý nghĩa, nhắc chúng ta về sự hiệp thông trong Giáo Hội. Công đồng
Vatican II trong hiến chế về Mầu Nhiệm Giáo Hội đã viết như sau: "Giáo Hội
lữ hành hết lòng kính nhớ, dâng lời cầu cho những người đã chết, vì cầu nguyện
cho họ được giải thoát khỏi tội lỗi là một việc lành thánh...".Nói về sự
bầu cử của các đẳng linh hồn, Công Đồng viết như sau: "Khi được về quê
Trời và hiện diện trước nhan Chúa, nhờ Người, với Người và trong Người, các
thánh lại không ngừng cầu bàu cho chúng ta bên Chúa Cha...". Sự trao đi
nhận lại đó vừa là một việc bác ái vừa là một bổn phận thảo hiếu đáp đền, đã
thực sự củng cố Giáo Hội thêm vững bền trong sự thánh thiện.
Quỳ cầu nguyện một mình trong nhà thờ, hay ngậm ngùi đốt lên một
ngọn bạch lạp tại một nghĩa trang nào, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy
bùi ngùi xúc động khi nghĩ đến những người chết và chính cái chết. Chúng ta
đang đứng giữa biên giới vô hình của sự sống và sự chết. Và một cách vô cùng
huyền nhiệm và sống động, những người chết đang hiện diện với chúng ta bằng một
sợi dây liên kết thâm sâu, thắm thiết... Cái chết không còn là một chấm hết
cuối cùng đối với chúng ta nữa. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chính Tình Yêu đã
làm cho những người đã chết được sống và cũng chính Tình Yêu liên kết chúng tư
với những người chết. Vâng, chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người được bất tử.
Chỉ có Tình Yêu mới làm cho con người liên kết với những người đã chết. Chỉ có
Tình Yêu mới mặc cho những nghĩa cử của con người sự bất diệt.
Mỗi lần chúng ta hy sinh cho một người nào đó, mỗi lần chúng ta
săn sóc một người đau yếu, an ủi một người đau khổ, bênh vực một người cô thế,
hay cùng với những người khác dấn thân để canh tân cuộc sống... Chúng ta đang
tiến dần đến sự bất tử.Yêu thương chính là tái sinh, là sự thông dự vào sự sung
mãn của cuộc sống. Đó phải là niềm tin của chúng ta trong ngày hôm nay khi
chúng ta tưởng nhớ và cầu nguyện cho người quá cố. Xin Chúa nâng đỡ Đức Tin yếu
kém của chúng ta, xin Ngài ban thêm niềm hy vọng cho chúng ta.
22. Lễ cầu nguyện cho các linh hồn – JK
(Lc 23,33-34.39-43)
Câu hỏi gợi ý:
1) Thiên Chúa không muốn con người đau khổ, tại sao Ngài lại bắt
linh hồn người chết phải thanh luyện cho hoàn hảo mới được vào thiên đàng?
2) Chịu thanh luyện để nên hoàn hảo, Bản chất của sự hoàn hảo
này là gì? Là tình yêu? đức tin? sự trong sạch? hay sự tôn trọng lề luật? hay
sự gì khác?
3) Người gian phi đầy tội lỗi trong bài Tin Mừng, tại sao lại
được Đức Giêsu cho vào thiên đàng ngay? Vậy yếu tố cốt yếu nhất để vào thiên
đàng là gì? Đọc kinh? cầu nguyện? dâng lễ? bố thí? giữ luật? hay tình yêu? lòng
vị tha?
CHIA SẺ
1- Niềm tin của người Công giáo về luyện ngục
Hôm nay và suốt tháng 11 này, người Công giáo chúng ta đặc biệt
quan tâm cầu nguyện cho những người quá cố. Chúng ta thường nghĩ họ đang phải
chịu thanh luyện bằng đau khổ để trở nên hoàn hảo. Sự thanh luyện đó được Giáo
Hội định tín: «Linh hồn kẻ chết chưa đền tội hoàn toàn sẽ được thanh luyện sau
khi chết với những hình phạt được gọi là "Thanh Luyện"» (DS 856/464).
Mục đích của việc thanh luyện là làm cho linh hồn trở nên hoàn
hảo, hoàn toàn vị tha, đầy tình thương, không còn một chút tâm địa ích kỷ, độc
ác, tham lam nào nữa. Thiên Đàng đòi hỏi một sự hoàn hảo như thế thật là hợp
lý, vì đó là một «nơi» hoàn toàn hạnh phúc, hoàn toàn thánh thiện, là «nơi»
chúng ta sẽ trở về để hưởng hạnh phúc muôn đời. (Gọi là «nơi» thì chỉ là tạm
gọi, vì thật ra, Thiên đàng, luyện ngục hay hỏa ngục không phải là nơi chốn, là
không gian vật lý cho bằng là những tình trạng tâm linh hoặc tâm lý. Chẳng hạn:
Thiên Đàng là tình trạng tâm linh hoàn toàn hạnh phúc, không còn một chút đau
khổ, của những tâm hồn hoàn hảo, thánh thiện. Còn Hỏa Ngục là tình trạng tâm
linh hết sức đau khổ của những tâm hồn độc ác, xấu xa, ích kỷ...)
2- Thiên đàng đòi hỏi người trong đó phải thật hoàn thiện
Không cần phải xét về phía Thiên Chúa, mà ngay chính chúng ta
cũng đòi hỏi rằng: để vào Thiên Đàng thì phải thật trọn hảo. Thật vậy, thử hỏi,
khi trở về «nơi» lý tưởng đó để hưởng hạnh phúc, ta có thể hoàn toàn hạnh phúc
khi phải sống chung với thân nhân, bạn bè với những tính nết xấu như họ đang có
bây giờ không? Nếu người ở thiên đàng mà còn ích kỷ, còn ác ý, còn lãnh đạm,
còn hẹp hòi, còn hay nghĩ xấu cho người khác, dù chỉ một chút xíu, thì chính
bản thân họ sẽ đau khổ, đồng thời còn gây nên đau khổ cho người khác nữa. Chưa
hoàn hảo mà đã sống ở Thiên Đàng thì ta sẽ làm ô nhiễm cái hạnh phúc tinh tuyền
của Thiên Đàng, và biến Thiên Đàng trở thành một cái gì không còn là Thiên Đàng
nữa. Do đó, Thiên Đàng đòi hỏi những người bước vào phải hoàn toàn trong sạch,
tốt lành, nếu còn chút gì xấu xa thì phải thanh luyện cho hết. Tình trạng thanh
luyện ấy được gọi là «luyện ngục».
3- Tội lỗi hay tính vị kỷ là đầu mối gây đau khổ
Chắc chắn Thiên Chúa không bao giờ muốn con người phải đau khổ.
Việc Ngài sai Con Một mình xuống chịu chết một cách thảm thương để cứu nhân loại
chứng tỏ điều ấy. Nhưng Ngài không thể trực tiếp cứu chúng ta khỏi đau khổ, mà
chỉ có thể cứu chúng ta khỏi những nguyên nhân gây nên đau khổ là tội lỗi.
Trong sách Khải Huyền, thánh Gioan viết: «Người đã yêu mến chúng ta và lấy máu
mình rửa sạch tội lỗi chúng ta» (Kh 1,5). Đau khổ chỉ là ngọn, còn tội lỗi mới
là gốc. Muốn tránh khổ thì phải tránh tội lỗi. Diệt khổ thì chỉ là diệt ngọn,
khổ vẫn có thể tiếp tục phát sinh. Diệt tội lỗi mới là diệt khổ tận gốc. Nhưng
con người vì còn u mê nên thường sợ khổ chứ không sợ nguồn gốc phát sinh ra đau
khổ là tội lỗi, là tính ích kỷ. Họ vẫn cứ tiếp tục phạm tội, sống ích kỷ. Vì
thế, dù tìm đủ mọi cách để tránh khổ, con người vẫn cứ rơi vào đau khổ, hết khổ
này đến khổ khác. Trong việc cứu khổ cho người khác, cho các linh hồn được
thanh luyện, con người cũng chỉ nghĩ tới việc cứu họ khỏi đau khổ, chứ không
nghĩ tới việc cứu họ khỏi những nguyên nhân gây đau khổ.
Nguồn gốc của tội lỗi chính là tính ích kỷ, chỉ biết nghĩ tới
đau khổ và hạnh phúc của mình, mà không quan tâm hay biết đến đau khổ và hạnh
phúc của người khác. Vì thế, nguyên nhân sâu xa hơn của đau khổ chính là tính
ích kỷ.
4- Tình yêu hóa giải đau khổ và đem lại hạnh phúc
Nếu ích kỷ là nguồn gốc phát sinh đau khổ, thì ngược lại, tính
vị tha hay tình yêu chính là nguồn tạo nên hạnh phúc. Do đó, người ta chỉ có
thể vào được thiên đàng khi họ có đầy tràn tình yêu và không còn chút tính ích
kỷ nào nữa. Nắm vững điều này, ta mới hiểu được ý nghĩa sâu xa câu nói Đức
Giêsu, khi có người – vốn đã giữ rất chu đáo các lề luật – hỏi Ngài về cách đạt
được sự sống đời đời: «Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có
mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi»
(Mc 10,21). Điều đó có nghĩa là phải biết yêu thương và thật sự thể hiện tình
yêu ấy thì mới được sự sống đời đời, tức được hạnh phúc đích thực. Kho tàng ở
trên trời mà mọi người muốn lên đó phải sắm cho mình chính là kho tàng tình
yêu.
Người trộm lành trong bài Tin Mừng hôm nay đã thể hiện được tinh
thần vị tha và tình yêu ấy. Trong cảnh khổ như thế mà anh không hề nghĩ tới đau
khổ của bản thân mình, mà chỉ nghĩ tới đau khổ của Đức Giêsu, thương cho Ngài
bị hàm oan: «Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.
Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!». Chính vì thế, anh đã được Đức Giêsu nói:
«Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng». Người trộm
lành tuy đầy tội lỗi, nhưng cuối cùng anh đã phát tâm yêu thương, và tình yêu
đã biến anh thành người tốt lành, xứng đáng với hạnh phúc thiên đàng. Đúng như
câu nói của thánh Phaolô: «Tình yêu che phủ muôn vàn tội lỗi» (1Pr 4,8).
5- Chấp nhận đau khổ vì tình yêu là bí quyết của hạnh phúc
Câu chuyện về người trộm lành trên làm tôi nghĩ đến một câu
chuyện của Đức Phật. Trong một tiền kiếp nọ của ngài, ngài đã phạm một trọng
tội khiến ngài bị đọa vào địa ngục. Tại đó, ngài cùng nhiều người khác bị đau
khổ ghê gớm. Khi nhìn thấy những người trong đó đang quằn quại với những cực
hình vô cùng đau đớn như mình, ngài thương họ vô cùng. Tình thương ấy khiến
ngài phát tâm nguyện rằng: Tôi nguyện sẵn sàng chịu thay cho mọi người trong
địa ngục này tất cả những đau khổ mà họ đang phải chịu, để họ thoát khỏi những
cực hình ghê gớm này! Vừa nguyện như thế xong thì lập tức ngài tự nhiên thoát
khỏi cảnh đau khổ ấy. Còn những người kia thì vẫn tiếp tục ở lại đấy chịu đau
khổ.
Tôi chỉ coi chuyện trên như một dụ ngôn. Tuy không có thực,
nhưng nó nói lên một chân lý mà chính tôi đã thực nghiệm thấy rất đúng. Khi tôi
chỉ quan tâm chú ý tới những đau khổ tôi đang phải chịu, thì tôi thấy đau khổ
ấy – một cách chủ quan – tăng lên gấp bội. Nhưng khi tôi quan tâm tới những đau
khổ của người khác đang phải chịu, khi tôi muốn làm giảm bớt đau khổ cho họ,
khi tôi chấp nhận chịu đau khổ thay cho họ, hay chịu khổ nhiều hơn nữa để họ
bớt khổ hay để họ được hạnh phúc, thì lập tức tôi cảm thấy tâm hồn mình mạnh mẽ
lên. Lúc ấy những đau khổ tôi đang chịu – tuy dù một cách khách quan không hề
thay đổi, mà có thể còn tăng lên – bỗng nhiên mất đi tính dữ dội hay thảm khốc
của chúng đối với tôi. Chúng không còn làm tôi đau khổ được như trước.
Áp dụng kinh nghiệm này vào đời sống gia đình, tôi nhận thấy:
khi tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, mọi đau khổ, mọi buồn phiền để làm những
người thân yêu của tôi bớt khổ và được hạnh phúc, thì điều lạ lùng tôi cảm
nghiệm được là tôi không hề đau khổ mà lại thấy hạnh phúc hơn. Tôi hạnh phúc
hơn vì tôi thấy nhờ hành động ấy của tôi mà những người tôi yêu thương được
hạnh phúc hơn. Điều làm họ hạnh phúc nhất là thấy tôi yêu thương họ, hết mình với
họ. Và chính vì thế, họ cũng chẳng để tôi phải vất vả hay chịu đau khổ thay cho
họ, ngược lại họ lại sẵn sàng chịu đau khổ thay cho tôi. Và thế là cả gia đình
tôi – trong đó có tôi – đều cảm thấy hạnh phúc trong bầu khí đầm ấm yêu thương.
Thế là chỉ vì tôi sẵn sàng chấp nhận mọi vất vả, cực nhọc, đau khổ thay cho
những người thân yêu, mà tôi biến gia đình tôi thành một gia đình hạnh phúc. So
với nhiều người chủ gia đình khác, tôi thấy mình hạnh phúc hơn họ nhiều, xét cả
mặt khách quan lẫn chủ quan. Tôi nhận thấy: không phải khi mình sẵn sàng chịu
đau khổ thay cho người khác thì tất nhiên mình sẽ phải chịu đau khổ nhiều hơn
đâu! Mà ngược lại, thái độ quên mình ấy lại đem lại hạnh phúc cho cả tôi lẫn
những người chung quanh tôi. Đó là kinh nghiệm của tôi trong gia đình. Và tôi
đang áp dụng kinh nghiệm này ra ngoài gia đình, trong xã hội... và tôi vẫn thấy
nó đúng. Xin chia sẻ với mọi người kinh nghiệm có thật này để may ra hữu ích
cho ai đó!
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, thánh Gioan nói: «Tình yêu không biết đến sợ hãi; trái
lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai
sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo» (1Ga 4,18). Con cảm thấy chính khi
con thật sự có tình yêu thì con không sợ đau khổ, mà sẵn sàng đón nhận đau khổ
để người khác được hạnh phúc. Và khi con không sợ đau khổ, thì đau khổ không
còn tác oai tác quái trên con nữa. Nó không còn khả năng làm con mất bình an
hạnh phúc được nữa. Và con cảm thấy bình an và hạnh phúc do tình yêu đem lại
chính là thiên đàng. Một thiên đàng mà con có thể cảm nghiệm trước ở ngay trần
gian này.
23. Các tín hữu đã qua đời.
Trong thánh lễ cầu cho những người đã qua đời, chúng ta thường
hát:
- Lạy Chúa, xin cho các linh hồn được nghỉ yên muôn đời và cho
ánh sáng ngàn thu chiếu soi trên các linh hồn ấy.
Khi cầu xin với Chúa như vậy, chúng ta phải giả thiết các linh
hồn ấy chưa đến được nơi hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng đồng thời cũng không bị đày
đọa trong hỏa ngục. Và dựa vào giáo lý, chúng ta đã biết luyện ngục là nơi đau
khổ, trong đó linh hồn những người công chính sẽ phải thanh tẩy tội lỗi trước
khi bước vào Nước Trời.
Các linh hồn ấy không bị ném vào chốn cực hình muôn kiếp, nhưng
cũng chưa được vào thiên đàng. Sở dĩ như vậy vì Thiên Chúa là Đấng thánh thiện
và trong sạch vẹn toàn. Ngài không bao giờ chấp nhận chút bùn nhơ tội lỗi, dù
là nhỏ bé tầm thường. Linh hồn vấp phạm đã được tha thứ, nhưng còn phải đền bù
và thanh luyện về những sai lỗi ấy. Và thật là may mắn, chúng ta có thể giúp đỡ
bằng những lời kinh, những hy sinh và những thánh lễ dâng lên cho Thiên Chúa,
để xin Ngài xóa bỏ tội lỗi, giảm bớt hình phạt và mau giải phóng các linh hồn
ấy.
Sau đây chúng ta hãy lắng nghe một tiếng nói từ thế giới bên kia
vọng về. Vào mùa chay năm 1922, nữ tu Joséfa xin với Chúa cho mình được liên hệ
với thế giới của luyện ngục, và nữ tu đã ghi nhận:
- Rất nhiều linh hồn đã xin ngài hy sinh và cầu nguyện cho.
Một linh hồn nói:
- Tôi đã sống trong tình trạng tội lỗi suốt bảy năm. Sau đó tôi
bị đau ốm ba năm. Tôi từ chối không muốn xưng tội. Tự tay tôi đã xây lấy hỏa
ngục cho tôi. Nhưng nhờ lời kinh và hy sinh của người mẹ, mà tôi ăn năn thống
hối trở về với Chúa và sống trong tình trạng ơn thánh. Bây giờ tôi đang bị giam
cầm trong luyện ngục. Tôi van xin ngài hãy cứu giúp tôi, để mau mau chóng ra
khỏi tù ngục này.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận
bác ái. Nỡ lòng nào mà chúng ta không ra tay trợ giúp kẻ kêu cầu chúng ta. Nỡ
lòng nào mà chúng ta lại lãnh đạm trước một người bạn đang chới với giữa dòng
nước mà không tìm cách cứu vớt.
Hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là một bổn phận
công bằng, vì tất cả chúng ta đều liên đới với nhau trong sự thiện cũng như
trong sự ác, trong sự tốt cũng như trong sự xấu. Những người bị đền bù, rất có
thể vì đời sống tầm thường, vì gương mù gương xấu của chúng ta mà vấp ngã, rất
có thể vì yêu thương chúng ta mà các ngài đã sai lỗi điều nọ điều kia. Dù ít
hay nhiều, chúng ta cũng liên đới chịu trách nhiệm về những hình phạt của các
ngài và phải chia sẻ về những hình phạt ấy.
Sau cùng, hãy giúp đỡ các linh hồn nơi luyện ngục vì đó là việc
làm có lợi cho chúng ta. Cầu nguyện cho các ngài, thì các ngài cũng sẽ bầu cử
cho chúng ta vì các ngài đã là những bạn hữu nghĩa thiết của Chúa. Tưởng nhớ
đến các ngài, thì chắc hẳn mai ngày khi ở trong hoàn cảnh khổ đau như thế, Chúa
cũng sẽ không để chúng ta chìm vào quên lãng.
Cách đây không lâu cha sở vùng Bretagne là một mục tử
tận tâm chăm sóc đoàn chiên của mình. Chẳng may ngài bị chết bất ngờ, và có tới
hơn hai trăm linh mục khác đến đồng tế trong thánh lễ an táng của ngài.
Ngài đã nói với các em nhỏ trong giờ giáo lý cuối cùng như sau:
- Hãy cầu nguyện cho các linh mục. Nếu cha bị chết bất ngờ, chắc
hẳn cha sẽ phải vào trong luyện ngục. Các em hãy hứa là sẽ cầu nguyện và cầu
nguyện nhiều cho cha nhé.
Và để kết luận, tôi xin đưa ra nơi đây ý kiến của một tờ báo
Công giáo:
- Bạn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục và cũng
thường xuyên nghĩ tới cái chết, sự phán xét, thiên đàng và hỏa ngục. Bạn còn có
thể chuẩn bị cho ngày gặp gỡ mặt đối mặt với Thiên Chúa. Trong ngày đó, chỉ có
hai con đường: hoặc là đau khổ vĩnh viễn, hoặc là hạnh phúc muôn đời. Vậy chúng
ta chọn con đường nào đây?
24. Các linh hồn
Một người Mỹ tên là Habốc thành lập một hãng bưu điện kỳ quặc
với cái tên giật gân "Liên minh thiên đàng". Công việc của hãng này
là chuyển thư từ của những ai muốn gởi đến những người thân quen đã qua đời.
Thủ tục rất đơn giản: người gởi chỉ cần viết thư trên một tờ giấy mẫu in sẵn và
nộp một khoản cước phí là xong. Còn làm thế nào để chuyển lá thư ấy đến tay
người chết là phận vụ của bưu điện. "Liên minh thiên đàng". Theo lời
ông Habốc quả quyết thư gởi nhất định sẽ tới tay người nhận do nhân viên đưa
thưa của hãng là những người sắp chết tình nguyện chuyển giùm. Những nhân viên
tình nguyện này sẽ học thuộc lòng nội dung bức thư và cam kết sẽ nhắn lại đầy
đủ với người nhận. Hơn nữa "Liên minh thiên đàng" tuyển chọn nhân
viên của mình rất cẩn thận. Họ phải là người trong sạch, không có gì mờ ám
trước khi Chúa gọi lìa khỏi đời này, nên nhất định họ sẽ lên thiên đàng chứ
không thể xuống hỏa ngục được. Do uy tín của hãng bưu điện này ngày càng tăng
mạnh mẽ nên ông Habốc đã mở rộng phạm vi hoạt động không những khắp nước Mỹ mà
còn lan sang các lục địa khác nữa.
Mới nghe qua, nhất là đối với những người vô tôn giáo hay không
tin có đời sau thì câu chuyện trên chẳng những kỳ quặc mà còn phi lý không thể
chấp nhận được. Nhưng còn đối với chúng ta không có gì đáng ngạc nhiên cả,
chẳng qua chỉ có khác về cách thức liên hệ mà thôi. Bởi vì, giáo lý công giáo
đã trình rõ ràng từng chi tiết mối dây liên hệ giữa người còn sống và kẻ đã
chết bằng một tín điều quan trọng buộc mọi người phải tin và phải thực hành: đó
là tín điều Các Thánh cùng thông công.
Tuy nhiên, một điều khác biệt giữa tín điều của người công giáo
và hãng bưu điện "Liên minh thiên đàng" của Habốc là cách thức liên
lạc với chết. Cách thức của ông Habốc vừa thiên về vật chất vừa dựa vào khả
năng giới hạn của con người nên rất khó mà đạt được mong muốn. Còn các thức
liên lạc với người quá cố của đạo công giáo phần lớn nhờ vào quyền năng, lời
bảo đảm của Chúa, cũng như được minh chứng cụ thể do những cuộc hiện về của các
linh hồn mà Chúa cho phép. Như thế, việc liên hệ với người thân quen đã qua đời
đối với chúng ta là một chuyện thường tình, dễ dàng và có từ ngàn xưa. Chỉ còn
lại một công đoạn cuối cùng là chúng ta có muốn liên lạc hay không mà thôi.
Thật vậy, con người sống được với nhau là nhờ ân nghĩa. Tình
nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn sống mãi bên nhau, nhất
là đối với những người thân quen đã qua đời. Hơn nữa, khi biết sống tình nghĩa
với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới rõ ai tốt hay xấu, ai thật lòng ai
gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một nhu cầu cần thiết cho đời sống
mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu toàn hết khả năng sẵn có.
Nếu thế thì chúng ta, những người còn sống tại dương thế, đang
có tự do hành động theo ý muốn của mình lại càng sống thật tình nghĩa với những
người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì những tù nhân chỉ còn trông mong sự
cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống tình nghĩa với những người đã chết
không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những hình ảnh, dáng điệu, lời nói của
họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan trọng là hãy biến những
tình cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời.
Đó là lý do chính yếu của ngày lễ hôm nay và trong tháng 11 này
mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người hãy hướng lòng về những
người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời, nhất là ra sức tìm kiếm những tặng
phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đã biết rõ cách thức gởi,
gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các linh hồn. Chỉ còn lại khâu cuối
cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà thôi.
Và nếu những người thân quen ở bên kia thế giới đang quằn quại
đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu giúp của chúng ta, được
chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt thêm là hoàn toàn do chúng ta có
thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ ơ, lãng quên họ mãi hay
sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi cách để giải thoát cho họ như
siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn chay hãm mình, xin lễ
cầu nguyện... Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc chắn các Ngài sẽ không
bao giờ quên ơn chúng ta.
Đó là chưa nói đến tình máu mủ mà chắc chắn không ai trong chúng
ta nở lòng nào quên tình nghĩa với ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cái, cháu
chắt, họ hàng thân thuộc đã qua đời chờ sự cứu giúp của chúng ta. Còn xét về
mặt trách nhiệm, nếu những ai đã làm ơn cho chúng ta hoặc vì lỗi lầm gương xấu
của chúng ta mà đang bị gian cầm, chúng ta cần phải đền ơn và chuộc lỗi lầm cho
họ.
Vậy ai còn sống mà không biết tưởng nhớ đến người chết thì kẻ đó
không phải là con người. Và ai chỉ biết tưởng nhớ suông mà không biết làm những
việc lành phúc đức cụ thể thì cũng không thể xứng đáng lám con cái của Chúa.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN – A
1. Khiêm nhường
Thầy Pacifique là một trong số những môn đệ đầu tiên của thánh
Phanxicô d'Assie, ngày kia thầy được Chúa đưa lên thiên đàng và chiêm ngắm
những cảnh sắc huy hoàng. Thầy nhìn thấy một chiếc ngai sáng chói, và Chúa đã
nói với Thầy: Chiếc ngai mà con thán phục đó là chiếc ngai của Lucifer, nhưng
vì kiêu ngạo, nó đã bị bỏ mất, giờ thì nó thuộc về Phanxicô d'Assie, người tôi
tớ khiêm nhường của Ta. Hôm sau trong giờ nghỉ, thầy đã hỏi thánh nhân: Thưa
cha, cha nghĩ gì về mình. Thánh nhân trả lời: Tôi chỉ là một kẻ tội lỗi đáng
thương nhất. Thầy dòng ngạc nhiên: Làm sao mà cha có thể như vậy được. Thánh
nhân trả lời: Nếu Chúa ban cho kẻ khác những ơn hệt như đã ban cho tôi, thì họ
đã trở nên tốt lành thánh thiện hơn tôi rất nhiều. Thầy dòng suy nghĩ, và nhớ
tới lời Chúa đã phán: Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ
được nâng lên.
Vậy chúng ta phải hiểu thế nào về lời nói của Chúa Giêsu? Đâu là
ý tưởng của Ngài? Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta tuân giữ một đức khiêm
nhường bề ngoài, một sự khiêm nhường giả hiệu, chẳng hạn như khi đi dự tiệc, là
phải chọn ngay mâm cuối, để rồi sẽ được chủ nhà mời lên mâm trên. Căn bản của
thái độ này chính là kiêu ngạo, sự trá hình. Chúa không bảo chúng ta hãy lợi
dụng chỗ thấp để làm cho mình được vinh dự, trái lại, chúng ta phải có tâm tình
khiêm nhường, sẵn sàng chấp nhận những công việc khiêm tốn, những địa vị kém
cỏi. Chúa là Đấng phân định công nghiệp của chúng ta, chính Ngài sẽ chỉ cho
chúng ta đứng vào địa vị xứng hợp.
Chúng ta sống trên trần gian, không phải là để thống trị mà là
để phục vụ kẻ khác như lời Ngài đã phán: Con Người đến không để được phục vụ mà
để phục vụ và hiến thân vì người khác. Ai muốn làm lớn, hãy trở nên như tôi tớ.
Đó chính là bài học mà chúng ta không bao giờ được quên lãng, vì Chúa chống đối
kẻ kiêu ngạo và yêu thương người khiêm nhường.
Một nữ tu kia có tiếng hát rất hay. Sơ biết điều đó và thường
hãnh diện mỗi khi hát trong nhà nguyện của cộng đoàn. Sau khi sơ ấy chết đi,
thánh nữ, Gertrude nhìn thấy linh hồn của sơ ấy quằn quại trong lửa luyện ngục.
Trước cảnh tượng kinh hoàng ấy, thánh nữ đã khóc thương, nhưng Chúa hiện ra và
phán: Vị nữ tu này đang đền bù, tẩy xoá tính kiêu ngạo. Hãnh diện vì tiếng hát,
sơ ấy đã đi tìm những lời khen phù phiếm thay vì phụng sự thánh danh Ta.
Phải chăng chúng ta cũng đã tình cờ trở nên giống vị nữ tu trước
những tài năng mà Chúa đã ban? Hãy dùng những khả năng của mình để phụng sự
Chúa và anh em, nhờ đó mà chúng ta sẽ sống tâm tình khiêm nhường đích thực, vì
ai hạ mình xuống, sẽ được không phải là người đời, mà chính là Chúa nâng lên.
2. Khiêm nhường
Chúng ta có thể xác quyết: Khiêm nhường là con đường bảo đảm
nhất dẫn chúng ta tới quê hương Nước Trời.
Thực vậy, tội của ông bà nguyên tổ là gì, nếu không phải là sự
kiêu căng, muốn trở nên bằng Thiên Chúa, từ chối không chịu để cho Ngài hướng
dẫn, bằng cách giơ tay ngắt trái cấm mà ăn. Tội của Lucifer, vị thần mang ánh
sáng, là gì, nếu không phải là tính kiêu ngạo, không muốn phục tùng Thiên Chúa
nữa.
Từ đó, chúng ta thấy mình chỉ có thể gặt hái được những thành
quả tốt đẹp, nếu biết trở nên như trẻ nhỏ, phó thác vào bàn tay quan phòng của
Thiên Chúa, người cha đầy yêu thương và giàu lòng thương xót.
Dưới mắt Thiên Chúa, chúng ta thấy dường như có một sự đảo lộn
giá trị: Ai tự nâng mình lên cao thì sẽ bị hạ xuống thấp, và trái lại ai hạ
mình xuống thấp thì sẽ được nâng lên cao, bởi vì chính Chúa Giêsu đã phán: Ai
muốn làm lớn thì phải trở thành kẻ rốt hết và làm đầy tớ phục vụ cho mọi
người...Ai trở nên giống trẻ nhỏ, thì sẽ là người lớn nhất trong Nước Trời...
Để nuôi đám đông dân chúng trong hoang địa, Chúa Giêsu đã không
làm cho manna từ trời rơi xuống, nhưng Ngài đã dùng năm chiếc bánh và hai con
cá của một em nhỏ.
Và trong cuộc sống, Ngài đã sử dụng những phương tiện tầm thường
nhất. Thực vậy, để thiết lập Giáo Hội, Ngài đã không chọn lựa những tiến sĩ
luật và những nhà thông thái, trái lại, Ngài đã kêu gọi những con người đơn sơ
và dốt nát.
Tại phòng tiệc ly, mặc dù luôn ý thức quyền năng của mình, thế
nhưng Ngài đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ, để dạy cho các ông bài học
khiêm nhường và phục vụ.
Trong công cuộc cứu độ nhân loại, Ngài đã không sử dụng tới uy
quyền của một vị Thiên Chúa, nhưng đã cúi đầu chấp nhận thập giá, như lời thánh
Phaolô đã diễn tả: Ngài đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.
Ngài cũng muốn chúng ta noi gương bắt chước Ngài: các con hãy
học cùng Ta, vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
Đoạn Tin Mừng hôm nay đưa ra hai khuôn mặt, đó là khuôn mặt của
một bậc thầy, một tiến sĩ luật và khuôn mặt của một người tôi tớ, một người hèn
mọn.
Kẻ kiêu căng luôn đặt mình làm trung tâm của vũ trụ, muốn người
khác phải trọng kính và coi mình như một vị thủ lãnh. Chính vì thế, kẻ kiêu
căng không hề biết vâng lời và yêu thương. Họ sẽ không bao giờ được thỏa mãn,
trái lại lúc nào cũng ghen tức vì hấy người khác được thành công. Một kẻ như
vậy thì làm sao có thể gặp được Thiên Chúa.
Trong khi đó, người khiêm nhường biết từ bỏ mọi sự, ngay cả bản
thân cùng với địa vị và danh dự. Họ biết nhận định đúng về con người của mình,
đồng thời họ biết quên mình đi để mưu cầu lợi ích cho những người chung quanh.
Chính vì thế, họ được dành cho nhiều tình cảm tốt đẹp và được chính Thiên Chúa
đón nhận, vì tâm hồn họ trống rỗng, không có những vướng mắc và níu kéo.
Kytô giáo của chúng ta không thể thiếu vắng sự khiêm nhường, như
lời thánh Bernađô đã xác quyết: Lời rao giảng quan trọng nhất của Đức Kitô
chính là sự khiêm nhường.
Và thánh Phanxicô Assie cũng nói: Thiên Chúa thấy tôi tội lỗi
hơn hết mọi người, nên Ngài đã chọn tôi để làm những công việc trọng đại.
Còn thánh Phanxicô Xaviê thì bảo: Trên dấu chân của Đức Kitô,
chúng ta chỉ thực sự được nâng lên, một khi đã thực sự hạ xuống.
Để kết luận, chúng ta cùng nhau ghi nhớ tư tưởng sau dây của ông
Gandhi: Nếu chúng ta nghĩ rằng mình là một cái gì đó, thi chúng ta đã đặt một
hàng rào để ngăn cách với Thiên Chúa, còn nếu chúng ta nghĩ rằng mình chẳng là
gì cả, thì chúng ta sẽ trở nên một với Ngài.
3. Quyền bính để phục vụ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Lời Chúa hôm nay thật mạnh mẽ, khiến ta bàng hoàng, chới với.
Phải chăng Chúa muốn phá đổ tất cả những cơ chế trong xã hội và trong Giáo Hội?
Phải chăng tất cả chúng ta đều sai lầm? Có lẽ không nên hiểu theo nghĩa đen của
mặt chữ nhưng phải hiểu theo tinh thần. Qua chân lý: Thiên Chúa là Cha và mọi
người là anh em, Chúa muốn dạy ta phải sống những quan hệ với xã hội theo một
tinh thần mới gồm 3 khía cạnh sau đây.
1- Mọi người đều bình đẳng. Mọi người bình đẳng trong xã hội vì
tất cả đều là người. Là người như nhau nên phải được kính trọng như nhau. Cũng
thế, mọi người bình đẳng trước mặt Chúa. Vì mỗi người đều là hình ảnh của Thiên
Chúa. Cùng là hình ảnh Thiên Chúa, nên mọi người phải kính trọng nhau. Mọi
người đều là con của Cha trên trời và đều là anh em với nhau. Nên mọi người đều
phải vâng phục Thiên Chúa và yêu thương anh em chung quanh mình.
2- Chức vị chỉ là một phân công. Một xã hội phải có tổ chức. Có
tổ chức nên có nhiều công việc. Phân công để công việc chung được trôi chảy.
Hơn nữa phải hiểu rằng mọi quyền lực đều đến từ Thiên Chúa. Làm cha mẹ là được
thông phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Làm người lãnh đạo là được dự phần
vào quyền cai trị của Thiên Chúa. Con người không tự mình chiếm đoạt được chức
vị, nên phải khiêm nhường nhận biết ơn Chúa ban vì lợi ích của tập thể.
3- Chức vị là để phục vụ. Hãy nhìn vào một gia đình. Trong gia
đình cha mẹ là quan trọng nhất, là người điều khiển gia đình. Nhưng chính cha
mẹ lại phục vụ nhiều nhất. Cha lao động vất vả. Mẹ cực nhọc chăm sóc con thơ.
Nhìn bề ngoài cha mẹ không khác người giúp việc. Nhưng cha mẹ điều hành gia
đình trong khi phục vụ con cái thơ dại. Cha mẹ đã dùng quyền để yêu thương và
phục vụ. Cũng thế, người có nhiệm vụ trong Giáo Hội và trong xã hội phải là
người có lòng yêu mến anh em. Chu toàn nhiệm vụ với tình yêu thương
sẽ giúp ta biết phục vụ bằng chức vụ của mình.
Không ở đâu ta có thể tìm gương mẫu cho những lời Chúa dạy hôm
nay bằng tìm nơi chính Chúa Giêsu Kitô, đặc biệt trong bí tích Thánh Thể.
Bí tích Thánh Thể đưa ta về phòng Tiệc Ly, nơi Chúa ăn bữa tối
cuối cùng với các môn đệ. Trong khi ăn, Chúa đứng dậy, cầm chậu nước đi rửa
chân cho từng môn đệ. Rồi Chúa nói: "Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa
chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân nhau. Thầy đã làm gương cho anh
em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em?" (Ga 13,12b-15). Quyền
bính để phục vụ. Không còn minh họa nào sinh động hơn. Không còn giải nghĩa nào
sáng tỏ hơn hình ảnh Chúa quỳ xuống rửa chân cho các môn đệ. Không còn lệnh
truyền nào thuyết phục hơn, vì chính Chúa đã làm gương trước.
Bí tích Thánh Thể cho ta thấy sự hiến thân phục vụ của Chúa
Giêsu. Trở thành tấm bánh là để trở thành lương thực nuôi con người. Không trở
thành một tượng đài uy nghi để mọi người cung kính. Không trở thành một trang
sức quý giá để mọi người trân trọng. Nhưng trở thành tấm bánh để phục vụ con
người. Trở thành lương thực là trở thành những gì gần gũi nhất. Trở thành lương
thực là chấp nhận phục vụ sự sống: chịu nhỏ bé đi để người khác được lớn lên,
chịu đau khổ cho người khác được hạnh phúc, chịu chết đi cho người khác được
sống. Bí tích Thánh Thể là một mẫu gương về quyền bính phục vụ. Thiên Chúa phục
vụ con người. Người Cha hy sinh cho hạnh phúc của con cái. Chúa tể vũ trụ hiến
thân nuôi dưỡng loài thụ tạo.
Như thế, bí tích Thánh Thể thiết lập một mối quan hệ mới giữa
con người. Quyền bính là để phục vụ. Nếu hiểu và thực hành Lời Chúa dạy hôm
nay, ta sẽ biến đổi bộ mặt thế giới. Thế giới sẽ trở nên một gia đình ấm cúng
chan chứa tình người. Xã hội sẽ tươi đẹp vì sống theo nền văn minh mới, nền văn
minh của tình thương.
Năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng mầu nhiệm Thánh Thể phải tiếp
tục mãi mãi trong cuộc đời chúng ta. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là biết quan tâm
phục vụ anh chị em. Sống mầu nhiệm Thánh Thể là duy trì sự hiện diện của Chúa
Giêsu ở giữa xã hội, giữa cuộc đời chúng ta. Hiện diện đó là một tấm bánh bẻ ra
cho một thế giới phát triển, một thế giới chan hòa yêu thương, một thế giới
hạnh phúc thực sự.
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy con biết noi gương Chúa, phục vụ mọi
người trong tình yêu thương.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Tại sao mọi người đều bình đẳng?
2- Chức vị chỉ là một phân công trong Giáo Hội, bạn hiểu điều
này thế nào?
3- Quyền bính là để phục vụ. Bạn thấy điều này đã ứng dụng ở
đâu?
4- Bạn phải làm gì để sống bí tích Thánh Thể theo tinh thần bài
Tin Mừng hôm nay?
4. Hãy sống trong sự thật
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn
vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên
thì bị người giàu phát hiện. Người này cho gia nhân bủa đi khắp nơi quanh cái
hồ mênh mông của mình để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi mà không thấy bóng dáng
tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo lấy tro rắc lên đầy mình và
đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y hệt một nhà hiền triết hay một đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ
thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Chỉ
một ngày hôm sau tiếng đồn đã vang đi khắp nơi rằng có một đạo sĩ đang tu luyện
dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ.
Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây để chiêm
ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Không mấy chốc
mà quà cáp tuôn đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ.
Nhà tu hành mới nhủ thầm trong bụng: Thà đánh lừa bà con để sống
còn hơn là đánh cá suốt ngày mà chẳng được gì. Nghĩ như thế rồi, ông ta tiếp
tục đóng vai tu hành, ngày đêm tụng niệm và chờ đợi sự tiếp tế của dân làng.
Anh chị em thân mến, "Chiếc áo không làm nên thầy tu".
Người đánh cá bất đắc dĩ phải trở thành vị tu hành trên đây có thể là một hình
ảnh không xa lạ bao nhiêu đối với chúng ta. Một cách nào đó, có khi chúng ta
cũng sơn vẽ cho mình một nước áo đạo đức để đánh lừa bà con và đánh lừa chính
mình như những Luật Sĩ và Pharisêu giả hình mà hôm nay Chúa Giêsu kịch liệt
chống đối. Họ thường phô trương, tự phụ, tranh giành địa vị, tìm kiếm danh
vọng. Họ chép những câu Kinh Thánh đeo lên trán, buộc vào cổ tay, để chứng tỏ
họ ghi nhớ và tuân giữ luật hơn bất cứ ai khác. Khi đi dự tiệc, họ phải ngồi
vào chỗ danh dự. Ở Hội đường, họ phải ngồi chỗ nhất và ở nơi công cộng, họ đòi
được chào kính, xưng hô là Thầy. Họ muốn tôn mình lên cao hơn mọi người.
Ngược lại với thái độ đạo đức giả và kiêu căng tự phụ của những
Luật Sĩ và Pharisêu. Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ và cũng là cho cộng Kitô
hữu chúng ta, một thái độ sống chân thật: đó là phong cách thể hiện tình huynh
đệ, sự bình đẳng và tinh thần phục vụ. "Anh em chỉ có một Thầy, một vị
lãnh đạo, là Đức Kitô. Anh em chỉ có một Cha, là Cha trên trời. Còn tất cả anh
em đều là anh em với nhau". Vì thế, "trong anh em, người làm lớn hơn
cả phải làm đầy tớ anh em".
Thưa anh chị em, đọc đoạn Tin Mừng hôm nay,
tất cả Giáo Hội của Chúa Kitô, từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến
giáo dân phải bình tâm suy nghĩ. Những lời Chúa nói trước các Luật sĩ và
Pharisêu ngày xưa phải có tiếng vọng đến chúng ta ngày nay. Pharisêu không còn,
nhưng não trạng pharisêu chưa chết, vẫn còn sống mãi. Giáo Hội qua các thời đại
phải nhìn nhận rằng những phô trương lòe loẹt, chủ nghĩa hiếu thắng trần tục
(triomphalisme) đã đi vào trong hàng ngũ Giáo Hội. Những chức tước, áo mũ cân
đai, cờ quạt, kiệu rước... đã làm hoen ố đi hình ảnh một Giáo Hội chân thật,
một "Giáo Hội nghèo của người nghèo". Công Đồng Vatican II đã bỏ đi
nhiều những điều phù phiếm đó và muốn cho Giáo Hội mang khuôn mặt đích thực của
Chúa Kitô khiêm tốn, phục vụ.
Đức Cha Bernard Topel (1903-1986) Giám Mục giáo
phận Spokane, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: "Trong
thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của
người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội
của người nghèo chút nào cả!" Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực
thi Công Đồng cách quyết liệt gần như Thánh Phanxicô Assisi thực thi Tin Mừng:
Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc
thạch để lấy tiền giúp người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ
cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá
nấu ăn. Nhiều người không tán đồng, họ nói: "Vua thì phải sống cho ra Vua,
Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho Giám mục".
Nguyên là thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: "Không phải là kết toán làm
thành bài toán. Bài toán chúng ta là phải trừ, chia và nhân: phải bớt tiêu xài
xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng sống
xứng đáng cho họ".
"Trong anh em, ai lớn hơn cả phải là người tôi tớ phục
vụ". Trong Nước Trời, không ai có quyền thống trị kẻ khác, tất cả chúng ta
đều là anh em. Ngay cả việc hành xử quyền bính, cho dù thuộc phạm vi dân sự hay
tôn giáo, cũng chỉ là một hình thức phục vụ: "Cán bộ là đầy tớ của nhân
dân", ngay cả Đức Giáo Hoàng cũng tự nhận là "Tôi tớ của các tôi
tớ" (Servus servorum). Người cha, người mẹ trong gia đình, sở dĩ được các
con cái quý mến là vì biết tận tụy phục vụ, hy sinh cho con cái. Càng cho đi,
càng được nhận lại, càng cho đi nhiều, càng được nhận lại nhiều hơn. Chúa Giêsu
đã dạy và cho các môn đệ. Ngài đã tự hạ, vâng phục cho đến chết trên thập giá
vì yêu thương loài người chúng ta. Chính vì thế, Ngài đã được siêu tôn là Đức
Chúa: "Ai tự hạ mình xuống, sẽ được tôn lên. Ai tự tôn mình lên, sẽ bị hạ
xuống".
Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu tỏ ra thông cảm và khoan dung
đối với mọi người tội lỗi, mọi hèn yếu của con người. Nhưng Ngài lại có thái độ
khe khắt đối với thói giả hình của những người Pharisêu. Ngài không ngừng kêu
gọi các môn đệ của Ngài cẩn thận giữ mình kẻo vướng lây phải thói tật đáng ghét
này. Chúng ta giữ đạo, nhưng có lẽ chưa sống đạo. Có khi chúng ta mang lớp sơn
đạo đức bên ngoài mà thiếu thực chất của một lòng đạo đức chân thật bên trong.
Hãy sống trong sự thật trước mặt Chúa và anh chị em. Nhờ khiêm tốn và phục vụ,
chúng ta sẽ sống theo đúng đường lối của Chúa và dễ dàng sống với anh em như
đòi hỏi của đức ái: mến Chúa - yêu người.
5. Là anh em với nhau
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Nửa sau của bài Tin Mừng hôm nay có thể làm chúng ta bị sốc.
Đức Giêsu bảo ta đừng để ai gọi mình là thầy, vì chỉ có một
Thầy, một vị lãnh đạo là chính Ngài; cũng đừng gọi ai là cha, vì chỉ có một Cha
là Thiên Chúa trên trời. Vậy mà chúng ta vẫn gọi nhiều vị trong Hội Thánh là
cha, là Đức Thánh Cha, là giáo phụ, thượng phụ, viện phụ... Chúng ta có làm sai
lời Chúa dạy không? Ta có phải hiểu theo nghĩa đen lời của Đức Giêsu không?
Hội Thánh sơ khai đã không hề hiểu theo nghĩa đen. Thánh Phaolô
đã coi mình là cha sinh ra các tín hữu, đã gọi họ là con (1Cr 4,14-17; Gl
4,19). Hội Thánh cũng có những thầy dạy (Cv 13,1; 1Cr 12,28), và những vị lãnh
đạo (Cv 15,22; Rm 12,8). Vậy đâu là điều Đức Giêsu muốn nhắn nhủ chúng ta?
Chắc chắn Ngài không hề muốn phá bỏ những cơ cấu cần thiết cho
thân thể Hội Thánh, Ngài cũng không loại bỏ phẩm trật và quyền hành. Ngài chỉ
muốn chúng ta đừng quên: mọi quyền bính trong Hội Thánh đều bắt nguồn từ Thiên
Chúa và phải quy về Thiên Chúa.
Nếu có ai làm thầy, làm người lãnh đạo, thì vì họ được chia sẻ
quyền làm Thầy của Đức Giêsu.
Nếu họ được gọi là cha, thì vì họ được chia sẻ quyền làm Cha của
Thiên Chúa. Dù có chức vụ hay chức vị gì trong Hội Thánh, tôi cũng không được
quên chân lý này: còn tất cả anh em đều là anh em với nhau, con một Cha trên
trời.
Chỉ có một vị Thầy là Đức Giêsu.
Nhưng Thầy Giêsu lại sống như bạn của các môn đệ, như anh em với
họ (Ga 15,14; Mt 12,49-50), và nhất là như tôi tớ phục vụ họ (Mt 20,28).
Đức Giêsu mãi mãi là gương cho các nhà lãnh đạo. Quyền lãnh đạo
chính là để phục vụ con người.
Phần đầu của bài Tin Mừng cho thấy sự giả hình của một số người
pharisêu, có quyền giảng dạy Lề Luật.
Giả hình là không làm điều mình dạy người khác, là dễ dãi với
chính mình, nhưng khắt khe với tha nhân.
Giả hình là biến việc thờ phượng Chúa thành thờ mình, làm việc
tốt để người ta thấy và thán phục.
Khi nhìn khuôn mặt của người pharisêu giả hình, tôi thấy tôi:
háo danh, khoa trương, ích kỷ, dám "đốc" chứ không dám làm...
Có những đoạn Tin Mừng làm chúng ta nhức nhối, vì mở cho chúng
ta những chân trời xa, cho chúng ta thấy những điều cần làm, phải làm, nhưng
chưa làm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Vẫn thường có khoảng cách giữa điều tôi nghĩ với điều tôi nói,
giữa điều tôi nói với điều tôi làm. Chúng ta ít nhiều đều có chút giả hình. Bạn
nghĩ gì về sự giả hình của bạn?
Quyền hành thường làm con người hư hỏng. Bạn thấy có cách nào để
tránh mối nguy hiểm này không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Khi đến với nhau, chúng con thường mang những mặt nạ. Chúng con
sợ người khác thấy sự thật về mình. Chúng con cố giữ uy tín cho bộ mặt dù đó
chỉ là chiếc mặt nạ giả dối.
Khi đến với Chúa, chúng con cũng thường mang mặt nạ. Có những
hành vi đạo đức bên ngoài để che giấu cái trống rỗng bên trong. Có những lời
kinh đọc trên môi, nhưng không có chỗ trong tâm hồn, và ngược hẳn với cuộc sống
thực tế.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúng con cũng thường ngắm mình trong gương, tự ru ngủ và đánh
lừa mình, mãn nguyện với cái mặt nạ vừa vặn.
Xin giúp chúng con cởi bỏ mọi thứ mặt nạ, đã ăn sâu vào da thịt
chúng con, để chúng con thôi đánh lừa nhau, đánh lừa Chúa và chính mình.
Ước gì chúng con xây dựng bầu khí chân thành, để chúng con được
lớn lên trong bình an.
6. Đạo đức thật và đạo đức giả
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội
lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn tỏ ra khinh ghét tất cả những hình ảnh
ông đã xâm trên mình.
Ngày kia, trong một cố gắng nhằm cải thiện đời sống cũng như mối
liên hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giêsu thật to trên tấm lưng của
mình. Trở về nhà, ông hớn hở giơ tấm lưng trần cho vợ xem và hỏi:
- Bà có biết ai đây hay không?
Chẳng đợi cho vợ trả lời, ông liền nói:
- Chúa đấy.
Thế nhưng, bà vợ bỗng nổi giận đùng đùng và quát lớn:
- Thật là báng bổ. Chúa nào lại ở trên cái lưng bẩn thỉu và nhớp
nhúa của ông.
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông
cho đến khi bật cả máu.
Sau trận đòn ấy, ông ra ngồi dưới một gốc cây và bật khóc. Ông
khóc không phải vì trân đòn của bà vợ thuộc vào hạng sư tử Hà Đông, nhưng khóc
vì nhận ra rằng mình không còn cách nào để làm đẹp lòng bà vợ luôn tự hào về
tình trạng đạo đức của mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đọan Tin mừng sáng hôm nay
và chúng ta dễ dàng nhận ra hai mẫu người đã được Chúa Giêsu nhắc đến. Mẫu
người thứ nhất là những người luôn vỗ ngực tự hào vì mình công chính và đạo
đức. Còn mẫu người thứ hai là những kẻ tội lỗi và bị xã hội loại trừ.
Chúng ta còn thấy được chân dung hai mẫu người này qua những lời
giảng dạy cùa Chúa và nhất là qua những câu chuyện Ngài đã kể.
Chẳng hạn câu chuyện về người con phung phá.
Cậu em tượng trưng cho kẻ tội lỗi, còn người anh cả tượng trưng
cho những người tự nhận mình là đạo đức và công chính. Khi nghe biết thằng em
mình đã ăn năn sám hối, quay trở về và được người cha niềm nở tiếp đón, thì anh
ta đã sừng sổ và giận dữ. Trong lúc người cha dịu dàng khoan dung, thì anh ta
đã bực tức xỉa xói:
- Thằng con hư đốn của cha.
Chủ đích của câu chuyện dĩ nhiên nói về lòng nhân từ và khoan
dung của Thiên Chúa, nhưng đồng thời qua đó, Ngài còn nhắm tới bọn biệt phái và
luật sĩ vì đám người này đã tỏ ra bực bội và tức tối khi thấy những kẻ tội lỗi
được Chúa Giêsu ân cần tiếp đón.
Và hơn thế nữa, họ vốn tự hào là những người đạo đức và công
chính, để rồi có thái độ kinh bỉ, chỉ trích và gay gắt kết an những kẻ tội lỗi.
Chúng ta cũng thấy được chân dung hai mẫu người trên qua câu
chuyện về người biệt phát và người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Người biệt phái thì huênh hoang tự đắc:
- Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì con chẳng phải là kẻ ham hố, bất
lương hay ngọai tình. Con cảm tạ Chúa vì con không giống cái thằng thu thuế
kia. Con dâng cho Chúa một phần muời hoa lợi của con...
Ngược lại, người thu thuế thì đứng ở đằng xa, cúi đầu, đấm ngực
và khiêm tốn kêu cầu:
- Lạy Chúa, xin thương xót con vì con chỉ là một kẻ tội lỗi.
Và Chúa Giêsu đã kết thúc câu chuyện:
- Ta nói cho các ngươi hay khi trở về, không phải người biệt
phái mà là người thu thuế được nên công chính trước mặt Thiên Chúa.
Sở dĩ như vậy là bởi vì ai nâng mình lên thì sẽ bị hạ xuống, còn
ai hạ mình xuống thì sẽ được nâng lên.
7. Đầy tớ
Ba người Kitô hữu đang thảo luận với nhau về những bản dịch
Thánh Kinh mới xuất bản gần đây. Một người nói: "Tôi thích bản dịch Phúc
âm của The New English Version. Nó dễ đọc hơn những bản dịch cũ. "Người
thứ hai thêm ý kiến: "Tôi lại thích bản dịch của The New Jerusalem Bible.
Nó hiện đại hoá ngôn ngữ mà không mất đi ý nghĩa thiêng liêng của Thánh
Kinh". Người thứ ba trả lời: "Tôi biết một bản dịch hay nhất. Đó là
bản dịch của mẹ tôi. Bà đã chuyển dịch Thánh Kinh vào trong đời sống, và đó là
bản dịch có sức thuyết phục nhất mà tôi chưa bao giờ thấy. Mẹ tôi là một con
người đầy tình thương luôn luôn để tâm tới những nhu cầu của người khác một
cách nghiêm chỉnh. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm khi Ngài sống trên trái
đất". Với ý kiến này, tất cả ba người đều đồng ý như vậy!
Thánh Matthêu đã diễn tả một cách rõ ràng cuộc đời phục vụ của
Chúa Giêsu qua những công việc đầy tình thương và quan tâm tới những người bị
xã hội bỏ rơi. Ngài đã chạm đến những người cùi, đã ôm và hôn những em bé, đã
khoan dung với những người tội lỗi bị khước từ bởi những kẻ tự cho mình là đạo
đức, đã chết cho những người hèn mọn nhất của con cái Thiên Chúa, không trừ một
ai: "Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục
vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.
Tư tưởng chính trong các bài đọc hôm nay kêu gọi chúng ta, giáo
sĩ cũng như giáo dân phải trở về với bản chất đích thực của người môn đệ Chúa
Giêsu. Đó là phải trở nên những người đầy tớ phục vụ trong tinh thần khiêm tốn
của Thiên Chúa: "Anh em cũng đừng để ai gọi mình là lãnh đạo, vì anh em
chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Kitô. Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải
làm người phục vụ anh em".
Bài đọc thứ nhất, đến từ ngòi bút của tiên tri Malachi. Ngày
xưa, Malachi đã viết những lời gay gắt về những vị lãnh đạo tinh thần của
Israel trong thời đại của ông. Những lời tố cáo về sự cẩu thả trong phụng vụ,
ban bố những hướng dẫn sai lạc, có những quyết định thiên vị... Dĩ nhiên,
Malachi là một người giáo dân. Ông không giữ vai trò gì trong phẩm trật của đền
thờ. Nhưng như là một giáo dân sùng đạo, ông đã nhìn thấy một số vấn đề về tôn
giáo đáng bị quở trách, do đó, ông không thể im lặng. Lương tâm của ông đã bắt
ép ông phải nói những lời khó nghe với những vị lãnh đạo tinh thần của mình:
"Và giờ đây, hỡi các tư tế – linh mục – đây là lệnh truyền dành cho các
ngươi: Nếu các người không nghe và không lưu tâm tôn vinh danh Ta, Đức Chúa các
đạo binh phán, Ta sẽ khiến các người mắc tai hoạ, Ta sẽ biến phúc lành của các
ngươi thành tai hoạ".
Nhiều năm sau, dưới cái nhìn của Chúa Giêsu, những điều trên
cũng vẫn chưa khá hơn. Lần này, sự phê phán đến trên những người Biệt phái và
các Kinh sư "ngồi trên toà Môsê mà giảng dạy... họ nói mà không làm. Họ bó
những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ lại không muốn động
ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy... ưa ngồi cỗ nhất trong
đám tiệc... ưa được chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là
rabbi".
Tôi rất thích nghe những bài giảng đầu tiên của các thầy sáu.
Thích không phải vì chứng kiến sự run rẩy và lúng túng. Thích không phải vì tò
mò nghe xem có cái gì mới lạ, thầy sáu có khiếu giảng thuyết hay không. Nhưng
thích vì các thầy sợ! Sợ không phải vì đứng trước công chúng. Sợ không phải vì
không biết nói gì – đã dọn sẵn rồi, đã qua lớp giảng thuyết rồi! Nhưng sợ và
rụt rè vì lần đầu tiên đứng ra giảng không biết lời mình giảng có phù hợp với
việc mình làm hay không. Lời lẽ trong bài giảng nghe có vẻ dè dặt và nhẹ nhàng.
Không dám nói mạnh! Còn ngại miệng lắm!
Đấy là kinh nghiệm của riêng tôi, lần đầu tiên giảng dạy. Càng
làm linh mục lâu năm, ăn nói càng bạo dạn. Và nói nhiều điều chính mình chưa
thực hiện được. Đôi khi xem ra giữa cái tôi mình nói và cái tôi mình sống nó không
mấy ăn nhập phù hợp với nhau. Càng không ăn nhập với nhau thì lại càng nói
hăng, có lẽ để làm cho lương tâm bớt cắn rứt! Nói hăng và nói hay nữa. Nhưng
lại được giáo dân khen là giảng hay! Càng hay tức là càng nói những lý tưởng
cao cả mà mình chưa thực hiện được. Thật là xấu hổ và đáng bị Chúa mắng cho là
"Họ nói mà không làm"!
Tôi không lấy làm lạ trước những điều Chúa Giêsu khiển trách các
Biệt phái và Kinh sư, vì đó là mặt trái của chức vụ tư tế ở mọi thời đại. Người
thuyết giảng thích được nổi tiếng và thường phát biểu những lời hay ý đẹp. Chủ
tế thích sự uy nghi lộng lẫy của nghi thức bên ngoài. Lãnh đạo tôn giáo thích
được tôn vinh và kính trọng như thần thánh. Có lẽ tự trong ý niệm của tôn giáo
đã có một cái gì đó làm cho người ta cảm thấy rằng một số người đã đạt tới một
mức độ cao hơn của đời sống thánh hiến, và bây giờ họ đáng được sự kính trọng
hay đối xử đặc biệt. Sự kính trọng quá đáng của người giáo dân Việt Nam nơi các
linh mục là một điển hình. Gặp các cha thì phải khoanh tay cúi đầu: "Con
xin phép lạy cha ạ!" Lạy mà còn phải xin phép nữa!
Đối với tôi, chính ở điểm này, một cách nào đó, đã làm mờ nhạt ý
nghĩa của ơn kêu gọi và bí tích truyền chức thánh để trở thành những người đầy
tớ của Thiên Chúa như Công đồng Vatican II đã giải thích:
"Để bảo đảm cho dân Thiên Chúa có các vị chủ chăn và các
phương tiện tăng trưởng, Chúa Kitô đã thiết lập trong Giáo Hội của Ngài những
thừa tác vụ khác nhau để phục vụ lợi ích của tất cả thân thể. Đúng thế, các
thừa tác viên có quyền chức thánh sẽ phục vụ anh chị em mình, để tất cả những
ai thuộc về Dân Thiên Chúa có thể đạt tới ơn cứu độ".
8. Đóng kịch
Tất cả chúng ta đều tỏ vẻ khó chịu và dứt khoát không chấp nhận
lối sống giả hình, giả dối của người nào đó, Chúa Giêsu cũng thế thôi. Ngài
thường phàn nàn và khiển trách tính cách giả hình, giả dối của những người
Pharisêu và kinh sư, đồng thời Ngài cũng khuyến cáo dân chúng: hãy đề phòng và
cảnh giác đối với những người ấy, cụ thể như bài Tin Mừng hôm nay.
Chúng ta thấy Chúa Giêsu phân biệt quyền giáo huấn và những
người thi hành quyền đó. Ngài nhìn nhận các người Pharisêu và kinh sư có quyền
giáo huấn, vì họ là những người được chính thức trao phó nhiệm vụ dạy bảo dân
chúng, do đó khi họ thi hành nhiệm vụ là họ nhân danh Chúa, nên phải nghe và
giữ những gì họ dạy bảo. Nhưng tại sao Chúa lại nói đừng bắt chước hay noi theo
những việc làm của họ? Phải chăng họ đã làm những việc bất chính? Không, Chúa
nhìn nhận họ có làm nhiều việc thật, bình thường thì đó là những việc tốt đáng
được ca tụng, nhưng đối với Chúa thì chẳng nghĩa lý gì, vì thái độ giả hìng,
giả dối của họ. Lòng đạo đức của họ chỉ có tính cách giả dối, một thứ đạo đức
chỉ có cái vỏ bên ngoài.
Mỉa mai hơn nữa, đáng trách hơn nữa, họ là những người có thẩm
quyền giải thích luật, họ nhấn mạnh luật lệ từng chữ, từng tiếng và họ khắt khe
đòi hỏi mọi người phải tuân giữ, nhưng chính họ thì lại không áp dụng cho chính
mình. Như thế, họ nói mà không làm, hoặc tệ hơn nữa, họ nói một đàng làm một
nẻo, như thánh Phaolô nói: "Ngươi giáo dục kẻ khác mà không giáo dục mình.
Ngươi hãnh diện về lề luật mà chính ngươi lại lỗi luật", nghĩa là ngôn ngữ
và hành vi của họ mâu thuẫn nhau, lý thuyết và thực hành của họ bất nhất. Họ
rao truyền lời Chúa, nhưng thực ra họ lạm dụng uy tín làm thầy và địa vị làm
thủ lãnh của họ. Cho nên, trong con người họ như có hai phương diện, hai nếp
sống: một nếp sống giả hình trong bổn phận; còn với chính mình lại buông xuôi,
buông thả. Cuộc sống nước đôi như vậy thật là phiền phức: cái đúng trở thành
cái sai, và cái sai mới là đúng.
Đó là lý do tại sao Chúa Giêsu có thái độ nghiêm khắc, đến nỗi
Chúa khiển trách họ nặng lời. Ngài không bao giờ có thể chấp nhận được cái thói
giả hình và thái độ kiêu căng tự phụ của họ. Chính lối sống đạo như vậy đã
chuốc lấy cho họ những lời khiển trách, có thể nói là gay gắt nhất phát ra từ
miệng Chúa Giêsu. Chúa đã vạch trần bộ mặt giả hình và cách sống đóng kịch bôi
bác của họ, và Chúa dạy chúng ta đừng sống như thế. Hãy sống thành thực, nói và
làm đi đôi với nhau và trước sau như một.
Chúng ta hãy lặng tâm suy nghĩ: những người Pharisêu không còn,
nhưng lối sống của Pharisêu chưa hết, vẫn còn nơi chúng ta. Nhìn vào xã hội,
nhìn vào đời sống thực tế, chúng ta thấy: sự giả hình, giả dối đã thành ra như
thông lệ, từ lãnh vực tình yêu đến lãnh vực văn hoá, kinh tế, tôn giáo, chính
trị, người ta vẫn thường dùng cái bên ngoài mà lừa đảo nhau. Tính giả hình, giả
dối ai mà không ghét, thế nhưng người ta lại thường đồng ý rằng: muốn được kẻ
khác kính nể, cần phải giăng một bức màn dầy giữa tư tưởng và cái lưỡi, giữa tâm
trạng bên trong và cách cư xử bên ngoài.
Thậm chí có người còn nói một cách trơ trẽn, trắng trợn rằng: ai
muốn thành công thì đừng bao giờ duy trì một thái độ trước mặt cũng như sau
lưng. Đừng bao giờ nên nói ra ngoài miệng như mình đang nghĩ trong bụng, dẫu
trong bụng có muốn tru di tam tộc người ta đi nữa, bên ngoài cũng phải làm ra
vẻ ngọt ngào. Vì vậy mà trong xã hội không thiếu gì những người: "Bề ngoài
thơn thớt nói cười. Mà trong nham hiểm giết người không gươm". Thành ra,
để phân biệt được ai là chính trực, ai là giả hình, ai là người trung nghĩa, ai
là kẻ lừa thầy phản bạn thật là khó. Chúng ta thấy có những người đóng kịch rất
tài tình: bên ngoài coi lương thiện, đạo hạnh, tử tế mà thực sự bên trong là
tay độc ác ghê tởm vô cùng, có những người tỏ ra đàng hoàng dưới ánh nắng,
nhưng trong bóng râm tỏ ra lưu manh đáng sợ.
Chúng ta hãy suy nghĩ: đời sống của chúng ta có gì là giả hình
hoặc đóng kịch không? Chúng ta hãy nhớ: chúng ta có thể sống đóng kịch, che
đậy, giấu giếm người này người khác, nhưng chúng ta có thể sống mãi như thế
không? Không đâu, chắc chắn sẽ có ngày "cháy nhà ra mặt chuột". Giả
như chúng ta có sống được mãi như thế suốt đời, không ai biết chăng nữa, nhưng
chúng ta có thể qua mắt được Thiên Chúa không? Chắc chắn là không. Được lòng
người đời hay được người đời ca tụng, nhưng không được lòng Chúa, không được
Chúa ghi công thì cũng như không, chẳng có giá trị gì. Đó là điều chúng ta cần
suy nghĩ và tự nhủ mình khi làm bất cứ điều gì, kể cả những việc đạo đức.
9. Bí quyết trở nên người cao cả – Lm. Trần Ngà
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng')
Đã là người, ai cũng muốn nâng mình lên, muốn khẳng định mình,
muốn nâng cao giá trị bản thân. Tại sao mọi người đều cùng có chung một khát
vọng như thế?
Có thể nói rằng chính Thiên Chúa đã đặt vào lòng chúng ta khát
vọng muốn vươn cao như thế để thôi thúc chúng ta vươn lên, để "trở nên
người thành toàn, đạt tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô". Chính Chúa
Giêsu cũng mời gọi mọi người vươn tới những giá trị cao cả: "Anh em hãy
nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện." (Mt 5, 48).
Như thế, khát mong trở nên con người thành toàn là một khát vọng rất chính đáng
và tự nhiên.
Tuy nhiên, trong thực tế, nhiều người nhắm đạt đến lý tưởng nầy
bằng những hình thức hư ảo.
Vậy ta có thể vươn tới lý tưởng nầy bằng cách nào?
1. Những phương thức sai lầm
Những luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu muốn nâng cao giá trị
của mình bằng cách làm những việc đạo đức bề ngoài cốt để cho người ta thấy; họ
"đeo những hộp kinh lớn hơn người khác trên trán, mang những tua áo dài
hơn mọi người chung quanh, ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm những hàng
ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và
mong được thiên hạ gọi là thầy."
Các môn đệ Chúa Giêsu có lúc cũng muốn nâng cao giá trị của mình
qua nhiều cuộc tranh luận để xác định giữa các ông, ai là người lớn nhất. (Mc
9,33-37. Lc 9,46-47)
Và rồi một bữa nọ, tưởng lầm rằng mai đây Chúa Giêsu sẽ được lên
ngôi cao, hai anh em Gioan và Giacôbê cùng với mẹ là Bà Dê-bê-đê đến nài xin
Chúa Giêsu cho mình được ngồi bên hữu và bên tả ngai vinh hiển của Người. Nghe
vậy, mười môn đệ kia bất bình ra mặt với Gioan và Giacôbê, vì chưa gì mà hai
anh em nầy đã toan tính nắm giữ hai chiếc ngai mà họ cũng đang ngấp nghé. (Mc
10, 35-41)
Trong xã hội hôm nay cũng thế, ai cũng muốn được trọng vọng,
được tôn vinh, được nâng cao bằng cách nầy hay bằng cách khác.
2. Đâu là phương cách thực sự mang lại giá trị cho đời người
Giá trị con người không tuỳ thuộc vào của cải hay địa vị xã hội
như những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu tưởng lầm. Họ tưởng rằng
hễ "đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, được ngồi vào
chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm được hàng ghế đầu trong hội đường, được người ta
chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy" là có giá trị
trước mặt mọi người. Thật ra, giá trị con người không do những thứ nêu trên đem
lại.
Giá trị con người cũng không tuỳ thuộc vào ghế cao, ghế thấp,
vào địa vị công danh như hai môn đệ Gioan và Giacôbê lầm tưởng, nhưng giá trị
đó tuỳ thuộc vào phẩm chất và lòng đạo đức của con người.
Qua Công Đồng Vaticano II, Giáo Hội minh định: "Giá trị con
người không tuỳ thuộc nơi "tôi-có" (= bản thân ta và những gì ta sở
hữu) mà tuỳ thuộc nơi "tôi-là" (= bản chất đích thật của ta)".
Biệt thự của ta, xe hơi sang trọng của ta, chức vụ và quyền hạn
lớn lao của ta... không làm cho ta có giá hơn những người không nhà, không xe,
không địa vị, không chức quyền. Chỉ có phẩm chất cao đẹp và lòng đạo đức (nếu
có) của ta mới có thể làm cho ta có giá trị hơn người khác mà thôi.
Nhân dịp nầy, Chúa Giêsu dạy cho các môn đệ, các luật sĩ và biệt
phái và cho cả chúng ta biết phương thế đích thực để làm cho mình nên cao
trọng. Đó là hạ mình phục vụ tha nhân như người tôi tớ: "Ai muốn làm lớn
giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em" (Mc 10, 43. Mt 23,11)
Lời dạy nghe thật ngược đời, khó được mấy ai chấp nhận, nhưng đó
là chân lý!
Cuộc đời Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng điều đó.
Mẹ Têrêxa sinh ngày 26 tháng 8 năm 1910 tại An-ba-ni nhưng trải
qua phần lớn đời mình trên mảnh đất Calcutta của An-độ, từ đó, Mẹ được mang
danh hiệu Têrêxa Calcutta. Mẹ đã hiến thân làm tôi tớ phục vụ những mảnh đời
cùng khổ nhất trên thế gian nầy nên Mẹ trở thành người phụ nữ được trọng vọng
và yêu mến nhất trên thế giới.
Năm 1975, kỷ niệm 25 năm mẹ Têrêxa lập Dòng Thừa Sai Bác Ái, các
vị đại diện của18 tôn giáo đã họp nhau tại Calcutta để tham dự tuần lễ cầu
nguyện, cảm tạ Thượng Đế vì sự đóng góp của một người phụ nữ mang danh
"Thừa Sai Bác Ái".
Năm 1996, quốc hội lưỡng viện của Hoa Kỳ nhất trí phong tặng mẹ
danh hiệu "Công Dân Danh Dự" của Hoa Kỳ. Mẹ là nhân vật thứ tư trên
thế giới được ban tặng danh hiệu nầy.
Ngày 5-9-1997, Mẹ Têrêxa qua đời tại Calcutta, Ấn Độ. Chính phủ
Ấn Độ tổ chức an táng trọng thể Mẹ Têrêxa theo nghi thức quốc táng, một vinh dự
từ trước tới nay chỉ dành cho các lãnh tụ hàng đầu của đất nước có nhiều công
trạng với quốc gia.
Ngày 19 tháng 10 năm 2003, Mẹ được Giáo Hội nâng lên hàng Chân
Phước. Mẹ là người được phong Chân Phước nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội từ
trước đến nay: chỉ 6 năm sau ngày qua đời! Trước Mẹ, hai vị được phong chân
phước nhanh nhất là Thánh Gioan Bosco và Thánh Maximilian Kolbe cũng phải mất
đến 30 năm.
Cuộc đời và sự nghiệp của Mẹ Têrêxa Calcutta minh chứng lời dạy
của Chúa Giêsu là chân lý.
Ước gì mỗi người chúng ta thôi tìm kiếm vinh quang cho mình bằng
những hình thức hư ảo của những hạng người nông nổi, nhưng biết dấn thân phụng
sự tha nhân theo lời dạy của Chúa Giêsu và theo gương Chân Phước Têrêxa
Calcutta để cho thế giới nầy được ấm lên bằng lửa yêu thương và hạnh phúc hơn
bằng tinh thần phục vụ.
10. Biệt phái giả hình
(Trích trong 'Sống Tin Mừng' – Radio Veritas Asia)
Sau khi tham dự tuần tĩnh tâm, tuần tĩnh tâm Quốc Tế với khoảng
6,000 linh mục tại Rôma vào năm 1990, một linh mục đã viết trong tập nhật ký
của mình:
"Tôi đã nhìn thấy nhiều linh mục ngủ gục trong khi các
thuyết trình viên nổi tiếng đứng trên diễn đàn hăng say chia sẻ những tư tưởng
thần học đạo đức cao siêu. Nhưng rồi không một người nào ngủ cả khi Mẹ Têrêsa
Calcutta thuyết trình. Mẹ không nói lời văn hoa, nhưng Mẹ sử dụng ngôn ngữ đơn
sơ và tôi nghĩ cả khi Mẹ Têrêsa không cần nói lời nào, chỉ cần sự hiện diện của
Mẹ cũng đủ thúc đẩy chúng tôi, thu hút chúng tôi canh tân đời sống mình, bởi vì
Mẹ sống chân thành khiêm tốn với những gì Mẹ nói."
Chân thành và khiêm tốn cũng là chủ đề chính của bài Phúc Âm hôm
nay. Người chân thành chỉ sống những gì họ nói và chỉ nói những gì họ đã làm.
Đó là những chứng nhân của Chúa mà xã hội ngày hôm nay cần đến, như Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã nói: "Con người ngày nay không cần những thầy dạy
nói suông, nhưng cần những kẻ dám chứng thực những điều họ nói, cần những chứng
nhân. Người chân thành không nói láo, không giả hình, không tự kiêu cho mình
hơn kẻ khác, không phê bình chỉ trích. Thái độ phê bình chỉ trích đôi khi chỉ
là cách thức để che giấu những tật xấu nơi chính mình, ta phê bình chỉ trích kẻ
khác chỉ vì ta không dám đối diện với sự thật nơi chính mình, bởi vì sự thật đó
buộc ta phải canh tân liên lỉ".
Những kẻ biệt phái trong Phúc Âm hôm nay có thể nói được là
những kẻ không dám nhìn vào thực tại nơi chính mình, họ không có lòng đạo đức,
không muốn nhìn thấy sự thiếu vắng này nên che đậy bằng tua áo dài, bằng những
thẻ kinh bên ngoài để chứng tỏ cho người khác thấy được sự thông minh của họ,
nhưng đó là sự thông minh không có đạo đức, một sự thông minh trống rỗng. Trước
mặt Chúa Giêsu, chúng ta cần chân thành và khiêm tốn nhìn nhận những sơ sót để
xin ơn sám hối và canh tân. Bài Phúc Âm hôm nay mời gọi ta xét lại thái độ sống
của mình.
Nhân dịp này ta nhắc lại đoạn trích trong cuộc họp thường niên
Hội Đồng các Giám Mục nói về việc sám hối, nơi số 3 của bức thư chung các Đức
Giám Mục Việt Nam đã viết:
"Để tâm hồn đón nhận được đầy tràn ơn Chúa trong Năm Thánh
chúng ta cần có một số chuẩn bị. Việc đầu tiên phải làm là sám hối, vì trong
quá khứ chúng ta đã sai phạm nhiều, có những lầm lỗi cá nhân của các tín hữu,
các tu sĩ, các linh mục, giám mục. Có những lầm lỗi của cả tập thể các Giáo
Hội, của từng Giáo Phận, của mỗi Giáo Xứ. Có những lầm lỗi cố tình chống lại ơn
Chúa, cản trở chương trình của Chúa, có những lầm lỗi vô tình khiến chúng ta
trở thành vật cản ơn thánh, để lỡ cơ hội đón nhận ơn Chúa cho bản thân chúng ta
và cho mọi người".
Sám hối là trở về với Chúa nhưng cũng là trở về với anh chị em.
Phải hòa giải với anh chị em, vì chính ta đã góp phần gây ra bất công, chia rẽ,
bất hòa khiến anh chị em xa Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là điều
kiện cần thiết để hòa giải với Chúa. Phải hòa giải với anh chị em, vì đó là ước
nguyện của Chúa Giêsu Kitô trước khi từ giã cõi trần. Sám hối sẽ dẫn đến đổi
mới con người, đổi mới cuộc sống và sám hối càng sâu xa thì đổi mới càng mãnh
liệt.
Với con người mới chúng ta hân hoan hướng trọn niềm vui với tình
nghĩa Thiên Chúa là Cha và với anh chị em con cùng một Cha trên trời. Với con
người mới chúng ta trút bỏ được gánh nặng quá khứ để thanh thản bước vào thiên
niên kỷ mới. Với con người mới chúng ta hân hoan bước vào cuộc sống mới, cuộc
sống không ngừng đổi mới ơn thánh với tình bác ái huynh đệ, với lòng khiêm tốn,
với tinh thần dấn thân phục vụ.
Để sống chân thành với chính mình, chúng ta cần phải sám hối.
Sám hối, hòa giải, đổi mới. Để làm tất cả những điều này chúng ta cần có lòng
khiêm nhường. Người khiêm nhường biết rõ mình là ai: với những điểm tốt cũng
như với những điểm xấu, những điểm tiêu cực cũng như tích cực và trông chờ ơn
Chúa ban để canh tân đời sống của mình.
Ước chi bài Phúc Âm hôm nay nhắc nhở mỗi người chúng ta hãy trở
về với nguồn mạch ơn Thánh Chúa để canh tân đời sống mình với hết lòng khiêm
tốn. Xin Chúa ban ơn để chúng con canh tân đời sống và được kiên nhẫn trong đời
sống, được lớn lên với các nhân đức.
11. Sống chân tình
Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Saba gởi đến vua Salomon hai
bó hoa rất giống nhau, để thử xem sự khôn ngoan của ông tới đâu. Đó là một bó
hoa thật và một bó hoa giả. Nhà vua bèn mở cửa sổ, cho bầy ong bướm bay vào.
Tức thì các chú ong và các nàng bướm liền sà ngay xuống những bông hoa thật.
Những bông hoa giả có sắc mà chẳng có hương, có bóng hình mà
không có sự sống. Những kẻ giả hình nói nhiều làm chẳng được bao nhiêu. Thậm
chí, chỉ nói suông mà không có thực hành. Họ dung túng cho mình nhưng lại
nghiêm khắc với kẻ khác.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu vạch trần những con người giả hình
ấy. Người nói: "Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta nhưng chính
họ thì lại không buồn động ngón tay vào". Người giả hình còn nhiều tật xấu
khác mà Đức Giêsu không tiếc lời chỉ trích. Như tính khoe khang công đức, thích
ăn trên ngồi trước, ưa được kính trọng chào hỏi nơi công cộng, và muốn người ta
gọi mình là thầy. Sau khi nghe Đức Giêsu mô tả khuôn mặt kẻ giả hình, hẳn ai
trong chúng ta cũng thấy dáng dấp của mình trong đó. Nếu không háo danh thì cũng
khoa trương, nếu không kể công lênh thì cũng thích được trọng vọng, nếu không
ích kỷ cũng nói nhiều làm ít.
Đức Giêsu quả đã không nương tay khi cầm con dao mổ, rạch sâu
vào ung nhọt của lương tâm mỗi chúng ta. Cuộc giải phẫu ấy làm chúng ta đau
buốt, nhưng sau khi đã lấy ra hết ung nhọt hôi tanh của tính giả hình, chúng ta
sẽ chân thành và khiêm tốn hơn.
Chúng ta sẽ chỉ sống những gì mình nói và chỉ nói những gì mình
đã làm. Đức Gioan Phaolô II đã nói "Con người ngày nay không cần những
thầy dậy nói suông, nhưng cần những chứng nhân sống điều họ nói".
Chúng ta không bao giờ phê bình lên án một ai, vì khi chỉ trích
kẻ khác là chúng ta đang ngấm ngầm che giấu những tật xấu nơi chính mình, là
chúng ta không dám đối mặt với sự thật nơi bản thân, bởi sự thật đó buộc chúng
ta phải sám hối và canh tân luôn mãi.
Trong thẳm sâu của lòng người, ai cũng muốn có được một chút
danh vọng, ai cũng thích trổi vượt hơn người. Hôm nay, Đức Giêsu đã cho chúng
ta một quan điểm mới, để đáp lại nhu cầu muốn làm lớn trong mỗi chúng ta:
"Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em".
Điều này Đức Giêsu đã làm gương trước khi dạy. Tuy người là Chúa và là Thầy,
nhưng Người luôn coi mình như bạn hữu, như anh em, và nhất là như đầy tớ phục
vụ và yêu thương các môn đệ cho đến cùng. Như thế, làm lớn theo quan điểm của
Đức Giêsu chính là cúi xuống trước anh em để chân tình phục vụ họ trong yêu
thương. Thánh Phaolô viết: "Người được chấp nhận không phải là để tự cao
tự đại, nhưng là người được Chúa đề cao". Hãy soi đời mình vào tấm gương
Giêsu, để tìm cho mình một phong cách sống đẹp nhất.
12. Nói và làm
Qua đoạn Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc kết án bọn
biệt phái và luật sĩ là những người lãnh đạo tôn giáo trong dân Do Thái. Thế
nhưng, biết đâu những lời kết án nghiêm khắc ấy cũng được gửi đến cho mỗi người
chúng ta, bởi vì những khuyết điểm của họ cũng là những khuyết điểm của mọi
người ở mọi nơi và trong mọi lúc.
Nhìn lại khuôn mặt của bọn biệt phái và luật sĩ, chúng ta không
khỏi giật mình bởi vì bản thân chúng ta cũng có những đường nét nào đó giống
như họ. Vậy đâu là những khuyết điểm chính yếu bọn biệt phái và luật sĩ đã mắc
phải để rồi đã bị Chúa Giêsu chỉ trích và phê bình một cách gắt gao?
Khuyết điểm thứ nhất, đó là họ nói mà không làm. Có một khoảng
cách vừa sâu lại vừa rộng giữa những điều họ giảng dạy với những điều họ thực
hành trong đời sống cá nhân. Chúa Giêsu đã diễn tả thật chính xác về họ như
sau:
Họ nói mà không làm. Họ nói thì nhiều mà làm chẳng được bao
nhiêu. Tệ hơn nữa, họ nói một đàng nhưng làm quàng một nẻo, họ làm ngược lại
những gì họ đã nói và đã giảng theo kiểu:
- Khẩu phật tâm xà.
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Và như vậy, điều quan trọng đối với chúng ta là phải thống nhất
đời sống, để việc chúng ta làm ăn khớp với lời chúng ta nói và dạy. Lời nói
phải biểu lộ những gì ấp ủ trong cõi lòng, chứ không phải chỉ là sự vận dụng
khéo léo những ngôn từ hoa mỹ để thu hút và lôi cuốn người khác như người ta
vốn thường bảo:
- Khéo mồm mép, khỏe tay chân.
Trong nghi lễ phong chức Linh mục, Đức Giám mục đã khuyên các
tân chức như sau:
- Khi suy gẫm Lời Chúa, các con hãy chú tâm tin điều chúng con
đọc. Dạy điều các con tin và làm điều các con dạy.
Mong rằng chúng ta cũng sẽ thực hiện được như vậy.
Bọn biệt phái nói mà không làm, nhưng lại bắt người khác phải
làm. Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh sống động để diễn tả về khuyết điểm này:
- Họ chất những gánh nặng lên vai người khác, còn chính bản thân
họ thì lại không muốn đụng ngón tay lay thử.
Thái độ này ngày nay chúng ta gọi một cách khôi hài là giám đốc,
giám xúi chứ không phải là giám làm, giám nhận lấy trách nhiệm của mình.
Như vậy ở đây chúng ta lại thấy xuất hiện một khoảng cách giữa
điều chúng ta làm với điều chúng ta buộc người khác phải làm. Chúng ta khoan
dung với bản thân, nhưng lại hết sức nghiệt ngã với người khác. Dường như chúng
ta đòi hỏi người khác là để khỏa lấp sự yếu đuối của bản thân.
Khuyết điểm thứ hai, đó là tính háo danh và tự mãn. Họ làm mọi
việc cốt để được người ta thấy. Như vậy cái đích nhắm của mọi hành động đó là
tiếng khen, uy tín và danh dự cá nhân. Tất cả đều qui về cái tôi của mình, đều
nhằm lôi kéo sự chú ý của người khác. Thậm chí cả những hành vi đạo đức cũng
biến thành một thứ son phấn để trang điểm cho bộ mặt giả hình của chúng ta.
Thiên Chúa bị bỏ rơi khi các việc đạo đức của chúng ta được khua
chiêng gióng trống, nặng phần trình diễn, khiến người ta chỉ thấy được bản thân
chúng ta mà không thấy được chính Thiên Chúa.
Với một vài nét chấm phá đơn sơ, Chúa Giêsu đã cho chúng ta thấy
rõ bộ mặt giả hình của bọn Biệt phái và luật sĩ. Biết đâu, đó cũng là bộ mặt
giả hình của mỗi người chúng ta.
· Chính vì thế, chúng ta hãy cầu xin để mỗi
người chúng ta luôn sống trung thực với bản thân, với người khác và với Thiên
Chúa. Tư tưởng thì đi đôi với lời nói. Còn lời nói thì lại đi đôi với việc làm.
Cả ba lãnh vực tư tưởng, lời nói và việc làm của chúng ta đều không quanh co,
không uẩn khúc, nhưng trong suốt như pha lê.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét