SỨC KHỎE CỦA ĐỨC BENEĐITO |
CHẦU PHỐ RANG GX. BẢO YÊN ( CHẦU NHỜ SÂN NHÀ DÂN ) |
BI
RUỘNG
BÂC THANG CỦA LÀO CAI
|
GX. PHỐ LU CHẦU |
BẢO HÀ MỪNG MẸ PHATIMA |
GIÁO ĐIỂM TÂN AN NÂNG CẤP |
KHÁNH
NHẬT TRUYỀN GIÁO – SỨC KHỎE CỦA ĐỨC BENEĐITO – CHẦU PHỐ RANG GX. BẢO YÊN - CHÚA
NHẬT 29 TN - A
Lời Chúa: Is. 45, 1.4-6; 1Tx. 1,1-5b; Mt. 22, 15-21
MỤC LỤC
* LỄ TRUYỀN GIÁOF
1. Kitô hữu, chứng nhân
truyền giáo
2. Hãy đi khắp thế gian
3. Truyền lửa yêu thương –
Lm Ignatiô Trần Ngà
4. Quyền năng từ trên cao
5. Anh em là chứng nhân
6. Khánh nhật truyền giáo –
Lm Trần Ngà
7. Chứng nhân trong sự hiệp
nhất yêu thương
8. Cách thức truyền giáo
9. Nối bước các thừa sai –
Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
10. Chứng tá
11. Truyền giáo
12. Hãy loan báo Tin mừng
13. Đời sống chứng nhân
14. Hãy thả lưới bên phải thuyền
15. Thầy Ở Cùng Anh Em
16. Truyền giáo
* CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN
1. Nộp thuế
2. Suy niệm của Lm. Ignatiô
Trần Ngà
3. Trả nợ cuộc đời – Lm
Giuse Tạ Duy Tuyền
4. Ác ngầm – Lm. Phêrô Bùi
Quang Tuấn
5. Của César
6. Suy niệm của ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
7. Trả về Thiên Chúa
8. Nên nộp thuế chăng?
9. Suy niệm của Lm Nguyễn
Hữu An
10. Suy niệm của Lm. Phaolô
Đoàn Thanh Phong
11. Tôn giáo và chính trị
12. Hình ai đây?
13. César
14. Trả về
15. Trả về
16. Viễn vọng kính
17. Nộp thuế cho Xê-da -
JKN
18. Nên giống Chúa
19. Xin Thầy cho biết ý
kiến
20. Nộp thuế cho Xêda – Lm
PX. Vũ Phan Long
21. Của Thiên Chúa trả cho
Thiên Chúa
22. Chú giải của Noel
Quesson
* LỄ TRUYỀN GIÁO
1. Kitô hữu, chứng
nhân truyền giáo
(Trích trong 'Niềm
Vui Chia Sẻ')
"Anh chị em đi khắp
thế giới, loan báo Tin Mừng cho muôn dân". Thưa anh chị em, đó là mệnh
lệnh cuối cùng của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời
đại cuối cùng của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ
truyền giáo, số người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so
với dân số thế giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến
trên 5 tỷ người, thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần
trăm là ở Nam Mỹ, còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và
Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng
ta, một lục địa với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo.
Tại Trung Quốc chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có
lối 500 ngàn người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu
người Công giáo trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu
rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng
ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ
13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là
những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo
hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở
những miền có đông giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở
đó lại nghèo đói và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số
107 triệu, đại đa số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo
Hội để sang Hội Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là
để được hưởng trợ cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất-
như ở Châu Âu và Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn
trọng các giá trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo
Hội về đời sống hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một
vết thương đau nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu
chỉ của thời đại: Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo
Mục đã quyết định đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì
không có giáo dân lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi
thánh đường này lại quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin,
Tổng Giáo Mục Chicago tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ
sở truyền giáo và 6 trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức
Hồng y Szoka, Tổng Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa
30 giáo xứ thuộc giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu
tiền (x. Bùi Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời
đại ấy để chúng ta thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào
Chúa nữa, hoặc có nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ.
Chính vì thảm trạng nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông
điệp "Sứ Vụ Đấng Cứu Độ" (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể
Giáo Hội trước sứ mạng truyền giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Anh chị em thân mến,
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền
Giáo, Đức Thánh Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề:
"Tất cả các kitô hữu đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng
nhân". Đức Thánh Cha nói: "Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa
Giêsu quyết liệt lập lại những lời Ngài đã nói với các Tông đồ trước khi về
trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của người Kitô hữu: "Anh em sẽ là
chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari và cho
đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8). Quả thực, Kitô hữu là ai? Thưa họ là người
được Chúa Kitô "chiếm đoạt" (x.Pl 3,12), và vì thế, là người khao
khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp mọi nơi
"cho đến tận cùng trái đất". Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy
chúng ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không
thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm
khuyết và chưa trưởng thành.
Do đó, "Truyền giáo là
vấn đề của niềm tin, nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi
tình yêu của Ngài dành cho chúng ta" (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi
đôi với nhau: đức tin càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và
làm chứng niềm tin càng bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt
tình truyền giáo cũng suy giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó
là điều vẫn xảy ra trong lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền
giáo là triệu chứng của sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi
người ta đánh mất xác tín sâu xa là: "Đức tin càng vững mạnh khi đem chia
sẻ" (RM.2). Vì chính khi loan báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà
đức tin của chúng ta được củng cố và tái khám phá con đường đưa đến một nếp
sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như thế, chúng ta có thể nói: "Truyền
giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống lại cuộc khủng hoảng đức tin.
Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần Dân Chúa củng cố căn tính mà
mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu đích thực nếu không là chứng
nhân" (số 2).
Thưa anh chị em,
"Mỗi Kitô hữu được sáp
nhập vào Giáo Hội nhờ Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo
và chứng nhân. Đó là sự ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi
người kitô hữu ra đi loan báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là
nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu
độ mỗi người và cả nhân loại" (số 3).
Truyền giáo bằng đời sống
chứng tá Tin Mừng giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương,
bác ái, công bình, cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người
giáo dân. Làm chứng cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của
Tin Mừng, đó là căn tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có
vẻ dửng dưng không muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần
đến Thiên Chúa và họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu
lộ khuôn mặt của Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong
đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta
ngày nay phải truyền giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những
con người cụ thể chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng
vào lòng dân tộc. Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta,
cần đến đời sống nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu
thương vô biên của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là
công việc đặc trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của
Hồng Ân Cứu Độ.
2. Hãy đi khắp thế
gian
(Trích trong 'Manna')
"Hãy đi khắp thế giới,
loan báo Tin Mừng..."
Lời Đức Giêsu mời gọi làm
chúng ta nhức nhối.
Thế giới chẳng phải ở đâu
xa.
Thế giới là quê hương tôi
với gần 80 triệu dân.
Thế giới là những người tôi
vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống.
Thế giới ấy, chân tôi chưa
một lần đi hết,
miệng tôi chưa một lần loan
báo tin vui.
Tôi có lòng tin không? Tôi
có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho những ai tin
được khả năng trừ quỷ,
nghĩa là giải phóng con
người khỏi mọi hình thức nô lệ,
khả năng chữa bệnh để xoa
dịu nỗi đau của trần gian,
khả năng nói những ngôn ngữ
mới để đem lại hiệp nhất.
Các tông đồ đã tin và thấy
Chúa cùng làm việc với mình.
Họ chẳng bao giờ cô đơn
trên bước đường rao giảng.
Có nhiều cách loan Tin
Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách thứ nhất là bằng chính
cuộc sống bản thân.
Nếu các Kitô hữu đều siêu
thoát danh lợi,
sống trung thực, thanh
khiết, sống chung thủy, yêu thương...
Một Kitô hữu nghèo mà vui
tươi, hạnh phúc,
thì đó là một lời chứng
đáng tin cậy.
Làm cho xã hội được tốt đẹp
hơn,
đó cũng là một cách loan
báo Tin Mừng rất hiệu quả.
Kitô giáo phải góp phần xây
dựng một thế giới
hòa bình và huynh đệ, công
bằng và ấm no,
nơi nhân phẩm của từng
người được tôn trọng,
nơi bóng tối của sự ích kỷ
tàn nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa Calcutta đã âm
thầm loan báo Tin Mừng
bằng những cử chỉ nhân ái
với bao người cùng khổ.
Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế
giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh Têrêxa nhỏ đã
truyền giáo tại chỗ
bằng lời cầu nguyện và
những hy sinh nhỏ bé.
Chị là nữ tu dòng Kín, sống
trong bốn bức tường,
nhưng lại được phong làm
bổn mạng các xứ truyền giáo.
Chị đã đi khắp thế giới,
không phải bằng đôi chân,
nhưng bằng lòng ước ao của
một trái tim cháy bỏng.
Phải sống sao để người ta
thắc mắc, đặt câu hỏi.
Nhưng cũng phải sẵn sàng
trình bày câu trả lời.
Dù bạn chẳng uyên thâm về
giáo lý
nhưng hãy bập bẹ nói về
Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo là giới thiệu
cho người khác Đấng tôi đã quen.
Có thể người ấy đã biết
Đấng này từ lâu rồi.
Anrê đã gọi Simon,
Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa.
Cần tập đến với người khác
như Đức Giêsu đã đến với
người phụ nữ Samari.
Hãy xin nước uống, trước
khi nói về Nước Hằng Sống.
Hãy tìm hiểu người đối diện
trước khi loan báo Tin Mừng.
Chúng ta cần thấm nhuần văn
hóa dân tộc
thì mới biết cách nói về
Chúa Cha cho đồng bào mình.
Nếu cả đời, mỗi Kitô hữu
mời được một người theo đạo,
thì nguyện ước của Đấng
Phục Sinh được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thánh Têrêxa nhỏ đã được
tôn phong làm tiến sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu
nguyện và hy sinh của chị? Bây giờ có hợp thời không?
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho
người cùng khổ, bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về
kiểu truyền giáo này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Tình Yêu
của con,
nếu Hội Thánh được ví như
một thân thể
gồm nhiều chi thể khác
nhau,
thì hẳn Hội Thánh không thể
thiếu
một chi thể cần thiết nhất
và cao quý nhất.
Đó là Trái Tim, một Trái
Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình yêu làm cho Hội
Thánh hoạt động.
Nếu trái tim Hội Thánh vắng
bóng tình yêu,
thì các tông đồ sẽ ngừng
rao giảng,
các vị tử đạo sẽ chẳng chịu
đổ máu mình...
Lạy Chúa Giêsu,
cuối cùng con đã tìm thấy
ơn gọi của con,
ơn gọi của con chính là
tình yêu.
Con đã tìm thấy chỗ đứng
của con trong Hội Thánh:
nơi Trái Tim Hội Thánh, con
sẽ là tình yêu,
và như thế con sẽ là tất
cả,
vì tình yêu bao trùm mọi ơn
gọi trong Hội Thánh.
Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa
ban cho con,
mọi ước mơ của con được
thực hiện.
(dựa theo lời của thánh
Têrêxa)
3. Truyền lửa yêu
thương – Lm Ignatiô Trần Ngà
Thông thường khi cầu xin
bất cứ ân huệ gì, chúng ta tha thiết cầu xin cho bản thân, cho gia đình mình
trước. Thế nhưng, khi đất nước lâm nguy, cần có người ra biên thuỳ bảo vệ, thì
người ta lại sốt sắng cầu xin cho người khác, ngoại trừ bản thân, được can đảm
xông ra chiến trường bảo vệ giang sơn. Nếu ai cũng cầu như thế và những lời cầu
kiểu nầy được chấp nhận, thì làm gì còn Tổ Quốc!
Trong việc cầu cho công
cuộc truyền giáo cũng vậy, chúng ta thường cầu với Chúa rằng: "Lạy Chúa,
xin cho có đông người, ngoại trừ con, biết quảng đại lên đường đi khắp muôn
phương loan báo Tin Mừng cứu độ." Nhưng thử hỏi: nếu ai cũng cầu xin thế
nầy, thì cánh đồng truyền giáo sẽ vắng bóng thợ gặt, tìm đâu ra người đi loan
báo Tin Mừng.
Vậy thì lời cầu nguyện
thiết thực nhất mà mỗi người chúng ta phải dâng lên Chúa là: "Lạy Chúa,
tuy con bất xứng, nhưng xin hãy sai con đi làm thợ gặt cho Chúa ngay hôm
nay."
Dù muốn dù không, chúng ta
cũng là ngôn sứ của Chúa ngay từ ngày lãnh bí tích thánh tẩy. Bí Tích Thánh Tẩy
làm cho chúng ta trở thành chi thể Chúa Giêsu, cho thông dự vào vai trò ngôn sứ
của Người, nên chúng ta phải đảm nhận trách nhiệm loan Tin Mừng cứu độ của
Người.
Chính vì thế, trước khi về
trời, Chúa Giêsu long trọng chuyển trao cho chúng ta, là môn đệ Người, tiếp tục
thi hành sứ vụ: "Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, ...
dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em." (Mt 28, 19-20)
Vậy thì sứ mạng loan Tin
Mừng là một bổn phận phải làm chứ không phải là việc tuỳ thích. Thánh Phao-lô
thú nhận: "Đối với tôi rao giảng Tin mừng không phải là lý do để tự hào,
nhưng là một sự cần thiết buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao
giảng Tin mừng." (1 Cr 9,16).
Vì đây là bổn phận của mọi
chi thể Chúa Giêsu nên chỉ khi nào chúng ta tự tách lìa mình ra khỏi Hội Thánh
là Thân Thể Chúa, thì chúng ta mới có thể cho phép mình ngừng loan báo Tin
Mừng.
Truyền giáo là truyền lửa
yêu thương
Trong đêm Vọng Phục Sinh,
lòng nhà thờ hoàn toàn chìm trong bóng tối. Thế rồi, từ cuối nhà thờ, Nến Phục
Sinh được thắp sáng lên và được long trọng rước lên cung thánh. Linh mục chủ sự
lấy lửa từ Nến Phục Sinh thắp lên cho một vài cây nến nhỏ bé khác trên tay vài
người. Những người nầy lại đem lửa phục sinh thắp lên cho người bên cạnh và cứ
tiếp tục như thế, chẳng mấy chốc, cả ngàn cây nến nhỏ của các tín hữu tham dự
đều được thắp lên.
Loan Tin Mừng cũng là thắp
lên lửa yêu thương cho người quanh ta. Lửa đức tin, lửa yêu thương đã được Chúa
Giêsu thắp lên trong ta, thì đến lượt mỗi chúng ta cũng hãy thắp lửa đức tin,
lửa yêu thương ấy cho người bên cạnh và công việc truyền lửa nầy cần phải được
tiếp nối không ngừng.
Chân phước Têrêxa Calcutta
cũng cho rằng truyền giáo là chia sẻ tình thương. Mẹ không rao giảng Phúc Âm
bằng lời nhưng bằng những tâm tình và cử chỉ yêu thương cụ thể. Mẹ cũng chẳng
chủ trương yêu thương đại chúng cách chung chung, nhưng là yêu thương từng
người đang đối diện.
Mẹ nói: "Đối với chúng
tôi, điều quan trọng là từng người một. Để thương yêu một người thì phải đến
gần người ấy... Tôi chủ trương một người đến với một người. Mỗi một người đều
là hiện thân của Đức Kitô... Người đó phải là người duy nhất trên thế gian (mà
ta cần yêu thương trọn vẹn) trong giây phút đó."
Với tâm tình nầy, Mẹ Têrêxa
đã thu phục nhân tâm nhiều người trên thế giới. Cũng bằng phương thức nầy, Giáo
Hội công giáo Hàn Quốc đã làm gia tăng gấp đôi số tín hữu chỉ trong vòng mươi
năm!
Theo gương Mẹ Têrêxa, mỗi
một người công giáo nên kết thân với một người lương, coi người đó như anh em
ruột thịt và đem hết lòng yêu thương người đó.
Mỗi gia đình công giáo nên kết
thân với một gia đình lương dân, coi họ như thân quyến của mình, sẵn sàng chia
ngọt sẻ bùi; khi có kỵ giỗ, cưới xin hay lễ lạc gì trong gia đình, hãy mời họ
cùng thông hiệp. Nhờ đó hai bên thắt chặt mối giây thân ái và qua tình thân
nầy, Tin Mừng của Chúa Kitô sẽ được lan toả như ánh nến đêm Vọng Phục Sinh.
4. Quyền năng từ
trên cao
Nếu Đức Giêsu phục sinh
không sai gửi Thánh Thần
thì chúng ta sẽ chẳng có
một Hội Thánh truyền giáo.
Các tông đồ được lệnh phải
chờ ở Giêrusalem.
Chờ mặc lấy quyền năng từ
trời cao ban xuống.
Chờ Đức Giêsu sai gửi Đấng
Cha đã hứa ban.
Chờ lãnh nhận phép Rửa
trong Thánh Thần (Cv 1,5).
Không có sức mạnh của Ngôi
Ba Thiên Chúa,
các tông đồ chẳng dám đi
rao giảng cho muôn dân,
và trở nên chứng nhân của
Đức Giêsu cho cả thế giới.
Không có Thánh Thần thì
không có hoạt động truyền giáo.
Điều này vẫn đúng cho thời
đại chúng ta.
Thánh Thần vẫn thôi thúc
bao tâm hồn đi gieo Tin Mừng,
vẫn hiện diện và hướng dẫn
Hội Thánh trong việc rao giảng,
vẫn khơi dậy bao sáng kiến
mới mẻ trong việc truyền giáo.
Kitô hữu tự bản chất là
chứng nhân.
Các tông đồ đã làm chứng vì
họ đã thấy tận mắt.
Chúng ta chỉ có thể làm
chứng nếu thấy bằng đức tin.
Thấy bằng đức tin mạnh
chẳng kém gì thấy bằng mắt.
Kitô hữu là người thấy được
Đấng Vô Hình,
có tương quan thân thiết
với Đấng họ mến tin.
Truyền giáo không phải là
tuyên truyền một lý thuyết,
mà là đưa người khác đến
gặp một Ngôi Vị,
là chia sẻ cho họ niềm xác
tín và yêu mến của mình.
Chúng ta cần tự hỏi tại sao
sau gần 4 thế kỷ
Kitô giáo ở Việt Nam vẫn chưa
phát triển mạnh.
Phải chăng vì đức tin chúng
ta đã nhạt nhòa,
vì đời sống chúng ta chẳng
có gì đáng nói?
Hay phải chăng chúng ta đã
lơ là với việc rao giảng,
hoặc không biết cách loan
báo Tin Mừng cho phù hợp?
Có thể tất cả những lý do
trên đều đúng.
Truyền giáo hôm nay đòi ta
cộng tác với mọi người thiện chí,
để xây dựng một thế giới
công bằng, nhân ái hơn,
đòi ta yêu thương và phục
vụ những người nghèo nhất.
Truyền giáo là đưa Tin Mừng
vào nền văn hoá Việt Nam ,
và đưa những giá trị tốt
đẹp của văn hoá Việt Nam
vào việc sống và làm chứng
cho Tin Mừng.
Chúng ta tin một Thánh Thần
duy nhất
đã hoạt động nơi các dân
tộc trước khi Ngôi Lời nhập thể,
vẫn luôn hoạt động trong
đời Đức Giêsu và trong Hội Thánh,
và còn đang hoạt động nơi
các tôn giáo, các nền văn hoá
của mọi dân tộc trong thế
giới hôm nay.
Phải làm sao để trình bày
Tin Mừng cách dễ hiểu,
gần gũi với tâm thức của
đồng bào.
Phải làm sao để bày tỏ một
khuôn mặt Đức Giêsu
nhân từ, dễ mến, đem lại
hạnh phúc cho con người.
Hội Thánh Việt Nam cần biết
bao những người công giáo
biết làm văn, làm nhạc, làm
thơ, biết viết kịch, viết báo...
Tinh thần Chúa Kitô phải từ
từ thấm vào mọi lãnh vực.
Có thể Kitô hữu mãi mãi vẫn
là một thiểu số,
nhưng phải là một thiểu số
đóng góp nhiều cho dân tộc.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có người bảo đạo Công Giáo
là đạo ngoại lai. Bạn nghĩ sao? Có tôn giáo nào ở Việt Nam không đến
từ nước ngoài? Làm sao để đạo Công Giáo gần gũi với lối sống, lối nghĩ của
người Việt Nam
hơn?
Đức Thánh Cha nói: không
truyền giáo là dấu hiệu của khủng hoảng đức tin. Bạn nghĩ sao?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được
cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ
nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ
người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã
được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng
con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm
tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của
mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới
thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé
và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận
cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần
bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu
và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ
thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả
thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng
của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
5. Anh em là chứng
nhân
(Trích trong 'Manna')
Sau khi phục sinh, Chúa
Giêsu đã làm một điều quan trọng,
đó là đào tạo những chứng
nhân.
Hội Thánh tương lai phải
được xây nền vững chắc
trên những con người có
kinh nghiệm cá nhân
về cái chết và sự phục sinh
của Ngài.
Chính vì thế Ngài đã hiện
ra cho Simon,
cho hai môn đệ về Emmau,
cho các tông đồ.
Ngài cho họ xem chân tay và
Ngài đã ăn bánh
để họ đừng nghi Ngài là ma.
Hơn nữa Ngài còn soi sáng cho họ
để họ hiểu những lời Kinh Thánh nói về Ngài.
Các môn đệ đã là chứng nhân, đã tử đạo
để làm chứng cho điều mình xác tín.
Mỗi năm Hội Thánh dành một ngày Chúa Nhật
để nhắc chúng ta nhớ đến bổn phận của mình,
bổn phận truyền giáo cho thế giới.
"Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân"
Chúng ta phải tiếp tục sứ mạng của các tông đồ,
vinh dự đứng vào hàng ngũ các chứng nhân.
Để truyền giáo, chúng ta phải quen thân với Chúa Giêsu,
có kinh nghiệm gặp gỡ Ngài thật sâu lắng,
sống cái chết của Ngài mỗi ngày
và nếm được niềm vui phục sinh Ngài ban tặng.
Để truyền giáo cần có nhiều tình yêu:
tình yêu đối với Chúa Giêsu và đối với con người.
Chính vì mến yêu Ngài
mà ta muốn Ngài được mọi người nhận biết.
Chính vì mến yêu mọi người
mà ta muốn chia sẻ hạnh phúc mình đang hưởng.
Thế giới hôm nay đầy lạc thú và hưởng thụ,
nhưng vẫn là một thế giới buồn.
Buồn vì nạn phá thai, ly dị, tự tử;
buồn vì hận thù, thất vọng và lo âu.
Nhiều bạn trẻ tìm quên trong vui chơi, nghiện ngập,
vì không thấy cuộc sống có ý nghĩa.
Như thế truyền giáo là loan báo tin vui
cho một thế giới buồn.
Đức Thánh Cha đã nhắn nhủ giới trẻ:
"Hội Thánh ủy thác cho giới trẻ nhiệm vụ hô to lên
cho thế giới biết niềm vui vì gặp được Đức Kitô...
Hãy đi rao giảng Tin Mừng giải thoát.
Hãy là những điều ấy với tâm hồn hân hoan."
Chúng ta không thể là những chứng nhân buồn.
Chính cuộc sống của ta phải đầy ắp niềm vui,
sự lạc quan và sự sống của Chúa Phục Sinh.
Chỉ như thế chúng ta mời hy vọng đáp ứng
những đòi hỏi gay gắt của thế giới
đang bước vào đệ tam thiên niên kỷ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào bạn nói về Chúa cho một người bạn không? Bạn có thấy mình cần
học giáo lý và cầu nguyện để có thể truyền giáo tốt hơn không?
Hơn 90% người Việt Nam chưa tin Chúa. Theo ý bạn, chúng ta có truyền giáo
đủ chưa? Phải sửa đổi gì để việc truyền giáo có hiệu quả hơn?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Cha muốn cho mọi người được cứu độ
và nhận biết chân lý,
chân lý mà Cha đã bày tỏ nơi Đức Giêsu, Con Cha.
Xin Cha nhìn đến hàng tỉ người
chưa nhận biết Đức Giêsu,
họ cũng là những người đã được cứu chuộc.
Xin Cha thôi thúc nơi chúng con
khát vọng truyền giáo,
khát vọng muốn chia sẻ niềm tin và hạnh phúc,
niềm vui và bình an của mình cho tha nhân,
và khát vọng muốn giới thiệu Đức Giêsu cho thế giới.
Chúng con thấy mình nhỏ bé và bất lực
trước sứ mạng đi đến tận cùng trái đất
để loan báo Tin Mừng.
Chúng con chỉ xin đến
với những người bạn gần
bên,
giúp họ quen biết Đức Giêsu
và tin vào Ngài,
qua đời sống yêu thương cụ
thể của chúng con.
Chúng con cũng cầu nguyện
cho tất cả những ai đang xả
thân lo việc truyền giáo.
Xin Cha cho những cố gắng
của chúng con
sinh nhiều hoa trái. Amen.
6. Khánh nhật
truyền giáo – Lm Trần Ngà.
Mến Chúa và yêu người là
hai giới răn trọng nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng
là làm sao thực thi lòng mến Chúa qua việc yêu thương con người là hiện thân
của Thiên Chúa.
Yêu Chúa mà lại ghét người
thân cận thì thật là điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:
Có một vị hoàng thái tử vào
rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu Trời xui đất khiến
làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
Hoàng tử quay về triều như
kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng thương mến và rồi
anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu xem cô gái có
thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực hay không, vua cha dạy
cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái...
Thế là hoàng tử hoá thành
người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra đồng làm
lụng. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô gái vẫn thầm yêu
và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra hoàng tử nơi người
nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt và cuối cùng đã xua
đuổi anh.
Tiếc thay, cô đã đánh mất
cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành hoàng hậu tương
lai.
Như vị hoàng tử kia hoá
thân thành nông dân để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá thân thành người
phàm để thử thách tình yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân
làm người, cắm lều ở giữa loài người, trở nên người thân cận của mỗi người.
Thế nên, khi yêu thương
người thân cận là chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc
đãi người thân cận là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân cận là thước đo
tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều
răn yêu thương nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong
cùi, trong những người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn sóc
những người ấy hết sức tận tình.
Mẹ dạy nữ tu của mẹ:
"Con thấy linh mục nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra
sao thì con hãy làm như thế đối với người cùng khổ."
Mẹ là người vừa yêu mến
Thiên Chúa trên trời lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong những người khốn khổ.
Mẹ không tách rời hai giới răn mến Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên
Chúa trong con người.
Khi hỏi tại sao người công
giáo chúng ta truyền đạo mà không thu hút được nhiều người về với Hội Thánh?
Chắc chắn là vì chúng ta
chưa sống theo đạo yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống đạo của mẹ
Têrêxa Calcutta, tha thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta
trở thành hấp dẫn, và bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được nhiều người
như mẹ Têrêxa đã minh chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người đời xem là bà
thánh sống, được mọi người yêu mến, cả những người Hồi Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn
và các đạo khác đều vô cùng quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin
cho chúng ta biết áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu
mến Thiên Chúa trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo
rất đẹp, rất hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo yêu thương nầy.
7. Chứng nhân trong
sự hiệp nhất yêu thương
Trích trong 'Cùng Nhau Suy
Niệm' của Lm Tạ Duy Tuyền)
Thế giới ngày hôm qua cũng
như hôm nay luôn ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có
một trái tim lớn lao đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam , người công
giáo hay không công giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa
để đến ở cùng những người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục
Cassien. Ngài đã dùng tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng
khổ. Ngài đã chết cho tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế
qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật
truyền giáo, thiết tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng
nhân tin mừng của giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến
đổi trần gian. Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế
giới. Một giáo hội nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh
Phao-lô đã từng nói rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc
lên". Vậy đâu là điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát
triển và canh tân bộ mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu
thương.
Theo sách tông đồ công vụ,
thời giáo hội sơ khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự
là của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo
nhu cầu" (Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn
hiệp nhất trong tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới
này tạo nên một cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng
đồng quan tâm, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau
nơi các tín hữu mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến
đó đã đem nhiều người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín
hữu khỏi những cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn
Giáo hội sơ khai đã được "toàn dân thương mến" (Tđcv 2,47a), thì đời
sống của xứ đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người
chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca
tụng Chúa và giúp cho "càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo
hội" (Tđcv 2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền
giáo mời gọi chúng ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất,
không chỉ là những người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự
chia sẻ này cũng nói lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để
đón nhận nhau trong tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi quý" để
sống hài hòa, nâng đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu
thương, bác ái, chia sẻ, cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn
đệ Chúa Giêsu, là chứng nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam .
Vì chưng, giới luật quan
trọng nhất của kytô giáo chính là Mến Chúa - yêu người, thì người người ky-tô
hữu chúng ta phải thể hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được
cân nhắc cho vừa ý trời và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy,
một đời sống chứng nhân Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với
cộng đồng, với tha nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng
đồng giáo xứ, sự hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó
mà Tin mừng mới nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta
không thể là một người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em
chung quanh. Lối sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho
những người chưa biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: "Nếu
những người kytô giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân
tộc Ấn trở lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè
phái, tỵ hiềm, chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín
đồ mới mà còn đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán
của chúng ta. Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự
bè phái đã phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối
đạo vì sự bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng
đoàn. Và cũng có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn
đến chúng ta, chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu
lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu
phải biết sống tinh thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi
mỗi người chúng ta. Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng
ta yêu mến tha nhân nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu
mến mời gọi chúng ta đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không
khoe khoang, không giả dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách
quảng đại để đem tình yêu Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên
Chúa và giúp con người xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là
Đấng đã từ trời xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và
giúp chúng ta sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì
đời sống chúng ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng
ta dám sống triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi
sự và yêu mến tha nhân như chính mình. Amen.
8. Cách thức truyền
giáo
Trích trong 'Cùng Nhau Suy
Niệm' của Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay ngày khánh nhật
truyền giáo, chúng ta nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới
hôm nay: "Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi
loài thọ tạo". Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa
không đòi hỏi khả năng, bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ
cho Chúa. Chúa cũng không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần
học sâu xa, hay luân lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở
mang nước Chúa. Chúa đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi
trở về ai cũng vui mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho
mỗi người như nhau, không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc
hay mới theo đạo. Từ người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng
theo lòng nhân từ của Chúa.
Vậy đâu là cách thức truyền
giáo hữu hiệu nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã
viết: "Ngôi lời đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta". Chúa
Giêsu là Lời hằng sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống
như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những
ai tiếp xúc với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn
thể xác. Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông
và chia sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở
thành lẽ sống cho con người, "Sống để yêu thương", và Ngài đã đi trọn
con đường tình yêu là "dám chết cho người mình yêu". Vì vậy, cách
thức duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là "anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em". Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở
thành cung cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực
sự là phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và
việc làm phải đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên
một trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không
thể chỉ đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu
như thế mới chỉ là hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi
đền đáp lại ân ban của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là
việc tuân giữ các giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền
đao. Truyền giáo không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có
thể đem nhiều người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang
đạo vào đời như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong thông điệp
"khánh nhật truyền giáo 2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết:
"Sứ mạng truyền giáo, nếu không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không
phát sinh từ một hành động sâu xa của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền
bị rút gọn về chỉ còn như là một hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém.
Tình yêu mà Thiên Chúa có đối với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh
nghiệm sống và loan báo Phúc Âm".
Như vậy, Đức Thánh Cha đã
tái khẳng định cách thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái.
Không có lòng mến thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu
Chúa luôn đi liền với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết
"Lòng mến chính là sợi giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kytô".
Hôm nay nhân ngày khánh
nhật truyền giáo, chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu
chỉ của người kytô hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã
sống thật hiệp nhất với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ
rao giảng. Họ chia sẻ đời sống hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn.
Họ được toàn dân thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội.
Ước gì cộng đoàn xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng
ánh mắt trìu mến, đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn
sống đời kytô hữu như chúng ta. Amen.
9. Nối bước các
thừa sai – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Trong tông huấn Ecclesia in
Asia , Đức Cố Gioan Hoàng Gioan Phao-lô II đã
kêu gọi: "Thiên niên kỷ thứ nhất truyền giáo cho Châu Âu. Thiên niên kỷ
thứ hai truyền giáo cho Châu Mỹ. Thiên niên kỷ thứ ba phải truyền giáo cho Á
Châu".
Cách riêng với Giáo Hội
việt Nam năm 2003 mừng 470 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương đất nước
chúng ta, các Đức Giám mục Việt Nam đã hưởng ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha,
công bố thư mục vụ mang tựa đề "Sứ Mạng Loan báo TinMừng Của Hội Thánh
Việt Nam Hôm Nay" đã khẳng định: "Đầu thiên niên kỷ mới, sứ mạng loan
báo Tin mừng được đặc biệt trao vào tay chúng ta. Chúng ta hãy tiếp bước các vị
thừa sai đầy nhiệt tình tông đồ, hãy phát huy truyền thống kiên cường của các
bậc tiền nhân anh hùng tử đạo. Ta hãy đáp lại kỳ vọng của Hội thánh đem Tin
mừng cho anh em trên lục địa mênh mông này. Và đặc biệt đem Tin mừng cho anh
chị em sống ngay trên quê hương Việt nam". (Thư chung 2003)
Hơn nữa, Giáo hội Việt Nam
ngày nay là con cháu của 117 vị thánh Tử Đạo và của hàng chục ngàn người Việt
Nam đã chết vì đạo. Nhưng gần 5 thế kỷ trôi qua, Giáo hội Việt Nam xem ra vẫn
còn bé nhỏ giữa lòng dân tộc Việt nam. Theo thống kê năm 2006 thì Giáo hội việt
nam có 26 Giáo Phận, gồm khoảng 7 triệu giáo dân, trên tổng số hơn 80 triệu
người Việt Nam, chiếm tỉ lệ 6,62%.
Là người con của dân tộc
Việt Nam , là dòng máu các
anh hùng Tử đạo Việt Nam
chúng ta cần phải có bổn phận loan báo Tin mừng cho chính quê hương, dân tộc
của mình. Đạo làm người dạy chúng ta phải "thương người như thể thương
thân", thì đạo làm con Chúa đòi hỏi chúng ta chia sẻ tất cả những gì mình
có cho tha nhân, cho đồng loại. Các thánh Tông Đồ, các vị Thừa Sai đã đem niềm
vui lớn nhất là Tin mừng Chúa Giêsu được công bố cho toàn thế giới. Các Ngài đã
không quản ngại hy sinh tính mạng để đổi lấy niềm vui ơn cứu độ được trao ban
tới muôn triệu tâm hồn. "Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn
người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi
thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng
lên nối tiếp nhau đem Tin mừng đến tận cùng thế giới". (Thư chung 2003)
Nhờ các vị thừa sai tràn
đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam
đã được đón nhận Tin mừng. Nhờ đời sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân
mà thế hệ chúng ta được thừa hưởng một gia tài đức tin vô cùng quý giá. Gia sản
này chúng ta không có quyền lưu giữ cho riêng mình, nhưng phải có bỗn phận chia
sẻ cho con người thời đại hôm nay. Chúa Giêsu sau khi phục sinh, Ngài đã uỷ
thác cho Hội Thánh nhiệm vụ loan báo tin mừng khi Ngài nói: "Anh em hãy đi
tứ phương thiên hạ mà loan báo Tin mừng" (Mc 16,15). Lệnh truyền này đã
trở thành sứ mạng chính yếu của Hội Thánh Chúa Ky-tô. Hội thánh hiện hữu là để
loan báo Tin mừng và làm cho những ai thành tâm đón nhận Tin mừng trở nên môn
đệ Chúa Ky -tô,
đồng thời quy tụ cho Thiên Chúa mọi con cái tản mác khắp nơi về một mối (Ga
10,52). Thế nên, là người công dân của Nước Trời, chúng ta phản có bỗn phận chu
toàn sứ vụ đó cho anh chị em chung quanh chúng ta, cụ thề là cho chình đồng bào
và dân tộc Việt Nam .
Vậy, truyền giáo là gì?
Theo công đồng Vat II:
"Việc truyền giáo là tất cả những công tác đặc biệt qua đó các nhà rao
giảng Phúc âm được Giáo hội sai đi khắp thế gian, thi hành nhiệm vụ rao giảng
Phúc âm và vun trồng Giáo hội nơi các dân tộc cũng như giữa những nhóm người
chưa tin vào Chúa". (TG 6c)
Trước đó, cha Pierre
Charles cũng cho rằng: "mục tiêu truyền giáo không phải là cứu rỗi các
linh hồn", hoặc "làm cho dân ngoại trở về với Chúa"...; song là
"mở rộng biên cương Giáo hội hữu hình, nhằm hoàn tất tiến trình lớn lên,
hầu bao phủ toàn thế giới với lời cầu nguyện và việc phụng tự, tức là để mang
cho Đấng Cứu Thế toàn bộ gia sản của Ngài".
Như vậy, việc truyền giáo
là "đưa Thiên Chúa đến với con người và đưa con người trở về với Thiên
Chúa". Đó chính là mục tiêu chính của việc truyền giáo và cũng là sứ mạng
cấp bách của Giáo hội Chúa Ky -tô. Vì Giáo hội được hình thành để tiếp
nối sứ mạng của Chúa Giêsu, Đấng sang lập Giáo hội. Khi hoàn tất sứ mạng của
mình ở trần gian, Chúa Giêsu đã sai phái các tông đồ tiếp tục sứ mạng đó cho
đến tận cùng trái đất. "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sia anh em"
(Ga 20, 21". "Anh em hãy làm chứng cho Thầy khởi đầu từ Giê-ru-sa-lem
đến tận cùng trái đất" (Lc 24, 47)
Vì vậy, là người công giáo
chúng ta phải có bổn phận mang Tin mừng của Chúa đến cho anh em minh. Hãy tiếp
nối sứ mạng của Chúa Ky -tô đưa muôn người đang còn tản mác khắp
nơi về với Chúa. Hãy tiếp nối truyền thống của các Thừa sai Việt Nam mang Tin
mừng đến cho những anh em nghèo đói, đến những phận người bị bỏ rơi . . # Hãy
tiếp nối tinh thần quả cảm hy sinh, kiên cường của các tiền nhân mà mạnh dạn
làm chứng cho Chúa, cho dù có bị thua thiệt trước mặt người đời, cho dù có bị
hiểu lầm, ngược đãi... nhưng cùng chịu chết với Đức Ky-tô là một mối lợi mà
không có một gia sản nào trên trần gian có thể sánh bằng.
Nguyện xin Chúa Giêsu là
người thợ lành nghề được sai đến trần gian để gặt lúa của Người, xin giúp chúng
con biết dấn thân quảng đại vào cánh đồng truyền giáo Việt Nam hôm nay.
Amen.
10. Chứng tá
Truyền giáo là nhiệm vụ của
mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản của Giáo hội và
mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã định nghĩa Giáo
hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ tông đồ của mỗi
Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín hữu mà có thể
khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một việc tùy sở
thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề sinh tồn của
Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.
Đối với người giáo dân, qua
sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai trò quan trọng của
người giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là muối, là ánh sáng, là
chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân bùn tay lấm nơi đồng
ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo chân những người
buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt mặt tối làm việc trong
những cơ xưởng, nhà máy, công trường... nhưng chính những giáo dân nhà nông,
những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm vụ đem Chúa đến cho
anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy, nghĩa là những nơi mà
giáo sĩ không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo dân sẽ đóng vai trò chủ
chốt và chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai trò yểm trợ cho giáo sĩ
mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ trong những nơi hay những
hoàn cảnh đó.
Như vậy cách truyền giáo
tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công giáo đích
thực, nhất là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu chúng ta sống
thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi chúng ta chứng
minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên những bạn tốt,
những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương mẫu ngoài công
trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây đó, khi thi hành
công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng... để nói hay làm chứng
về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương của chúng ta.
Mẹ Têrêxa Cancutta đã định
nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là "một tín hữu Kitô say mê Chúa
Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết
và yêu mến Ngài". Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và yêu mến
Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày
gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó,
truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để làm
cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng một
giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có người đã kể lại lý do và
động lực thúc đẩy ông theo đạo như sau: "Tôi đau rất nặng, người ta đưa
tôi vào bệnh viện, không ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất
tốt và tận tình giúp đỡ tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ
gối im lặng trong phòng, tôi hỏi: "Chị quỳ làm gì thế?". Chị trả lời:
"Tôi cầu nguyện cho ông". Chỉ mấy tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy
lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa, tôi thấy Chúa nơi người chị y tá
ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần, nhờ sự săn sóc đầy tình người và
những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y tá ấy, tôi đã gặp Chúa".
Câu chuyện trên cho chúng
ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta nhận ra Thiên
Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt sắng ở nhà thờ,
vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta biểu lộ tình
thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên Chúa của tình
yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo
Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự
trở nên những người bạn tốt của nhau.
Trong thư mục vụ năm 2003
của các giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo này: cầu nguyện
cho việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền giáo phải đặt nền
tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo xứ. Trước khi rao
giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy nêu gương về đời
sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức thuyết phục bằng
sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo xứ, trong giáo
phận, như lời Chúa phán: "Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh em
là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em thương yêu nhau".
Tóm lại, ngày thế giới
truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan trọng của việc
truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc truyền giáo
của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta.
11. Truyền giáo
"Mỗi người ở ngoài
Chúa là một cánh đồng truyền giáo, và mỗi người ở trong Chúa là một nhà truyền
giáo". Câu nói trên rất đúng và cũng rất hay.
"Mỗi người ở ngoài
Chúa là một cánh đồng truyền giáo". Điều đó rất đúng. Như vậy, cánh đồng
truyền giáo vẫn còn bao la, mênh mông. Mặc dầu Tin Mừng đã được loan truyền và
đạo Chúa đã được thiết lập cả hai ngàn năm rồi mà số đông vẫn chưa được nghe
biết Tin Mừng, hay nói ngược lại, chưa được một phần ba nhân loại nhận biết
Chúa Kitô. Với đà gia tăng dân số kinh khủng hiện nay, thì một ngày kia số ngày
tin theo Chúa sẽ trở thành thiểu số đáng ngại.
Các nước được mệnh danh là
"Công giáo" như Tây Ban Nha, Pháp, Ý... có tới 70-80 phần trăm dân số
được rửa tội, nhưng được mấy chục phần trăm sống theo đức tin? Từ hơn nửa thế
kỷ rồi, ngay giữa Âu Châu đã vang lên những lời cảnh tỉnh: "Nước Pháp, xứ
truyền giáo". Nước Pháp mà còn gọi là xứ truyền giáo thì nói gì đến những
xứ truyền giáo chính hiệu như ở Á Châu, Phi Châu. Hai nước có dân số lớn nhất
nhì thế giới là Trung Quốc và An độ, chỉ có không tới một phần trăm là Công
giáo. Nếu đất nước chúng ta đã thấm nhiều máu tử đạo và đang có một cộng đồng
Công giáo tương đối đông đảo, thì sát cạnh nước chúng ta, hai nước Lào và
Campuchia kể như vẫn chưa được rao giảng Tin Mừng.
Ngay tại Việt Nam chúng ta,
tính đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc là 5.776.972 người
trên tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ khoảng 7,04% dân số.
Việt Nam
vẫn còn là xứ truyền giáo, và việc truyền giáo vẫn luôn là vấn đề cấp bách.
Chính vì sự cấp bách đó nên Giáo Hội luôn luôn cổ võ tinh thần truyền giáo,
nhất là trong những văn kiện gần đây của Công đồng Vaticanô II cũng như của các
Đức Giáo Hoàng. Cũng nhằm mục tiêu đó, mỗi năm Giáo Hội dành riêng một Chúa
Nhật để cầu cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi các tín hữu cầu
nguyện, hy sinh, đóng góp, đồng thời thúc giục mọi người tham gia vào công cuộc
cao quý vĩ đại ấy.
Truyền giáo là bổn phận của
mọi người và mỗi người, việc truyền giáo không của riêng ai, và không phải là
một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là một bổn phận,
một nhiệm vụ bắt buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai có lý do nào tự
miễn chuẩn cho mình hay tự bào chữa cho mình được. Từ một em bé đến một cụ già,
từ một bệnh nhân đến một lực sĩ, từ một người buôn bán đi khắp đó đây đến một
người nội trợ, từ một người bình dân đến một người trí thức... trong mỗi hoàn
cảnh sinh sống, ai cũng phải truyền giáo, người nào cũng có thể tìm thấy cách
thức truyền giáo thích hợp với khả năng của mình. Do đó, "Mỗi người ở
trong Chúa là một nhà truyền giáo", câu nói đó rất đúng, mỗi người chúng
ta phải là một nhà truyền giáo.
Đành rằng không phải ai
cũng có thời giờ hoặc khả năng làm công việc truyền giáo trực tiếp, nhưng tất
cả mọi người đều có thể và phải thực hiện cách gián tiếp. Chẳng hạn, cầu nguyện
cho việc truyền giáo; đóng góp vào việc truyền giáo bằng những hy sinh; bớt
tiêu xài một chút trong gia đình hay cho cá nhân mình để đóng góp vào công cuộc
truyền giáo, nhưng trên hết là truyền giáo bằng đời sống chứng nhân. Đây là
cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất: Truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp
của chúng ta, một đời sống đạo đức chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm
gương sáng trước mặt mọi người.
Cách đây khá lâu, có một
cuốn Phim Việt Nam gây được nhiều chú ý ở ngoại quốc là phim "Chuyện Tử
tế" của đạo diễn Trần văn Thuỷ, phim được hãng truyền hình Pháp mua và
trình chiếu trong chương trình có tên là Đại Dương. Sau khi xem cuốn phim này,
một ký giả ngoại quốc đã hỏi đạo diễn Trần văn Thuỷ: "Những người Kitô
Việt Nam có thể làm gì để truyền giáo cho dân tộc họ?" Nhà đạo diễn đã trả
lời: "Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Kitô-hữu là niềm tin của họ và
họ phải sống điều họ tin". Lời phát biểu trên đáng để chúng ta suy nghĩ.
Sống trong một đất nước còn nhiều khó khăn, sống trong một dân tộc còn nhiều
người chưa biết Chúa, sống trong một xã hội còn nhiều tiêu cực, thì đối với
người Kitô, tin và sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế,
tức là tin và sống tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người.
Tin và sống như thế không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh
mục mà cũng chính là sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu.
Trong Tin Mừng, chúng ta
thấy Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng nhưng Ngài sai tất cả 72
môn đệ. Điều này có nghĩa là việc rao giảng Tin Mừng không phải chỉ dành cho
một số thành phần trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, nhưng là bổn phận
của mọi người và mỗi người. Điều đáng chú ý nữa là khi sai các môn đệ đi rao
giảng, Chúa Giêsu không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà Chúa trao
cho họ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả, phương tiện duy nhất và tiên
quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình người
với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người.
Sống tử tế là sống vui
tươi, sống lạc quan, sống biết điều, sống lịch sự, sống cảm thông, sống yêu
thương với mọi người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho danh Chúa
được cả sáng và nước Chúa được trị đến, tức là chúng ta đang truyền giáo vậy.
12. Hãy loan báo
Tin mừng
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử:
Các con có biết khi nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng
tối lui đi không? Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy, có phải đêm tàn và
ngày xuất hiện là khi từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được
con nào là con bò con nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không phải. Đệ tử
khác trả lời: Thưa thầy có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn
vào vườn cây, người ta có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây
mít không? Thầy vẫn lắc đầu: không phải. Thấy không ai trả lời được, thầy mới
giải nghĩa: Đêm tàn và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào
ta nhìn vào mặt người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó hiểu. Tuy trên
đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt trời. Có ánh sáng
đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng ngoại. Nhưng tất cả
những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có thứ ánh sáng nào
soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của mình.
Mẹ Têrêxa dường như đã tìm
ra thứ ánh sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được sai đến phục vụ người
nghèo tại Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao người hấp hối
ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú vật. Biết bao
trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ chuột. Biết
bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ người nghèo.
Một hôm Mẹ đi thăm một ông
già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động lòng thương cảm. Vì
tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn thỉu ngoài sức tưởng
tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao tiếp với ai. Mẹ chào hỏi
ông cũng không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp căn lều ông cũng làm
thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây đèn dầu bụi bám đen
đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông già nói: Đó là cây
đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không bao giờ đốt đèn
nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng lòng cho các chị nữ
tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý. Từ đó mỗi buổi
chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với ông. Ngọn đèn ấm
áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm mọi người. Mọi
người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia cuộc đời ông tăm
tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong trái tim ông đã
tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào cuộc sống. Ông
nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời ông vui lên,
sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi sáng. Nhưng vì
trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn ông cởi mở và ông
nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong Phúc âm, khi người
Samaritanô nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương cho người bị nạn bên
đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và họ nhận ra nhau là anh
em.
Cứ như thế Mẹ Têrêxa miệt
mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những người hấp hối, săn
sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi trẻ mồ côi. Xây bệnh
viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số người theo Mẹ ngày
càng đông và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục vụ người nghèo. Hiện
nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới biết tiếng. Mẹ được
nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm 1997, khi Mẹ qua đời, 80
nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống Mỹ Bill Clinton và phu
nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang. Và nước Ấn Độ, đa số
dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn cất Mẹ theo nghi thức
quốc tang. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là một nhà truyền
giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn soi trong đêm
tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn siêu nhiên của
thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn ấm áp tình
người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới muôn người làm
cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức Kitô và làm
cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời Cộng sản còn mạnh
và còn chống đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có thể lập nhà ở Nga, ở
Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi khắp thế giới như
lời Chúa truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh sáng Tin Mừng khắp
thế giới.
Hôm nay Giáo hội cầu nguyện
cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần vào việc
truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn lửa tin
yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi. Thế giới
sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
13. Đời sống chứng
nhân
Hôm nay, ngày thế giới
truyền giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng ta phải
truyền giáo thế nào?
Trước hết, truyền giáo là
gì? Truyền là truyền bá, truyền thông, chuyển giao, rao giảng, loan truyền...
Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm... Truyền giáo là truyền bá đạo,
là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người khác. Đó là ý
nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính xác. Đàng khác, truyền giáo còn
có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong phụng tự Thánh
Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là
"trồng" Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những
người trong địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa
này, truyền giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền
thông sự sống của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đạo
Chúa là đạo sự sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con
người từ không có Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được
Chúa. Truyền giáo theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã
có sang cho anh em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho.
Sau hết, truyền giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện
đức tin cho một cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho
những người khác.
Những ý nghĩa trên đây cho
thấy hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều sâu. Nếu làm cho những
người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ Chúa, được nhận biết và yêu
mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở rộng nước Chúa và làm tăng
thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những người đã biết và yêu mến
Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại tiếp tục làm những công
việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo chiều sâu, vì làm cho nước
Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Việc phân biệt ý nghĩa như
trên đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền giáo, vì truyền
giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại, những người lương,
những người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn có nghĩa là truyền
giáo cho cả những người Công giáo sống trong một họ, một xứ với chúng ta nữa.
Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để làm gương tốt cho
họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý nghĩa của việc
truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền giáo. Việc
truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn
làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc. Mỗi
người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh tồn của Giáo Hội
và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta phải truyền
giáo thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách nào cũng được, nhưng
nhất thiết phải thi hành hai cách này là cầu nguyện và đời sống chứng nhân: Cầu
nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu nguyện cho những
người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng sẵn sàng đón nhận
ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả đời không đi đâu
truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho việc truyền
giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền giáo, ngang
hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng ta có thường
xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc truyền giáo
không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải làm. Thứ hai là truyền
giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền giáo tốt nhất
và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng ta. Một đời
sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng trước mặt
mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói hay, vì
"Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Chúng ta hãy suy nghĩ: đời
sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
14. Hãy thả lưới
bên phải thuyền
Các Tông đồ đã đánh cá vất
vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các ngài phải ra khơi
một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì vừa qua một đêm vất
vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả, với sóng gió, với
chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt đêm không ngủ,
đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất bại ê chề,
đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra khơi, thả
lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến gần chìm.
Qua bài Tin Mừng này Chúa
muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền
giáo là một công việc đòi hỏi vất vả. Phải lao động đêm ngày. Như các Tông đồ
đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá lạnh, trong sóng gió biển khơi,
trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh trên biển cả, sáng sớm vừa mới về
tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ lại phải ra khơi ngay tức khắc.
Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi. Người muốn truyền giáo cũng phải noi
gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ. Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải
phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ không làm cho hết giờ. Và phải chấp
nhận tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền
giáo là một công việc đòi hỏi kiên trì. Vì việc truyền giáo có nhiều thất bại
hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích, nên việc truyền giáo đòi hỏi
rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại. Kiên trì khi đã chán nản, mệt
mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như lời thánh Phaolô khuyên dạy:
"Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không
thuận tiện" (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc dù đã thất bại sau
suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh Chúa truyền. Trong
quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo. Hôm nay Chúa lại mời
gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau mắn đáp lời Chúa mời
gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất chấp mọi thất bại, bất
chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo
là một công việc đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo là công việc thánh
thiện nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện khởi đi từ nhận
thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được thanh luyện. Như
Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như Phaolô ngã ngựa cảm
thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế. Sau khi được thanh
luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu. Thánh hóa bản thân
là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành công.
Bài học thứ tư: Truyền giáo
là một công việc đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền giáo là một công việc
thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm nhân, phương tiện phàm
trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các ngài biết rõ biển hồ
Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm chẳng được con nào.
Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức riêng, việc truyền giáo
sẽ không có kết quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra khơi và vâng lời Chúa
thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ khiêm nhường lắng nghe. Dù
Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa Giêsu không hiểu biết biển
hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế, các ngài đã thành công.
Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ biết khiêm nhường nhận
biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng nghe Lời Chúa. Chỉ làm
theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền giáo mới có kết quả tốt
đẹp.
Xin Chúa ban cho mỗi người
chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả khổ cực trong
việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất bại mà vẫn kiên
trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng ta được Chúa dạy
bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo mới có kết quả
tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu, xin kêu gọi
chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện chúng con để
xứng đáng làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết cách làm
việc truyền giáo. Amen.
15. Thầy Ở Cùng Anh
Em
Suy Niệm
Truyền giáo là một mệnh
lệnh và cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh: "Anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ."
Ngài đòi ta phải ra đi loan
báo Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở thành môn đệ của Chúa
Giêsu, nghĩa là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống như Ngài, sống cho
Cha và con người.
Đấng Phục Sinh nắm quyền
trên cả thế giới, nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc. Tin Mừng không còn
bị giới hạn trong mảnh đất Israel ,
nhưng lan rộng khắp trái đất (x. Mt 10,5). Ngày nào còn một người chưa trở
thành môn đệ, ngày ấy trách nhiệm chúng ta vẫn còn.
"Bằng cách làm phép
Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần". Phép Rửa
khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba Ngôi
Thiên Chúa.
"Bằng cách dạy bảo họ
tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em", như thế các môn đệ thuộc bất cứ
thời đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ giáo huấn của
Chúa.
"Và đây Thầy ở cùng
anh em mọi ngày cho đến tận thế" Đây không phải là một lời hứa cho tương
lai, nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là Emmanuel
(Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ trong mọi
bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi nhìn đến quê hương Việt
Nam ,
chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan báo
Tin Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc sống cụ
thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục vụ, bình
an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có thể trả
lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ bằng ánh
sáng Tin Mừng?
Truyền giáo không phải là
tuyên truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một cách tinh vi, Truyền
giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa hương tự nhiên như đoá
hoa. Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống Thánh Thần.
Chúng ta phải biếu Chúa
Giêsu cho con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có Chúa Giêsu, và
phải biết lắng nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, tại sao ít
người Việt Nam
theo đạo Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta
hơn không?
Cha Đắc Lộ đã đi truyền
giáo ở Việt Nam và đã đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo
bạn, người Công Giáo Việt Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha
Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của trái đất, con của một
dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin Mừng và đóng đinh
Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương, một quê hương còn
nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê hương đang mở ra trước
thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ nền đạo lý của cha
ông.
Xin cho chúng con đừng nhắm
mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng biết trăn trở trước
nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những đồng bào quanh chúng
con. Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc, quả tim và đôi tay.
Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người thiện chí.
16. Truyền giáo
(Trích trong 'Sống Tin
Mừng' – R. Veritas)
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô
II đến viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của chuyến viếng thăm này
là nghi thức công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn này là một đúc
kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nhóm họp tại Rôma hồi tháng
4.1999. Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý nghĩa đặc biệt.
Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng thăm nhất hẳn
phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là Việt Nam. Thế
nhưng, cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và quan hệ ngoại
giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Giáo Hội ở phần
đất này. Dĩ nhiên đằng sau những lý do chính trị và quan hệ ngoại giao ấy, ai
cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại Giáo Hội. Tựu
trung linh hồn của bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng là tinh thần
bất khoan nhượng. Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên xưng ý thức hệ
của chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn giáo của mình.
Tuy là một quốc gia có nền
dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé vì tinh thần bất khoan
nhượng. Tại một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm quyền gồm những
người theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực đoan lại tái cử
thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia tăng tại Ấn Độ.
Trong những năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ tấn công nhắm
vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh mục bị sát hại,
nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một nhóm Ấn Giáo cực đoan
đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Ii viếng
thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các cuộc trở lại Công
Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền giáo cho người Ấn
trong quá khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí bất khoan
nhượng ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi để công bố
Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Trong bầu khí đó chúng ta
thấy rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ với các tín hữu Kitô
tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người Ấn Độ là sứ điệp về
lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn cuộc cách mạng bất
bạo động vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma Gandhi chủ xướng, Ngài
cũng nói đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao nhiêu nhà hiền triết Ấn
Độ.
Quả thật, tôn giáo nào cũng
tốt trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần khoan nhượng vốn là
yếu tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo nào cũng dạy con người ăn
ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động, hận thù và tinh thần
bất khoan nhượng.
Trong tuyển tập có tựa đề
"Con Đường Đơn Sơ" của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị Sáng Lập Dòng Nữ Tu
Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau: "Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài là Thiên
Chúa của tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người bình đẳng trước
mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn Giáo
trở thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở thành một người
Hồi Giáo tốt hơn và một người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt
hơn." Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách đây 4 năm chứng
tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được mọi người đón nhận. Sứ
điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông mà còn bằng
cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm nay là ngày thế giới
truyền giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền giáo của Giáo
Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa sai trên cánh đồng
truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô là Đấng duy
nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta được Giáo Hội mời
gọi mỗi người ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu được ý nghĩa
đích thực của việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã định
nghĩa về một nhà truyền giáo: "Đó là một tín hữu Kitô say mê Chúa Giêsu
đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người nhận biết và yêu
mến Ngài". Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người ta biết và yêu mến Chúa
Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt
của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do đó, truyền
giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống của mình để làm cho người
ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền giáo không chỉ là
rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương. Đây
chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và yêu người
được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã hội mà
Kitô giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là quyết
tâm sống như thế nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến chỉ
để rao giảng một thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối bỏ
những quyền tự do cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với các tín
hữu Kitô hiện nay chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương
và khoan nhượng.
* CHÚA NHẬT 29
THƯỜNG NIÊN
1. Nộp thuế
Thời bấy giờ, dân Do Thái
đang sống dưới ách thống trị của đế quốc Lamã. Có những kẻ cộng tác với đế
quốc, thì ủng hộ việc nộp thuế. Nhưng cũng có những người muốn lật đổ ách thống
trị, thì chống đối việc nộp thuế, bởi vì làm như thế chẳng khác nào nối giáo
cho giặc.
Trong một bối cảnh như vậy,
câu hỏi có nên nộp thuế cho César hay không, quả là một cái bẫy. Trả lời là có
thì mất lòng dân. Còn trả lời là không thì sẽ bị kết án là chống đối nhà nước.
Trước hết Chúa Giêsu bảo họ đưa cho mình xem đồng tiền La mã. Hành động này đẩy
họ vào cái thế phải trả lời cho chính câu hỏi đã nêu ra, bởi vì mang trong
người đồng bạc La mã là chấp nhận những sự ràng buộc của La mã. Tiếp đến hình
và chữ ký trên đồng tiền này đã đem lại cho Chúa Giêsu một câu trả lời đầy lý
tưởng: Của César hay trả cho César, của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Với câu trả lời này, Chúa
Giêsu không nề nhằm mục đích đưa ra nền tảng cho một học thuyết chính trị, cũng
không hề có ý định tách biệt thế giới làm hai. Một thuộc về César, một thuộc vê
Thiên Chúa. Ngài để việc này tuỳ cá nhân quyết định vì mỗi người phải giải
quyết về những đối nghịch giữa Thiên Chúa và trần gian.
Là người Kitô hữu, chúng ta
có hai quyền công dân đi đôi với nhau, sở dĩ như vậy vì chúng ta là công dân
của hai thế giới, đó là thế giới trần gian và thế giới thiên quốc. Như vậy,
chúng ta phải tôn trọng những đòi buộc của mỗi bên. Chính vì thế mà trong bức
thư gởi tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã khuyên nhủ: Hãy vâng phục các vị cầm
quyền, hãy nộp cho họ những gì chúng ta mắc nợ. Mong rằng giữa hai quyền công
dân này không bao giờ xảy ra những xung đột, nhưng luôn đi song song và bổ túc
cho nhau, vì đạo chỉ đẹp khi ở trong đời và đời chỉ tốt khi ở trong đạo.
Còn nếu chẳng may xảy ra
xung đột thì người Kitô hữu phải biết cách giải quyết: Vâng phục Thiên Chúa hơn
vâng phục loài người. Đó là cách thức đã từng được người Kitô hữu giải quyết
trong dòng lịch sử, mỗi khi có những cấm cách và bách hại xảy đến.
Vua Henri VIII nước Anh đã
kết hôn hợp pháp, nhưng rồi ông xin Đức Giáo Hoàng huỷ bỏ cuộc hôn nhân hợp
pháp ấy. Vì không có nền tảng chính đáng, Đức Giáo Hoàng đã từ chối. Và thế là
ông ra lệnh cho bạn bè và các chức sắc ký vào một bản tuyên bố đồng ý chấp nhận
hành động của ông. Nhiều người đã ký, nhưng Thomas More thì từ chối. Nhà vua
yêu cầu Thomas More ý vào nếu không sẽ bị tống giam và khép vào tội phản loạn,
nhưng Thomas More vẫn khăng khăng từ chối. Ngài bị giằng co giữa hai bổn phận.
Một đối với Thiên Chúa và một đối với nhà vua. Và khi chúng chống đối nhau,
ngài không còn một lựa chọn nào khác ngoài việc trung thành với lề luật của
Thiên Chúa.
Bởi vì, Thiên Chúa phải
chiếm chỗ nhất, phải chiếm địa vị số một trong tâm hồn và trong cuộc sống của
chúng ta.
2. Suy niệm của Lm.
Ignatiô Trần Ngà
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin
Mừng')
CỦA XÊ-DA, TRẢ VỀ XÊ-DA;
CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ THIÊN CHÚA
Những người biệt phái và
những người thuộc phe Hê-rô-đê âm mưu gài bẫy hãm hại Chúa Giêsu. Khởi đầu, họ
đưa ra những lời mật ngọt để dụ Người đi vào cạm bẫy: "chúng tôi biết Thầy
là người chân thật và cứ sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng
chẳng vị nể ai..." rồi tiếp đó, xô Chúa Giêsu vào tròng: "Có được
phép nộp thuế cho Xê-da không?"
Trả lời đằng nào cũng mắc
nạn. Nếu bảo rằng: được phép, thì người Do-Thái sẽ vin vào đó mà kết án Chúa
Giêsu là người ủng hộ đế quốc Rô-ma, phản bội đồng bào; nếu bảo không thì họ sẽ
tố giác Người với chính quyền Rô-ma với tội danh là xúi dân đừng nộp thuế.
Chúa Giêsu biết ngay mưu đồ
thâm độc của họ, Người lách khỏi cạm bẫy cách tài tình khi đề nghị họ cho Người
xem đồng tiền nộp thuế và yêu cầu họ trả lời hình và hiệu trên đồng tiền đó là
của ai. Họ trả lời: "của Xê-da". Chúa Giêsu mượn cơ hội đó để nêu lên
cho mọi người một nhận định đáng quan tâm suy nghĩ: "của Xê-da, trả về
Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
* * *
1. Mọi sự đều là của Chúa,
nếu Người lấy đi, ta chẳng còn gì
Mọi thứ chúng ta có đều là
của Chúa ban. Nếu Chúa cất đi những gì Chúa ban, thử hỏi chúng ta còn lại được
gì?
Chúng ta hãy nghe lại
chuyện ông Gióp để hình dung xem khi Chúa lấy lại những gì Chúa trao thì con
người còn lại những gì.
"Xưa ở đất Út có một
người tên là Gióp. Ông là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và
lánh xa điều ác. Ông sinh được bảy người con trai và ba người con gái. Ông có
một đàn súc vật gồm bảy ngàn chiên dê, ba ngàn lạc đà, năm trăm đôi bò, năm
trăm lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ông là người giàu có nhất ở Phương
Đông...
Một ngày kia, Satan đến gặp
Thiên Chúa. Thiên Chúa khen ông Gióp là người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ
Thiên Chúa và xa lánh điều ác.
Satan cho rằng ông Gióp tốt
với Chúa như vậy chẳng qua là vì Chúa ban cho ông ta phúc lộc dư dật. Nếu Chúa
thử giơ tay rút lại những tài sản Chúa ban cho Gióp, xem Gióp có còn kính sợ
Chúa nữa không? Chắc chắn là Gióp sẽ nguyền rủa Chúa thôi!
Thiên Chúa chấp thuận để
cho Satan thử thách lòng trung tín của ông Gióp đối với Người.
Vậy là một ngày kia, đang
khi các con trai con gái của Gióp đang ăn uống ở nhà anh cả, thì có một người
đưa tin đến cho ông Gióp rằng:
- Trong lúc bò của ông đang
cày ruộng và lừa cái ăn cỏ bên cạnh, dân Sơ-va đã xông vào cướp lấy; chúng lại
còn dùng gươm giết chết các đầy tớ. Chỉ còn mình tôi thoát nạn chạy về báo cho
ông hay.
Người ấy còn đang nói thì
một người khác chạy về thưa:
- Lửa của Thiên Chúa từ
trời giáng xuống đốt cháy chiên dê và đầy tớ; lửa đã thiêu rụi hết, chỉ có mình
tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.
Người nầy còn đang nói thì
một người khác chạy về thưa:
- Người Can-đê chia thành
ba toán ập vào cướp lấy lạc đà; còn các đầy tớ, chúng dùng gươm giết chết, chỉ
có mình tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.
Người ấy còn đang nói thì
một người khác chạy về thưa:
- Con trai con gái ông đang
ăn uống tại nhà người anh cả thì một trận cuồng phong từ bên kia sa mạc thổi
thốc vào bốn góc nhà; nhà sập xuống đè chết hết tất cả mọi người, chỉ có mình
tôi thoát nạn chạy về báo tin ông hay.
Bấy giờ ông Gióp chỗi dậy,
xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và nói: "Thân trần
truồng sinh từ lòng mẹ, tôi cũng sẽ trở về đó trần truồng. Đức Chúa đã ban cho,
Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!" (Gióp 1, 6-22).
Câu chuyện trên đây giúp
chúng ta biết rằng: mọi sự ta có đều là của Chúa tạm ứng cho ta hưởng dùng, nếu
mai đây Chúa đòi lại thì chúng ta không khác gì ông Gióp: trần trụi, chơ vơ,
chẳng còn gì!
Nhờ đôi mắt Chúa ban, chúng
ta được nhìn thấy vẻ huy hoàng của thế giới; nếu Chúa lấy đi, chúng ta thành kẻ
mù loà. Đôi chân nầy cũng là ân huệ Chúa ban, nhờ đó chúng ta có thể đi đến bất
cứ nơi đâu mình muốn; nếu Chúa lấy đi, chúng ta trở thành người tàn phế. Nhờ
hơi thở Chúa ban, chúng ta còn tồn tại đến hôm nay; nếu Chúa cất đi, chúng ta
tắt hơi sau năm phút. Nhờ ánh sáng mặt trời Chúa ban, chúng ta được sưởi ấm và
được sống; nếu Chúa lấy đi, chúng ta sẽ chết cóng vì lạnh sau nửa tiếng đồng
hồ... Chúa ban cho chúng ta tất cả, chúng ta là những kẻ mắc nợ Ngài trong tất
cả những gì chúng ta có.
Ngoài những món quà vật
chất còn có vô số ân huệ thiêng liêng, mà ân huệ lớn nhất là Thiên Chúa Cha đã
trao ban cho ta ngay cả Con Một của Người để mang lấy tội lỗi chúng ta, chịu
khổ hình và chịu chết thay cho chúng ta.
Ngoài ra chúng ta cũng mang
nợ xã hội rất nhiều: Thợ hồ xây nhà cho ta ở; thợ mộc đóng bàn ghế cho ta dùng;
thợ may cung cấp cho ta quần áo che thân; thầy giáo cho ta tri thức và văn hoá;
cha mẹ sinh ra, nuôi dạy chúng ta được khôn lớn như ngày hôm nay...
2. Hãy đền đáp công ơn
Thiên Chúa vì những ân huệ Người ban tặng cho ta.
Trong tương quan xã hội,
người Việt Nam
có truyền thống đáp nghĩa đền ơn rất chu đáo. Bánh ít đưa đi, bánh dì đưa lại.
Có qua có lại mới toại lòng nhau. Hôm nay có dịp nhận quà mừng của người khác,
mai đây người ta không quên đáp lại bằng một quà mừng tương xứng.
Nợ người đời tuy ít mà
người ta còn lo đáp đền sòng phẳng, huống là những món nợ rất lớn đối với Thiên
Chúa toàn năng.
Thầy giảng Anrê Phú Yên là
một vị thánh tử đạo rất trẻ, là học trò của cha Đắc Lộ. Thầy được lãnh bí tích
rửa tội năm 15 tuổi, được đào tạo và trở thành giáo lý viên năm 17 tuổi và đến
năm 19 tuổi thì bị quan quân bắt bớ.
Thầy vui lòng được chết để
làm chứng cho Tin Mừng và cho Chúa Kitô. Ước vọng của thầy là muốn dâng hiến
trọn vẹn cuộc đời để đền đáp lại ân tình của Chúa. Ước vọng đó được thầy diễn
tả qua câu nói: "Đem mạng sống đáp đền mạng sống, lấy tình yêu đáp trả
tình yêu." Thiên Chúa đã yêu thầy vô cùng thì thầy cũng đáp lại bằng tình
yêu thật lớn. Thiên Chúa đã chết cho thầy thì thầy cũng muốn dâng hiến mạng
sống thầy cho Chúa. Đó cũng là nội dung lời dạy trong Tin Mừng hôm nay: hãy trả
cho Thiên Chúa những gì thuộc về Người.
Cùng nguyện xin Thiên Chúa
giúp chúng ta không vô ơn và tự phụ khi nhận được rất nhiều ân huệ của Thiên
Chúa nhưng biết dâng hiến tất cả những gì Chúa ban, từ thời giờ, sức lực, trí
tuệ đến tài năng, của cải và trọn cuộc sống chúng ta để báo đền vô vàn hồng ân
Thiên Chúa.
3. Trả nợ cuộc đời
– Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện kể rằng:
có một người con gái nông thôn lên thành thị học, sau khi học thì cưới chồng
giàu sang. Khi đám cưới, mẹ cô từ dưới quê nghèo lên dự, nhưng vẫn mang dáng
dấp quê mùa với bộ đồ đã bạc màu, cũ kỹ. Sợ khách chê cười và xem thường mình,
cô con gái không dám nhìn mặt mẹ và không dám giới thiệu mẹ với khách. Dù rằng,
cô vẫn biết bà mẹ nhà quê rất tủi thẹn, nhưng cô vẫn lạnh lùng làm ngơ. Cô con
gái đã đánh mất lòng thương yêu ngay cả đến với mẹ mình. Cô là loại người vong
ân bội nghĩa. Cô đã phạm tội bất hiếu khi đang tâm không nhìn nhận công đức của
mẹ đã dành cho cô: "chín tháng cưu mang, ba năm bú mớm, tất bật nuôi con
cho tới khi trưởng thành". Những loại người như vậy thường bị người đời
kết án, tẩy chay, xem thường...
Lời Chúa hôm nay như là lời
chất vấn lương tâm chúng ta. Của Xê-za hãy trả về cho Xê-za, của Thiên Chúa hãy
trả về cho Thiên Chúa. Của Xê-za có thể là những thứ công bình bác ái giữa
người với người, hay có thể là bổn phận phải thi hành cho đất nước, cho gia đình
và xã hội. Của Thiên Chúa chính là con người phải lệ thuộc vào Thiên Chúa vì sự
sống là của Thiên Chúa ban, và còn được Ngài ưu ái dựng nên giống hình ảnh
Ngài. Của Thiên Chúa còn là những kỳ quan thiên nhiên mà Thiên Chúa đã quan
phòng xếp đặt cho có thời, có lúc để nuôi dưỡng con người. Chính vì thế mà có
ai đó nói rằng: con người sinh ra đã mang kiếp nợ trần. Con người đã mang ơn
khi vào trần gian nên phải trả nợ cho hết cuộc đời. Trả nợ Thiên Chúa và trả nợ
tha nhân.
Vậy, chúng ta phải trả lại
cho Thiên Chúa và tha nhân những gì?
Hãy trả lại cho Thiên Chúa
những thứ thuộc về Thiên Chúa. Đó chính là con người là hoạ ảnh Thiên Chúa, là
"nhân chi sơ tính bản thiện". Nhưng đáng tiếc, con người đã quay lưng
lại với Thiên Chúa, đã phá vỡ những nét đẹp của hình ảnh Thiên Chúa khi lao vào
những đam mê lầm lạc như: ngoại tình, dâm ô, cướp của, giết người hay gian dối,
điêu ngoa... khiến con người trở thành "chó sói của con người" như
lời của Saint paul Sart đã từng thốt lên trong chua chát!
Hãy trả lại cho Thiên Chúa
quyền làm chủ sự sống. Nhưng đáng tiếc, con người đã lạm dụng tự do để bức tử
các thai nhi vô tội khiến hàng triệu thai nhi bị tước đoạt quyền sống, quyền
làm người của mình.
Hãy trả lại cho Thiên Chúa
những trật tự thiên nhiên mà chính Ngài đã khôn ngoan xếp đặt. Nhưng đáng tiếc,
con người đã đang tâm phá vỡ khi ngăn sông, lấp biển, chặt cây, đốt rừng khiến
lũ lụt tràn lan, mưa nắng thất thường...
Hãy trả lại cho tha nhân
lòng biết ơn mà mỗi người chúng ta từng mang ơn khi bước vào đời. Nhưng đáng tiếc,
nhiều người đã sớm vong ân bội nghĩa khi dứt bỏ tình cha, tình mẹ. Họ đã sống
thiếu trách nhiệm với gia đình và xã hội khi lười biếng và sống sa đoạ tội lỗi.
Hãy trả lại cho tha nhân sự
công bình và bác ái mà mỗi người khi sinh ra đều được hưởng dùng của cải mà
Thượng Đế ban tặng qua vũ trụ vạn vật. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã làm dụng
quyền bính để vun quén cho bản thân, để bóc lột kẻ thấp cổ bé họng để làm giầu
cho bản thân.
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta: hãy trả lại cho Thiên Chúa sự trong trắng tâm hồn của con người là
hình ảnh ban đầu mà Thiên Chúa đã tạo dựng nên. Hãy trả lại cho tha nhân không
chỉ là quyền được sống mà còn được sống dồi dào trong sự tôn trọng tự do của
nhân quyền giữa người với người, không phân biệt giai cấp hay màu da sắc tộc .
. .
Chúng ta đang sống trong
một xã hội mà mọi giá trị đang mai một và đảo ngược. Ngay thẳng thật thà thì bị
coi là ngu khờ dại dột... "Lương tâm không bằng lương tháng". Một xã
hội mà dối trá đang ngự trị khắp nơi mà có ai đó nói trong cay đắng rằng: xã
hội hôm nay đang tiến từ thời kỳ đồ đá, đồ đồng sang thời kỳ "đồ
đểu"! Một xã hội mà Cái TÔI lên ngôi Thượng Đế nên có quá nhiều những thị
phi. Con người hôm nay đang lừa dối lòng mình và lừa dối tha nhân khi nói rằng:
không có Thiên Chúa, không có thần linh. Chết là hết... Vì vậy mà người ta luôn
đang tâm làm hại lẫn nhau, luôn tìm cách loại trừ Thiên Chúa để dễ dàng làm
ngược với lương tri con người.
Ước gì mỗi người chúng ta
biết nhận ra sự sống là quà tặng Thiên Chúa ban và được nuôi dưỡng trong tình
yêu thương của đồng loại, để rồi mỗi người chúng ta luôn biết sống trong tâm
tình tri ân Thiên Chúa và cảm tạ tha nhân. Amen.
4. Ác ngầm – Lm.
Phêrô Bùi Quang Tuấn
Cổ Học Tinh Hoa có thuật
lại câu chuyện xảy ra trong thời Chiến quốc bên Trung Hoa: Vua nước Nguỵ muốn
cầu hoà với vua Kinh nước Sở nên đã dâng cho vua này một cô gái tuyệt đẹp. Vua
Kinh yêu nàng ta mê mệt đến nổi chẳng còn thiết gì đánh nhau. Vua đem cô gái về
nước và lập làm vợ thứ.
Hoàng hậu nước Sở là Thịnh
Tụ thấy vua thương cô gái cũng đem lòng quí mến chiều chuộng. Muốn mặc gì, đi
chơi đâu, nhất nhất hoàng hậu cũng đồng ý. Thấy thế vua Kinh mừng lắm, có lần
khen: "Hoàng hậu thấy ta yêu quí vợ mới mà cũng đem lòng thương mến như
thế thì có gì khác nào con thảo biết thờ kính cha mẹ, tôi trung biết làm vui
chủ mình".
Hoàng hậu thấy vua không
nghi ngờ gì nên một dịp kia mới bảo cô gái đẹp: "Đức vua thương yêu ngươi
lắm, chỉ ghét có cái mũi của ngươi. Giá mà từ nay, mỗi lần trông thấy đức vua,
ngươi che mũi lại thì chắc sẽ được yêu thương hơn nhiều".
Nghe lời khuyên nên hễ vừa
thấy đức vua, cô gái nọ liền che mũi lại. Thấy lạ vua Kinh mới dò thăm với
hoàng hậu. Trước thì hoàng hậu trả lời "không biết" đến khi thấy vua
cứ gặng hỏi, bà mới nói; "Thiếp nghe đâu cô ấy nói thân thể đức vua có mùi
hôi khó ngửi, nên cứ phải che mũi thế đấy".
Nghe vậy nhà vua nổi giận
quát lên: "Thế thì xẻo ngay cái mũi của nó cho ta".
Lập tức một tên lính cầm
dao đi xẻo mũi cô gái, bởi hoàng hậu có dặn: hễ nghe vua phán gì thì phải thi
hành ngay.
Ôi nham hiểm và thâm độc
thay! Lòng bừng bừng ghen tức, nhưng ngoài mặt lại rộng lượng vô bờ. Bên trong
muốn xé nát người ta, nhưng bên ngoài vẫn quyến luyến thiết tha. Rồi cuối cùng,
bằng một mũi tên độc, Trịnh Tụ hạ được hai "con nhạn": tình địch bị
cắt mũi, nhà vua mất người yêu. Thế mới hay tác hại kinh khủng của những kẻ
khẩu tâm bất nhất. Miệng nam mô, lòng là một bồ dao găm.
Tội nghiệp nhà vua, vô tư
đến nỗi tưởng lời nói của hoàng hậu là chân tình. Thấy người ta thuận ý thì đắc
chí, khi nghe tiếng chê thì lồng lộn căm tức, không cần suy xét, nên mắc vào
cạm bẫy gian manh.
Hôm nay, một chiếc bẫy cũng
được giương lên rất khéo. Kẻ đặt bẫy cũng tinh ranh không kém Trịnh Tụ. Nhưng
người họ muốn gài bẫy không dại khờ như vua Kinh.
Các ký lục biệt phái cùng
nhóm người Hêrôđê giăng lên một chiếc bẫy. Họ chắc mẩm Chúa có chạy đường trời
cũng không thoát. Đầu tiên họ ca tụng tang bốc Ngài lên tận mây xanh. Nào là
"chúng tôi biết Thầy là người ngay chính", nên chúng tôi tìm đến. Nào
là "Thầy cứ căn cứ theo sự thật mà dạy bảo đường lối Thiên Chúa", nên
chúng tôi xin học hỏi. Nào là "Thầy không thiên tư tây vị ai", nên
thầy sẽ nói tất cả, chẳng sợ mất lòng người nào.
Thật ghê gớm! Lời ca tụng
của họ ngầm bảo rằng chuyến này Đức Giêsu phải mở miệng. Mà như thế ắt sẽ mắc
quai.
Sau khi rào đầu chắn đuôi,
họ mới giăng bẫy để Chúa bước vào: "Thưa Thầy, có nên nộp thuế cho Cêsarê
không?". Nếu không im lặng thì câu trả lời chỉ còn là "có" hay
"không". Nhưng "có" cũng chết, mà "không" cũng
hết sống. Vì khi trả lời "có", lập tức Đức Giêsu bị ghép với phường
thu thuế, đám người đang bị dân Do thái ghét đắng ghét cay: hễ ai ủng hộ nộp
thuế hay cộng tác với chính quyền Rôma đều bị xem như bọn cấu kết với ngoại
bang, thiếu tinh thần dân tộc, và đáng khinh chứ không đáng kính, đáng tôn.
Nhưng nếu Đức Giêsu nói
"không", ngay lập tức bọn theo phe Hêrôđê sẽ tố cáo Ngài có tinh thần
dấy loạn, dám chống lại chính sách nhà nước. Và tất nhiên Ngài sẽ khó tránh
khỏi án phạt đích đáng.
Một câu hỏi đơn sơ nhưng
sao khó giải quyết. Tuy nhiên việc giải quyết câu hỏi vẫn không phức tạp cho
bằng giải quyết lòng người. Phức tạp là vì người hỏi không mang chủ đích tìm
một con đường hay một hướng đi cho đời, nhưng là để làm hại kẻ khác. Phức tạp
còn là vì người hỏi không định lái đời mình theo điều dạy bảo, nhưng mong có
câu trả lời theo ý mình muốn.
Đừng tưởng chỉ có đời xưa
người ta mới hỏi phức tạp như thế. Đời nay cũng thế thôi!
Có người từng đặt vấn đề:
"Con đi làm, bị chủ trả lương thấp, con câu giờ, làm ít tính nhiều có tội
không? Mình 'ăn' tiền chính phủ rồi thỉnh thoảng đem cúng nhà thờ có sao
không?" Có người lại thắc mắc: Nếu vợ chồng chẳng còn nồng ấm, gia đình
đang biến thành hoả ngục, li dị hay ngoại tình sẽ là lối thoát hay nhất, nhưng
tại sao Giáo hội không cho phép?" Người khác còn nói: "Thời buổi này
nuôi dạy con cái không dễ, nhưng sao Giáo quyền không cho ngừa thai như chính
quyền cho phép? Tại sao Giáo hội không rộng rãi đôi chút để đáp ứng lối sống và
nhu cầu con người thời đại? Dường như lề luật của Chúa và Giáo hội làm nên
xiềng xích trói buộc tự do và hạnh phúc con người?"
Thế đấy, xưa và nay không
thiếu những câu hỏi "đơn sơ" như của biệt phái và bè Sađoc.
Nhưng một câu hỏi và cũng
là câu trả lời căn bản nhất sẽ là: Tại sao người ta không chịu thay đổi lối
sống cho phù hợp với những giá trị bất biến của Tin Mừng như công bằng, hy
sinh, bác ái, yêu thương, tha thứ, tôn trọng sự sống, một vợ một chồng..., mà
lại cứ đòi Chúa Kitô và Giáo hội thay đổi chân lý theo sở thích và đam mê của
con người? Tại sao không dùng những phương cách chính đáng để đạt đến mục đích
tốt lành mà lại dùng những mục đích rất kêu để biện minh cho các hành động vô
luân và bất nhân?
Thành ra vấn nạn không phải
nơi Thiên Chúa nhưng là nơi con người. Thay vì "con vâng ý cha",
người ta lại cứ muốn "Cha theo ý con". Vấn đề không phải là Thiên
Chúa hay Giáo hội khắt khe, độc tài, thiếu cảm thông hiểu biết, nhưng vấn đề là
vì con người cứ cho mình hiểu biết hơn Thiên Chúa, khoan nhân hơn Hội Thánh.
Thế rồi khi lên tiếng thì tiếng đó không phát xuất từ con tim khao khát chân
lý, muốn tìm con đường đúng nhất hầu có được niềm vui thẳm sâu, nhưng nó lại
phát xuất từ ích kỷ dối gian, đam mê bất chính, khát khao tội lỗi. Chúng đến từ
ý tưởng của thế gian chứ không phải từ Thiên Chúa.
Trong khi người ta hỏi Chúa
Giêsu về chuyện thế tục, Ngài lại hướng họ đến một chiều kích cao hơn: Hãy trả
cho Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Thử hỏi, có gì tốt đẹp người ta
nhận được mà không đến từ Thiên Chúa. Thành ra, vượt lên Cêsarê để đi đến Thiên
Chúa, vượt qua vật chất để hướng về tâm linh là bổn phận cần thiết nhất trong
đời con người.
Ước chi bao tâm tư mỗi ngày
đời tôi sẽ luôn khởi đi từ con tim mến thương chân thành, nhiệt tình xây đắp
nhân phẩm, tha thiết làm sáng danh Cha. Có thể, hồn tôi sẽ được bình an; cuộc
sống sẽ chứa chan tin yêu hy vọng.
5. Của César
Ngày nay trước vấn đề tục
hoá, vai trò của tôn giáo dường như mỗi lúc một mờ nhạt. Thế nhưng rải rác đó
đây vẫn còn những sự kiện đáng cho chúng ta suy nghĩ. Chẳng hạn giáo chủ
Khomenei ra lệnh hành quyết đối với nhà văn Salman Rushdie vì ông này đã báng
bổ Hồi giáo qua cuốn "Vần thơ của ác quỷ". Và cũng đã lâu, các học
giả Hồi giáo đòi lấy đầu bà Thủ tướng Butto nước Pakistan vì bà này dám huỷ bỏ luật
chặt tay những kẻ trộm cắp. Trong bối cảnh đó thì đoạn Tin Mừng sáng hôm nay có
ý nghĩa gì?
Đây là lần đầu tiên bọn
biệt phái và phe Hêrôđê liên kết với nhau tưởng rằng sẽ mưu cầu đại sự, ai ngờ
chỉ nhằm loại bỏ Chúa Giêsu bằng cách gài bẫy Ngài trước một vấn đề xem ra nan
giải: Có được phép nộp thuế cho César hay không? Nêu lên câu hỏi này, bọn biệt
pháp chỉ chờ câu trả lời có để ghép tội Chúa Giêsu là kẻ chống phá tôn giáo, đi
với đế quốc. Trong khi phe Hêrôđê thì lại chờ câu trả lời không để xếp Ngài vào
số những kẻ thù địch với chính quyền. Có hay không, phần thiệt luôn nghiêng về
Chúa Giêsu.
Nhưng thật bất ngờ đến độ
chưng hửng, Chúa Giêsu không những đã vạch trần thủ đoạn nham hiểm của họ, mà
còn đẩy họ tới chỗ phải chịu trách nhiệm về những chọn lựa của mình. Ngài nói:
Của César hãy trả cho César. Đây là một sự kiện thực tế bởi vì họ tiêu dùng
tiền Rôma thì cũng phải đóng thuế cho Rôma. Quyền lợi đi liền với nghĩa vụ. Nộp
thuế cho César không phải là một hành vi phạm thánh như bọn biệt phái cố tình
dàn dựng, nhưng là một hành động hợp lý với những ai có ý thức xã hội.
Bọn biệt phái thì chưng
hửng còn phe Hêrôđê thì cụt hứng. Những tưởng đã chụp mũ được Chúa Giêsu trong
góc độ chính trị, nếu Ngài phủ nhận quyền bính của César, nhưng Ngài lại muốn
khẳng định mình trong cương vị tôn giáo. Thế nên, chẳng thể bảo Ngài là thoả
hiệp hay chống đối, bởi vì Ngài là con người tôn giáo biết chu toàn mọi bổn
phận công dân.
Vượt trên vấn nạn của kẻ
thù, Chúa Giêsu còn mời gọi họ bước tới với trách nhiệm tôn giáo. Dù đứng trong
lập trường nào, họ đều là những người Do Thái, kính mến Thiên Chúa và tuân giữ
luật lệ của Maisen, nên bổn phận trước hết của họ phải là bổn phận tôn giáo:
của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa. Qua đó Ngài cũng xác quyết vê quyền tối
thượng của Thiên Chúa. Thực vậy, Thiên Chúa là chủ và quyền năng của Ngài bao
trùm mọi lãnh vực. Ngài không tự đặt mình ngang hàng với César để tranh chấp
hay bảo vệ những quyền lợi của mình. Bởi vì nộp thuế hay không nộp thuế cho
César đâu có thêm bớt được cho vinh quang của Ngài. Do đó, chúng ta có thể chu
toàn những bổn phận đối với Thiên Chúa mà vẫn cứ an tâm nộp thuế cho César.
Chúng ta không phải chỉ ngỡ
ngàng và thán phục cung cách trả lời của Chúa Giêsu, mà còn ngỡ ngàng và thán
phục hơn nữa với nội dung của lời giải đáp, có sức làm bật tung những lối nhìn
tù túng. Có thể nói được rằng chỉ có một bổn phận duy nhất là làm đẹp lòng
Thiên Chúa, Đấng bao trùm trong mọi lãnh vực. Bởi vì đạo chỉ đẹp hơn khi ở
trong đời và đời chỉ tốt hơn khi ở trong đạo.
6. Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
CỦA THIÊN CHÚA TRẢ CHO
THIÊN CHÚA
Người Do Thái muốn gài bẫy
Chúa nên đưa ra câu hỏi hóc búa. Không ngờ Chúa trả lời thật khôn ngoan:
"Của César trả cho César, của Thiên Chúa trả cho Thiên Chúa". Với câu
trả lời này, Chúa Giêsu minh định hai điều:
Thứ nhất: Tôn giáo và chính
trị tách biệt nhau. Chính trị không thể trở thành tôn giáo hoặc bắt tôn giáo
làm nô lệ. Tôn giáo cũng không thể đi vào chính trị, đánh mất bản chất của
mình.
Thứ hai: Mỗi người phải chu
toàn hai nhiệm vụ. Nhiệm vụ đối với xã hội là "trả cho César" những
gì của César. Nhiệm vụ đối với Thiên Chúa: "trả cho Thiên Chúa" những
gì thuộc về Thiên Chúa.
Hình và huy hiệu khắc trên
đồng tiền là của hoàng đế César vì thế phải trả lại cho ông. Nhưng linh hồn con
người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa nên linh hồn phải được trả về cho
Thiên Chúa.
Để có được đồng tiền mang
hình ảnh César, người dân phải làm việc vất vả. Cũng thế, để linh mang hình ảnh
Thiên Chúa, con người cũng phải ra sức làm việc.
Nhưng hai cách làm việc
thật khác xa nhau. Để chia sẻ phần nào quyền lực của vua chúa trần gian, người
ta phải làm việc theo cách vua chúa đó là tìm chiếm hữu của cải. Để trở nên
giống hình ảnh Thiên Chúa, con người phải suy nghĩ và hành động như Thiên Chúa
đó là yêu thương và cho đi.
Bí tích Thánh Thể là minh
họa rõ nét nhất về tính cách yêu thương và cho đi của Thiên Chúa. Nói về bí
tích Thánh Thể, lòng trí ta tự nhiên hướng về bữa Tiệc Ly, cuộc Khổ Nạn và cái
chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Qua đó ta thấy một vài khía cạnh trong tình
yêu của Chúa.
Đó là tình yêu phục vụ. Tin
Mừng thánh Gioan thuật lại. Chúa Giêsu yêu thương những kẻ thuộc về mình thì
yêu thương cho đến cùng. Nên trong bữa ăn tối, Người cầm lấy chậu nước và khăn
rồi đi rửa chân cho từng môn đệ.
Đó là tình yêu tự hiến. Khi
lập phép Thánh Thể. Chúa Giêsu đã nói: "Đây là Mình Thày bị nộp vì anh em;
Đây là Máu Thày đổ ra cho anh em và mọi người được tha tội" (Lc 22,19).
Đó là tình yêu hiền lành
khiêm nhường. Chúa Giêsu cam lòng chịu kết án oan ức, chịu sỉ nhục, chịu hành
hạ chịu chết mà chẳng một lời oán thán.
Đó tình yêu tha thứ. Không
chỉ tha thứ mà còn cầu xin Chúa Cha tha cho những kẻ làm hại mình: "Lạy
Cha, xin tha cho họ, vì họ lầm không biết" (Lc 23,34). Người cũng tha thứ
cho kẻ trộm lành: "Thật Ta bảo thật, hôm nay con sẽ ở với Ta trên thiên
đàng" (Lc 23,43).
Đó là tình yêu muốn tiếp
diễn mãi mãi. Nên Người truyền cho ta: "Các con hãy làm việc này mà nhớ
đến Thày" (Lc 22,19). Cử hành thánh lễ, chầu Mình Thánh, kiệu Thánh Thể để
Chúa ở mãi với ta, tiếp tục bày tỏ tình yêu thương với ta.
Người mong muốn kéo dài
tình yêu của Người cho đến tận cùng không gian và đến tận cùng thời gian nơi
cuộc đời chúng ta. Vì thế khi ta chịu lễ, ta phải kết hiệp mật thiết với Người,
nên một với Người. Nên một với Người là biến đổi để ta suy nghĩ, nói năng và
hành động như Người, nghĩa là sống như Người.
Sống như Chúa là hãy có
tình yêu thương phục vụ. Vì Chúa đã dạy: "Như Thày đã rửa chân cho các
con, các con cũng hãy rửa chân cho nhau" (Ga 13,14). Sống như Chúa là hãy
có tình yêu tự hiến. Quên mình vì hạnh phúc của người khác. Dám hy sinh thời
giờ, sức khỏe, tiền bạc vì anh em. Sống như Chúa là hãy có lòng hiền lành khiêm
nhường. Vì Chúa đã dạy: "Hãy học cùng Thày, vì Thày hiền lành và khiêm
nhường trong lòng" (Mt 11,29). Sống như Chúa là hãy tha thứ, không phải
chỉ tha thứ 7 lần mà đến 70 lần 7 (x. Mt 18,21-22).
Sống như thế, ta trở nên
hình ảnh sống động của Thiên Chúa giữa trần gian. Sống như thế, ta trả cho
Thiên Chúa những gì thuộc về Thiên Chúa. Sống như thế ta tôn sùng bí tích Thánh
Thể một cách thiết thực và hữu hiệu nhất. Sống như thế là sống nhờ Thánh Thể.
Không còn sống cho những giá trị trần gian mau qua, nhưng sống cho những giá
trị vĩnh cửu của Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
xin dạy con biết sống bí tích Thánh Thể để con được kết hiệp với Chúa và càng
ngày càng nên giống Chúa hơn. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Ban đã phải trả cho
César những gì thuộc về César. Nhưng bạn có thực sự trả cho Chúa những gì thuộc
về Người không?
2- Bạn làm gì để nên giống
Chúa?
3- Qua bí tích Thánh Thể,
bạn có thể hiểu được gì về tình yêu Chúa đối với bạn?
7. Trả về Thiên
Chúa
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
"Có được phép nộp thuế
cho Xê-da không?"
Câu hỏi sắc như một con dao
hai lưỡi.
Nếu Đức Giêsu bảo phải nộp,
ắt Ngài chẳng yêu nước yêu dân. Thứ thuế thân nộp cho đế quốc Rôma thật là điều
ô nhục. Nhưng nếu Ngài bảo đừng nộp, hẳn Ngài sẽ bị tố cáo.
"Cho tôi xem đồng tiền
dùng để đóng thuế."
Khi đưa cho Đức Giêsu đồng
bạc có hình Xê-da, những kẻ giương bẫy thú nhận họ có dùng thứ tiền này, và như
thế họ đã mặc nhiên nhìn nhận quyền của Xê-da.
Khi biết hình và dòng chữ
trên đồng bạc là của Xê-da, Đức Giêsu đã nói một câu không dễ hiểu: "Vậy
hãy trả lại cho Xê-da những gì của Xê-da". Ngài nhìn nhận một sự độc lập
nào đó của ông. Ông có quyền điều hành đế quốc của ông như ông muốn. Đối với
người Do Thái sử dụng đồng bạc của Xê-da, Đức Giêsu không hề ngăn cản họ nộp
thuế cho ông ấy, như sau này có kẻ tố cáo (x. Lc 23,2). Nhưng Ngài cũng không
buộc mọi người phải nột thuế cho Xê-da, vì có người coi việc nộp thuế thân cho
hoàng đế Rô-ma là phủ nhận quyền tối thượng của Thiên Chúa.
Chẳng những Đức Giêsu không
bị mắc bẫy mà Ngài còn nhân cơ hội đi lên một bình diện cao hơn: "Hãy trả
lại cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa." Đây mới thật là vấn đề Ngài
hết sức quan tâm.
Chúng ta tự hỏi: có cái gì
ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của Ngài?
Phải trả lại cho Xê-da đồng
tiền mang hình và tên ông, nhưng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang hình
Ngài, những gì đã được ghi khắc tên Ngài trên đó.
Hình ảnh nổi bật nhất là
con người (x. St 1,26). Toàn bộ con người mang dấu ấn của Thiên Chúa. Không ai
được khinh miệt phụ nữ, thai nhi hay người già. Không ai được làm hoen ố sự
trong sáng của lương tâm. Xúc phạm con người là phạm đến nơi sâu thẳm của Thiên
Chúa.
Mọi quyền bính đạo đời đều
nhằm phục vụ con người, đều nhằm làm sáng lên hình ảnh Thiên Chúa nơi nó. Trả
con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ quyền của
Ngài trên đời ta.
Cả vũ trụ cũng tiềm tàng
dấu ấn của Thiên Chúa: đất, rừng, sông biển, không khí, tài nguyên và muôn sinh
vật. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ trong lành, hiền hậu, nghĩa là trả lại
cho con người món quà Ngài đã tặng.
Mọi quyền bính đều bắt
nguồn từ Thiên Chúa (x.Ga 19,11). Chúng có giá trị và sự tự lập, nếu phù hợp
với ý Ngài, cũng là phù hợp với quyền lợi chính đáng của con người.
Chúng ta có chiếm đoạt điều
gì của Thiên Chúa không?
Hình ảnh của Thiên Chúa nơi
tôi rõ hay mờ nhạt?
Có lớp bụi nào che khuất
khuôn mặt Chúa nơi tôi?
Ước gì tôi đọc được tên
Thiên Chúa, tên Đức Giêsu trên những người tôi gặp, những biến cố tôi sống mỗi
ngày.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về những điểm
giống nhau và khác nhau giữa quyền của quốc gia và quyền của Hội Thánh? Theo
bạn, đâu là giới hạn của những quyền này?
Hình ảnh Thiên Chúa nơi con
người nhiều khi đã bị che lấp và những hình ảnh khác đã chiếm chỗ. Theo bạn,
đâu là những hình ảnh khác đang in dấu trên con người hôm nay?
Cầu Nguyện
Lạy Cha,
Có những người bạn trẻ
thích xăm hình lên người, hay muốn ăn mặc, đi đứng theo kiểu một ngôi sao thể
thao hay điện ảnh. Họ vui khi thấy mình giống hệt những thần tượng mà mình yêu
thích.
Xin Cha giúp chúng con biết
hãnh diện vì mang nơi mình hình ảnh cao quý của Cha và sống theo phong cách của
Cha:
Cha quảng đại mở ra để chia
sẻ hạnh phúc thần linh,
Cha khiêm tốn tôn trọng tự
do của con người,
Cha yêu thương đến nỗi dám
trao hiến Người Con Một chí ái,
Cha bao dung tha thứ trước
những tâm hồn hoán cải,
Cha luôn tận tụy làm việc
để nâng đỡ cả thế giới.
Ước gì người ta biết Cha
trên trời, khi gặp chúng con ở dưới đất.
Ước gì người ta đọc thấy
tên Cha trong tim của chúng con, và nhận ra chúng con là con Cha. Amen.
8. Nên nộp thuế
chăng?
(Trích trong 'Sống Tin
Mừng' – R. Veritas)
Đi hỏi xem Đức Giáo Hoàng
có bao nhiêu sư đoàn? Stalin đã có lần thốt lên như thế khi nhắc đến người có
vai trò trung gian của Tòa thánh trong chiến trường quốc tế. Không đầy một thế
kỷ sau, một vị Giáo hoàng đến từ Đông Au đã làm lung lay tận gốc rễ chế độ của
Liên xô. Quả thật, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tỏ ra là một con người đáng sợ
đối với rất nhiều nhà lãnh đạo chính trị và người cuối cùng hẳn phải là chủ
tịch Phidel Castro, người đã đặt tất cả nhân loại dưới bờ vực của chiến tranh
nguyên tử từ đầu thập niên 60. Dưới mắt giới truyền thông, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II chỉ là một con người bảo thủ, bênh vực giá trị truyền thống. Thế
nhưng, nếu ta cần chứng kiến khi những giá trị truyền thống ấy bảo đảm cho phẩm
giá con người thì không ai tỏ ra thẳng thắn, can đảm cho bằng ngài.
Người ta vẫn còn nhớ khi
đến Pháp lần đầu tiên từ năm 1981, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không ngần
ngại hỏi từng người dân Pháp, kể cả vị nguyên thủ quốc gia của nước này như
sau: "Hỡi nước Pháp, tôi đã làm gì với phép rửa của ngươi?". Câu hỏi
ấy ngài đi thẳng vào lương tâm mỗi người dân Pháp: "Đâu là chỗ đứng của
niềm tin tôn giáo trong cuộc sống của mỗi người?".
Một câu hỏi như thế cũng có
thể được nêu lên cho mỗi một người Kitô hữu chúng ta. Người có tôn giáo dễ có
khuynh hướng phân chia cuộc sống thành nhiều ô độc lập với nhau, ô ở Công giáo,
ô ở phố chợ với nhau, ô ở nhà thờ v.v. Sự phân chia ấy dễ tạo nên hai bộ mặt
tương phản nơi người tín hữu. Một bộ mặt rất đạo đức ở nhà thờ hay khi cầu kinh
và một bộ mặt phi đạo đức bên ngoài nhà thờ.
Khi tuyên bố: "Của
Xêda hãy trả lại cho Xêda, của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa",
Chúa Giêsu không những đã thoát được cái bẫy thâm độc của những người Biệt phái
và phe Hêrôđê. Ngài còn khẳng định về chỗ đứng trong cuộc sống con người:
"Của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa".
Thiên Chúa không phải là
một vị thần, hay vị thần của thế giới thần linh. Thiên Chúa không phải là món
đồ trang sức cho con người, nhưng Thiên Chúa là Chủ tể, là gia nghiệp, là tất
cả của con người. Ngài không chiếm chỗ nhất trong cuộc sống con người, mà con
người phải tìm kiếm Ngài trong tất cả mọi sự. Ngài không chỉ ngự một góc nào đó
trong nhà thờ, Ngài không chỉ hiện diện trong một buổi cầu kinh nào đó. Ngài
gặp gỡ con người ở khắp mọi nơi, trong mọi sinh hoạt của cuộc sống con người.
"Của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa", có nghĩa là hãy dành chỗ
nhất cho Ngài trong cuộc sống, tìm kiếm Ngài, gặp gỡ Ngài, yêu mến Ngài trong
tất cả mọi sự.
Lời Chúa hôm nay mời gọi
chúng ta tự vấn lương tâm và xác định lại sự chọn lựa căn bản của chúng ta.
Niềm tin tôn giáo không phải là một sinh hoạt xa xỉ tùy tiện, được giản lược
trong bốn bức tường của nhà thờ, hay chỉ trong bài diễn văn đặc biệt trong năm
hay trong suốt một đời người. Niềm tin ấy phải thấm nhập vào toàn bộ cuộc sống
và hướng dẫn mọi chọn lựa, suy nghĩ và hành động của người Kitô hữu.
Khi niềm tin được sống một
cách triệt để như thế, thì Giáo Hội không chỉ có một vài sư đoàn, mà sẽ là một
đạo binh có sức cải tạo và thay đ
ổi bộ mặt của xã hội. Khi
người tín hữu Kitô sống cho đến cùng những đòi hỏi của niềm tin, họ sẽ tìm được
bình an và hạnh phúc đích thực cho cuộc sống, bởi vì họ có Chúa làm gia nghiệp
cho cuộc đời.
9. Suy niệm của Lm
Nguyễn Hữu An.
CON NGƯỜI - HÌNH ẢNH THIÊN
CHÚA
Trong Phật giáo có một câu
chuyện nổi tiếng:
Có một người đàn ông cao
ngạo chẳng biết sợ ai, luôn coi thường đạo lý. Nghe Đức Phật dạy rằng đừng bao
giờ lấy ác báo ác và một ngày kia, hắn đến gặp Đức Phật và dự tính xem Phật có
sống được điều Ngài giảng không. Hắn bắt đầu tuôn ra đủ mọi lời thóa mạ Ngài và
gọi Ngài là tên đần độn. Trong khi hắn liên tục xổ ra đủ thứ lời lăng mạ thì
Đức Phật vẫn kiên nhẫn lắng nghe. Chờ hắn mỏi miệng không nói thêm lời nào nữa,
Ngài mới lên tiếng: "Này con, nếu một người không chịu nhận món quà mà kẻ
khác biếu cho thì món qùa ấy sẽ đi về đâu"? Gã cay cú đáp: "Thằng
điên nào mà chẳng biết, dĩ nhiên là món ấy sẽ trở về lại với người đem
cho". Đức Phật liền nói: "Hỡi con, con vừa tặng ta rất nhiều lời thóa
mạ nhưng ta chẳng nhận đâu nhé". Gã kia câm miệng không thốt ra lời nào
nữa. Đoạn Đức Phật nói tiếp: "Kẻ nào lăng mạ một người thánh thiện thì cũng
giống như hắn ta khạc nhổ lên trời. Những thứ hắn khạc nhổ ra khôntg làm nhơ
bẩn bầu trời, trái lại sẽ rơi xuống làm nhơ bẩn gương mặt của chính hắn. Cũng
thế kẻ nào thóa mạ một người nhân đức thì khác nào tung bụi ngược chiều gió,
bụi sẽ chỉ bay vào mắt hắn mà thôi." (Trích tuyển tập chuyện hay, Giấc
mộng vàng trang 167)
Câu chuyện trên là một minh
họa cho cuộc tranh luận nổi tiếng giữa các Pharisiêu, Luật sĩ và Chúa Giêsu qua
bài Tin mừng hôm nay.
Nhóm Biệt phái bàn mưu để
làm cho Đức Giêsu lỡ lời mắc bẩy. Họ hợp tác với phe Hêrôđê để chất vấn Người
về vấn đề nộp thuế. Nhóm Biệt phái ghét cay ghét đắng người Rôma đang đô hộ Israel , còn phe
Herôđê thì lại nịnh bợ các quan bảo hộ để được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi.
Dù không ưa nhau nhưng họ lại liên kết với nhau để chống lại Đức Giêsu. Một
mình đối nghịch với Đức Giêsu trong lãnh vực tôn giáo, nhóm Biệt phái không làm
được gì đến Người, họ muốn nhờ bàn tay chính quyền là phe Hêrôđê để gài bẫy
Người trong vấn đề chính trị. "Chúng tôi có được nộp thuế cho Xêda hay
không?" Câu hỏi đặt Đức Giêsu trong tình thế tiến thoái lưỡng nan, bẫy gài
sắc như con dao hai lưỡi. Trả lời có cũng mắc bẫy, không có cũng mắc bẫy. Nếu
Đức Giêsu bảo không thì nhóm Hêrôđê tố cáo là không trung thành với Hoàng đế.
Còn nếu Người bảo có thì Người sẽ bị nhóm Pharisiêu tố cáo là không trung thành
với dân tộc. Hai đàng, đàng nào cũng trọng tội. Trước gọng kềm đang siết chặt,
Đức Giêsu rất bình tĩnh, rất tự chủ, không ngạo mạn khiêu khích nhưng cũng
không khúm núm sợ sệt. Người bảo họ đưa cho xem đồng tiền và hỏi: hình va danh
hiệu này là của ai?. Khi được trả lời là "của Xêda" Đức Giêsu liền
tuyên bố "thế thì của Xêda trả về Xêda; của Thiên Chúa trả về Thiên
Chúa". Câu trả lời của Người làm cho 2 phe nhóm bẽ bàng hụt hẫng. Đức
Giêsu phân biệt đâu ra đó: của Hoàng đế hãy trả cho Hoàng đế, của Thiên Chúa
hãy trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu không dùng miệng lưỡi mình để kết án họ,
nhưng bắt chính họ phải tự tuyên án cho mình như có lời chép rằng: Vì nhờ lời
nói của anh mà anh sẽ được trắng án và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị
kết án (Mt 12, 37).
Sứ mạng của Đức Giêsu khi
đến trần gian là sứ mạng tôn giáo, là đưa nhân loại về với Thiên Chúa chứ không
phải là chính trị. Chính Người đã từ chối làm vua, làm Messia đánh đông dẹp bắc
theo mong đợi của người Do Thái. Câu trả lời của Đức Giêsu làm nổi bật chân lý
ấy. Với sứ mạng tôn giáo, Đức Giêsu nhắc cho họ nghĩa vụ phải trở về với Thiên
Chúa, trả cho Thiên Chúa những gì là của Thiên Chúa. Những kẻ chất vấn muốn
nhìn Đức Giêsu dưới gốc độ chính trị thì Người làm cho những kẻ có lập trường
chính trị phải thấy Người là con người tôn giáo.
Một cuộc đối thoại giữa
thần quyền và thế quyền, giữa Thiên Chúa và Xêda. Cũng như sau này trong cuộc
đối thoại với Philatô, Đức Giêsu trịnh trọng tuyên bố: Nước tôi không thuộc về
thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì thuộc hạ của tôi sẽ chiến
đấu không để tôi bị nộp cho người Do Thái, nhưng nước tôi không thuộc về thế
gian này. Qua lời tuyên bố này Đức Giêsu có vẻ như khẳng định vương quyền của
mình, một vương quyền mà Philatô chưa có thể hiểu thấu.
Mối tranh chấp giữa thần
quyền và thế quyền, giữa đạo và đời đã xảy ra từ thời Chúa Giêsu cũng như từ
muôn thưở. Đức Giêsu không muốn được coi như vị cứu tinh chính trị theo ý của
người Do thái. Người không đến để nắm lấy chính quyền, thống trị như một vị
hoàng đế Xêda hay như vua Hêrôđê. Trong thực tế Người phân biệt rõ thần quyền
và thế quyền, tuy công nhận quyền hành chính trị như một điều tất nhiên nhưng
Người tự đặt mình vào mức độ khác. Nước Trời mà Người đang rao giảng, đang thể
hiện hoàn toàn khác biệt vàkhông cạnh tranh với đế quốc của Xêda, vì Nước Trời
là vương quốc trường tồn của Thiên Chúa dành cho tất cả, nơi đó không có áp
chế, không có thống trị, chỉ có niềm vui, bình an và hạnh phúc miên trường.
Những gì của Xêda hãy trả
cho Xêda. Xêda là hiện thân cho một đế quốc hùng mạnh và giàu có của một thời
lịch sử đã qua. Xêda cũng còn là biểu tượng cho thế lực tiền bạc, tham vọng
quyền bính và danh lợi dưới mọi hình thức trong xã hội ngày nay đối với mọi
người.
Những gì của Thiên Chúa hãy
trả cho Thiên Chúa. Đức Giêsu đã khéo léo nhắc đến bổn phận của con người đối
với Thiên Chúa. Có cái gì ngoài Thiên Chúa mà lại không phải là thụ tạo của
Ngài? Phải trả cho Thiên Chúa những gì mang hình ảnh Ngài, những gì được khắc
ghi tên Ngài trên đó. Hình ảnh nổi bật nhất là con người (St 1, 26). Toàn bộ
con người mang dấu ấn Thiên Chúa và cả vũ trụ cũng tiềm tàng dấu ấn của Thiên
Chúa. Trả con người lại cho Thiên Chúa là dâng nó cho Ngài, là nhìn nhận chủ
quyền của Ngài. Trả vũ trụ trong lành cho Thiên Chúa cũng là trả lại cho con
người món quà lớn lao mà Ngài đã trao tặng.
Mỗi người Kitô hữu luôn
hãnh diện vì mang trong bản thân mình hình ảnh cao quý của Thiên Chúa và luôn
sống phong cách của Ngài: quảng đại chia sẻ, yêu thương trao hiến, bao dung tha
thứ, khiêm tốn phục vụ. Được như thế, mỗi người chúng ta sẽ luôn làm cho hình
ảnh Thiên Chúa ngày càng rõ nét trong cuộc đời mình.
10. Suy niệm của
Lm. Phaolô Đoàn Thanh Phong
CỦA CESAR, TRẢ VỀ CESAR
CỦA THIÊN CHÚA, TRẢ VỀ
THIÊN CHÚA
Thưa Anh Chị Em,
Nếu có dịp đến viện bảo
tàng Manchester bên nước Anh, và khi đến ghé thăm khu trưng bày các loại đồng
tiền cổ từ thời đế quốc Rôma, ai cũng có thể nhìn thấy đồng tiền Denarius bằng
bạc, trên có đúc niên biểu và hình của hoàng đế Roma. Đây là đồng tiền được lưu
hành trong nước Do Thái thời Chúa Giêsu. Trên đồng tiền này, có in hình Ce'sar
Tiberius, đầu đội vòng hoa như một vị thần, cùng với dòng chữ: "Ce'sar
Tiberio, con của thần Augusto" (cf. Tassin). Cầm đồng tiền ấy trên tay,
người ta có thể liên tưởng đến câu chuyện người đàn bà với đồng tiền bị mất;
đến dụ ngôn ông chủ vườn nho đã trả lương cho những người thợ làm vườn. Nhất
là, người ta có thể liên tưởng đến đồng tiền Chúa Giêsu đã dùng để trả lời cho
cả 2 nhóm Pharisêu và Herodes trong Tin Mừng hôm nay.
Thực ra, đây là 2 nhóm
người khác nhau về nguyên tắc, về quan điểm sống. Nếu như những người thuộc
nhóm Herodes chấp nhận nộp thuế cho hoàng đế, như là phương cách bảo vệ chỗ
đứng của mình trong bộ máy cai trị, thì trái lại, nhóm Pharisêu chỉ chấp nhận
nộp thuế cách miễn cưỡng. Bởi, họ không đón nhận thái độ của các Ce'sar Rôma
luôn tự coi mình là thần minh, cho nên đối với họ, việc nộp thuế cho đế quốc
được xem như một sự xúc phạm đến Thiên Chúa. Vì thế, không chỉ phải nộp thuế,
mà ngay cả việc mang trong mình đồng tiền của kẻ ngoại bang đã là một hành vi
bội giáo. Nhưng vì cùng mâu thuẫn, xung đột tư tưởng với Chúa Giêsu, nên họ sẵn
sàng xóa bỏ nguyên tắc, quan điểm riêng, chấp nhận liên minh lại với nhau để
gài bẫy Chúa Giêsu bằng câu hỏi: "Có được phép nộp thuế cho hoàng đế
Ce'sar không?". Đây là một vấn đề mới nghe qua thật bình thường, nhưng sự
thực lại không hề đơn giản. Thật vậy, nếu Chúa Giêsu trả lời rằng nên nộp thuế,
thì chính Ngài đã nhìn nhận Ce'sar là Chúa của mình,Ngài sẽ trở thành một kẻ
bội giáo, mất tín nhiệm với số đông quần chúng. Còn nếu Ngài trả lời rằng không
nộp thuế, thì Ngài sẽ bị tố cáo là kẻ chống lại hoàng đế, chống lại chính quyền
Rôma. Thật "tiến thoái lưỡng nan", trả lời thế nào cũng khó. Thế nhưng,
thật bất ngờ Ngài lại dùng đồng tiền hai mặt của Rôma để trả lời: "Của
Ce'sar, trả về Ce'sar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa" (Mc 12,17). Trả
lời như thế, không những Chúa Giêsu thoát được cái bẫy thâm độc của những người
đạo đức giả, mà còn khẳng định chỗ đứng của Thiên Chúa trong đời sống, trong vũ
trụ: "Phải trả cho Ce'sar đồng tiền mang hình ảnh và tên của Ce'sar thế
nào, thì cũng phải trả lại cho Thiên Chúa những gì mang dáng hình của Thiên
Chúa". Trả lời như vậy là Chúa Giêsu muốn dạy họ rằng mỗi người luôn có
hai bổn phận phải thực hiện giữa đời và trong đạo. Vì có đạo nào lại không ở
trong đời và có đời nào lại không là của đạo. Một người Kitô hữu trong đạo cũng
là công dân của một đất nước, cho nên cần phải chu toàn cả hai bổn phận thì mới
đúng là người Kitô hữu đích thực, là công dân trong đất nước và cũng là công
dân trong Nước Trời mai sau.
+ Sống giữa đời phải hiểu
rằng: Quốc gia thì có luật pháp; Gia đình thì có gia pháp; Cộng đoàn thì có
luật riêng của cộng đoàn. Vì thế, ai ai cũng phải có trách nhiệm chu toàn bổn
phận với đời, với xã hội. Cụ thể, gia đình Nagiarét, dù Mẹ Maria sắp đến ngày
sinh con, nhưng họ vẫn tùng phục luật xã hội, phải rời miền Bắc trở về miền
Nam. khi được lệnh trở về quê để khai báo hộ khẩu.
+ Sống trong đạo thì phải
chu toàn bổn phận đối với Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu luôn ưu tiên cho công
việc của Chúa Cha. Nên khi hành hương ở hội đường, Ngài đã ở lại để giảng dạy
giáo lý, qua đó, Ngài muốn khẳng định rằng: lo việc của Thiên Chúa thì hơn lo
việc trần thế (x.Lc 2,46). Không chỉ Ngài đề cao việc của Cha Ngài, mà những
người theo Ngài, Ngài cũng đòi hỏi rất gắt gao: "Kẻ nào đến với Ta mà
không bỏ cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt
không thể làm môn đệ của Ta" (Lc 14,26-27). Và cũng vì thế, mà Thánh
Phaolô xác định: "Nếu tôi luôn luôn làm hài lòng mọi người, thì tôi không
còn là môn đệ của Chúa Giêsu" (Gl 1,10). Nghĩa là, Ngài phải làm hài lòng
Thiên Chúa trước, thì Ngài mới có khả năng làm hài lòng mọi người. Rõ ràng, với
câu trả lời của Chúa Giêsu "Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về
Thiên Chúa" (Mc 12,17), thì hai bổn phận đối với đời và đối với đạo, với
Thiên Chúa, luôn cần phải đi song hành với nhau, không có sự loại trừ. Bởi vì,
Đạo Công Giáo không phải là Đạo Duy Tâm mà là Đạo có : Có Chúa Kitô, có linh
hồn và thể xác, có nhân tính và thần tính, có đời này và có đời sau.
Thưa Anh Chị Em,
Một trong những khuynh
hướng tiêu cực nơi những người có tôn giáo đó là khuynh hướng phân chia đời
sống thành nhiều phạm vi tách rời nhau: phạm vi ở phố chợ khác với ở gia đình,
và lại càng khác với phạm vi trong khuôn viên nhà thờ, giáo xứ. Sự tách biệt ấy
dễ làm nên những bộ mặt tương phản nơi người tín hữu: Ở nhà thờ là dung mạo rất
đạo đức hiền lành và đơn sơ, nhưng bên ngoài pham vi nhà thờ, thì lại là một bộ
mặt khác xấu xí hơn như người ta thường nói vui với nhau: Ơ nhà thờ thì hứa với
Chúa thật nhiều và ra khỏi nhà thờ thì thất hứa với Chúa cũng thật nhiều. Vì
vậy, cần phải hiểu rằng Thiên Chúa hiện diện - không chỉ ở trong một góc nào đó
của nhà thờ khi cử hành phụng Vụ hay trong những buổi cầu nguyện sốt sắng.
Chúng ta có thể gặp thấy Ngài ở mọi nơi, cả trong các sinh hoạt đời thường. Vì
Thiên Chúa là Đấng Emmanuel – một Thiên Chúa ở với con người, nhưng quan trọng
hơn, con người là nơi hình ảnh của Thiên Chúa được thể hiện tròn đầy nhất. Được
tạo thành theo dáng hình Thiên Chúa, con người chỉ thực sự lớn lên trong ơn gọi
làm người, ơn gọi làm con Chúa khi thể hiện đúng vai trò bổn phận của mình
trong thế giới hôm nay và trong lòng Hội Thánh. Vì vậy, lắng nghe lời Chúa hôm
nay, xin cho mỗi người chúng ta ý thức bổn phận của mình trong xã hội cũng như
trong Giáo hội để có thể thống nhất trong phương cách thực hiện dưới sự hướng
dẫn của Chúa. Có như thế, chúng ta mới thực sự làm đúng như lời Chúa Giêsu mời
gọi: "Của Cesar, trả về Cesar; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
Amen.
11. Tôn giáo và
chính trị
- Nếu Thầy chống nộp thuế
thì Thầy chống lại người Rôma; nếu Thầy ủng hộ việc nộp thuế, thì Thầy chống
lại Thiên Chúa.
Để làm hại Chúa Giêsu, người
ta giăng một cái bẫy buộc Ngài phải rơi vào đó. Đất nước đang sống dưới sự
chiếm đóng của Rôma và người Do thái biến đều đó thành một vấn đề tôn giáo. Cho
nên đó là điều Tin Mừng muốn làm cho chúng ta suy nghĩ: tôn giáo và chính trị.
Những người theo Hêrôđê là
những người hợp tác và rình mò Chúa Giêsu có lời nào bất cẩn nhằm tố cáo Ngài
là người xách động. Nhưng những người Pharisêu, và thực tế là toàn thể dân Do
thái, ghét người Rôma và xem họ là những kẻ đàn áp và là dân ngoại. Đóng thuế,
tức là công nhận phục tùng một vị hoàng đế ngoại đạo. Như thế chẳng phải là
chống lại Thiên Chúa hay sao? Thầy tự xưng là Đấng Cứu Thế, Thầy không thể chấp
nhận điều đó, Thầy không ủng hộ việc đóng thuế chứ?
Chúa Giêsu bẻ gẫy cái bẫy
kết hợp đó: các ngươi đang sử dụng tiền của César, các ngươi chấp nhận tình
cảnh đất nước bị chiếm đóng, do đó, "hãy trả cho César những gì thuộc về
César", nhưng các ngươi đừng trộn lẫn điều này bất cứ như thế nào với đức
tin của các ngươi vào Thiên Chúa.
Cho nên Chúa Giêsu phân
biệt tôn giáo với chính trị. Không như người ta thường làm bằng cách cắt cuộc
sống ra làm hai: một bên là lãnh vực của César, chính trị, và bên kia là lãnh
vực của Thiên Chúa, tôn giáo. Không, tôn giáo và chính trị khác hẳn nhau, tuy
nhiên chúng chồng chéo lên nhau.
Hẳn có hai lãnh vực, hoặc
đúng hơn là nhiều lãnh vực. Trước hết là lãnh vực của Thiên Chúa là lãnh vực
bao trùm tất cả. "Hãy trả cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa"
có nghĩa là: các ngươi hãy xem tất cả trong cuộc sống của các ngươi liên quan
đến Thiên Chúa như thế nào. Ai cũng có quyền có quan điểm. Cho nên phải
"trả lại cho Thiên Chúa" tất cả những gì chúng ta làm trong chính trị
cũng như trong tất cả. Đó là ánh sáng rõ ràng về các vấn đề "đức tin và
chính trị" và về bao nhiêu vấn đề khác nữa.
Bởi vì bên trong quyền tối
thượng hoàn toàn cuả Thiên Chúa, có biết bao nhiêu là lãnh vực trong đó chúng
ta phải thực thi tự do của chúng ta: cuộc sống cá nhân, gia đình, xí nghiệp, xã
hội. Không có vấn đề sống tất cả những cuộc sống đó một cách độc lập với Thiên
Chúa. Cũng không có vấn đề ràng buộc Ngài với sự chọn lựa của chúng ta, trong
khi tuyên bố rằng thái độ chính trị này là thái độ chính trị duy nhất của người
Kitô hữu chẳng hạn. Trước kia, người ta dễ dàng nghĩ rằng bỏ phiếu cho cánh hữu
là "vì Thiên Chúa"; ngày nay, đúng hơn là ngược lại, và đây là cũng
sai nốt. Dầu sao thì cũng có cám dỗ lớn lao trong việc đặt Thiên Chúa vào trong
những đề cương bầu cử hoặc trong nhiệt tình chính trị. Không, đó là César chứ
không phải Thiên Chúa. Thiên Chúa không còn thuộc về cánh hữu hay cánh tả nữa.
Nhưng cám dỗ ngược lại cũng
xấu: tìm cách thoát ra để gần Chúa, xa rời mọi sự dấn thân tập thể. Thế là
chúng ta trốn tránh yêu thương anh em chúng ta, bởi vì phần lớn nhờ hoạt động
chính trị mà chúng ta có thể thăng tiến công bằng xã hội và chất lượng cuộc
sống. Ở kỹ trong nơi ấm áp, đọc kinh, và để cho người ta làm bất cứ điều gì
trong nước thì đó không phải là đạo đức mà là ích kỷ.
Người ta đã sử dụng câu trả
lời của Chúa Giêsu theo nhiều cách. Tôi nghĩ rằng đây là nguyên tắc phát xuất
từ đó cho phép từ chối sự tách biệt hoàn toàn giữa đức tin và chính trị trong
khi tránh được sự tập hợp các khuynh hướng: không có một nền chính trị nào có
thể ràng buộc Thiên Chúa, nhưng tất cả các nền chính trị đều phải trả lẽ cho Ngài.
12. Hình ai đây?
Mỗi người chúng ta đã được
Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có ý chí. Có lý trí để hiểu
biết và có tâm tình để yêu mến. Trước khi dựng nên loài người, Thiên Chúa phán:
"Ta hãy dựng nên con người như hình ảnh Ta và giống Ta... và Thiên Chúa đã
thực hiện dự định ấy: Thiên Chúa đã dựng nên con người giống hình ảnh
Chúa". Cái hình ảnh ấy con người mang trong mình từ khi được thụ thai
trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, nếu mỗi ngày biết
trau dồi phát triển thêm, thì con người càng trở nên giống Chúa hơn. Tư tưởng
ấy Chúa Kitô đã nhắc lại cho chúng ta hôm nay trong dịp tranh luận với nhóm
Pharisêu.
Chúa là sự thật hiện thân,
là chân lý vĩnh cửu, nên Ngài rất ghét những kẻ giả hình: bề ngoài thơn thớt
nói cười mà bề trong nham hiểm giết người không gươm. Họ định đến gài bẫy để
bắt lỗi Chúa thế mà họ chỉ dùng toàn những lời tâng bốc xu nịnh: "Thưa
Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật... chẳng vị nể ai...". Chúa
không thể chịu được cái giọng dối trá ấy, vì đối với Ngài thì "có phải nói
là có, không thì nói là không, còn những cái quá trớn đều là xấu xa". Vì
không thể chịu được nên Chúa đã phải gọi họ là bọn giả hình, và Ngài đã cho họ
biết những mánh lới quỷ quyệt của họ không làm gì nổi Ngài. Chúa bảo họ cho
Ngài xem một đồng tiền vẫn đóng thuế. Thời ấy ở Palestine, dân chúng tiêu dùng
hai thứ tiền: khi đóng thuế vào đền thờ thì bắt buộc phải dùng tiền Do Thái,
bởi vì theo luật Do Thái, không một hình ảnh sinh vật nào được đưa vào khu vực
đền thờ, mà tiền ngoại quốc lại thường có hình người hay vật, còn tiền Do Thái
chỉ có số và niên hiệu mà không có hình ảnh gì. Trái lại, khi nộp thuế cho
chính phủ bảo hộ thì phải dùng tiền Rôma, tiền của Xêda. Ai đổi lấy tiền ấy,
tức là bằng lòng đóng thuế. Chúa bảo đưa Chúa xem không phải là Chúa không biết
thứ tiền ấy, mà Ngài chỉ muốn đưa họ vào chính cái bẫy mà họ đã gài định mưu
hại Chúa. Nghĩa là Chúa làm cho họ thú nhận bằng lời nói và việc làm rằng họ
muốn hay ít nữa bằng lòng đóng thuế cho Xêda rồi. Chúa sẽ không trả lời câu họ
hỏi có nên hay không nên nộp thuế mà Ngài chỉ nói: "Của Xêda thì trả về
Xêda", nghĩa là các ông đã có tiền của Xêda tức là các ông đã sẵn sàng
đóng thuế cho Xêda rồi, còn hỏi làm gì nữa? Hãy đưa cái của nợ ấy mà hoàn lại
cho Xêda, thế là xong. Câu trả lời của Chúa còn bao hàm một ý nghĩa về quyền
lợi của chính phủ hay chính quyền hợp pháp, "Quyền hành hợp pháp là do
Thiên Chúa".
Thánh Phaolô đã viết như
thế cho giáo đoàn Rôma và Ngài còn thêm: "Những gì ta nợ ai thì phải trả
cho người ấy", mắc sưu thì trả sưu, mắc thuế thì trả thuế, mắc tôn trọng
thì trả tôn trọng, mắc yêu mến thì trả yêu mến. Những cái đó cũng là những món
nợ: nợ vật chất và tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy
với những ai có quyền đòi hỏi ở chúng ta. Nhưng không phải chúng ta chỉ nợ
nhau, nợ loài người mà thôi, mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Để làm tròn nhiệm vụ
thiêng liêng, Chúa Giêsu đã không ngần ngại thêm: "Và hãy trả về Thiên
Chúa những gì của Thiên Chúa". Chúng ta nợ Chúa những gì? Chúng ta nợ tất
cả. Thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Côrintô: "Ngươi có cái chi mà ngươi đã
không nhận được? Nếu ngươi đã nhận được ở chỗ khác thì sao lại hãnh diện như là
không". Ngoài những đức tính, những khả năng tự nhiên của bản tính loài
người: linh hồn, lý trí, ý chí, những cái chúng ta nhận được khi thụ thai,
những cái làm cho chúng ta nên giống Thiên Chúa một phần nào, Chúa còn in vào
trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh, nhiều vốn khác nữa.
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa
đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh Con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một
hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xoá đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không
những chúng ta có nhiệm vụ bảo tồn hình ảnh ấy được nguyên vẹn, mà chúng ta còn
có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, tươi đẹp. Hình ảnh ấy không
thể chỉ là bức hoạt hoạ hay hí hoạ. Bức hoạt hoạ chỉ làm trò cười cho thiên hạ
thôi. Bức hình ấy phải là bức ảnh truyền thần tô mầu, đúng chân dung Chúa Kitô:
Chúa là Đấng đáng yêu mến, quý trọng... thì hình ảnh của Ngài cũng phải gợi lên
được những tâm tình ấy, nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông
vào nơi chúng ta là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng yêu mến quý
trọng của Ngài, nếu không, chúng ta chỉ là bức hí hoạ của Chúa. Những người mới
tập vẽ hay những hoạ sĩ kém khi vẽ một bức chân dung xong, cho dù cố gắng mấy
vẫn còn phải đề tên người được vẽ ở dưới, không thì người xem bức hình ấy sẽ
không biết là ai. "Hình này là hình ai đây?". Câu ấy có thể là một
câu mà Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng? Có biết bao tín hữu đều là những
bức hình cần phải đề tên rõ ở dưới, nghĩa là nếu không có một mẫu ảnh, một tấm
áo hay một huy hiệu nào trên người họ thì người khác không thể biết được họ là
tín hữu. Trên cổ họ có lẽ lúc nào cũng cần phải đeo một tấm bảng nhỏ ghi:
"Đây là một tín hữu", bởi vì họ không mang trên mình họ, trong con
người họ, trong tư tưởng, trong lời nói, trong hành động của họ một nét nào là
nét Chúa nữa.
Hôm nay, Chúa đòi và mong
muốn chúng ta sẽ mang lại cho Chúa hình ảnh mà Chúa đã trao cho chúng ta khi
chúng ta được thụ thai cũng như khi chúng ta chịu phép rửa tội, và không những
chỉ một hình ảnh y nguyên như lúc chúng ta nhận được nơi Chúa, mà còn phải là
một hình ảnh đẹp gấp bội nữa, bởi vì nén vàng nén bạc trao cho chúng ta cần
phải sinh lời ra nữa, bức hình trao cho chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa.
"Hình ai đây?". Hằng ngày chúng ta hãy tự cảnh tỉnh mình như thế: tôi
làm việc này, tôi nghĩ ngợi như thế, tôi ăn nói như vậy có giống Chúa không?
Hành động này, tư tưởng ấy, lời nói kia là hình ảnh ai đó? Chúa hay Xêda? Hãy
trả ngay cho Xêda những gì là của Xêda. Và nhất là hãy giữ lại để trao về cho
Chúa những gì là của Chúa.
13. César
Người Do Thái lúc bấy giờ
đang sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã. Họ thường phải nộp những thứ
thuế khá nặng cho hoàng đế César. Đứng trước vấn đề này, họ có ba thái độ khác
nhau.
Thái độ thứ nhất của những
người thuộc phái Sađốc và đảng Hêrôđê, họ chấp nhận việc nộp thuế, nhằm bảo đảm
cho chỗ đứng của họ và sự bao bọc của chính quyền Rôma.
Thái độ thứ hai là của bọn
Biệt phái, miễn cưỡng chấp nhận nộp thuế. Họ coi ách đô hộ của người La mã là
một thứ hình phạt của Thiên Chúa, vì thế cần phải tu thân tích đức để được tha
thứ.
Cuối cùng là thái độ của
những người ái quốc, họ không chấp nhận sự hiện diện của ngoại bang trên quê
hương đất nước. Họ chủ trương dùng võ lực để đánh đuổi thực dân và coi việc nộp
thuế là điều ô nhục, xúc phạm đến Thiên Chúa, vì không chấp nhận để Thiên Chúa
thống trị trên Israel là dân riêng của Ngài.
Còn thái độ của Chúa Giêsu
là như thế nào? Trước hết, Ngài tố giác sự giả hình của bọn Biệt phái: Họ giả
bộ khen ngợi Ngài bằng những lời đẹp đẽ nhất:
- Thưa Thầy, chúng tôi biết
Thầy là người chân thật, Thầy dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy chẳng vị nể ai
và không đánh giá theo bề ngoài.
Thế nhưng bên trong những
lời đẹp đẽ ấy lại là một ý đồ đen tối, muốn gài bẫy để hại Ngài. Bởi vì nếu
Ngài trả lời phải nộp thuế thì Ngài sẽ bị dân chúng phản đối. Còn nếu Ngài trả
lời không phải nộp thuế thì họ sẽ tố giác Ngài với chính quyền Rôma.
Vì thế, Ngài bảo họ cho xem
đồng tiền nộp thuế. Đây là một đồng tiền bằng bạc, được lưu hành trong toàn đế
quốc La mã từ năm 268 trước công nguyên, mãi đến năm 200 sau công nguyên vẫn
còn được xử dụng. Trên mặt đồng tiền có hình bán thân của hoàng đế Tibêriô
Xêda. Chúa Giêsu cầm đồng tiền và hỏi:
- Hình và dòng chữ này là
của ai?
Và khi biết là của Xêda,
Ngài bèn nói:
- Của Xêda hãy trả cho
Xêda, còn của Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa.
Câu nói đó có ý nghĩa: Đồng
tiền mang hình Xêda nên chúng ta phải trả cho Xêda, còn con người chúng ta mang
hình ảnh Thiên Chúa, nên chúng ta phải trả toàn bộ bản thân chúng ta cho Thiên
Chúa. Ngài không nói một cách rõ ràng là phải nộp thuế cho Xêda để bày tỏ sự
phục tùng, nhưng nếu chúng ta được phép nộp thuế vì nghĩa vụ thì cũng đừng quên
rằng mình thuộc về Thiên Chúa, và chỉ mình Ngài mới có quyền tối thượng, mới là
Đấng chúng ta phải yêu mến trên hết mọi sự.
Tóm lại, tiền bạc của con
người có thể thuộc về hoàng đế, còn chính bản thân chúng ta phải thuộc về Thiên
Chúa. Vì Ngài có quyền tối thượng trên mọi người và mọi quyền bính trần gian.
Những gì của Thiên Chúa
phải trả cho Thiên Chúa. Đó là lời nhắn nhủ thật bất ngờ khiến chúng ta phải
kiểm điểm lại cuộc sống, bởi vì chúng ta có bổn phận phải tôn trọng những đòi
hỏi của Ngài. Thế nhưng khi bon chen trong lãnh vực trần thế, chúng ta đã thực
sự chu toàn những bổn phận của chúng ta đối với Thiên Chúa hay chưa?
14. Trả về
Một thương gia tuổi đã
trung niên, vừa đáp máy bay xuống phi trường sau một chuyến đi làm ăn xa trở
về. Bà vợ ra phi trường đón chồng ngay tại cửa máy bay. Vừa bước ra khỏi cửa,
người chồng gặp cô chiêu đãi viên hàng không trẻ đẹp và hấp dẫn đi ngang qua.
Với vẻ mặt rạng rỡ, ông thương gia nói với cô chiêu đãi viên hàng không rằng: "Tôi
hy vọng chúng mình sẽ bay chung với nhau nữa, cô Saunders". "Làm sao
anh biết tên cô ấy?" Bà vợ liền hỏi chồng. Ông chồng trả lời ngon lành,
"Em nhìn thấy không, tên của cô ấy được ghi trên bảng ngay phía trước máy
bay, dưới tên của người phi công chính và phi công phụ". Căn cứ vào lời
chồng nói, bà vợ hỏi tiếp, "Thế hả, vậy anh nói cho em biết tên của người
phi công chính và phi công phụ đi?" Ông thương gia đỏ mặt lúng túng. Sự
gian dối, giả hình đã bị lộ tẩy.
Phúc âm hôm nay, cho chúng
ta thêm một ví dụ nữa về lòng dạ gian dối của những người Pharisêu khi họ cố
tình gài bẫy Chúa Giêsu. Ngài thường lên án sự giả hình và gian dối của họ bằng
những lời lẽ thật nặng nề: "Tại sao các người lại thử Ta, hỡi những kẻ giả
hình!" "Khốn cho các ngươi, hỡi những người Pharisêu!"
Trong chương trình
"Late Show" kể chuyện hài hước trên tivi, Jay Leno nói về bài diễn
văn nhận chức tổng thống của tổng thống George Washington kéo dài chỉ có một
phút rưỡi mà thôi. Leno đã nói: "Tôi đoán rằng sẽ chẳng có chuyện gì nhiều
để nói nếu bạn là một nhà chính trị mà lại không nói dối!"
Những người Pharisêu là
những chức sắc trong tôn giáo, mặt trong họ chống lại chính quyền Lamã đang cai
trị dân Do Thái, mặt ngoài họ thoả hiệp với chính quyền để củng cố và duy trì
địa vị. Họ đã bàn tính với những người thuộc phái Hêrôđê, đang điều hành guồng
máy chính quyền Lamã thu thuế ở Palestine ,
hỏi Chúa Giêsu rằng: "Có được phép nộp thuế cho Cêsarê không?". Nếu
trả lời không, Chúa sẽ bị chính quyền Lamã bắt vì tội phản loạn. Nếu trả lời
có, Chúa sẽ bị những người Do Thái ái quốc và quần chúng đang theo Ngài bỏ rơi.
Trả lời cách nào Chúa cũng bị thiệt thòi, theo như họ đã nghĩ. Một cách khôn
ngoan, Chúa không trả lời "không" hay "có", nhưng chỉ vào
đồng tiền có hình Cêsarê mà nói: "Trả về Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả
về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa".
Qua câu trả lời của Chúa
Giêsu, chúng ta không nên giải thích rằng Thiên Chúa và Cêsarê nằm trên hai
đường thẳng song song, không nên nghĩ rằng Thiên Chúa và xã hội trần gian sẽ
không bao giờ gặp gỡ nhau. Thiên Chúa luôn nắm giữ quyền tối thượng trên mọi
sinh hoạt của con người.
Một câu chuyện huyền thoại
cổ kể về một ông vua đầy quyền lực và tàn bạo có thể điều khiển thuộc hạ phải
làm theo ý mình tất cả mọi việc. Nhưng trừ một điều nhà vua không thể làm được
là phá huỷ niềm tin của họ vào Thiên Chúa. Do đó, vua cho gọi ba nhà cố vấn
thông thái nhất nước đến và hỏi: "Tôi có thể dấu Thiên Chúa ở đâu để dân
chúng sẽ không thể tìm thấy Ngài?" Nhà thông thái thứ nhất trả lời:
"Hãy dấu Thiên Chúa vào các hành tinh thật xa trong không gian, dân chúng
sẽ không tìm ra Ngài". Nhà thông thái thứ hai không đồng ý: "Như thế
không được! Một ngày nào đó dân này sẽ nghiên cứu cách bay vào không gian, tới
những hành tinh đó, và họ sẽ tìm thấy Thiên Chúa của họ. Tốt hơn hết là dấu
Ngài xuống đáy đại dương". Người thứ ba phản đối: "Như thế cũng không
được! Một ngày nào dân này sẽ biết cách lặn xuống đáy biển, và họ sẽ tìm thấy
Thiên Chúa. Tốt hơn hết, hãy dấu Ngài trong đời sống hằng ngày của mỗi người; không
ai có thể tìm thấy Ngài cả!"
Thiên Chúa hiện diện trong
mọi sinh hoạt của con người, và con người, một loài thụ tạo, có bổn phận phải
nhận biết và yêu mến Thiên Chúa như sách Giáo lý Công giáo đã dạy ở số 1. bắt
đầu sách giáo lý rằng: "Trong một dự tính hoàn toàn do lòng nhân hậu,
Thiên Chúa vô cùng toàn hảo và hạnh phúc nơi bản thân mình, đã tự ý sáng tạo
nên con người để cho con người được thông phần vào sự sống diễm phúc của Ngài.
Bởi vậy, ở mọi nơi và mọi thời, Ngài muốn ở gần con người. Ngài kêu gọi con người,
giúp con người tìm kiếm Ngài, nhận biết và yêu mến Ngài hết sức mình".
15. Trả về
Cái gì là của Thiên Chúa và
cái gì là của Cêsarê? Đây không chỉ là vấn đề của những người Pharisêu, nhưng
còn là vấn đề của các tông đồ, của chúng ta, và của con người qua mọi thời đại.
Chúa Giêsu đã không tránh né vấn đề bằng cách bỏ mặc cho con người với cách
giải quyết riêng của mình. Trái lại, Ngài đã hiến thân để chứng minh cho cách
thức giải quyết của Ngài. Ngài đã ban cho con người luật lệ chung, và con người
có bổn phận phải áp dụng luật chung đó vào trong những trường hợp cụ thể. Khi
được hỏi ý kiến về điều răn nào quan trọng nhất, Chúa Giêsu đã ban hành nguyên
tắc chung là: "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết
lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn
đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống như điều răn ấy, là: ngươi phải yêu
mến người thân cận như chính mình",
Trong suốt cuộc đời rao
giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tận tình cắt nghĩa luật lệ này trong mọi lúc, mọi
nơi và mọi hoàn cảnh. Hai điều luật vĩ đại này không thể phân chia ra làm hai.
Chúng ta không thể chu toàn luật thứ nhất nếu không thi hành luật thứ hai. Yêu
mến Thiên Chúa mà không yêu thương người lân cận là một sự mâu thuẫn. Trong thư
gửi tín hữu, thánh Gioan đã viết: "Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên
Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu
thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ
không trông thấy... ai yêu mến Thiên Chúa, cũng phải yêu mến anh em mình".
Tất cả mọi người đã được
dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa, và có quyền được yêu thương và kính
trọng theo đúng phẩm giá của con người. Chính quyền không có quyền ban cho hay
lấy đi quyền này của mỗi người, nhưng có bổn phận che chở và bảo vệ nó. Khi
chính quyền chu toàn bổn phận này, chính quyền đã giúp cho người dân thi hành
cả hai bổn phận trung thành với Thiên Chúa và với tổ quốc. Nhưng khi chính
quyền theo đuổi một chính sách phủ nhận và chà đạp quyền căn bản của con người,
người dân không thể chu toàn cả hai bổn phận được, khi đó lương tâm sẽ lên
tiếng trả lời.
Sách Giáo lý Công giáo số
2242 đã nói: "Người công dân có nghĩa vụ, theo lương tâm, không tuân theo
những luật lệ của chính quyền dân sự, khi các luật lệ này nghịch với những đòi
hỏi của trật tự luân lý, nghịch với những quyền căn bản của con người hoặc với
những lời dạy của Phúc âm. Sự từ chối vâng phục các uy quyền dân sự khi họ đòi
hỏi những điều nghịch với lương tâm ngay chính, được biện minh bởi sự phân biệt
giữa việc phục vụ Thiên Chúa và việc phục vụ cộng đồng chính trị. "Trả về
Cêsarê cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa".
"Phải vâng phục Thiên Chúa hơn là vâng phục người ta".
Vua Henri nước Anh, đã có
vợ rồi, nhưng muốn cưới thêm vợ thứ hai. Vua ra lệnh cho các quần thần phải ký
vào bản tuyên ngôn công nhận việc làm của vua là đúng. Thomas More, quan chưởng
ấn không ký, vì ông không thể làm trái với tiếng nói của lương tâm mình. Ông đã
bị hành quyết và trở thành một vị thánh.
Dietrich Bonhoeffer đã dám
đi ngược lại đường lối của nhiều nhà thờ ở Đức để lên tiếng chống lại sự cai
trị tàn bạo của Adolf Hitler trong thời gian quyền lực của Hitler đang lên tới
tột đỉnh ở Đức. Bonhoeffer đã bị hành quyết vì tiếng nói chân chính của mình,
và sau này những lời cảnh cáo của ông mới thành sự thực.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã nói,
"Chúng ta không được kêu gọi để thành công, nhưng chúng ta được kêu gọi để
trung thành". Trung thành với Thiên Chúa là quyền ưu tiên tối thượng trên
tất cả mọi sự.
Một tờ báo cổ vũ về giá trị
của đời sống gia đình đã kể câu chuyện về một người đàn ông lần đầu tiên đến
thăm thủ đô Washington D.C. .. Ông rất cảm động trông thấy những
nghị sĩ và dân biểu mà từ trước tới nay chỉ nghe nói mà thôi. Ông say mê nhìn
ngắm những toà nhà của chính phủ và những cơ quan quan trọng của đất nước.
Nhưng cái cảnh gây ấn tượng mạnh nhất là lá cờ tổ quốc bay phất phới trên đầu
khi viếng thăm toà nhà quốc hội. Kết thúc một vòng tham quan thành phố thủ đô Washington , ông tự nghĩ:
"Đây là nhà của chính phủ. Đây là nơi cư ngụ của quyền lực. Đây là nơi
quan trọng nhất trên toàn thể đất nước Hoa Kỳ!"
Sau này, người đàn ông đó
có dịp đến thăm một gia đình nông trại. Ông chăm chú nhìn thấy con cái của gia
đình này sau khi đi học về, mỗi người tự động mau mắn làm những công việc nhà.
Ngồi vào bàn ăn tối, ông hân hoan nhìn thấy những khuôn mặt vui tươi và lắng
nghe những câu chuyện huyên náo sống động. Trước bữa ăn, ông cảm thấy ấm lòng
khi người cha của gia đình đọc đoạn Thánh Kinh, rồi cha mẹ con cái cùng nắm tay
nhau, cúi đầu tạ ơn lòng nhân lành của Thiên Chúa, và cầu nguyện cho Giáo Hội,
cho bạn bè, cho tất cả mọi người đang lầm than. Họ cũng cầu nguyện cho tổ quốc,
cho tổng thống và tất cả mọi người đang cầm quyền. Sau này, khi ra về, ông bắt
đầu suy nghĩ về điều vừa nhìn thấy ở nông trại đơn sơ. Thình lình ông nhận ra
mình đã sai lầm khi nghĩ rằng thủ đô Washington
là nơi quan trọng nhất ở Hoa Kỳ. Ông ý thức rằng quyền lực thực sự của một quốc
gia không phải nằm ở cơ cấu tổ chức của chính quyền. Quyền lực thực sự của một
quốc gia được tìm thấy trong những mái gia đình đang tự do: "trả về Cêsarê
cái gì của Cêsarê, và trả về Thiên Chúa cái gì của Thiên Chúa".
16. Viễn vọng kính
Vua nước Đức Frederic tự
cho mình là học rộng tài cao, lấy làm hãnh diện đã khám phá ra một phương pháp
mới, khả dĩ làm cho nền kinh tế quốc gia phát triển mạnh. Ông ngồi trong phòng
tính đi tính lại: Cứ mỗi năm chim sẻ ăn hết hai triệu thùng thóc trên toàn lãnh
thổ. Vì thế, ông truyền phát động chiến dịch bài trừ sẻ. Giết được một con chim
là được một phần thưởng.
Toàn dân hưởng ứng nhiệt
liệt vì thấy công việc dễ dàng và vui thú. Thế là lần lượt chim sẻ bị bắn chết,
một số khác bay về một phương trời xa. Cuối cùng, chẳng còn thấy một mống nào
trên toàn lãnh thổ. Frederic vui mừng khôn tả vì tin chắc kế hoạch của mình sẽ
thành công rực rỡ.
Nhưng có ngờ đâu, vừa khi
ngày mùa tươi tốt đầy hứa hẹn tới, thì không biết từ đâu từng bầy sâu bọ đua
nhau kéo đến, từng đàn châu chấu cũng ùn ùn xuất hiện tràn lan khắp lãnh thổ,
không cách nào diệt nổi. Thế là Frederic chỉ còn cách ngồi trong điện rồng lòng
buồn ủ rũ, chứng kiến kỳ công của mình hoàn toàn sụp đổ.
Các qui luật của thiên
nhiên, các định luật trong vũ trụ, đều được Thiên Chúa an bài, sắp xếp, để nên
tốt đẹp và hữu ích cho con người. Một khi con người đã phá vỡ những qui luật ấy
thì tai họa sẽ ập tới chỉ còn là vấn đề thời gian.
Đức Giêsu trong Tin Mừng
hôm nay, đã không chỉ thoát khỏi cạm bẫy của nhóm Pharisêu: "Có được phép
nộp thuế cho Xêda hay không?". Người còn bất ngờ đưa ra một câu nói thời
gian khiến bọn họ phải câm miệng: "Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa
trả về Thiên Chúa". Qua câu này, Đức Giêsu đã nhìn nhận thế quyền của
Xêda. Nhưng có quyền gì của Xêda, mà lại chẳng xuất phát từ Thiên Chúa. Đức
Giêsu đáp lại Philatô: "Ngài không có quyền gì đối với tôi, nếu Trời chẳng
ban cho ngài".
Nếu phải trả lại cho Xêda
đồng bạc mang hình danh hiệu của Xêda, thì có loài thụ nào mà không mang hình
hài và tên gọi của Thiên Chúa. Nhà bác học Newton đã nói: "Tôi nhìn thấy Thiên Chúa
trên đầu viễn vọng kính của tôi".
Người ta phá vỡ hình ảnh
bao la hùng vĩ của Thiên Chúa, khi người ta chặt cây, đốt rừng cho lụt lội tràn
lan; rồi thải khí carbonic lên bầu trời, cho lủng tầng Ozone.
Người ta phá vỡ hình ảnh
xinh đẹp của Thiên Chúa, khi người ta ly dị, phá thai, sinh hoạt đồng tình
luyến ái.
Người ta phá vỡ hình ảnh
chân thật của Thiên Chúa, khi người ta đọc kinh, đi lễ; nhưng sống ích kỷ,
lường gạt và gian lận.
Sách Sáng Thế viết:
"Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa". Vì thế, con
người là tác phẩm tuyệt vời mà Thiên Chúa nhìn thấy rất rõ hình ảnh của Người
trong đó. "Của Thiên Chúa trả về cho Thiên Chúa". Hãy trả lại cho
Thiên Chúa hình ảnh con người đã được Người dựng nên rất thanh khiết thuở ban
đầu. Hãy trả lại cho Thiên Chúa vũ trụ, tài nguyên và muôn sinh vật, hình ảnh
trong lành mà Người đã dựng nên. Hãy trả lại cho Thiên Chúa thế giới do Người
tạo nên, hình ảnh của an bình và yêu thương.
Chính Thiên Chúa đã yêu
chúng ta trước bằng một tình yêu vô biên. Vì thế hãy mở rộng tâm hồn để đón
nhận tình yêu Chúa. Huyền diệu của tình yêu là khi nào người kia lãnh nhận,
tình yêu ấy mới thực sự thành tình yêu. Tình yêu cho đi, không người nhận, sẽ
trở về với người đã trao ban.
17. Nộp thuế cho
Xê-da - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong cuộc đời, bạn có
gặp trường hợp xung đột giữa hai «bản tịch» như Đức Giêsu, nghĩa là trung thành
với tôn giáo thì bị kết án là phản bội đất nước, và ngược lại, trung thành với
đất nước thì bị kết án là phản bội tôn giáo không? Trong trường hợp đó, bạn cần
phải hành xử thế nào?
2. Bạn có phân biệt rõ rệt
như Đức Giêsu: cái gì của Xê-da, cái gì của Thiên Chúa không? Nghĩa là phân
biệt thánh ý Thiên Chúa và ý muốn của các thế lực đạo đời đang chi phối mình
không? Phải coi ý muốn của ai quan trọng hơn?
CHIA SẺ
1. Tình trạng hai «bản
tịch» của Đức Giêsu
Bài Tin Mừng hôm nay cho
thấy sự xung đột giữa hai «bản tịch» của Đức Giêsu cũng như của mọi Kitô hữu có
quê hương dân tộc, nghĩa là vừa là tín đồ của một tôn giáo, tức «giáo tịch»,
vừa là người dân của một đất nước, tức «quốc tịch». Ngài cũng như chúng ta, vừa
phải yêu mến Thiên Chúa và có những bổn phận tôn giáo (như thờ phượng Thiên
Chúa, phục vụ Giáo Hội, hành xử theo lương tâm...), vừa phải yêu quê hương đồng
bào và có nghĩa vụ đối với đất nước của mình (như tôn trọng pháp luật, đóng
thuế, quân dịch...). Hai thứ trách nhiệm này thường phù hợp với nhau, nhưng
cũng có rất nhiều trường hợp chúng xung đột nhau: trung thành với tôn giáo thì
có vẻ như phản bội đất nước, và ngược lại.
Trong bài Tin Mừng hôm nay,
người Pha-ri-siêu và phe đảng Hê-rô-đê hợp nhau đặt bẫy Đức Giêsu. Người
Pha-ri-siêu là phe chủ trương trung thành với Do Thái giáo và đất nước Do Thái,
vì thế, họ âm thầm chống lại người Rô-ma đang cai trị đất nước họ. Còn phe đảng
Hê-rốt là người của Hê-rô-đê An-ti-pa - tiểu vương miền Ga-li-lê - chủ trương
ủng hộ chính sách đô hộ của Rô-ma. Vì thế, hai phe này thường chống đối nhau
kịch liệt: người Pha-ri-siêu coi phe Hê-rô-đê là phản Thiên Chúa và phản quốc;
còn phe Hê-rô-đê là tay sai của đế quốc, tìm cách giết chết từ trong trứng nước
những mầm mống chống lại đế quốc trong dân Do Thái.
Điều rất lạ là trong bài
Tin Mừng này hai phe chống đối nhau ấy lại hợp sức với nhau hãm hại Đức Giêsu,
bằng cách đặt Ngài vào một trường hợp thật khó xử là sự xung đột giữa hai «bản
tịch» ấy. Họ chất vấn Ngài: «Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?» Trả
lời thế nào Ngài cũng đều bị kết án. Nếu nói «được phép», Ngài sẽ bị người
Pha-ri-siêu lên án là ủng hộ người Rô-ma là kẻ thù của dân tộc, đồng thời chống
lại Thiên Chúa mà tín đồ Do Thái giáo coi là vị Vua duy nhất. Còn nếu bảo
«không được» thì người của Hê-rô-đê sẽ bắt Ngài nộp cho chính quyền Rô-ma vì
tội tuyên truyền phản động, chống lại chính sách của đế quốc. Nhưng Đức Giêsu
đã trả lời họ một cách thật tài tình, khiến cho cả hai phe không bắt bẻ Ngài
được, đồng thời cho chúng ta một nguyên tắc để hành xử khi mang hai «bản tịch»
trên. Đó là «của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa».
2. Thần quyền hợp với thế
quyền bách hại Đức Giêsu
Người mang hai «bản tịch»
như thế bị chi phối rất nhiều bởi hai lực lượng: thần quyền bên tôn giáo và thế
quyền bên đất nước, xã hội. Lý tưởng nhất là hai lực lượng này cùng quan tâm
đến những thiện ích chung của mọi người để cùng cộng tác với nhau, mưu lợi ích
và hạnh phúc cho toàn dân. Đó là điều đại hạnh phúc cho mọi người dân, mọi tín
đồ. Nhưng tại nhiều quốc gia, thần quyền và thế quyền chống đối nhau, nhất là
khi hai bên có những quan điểm căn bản ngược lại nhau. Chẳng hạn khi thế quyền
chủ trương vô tôn giáo, hoặc nghiêng hẳn về một tôn giáo nào đó, coi tôn giáo
đó là quốc giáo, khiến tín đồ các tôn giáo khác lâm vào thế bị bạc đãi. Lúc đó,
những người dân hai «bản tịch» bị ngược đãi ấy bị buộc phải chọn một bên và bỏ
một bên một cách thật đau lòng. Đau lòng là vì họ chẳng muốn bỏ một bên nào,
bên nào cũng hết sức thân thiết với họ. Họ lâm vào thế kẹt: hễ trung thành với
tôn giáo thì bị nhà nước kết án, mà trung thành với nhà nước thì bị tôn giáo
kết án.
Nhưng cũng có những trường
hợp thần quyền và thế quyền hợp với nhau áp bức và bóc lột người dân vốn thấp
cổ bé miệng, như trường hợp bài Tin Mừng hôm nay. Lúc đó thần quyền có thể trở
thành công cụ của thế quyền hoặc ngược lại: hai bên lợi dụng thế của nhau để áp
bức người dân, để cùng có lợi. Hai bên có thể thỏa hiệp với nhau, bênh vực hay
tương nhượng lẫn nhau, hoặc bên này im lặng để mặc bên kia tự do hành động sai
trái, bất chấp quyền lợi chung của đất nước, tôn giáo, hay người dân.
Thần quyền cũng như thế
quyền đều được lập nên nhằm mục đích phục vụ lợi ích chung của dân chúng và của
các tín đồ. Thần quyền còn nhằm phụng sự Thiên Chúa. Nhưng lịch sử các quốc gia
và các tôn giáo, cũng như cuộc đời của Đức Giêsu cho thấy: không phải lúc nào
thần quyền và thế quyền cũng đi đúng mục đích của mình. Nhiều trường hợp họ theo
đuổi những mục đích cá nhân hay tập thể nhỏ của họ. Thiết tưởng các Kitô hữu
chân chính, tức những môn đệ đích thực của Đức Giêsu, cho dù hoạt động trong
thần quyền hay thế quyền, cũng luôn luôn đặt quyền lợi của Thiên Chúa, của đất
nước, của tôn giáo và của dân chúng lên trên hết. Họ sẵn sàng hy sinh bản thân,
quyền lợi cá nhân cũng như tập thể nhỏ của họ cho mục đích cao cả ấy. Nếu không
thì càng giữ chức vụ cao, họ càng trở thành công cụ của Xa-tan, của sự ác, và
đương nhiên chức vụ cao ấy sẽ là nhân duyên tạo nên sự trừng phạt của Thiên
Chúa dành cho họ.
3. Áp dụng nguyên tắc của
Đức Giêsu
Là tín đồ của một tôn giáo
trong một đất nước, chúng ta có hai «bản tịch» với hai loại nghĩa vụ: một là
đối với Thiên Chúa, Giáo Hội, đời sống tâm linh, lương tâm con người; hai là
đối với quốc gia, xã hội. Người Kitô hữu cần cố gắng thi hành trọn vẹn chừng
nào có thể hai loại nghĩa vụ ấy. Việc này sẽ dễ dàng nếu hai thế lực đạo và đời
cùng đồng quan điểm và cùng hợp lực với nhau vì ích lợi chung. Lúc đó, cả hai
thế lực đều là những công cụ phục vụ điều thiện, vì thế, tuân theo mệnh lệnh
của những thế lực ấy cũng chính là vâng lời Thiên Chúa. Thánh Phê-rô đưa ra
nguyên tắc: «Hãy tôn trọng mọi người, hãy yêu thương anh em, hãy kính sợ Thiên
Chúa, hãy tôn trọng nhà vua» (1Pr 2,16). Đối với nhà nước phục vụ ích lợi chung
như thế, thánh Phao-lô nói: «Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì không có
quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu là do
Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật tự
Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt» (Rm 13,1-2). Đó
chính là áp dụng lời của Đức Giêsu: «Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa,
trả về Thiên Chúa», nghĩa là nghĩa vụ thuộc bên nào thì hãy chu toàn nghĩa vụ ở
bên nấy.
Tuy nhiên, lý tưởng trên
nhiều khi không xảy ra, lúc đó người dân hai «bản tịch» sẽ gặp nhiều khó khăn.
Là người Kitô hữu, chúng ta cần phải đặt thánh ý Thiên Chúa và lương tâm con
người lên trên hết. Và kế đó là phải phân biệt giữa ý muốn của Thiên Chúa và ý
muốn của hai thế lực đạo, đời ấy. Chủ trương và động lực của hai thế lực này
không phải luôn luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và lương tâm con người.
Hai thế lực ấy vốn là bề trên, là bậc cha mẹ mà bình thường ta phải tuân phục.
Đức vâng phục Kitô giáo đòi buộc chúng ta phải tuyệt đối vâng lời bề trên bao
lâu chúng ta biết mệnh lệnh của bề trên phản ảnh thánh ý của Thiên Chúa. Chừng
nào chúng ta thấy mệnh lệnh của bề trên không còn phù hợp với thánh ý của Thiên
Chúa, thì dù bề trên ấy là thần quyền hay thế quyền, chúng ta không phải tuân
phục. Vì «phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29). Nếu ta
biết ý của bề trên phản lại ý muốn của Thiên Chúa mà vẫn nhắm mắt vâng lời là
ta đã phạm tội đồng lõa với họ. Hãy xem gương dân Do Thái, chính vì hùa theo
giới lãnh đạo tôn giáo giết Đức Giêsu và các ngôn sứ, mà hậu quả là nước Do
Thái đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới gần 20 thế kỷ.
Điều quan trọng là chúng ta
phải thực hành thánh ý của Thiên Chúa được thể hiện qua lương tâm ngay thẳng và
được giáo dục của mình, bất chấp làm như thế có ý nghĩa chính trị hay thương
mại hay gì gì khác nữa. Chúng ta không chủ trương làm chính trị hay thương mại,
mà chỉ chủ trương làm theo thánh Thiên Chúa hay lương tâm. Không thể vì một bổn
phận nào đó mang ý nghĩa chính trị hay thương mại mà chúng ta có quyền miễn làm
theo thánh ý Thiên Chúa hay theo tiếng nói của lương tâm. Trước những xung đột
như thế, hãy tự hỏi: ta phải làm theo ý Thiên Chúa hay theo ý muốn của con
người?
Cầu nguyện
Lạy Cha, chúng con đang
sống trong một thế gian đầy phức tạp, việc sống theo ý muốn của Cha không phải
là đơn giản, vì rất nhiều khi các nguyên tắc chồng chéo và mâu thuẫn nhau.
Chính vì thế, chúng con phải biết nguyên tắc nào là cao nhất. Nguyên tắc cao
nhất mà Kinh Thánh mặc khải cho, chính là: «Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng
lời người phàm» (Cv 5,29), hay «Chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy, Đấng ngự
trên trời, mới được vào Nước Trời mà thôi» (Mt 7,21). Xin cho con biết tuân thủ
nguyên tắc ấy qua lương tri và lương tâm của con. Amen.
18. Nên giống Chúa
Việc xảy ra trong một hầu
quốc gần bờ sông Rhin nước Pháp. Vua của lãnh thổ này vừa qua đời. Sau một thời
gian đất nước loạn lạc và chinh chiến, dân chúng chán cảnh chiến tranh và đòi
một người kế vị yêu chuộng hòa bình. Nhưng các quan trong triều có trách nhiệm
chọn người kế vị lại bối rối, khó xử, vì vị vua mới qua đời có để lại hai đứa
bé còn nằm trong nôi, và đứa nào cũng dễ thương hết. Làm thế nào biết được em
nào sẽ là con người yêu chuộng hoà bình?
Lúc đó, một vị quan có
trách nhiệm lựa chọn đưa ra ý kiến là hãy quan sát kỹ hai em đang nằm ngủ trong
nôi như hai thên thần, ông thấy em bé thứ nhất ngủ mà tay mở ra trong khi đứa
thứ hai nắm chặt tay lại. Không do dự, ông chọn ngay đứa thứ nhất, và sử đã ghi
lại rằng đó là vị hoàng tử đầy từ tâm và nhân ái dịu hiền.
Đây là hình ảnh kỳ diệu của
Chúa Giêsu dịu hiền và tốt lành, là vua và là trung tâm của mỗi tâm hồn. Ngài
xuống thế, lúc ở trong máng cỏ cũng như khi ở trên cây thập giá, Ngài đưa tay
ra trong dáng điệu đón nhận.
Mỗi người trong chúng ta đã
được Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài có lý trí, có trí khôn để hiểu biết và
có tâm tình để yêu mến. Cái hình ảnh ấy, con người mang trong mình tự khi được
thụ thai trong lòng mẹ, con người có những đức tính giống Thiên Chúa, hay đúng
hơn, có những khả năng để trở nên giống Thiên Chúa. Nếu mỗi ngày biết trau dồi
phát triển thêm, thì con người càng trở nên gống Chúa hơn, và người đời sẽ nhận
ra giống hình ảnh Chúa nơi chúng ta, như cử chỉ em bé trong câu chuyện nói lên
đời sống em.
Trong Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu đặt câu hỏi: hình này là hình ảnh của ai đây? Câu ấy có thể là câu
một Chúa muốn đặt ra cho chúng ta chăng? Ngoài những đức tinh, những khả năng
tự nhiên của bản tính loài người, linh hồn thiêng liêng, lý trí và ý chí, những
cái ta nhận được khi thụ thai, những cái làm ta nên giống Thiên Chúa một phần
nào, Chúa còn in vào trong tâm hồn chúng ta, trao cho chúng ta nhiều hình ảnh
khác nữa.
Lúc chịu phép rửa tội, Chúa
đã in vào trong tâm hồn chúng ta một hình ảnh con Chúa, hình ảnh Chúa Kitô, một
hình ảnh thật tốt, không thể tẩy xóa đi được, nhưng chưa được rõ lắm. Không
những chúng ta có bổn phận tô điểm bức ảnh ấy cho thêm rõ ràng, cho thêm tươi
đẹp... nghĩa là chúng ta phải làm thế nào để người khác trông vào nơi chúng ta
là hình ảnh của Chúa, họ phải cảm thấy sự đáng mến đáng quí trọng của Ngài, nếu
không, chúng ta chỉ là bức hí họa của Chúa.
Trong Tin Mừng hôm nay,
Chúa Giêsu còn bảo nhóm biệt phái Do thái: "Cái gì của Xêda và cái gì của
Thiên Chúa thì hãy trả cho Thiên Chúa". Câu trả lời này của Chúa bao hàm
nhiệm vụ trần thế và thiêng liêng của chúng ta. Thánh Phaolô đã dạy:
"Những gì ta nợ ai, thì phải trả cho người ấy. Hãy nộp thuế cho kẻ có
quyền thu thuế hay trả công cho kẻ có quyền lấy công, hãy sợ kẻ đang sợ, hãy
kính kẻ đáng kính" (Roma 13,7). Những cái đó là những món nợ vật chất và
tinh thần. Chúng ta phải thanh toán tất cả những món nợ ấy với những ai có
quyền đói hỏi ở nơi ta.
Nhưng không phải chúng ta
chỉ nợ nhau, nợ loài người mà thôi mà còn nợ cả Thiên Chúa nữa. Thi hành việc
bác ái cho tha nhân chính là trả nợ cho Thiên Chúa. Chính Chúa Giêsu đã nói:
"Những gì làm cho họ "là" làm cho chính Ngài". (Mt 25,40)
Mong rằng: chúng ta sẽ mang
lại cho Chúa hình ảnh mà Ngài đã trao cho chúng ta khi được thụ thai cũng như
khi chúng ta chịu phép rửa tội. Và không những chỉ một hình ảnh y nguyên như
lúc chúng ta nhận được nơi tay Chúa mà còn phải là một hình ảnh tươi đẹp gấp
bội nữa, bởi vì chúng ta cần phải tô điểm thêm nữa.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
19. Xin Thầy cho
biết ý kiến
Bài Phúc âm hôm nay có một
câu đặc biệt thường được trưng dẫn, đó là: "Của Xêsa hãy trả cho Xêsa, của
Thiên Chúa hãy trả cho Thiên Chúa". Đó là câu trả lời đầy ý nghĩa sâu xa
của Chúa Giêsu cho những người đối nghịch muốn gài bẫy để có cớ bắt bẻ Ngài.
Những người ấy chính là bọn
Pharisiêu và những kẻ theo phái Hêrôđê. Trong thực tế, hai nhóm người này có
trường phái ngược nhau; nhóm Pharisiêu thì chỉ muốn bênh vực truyền thống sống
đạo của cha ông họ mà thôi. Họ coi đó là cách thế duy nhất để làm đẹp lòng
Thiên Chúa, và trên phương diện chính trị thì họ không chấp nhận sự hiện diện
của chính quyền Rôma đang nắm quyền cai trị vùng đất Palestine lúc đó.
Bấy giờ, vua Hêrôđê được
hoàng đế Rôma bổ nhiệm nắm chính quyền, vua Hêrôđê này không phải là người Do
Thái, nhưng ông là người dân ngoại không thuộc Do Thái giáo. Còn những người
Pharisiêu thì không chấp nhận sự thống trị của chính quyền Rôma trên đất nước Palestine . Theo lẽ thường
thì hai nhóm người này không hoà hợp được với nhau. Thế nhưng, trớ trêu thay,
để chống lại Chúa Giêsu thì họ liên kết với nhau, những người Pharisiêu liên
kết với những người của vua Hêrôđê.
Mặt khác, những người của
Hêrôđê thì lại ủng hộ tập trường của vua Hêrôđê, tức của hoàng đế Rôma để chấp
nhận sự thống trị của vua. Nhưng hai nhóm người này liên kết với nhau để đặt ra
một vấn nạn mà họ cho là phức tạp nhất: "Có nên nộp thuế cho hoàng đế Xêsa
hay không?". Nếu Chúa Giêsu trả lời là không, thì nhóm người Hêrôđê sẽ bắt
Chúa vì tội xúi giục dân chúng làm loạn không nộp thuế cho hoàng đế Rôma. Còn
nếu Chúa trả lời "có" thì những người phe Pharisiêu sẽ có cớ để tố
cáo Chúa với dân chúng làChúa đi với người ngoại bang, không đáng là một vị
lãnh đạo tôn giáo.
Đối với họ, theo cái nhìn
và suy luận của họ thì Chúa Giêsu chắc chắn sẽ rơi vào bẫy, vì không có câu nào
khác để trả lời: Một là phải nộp thuế hai là không nộp thuế. Nhưng câu trả lời
của Chúa Giêsu làm cả hai hạng người này không bắt bẻ được Ngài, đồng thời Chúa
Giêsu còn xác quyết một chân lý sự thật đầy mới mẻ, đó là: "Những gì của
Xêsa hãy trả cho Xêsa và những gì của Thiên Chúa hãy trả lại cho Thiên Chúa.
Hãy tìm nước Thiên Chúa trước, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho anh em dư
đầy".
Thử hỏi xem có một cái gì
hay vật gì trong vũ trụ này mà lại không thuộc về Thiên Chúa? Trái đất và vũ
trụ này do Thiên Chúa tạo dựng nên, và chính con người cũng được Ngài tạo dựng.
Mỗi người chúng ta đã lãnh nhận sự sống từ Ngài, bởi vì không có gì mà chúng ta
đang dùng mà lại không do Ngài ban cho.
Vậy, nếu không trả về cho
Thiên Chúa những gì thuộc về Ngài, không hướng về Ngài tất cả những gì trong vũ
trụ hay tất cả những gì ta đang hưởng dùng thì đó là thái độ phản loạn của con
người. Con người muốn chiếm hữu lấy chỗ của Thiên Chúa và qui mọi sự về chính
mình, lấy mình làm chủ, làm tiêu chuẩn cho mọi sự, những thái độ kiêu ngạo sai
lầm này chỉ dẫn đưa đón những tranh chấp, hận thù, bạo lực và xa rời Thiên Chúa
mà thôi. Vì thế, bao lâu mỗi người chúng ta không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng
chủ tể của mình, không trả lại cho Ngài và không qui hướng về Ngài tất cả những
gì thuộc về Ngài, không để cho Thiên Chúa chiếm chỗ nhất trong cuộc sống của
mình, thì bấy lâu con người không thể xây dựng một xã hội nhân bản xứng đáng là
con người, không thể nào xây dựng một xã hội hoà hợp, trong đó mọi người nhìn
nhận nhau như là anh chị em trong đại gia đình có Thiên Chúa là Cha: "Hãy
trả cho Xêsa những gì của Xêsa, và hãy trả cho Thiên Chúa những gì thuộc về
Thiên Chúa".
Hôm nay Lời Chúa mời gọi
mỗi người Kitô hữu chúng ta hãy dấn thân nhiều hơn nữa, đặt Chúa vào chỗ nhất
trong cuộc sống của mình, đặt Chúa vào chỗ nhất trong mọi sinh hoạt xã hội của
mình. Tất cả mọi biến cố, tất cả những gì chúng ta đang thừa hưởng là đến từ
Thiên Chúa và đều do tình yêu thương của Ngài trao ban.
Lạy Chúa, chúng con xin
dâng lời cảm lạ và tri ân Ngài mãi mãi, vì tất cả những gì chúng con có đây đều
là do Chúa ban cho. Xin Chúa gìn giữ chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng
con cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
20. Nộp thuế cho
Xêda – Lm PX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Tiếp sau phân đoạn
21,23–22,14 về các dụ ngôn là bốn giai thoại tường thuật các thức Đức Giêsu
đánh bại các đối thù trong các cuộc tranh luận tại Đền Thờ. Có thể gọi đây là
các "truyện về tranh luận". Nét tiêu biểu của các truyện này là người
tường thuật không quan tâm đến lập trường của các đối thủ của Đức Giêsu. Ông
thường cho thấy: hoặc các đối thủ giăng một cái bẫy bằng câu hỏi hiểm độc (cc.
15-22), hoặc câu hỏi của họ tạo ra cơ hội cho một câu trả lời (cc. 34-40). Nếu
có nói đến lập trường của họ, thì chỉ nói rất ngắn gọn (cc. 23.42), vì cần phải
nói ra cho cuộc tranh luận. Các đối thủ của Đức Giêsu được mô tả giống như các
diễn viên ranh ma nhưng thừa thãi.
Hình thái của bốn truyện
cũng có đặc tính của cuộc tranh luận tại lớp học, trong đó các học trò đặt câu
hỏi cho thầy (22,16.24.36). Theo một lược đồ của truyền thống kinh sư Do Thái,
các tranh luận nhà trường được bố trí thành bốn bậc với độ mạnh tăng dần và
được đặt tên như sau:
1- [K]hokmâh ("sự khôn
ngoan"): đây là một tranh luận về quy tắc phải theo khi liên hệ đến những
bản văn pháp luật;
2- Haggadâh ("truyện
ký"): đây là một lối giải thích các băn văn Kinh Thánh bề ngoài mâu thuẫn
với nhau;
3- Bôrut ("sự tầm
thường"): đây là một tranh luận nhắm biến niềm tin thành một trò hề;
4- Derek 'erets
("đường đất"): đây là một tranh luận về những nguyên tắc cơ bản của
đời sống luân lý.
Chúng ta có thể cho rằng
tác giả Mt đã trình bày các đoạn văn trong chương 22 từ c. 15 đến c. 46 theo
lược đồ này, nhưng ngài đảo thứ tự truyền thống, bằng cách đặt haggadâh vào
cuối cuộc đối chất, hầu nêu bật tính tiệm tiến của cuộc đối chất cho đến câu
hỏi cuối cùng của Đức Giêsu (x. c. 42):
1- [K]hokmâh:22,15-22,
2- Bôrut: 22,23-33;
3- Derek 'erets: 22,34-40,
4- Haggadâh: 22,41-46.
Ba tranh luận đầu được gợi
lên bởi ba nhóm đại diện Do Thái giáo chính thức. Họ tìm cách gài bẫy Đức Giêsu
bằng chính những lời nói của Người (cc. 15 và 35) về những vấn đề ngày càng
thêm quan trọng: nộp thuế cho Xêda, là vấn đề đặt đối lập các nhóm Hêrôđê,
Pharisêu và Nhiệt Thành (Quá Khích) với nhau; sự sống lại của kẻ chết, là vấn
đề được phái Xađốc đặt ra; điều răn lớn nhất, là mối bận tâm của người Do-thái
tuân thủ luật Môsê nghiêm nhặt, tức phái Pharisêu. Các vấn đề ấy được đặt ra
cho một vị Rabbi: "Thưa Thầy" (didaskale; x. cc. 15.24.36); đây là
danh hiệu cho thấy là họ hiểu Đức Giêsu đứng vào vị trí nào. Nhưng cứ mỗi lần
Đức Giêsu lại đưa họ đến một câu hỏi triệt để hơn. Để rồi cuối cùng, Người chủ
động đặt rõ ràng cho họ câu hỏi phát sinh do dự hiện diện của Người giữa họ
trong Đền thờ, và như thế Người buộc họ phải lấy lập trường dứt khoát.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành
ba phần:
1) Toan tính của các đối
thủ của Đức Giêsu (22,15);
2) Cuộc gặp gỡ với vấn đề
nộp thuế cho Xêda (22,16-17);
3) Câu trả lời của Đức
Giêsu (22,18-21):
a) lật mặt nạ bằng nhận
định mở đầu (c. 18),
b) lật mặt nạ bằng cách
dùng đồng tiền nộp thuế (cc. 19-21a),
c) giáo huấn quan trọng
nhất của Đức Kitô: tìm kiếm Thiên Chúa (c. 21b).
Bài đọc phụng vụ bỏ câu kết
của cuộc tranh luận (c. 22).
3.- Vài điểm chú giải
- người Pharisêu ... người
thuộc phe Hêrôđê (1-2): Những người Pharisêu đại diện cho thái độ không khoan
nhượng về tôn giáo. Họ nhất định không bỏ mất tự do của Dân Thiên Chúa trước
chính quyền Rôma. Còn người thuộc phe Hêrôđê thì ủng hộ Rôma, bởi vì Đế quốc
nâng đỡ các tiểu vương xuất thân từ gia đình Hêrôđê Cả.
- người chân thật ... chẳng
vị nể ai (16): Đây là hai đòi hỏi mà các kinh sư luôn phải nhớ mà đáp ứng:
trung thành với Lề Luật và không cả nể, thiên vị.
- được phép ... hay không
(17): "Được phép" (exestin) [và "không được phép"] là công
thức tiêu biểu của TM Mt (12,2.4.10.12; 14,4; 19,3; 20,15; 27,6). Câu hỏi
"được phép không?" thường được người tín hữu Do Thái đặt ra cho mình
và cho các kinh sư. Tầm mức của câu hỏi có tính quy thần: dưới mắt Thiên Chúa,
tức dưới ánh sáng của Lề Luật, có được phép nộp thuế không? Như thế, câu hỏi
không được đặt ra trên bình diện Luật dân sự hoặc thời cơ chính trị.
- nộp thuế (17): Ngoài
nhiều khoản thu được bổ cho tất cả các công dân trong Đế quốc (thuế cầu đường,
thuế quan...), các tỉnh phải đóng một thứ cống (Lt. tributum) cho hoàng đế, để
bày tỏ sự thuần phục. Người Do Thái rất ghét thứ cống thuế này, còn Nhóm Quá
Khích thì buộc phải coi việc từ chối nộp như một bổn phận tôn giáo.
- đồng tiền nộp thuế (19):
Người Do Thái chỉ có quyền đúc tiền đồng, chứ không được đúc tiền bạc. Như vậy
các đồng tiền của họ có giá trị nhỏ nên không được phép dùng để đóng thuế. Họ
phải dùng đồng quan (dênarion). Chẳng hạn, đồng quan của hoàng đế Tibêriô có
một bên là hình cái đầu hoàng đế, bên kia là hình bà Livia, mẹ của hoàng đế,
được coi như nữ thần hòa bình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Toan tính của các đối thủ
của Đức Giêsu (15)
Câu 15 mở đầu cho toàn phân
đoạn (cc. 15-46). Các đối thủ của Đức Giêsu lần lượt xuất hiện: tại Đền Thờ,
các thượng tế và kinh sư đã can thiệp (21,15), kế đó là các thượng tế và kỳ mục
trong dân (21,23), rồi đến các thượng tế và người Pharisêu (21,45), bây giờ đến
lượt những người Pharisêu và những người thuộc phe Hêrôđê (22,15). Sau này
những người thuộc nhóm Xađốc cũng đến (22,23), và cuối cùng lại là những người
Pharisêu (22,35.41). Họ vẫn chống nhau, nhưng bây giờ họ liên minh với nhau để
chống một kẻ thù "chung".
Hôm nay nhóm Pharisêu nhắm
rút được một tuyên bố (logos) của Đức Giêsu, để lời ấy trở thành một cái bẫy
hại Người.
* Cuộc gặp gỡ với vấn đề
nộp thuế cho Xêda (16-17)
Ở đây những người Pharisêu
sai các môn đệ của họ (thật ra người Pharisêu không có môn đệ, mà là các kinh
sư) cùng đi với những người thuộc phe Hêrôđê mà gài bẫy Đức Giêsu. Ở Mc
12,14-15, câu hỏi của họ vừa có tính lý thuyết ("có được phép nộp
thuế?") vừa thực tiễn ("chúng tôi có phải nộp thuế?"); ngược lại
trong Mt, câu hỏi chỉ có tính lý thuyết (như ở Lc 20,20-26). Thật ra câu hỏi
của họ hết sức nham hiểm. Lời đầu tiên họ nói, rất dài, nhắm ru ngủ các nghi
ngờ, là một lời khen hết sức giả hình (c. 16: captatio benevolentiae): họ chào
Người là "Thầy" (Rabbi); họ đề cao sự chân thành, khả năng, tính chí
công vô tư của Người. Thật ra, Đức Giêsu đúng là như thế, nhưng nơi môi miệng
của những sứ giả do người Pharisêu thù nghịch gửi đi, các lời của họ rỗng tuếch
và không lương thiện. Từ đó, họ xin Người ban giáo huấn về một vấn đề phức tạp;
họ "nhả chất độc ra" (c. 17): một câu hỏi dứt khoát và đột ngột: "có
được phép nộp thuế cho Xêda hay không?". Nếu trả lời "có", Đức
Giêsu sẽ khiến dân chúng nổi giận, vì Người tỏ ra là người nghiêng theo Đế
quốc; và người Pharisêu chẳng bỏ lỡ cơ hội mà đánh đổ tất cả uy tín của Người
trước mặt dân chúng. Còn nếu trả lời "không", Người sẽ bị coi là
chống chính quyền Rôma; và phe Hêrôđê có lẽ sẽ là những người đầu tiên tố cáo
Người là người muốn phá rối trị an. Hơn nữa, câu hỏi còn có tầm mức thần học,
bởi vì các nhóm Do Thái cực đoan coi việc sử dụng đồng bạc ngoại quốc như một
kiểu thờ ngẫu tượng, mà điều răn thứ hai lên án: không được đưa các hình ảnh
hoàng đế hoặc các biểu hiệu tượng trưng quyền bính của ông vào Đền Thờ để khỏi
làm giảm thiểu vương quyền của Đức Chúa (Yhwh). Khi các tổng trấn (chẳng hạn
Philatô) đã tìm cách làm như thế để hạ nhục người Do Thái, các vị này đã gặp
phải phản ứng chống đối gay gắt nhất. Những người thuộc Nhóm Quá Khích (Nhiệt
Thành) dứt khoát không nhận quyền Hoàng đế nên cũng không đóng thuế. Họ không
đặt vấn đề về lý thuyết hay thực hành. Nhưng người Pharisêu thì chọn một thái
độ trung dung; họ đã chấp nhận đóng thuế để đổi lấy tự do tôn giáo. Vậy câu hỏi
đặt ra cho Đức Giêsu rất nham hiểm, để Người không có ngõ thoát: "có được
nộp thuế hay không?". Nhưng Đức Giêsu thấy rõ cái bẫy.
* Câu trả lời của Đức Giêsu
(18-21)
Trước tiên, Đức Giêsu lật
mặt nạ của họ bằng nhận định mở đầu: "Tại sao các người lại thử tôi, hỡi
những kẻ đạo đức giả" (c. 18). Người cho thấy Người không phải là kẻ khù
khờ. Họ đã mở đầu câu chuyện rất mềm mỏng (c. 16b) không phải vì họ tha thiết
tìm kiếm chân lý của Thiên Chúa, nhưng chỉ vì muốn đưa Người vào thế lưỡng nan,
để hại Người. Họ đáng bị gọi là "những kẻ đạo đức giả" theo hai
nghĩa: trước tiên, bởi vì họ giả bộ rất quan tâm đến một vấn đề thời sự; kế đó,
bởi vì khi sử dụng đồng quan để giao dịch buôn bán, họ đã minh nhiên nhìn nhận
quyền của Hoàng đế từ lâu rồi.
Kế đó, dù câu hỏi được đặt
ở bình diện lý thuyết, Đức Giêsu đã chuyển sang bình diện thực hành để trả lời
("Cho tôi xem đồng tiền nộp thuế", c. 19). Nếu họ cũng như mọi người
Do Thái có trong túi các đồng quan Rôma, mặc dù có các hình ảnh và dòng chữ bất
kính, ngẫu tượng, điều đó có nghĩa là họ đã có một giải pháp cho vấn đề. Tại
sao khi dùng đồng quan ấy (của Đế quốc) mà giao dịch buôn bán thì họ không áy
náy bao nhiêu, mà bây giờ "trả về Xêda" (nộp thuế) thì họ lại áy náy
đến thế? Nếu có vấn đề ở đây, thì họ đã giải quyết từ lâu rồi: được phép nộp
thuế. Trong lãnh vực tiền bạc, họ đã nhìn nhận họ lệ thuộc Xêda.
Nhưng rồi Đức Giêsu đi quá
câu hỏi được đặt ra: chỉ có một điều quan trọng nhất, mà họ hoàn toàn có thể
làm ngay khi phải sống dưới ách đô hộ, đó là "trả về Thiên Chúa",
điều thuộc về Người (c. 21b). Đây là điều Đức Giêsu đã không ngừng nói đến kể
từ khi ra đi hoạt động: "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công
chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho" (Mt 6,33.
Xem Bài giảng trên núi). Khi nói như thế, Đức Giêsu không có ý thiết lập hai
trật tự khác nhau là Quốc gia và Hội Thánh như hai điểm quy chiếu khác nhau,
cũng không biện minh cho việc quy phục Hoàng đế. Người chỉ muốn đặt các vấn đề
vào đúng chỗ của chúng. Thật ra các vấn đề liên hệ đến Hoàng đế chẳng là gì so
với các vấn đề liên hệ đến Nước Thiên Chúa. Người ta đã hỏi Đức Giêsu về thuế,
chứ không hỏi gì về các đòi hỏi của Thiên Chúa cả. Người không tìm cách tránh
né, vì không thể được, nhưng khi trả lời, Người cũng chỉ đặt mỗi chuyện vào
đúng chỗ của nó. Các đối thủ chẳng còn biết tiếp tục câu chuyện như thế nào
nữa. Các quyền của Hoàng đế đã không bị vi phạm, nhưng các quyền của Thiên Chúa
thì đã được khẳng định rất mạnh. Người ta hoàn toàn có thể thỏa mãn các đòi hỏi
của Thiên Chúa trong khi vẫn đóng thuế cho Hoàng đế.
+ Kết luận
Thật ra, Đức Giêsu không
muốn thiết lập hai trật tự khác nhau song song, trong đó Thiên Chúa và Xêda đều
là chúa tể; Người cũng không dạy về thái độ tùng phục Hoàng đế. Người chỉ muốn
đặt các vấn đề vào đúng vị trí của chúng. Người không phủ nhận rằng cũng có thể
có những xung đột, và đôi khi phải chọn lựa (x. Cv 4,18-20). Nhưng Người muốn
nói rằng xung đột ấy không có ở chỗ người Pharisêu muốn thấy có. Bởi vì người
nào thật sự tùng phục Thiên Chúa và sống trong niềm chờ mong Nước Trời và sự
công chính của Thiên Chúa, thì có thể nhìn nhận tính chính đáng cũng như những
giới hạn của những quyền của Xêda (x. 1 Pr 2,13-16).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta hoàn toàn có
thể lấy lại lời người Pharisêu khen ngợi Đức Giêsu, nhưng gột rửa sạch mọi toan
tính giả hình, để thưa với Đức Giêsu. Đức Giêsu đúng là Đấng chân thật: Người
không uốn cong các đòi hỏi của chân lý hoặc luật luân lý theo các nhận định về
thời cơ hoặc nhằm thành công cho riêng mình. Người chính là Sự Thật (x. Ga
14,6). Đức Giêsu dạy đường lối của Thiên Chúa: đây không phải là Luật Môsê hay
sự khôn ngoan loài người của các triết gia và các nhà luân lý; Người là
"ánh sáng cho thế gian" dẫn đưa chúng ta (Ga 8,12), để chúng ta khỏi
đi trong bóng tối. Người chẳng vị nể ai: Người là Đấng cứu độ mọi người (x. 1
Tm 2,3-6), nên không bận tâm về màu da, chủng tộc, trình độ trí tuệ, hoàn cảnh
xã hội của con người (x. Ga 3,28).
2. Thiên Chúa vẫn dành chỗ
cho Hoàng đế. Nếu hết lòng với Thiên Chúa, con người có thể và phải chu toàn
các quy định của Hoàng đế (chính quyền) trên nhiều lãnh vực, nhưng trọn vẹn bản
thân thì thuộc về Thiên Chúa và không được từ chối Người bất cứ điều gì của
mình. Thiên Chúa đòi hỏi một điều hoàn toàn khác với việc từ chối nộp thuế cho
Xêda, Người đòi hỏi một điều to lớn hơn vô cùng. Người đòi hỏi chính bản thân
con người, cách tuyệt đối và trọn vẹn ("Yêu mến Thiên Chúa hết lòng...").
3. Quyền dân sự nằm trong
bình diện trần thế, là bình diện phải lê thuộc các thực tại của bình diện tôn
giáo. Ở trong bình diện trần thế, Đức Giêsu nhìn nhận rằng việc nộp thuế cho
chính quyền Rôma chẳng có gì là vô luân hay phạm thánh cả. Thánh Phaolô có viết:
"Anh em nợ ai cái gì, thì hãy trả cho người ta cái đó: nộp sưu cho người
đòi sưu, trả thuế cho người đòi thuế, sợ người phải sợ, kính người phải
kính" (Rm 13,7). Người Kitô hữu không được viện cớ là mình phải chu toàn
các bổn phận tôn giáo để miễn chuẩn các bổn phận đối với quốc gia hoặc trong
quốc gia. Chúng ta là công dân Nước Trời (x. Pl 3,19-20), nhưng sống tư cách ấy
tại một quê hương trần thế.
21. Của Thiên Chúa
trả cho Thiên Chúa
Của Caesar trả cho Caesar,
Của Thiên Chúa trả cho
Thiên Chúa
** Bối Cảnh Đoạn Tin Mừng:
Đế quốc Rôma thống trị xứ
Palestin từ năm 63 trước Chúa giáng sinh và đã đặt nền cai trị rất vững chắc
tại đất nước này. Họ cũng đặt vua Hêrôđê là người Do Thái để đại diện Rôma cai
trị dân. Nhưng dân Do Thái lại chia ra nhiều phe: Phe Hêrôđê và những người
thuộc nhóm Sađucêô thì ủng hộ việc đóng thuế cho Rôma để củng-cố địa vị và tài
sản. Phe Pharisêô thì bất đắc dĩ phải nộp thuế, nhưng trong lòng không muốn
tuân phục. Còn phe thứ ba, thuộc nhóm những người yêu nước quá khích thì hoàn toàn
tẩy chay việc đóng thuế cho đế quốc Rôma mà họ coi là dân ngoại, không có quyền
chi trên dân của Chúa!
Dân Do Thái lại gồm 3 loại
người:
- Công Dân Rôma là những
người có quốc tịch Rôma (như Thánh Phaolô...)
- Người tự do là những
người dân thường. Chúa Giêsu thuộc nhóm người tự do.
- Người nô-lệ.
Theo luật Rôma, tất cả mọi
người cả nam cũng như nữ từ 14 tới 65 tuổi, hàng năm phải đóng thuế cho Rôma 1
đồng bạc DENARIUS. Đồng bạc. Đồng DENARIUS được đúc bằng bạc, nặng 3,8g. Đồng
DENARIUS đã được đế quốc Rôma dùng từ năm 268 trước Chúa Giáng Sinh và mãi tới
năm 200 sau Công Nguyên vẫn còn tiếp tục dùng trong đế quốc Rôma. Đồng bạc được
khắc hình các hoàng đế Rôma, thời Chúa Giêsu, thì hình và hiệu trên đồng
DENARIUS là hình và hiệu của hoàng đế Tibêriô, ông cai trị từ năm 31 trước Chúa
giáng sinh và băng hà năm 14 sau Chúa giáng sinh.
Câu hỏi nham hiểm:
Với bối cảnh trên, sau khi
2 nhóm Pharisêô và Sađucêô đã thất-bại trong việc cấu kết lại với nhau để
cật-vấn Chúa Giêsu nhiều điều, mục đích để hại Chúa, nhưng Chúa đã khiến bọn họ
phải "Câm Họng!", nên lần này, chúng cấu-kết với nhóm Hêrôđê, nhóm
III thiên về chính trị, ủng hộ đế quốc Rôma để gài bẫy hầu có thể kết án tử cho
Chúa Giêsu. Chúng đến với Chúa Giêsu với bề ngoài rất cung kính, muốn tìm hiểu
con đường Công Chính để noi theo. Họ lễ phép thưa: "Thưa Thầy!"
–(RABBI là tiếng học trò thưa với thầy) "Chúng tôi biết Thầy là người Công
Chính, không tây vị ai, Xin Thầy nói cho chúng tôi biết Thầy nghĩ thế nào? Có
nên nộp thuế cho Caesar hay không?" (Mt 22:17).
Đây là câu hỏi vô cùng nham
hiểm, nhưng dưới bề ngoài rất chân thành, vô tội, muốn biết sự thật để sống
theo Sự Thật, nhưng với dã tâm của chúng, chúng nghĩ rằng: chắc chắn sẽ đưa
Chúa vào gọng kìm, không thể thoát được! Đây là miếng mồi nhìn thoáng qua rất
dễ nuốt, nhưng bên trong là lưỡi câu sắc bén, đầy nguy hiểm! Bởi vì : Nếu Chúa
trả lời : "NÊN nộp thuế thì những người Do Thái yêu nước sẽ nghĩ rằng Chúa
về phe với Rôma hà hiếp dân và do đó sẽ chẳng ai tôn kính, nghe lời dạy của
Chúa nữa! Còn nếu Chúa trả lời: "KHÔNG NÊN nộp thuế cho Caesar! Thì nhà
cầm quyền sẽ liệt Ngài vào số những người phản loạn và sẽ không tránh được án
tử hình!
Đứng trước cạm bẫy vô cùng
nguy hiểm mà những người thù ghét Chúa giăng ra, Chúa Giêsu thấu rõ dã tâm quỷ
quyệt của chúng, nên, trước khi trả lời, Chúa thẳng tay vạch mặt nạ đáng tởm
của chúng. Ngài nghiêm nghị phán: "Hỡi bọn giả hình! Các ngươi gài bẫy Ta
làm chi?" (Mt 22: 18) Thật xấu hổ cho bọn người nham hiểm muốn giăng bẫy
hại Chúa!
Đoạn Chúa bảo: "Hãy
đưa cho Ta đồng tiền!", đoạn Chúa hỏi họ: "Hình và hiệu này là của
ai?". Chúng trả lời: "Của Caesar". Chúa trả lời thẳng thắn,
không cần úp mở:
"CỦA CAESAR thì trả
cho Caesar,
của THIÊN CHÚA thì trả cho
Thiên Chúa!" (Mt 22:21)
Câu trả lời của Chúa Giêsu
trở thành thời danh và trở thành nguyên-tắc cho Sự Công Bằng cho toàn nhân loại
noi theo! Thần quyền và thế quyền là hai phương diện hoàn toàn khác nhau. Con
người trần thế, vì có xác, có hồn nên cần chu toàn các luật lệ trần thế cũng
như về Thiên-Luật. Tuy nhiên, vì Thiên Chúa là Chủ-Tể Tối Cao, Đấng vượt trên
mọi loài trên trời dưới đất, nên Thiên Luật phải được tuyệt đối chấp hành.
CỦA CAESAR:
Các nhân luật: Chẳng hạn
như luật của Liên Bang, luật tiểu bang, luật giao thông, luật thuế vụ, luật của
thành phố... nói chung: Những luật đem lại công ích cho nhân loại, cho dân tộc,
chúng ta phải chấp hành. Tuy nhiên, những luật trái với Đạo Lý, trái Công Bằng,
chẳng hạn: những luật cho phép phá thai, hôn nhân đồng tính hay an-tử... là
những luật trái với đạo đức thì các công dân không bao giờ được phép làm. Đặc
biệt là những luật chống lại Thiên Chúa thì không bao giờ được tuân theo, vì đó
là phản loạn với Đấng Tạo Hoá, Đấng đã tạo dựng, gìn giữ và bang trợ hết thảy
muôn loài muôn vật!
** Của Caesar: Đó là những
gì CỦA NGƯỜI KHÁC như: Tiền bạc, sản nghiệp, tiếng khen, nghề nghiệp... hoàn
toàn thuộc quyền sở hữu của cá nhân đó, người khác hoàn toàn không có quyền
tiêu dùng, làm hao hụt hay lấy đi trái với ý rõ ràng của chủ của. Phạm quyền sở
hữu, bất cứ bằng cách nào đều là tội Lỗi Đức Công Bằng!
** Của Caesar: Cũng nên để
ý về VIỆC ĐÓNG THUẾ cho chính phủ. Mọi công dân trong nước đều được hưởng những
tiện nghi công cộng như: đường xá, trật tự an ninh, cứu hoả, nhà thương, bưu
điện... Tất cả những chi phí đó đều lấy từ tiền đóng thuế của toàn dân. Trong
khi những người khác đóng thuế mà ta không đóng, thì đó là tội lỗi Đức Công
Bằng!... Có người có gia tài to lớn, có 2, 3 nhà cho thuê, nhưng lại cho người
khác đứng tên để được hưởng TRỢ CẤP NGƯỜI GIÀ... thì đó cũng là tội lỗi Đức Công
Bằng!
CỦA THIÊN CHÚA
Thiên Chúa là Chủ Tể muôn
loài, muôn vật, nhờ Ngài, muôn loài được tạo dựng, bảo trì và nuôi dưỡng. Ngài
nắm giữ mọi vận mạng các quốc gia, dân tộc. Do đó chỉ mình Thiên Chúa mới xứng
đáng nhân loại tôn thờ và yêu mến. Mình Thiên Chúa vì thế có Quyền Tối Thượng,
Quyền Tuyệt Đối, quyền vượt trên mọi quyền trần gian, không ai được hành động
trái với Thánh luật của Chúa.
Riêng con người, chúng ta
được Thiên Chúa vô vàn trân quý và "Sáng tạo giống hình ảnh của
Người" (Sáng Thế Ký 1:27). Vì thế, nhân loại mọi nơi, mọi thời đại, tất
cả, dù da trắng, da vàng, da đen, mọi ngôn ngữ chủng tộc đều là CON THƯỢNG ĐẾ,
và do đó, chúng ta vô cùng Hạnh Phúc vì được Thiên Chúa yêu thương, bang trợ và
dẫn đưa về tới Bến Bờ Phước Hạnh Vô Biên trong vương quốc của Chúa là Gia
Nghiệp mà Cha Thiên Thượng đang dành sẵn cho tất cả các con yêu của Ngài.
Đã là con, chúng ta có bổn
phận phải hết lòng hiếu thảo, yêu mến và tuân theo Thánh Chỉ của Cha. Hơn nữa,
chúng ta cần chân nhận rằng: Tất cả những gì chúng ta có, đều bởi Cha chúng ta:
Linh hồn, thân xác, sức khoẻ, tài năng, cơ hội, địa vị, thời giờ... tất cả đều
bởi Cha Thiên Thượng mà có. Và do đó, chúng ta hãy trả lại cho Cha chúng ta để
tỏ lòng suy tôn, tùng phục Thánh Ý của Cha. Sống như thế mới trọn đạo con thảo
đối với Cha!
** Chúng ta hãy lắng đọng
tâm tư xem chúng ta có TRẢ LẠI CHO THIÊN CHÚA những gì thuộc về Thiên Chúa, hay
chúng ta nghĩ rằng những thứ đó hoàn toàn do chúng ta mà có được!
Sách NHỊ LUẬT dạy
"phải dâng Thiên Chúa ít nhất 10% mọi hoa lợi của chúng ta" (Nhị Luật
14:22-27):
Thời giờ: Chúng ta mỗi ngày
đã dùng mấy phút để tôn vinh, ca ngợi Chúa?
Về sức khoẻ, tài năng...
chúng ta có dùng để làm vinh danh Chúa hay chỉ để lo cho thân xác???
Linh hồn và thân xác...
chúng ta có dùng toàn thể con người từ ý tưởng, lời nói, việc làm để tôn vinh
Chúa hay chỉ để phục vụ cho thân xác của riêng ta??
Trả cho Thiên Chúa những gì
thuộc về Thiên Chúa: Chúng ta được phước hạnh và bổn phận phải yêu mến Chúa hết
lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn, thì đó mới hoàn thành bổn phận được
Thiên Chúa yêu thương và tạo thành và sẽ được chung hưởng Phước Lộc Vô Tận mai
sau với Ngài!
** CHÚA GIÊSU CÓ CHẤP HÀNH
LUẬT TRẦN THẾ KHÔNG?
Mặc dầu Chúa Giêsu là Con
Thiên Chúa giáng phàm, đáng lẽ Ngài không cần và không buộc phải chấp hành các
luật trần thế, bởi vì Ngài vượt trên tất cả các vua chúa trần gian, nhưng Ngài
vẫn nêu gương tuân phục:
Cha Mẹ của Chúa Giêsu đã
tuân lêựnh hoàng đế để trở về Bethlêhem để khai sổ nhân đinh (Lc 2:4)
Chính Chúa Giêsu đã truyền
cho ông Phêrô đi đánh cá để nộp thuế cho Ngài và cho ông Phêrô (Mt 17:26)
Mặc dầu chính Tổng-trấn
Philatô- người kết án tử cho Chúa Giêsu- đã xác-nhận Ngài hoàn toàn vô tội...
Thế nhưng chính Chúa Giêsu thì hoàn toàn không một lời phản-đối! Ngài chấp nhận
chịu chết do bản án bất-công đó! (Lc 23:22)
** GƯƠNG THÁNH THOMAS MORE
Thánh Thomas More bên nước
Anh vị thủ lãnh các quan trong triều, rất được Vua Henri VIII kính phục và
thương mến. Tuy nhiên, vua muốn xin Toà Thánh để ly-dị bà hoàng-hậu Catherin
D'Aragon nhưng Toà Thánh không thể chấp nhận vì trái với luật Chúa. Vua liền
cưới bà vợ khác và bắt tất cả quần thần phải ký vào văn bản chấp nhận hành động
của vua, ai không tuân thì bị giết chết. Thánh Thômas More nhất định không làm
theo mệnh lệnh của nhà vua nên bị xử tử.
Thánh Thomas More đã yêu
mến và tuân theo luật Chúa hơn lệnh của Đức Vua. Ngài đã chứng tỏ tình yêu
trung kiên với Thiên Chúa xứng đáng triều thiên vinh quang các Thánh Tử Đạo
22. Chú giải của
Noel Quesson
Bấy giờ những người
Pha-ri-sêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải lỡ lời mà mắc
bẫy. Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với nhau người phe Hê-rô-đê đến gặp Đức
Giêsu...
Chúng ta thường sai lầm mà
cho rằng thời đại của chúng ta là thời đại khó sống nhất. Không còn có sự
"nhất trí về đạo đức và xã hội" hôm nay. Những quan điểm chống đối
nhau có thể được bày tỏ công khai. Người ta không còn biết suy nghĩ gì, và có
thái độ thế nào đối diện với một số vấn đề lớn.
Nếu chúng ta thật sự biết
đọc Tin Mừng, chúng ta sẽ khám phá ra rằng thời đại của Đức Giêsu cũng khó sống
không kém. Đức Giêsu đã sống trong một bối cảnh lịch sử thật sự bùng nổ. Những
đạo quân La Mã chiếm đóng miền Pa-lét-tin và cuộc kháng chiến của người Do Thái
không ngừng âm ỉ vào những năm 30 ấy, Hoàng Đế Xê-da ngườibắt cả một Đế quốc
mênh mông quỳ mọp là Tibêre một ông già cai trị Đế quốc từ hòn đảo Capri của
nhà vua. Những người không cộng tác với quân chiếm đóng, nhóm Dê-lốt hô hào từ
chối nộp thuế. Nhà Hê-rô-đê, trái lại dựa vào chính quyền La Mã để giữ địa vị
của họ. Sau hết, có nhóm Pha-ri-sêu ra sức bảo vệ sự tự do tôn giáo bằng cách
chiều theo hoặc ít hoặc nhiều các quyền lực chính trị.
Phái đoàn đến tìm Đức Giêsu
để giăng bẫy Người được cố ý bao gồm những con người có quan điểm trái ngược
nhau phe Pha-ri-sêu và phe Hê-rô-đê. Dù Đức Giêsu có theo "cánh hữu' hay
"cánh tả", Đức Giêsu sẽ mắc bẫy và làm hại thanh danh của Người mà
thôi!?
Họ đến nói với Đức Giêsu
rằng: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà
dạy đường lối của Thiên Chúa Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề
ngoài mà đánh giá người ta."
Bốn lời khen ngợi nịnh hót
là miếng mồi xảo quyệt để che giấu cái bẫy. Tuy nhiên cái bẫy ấy cũng là một
lời tôn kính mà các nhân viên gây hấn đó đã khen một thầy Rabbi trẻ tuổi: Họ
thừa nhận Đức Giêsu là một con người độc lập sống phục vụ Thiên Chúa và cương
quyết. Thực ra, chúng ta biết rằng Đức Gi'êsu thường có thái độ ngược lại với
những quan điểm đang thịnh hành: Người đã thán phục đức tin của ông đội trưởng
của đạo quân La Mã (Mát-thêu 8,10). Người đã giao du với những người thu thuế
và tệ nhất là một trong các người thu thuế ấy có mặt trong số các tông đồ của
Người (Mát-thêu 9,9-10). Trước khi đi xa hơn, chúng ta hãy dành thời gian để
nguyện ngắm Đức Giêsu, một con người không giống như những người khác. Lạy
Chúa, xin cho chúng con biết theo gương Chúa để luôn luôn là người chân thật...
để đi theo chính lộ của Thiên Chúa... không để chúng con bị lôi kéo bới những
ảnh hưởng định đưa chúng con đến nơi mà chúng con không muốn... để chúng con luôn
luôn được tự do hoàn toàn, không cứng nhắc, không thỏa hiệp không đánh giá
người ta theo bề ngoài.
Vậy xin Thầy cho biết ý
kiến: "Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?".
Câu hỏi này khéo léo một
cách quỷ quyệt: Nếu Đức Giêsu trả lời "có", Người sẽ không còn được
quần chúng ủng hộ vì họ đang chờ đợi một. Đấng Mê-si-a xua đuổi kẻ xâm lược...
Nếu Người trả lời "không", Người sẽ bị phe Hê-rô-đê tố giác như một
kẻ xúi giục nguy hiểm chống lại La Mã.
Như thế, Giáo Hội HÔM NAY,
cũng như ở mọi thời, thấy mình đối đầu với cùng một vấn đề: vai trò của Giáo
Hội không thể trực tiếp làm chính trị... nhưng Giáo Hội cũng không thể đứng
trung lập. Và dầu sao đi nữa, dầu nói "có" hoặc nói
"không", dầu có nói hay không nói, Giáo Hội thấy mình bị kéo vào
trong phe này hay phe khác. Vậy lời đáp lại của Đức Giêsu là gì?
Nhưng Đức Giêsu biết họ có
ác ý nên Người nói: "Tại sao các người lại thử tôi hỡi những kẻ giả hình?
Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi? Họ liền đưa cho Người một đồng bạc.
Trước tiên Đức Giêsu cho họ
thấy Người không bị họ lừa! Và Người lột mặt nạ đạo đức giả của họ, bằng cách
yêu cầu họ chỉ cho Người thấy một đồng tiền với sự ngây thơ. Không ngần ngại
một giây, họ rút tiền ra khỏi túi họ. Như thế, trong khi đóng vai trò của những
người đắn đo thận trọng tự vấn mình về việc giữ mình trong sạch trước kẻ ngoại
xâm, họ biết sử dụng tốt đồng tiền của kẻ vô đạo để kinh doanh! Dẫu sao, việc
đóng thuế không làm cho lương tâm họ ô uế hơn là sử dụng mỗi ngày đồng tiền xấu
đó.
Và Người hỏi họ: "Hình
và danh hiệu này là của ai đây?". Họ đáp: "Của Xê-da".
Những người La Mã giành
quyền đúc đồng tiền bằng bạc, dấu ấn vương quyền của họ. Và đồng bạc có mang
tính của Hoàng đế với danh hiệu của ông ta. Hình cái đầu của Tibère được coi
như dấu chỉ sự lệ thuộc ô nhục vào La-Mã: Hoàng đế tự xưng mình là thần linh?
Người ta biết rằng nhóm Dê-lốt (Zélotes) cấm các thành viên của họ nộp thuế.
Đức Giêsu với danh tiếng về sự trung tín với chỉ mình Thiên Chúa làm thế nào mà
lại không đứng về cánh tả với những người xúi giục nổi loạn nhân danh Kinh
Thánh chứ?
Đức Giêsu sẽ trả lời gì.
Bấy giờ, Người bảo họ: 'Thế
thì của Xê-da, trả về Xê da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa".
Câu trả lời của Đức Giêsu
đã trở thành một câu châm ngôn đến độ nó trở thành một câu tục ngữ bình dân có
trong các trang hồng của từ điển Larousse. Tuy nhiên người ta thường hiểu câu
đó rất sai, như thể Đức Giêsu hoàn toàn theo chủ trương tách rời "Giáo Hội
và Nhà Nước" đồng thời chấp nhận một thứ độc lập hoàn toàn của quyền lực
chính trị...hