ĐỨC PHANXICÔ TRÊN MÁY BAY VỀ RÔMA |
ĐỨC PHANXICÔ: MA QUỶ SỢ NGƯỜI THÁNH THIỆN |
ĐỨC PHANXICÔ: MA QUỶ KHÔNG PHẢI LÀ BIỂU TƯỢNG |
ĐỨC PHANXICÔ GĂP CÁC BẠN BỊ LY DỊ |
– GIÁO HỘI TRUNG QUÔC BỊ ĐÀN ÁP |
GIÁO HỌ TÂN AN CANH TÂN |
DỊCH LẠI KINH LẠY CHA: ĐỨC PHANXICÔ |
CHÚA NHẬT 30 THƯỜNG NIÊN - A
1. Mến Chúa và yêu người.
Nhóm Sađốc chất vấn Chúa về sự sống lại đã bị
Chúa bẻ gẫy không dám hỏi nữa. Nghe vậy bọn biệt phái muốn tấn công lại, cho
nên một nhà thông luật đã đưa ra vấn đề để thử Chúa: Thưa Thầy, trong lề luật,
giới răn nào trọng nhất. Luật Do Thái gồm cả thảy 613 điều được chia thành 248
điều phải làm và 365 điều phải tránh. Đồng thời có những điều nặng và những
điều nhẹ. Phạm những điều nhẹ thì chịu phạt đền tội, còn phạm những điều nặng,
có thể bị án tử hình. Các nhà thông luật thường tranh luận với nhau xem điều
luật nào quan trọng nhất.
Trước vấn nạn được đưa ra, Chúa Giêsu đã trả
lời một cách rõ ràng và xác đáng: Ngươi hãy kính mến Chúa hết lòng. Đó là giới
răn quan trọng nhất. Nhưng giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ
nhất, đó là yãy yêu thương anh em như chính mình. Chúa đem điều luật yêu người
đặt ngang hàng với luật mến Chúa, đó là điểm đặc sắc trong những lời giảng của
Người.
Lời xác quyết của Chúa thật minh bạch. Đi
theo chiều hướng ấy, các tông đồ cũng nhấn mạnh, chẳng hạn thánh Gioan đã viết:
Thiên Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa. Rồi thánh
Phaolô cũng căn dặn: Anh em hãy mặc lấy đức ái, đó là giềng mối của sự trọn
lành. Như vậy mến Chúa hết lòng và yêu anh em như chính mình, đó là đỉnh cao
của sự thánh thiện và đó cũng là việc chúng ta cần thực hiện trong cuộc sống
trần gian.
Nên thánh không phải là làm phép lạ, vì có vị
thánh suốt đời chẳng làm một phép lạ nào cả. Nên thánh cũng không phải là không
phạm tội bao giờ, vì có nhiều vị thánh đã sa ngã nặng nề như thánh Phaolô,
thánh Augustinô. Nên thánh cũng không phải chỉ là ăn chay đánh tội, thức khuya
dậy sớm, làm mòn mỏi thân xác. Thực hiện được những hy sinh to lớn ấy là điều đáng
khen, đáng ca ngợi, nhưng không phải là điều cốt yếu của sự thánh thiện. Nên
thánh cũng không hệ tại việc đọc kinh dài, xem lễ rước lễ hằng ngày và cầu
nguyện lâu giờ. Những việc đạo đức này thật tốt, song chỉ là những phương tiện
giúp chúng ta nên thánh chứ không phải là bản chất của sự thánh thiện.
Vì thế, sự thánh thiện cốt tại lòng mến Chúa và yêu
người. Bất kỳ những gì, dù nhỏ bé, kín đáo, tầm thường đến đâu, song
được làm vì lòng mến Chúa và yêu người, thì nó sẽ trở nên thánh thiện cho chúng
ta. Bởi vậy, thánh Augustinô đã nói: Ama et fac quod vis, hãy yêu mến rồi làm
gì cũng được.
Rất tiếc có những người đã uổng công xây căn
nhà đạo đức thánh thiện của mình không đúng cách vì không có được lòng mến Chúa
yêu người làm nền tảng, cho nên không bao lâu chiếc mặt nạ đạo đức bị rớt
xuống, và họ chỉ là những kẻ giả hình, gian dối mà thôi. Chúa không kể thời
gian lâu mau. Chúa không xét việc làm to nhỏ. Chúa không coi việc làm vất vả
hay nhẹ nhàng, nhưng Chúa đo mọi hành vi chúng ta làm bằng tình yêu, Người dùng
mức độ tình yêu để đánh giá và ấn định công trạng đời sống chúng ta. Bởi đó,
yêu nhiều là làm nhiều, và làm nên công nghiệp của mình trước mặt Thiên Chúa.
2. Mến Chúa.
Có một chứng bệnh mỗi ngày một trở nên trầm
trọng trong xã hội ngày nay, đó là chứng bệnh cô đơn. Thực vậy, giữa thời buổi
kinh tế thị trường, người ta đổ xô về thành phố. Thế nhưng, dân số thành phố
càng gia tăng thì chứng bệnh cô đơn lại càng trầm trọng. Người ta sống cách
nhau chỉ một bức tường mà không hề biết đến tên tuổi của nhau. Trong một chung
cư, kẻ ở lầu trên, ra vào cùng một lối mà chẳng biết đến kẻ ở lầu dưới. Mỗi
người trở thành như một hòn đảo, một pháo đài biệt lập. Đời sống càng xô bồ
chen chúc, thì con người lài càng cảm thấy cô đơn. Mặt trời dường như mỗi ngày
một thêm nóng bức và oi ả, mà lòng người thì mỗi ngày một thêm lạnh lùng và
băng giá. Thiên hạ đối xử với nhau ngày càng thêm hờ hững và xa lạ. Vậy đâu là
phương thuốc trị liệu cho chứng bệnh cô đơn này?
Theo tôi nghĩ chúng ta không có một phương
thuốc nào hiệu nghiệm cho bằng hãy mến Chúa và yêu người. Hay như Chúa Giêsu đã
phán qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Giới răn thứ nhất là hãy kính mến Thiên Chúa
hết lòng, còn giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy
yêu thương tha nhân như chính mình. Tuy nhiên, đây không phải là hai giới răn
riêng biệt, nhưng chỉ là một giới răn duy nhất. Yêu người chỉ là sự biểu lộ và
hậu quả tất nhiên của lòng mến Chúa. Có yêu người thì mới có thể mến Chúa. Và
ngược lại, có mến Chúa thì mới có thể yêu người.
Từ đó chúng ta suy ra: nguyên nhân sâu xa
nhất tạo nên chứng bệnh cô đơn, chínhy là vì con người đã xa lìa Thiên Chúa.
Thực vậy, cùng với những thành quả của khoa học, con người đã muốn truất phế
Thiên Chúa, họ muốn nói lên như dân Do Thái ngày xưa: Chúng tôi không muốn nó
cai trị trên chúng tôi. Hẳn chúng ta còn nhớ khi phi thuyền Spoutnick được
phóng lên không gian và trở về địa cầu, phi hành gia Gargarine đã tuyên bố với
báo chí: Từ nay sẽ không còn ai dám nói rằng có một Thiên Chúa điều khiển trăng
sao nữa. Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy dăm ba chiếc phi thuyền nhỏ
xíu di chuyện trong một khoảng thời gian nào đó trên không trung, làm sao có
thể sánh ví với hàng triệu triệu vì sao quay cuồng trên bầu trời, không bằng
một hạt cát trong sa mạc, không bằng một giọt nữa giữa biển khơi. Chính vì thế,
Carnégie đã nói: Về phương diện khoa học kỹ thuật, loài người đã tiến được
những bước khá cao, nhưng về phương diện tinh thần và tôn giáo, họ vẫn còn dậm
chân trong một tình trạng ấu trĩ. Chúng ta có tiền nhiều, có áo tốt, có nhà
cao, có xe xịn…nhưng lại thiếu bồi dưỡng về tình thần vì con người thời nay đã
mất niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin sẽ là như khí trời, thiếu nó chúng ta sẽ
bị ngột ngạt và căng thẳng. Không tin vào Thiên Chúa là nguồn mạch mọi tình
thương, chúng ta cũng không thể nào tin vào tình người một cách chân thành và
bền bỉ. Vì lòng yêu người chỉ là hoa trái của tình mến Chúa mà thôi.
Bởi đó, ngày nay hơn bao giờ hết, con người
phải quay trở về cùng Thiên Chúa, như lời bác học Von Braun đã tuyên bố: Nhờ
những hiểu biết về không gian, nhiều người ngày nay cho rằng chúng ta cần phải
tin có Thiên Chúa hơn cả những người sống trong thời trung cổ. Bởi đó, những kẻ
coi khoa học là chủ tể của con người, thì chỉ biểu lộ sự nông cạn, hẹp hòi của
mình mà thôi. Chính vì thế, Pascal đã nói: Khoa học nông cạn làm cho con người
xa lìa Thiên Chúa, nhưng khoa học khôn ngoan sẽ dẫn đưa con người tới gần Ngài.
Một khi đã trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã
tới gần Ngài, chúng ta sẽ không còn cô đơn và tuyệt vọng, nhưng sẽ tràn đầy
niềm hy vọng như lời Thánh Vịnh 17 đã diễn tả: Dù có đi giữa bóng tối hãi hùng
của sự chết, tôi không còn lo sợ, vì Chúa ở cùng tôi. Hơn thế nữa, một khi đã
trở về cùng Thiên Chúa, một khi đã tới gần Ngài, chúng ta mới tìm thấy được cái
nền tảng vững chắc, cũng như những giá trị siêu nhiên cho vệc yêu người. Thực
vậy, tại sao chúng ta lại phải yêu thương người khác? Vì có chung một Thiên
Chúa là Cha, nên chúng ta là anh em. Bởi đó phải yêu thương nhau. Ngoài ra
những hành động bác ái và yêu thương còn có một giá trị vĩnh cửu, bởi vì khi
giúp đỡ người khác là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy. Trong ngày phán
xét, Ngài sẽ tra hỏi chúng ta về vấn đề này, và rồi dựa vào đó mà ấn định số
phận đời đời của mỗi người chúng ta.
3. Trò chơi hòa bình.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Ngày
kia, ông Macsa, một nhà văn người Nga, đi ngang qua một sân chơi, ông dừng lại
quan sát một đám trẻ em trạc tuổi lên 6 lên 7 đang chơi với nhau. Thấy chúng
chơi trò gì là lạ, ông cất tiếng hỏi:
- Này
các cháu, các cháu đang chơi trò gì thế?
Đám trẻ
nhốn nháo trả lời:
- Chúng
cháu chơi trò đánh nhau.
Nghe
thế ông Macsa hơi cau mày, rồi gọi các em đến, ông ôn tồn giải thích:
-
Tại sao các cháu chỉ
chơi trò đánh nhau mãi. Các cháu biết chứ, đánh nhau hay chiến tranh có gì là
đẹp đâu. Các cháu hãy chơi trò hòa bình xem nào.
Ông vừa
dứt lời, một em bé reo lên:
-
Phải rồi, tụi mình
thử chơi trò hòa bình một lần xem sao.
Thế là
cả bọn kéo nhau ra sân, chụm đầu vào nhau bàn tán. Thấy chúng chấp nhận ý kiến
của mình, nhà văn hài lòng mỉm cười tiếp tục đi. Nhưng chưa được mấy bước ông
nghe có tiếng chân chạy theo. Và chưa kịp quay lại, ông đã nghe giọng của một
em bé hỏi:
-
Ông ơi, trò chơi hòa
bình làm sao? Chúng cháu không biết.
Thưa anh chị em, làm sao trẻ em biết chơi trò
hòa bình, khi người lớn cứ chơi trò chiến tranh? Làm sao trẻ em biết chơi hòa
bình, khi trong nhà, cha mẹ, anh chị lớn bất hòa, cãi cọ… khi ngoài xóm ngõ
người lớn chửi bới, đánh nhau…? Làm sao trẻ em biết chơi trò hòa bình, khi
chúng vẫn thấy trên Tivi, báo chí, những cảnh chiến tranh khốc liệt, khủng bố
và chém giết dã man?
Dường như thế giới ngày nay chỉ muốn giải
quyết những tranh chấp, những xung đột lan tràn bằng bạo động, bằng vũ khí giết
người. Mặc dù thế giới đang có trong tay sức mạnh vạn năng của tình yêu, nhưng
chỉ một ít người biết sử dụng:
-
Mục
sư Luther King, người da đen, đã sử dụng khí giới của tình yêu. Ông đã ngã gục,
nhưng hàng triệu người da đen đã được đưng lên làm người như những người da
trắng.
-
Đức
Giám Mục Đêmông Tutu, người Nam Phi, cũng đã đi theo vết chân của Ganđi và
Luther King.
-
Mẹ
Têrêsa thành Calcutta
cũng đang dùng khí giới của tình yêu để những người không nhà không cửa, những
người hấp dẫn hối đầu đường xó chợ được sống và chết như những con người.
Tất cả những tấm gương đó trên đây chỉ là
phản bội của một Tình Yêu trọn vẹn hơn. Đó là tình yêu của Đấng đã chịu chết
cho người mình yêu. Chính Ngài đã dạy chúng ta điều luật của trò chơi hòa bình.
Đó là tình yêu: Yêu Chúa và yêu người. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đáp
lại vấn nạn của nhà thông luật Pharisêu về điều luật trọng nhất, bằng cách ghép
lại hai điều luật của tình yêu: “Yêu Chúa với tất cả trái tim (Đnl 6,5) và yêu
người như yêu mình” (Lv 19,18). Chúa Giêsu đã không đưa ra một điều gì mới mẻ.
Nhưng cái độc đáo của Ngài đã cho thấy đâu là cái cốt yếu, cái quan trọng nhất
của Luật Môsê: yêu Chúa hết lòng và yêu người như chính mình, cả hai điều luật
đều có tầm quan trọng như nhau. Như thế, Ngài đã giải phóng con người khỏi một
khối lượng lớn các điều răn (613 điều: 365 điều cấm làm, 248 điều phải làm), để
rồi tập trung vào việc tuân giữ hai điều luật chủ yếu: Mến Chúa- Yêu người. Giữ
được hai điều luật ấy là chu toàn tất cả pháp luật. Yêu người là thước đo lòng
yêu mến Chúa. “Ai không yêu người anh em mình thấy trước mắt, tất cả cũng không
thể yêu mến Thiên Chúa mà mắt mình không thấy được” (1Ga 4,20).
Thế nhưng, trong thực tế hằng ngày, có lẽ
chúng ta thường quen tách rời Thiên Chúa ra khỏi yêu người; coi như hai điều
luật hoàn toàn không liên hệ gì với nhau. Do đó, chúng ta có thái độ mâu thuẫn
rõ rệt: làm việc gọi là đạo đức để yêu mến Chúa, nhưng đồng thời cũng làm những
việc ám hại tha nhân để trục lợi hoặc ít ra cũng dửng dưng với những nhu cầu
cấp bách của người khác. Chúng ta chỉ chú trọng đến việc gọi là mến Chúa mà
không tha thiết gì đến việc thương người. Có khi chỉ mến Chúa yêu người vì có
thể trục lợi được, chứ không phải vì đó là ý Chúa muốn, là bổn phận của con cái
Chúa và vì là anh em với nhau. Mến Chúa bằng cách yêu tha nhân, yêu tha nhân là
cách thế tỏ lòng yêu mến Chúa, đó là đều chúng ta phải qua tâm và áp dụng thực
hành.
Tuy nhiên, chúng ta đừng quên: “Tình yêu tha
nhân phải được nền trên tình yêu Thiên Chúa. Khi trái tim tôi thuộc trọn về
Thiên Chúa thì ngay lúc ấy nó cũng thuộc trọn về tha nhân. Người ta chỉ có khả
năng yêu tha nhân đến vô cùng khi được tình yêu Chúa chiếm hữu” (Rm 5,5). Trong
Chúa, tôi bắt gặp tha nhân là anh em tôi. Trong Chúa, tôi cảm nhận được phẩm
giá đích thực và trọn vẹn của một con người, dù đó là một người bệnh tật hay
già yếu, một phạm nhân, một người mất trí, một thai nhi còn trong bụng mẹ, một
thiếu nữ lầm lỡ, một người mắc bệnh Sida… Trong Chúa, tôi yêu mến họ và nhận ra
chính khuôn mặt của Chúa Giêsu đang đau khổ, đói khát, trần trụi, yếu đau, ở
tù, cô thế cô thân… (x.Mt 25,35-36).
Tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa thì đưa
tôi về với anh em. Tình yêu đối với anh em lại đòi tôi phải trở về với Thiên
Chúa, nguồn mạch tình yêu, để múc lấy ở đó sức mạnh hầu tiếp tục trao hiến. Đó
là nhịp sống bình thường của người Kitô hữu: cứ đong đưa giữa hai tình yêu.
Chính nhờ sự đong đưa này mà trái tim tôi được dần dần mở ra và trở nên giống
như trái tim Chúa Giêsu trên Thập giá.
Anh chị em thân mến,
Chúng ta chỉ là Kitô hữu đích thực khi sống
bằng chính sức sống và tình yêu của Đấng đã sống và chết vì yêu thương ta.
Chừng nào thế giới của người lớn chúng ta biết sống quảng đại yêu thương, biết
giải quyết những tranh chấp không thể tránh được bằng đường lối ôn hòa, thông
cảm và tha thứ, chừng đó thế giới trẻ thơ mới biết trò chơi hòa bình, mới triển
nở được trong bầu khí hồn nhiên tươi sáng, hứa hẹn một tương lai huy hoàng cho
gia đình, xã hội và thế giới.
4. Luật yêu mến – ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt.
Người Do Thái có quá nhiều luật lệ. Họ lại có
thái độ duy Lề Luật. Nên tỉ mỉ tuân giữ tất cả mọi điều. Không còn biết điều
nào là chính điều nào là phụ nữa. Hôm nay, nhân một câu hỏi. Chúa Giêsu đã cho
ta biết chỉ có một điều luật quan trọng: LUẬT YÊU MẾN. Luật này có 2 khía cạnh.
1) Yêu
mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn. Nghĩa là yêu mến hết
khả năng, hết sức lực. Ta phải yêu mến Chúa như thế thật hợp tình hợp lý.
Vì Chúa đáng yêu đáng mến vô cùng. Chúa là
nguồn mạch mọi sự thiện hảo. Ngài là toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Nơi Ngài
không có một tì vết, khuyết điểm nào. Trong đời sống ai cũng yêu thích những gì
tốt đẹp. Chúa là Đấng vô cùng tốt đẹp. Yêu mến Ngài là điều tự nhiên. Ai hiểu
biết cũng đều yêu mến Chúa.
Hơn nữa Chúa còn là Đấng sinh thành ra ta.
Chính Chúa ban cho ta tất cả. Ta có mặt ở đời này là do ý định của Chúa. Tất cả
nhừng gì chúng ta có và chúng ta là đều bởi Chúa. Chúa là vị ân nhân lớn nhất
của ta. Yêu mến Chúa là việc làm không những tự nhiên mà còn là bổn phận nữa.
2) Yêu
người thân cận như chính mình. Đó là điều răn thứ hai mà Chúa Giêsu nói
cũng giống như điều răn thứ nhất. Thực ra đó chỉ là một điều răn vì những lý do
sau:
Yêu Chúa và yêu người là hai khía cạnh của
một tình yêu. Tình yêu chân thật là tình yêu không có giới hạn, không có loại
trừ. Vì thế đã yêu Chúa thì phải yêu người. Nếu tình yêu bị giới hạn, có loại
trừ thì sẽ trở thành giả tạo.
Tình yêu đối với tha nhân kiểm chứng tình yêu
đối với Thiên Chúa. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: “Nếu ai nói: Tôi yêu mến Thiên
Chúa mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương
người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không
trông thấy. Đây là điều răn mà chúng ta nhận được từ nơi Người: Ai yêu mến
Thiên Chúa, thì cũng yêu thương anh em mình” (1Ga 4,20-21).
Còn hơn thế nữa. Ai yêu anh em là yêu chính
Chúa. Vì Chúa ở trong anh em. Hơn thế nữa, Chúa ẩn thân trong những anh em bé
mọn nhất. Vì thế trong ngày phán xét Chúa nói với ta rằng: “Ta bảo thật cho các
người: mỗi lần các người làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của
Ta đây, là các người đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25-40).
Tất cả mọi điều răn khác đều quy về hai điều
răn này. Nếu ta giữ trọn vẹn giới răn này, không những ta chu toàn Lề Luật mà
còn góp phần xây dựng một thế giới mới, thế giới chan hòa yêu thương, chan hòa
tình người. Và đó chính là khởi điểm của thiên đàng mai sau.
GỢI Ý
CHIA SẺ
1)
Yêu
mến Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn. Bạn thấy điều này có hợp tình hợp lý không?
2)
Tại
sao ta phải yêu tha nhân?
3)
Bạn
có cảm nghiệm được niềm vui khi ta yêu thương không?
4)
Bạn
nghĩ thế nào về một thế giới trong đó chỉ có những người yêu thương nhau.
5. Giới răn tối thượng – Lm Trần Ngà.
Người Do Thái ngày xưa bị trói buộc bởi 613
khoản luật, gồm 365 luật buộc và 248 luật cấm. Tuân giữ bấy nhiêu khoản luật là
một ách nặng không ai mang nổi, và giữa một rừng luật lệ như thế, việc tìm cho
ra đâu là giới luật quan trọng hàng đầu mà mỗi người phải ưu tiên thực hiện là
vấn đề không dễ. Đây cũng chính là vấn nạn mà một người thông luật đặt ra với
Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, trong sách Luật Môsê, điều răn nào là điều răn
trọng nhất?"
Chúa Giêsu đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là
điều răn quan trọng nhất và điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống
điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình."
1. Giới răn yêu thương, tuy hai mà một
Nhiều người vẫn tưởng rằng giới răn mến Chúa
và giới răn yêu người là hai giới răn khác biệt, nhắm về hai đối tượng khác
nhau: điều răn mến Chúa quy về Thiên Chúa và điều răn yêu người quy về con
người.
Thực ra, hai giới răn nầy cùng đều quy về một
mối: đó là yêu mến Thiên Chúa đang hiện diện nơi những con người đang sống
chung quanh, hay nói khác đi, yêu thương phục vụ những người chung quanh là
phụng sự Thiên Chúa.
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu xác nhận hai
giới răn nầy không khác biệt nhau khi Người nói: "điều răn thứ nhất là
ngươi phải yêu mến Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và
hết trí khôn ngươi. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy là ngươi phải
yêu người thân cận như chính mình" (Mt 22, 39).
Qua dụ ngôn về "cuộc phán xét cuối
cùng", Chúa Giêsu đồng hoá giới răn yêu người với giới răn mến Chúa: những
ai cho những kẻ đói khát vất vưởng đầu đường xó chợ một bữa ăn thì Chúa Giêsu
nói là họ cho Người ăn; những ai cho những kẻ rách rưới hay mình trần một vài
tấm áo thì Chúa Giêsu tuyên bố là họ đã cho Người mặc; những kẻ giúp đỡ những
người phiêu cư, lang bạt không nhà có chỗ trọ qua đêm thì Chúa Giêsu gọi họ là
đã cho Người trú ngụ... (Mt 25, 35-36) và những người đó được Chúa Giêsu khen
ngợi là "những kẻ được Cha Ta chúc phúc" và được Người mời "đến
thừa hưởng Vương Quốc đã dọn sẵn cho họ từ thuở tạo thiên lập địa" (Mt 25,
34).
Chúa Giêsu cũng long trọng khẳng định rằng
khi người ta làm bất cứ điều gì cho những anh em chung quanh là làm cho chính
Người. (Mt 25,40)
Thế nên, hai giới răn nầy không khác biệt
nhau, vì thực thi giới răn yêu người (giới răn thứ hai) cũng là hoàn thành giới
răn mến Chúa (giới răn thứ nhất). Vậy thì tuy được kể là hai, nhưng hai giới
răn nầy cũng quy về một mối: tuy hai mà một.
Trong thư gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô tái
khẳng định điều đó: "Ai yêu thương người (điều răn thứ hai) thì đã chu
toàn Lề Luật" (tức là đã giữ trọn tất cả các điều răn, kể cả điều răn thứ
nhất là mến Chúa) (Rm 13, 8).
2. Giới răn yêu thương là trung tâm của các
giới răn khác
Hai giới răn nầy là trung tâm của mọi giới
răn, vì tất cả các giới răn khác đều quy hướng về hai giới răn quan trọng nầy;
đồng thời đây cũng là giới răn tối thượng bao trùm hết mọi giới răn khác. Vì
thế, ai giữ trọn giới răn nầy thì được xem là đã giữ tròn tất cả các điều răn
khác.
Thánh Phaolô khẳng định như thế trong thư gửi
tín hữu Rôma: "Thật thế, các điều răn như: Ngươi không được ngoại tình,
không được giết người, không được trộm cắp, không được ham muốn, cũng như các
điều răn khác, đều tóm lại trong lời nầy: Ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình. Đã yêu thương thì không làm hại người đồng loại; yêu thương là chu
toàn Lề Luật vậy" (Rm 13, 9-10)
Và Chúa Giêsu, qua trang Tin Mừng hôm nay,
cũng xác nhận như thế: "Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc
vào hai điều răn ấy". (Mt 22, 40)
]]]
Xưa kia, đang khi quân binh Israel và quân
binh Phi-li-tinh giàn binh bố trận để giao chiến với nhau, thì Gô-li-át, một
chiến sĩ khổng lồ vô địch trong hàng ngũ Phi-li-tinh đứng ra thách thức với
toàn chiến binh Israel: "Các ngươi hãy chọn lấy người khoẻ nhất ra đây
giao chiến tay đôi với ta, (không cần hai phe phải dốc toàn quân giao chiến làm
gì cho hao binh tổn tướng). Nếu nó hạ được ta thì chúng tao sẽ làm nô lệ chúng
bây. Còn nếu ta hạ được nó, thì chúng bây sẽ làm nô lệ hầu hạ chúng tao"
(I Samuen 17, 9-10)
Sau đó, Đavít đã thay mặt toàn quân Israel
chiến đấu tay đôi với Gô-li-át và đã hạ sát được y ngay từ phút đầu bằng một
phát ná bắn đá rồi giật lấy gươm của y mà chặt đầu y.
Thắng được tên Gô-li-át là chiến thắng toàn
thể quân binh Phi-li-tinh.
Sự kiện nầy minh họa cho vấn đề nầy là: nếu
chúng ta chu toàn giới răn chủ chốt là giới răn yêu thương thì chúng ta đã giữ
tròn các giới răn khác.
Muốn chế ngự rắn độc, phải cố tóm cho được
cái đầu.
Muốn chinh phục toàn quân thì phải chiếm được
bộ chỉ huy.
Muốn giữ tròn lề luật, hãy bắt đầu tuân giữ
giới răn yêu người, vì "yêu thương là chu toàn Lề Luật vậy" (Rm 13,
10).
6. Tại sao Thiên Chúa làm người –
Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Vào thời Chúa Giêsu có 2 phong trào đối địch
cố gắng nắm lấy uy thế lãnh đạo dân Do thái, đó là phái sa-đốc và biệt phái.
Những người sa-đốc đã bị Thày chí thánh khóa miệng, đến lượt những người Biệt
phái tìm cách gây khó cho Ngài; nếu thành công họ sẽ được hai cái lợi: qua mặt
người sa-đốc và tiêu hủy uy tín của Chúa Giêsu. Họ hội họp nhau trong ý định ấy
và thỏa thuận gởi một người trong bọn họ, chuyên gia về Lề luật, đến gặp Chúa
Giêsu để hỏi Người về vấn đề tranh luận bất tận trong giới ký lục và luật sĩ.
Thực vậy họ đã mổ xẻ lề luật và đã chia lề luật làm 613 huấn giới, 365 điều
cấm, 48 chỉ thị. Trước một toàn bộ như thế, một số người Do thái bỏ hết thời
giờ xem xét cách sống của mình để sao cho phù hợp với lề luật, một số thì chịu.
Do đó một số mới tự hào xem mình là công chính và một số khác sinh lo âu thấy
mình là kẻ phạm luật. Cả 2 đều không biết đến sự tự do tinh thần của tình yêu.
Vì thế hiểu được có nhu cầu tổng hợp và đơn giản hóa lề luật. Các người Biệt
phái chất vấn Chúa Giêsu về vấn đề tế nhị này. Ngài tổng hợp ra sao, Ngài đơn
giản theo nguyên tắc nào? Câu trả lời của Chúa Giêsu không muốn mới mẻ và đề ra
cái độc đáo. Chỉ có thể nằm trong đường hướng nguyên thủy của một bản luật do
Thiên Chúa ban truyền. Câu trả lời chỉ nhắc lại. Thái độ vụ luật tỉ mỉ chi li
của người Biệt phái hay khiến họ quên điều chính yếu của lề luật: do Thiên Chúa
ban truyền. Luật thánh nhằm nối kết con người với Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc
lại ngọn nguồn và ý nghĩa của lề luật là gì. Lề luật nhằm tạo tương quan yêu
thương với Thiên Chúa là Tình thương; bởi đó tình yêu đồng đều Thiên Chúa ban
phát cho mỗi người phải liên kết người ta lại với nhau bằng một phản ảnh của
tình yêu ấy. Giới răn thứ nhất là kính mến Thiên Chúa và giới răn thứ hai giống
như vậy yêu mến người lân cận.
1)
Người ta có thể yêu mến Tuyệt đối được không? Có thể yêu mến Đấng xưng mình bằng
danh “Ta có” không? Thờ phượng Ngài thì được, nhưng yêu mến Ngài? Thế nhưng tôn
giáo Israel
và Kinh thánh không ngừng diễn tả một tác động của tâm hồn phải gọi là tình yêu
mến. Như vậy có nghĩa là mạc khải ban cho dân Thiên Chúa, khác hẳn các tôn giáo
khác. Thông thường các dân chọn và tạo lấy cho mình các huyền thoại, các thần
thánh. Trong trường hợp Israel ,
chúng ta thấy chính Thiên Chúa đã chọn lấy một dân, hành động khởi đầu do từ
Thiên Chúa đến và là một hành động yêu mến. Israel được kêu mời yêu mến một
Thiên Chúa không phải trừu tượng xa vời, nhưng là sống động và có mặt điều
khiển lịch sử của dân. Hiểu cho đúng, lề luật đã khơi động tiềm lực của trái
tim. Ta sẽ đặt Luật Ta vào đáy lòng chúng và sẽ viết lên trái tim chúng (Gr
31,33). Phải, người ta có thể yêu mến Tuyệt đối khi Tuyệt đối mang tên Thiên
Chúa Israel .
Do đó Chúa Giêsu quả quyết rằng giới răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa.
2)
Nhưng Thiên Chúa Israel đã có mặt và tích cực hoạt động trong lịch sử một dân
tộc và trong tâm hồn các tín hữu, còn muốn hơn nữa, Con Thiên Chúa khi làm
người ước ao được người ta yêu mến bằng tất cả tiềm năng của trái tim loài
người. Yêu mến Đấng “Hằng có” được mạc khải cho Môi-sê là một giai đoạn đáng kể
của quá trình nhân loại vươn lên tới Thiên Chúa, nhưng chưa phải là trình độ
của Phúc âm. Từ Nhập thể Thiên Chúa đã làm người. Ngài có thể làm đối tượng cho
toàn thể tác động thâm sâu bao gồm trí khôn, ý chí, cảm xúc, tóm gọn trong chữ
“yêu mến” và tác động ấy đặt vào một ai có thể đến gần. Con Thiên Chúa đã đích
thân đặt mình vào chỗ khả năng yêu mến của con người có thể tới. Một sự kiện
đầy ý nghĩa. Chúng ta đều biết tầm quan trọng của tên người mà mình yêu trong
khi yêu. Vậy mà Israel
có lề luật tóm tắt trong việc yêu mến đã đánh mất cách đọc chân thật tên Thiên
Chúa mình. Người ta không biết danh hiệu “Giavê” có phù hợp với cách đọc nguyên
thủy của tên Thiên Chúa hay không. Từ Phúc âm thì không còn như thế nữa. Giáo
hội (nghĩa là những người con ưu tú nhất của Giáo Hội) yêu mến Chúa mình là Đức
Kitô đến nỗi sẽ không bao giờ quên Tên mà chỉ đọc lên đã làm vui thỏa các thánh.
Tên cực trọng Giêsu.
7. Khi hai mặt của đồng tiền bằng
nhau.
(Trích
trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Nếu một cuộc trưng cầu dân ý được hỏi ý kiến
của mọi người xem ai là người đá banh hay nhất trong mọi thời, hoặc ai là diễn
viên giỏi nhất, hoặc ai là nhà soạn nhạc giỏi nhất, thì sẽ có rất nhiều ý kiến.
Vì hôm nay những người đương thời với Chúa Giêsu đặt ra câu hỏi: điều nào trong
lề luật là cao trọng nhất? Điều đó có một câu trả lời đơn giản hiển nhiên cho
bất cứ một ngươi Do thái sốt sắng nào. Dù cho lề luật của người Do thái rất
nhiều những không có gì ngạc nhiên khi Chúa Giêsu trả lời: “Các người hãy yêu
mến Thiên Chúa là Thiên Chúa của các ngươi với hết tâm hồn, hết trái tim, hết
trí khôn ngươi”. Những điều đáng ngạc nhiên là Chúa Giêsu đã nhấn mạnh thêm:
“Các người sẽ yêu mến người láng giềng của các người như chính mình”. Câu hỏi:
“Lề luật nào là cao trọng nhất?” chỉ có một câu trả lời: Chúa Giêsu đã cho hai
câu:
-
Câu
trả lời đầu tiên được trích từ sách Đệ Nhị Luật đoạn 6 câu 2
-
Câu
trả lời thứ hai từ sách Lêvi đoạn 19 câu 18.
Chúa Giêsu không nói một điều gì mới. Sự góp
phần độc nhất của Người là nối kết hai điều luật, trong hai sách tách biệt của
Thánh Kinh và làm chúng nên một. Sự nhấn mạnh của người là không thể có tình
yêu thật, tình yêu Thiên Chúa thật, nếu không có tình yêu người láng giềng,
tình yêu tha nhân, và không có tình yêu tha nhân nếu không có tình yêu Thiên
Chúa.
Hầu hết mọi người có ý ngay lành đều thường
nghĩ dễ dàng hơn hoặc ít đòi hỏi hơn, để yêu mến Thiên Chúa thì dễ hơn yêu mến
con người. Sau hết chúng ta biết rằng Thiên Chúa là hoàn hảo. Nếu như chúng ta
cảm thấy rằng Thiên Chúa không làm đúng bằng chúng ta, thì những lỗi nằm trong
sự thất bại của chúng ta, chúng ta dễ hiễu vì chúng ta không phải là Thiên Chúa.
Không thể nói về sự liên hệ của chúng ta với con người cách tương tự. Ngay cả
những người mà chúng ta yêu mến cũng có thể làm phiền chúng ta lúc chúng ta
đang tìm kiếm một chút bình an và thinh lặng, cản trở chúng ta khi chúng ta
đang nói chuyện, hoặc khi chúng ta đang dò các kênh của TV, để tìm một chương
trình đặc biệt, lời lẽ hùng biện của chính trị có thể khiến chúng ta chống lại
những người mẹ không kết hôn đang phải nhờ vào trợ cấp an ninh xã hội, hay là
những người tự mãn có thể ảnh hưởng chúng ta trong việc coi rẽ, khinh thường,
những người không có việc làm và những người vô gia cư, và ý kiến chung có thể
chuyển chúng ta tới một sự coi thường nền tảng sự sống con người qua việc phá
thai, chết êm dịu, án tử hình.
Nếu tôn giáo của chúng ta nhấn mạnh không gì
hơn là đến nhà thờ cám ơn Chúa vì những đặc ân Ngài ban và để cầu nguyện xin
Ngài trợ giúp, điều đó sẽ hầu như luôn luôn là một sự thích thú và một kinh
nghiệm dễ dàng. Nhưng ngay trong thánh lễ, chúng ta được kêu gọi để diễn tả
tình yêu của chúng ta cho anh em đồng loại thấp kém hơn.
Sau bài giảng chúng ta cất tiếng nài xin cho
những dự định quảng đại được thực hiện. Chúng ta thường cầu nguyện cho những
nhu cầu của Giáo hội, cho nhà cầm quyền, cho sự cứu độ của thế giới, cho những
người bị bất công, bị cướp mất những nhu cầu, cho cộng đoàn địa phương của
chúng ta. Lời cầu nguyện này là một phần hợp pháp trong sự thờ lạy Thiên Chúa
giúp chúng ta làm viên mãn lề luật yêu thương tha nhân, chúng ta trao cho nhau
những dấu chỉ chúc bình an, và điều này thật sự là một lời cầu nguyện khiến
chúng ta có thể hoàn tất sự hợp nhất và bình an với những người khác mà Chúa
Giêsu trong Thánh Thể đã dự định dành cho chúng ta.
Sự cám dỗ là tách biệt tình yêu Thiên Chúa ra
khỏi tình yêu tha nhân. Chúa Giêsu sẽ không nghe những lời nguyện ấy. Lề luật
yêu mến Thiên Chúa và lề luật yêu mến tha nhân tuy đã được giới thiệu trong hai
sách riêng biệt của Thánh Kinh, nhưng chúng không được tách riêng trong trái
tim của chúng ta, trong hành động của chúng ta.
8. Hàng ngàn giới răn?
Một lần nữa những người Pharisêu muốn giăng
bẫy Chúa Giêsu, kiểm tra giáo lý của Ngài, dồn Ngài vào chân tường, dẫn Ngài
vào trong sự rắc rối của hàng ngàn luật lệ. Người ta sắp thấy điều Ngài biết,
sắp thấy Ngài có dạy dỗ tốt điều cần phải dạy dỗ hay không.
Chúa Giêsu thoát ra khỏi cái bẫy với một sự
tự do, một sự trong sáng và một sức mạnh sáng tạo làm cho những người Pharisêu
không nói được một lời nào. Ngài trích dẫn hai câu cổ điển: “Ngươi phải yêu mến
Thiên Chúa... Ngươi phải yêu thương anh em ngươi...”. Đây là câu trả lời đơn
giản của học trò giỏi, nhưng Ngài rút ra từ đó hai điều mới lạ.
Điều thứ nhất, Ngài đưa hai điều
luật tới gần nhau bằng cách cho hai điều luật đó có tầm quan trọng như nhau. Kể
từ giây phút này tình yêu thương anh em được nâng lên gần với tình yêu thương
Thiên Chúa và sẽ không rời ra nữa.
Điều thứ hai, Ngài làm cho viên
ngọc duy nhất nay sáng lên bằng cách để cho nó ngự trị trên toàn bộ những điều
chúng ta nghĩ và làm: tất cả đều tuỳ thuộc vào tình yêu. Việc kể ra nhiều những
điều phải làm hoặc không được làm, làm phát sinh hàng ngàn câu trả lời cho một
câu hỏi: tôi có thể yêu thương như thế nào?
Chúa Giêsu nói tất cả những gì chứa đựng
trong Kinh Thánh, lề luật và các tiên tri, và do đó tất cả những gì Thiên Chúa
chờ đợi nơi chúng ta, phát xuất từ hai điều răn gắn với nhau này. Những người
chẻ sợi tóc làm tư đã hỏi Ngài nay bị buộc quay về điều cốt lõi: “Hãy yêu
thương”.
Chúng ta cũng thế, chúng ta cảm thấy rằng
tuân giữ hoàn toàn hai giới răn lớn này là một cách thức triệt để, nhưng có
tính cách bó buộc đến nỗi chúng ta thích đi quanh co ở giữa hàng ngàn điều qui
định. Đàng khác, những qui định này là cần thiết, “yêu thương” thì quá mơ hồ,
phải hun đúc yêu thương bằng những bó buộc khác nhau. Tôi phải biết rằng tôi
thật sự yêu mến Thiên Chúa và anh em của tôi nếu tôi làm điều này điều kia.
Nhưng thế rồi nổi lên một nguy cơ muôn đời:
làm mất tác dụng sự bó buộc yêu thương bằng việc cứ nhắm mắt tuân thủ bó buộc
đó. Với ít nhiều ý thức chúng ta lý luận theo cách này: nếu tôi làm tất cả
những gì được yêu cầu thì đã yêu thương rồi đó. Không đâu. Điều đó chưa đúng,
bởi vì điểm xuất phát thì xấu. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng tất cả trước
tiên tùy thuộc vào dự kiến triệt để đó là yêu thương. Chúng ta đừng bao giờ bắt
đầu bằng hàng ngàn điều phải làm nhưng là bằng xác tín mà tất cả đều tuỳ thuộc
vào đó: tôi phải yêu thương.
Theo Tin Mừng, bí mật của cuộc sống là: trước
hết phải thực hành yêu thương điều gì đó một cách hoàn toàn vô điều kiện. Thế
rồi ý thức muốn yêu thương này sẽ dần dần hóa thân vào trong tất cả các biến
cố, các cuộc gặp gỡ và các sự tuân phục –nhưng không đắm chìm vào trong đó. Sẽ
là bất hạnh nếu lại rơi vào trong sự âu lo và sự nô lệ hàng ngàn giới răn, sau
khi đã nhận được từ Chúa điều răn ngắn nhất và tự do nhất trong số các điều răn
của cuộc sống: Tôi có yêu thương hay không?
9. Mến Chúa yêu người.
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu đã
cho chúng ta thấy giới răn thứ nhất đó là hãy kính mến Thiên Chúa hết lòng. Còn
giới răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn thứ nhất, đó là hãy yêu thương
anh em như chính mình vậy.
Tuy nhiên đọc lại Phúc âm, chúng ta có cảm
tưởng dường như Chúa Giêsu đặc biệt nhấn mạnh tới giới răn thứ hai. Ngài đã coi
việc yêu người là cách thức để biểu lộ tình mến Chúa. Thực vậy có lần Ngài đã
phán: Mỗi khi lên đền thờ dâng của lễ mà sực nhớ người anh em có điều chi bất
bình với ngươi thì hãy để của lễ đó, trở về làm hoà với người anh em mình trước
đã rồi mới tới mà dâng của lễ sau. Hơn nữa mỗi hành động bác ái yêu thương chúng
ta thực hiện cho người anh em là chúng ta thực hiện cho chính Chúa. Thế nhưng
đặc điểm của lòng yêu người là gì? Tôi xin thưa: đó là tinh thần phục vụ. Phục
vụ một cách nhưng không, một cách vô vị lợi, không cần đền ơn báo đáp, không
mưu cầu danh vọng địa vị hay được bù lỗ cách này cách khác. Chính Chúa Giêsu đã
từng làm gương cho chúng ta: Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng
đến để phục vụ và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người. Tình
yêu Ngài dành cho chúng ta thật cao cả, bởi vì Ngài đã hiến mạng sống Ngài cho
chúng ta. Hơn thế nữa, Ngài còn đòi hỏi các môn đệ, những kẻ bước theo Ngài
cũng phải sống tinh thần phục vụ như thế. Trong bữa Tiệc Ly, sau khi đã quỳ
xuống rửa chân cho các môn đệ, thì Ngài đã nói với các ông: Nếu Thầy đã rửa
chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau.
Từ
những điều vừa trình bày chúng ta đi vào một vấn đề thời sự nóng bỏng trong
giáo xứ, đó là vấn đề bầu ban hành giáo. Khi thi hành chức vụ của ban hành
giáo, thì một trật chúng ta thể hiện tinh thần phục vụ đối với Chúa cũng như
đối với người khác tại cộng đồng giáo xứ. Trong những ngày qua, tôi rất xúc
động vì có những bà mẹ, những bà vợ, biết mình không thể ra ban hành giáo được,
cho nên đã tích cực động viên chồng con của mình. Một bà vợ thì nói: Tôi rất
mừng khi thấy ông ra ứng cử, bởi vì khi đã vào ban hành giáo, ông sẽ đạo đức
hơn và chừa bỏ được những thói hư tật xấu của mình. Một bà mẹ thì bảo: Mẹ cho
con ăn học và mong con sẽ làm được một cái gì lợi ích cho đời. Thế nhưng dưới
một góc độ khác, chúng ta không khỏi lo âu và băn khoăn, vì suốt hơn hai tháng
cổ động mà hiện giờ, khu vực Thánh đường Vô Nhiễm vẫn còn khiếm khuyết một ứng
cử viên. Trong giáo xứ rất nhiều người hội đủ điều kiện, có dư thiện chí và
tinh thần phục vụ, nhưng vì hoàn cảnh, vì lý do này lý do khác, đã không thể ra
được. Chúng ta hoàn toàn thông cảm với những anh em có lý do chính đáng. Thế
nhưng cũng có những người mạnh miệng tuyên bố, nhưng rồi khi đến việc lại chẳng
thấy đâu, cho nên sự thể có những tên gọi vừa khôi hài lại vừa chua chát, chẳng
hạn như: chánh lặn, chánh chuồn, chánh né… Như thế xem ra phục vụ bằng mồm thì
dễ hơn phục vụ bằng hành động, bằng việc làm. Một trong những lý do thường được
đưa ra để chuồn, để lặn, để né đó là bà xã. Thực sự thì hiện nay, gia đình nào
mà chẳng có những khó khăn, đã ra gánh vác việc chung thì thế nào cũng phải
chấp nhận hy sinh một phần công việc nhà. Mà các bà thì vốn tham lam, muốn độc
quyền, không muốn ông xã của mình bị chia sẻ, bị hy sinh, cho nên đã ngáng chân,
đã làm kỳ đà cản mũi, để ông xã đừng ra. Bởi vì nếu ông xã mà ra, sợ ông ấy quá
siêng năng việc chung mà bê trễ việc riêng, nhất là những khi mùa màng dồn dập,
cho nên khi có người đến vận động thì tay chân dãy lên đành đạch và miệng thì
chối bai bải. Hành động như thế, chứng tỏ chúng ta thiếu tinh thần phục vụ,
thiếu trách nhiệm chung, cũng như thiếu tin tưởng vào Chúa, bởi vì Chúa sẽ
không bao giờ bỏ rơi những kẻ phục vụ Ngài. Bằng chứng cụ thể là rất nhiều vị
chánh, vị phó, vị trùm, vị quản trong những năm phục vụ giáo xứ, kinh tế gia
đình vẫn không bị suy giảm, mà hơn nữa lại còn tậu đất, sắm tivi cassette, mua
máy bơm, máy suốt cũng như máy cày, như vậy cũng vẫn ăn nên làm ra, cả về tiền
bạc cũng như về con cháu.
Để kết luận tôi xin mượn lời kinh hoà bình
của thánh Phanxicô Assie: Lạy Chúa từ nhân, xin cho con biết mến yêu và phụng
sự Chúa trong mọi người.
10. Yêu thương.
Ngày
xưa có một hoàng tử trẻ sống trong lâu đài tráng lệ. Vào một đêm mùa đông, một
bà lão ăn xin lỡ đường, muốn trọ qua đêm, đã bị hoàng tử từ chối. Chẳng may, bà
lão lại là một bà phù thủy. Để phạt tội hoàng tử không có lòng thương người, bà
đã biến chàng thành một con mãnh thú, hình tượng xấu xí và hung dữ. Trước khi
ra đi, bà cho con mãnh thú một lời hứa sẽ biến trở lại thành hoàng tử nếu có ai
thực sự yêu thương mãnh thú.
Trong
ngôi làng gần chỗ con mãnh thú ở, có một thiếu nữ xinh đẹp tên là Belle. Cô mồ
côi mẹ, sống với cha già. Cha già con mọn bị đám thợ săn thường xuyên quấy phá.
Một ngày nọ, cha cô vào rừng săn thú, đi lạc vào lâu đài, bị mãnh thú bắt giữ.
Nhờ con ngựa khôn ngoan đã dẫn cô tìm được cha. Vì thương cha, cô chấp nhận đổi
mạng, ở lại sống với con mãnh thú để người cha được tự do ra về.
Về đến
nhà, người cha đã kết hợp với bọn thợ săn tìm cách giết con mãnh thú để cứu con
gái. Trong khi đó cô gái bắt đầu quen thân, trò chuyện và đem lòng yêu mến mãnh
thú, tuy rất đau khổ phải xa cách người cha. Còn mãnh thú vì yêu thương cô gái,
không nỡ để cô sống trong đau khổ, nên đã đồng ý thả cô về nhà với cha. Chiến
trận ác liệt đã xảy ra giữa bọn thợ săn và con mãnh thú. Đang khi giao chiến
với bọn thợ săn, mãnh thú bị thương nặng. Sau khi về thăm cha già, cô gái
thương nhớ con mãnh thú và quyết định trở lại tiếp cứu. Cô đến đúng khi mãnh
thú bị thương, đang quằn quại trong đau đớn. Cô năn nỉ: “Không! Xin đừng chết!
Mãnh thú ơi ta yêu mi!” Rồi cô ôm hôn lên mặt mãnh thú. Nhờ nụ hôn yêu thương
đó, mãnh thú biến trở lại thành một hoàng tử khôi ngô tuấn tú như trước. Đó là
câu chuyện tình đẹp đẽ được tóm lược trong cuốn phim hoạt hình “The Beauty and
the Beast”, “Mãnh Thú và Giai Nhân”.
Câu chuyện trên nói lên sức mạnh cứu độ của
tình yêu. Tình yêu có khả năng giải thoát và biến đổi con người. Thật vậy! Hầu
hết những vấn đề rắc rối và thảm kịch xẩy ra trên thế giới đều do thiếu tình
thương. Rất nhiều phạm nhân đã gây nên tội ác chỉ vì không thể ban tặng hay đón
nhận tình yêu thương.
Điều mỗi con người đều khao khát, ước ao và
cần đến là tình yêu. Thánh Kinh dạy rằng: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Tình yêu là
bản chất của Thiên Chúa. Và bởi con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên
Chúa, nên cũng luôn khát khao và tìm kiếm tình yêu. Dựa trên nhu cầu căn bản
này của con người, trong bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy cho những người
Biệt phái biết điều răn duy nhất của đức ái, sự viên mãn của lề luật: “Yêu mến
Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn…” Điều răn thứ
hai là: “Yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi”.
Câu
chuyện được kể về một đôi vợ chồng tới gặp cha sở và nói: “Thưa cha, chúng con
sắp ly dị, nhưng chúng con muốn xin cha cho chúng con biết ý kiến?” Cha sở suy
nghĩ giây lát rồi quay sang hỏi người chồng: “Thánh Kinh dạy rằng con phải yêu
thương vợ con như Chúa Giêsu Kitô đã yêu thương Hội Thánh. Con có thể thực hành
được điều đó không?” Người chồng thưa: “Thưa không. Con không nghĩ con giữ được
điều đó”. Cha sở nói: “Vậy thì con hãy bắt đầu ở mức độ thấp hơn vậy. Thánh
Kinh dạy rằng con phải yêu thương người lân cận như yêu chính mình. Con có thể
yêu thương vợ con một cách tối thiểu như vậy được không?” Người chồng nói,
“Thưa cha không. Điều này cũng còn quá cao!” Một cách tuyệt vọng, sau cùng cha
sở đành nói: “Thánh Kinh cũng dạy rằng, con hãy yêu thương kẻ thù của con, thôi
con hãy về nhà và bắt đầu từ đó đi!”
Nhóm Biệt phái, đa số gồm các luật sĩ, chủ
trương phải tuân giữ các luật lệ của Cựu Ước và cộng thêm khoảng 613 luật lệ do
truyền thống của các thầy Rabbi. Còn nhóm Sađđucêô chỉ tin vào các luật lệ và
các tiên tri mà thôi, không tin vào truyền thống của các thầy Rabbi. Câu hỏi được
đặt ra cho Chúa Giêsu: “Trong luật lệ, giới răn nào quan trọng nhất?” đã được
tranh cãi giữa những người Biệt phái và Sađđucêô. Âm mưu của nhóm người Biệt
phái nhằm gài bẫy Chúa Giêsu vào những trường hợp xung khắc khó giải quyết giữa
các phe nhóm tôn giáo và chính trị để tiêu diệt Ngài. Tâm hồn họ mang nặng thù
hận và ích kỷ đang khi bề ngoài giả vờ bàn hỏi về những giới luật yêu thương!
Chàng
ca sĩ nhạc pop, Cliff Richard sau một chuyến viếng thăm trại tị nạn Bihari ở Bangladesh trở
về nhà đã kể lại một biến cố cảm động như sau: “Buổi sáng đầu tiên ở trại tị
nạn, tôi phải rửa tay hàng chục lần. Tôi đã không dám đụng vào bất cứ cái gì,
nhất là dân chúng. Mọi người ở trong những trại tị nạn đó đều bị ghẻ lở. Toàn
thân đầy mụn nhọt. Tôi đang cúi xuống với một em bé gái, mục đích chính chỉ là
chụp vài tấm hình để phô trương với bè bạn. Tôi đã cố gắng hết sức đừng cúi
xuống quá gần kẻo đụng chạm vào người em. Ngay lúc ấy, một người nào đó tình cờ
đạp lên những ngón chân của em. Bé gái hét lên, và như một phản xạ, tôi nắm lấy
em, quên đi sự bẩn thỉu dơ dáy và đầy mụn nhọn trên người em. Tôi nhớ mãi một
thân hình nhỏ bé và ấm áp bám chặt vào tôi, ngay lập tức tiếng khóc ngưng bặt.
Từ đấy, tôi biết rằng tôi còn phải học hỏi rất nhiều điều thực tế về tình yêu
Kitô giáo, nhưng tối thiểu gì tôi cũng đã bắt đầu.
Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã đưa ra nhận
xét rằng việc yêu thương một người khác là điều thử thách lớn nhất trong mọi
sinh hoạt của con người, vì nó đòi hỏi phải hy sinh và từ bỏ bản thân mình.
Chính vì những đòi hỏi này nên có nhiều người đã chưa bao giờ yêu người khác
một cách thực sự. Hoặc có thể đã yêu, nhưng sau đó gặp đau khổ, họ đã tháo lui.
Để thực sự yêu thương một người khác ở mức độ sâu xa, cần phải có sức mạnh để
tiến tới việc chia sẻ chính cuộc sống của mình. Đó chính là tình yêu hướng về
Thiên Chúa và tha nhân được Chúa Giêsu đề cập đến.
11. Yêu thương.
Vào
ngày kỷ niệm 25 năm thành hôn, Abigail Van Buren, đã xin đăng trên báo trong
mục “Dear Abby” lá thư sau đây gửi cho chồng của bà: “Ngày 2 tháng 7 năm 1964.
Anh Mort yêu quý, hôm nay là ngày rất đặc biệt đối với em. Đó là ngày kỷ niệm
25 năm thành hôn của em, và em có lời này để ngỏ cùng anh: em đã có một người
mẹ và một người cha thực sự yêu thương nhau, do đó em biết được tình yêu là gì.
Em đã làm việc rất chăm chỉ để nhìn thấy hai người con đang tuổi thanh xuân
vượt qua thời niên thiếu đầy gian khổ một cách an toàn, do đó em biết được sự
hài lòng là gì. Em đã cầu nguyện, và những lời cầu nguyện của em đã được lắng
nghe, do đó em biết được đức tin là gì. Em đã có anh ở bên cạnh em, một con
người tử tế nhất, dịu dàng nhất, đáng kể nhất trên đời, do đó em biết được niềm
vui là gì. Em yêu anh”.
Tình yêu hướng về Thiên Chúa và tha nhân mang
lại niềm vui. Một niềm vui không giống như khoái lạc, hay hạnh phúc. Một con
người hư hỏng có thể tìm được khoái lạc trong những thoả mãn nhục dục. Hoặc một
con người tầm thường cũng có những giây phút cảm thấy hạnh phúc trong đời.
Nhưng niềm vui chân thật theo ý nghĩa của Thánh Kinh nói đến, chỉ phát xuất từ tình
yêu biết hy sinh và quên mình vì Thiên Chúa và tha nhân.
Niềm vui đó cho phép chúng ta nhìn thế giới
từ một viễn tượng đã được thăng hoa và phong phú dưới ánh sáng của Tin Mừng. Đó
chính là biết “mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người” và trở nên một “khí cụ
bình an của Chúa”. Đó chính là tìm an ủi, tìm hiểu biết, tìm yêu mến, hiến thân
và quên mình như lời Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Assisi đã diễn tả.
Truyện
cổ Đông Phương kể lại rằng ngày xưa có bốn chàng thanh niên thực hiện một cuộc
du hành băng qua khu rừng. Thình lình, họ gặp một bức tường rất cao chận đứng
trước mặt. Lập kế, họ bắc một cái thang dài để leo lên xem cái gì ở phía bên
kia. Người thứ nhất leo lên tới đỉnh, nhìn xuống dưới và la lên trong khoái lạc
cực độ. Ngay lập tức anh phóng mình xuống. Anh thứ hai cũng làm tương tự như
vậy. Rồi anh thứ ba cũng thế. Sau cùng, anh thứ tư leo lên, chiêm ngắm một
khung cảnh đầy hứng thú: cây cối xanh tươi, hoa trái muôn nghìn. Chưa bao giờ
anh nhìn thấy cảnh tượng đẹp đẽ như vậy. Và, giống như những người khác, anh
cũng bị cám dỗ nhẩy xuống đó. Nhưng anh kịp ngưng lại để suy nghĩ đôi chút,
nghĩ đến gia đình, vợ con và bạn bè của mình. Sau đó anh đã vội vã leo xuống
chân thang và bắt đầu đi rao giảng tin mừng về một khu vườn đẹp tuyệt trần cho
những người khác biết.
Từng
người một, ba chàng thanh niên đầu tiên đã nhìn thấy một vùng đất mới với những
hứa hẹn tuyệt vời. Họ đã quyết định chiếm đoạt lấy cho riêng mình nên đã tự huỷ
diệt. Chàng thanh niên thứ tư kịp suy nghĩ và muốn chia sẻ nó với những người
khác, nên tồn tại. Cách chắc chắn nhất để làm phong phú cái nhìn nội tâm của
chúng ta về tình yêu Thiên Chúa là chia sẻ tình yêu đó với những người khác.
Tôi rất thích bản dịch câu Kinh Thánh trích
từ lá thư thứ nhất của thánh Gioan, đoạn 4, câu 7b, của học giả Thánh Kinh Công
giáo, Edgar Bruns: “Phàm ai yêu thương, thì sinh ra Thiên Chúa”. Câu này được
dịch đúng chữ như sau: “Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra”.
Điều thực sự rằng tình yêu Kitô giáo luôn ở trong một tiến trình để Thiên Chúa
được sinh ra, được chia sẻ với hết mọi người và lan rộng ra khắp nơi trên thế
giới.
Thời Giáo Hội sơ khai, những người không phải
Kitô hữu đã để tâm lưu ý đến những người Kitô hữu bằng cách: “Hãy nhìn xem họ
yêu thương nhau là dường nào!” Theo một truyền thống của Thánh Gioan để lại,
lúc đó ngài đã già yếu và bước đi rất khó khăn đến nhà thờ vào mỗi ngày Chúa
nhật. Gioan phải nhờ những người bạn dìu đi. Khi Thánh lễ kết thúc, họ phải
giúp cho Gioan đứng lên ban phép lành cho cộng đoàn và nói: “Các con thân mến,
các con hãy yêu thương nhau”.
Một
ngày nọ, một tín hữu đưa ý kiến rằng vị môn đệ già yếu đó lúc nào cũng nói y
như vậy, giống như một cha sở cứ lập đi lập lại mãi một bài giảng. Nhưng vị
trưởng lão Gioan đã trả lời rằng: “Không còn gì hơn để nói nữa. Đây là lời nói
sau cùng. Nếu chúng ta yêu thương nhau, đó là tất cả mọi sự. Cuối cùng, người
ta sẽ thực sự biết rằng chúng ta là những người Kitô hữu bằng tình yêu thương
của chúng ta”.
“Lạy Chúa Giêsu, xin cho con toả hương thơm
của Chúa đến mọi nơi con đi. Xin Chúa tràn ngập tâm hồn con bằng thần khí và
sức sống của Chúa. Xin Chúa xâm chiếm toàn thân con để con chiếu toả sức sống
của Chúa. Xin Chúa chiếu sáng qua con, để những người con tiếp xúc cảm nhận
được Chúa đang sống và hiện diện trong con. Xin cho con biết rao giảng về Chúa,
không bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, bằng trái tim tràn đầy
tình yêu của Chúa” (Lời cầu nguyện của Mẹ Têrêsa Calcutta).
12. Yêu thương
Có một
bản tin “Phở nóng chiều mưa” của tác giả Bút Bi. Câu chuyện sư sau: “Tiệm phở A
đường Kỳ Đồng” chiều hôm kia mưa như trút nước. Một ông già khoảng 70 tuổi, tay
lần dò chiếc gậy, tay xách chiếc gà men cũ kỹ lập cập bước vào quán, mua phở
mang về. Lúc ông đang lóng ngóng lấy tiền – gói trong hai ba lớp bịch ni lông –
ra để trả, một trong hai thanh niên đang ngồi ăn phở ở chiếc bàn ngoài cùng bảo
là đã trả tiền phở cho ông rồi. Ông già lãng tai ngớ ra không hiểu, người thanh
niên vừa nói câu trên chỉ người bạn đang cắm cúi ăn: “Thằng này trả chứ không
phải cháu đâu”. Rồi anh nói thêm có lẽ để câu chuyện được tự nhiên hơn: “Nó hỏi
bác có con gái không?” Ông già dường như vẫn còn chưa hết ngạc nhiên thật thà
nói có. Người thanh niên kia bật cười, bảo nói chơi đó bác ơi. Bút Bi tình cờ
có mặt ở đó cũng bật cười. Mấy cô phục vụ trong quán cũng cười ầm lên. Ông già
hiểu ra, hoạt bát hẳn lên, nói vài câu vui vẻ rồi chống gậy đi về.
Tò mò,
Bút Bi nhìn hai người thanh niên. Họ ăn mặc giản dị, mang dép, đi chiếc Cub đời
cũ, trông có lẽ là những người lao động lam lũ, và cử chỉ của họ thật dễ
thương. Người già thường có cảm giác bị bỏ rơi, thèm sự hỏi han, chăm sóc. (Ông
già phải tự chống gậy đi mua phở dù có con cái?). Chắc tối hôm ấy ông sẽ thấy
vui lắm, chẳng những vậy có khi nó còn trở thành một kỷ niệm của ông, để ông đi
kể lại với bà con, chòm xóm. Còn Bút Bi cũng thấy vui quá, bèn quyết định ăn
luôn… hai tô phở!
Nghe xong câu chuyện “Phở nóng chiều mưa”
trên đây, chúng ta cảm thấy ấp áp lên tình con người. Một sự quan tâm tế nhị,
một lời thăm hỏi chân thành, một nghĩa cử yêu thương thầm kín, đã làm cho mối
quan hệ giữa người với người thân gần gũi hơn, thông cảm nhau hơn, và quí mến
nhau hơn.
Điều cốt lõi của Kitô giáo chính là yêu
thương.
Giới răn lớn nhất của đạo cũng chỉ là Mến Chúa, yêu người. Đó là sứ điệp mà Tin
Mừng hôm nay muốn loan báo. Đức Giêsu trả lời cho người thông luật: “Ngươi phải
yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn
ngươi… Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là ngươi phải yêu người
thân cận như chính mình”.
Người Kitô hữu, luôn mang trên mình cây thập
giá. Cây thập giá ấy có một ý nghĩa rất cao đẹp: Thanh dọc của cây thập giá
muốn nói rằng, người tín hữu phải vươn lên cao tới Thiên Chúa, để yêu mến Người
với tất cả trái tim, với trọn vẹn con người. Thanh ngang của cây thập giá muốn
nói với người tín hữu, phải vươn đến với tất cả mọi người, để yêu thương họ như
chính mình, không loại trừ một ai, kể cả kẻ thù. Nếu có thanh dọc mà không có
thanh ngang, thì đâu phải là cây thập giá. Nếu có mến Chúa mà không có yêu
người, thì chưa phải là Kitô hữu. Cũng như đồng tiền luôn có hai mặt, thì người
Kitô hữu luôn phải sống trọn vẹn hai giới răn mến Chúa và yêu người mới đích
danh là Kitô hữu.
Có nhiều người nghĩ rằng Mến Chúa thì dễ quá.
Tôi vẫn đọc kinh sáng tối, đi lễ cầu nguyện hàng ngày, năng tham dự các bí
tích. Và họ bằng lòng với mức độ ấy. Thực ra, Chúa đâu chỉ đòi hỏi có thế! Hãy
nghe lại điều răn lớn nhất này: “Phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi,
hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi”. Trong điều răn có ba chữ hết,
chúng ta đã yêu được mấy chữ hết đó. Thường chúng ta chỉ yêu Chúa nửa vời, yêu
tùy hứng, yêu đại khái, yêu theo vụ mùa.
· Chúng ta chỉ yêu mến
Chúa hết lòng khi chúng ta dám hy sinh thì giờ, công việc, lợi nhuận, để đi
tham dự thánh lễ, các giờ cầu nguyện, các buổi tĩnh tâm, hầu nâng cao đời sống
thiêng liêng.
· Chúng ta chỉ yêu mến
Chúa hết linh hồn khi chúng ta dám từ bỏ danh vọng, lợi lộc, chức quyền để
trung thành với Chúa và các giới răn của Người.
· Chúng ta chỉ yêu mến
Chúa hết trí khôn khi chúng ta dám làm nhân chứng cho Người trước lương tâm,
trước kẻ bách hại, cho dù phải đe dọa đến cuộc sống và tính mạng.
Mến Chúa đã khó, yêu người lại càng khó hơn.
Vì người ta đâu phải ai cũng dễ mến, dễ thương. Với cái nhìn không thân thiện
của chúng ta sẽ có rất nhiều người dễ ghét và đáng ghét. Yêu người như Chúa dạy
là yêu như chính mình. Có ai lại ghét mình bao giờ. Trái lại, người ta thường
yêu mình quá độ.
· Chúng ta chỉ có thể
yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta tránh hết sức không làm tổn
thương đến nhân phẩm và quyền lợi của người khác.
· Chúng ta chỉ có thể
yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết kính trọng người già yếu,
an ủi người khổ đau, giúp đỡ những ai nghèo đói, bênh vực những kẻ cô thế, cô
thân.
· Chúng ta chỉ có thể
yêu người thân cận như chính mình khi chúng ta biết quảng đại trao ban và xả
thân phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp.
Mauriac viết: “Ngày nào bạn không còn thắp
sáng tình yêu, ngày đó nhiều người sẽ chết vì giá lạnh”.
13. Luật trọng đại nhất
Hôm nay Chúa Nhật 30 Thường Niên, Chúa Giêsu
và Mẹ Giáo Hội muốn nhắn gửi chúng ta một giới luật quan trọng nhất của người
tín hữu Kitô, đó là giới răn "Mến Chúa và Yêu Người". Đây là một giới
răn được gồm tóm tất cả các giới răn trong đạo. Vì thế, khi đến trần gian, Chúa
Giêsu không chỉ đến để giải thoát con người khỏi mọi tội lỗi mà thôi, nhưng
Ngài muốn giải thoát con người một cách toàn diện, tức là khỏi mọi áp bức bất
công, khỏi mọi độc tài kìm kẹp, cốt để đem lại cho con người được tự do, hầu
sống đúng với phẩm giá của mình là người Kitô hữu. Vào thời Chúa Giêsu, trong
xã hội Do Thái bấy giờ, con người lúc nào cũng bị trói buộc bởi những lề luật.
Bởi thế, người ta đếm được 248 điều dạy phải làm và 365 điều buộc phải tránh.
‘Nhất cử nhất động’ con người đều nằm trong mạng lưới chằng chịt của lề luật.
Đó là điều làm cho con người lúc nào cũng mang tâm trạng lo âu, sợ sệt. Không
biết tôi làm điều kia việc nọ có đúng luật không? Và nếu tôi sai luật thì tôi
không phải là người công chính.
Thật vậy, nếu con người chỉ căn cứ vào những
luật lệ bó buộc như vậy thì đó là một sai lầm, vì lấy lề luật làm nền tảng cho
đời sống luân lý để đo mức độ công chính của đời sống con người. Bởi vậy, chúng
ta không lạ gì thế giới có học của thời đại Do Thái bấy giờ, như các luật sĩ và
biệt phái nhờ học biết luật và giữ luật nên họ cho là công chính, là thánh
thiện, là hoàn hảo hơn người, đến độ trở nên kiêu căng, hách dịch với đại đa số
dân chúng là những người không am tường lề luật để tuân giữ.
Nhưng Chúa Giêsu đến, Ngài đã đặt lại nền
tảng sự công chính, đem đến sự sống đời đời trên tình yêu thương. Ngài đã phản
đối những lề luật chẻ cọng tóc ra làm tư đó. Lề luật đặt ra để giúp cho con
người, chứ không phải con người sinh ra để giữ lề luật. Vì thế, Chúa Giêsu đã
đưa ra một giới luật yêu thương hết sức quan trọng: "Ngươi hãy yêu mến
Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi". Đó
là điều răn thứ nhất, và điều răn thứ hai cũng giống như điều răn thứ nhất là "ngươi
hãy yêu thương anh em như chính mình ngươi". Thật ra, Chúa Giêsu không dạy
làm điều chi mới lạ, vì hai điều răn đó đã có trong Cựu ước, trong sách Đệ Nhị
Luật và Lêvi. Ngài chỉ lấy hai điều đó nhập lại làm một và đặt nó làm nền tảng
cho đời sống con người chúng ta.
Chúa Giêsu đã dạy cho con người biết Thiên
Chúa là người Cha nhân từ. Trong lịch sử nhân loại, đây là lần đầu tiên qua lời
dạy của Chúa Giêsu, con người gọi Thiên Chúa là Cha: "Lạy Cha chúng con ở
trên trời". Một người con ngoan biết thương cha mến mẹ, khi làm một việc
gì không cần phải coi cha mẹ tôi có cấm cái này không? Có cho phép cái kia
không?
Nếu có cấm thì cố tìm xem trong các lời cấm
đó có câu nào, tiếng nào để có thể tìm ra một kẽ hở để lánh qua không? Nhưng
một người con ngoan bao giờ cũng tự hỏi: "Tôi làm cái này, cha mẹ tôi có
vui không? Và tôi chỉ thích làm cho cha mẹ tôi hài lòng mà thôi ".
Thánh Augustinô sau khi hiểu rõ lời dạy của
Chúa Giêsu, ngài đã đưa ra một định luật táo bạo: "Hãy yêu đi rồi làm gì
thì làm". Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thì chúng ta đâu dám cả lòng cố
tình làm mất lòng Thiên Chúa được. Khi chúng ta yêu mến anh chị em mình thật
lòng, thì làm sao chúng ta dám nói xấu người khác được, làm sao chúng ta thấy
người hoạn nạn mà mình vui được, làm sao chúng ta cố tình làm hại người khác
được.
Để dễ thấy tầm quan trọng của hai điều răn
"Mến Chúa và Yêu Người" trong đời sống, chúng ta hãy hình dung đó là
hai chiều kích trong cuộc sống của người Kitô hữu chúng ta: Chiều dọc nối liên
hệ với Thiên Chúa và chiều ngang nối liên hệ với tha nhân. Hai chiều kích đó
hợp lại thành cây Thánh giá, đó là dấu hiệu của người Công giáo chúng ta. Hằng
ngày chúng ta thấy hình ảnh của cây Thánh giá khắp nơi, trong nhà thờ, nơi nhà
ở và chúng ta còn có những người luôn mang Thánh giá trong mình, bởi thế không
ai có thể hình dung cây Thánh giá mà chỉ có một chiều hoặc dọc hoặc ngang mà
thôi.
Tôi còn nhớ trong những năm chiến tranh ở
Việt Nam ,
một đêm nọ họ đạo tôi bị pháo kích, sáng ra tôi đi thăm hỏi và an ủi kẻ đau khổ
và thăm những người lớn tuổi để củng cố tinh thần của họ trong cảnh lo âu sợ
hãi. Tôi ghé thăm một bà đạo đức nọ, bà đi lễ hằng ngày không bỏ sót một ngày
nào hết; Chúa Nhật có hai lễ bà cũng đi dự cả hai Thánh lễ luôn. Nhưng khi tôi
ghé vào thăm bà, bà nói với tôi rằng: "Thưa cha, thật Chúa thương con vô
cùng, vì đêm rồi khi họ pháo kích vào làng, con cầu xin Chúa hết lòng hết sức
và Chúa đã nhận lời con rõ ràng cha ơi. Bằng chứng là bao nhiêu bom đạn, pháo
kích đều rơi ở xóm trên hết". Bấy giờ tôi nghĩ thầm trong lòng: "Chúa
mà nhận lời bà kiểu đó, thì chết mẹ người ta hết rồi".
Vậy khi chúng ta chỉ mến Chúa mà quên yêu
người thì cũng lố bịch và buồn cười như câu chuyện của bà già trên vậy thôi.
Tình yêu đối với tha nhân phải là sự biểu lộ ra bên ngoài của tình yêu đối với
Thiên Chúa. Tình yêu đối với Thiên Chúa hoàn thiện hoá đối với tha nhân, không
thể tách rời hai tình yêu đó ra khỏi đời sống đạo của mình được.
Khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa thật sự, tự
nhiên chúng ta cảm thấy yêu mến tất cả anh em đồng loại của mình, và khi chúng
ta yêu mến anh em đồng loại của mình đến nơi, đến chốn với tất cả lòng bác ái
vị tha, tự nhiên tâm hồn chúng ta hướng về Thiên Chúa. Chúng ta nên nhớ kỹ hai
điều này: "Ai bảo mình mến Chúa mà không yêu thương anh em thì là kẻ nói
dối. Còn ai bảo mình yêu người mà không mến Chúa thì là sai lầm".
Xin Chúa cho tất cả chúng ta được mến Chúa
hết tâm hồn, biết yêu thương anh em mình như chính mình vậy, để cho danh Chúa
được cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
14. Hai điều răn
Suy
Niệm
Chúng ta thường ngại xét mình trước khi xưng
tội.
Nếu xét mình sơ sài dựa trên Mười Điều Răn,
có khi ta thấy mình chẳng có tội gì nghiêm trọng: không trộm cắp, không tham
lam, không giết người...
Thật ra xét mình không phải là làm bản tự kiểm
trước một danh sách những luật cấm và luật buộc, cho bằng là đặt mình trước
Thiên Chúa và tha nhân.
Tôi phải thành thật tự hỏi: Tôi có thực sự
yêu mến Thiên Chúa không? Tôi có thực sự yêu mến anh chị em tôi không?
Tất cả điều răn được tóm trong một động từ:
yêu.
Tình yêu là cốt lõi của đời sống Kitô hữu, vì
Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8). Yêu là bước vào một đại dương mênh mông, là
dấn thân trên một con đường dài hun hút. Chúng ta chẳng bao giờ thấy mình yêu
đủ. Tình yêu cứ vẫy gọi ở phía trước, và mở ra những cánh cửa không ngờ. Giới
hạn tình yêu là bóp chết tình yêu.
Chẳng có động từ nào bị hiểu sai cho bằng
động từ yêu.
Báo chí phim ảnh làm cho ta nghĩ rằng yêu chỉ
là chuyện quan hệ giữa hai cô cậu. Hành vi chiếm đoạt theo bản năng lại được
gọi là yêu.
Chúng ta cần trả lại ý nghĩa cao đẹp cho động
từ này.
Yêu mến Thiên Chúa là điều răn số một.
Không phải chỉ dành cho Ngài phần lớn trái
tim, Ngài đòi tất cả trái tim của tôi, tất cả con người của tôi. Hết lòng, hết
linh hồn, hết trí khôn.
Ai trong chúng ta dám tự hào mình đã sống
trọn vẹn điều răn thứ nhất? Càng lúc tôi càng thấy Chúa bị mất chỗ trong tim
tôi. Tôi không có giờ cầu nguyện và tĩnh tâm. Chúa Nhật là ngày tranh thủ làm
thêm. Mối lo toan quá mức về cuộc sống vật chất làm đời sống thiêng liêng bị sa
sút.
Điều răn thứ hai cũng quan trọng không kém:
yêu người thân cận như chính mình. Chúng ta yêu bản thân mình biết chừng nào!
Chúng ta chỉ muốn điều tốt cho mình đến nỗi lắm khi làm điều xấu cho người
khác. Cần coi tha nhân như một cái tôi khác của mình. Họ cũng cần được tôn
trọng, cảm thông và yêu mến. Có biết bao thiệt hại tôi đã gây cho anh em tôi.
Thái độ sống của tôi đã làm khổ bao người khác.
Hai điều răn trên không thể tách rời nhau.
Yêu Thiên Chúa chắc chắn dẫn đến yêu tha
nhân. Tình yêu tha nhân cần đặt nền trên Thiên Chúa.
Người Kitô đi từ nhà thờ ra chợ rồi lại từ
chợ vào nhà thờ. Ngoài chợ, họ gặp Chúa nơi anh em. Trong nhà thờ, họ gặp anh
em nơi Chúa.
Gợi Ý
Chia Sẻ
· Hai từ "Tình
Yêu" đã bị lạm dụng. Theo ý bạn, một tình yêu thực sự phải có những nét
gì?
· Trong kinh nghiệm
sống đức tin của bạn, có khi nào bạn thấy mình bị giằng co giữa tình yêu đối
với Chúa và tình yêu đối với tha nhân không? Bạn đã giải quyết ra sao?
Cầu
Nguyện
Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn cầm tay
nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải
buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô
cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải nối
vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa. vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một vòng tròn
với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng con lên
cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập giá giúp
chúng con biết nắm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
15. Điều răn trọng nhất - JKN
Câu hỏi
gợi ý:
1. Theo tinh thần của Đức Giêsu, thì trong
hai điều răn quan trọng nhất ấy, điều răn nào quan trọng hơn? Phải ưu tiên sống
điều răn nào?
2. Tại sao thánh Phaolô tóm toàn bộ lề luật
vào một điều răn duy nhất: “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật” (Rm 13,8)?
Ngài bỏ điều răn yêu Chúa sao?
3. Nếu bạn là một người cha đông con, đồng
thời là người cha tốt lành không chút vị kỷ, bạn muốn con cái yêu thương mình
bằng cách nào?
Chia sẻ
1. Hai điều răn trọng nhất của Do Thái giáo
và Ki-tô giáo
Người khôn ngoan thì trong mọi lãnh vực luôn
luôn phân biệt điều chính và điều phụ, điều cốt lõi và điều “bì phu”, điều cần
thiết và điều ích lợi, điều quan trọng và điều không quan trọng. Phân biệt như
thế không phải để chỉ làm điều chính và bỏ điều phụ, mà để khi không thể làm
được cả hai, thì phải ưu tiên cho điều chính. Vì điều chính là yếu tố quyết
định thành công, không thực hiện nó thì chắc chắn sẽ thất bại. Còn điều phụ,
nếu làm được thì rất tốt, rất ích lợi, có thể làm cho sự thành công rực rỡ hơn,
nhưng không làm được thì cũng vẫn có thể thành công.
Trong việc giữ đạo và nên thánh, chúng ta
cũng cần biết điều nào là cốt tủy, là quan trọng nhất; nếu không giữ điều này
thì coi như chưa phải là giữ đạo, và không thể nên thánh, cho dù có giữ những
điều phụ thuộc một cách thật hoàn hảo. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết,
giữa biết bao giới răn, thì giới răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.
Đó là cốt tủy của lề luật: “Tất cả Luật Môsê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc
vào hai điều răn ấy”. Nếu giữ đạo mà không phân biệt điều nào chính điều nào
phụ, thì chúng ta dễ giữ đạo theo “kiểu Pha-ri-siêu” đã bị Đức Giêsu tố cáo:
“Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều
quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành” (Mt
23,23); “Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà” (23,24). Hướng dẫn
người khác giữ đạo và nên thánh mà không phân biệt chính phụ, thì dễ trở thành
“những kẻ dẫn đường mù quáng” (23,16). Do đó, bài Tin Mừng hôm nay có tầm quan
trọng đặc biệt cho mọi Ki-tô hữu muốn giữ đạo và nên thánh.
2. Hai điều răn tóm lại thành một điều răn:
“yêu thương”
Cũng trong chiều hướng tìm cái chính yếu, ta
có thể tiếp tục đặt vấn đề: trong hai điều răn ấy, điều răn nào quan trọng,
chính yếu hơn?
Phải nói đây là hai giới răn rất đặc biệt, có
vẻ là hai giới răn khác nhau, nhưng thật ra chỉ là hai cách diễn tả khác nhau
của một giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ có một động từ duy nhất là
“yêu”, đối tượng của động từ “yêu” này có vẻ là hai đối tượng khác biệt nhau:
tuy có thể phân biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực tế và thực hành thì
dường như không thể phân biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều răn ấy
“tuy hai mà một”, tương tự như hai trang của cùng một tờ giấy: tuy là hai mặt
khác nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất.
Thật vậy, rất nhiều lời trong Thánh Kinh cố
tình đồng hóa Thiên Chúa với tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ thể nhất là trong đoạn
nói về cuộc phán xét cuối cùng (x. Mt 25,31-46), Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài
với tha nhân, đặc biệt những người đau khổ, nhỏ bé, bị khinh thường, áp bức:
“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh
em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”, và “mỗi lần các
ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi
đã không làm cho chính Ta”.
Tại sao thế? Vì con người là “hình ảnh của
Thiên Chúa” (St 1,26-27; 9,6). Có ai yêu một người mà lại không yêu bức ảnh của
người ấy không? Ta thấy những cặp tình nhân, khi không có mặt nhau, thường hôn
lên ảnh của nhau. Hơn thế nữa, con người là con cái của Thiên Chúa: ngay khi
được tạo dựng, con người đã được Thiên Chúa yêu thương và nâng lên hàng con cái
Ngài (x. Kn 5,5; Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,16). Và Ngài yêu quí con người đến
mức, sau khi họ sa ngã, Ngài đã cho Con Độc Nhất của Ngài xuống trần, chịu đau
khổ và chết để cứu chuộc họ (x. Ga 13,1; Rm 5,6-8; 14,15b; 1Cr 15,3; 2Cr 5,15;
1Tx 5,10; 1Pr 3,18). Do đó, ai yêu Thiên Chúa, tất nhiên cũng phải yêu con cái
của Ngài, những người mà Ngài hết mực yêu thương: “ai yêu mến Đấng sinh thành,
thì cũng yêu thương kẻ được Đấng ấy sinh ra” (1Ga 5,1).
Như vậy, tha nhân bên cạnh và chung quanh
chúng ta chính là hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất của chính Thiên
Chúa. Vì thế, yêu những người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính
là không yêu Ngài. Người Ki-tô hữu có đức tin đích thực phải nhìn thấy chính
Thiên Chúa ở nơi những người mình gặp hằng ngày, và yêu Ngài ở nơi họ. Không
thể yêu Ngài ở nơi một ai khác chính đáng hơn nơi tha nhân. Chính vì thế, thánh
Gio-an mới nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh
em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ
trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga
4,20). Do đó, “ai yêu mến Thiên Chúa thì cũng phải yêu thương anh em mình”
(4,21).
Quả thật, không phải là phi lý mà thánh
Phaolô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn bộ lề luật không còn vào hai giới răn, mà
vào một giới răn duy nhất: “Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh
em chu toàn luật Đức Ki-tô” (Gl 6,2); “Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật”
(Rm 13,8); “Các điều răn đều tóm lại trong lời này: Ngươi phải yêu người thân
cận như chính mình. (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật” (13,9-10); “Luật Kinh
Thánh được đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu người thân cận như chính
mình"“ (Gc 2,8). Không những ta phải yêu thương những người chung quanh
mình, hy sinh cho họ, mà còn phải làm sao để họ cũng sống yêu thương và thúc
đẩy nhau sống yêu thương nữa: “Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người
này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt” (Dt 10,24).
3. Thực hiện việc yêu Thiên Chúa bằng việc
yêu tha nhân
Để dễ hiểu những điều trên, ta hãy xét trường
hợp của một người cha rất giàu có, rất khỏe mạnh, không thiếu thứ gì, cũng
không cần thứ gì cả. Người cha ấy có một đàn con đông đảo, nhưng vì lỗi của
chúng nên chúng trở nên nghèo nàn, đau khổ, thiếu thốn. Nguyên nhân gây nên
tình trạng đau khổ ấy là chúng không biết yêu thương. Người cha ấy đã tìm đủ
cách để đàn con hạnh phúc hơn, bằng cách giáo dục để chúng có nhiều tình thương
hơn, vì một khi chúng biết yêu thương thì tất nhiên và tự nhiên hạnh phúc sẽ
đến với chúng. Thử hỏi người cha ấy mong mỏi gì nơi đàn con? Chắc chắn là mong
chúng yêu thương nhau (x. Ga 13,34-35).
Có một
đứa con kia mong cha ban cho mình của này vật nọ, nên chỉ biết nghĩ đến cha,
mong hầu hạ cha, lo cho cha từng chút, đang khi cha đã quá đầy đủ, chẳng cần ai
lo cho mình một thứ gì. Ngược lại, đối với những anh em ruột thịt bên cạnh mình
đang đau khổ và thiếu thốn, đang cần được chăm nom săn sóc, thì người ấy chẳng
thèm đoái hoài đến. Thử hỏi người cha ấy có hài lòng về cách xử sự của người
con ấy không? Cách xử sự như thế có hợp lý không? Nếu ta là người cha ấy, ta sẽ
nghĩ gì về đứa con ấy, ta muốn nó xử sự thế nào?
Nếu ta
là người cha ấy, chắc chắn điều ta mong mỏi nhất là thấy con cái mình yêu
thương nhau, lo cho nhau, hy sinh cho nhau, và hễ chúng làm được điều ấy, thì
ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương của chúng đối với nhau sẽ làm cho chúng
hạnh phúc, là điều ta mong muốn nhất. Ta nghĩ rằng chính những đứa biết yêu
thương anh em mình một cách vô vị lợi mới là những đứa con hiếu thảo, vì chúng
có tình thương đích thực. Vì nếu anh em chúng nghèo khó và khó thương mà chúng
còn thương được, ắt chúng phải thương yêu cha chúng hơn nhiều. Còn những đứa
chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên lo chăm chút cho cha đang khi cha chẳng cần
điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến anh em mình, thì tình thương của chúng đối với
cha rất đáng nghi ngờ. Có thể chúng chỉ yêu bản thân chúng mà thôi, còn việc
chúng chăm chút đến cha có thể chỉ là một chiến thuật cầu lợi theo sự khôn
ngoan ích kỷ của chúng.
Minh họa trên cho thấy chúng ta phải yêu mến
Thiên Chúa bằng cách nào. Có thể nói điều răn quan trọng nhất chính là “yêu mến
Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn”. Nhưng phải thể hiện tình
yêu ấy thế nào cho phù hợp với ý của Thiên Chúa? Qua giáo huấn của Đức Giêsu,
ta thấy cách tốt nhất để thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên Chúa chính là
thực hiện điều răn thứ hai: “yêu người thân cận như chính mình”. Đức Giêsu đã
làm gương về điều ấy. Ngài chết trên thập giá vì yêu thương con người, đồng
loại của Ngài (với tư cách Ngài là một con người), nhưng cái chết ấy chính là
lễ hy sinh để thờ phượng Thiên Chúa được Thiên Chúa đánh giá cao nhất. Vậy cách
thờ phượng Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa tốt nhất chính là yêu thương những người
người chung quanh mình, những người mình gặp hằng ngày, và hy sinh bản thân
mình cho họ.
Cầu
nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: “Cha là
Thiên Chúa, Cha không cần và không thiếu một thứ gì. Vậy thì con yêu Cha cách
nào đây? Nếu con muốn yêu Cha cách thực tế, con hãy yêu Cha nơi những người
sống chung quanh con, họ chính là hiện thân của Cha ở bên cạnh con. Con yêu họ,
chính là con yêu Cha, và đó là cách tốt nhất để con tỏ lòng hiếu thảo đối với
Cha”.
16. MẾN
CHÚA THỂ HIỆN QUA ĐỨC YÊU NGƯỜI
I. HỌC
LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Mt 22,34-40
(34)
Khi nghe tin Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì
những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. (35) Rồi một người thông luật
trong nhóm hỏi Đức Giê-su để thử Người rằng: (36) "Thưa Thầy,
trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn lớn nhất ?". (37)
Đức Giê-su đáp: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn
đứng đầu. (39) Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là:
Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. (40) Tất cả Luật Mô-sê
và các sách Ngôn sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy".
2. Ý
CHÍNH:
Câu
hỏi của người thông luật trong nhóm Pha-ri-sêu nêu ra với Đức Giê-su để
thử Người vốn là một trong những vấn đề mà các Rá-bi Do Thái luôn
bất đồng ý kiến và không ngừng tranh cãi nhau: "Trong sách Luật
Mô-sê thì điều răn nào là điều răn lớn nhất ?" Nhưng điều họ cho
là khó thì Đức Giê-su lại dễ dàng giải đáp. Theo Đức Giê-su thì toàn
bộ sách Luật và các Ngôn sứ đều tóm gọn trong hai điều răn lớn nhất
là mến Chúa và yêu Người.
3. CHÚ
THÍCH:
- C
34-35: + Đức Giê-su đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng: Trong dân Do
Thái có nhiều phe nhóm khác nhau. Phái Xa-đốc vì chỉ dựa trên Luật
thành văn là bộ sách Ngũ Thư, nên nghĩ rằng không có chuyện kẻ chết
sống lại (x. Mt 22,23). Họ đã dựa trên luật "thế huynh" (x. Đnl
25,5-10) để đặt vấn đề với Đức Giê-su. Người đã trả lời bằng hai
điểm: Một là khi sống lại, người ta sẽ sống như các thiên thần (x. Mt
22,30). Hai là Người nhắc lại lời Thiên Chúa phán với Mô-sê rằng:
Người là Thiên Chúa của các tổ phụ, ngầm ám chỉ các tổ phụ ấy
vẫn đang sống với Người (x. Xh 3,6). Trước những bằng chứng rút từ
Thánh Kinh ấy, họ đuối lý và đành câm miệng. + Thì những người
Pha-ri-sêu họp nhau lại: Họp nhau ở đây nhằm đối phó với Đức Giê-su.
Sau này các đầu mục Do Thái cũng họp nhau để tìm cách giết hại
Người (x. Mt 26,3-4). + Một người thông luật trong nhóm: Đây là một kinh
sư trong nhóm Pha-ri-sêu. Thời Đức Giê-su có khoảng sáu ngàn người thuộc
nhóm Pha-ri-sêu hay Biệt Phái. Cũng như nhóm Ét-sê-ni, nhóm Pha-ri-sêu
thường kết nạp những người có lòng đạo đức muốn chống lại ảnh
hưởng ngoại giáo. Nhóm gồm các kinh sư, các tiến sĩ Luật và cả tư
tế nữa. Họ tổ chức thành hội, nhằm giúp nhau giữ đạo của cha ông và
trung thành với Luật Mô-sê. + để thử Người: Ở đây nhóm Pha-ri-sêu nêu
câu hỏi nhằm đưa Đức Giê-su vào thế bí, để xem Người sẽ giải quyết
thế nào đối với một vấn đề nan giải, thường gây tranh cãi giữa các
ráp-bi với nhau.
- C
36-37: + Luật Mô-sê: Luật hay "Tô-ra" trong tiếng Do Thái, ám
chỉ giáo huấn mặc khải của Thiên Chúa nhằm hướng dẫn cách sống của
dân Chúa về nhiều lãnh vực như: Luân lý, tổ chức gia đình và xã hội,
nghi thức phụng tự, các thừa tác viên và các điều kiện cử hành...
Đây là toàn bộ những điều luật ghi trong Ngũ Thư và chi phối đời
sống tôn giáo và trần thế của dân It-ra-en. Luật Mô-sê gồm 613 điều
khoản khác nhau, trong đó có 246 điều truyền buộc và 365 điều luật cấm
đoán. + Điều răn nào là điều răn lớn nhất: Lớn nhất tức là quan
trọng nhất. Sở dĩ họ đặt câu hỏi này với Đức Giê-su, phần vì họ
không nhất trí được với nhau, phần vì muốn thử Đức Giê-su để mong
đặt người vào thế bí không thể giải đáp được. + Ngươi phải yêu mến
Đức Chúa hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi: Lòng mến
Chúa phải toàn diện, liên quan đến trái tim, linh hồn và cả khối óc
của con người. Tình yêu ấy phải là động lực thúc đẩy tất cả mọi
hoạt động tinh thần cũng như thể xác. + Đó là điều răn lớn nhất và
điều răn đứng đầu: Đây là điều răn thứ nhất trong Thập Giới (x. Đnl
6,5). Tầm mức quan trọng của điều luật này không phải vì được xếp
đầu tiên, nhưng vì việc mến Chúa là điều quan trọng bậc nhất. Vì
thế mỗi người Ít-ra-en đều phải đọc đi đọc lại Luật này mỗi ngày
hai lần: lúc vừa thức giấc cũng như trước khi nghỉ đêm.
- C
38-40: + Điều răn thứ hai cũng giống điều thứ nhất: Điều răn thứ hai
tuy nói về đức yêu người, nhưng cũng quan trọng ngang với điều răn thứ
nhất nói về lòng mến Chúa. Vì đức yêu người bắt nguồn từ lòng mến
Chúa và cần thiết ngang với lòng mến Chúa vậy. + Yêu người thân cận:
Đối với dân Ít-ra-en: người thân cận là những người cùng chủng tộc,
cùng huyết thống. Nhưng Đức Giê-su đã mở rộng tình yêu tha nhân đến
hết mọi người: Dù là Do Thái hay dân ngoại, nô lệ hay tự do... và yêu
cả kẻ thù của mình nữa (x. Mt 5,43-48). + như chính mình: Yêu kẻ khác
giống như yêu bản thân mình, là đặt mình vào hoàn cảnh của người
khác. Nói cách khác yêu người bằng mình là: "Muốn người ta làm
gì cho mình, thì hãy làm cho người ta như vậy" (x. Mt 7,12), và
ngược lại "Điều gì con không thích thì đừng làm cho ai" (Tb
4,15). + Tất cả Luật Mô-sê và các sách Ngôn sứ: Luật Mô-sê và các
sách Ngôn sứ là cách nói chỉ toàn bộ Cựu Ước. Luật Mô-sê gồm có
năm cuốn sách trong bộ Ngũ Thư. Còn sách các Ngôn sứ gồm hai loại:
sách các Ngôn sứ lớn như I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ê-dê-ki-en, Đa-ni-en và
sách các Ngôn sứ nhỏ như Ba-rúc, Hô-sê, Giô-en, A-mốt, Giô-na, Mi-kha,
Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi. + đều
tùy thuộc vào hai điều răn ấy: Thánh ý của Thiên Chúa biểu lộ qua
các giới răn, và qui về hai giới răn là "Mến Chúa" và
"Yêu người". Như vậy, Đức Giê-su đã gắn liền điều răn yêu
người với điều răn mến Chúa, bằng cách cho cả hai cùng quan trọng như
nhau, và tập trung tất cả lề luật vào hai điều răn này. Từ nay,
người ta không cần phải lo lắng chu toàn tất cả 613 điều khoản, với
các chi tiết khó nhớ và khó áp dụng. Nhưng họ chỉ cần giữ hai điều
then chốt là "Mến Chúa hết lòng hết sức" và "Yêu thương
tha nhân như chính mình". Giữ hai điều này là đã giữ trọn Lề
Luật và đã làm theo thánh ý Thiên Chúa rồi. Sau này, Đức Giê-su còn
thêm một điều răn mới là: "Anh em hãy thương yêu nhau, như Thầy đã
yêu thương anh em" (Ga 13,34).
4. HỎI
ĐÁP:
HỎI 1:
Thái độ của nhóm Pha-ri-sêu đối với Đức Giê-su thế nào?
ĐÁP:
Trong
nhóm Pha-ri-sêu, một số người có thiện cảm với Đức Giê-su, nên đã
mời Người đến nhà (x. Lc 7,36;11,37), trong số đó cũng có người có
chức vị thủ lãnh (x. Lc 14,1). Có người đã bảo vệ Người tránh khỏi
bị Hê-rô-đê bắt (x. Lc 13,31). Ông Ni-cô-đê-mô một thành viên của nhóm
Pha-ri-sêu cũng đã bí mật gặp Đức Giê-su vào ban đêm (x. Ga 3,1-2), và
sau đó đã công khai bênh vực Người (x. Ga 7,50), và góp phần vào việc
mai táng Người như một môn đệ (x. Ga 19,39-40). Ông Ga-ma-li-ên, một kinh
sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu trong Thượng Hội Đồng có lần đã lên tiếng
bênh vực các Tông đồ (x. Cv 5,34-39). Tông đồ Phao-lô trước khi theo Chúa
đã từng là một thành viên nhiệt thành nhất trong nhóm Pha-ri-sêu (x.
Cv 26,4-5). Tuy nhiên, đại đa số người Pha-ri-sêu không tin Đức Giê-su là
Đấng Thiên Sai, nên kịch liệt chống lại Người và giáo lý của Người.
HỎI 2:
Thái độ của Đức Giê-su đối với nhóm Pha-ri-sêu ra sao?
ĐÁP:
Về
phần Đức Giê-su, tuy nhiều lần nặng lời quở trách nhóm Pha-ri-sêu về
lối sống vụ Lề Luật, giả đạo đức, vụ lợi, nói mà không làm, kiêu
căng, ưa xu nịnh, khinh thường các tội nhân và dạy giáo lý sai lạc (x.
Mt 9,10-11;23,1-7;16,5.12)... Nhưng Người công nhận họ siêng năng cầu
nguyện, bố thí và ăn chay (x. Mt 6,1-18); nhiệt tâm truyền giáo (x. Mt
23,15), phần nào ăn ở công chính (x. Mt 5,20), gắn bó với truyền thống
của cha ông (x. Mt 6,16), giữ Luật cách nghiêm nhặt (x. Mt 23,23). Đức
Giê-su cho biết Người đến không nhằm bãi bỏ nhưng kiện toàn luật Mô-sê
hay các ngôn sứ (x. Mt 5,17-19), và nhất là Người kiện toàn luật về ngày hưu
lễ Sa-bát và truyền thống rửa tay trước khi dùng bữa (x Mt 12,2; 15,1-2).
II.
SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI
CHÚA: "Ngươi
phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn
và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai
cũng giống điều răn ấy là: Ngươi phải yêu người thân cận như chính
mình" (Mt 2,37-39).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) SỨC
MẠNH CỦA TÌNH YÊU.
Có
một cậu bé 7 tuổi bị mồ côi cha mẹ, nên được ông nội đón về nhà
nuôi. Ông nội cậu bé đang làm chủ một xí nghiệp lớn có hằng trăm công
nhân, sản xuất quy mô theo dây chuyền. Ông vốn là một người tham lam và
độc ác, thường tỏ ra hống hách và bớt xén tiền lương ít ỏi của
công nhân. Nhưng mỗi khi có mặt cậu bé, ông lại tỏ thái độ nhân hậu và
biết quan tâm đến những người nghèo khổ. Nhất là ông rất yêu thương chăm
sóc cậu bé, khiến cậu coi ông như một thần tượng. Cậu luôn miệng khen
những việc tốt ông đã làm, và cả những việc xấu nhưng đã được cậu
bào chữa do động cơ tốt. Cậu thường nói với ông: "Nội ơi, nội
được nhiều người yêu quý lắm phải không ? Cháu dám cá là họ phải
yêu ông nội thật nhiều, giống như cháu yêu nội vậy !" Chính tình
yêu thương của cậu bé khiến trái tim sơ cứng của người ông dần dần
trở nên mềm mại, và cuối cùng đã biến ông trở thành một người tốt
lúc nào không hay, theo những đức tính mà cậu bé thường hay ca ngợi
người ông thân thương của mình.
2) LỜI
NÓI HƯƠNG BAY , GƯƠNG BÀY LÔI KÉO.
Một
hôm một người khách đến thăm một tu viện thuộc dòng Thừa Sai Bác Ái
do Mẹ Tê-rê-sa Can-quýt-ta sáng lập. Ông ta nhìn thấy các sơ vừa đem
về tu viện một bệnh nhân sắp chết, được tìm thấy đang nằm trên vỉa
hè cạnh một lỗ cống xông lên hôi thối. Trên mình người này đầy những
chí rận. Ông khách thấy các sơ vui vẻ giúp người này tắm rửa, diệt
trừ chí rận với thái độ ân cần đầy cảm thông. Sau đó, ông đến gặp Mẹ
Tê-rê-sa và nói: "Thưa mẹ, khi đến đây con vẫn đang có ác cảm và
thù ghét đối với hội thánh công giáo. Con nghĩ rằng các linh mục và
nữ tu chỉ là bọn người đạo đức giả ! Nhưng giờ đây, con đã loại bỏ
tất cả những hiểu lầm và thành kiến lâu nay. Vì tại tu viện này,
con đã chứng kiến tình yêu Chúa được diễn tả cụ thể qua hành động
và thái độ của các sơ, khi các sơ săn sóc cho người bệnh sắp chết
kia. Bây giờ thì con đã xác tín "Thiên Chúa là tình yêu". Vì
nếu không có Thiên Chúa trong tâm hồn, thì chắc các sơ đã không thể
đủ nghị lực để quên mình xả thân phục vụ cách vô vụ lợi những người
bệnh tật bất hạnh như vậy !"
3. SUY
NIỆM:
1) MẾN
CHÚA ĐI ĐÔI VỚI YÊU NGƯỜI: Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giê-su đã trả
lời cho một kinh sư thuộc nhóm Pha-ri-sêu biết hai giới răn quan trọng
nhất là: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn lớn nhất
và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai cũng giống điều răn ấy
là: Người phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê
và các sách Ngôn Sứ đều tùy thuộc vào hai điều răn ấy" (Mt
22,37-40). Lời tuyên bố này giống như lời của một vị tôn sư tối cao,
chấm dứt được sự tranh luận lâu nay của các hệ phái Do Thái về điều
răn nào trọng nhất trong bộ Luật Mô-sê.
2) BA
BẬC MẾN CHÚA:
Có ba
bậc mến Chúa là mến Chúa hình thức, mến Chúa thông thường và mến
Chúa hết lòng như sau:
+ Mến
Chúa hình thức: Một số người chỉ giữ những việc đạo như mười điều
răn, đi lễ Chúa Nhật, xưng tội rước lễ... vì sợ bị mắc tội nặng
phải sa hỏa ngục. Còn những tội nhẹ như: chửi nhau, tục tĩu, ăn cắp
vặt, gian dối, tham lam... thì họ không quan tâm chừa cải. Những người
này giống như những đứa trẻ chỉ học hành hay làm các việc nhà vì
sợ cha mẹ rầy la trừng phạt, nên dễ dàng đi chơi khi cha mẹ vắng nhà.
Đó là những người "chỉ mến Chúa ngoài môi miệng, còn lòng họ
thì ở xa Chúa" mà người Pha-ri-sêu trong Tin mừng hôm nay là bằng
chứng.
+ Mến
Chúa thông thường: Một số người khác cố gắng sống đạo nghĩa là giữ
các giới răn để sau này được lên thiên đàng. Nhưng vì tình mến Chúa
không nhiều, nên đến khi buộc phải hy sinh bản thân thì họ lại làm như
các môn đệ trong cuộc khổ nạn của Chúa: Kẻ thì "hèn nhát chối không
biết Thầy là ai" (Si-mon Phê-rô); Kẻ thì "bỏ Thầy để chạy
thoát thân" (các môn đệ khác); Thậm chí có kẻ còn "liên kết
với các đầu mục Do thái để bán nộp Thầy" (Giu-đa Ít-ca-ri-ốt)...
+ Mến
Chúa hết lòng: Chúng ta phải liệu sao để có đức "Mến Chúa hết
lòng, hết linh hồn, hết trí khôn", nghĩa là phải yêu mến Thiên
Chúa hơn tất cả mọi người và mọi sự khác trên đời. Chúa Giê-su cũng
đòi môn đệ phải yêu Thầy hơn yêu cha mẹ và con cái (x. Mt 10,37-39), và
nếu cần còn phải sẵn sàng hy sinh cả mạng sống để chứng tỏ tình yêu
Thầy (x. Ga 15,13). Tông đồ Gio-an mến Thầy nên đã can đảm bán sát khi Thầy bị
xét xử tại dinh Thượng Tế và bị hành hình trên đồi Can-va-ri-ô. Thánh Phao-lô
thể hiện lòng yêu Chúa tột đỉnh khi nói: "Ai có thể tách chúng ta ra
khỏi tình yêu Đức Ki-tô ? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói
rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ?" (Rm 8,35). Đúng như lời Chúa
Giê-su: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh
tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15,13). Chúng ta cần xin ơn Thánh Thần
giúp chúng ta đạt tới lòng mến Chúa hết lòng như vậy.
3) HAI
BẬC YÊU NGƯỜI:
a) Yêu
người như yêu bản thân mình: Đây là tình yêu nhân bản vị tha của Do thái giáo:
Như Tô-bi-a cha đã khuyên Tô-bi-a con: "Điều gì con không thích, thì
cũng đừng làm cho ai cả" (Tb 4,16), và "Vậy tất cả những gì anh em
muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta. Vì Luật
Mô-sê và lời các ngôn sứ là thế đó" (Mt 7,12). Ngoài ra còn phải yêu
thương hết mọi người, dù là người thân hay người xa lạ, dù là bạn
hay thù như lời Chúa dạy: "Thầy nói với anh emlaf những người đang
nghe Thầy đây: Hãy yêu kẻ thù và làm ơn cho kẻ ghét anh em. Hãy chúc lành cho
kẻ nguyền rủa anh em và cầu nguyện cho kẻ vu khống anh em. Ai vả anh má bên
này, thì hãy giơ cả má bên kia nữa. Ai đoạt áo ngoài của anh, thì cũng đừng cản
nó lấy áo trong. Ai xin, thì hãy cho. Ai lấy cái gì của anh, thì đừng đòi lại.
Anh em muốn người ta làm gì cho mình, thì cũng hãy làm cho người ta như
vậy" (Lc 6,27-31). Mỗi tín hữu chúng ta cần phải xin Chúa giúp thực tập
đức ái theo từng bước như vậy.
b) Yêu
người như Chúa đã yêu : Đây là tỉnh yêu tuyệt hảo của Thiên Chúa do Chúa Giê-su
đề ra, nêu gương và mời gọi môn đệ học tập làm theo:
- Một
tình yêu rộng mở: Khác với tình yêu bình thường của loài người là chỉ yêu những
ai yêu mình và ghét bỏ những ai ghét mình; Chỉ yêu những người nào đáng yêu,
ghét những kẻ dễ ghét; Chỉ giới hạn tình thương nơi những người thân quen với
mình... Còn tình yêu của Thiên Chúa lại rộng mở: Yêu hết mọi người không phân
biệt tốt xấu. Tình yêu ấy không loại trừ bất cứ ai, kể cả những kè thù ghét làm
hại mình, như lời Đức Giê-su đã dạy: "Thầy bảo anh em: Hãy yêu kẻ thù và
cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con
cái Cha anh em, Đấng ngự trên trời. Vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi
sáng kẻ xấu cũng như người tốt. Và cho mưa xuống trên người công chính cũng như
kẻ bất chính" (Mt 5,44b-45). Tình yêu của Thiên Chúa còn thể hiện tới mọi
loài mọi vật khác nữa như các thú vật cỏ cây: "Hãy nhìn những con quạ mà
suy: chúng không gieo không gặt, cũng không có kho có lẫm. Thế mà Thiên Chúa
vẫn nuôi chúng. Anh em còn quý giá hơn loài chim biết bao!... Hãy nhìn hoa huệ
mà suy: Làm sao chúng không kéo sợi, không dệt vải. Thế mà, Thầy bảo cho anh em
biết: Ngay cả vua Sa-lô-môn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một
bông hoa ấy." (Lc 12,24.27).
- Một
tình yêu quên mình phục vụ: Vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên loài người,
thừa nhận loài người làm con cái để chia sẻ hạnh phúc với Người. Nhưng loài
người đã đáp lại tình yêu ấy bằng thái độ tệ bạc là nghe lời cám dỗ của ma quỷ
phạm tội chống lại Thiên Chúa. vì thế, loài người phải bị phạt là chịu đau khổ
bệnh tật và cuối cùng là bị chết. Nhưng Thiên Chúa không bỏ mặc loài người, đã
đề ra chương trình cứu độ: Ngài hứa ban ban dòng giống người nữ sẽ đánh vào đầu
con rắn hỏa ngục là ma quỷ, còn ma quỷ sẽ tìm cách chống lại (x. St 3,15b).
Dòng giống người nữ ấy là Chúa Giê-su, Con yêu dấu của Thiên Chúa. Đức Giê-su
Ki-tô Con Thiên Chúa sẽ xuống thế làm người, vâng lời Chúa Cha, bằng lòng chịu
chết thập giá để đền tội thay cho loài người, và sống lại để mở ra một con
đường cứu độ là đạo công giáo, hầu ai tin Chúa Giê-su và đi con đường mến Chúa
yêu người của Người sẽ được hưởng ơn cứu độ (x Pl 2,5-11).
- Một
tình yêu tha thứ vô điều kiện. Tha thứ là dấu hiệu của một tình thương thực sự.
Khi yêu ai, người ta sẽ dễ dàng tha thứ lỗi lầm của người đó. Trong Tin Mừng,
Đức Giêsu cũng đề cập nhiều đến tình yêu tha thứ của Thiên Chúa, như trong dụ
ngôn Người Cha Nhân Hậu. Người Cha này đã sẵn sàng tha thứ cho đứa con bỏ nhà
đi hoang, luôn chờ mong đứa con hư sớm trở về, vui mừng ra tận cổng đón nó, và
lập tức tha thứ lỗi lầm cho nó, trả lại quyền làm con và mở tiệc ăn mừng. Ông
đã trả lời anh con cả biết lý do vui mừng như sau: "...Nhưng chúng ta phải
ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống. Đã mất mà nay lại
tìm thấy" (Lc 15,32). Đức Giê-su cũng muốn các tín hữu chúng ta noi gương
yêu thương của Chúa Cha: Đối xử bao dung với nhau như Thiên Chúa đã đối xử với
chúng ta: "Và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chứng
con" (Kinh Lạy Cha). Chúa muốn chúng ta yêu thương hết mọi người. Nhất là
yêu thương những người nghèo hèn, bất hạnh, bệnh tật và bị bỏ rơi... Chúa muốn
chúng ta luôn tha thứ cho tha nhân đã xúc phạm đến mình cách vô điều kiện (x.
Mt 18,21). Chúa muốn chúng ta có tình yêu thương quảng đại hy sinh, sẵn sàng chấp
nhận thua thiệt. Đó mới chính là tình yêu đích thực bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Chỉ tình thương như thế mới bền vững và mang lại hạnh phúc đời đời cho chúng
ta.
4.
THẢO LUẬN:
1) Làm
thế nào để phân biệt một tình yêu thật sự với tình yêu vụ lợi ngoài môi
miệng ? 2) Mỗi tín hữu cần thực hành Lời Chúa để đi bước trước trong tình
yêu tha nhân: "Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình,
thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta" (Mt 7,12)?
5. LỜI
CẦU:
- LẠY
CHÚA GIÊ-SU. Ngày nay Chúa cũng muốn chúng con mở rộng vòng tay đến
với hết mọi người. Chúng con chỉ có thể "nối vòng tay lớn"
nếu biết gắn bó với Chúa. Ước gì khi nhìn lên cây thánh giá, chúng
con thấy mẫu gương một tình thương tột đỉnh của Chúa là hy sinh quên
mình chịu chết để cho chúng con được sống. Tình thương của Chúa mời
gọi chúng con giang tay cầu nguyện, rồi nắm tay nhau để hợp tác xây dựng
một thế giới mới ngày một công bình, yêu thương và an bình thịnh vượng
hơn.
- LẠY
CHÚA. Ước chi chúng con biết làm mọi việc vì lòng mến Chúa và sẵn
sàng hiến thân phụng sự Chúa như lời thánh Phao-lô: "Tình yêu Chúa
Ki-tô thôi thúc chúng tôi" (2 Cr 5,14). "Đối với tôi sống là
Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi" (Pl 1,21); Từ nay "Tôi
sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi"
(Gl 2,20); Tôi "Không còn được sống cho chính mình nữa, mà sống
cho Đấng đã chết và sống lại vì tôi" (2 Cr 5,15).
X)
HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN
VINH - HHTM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét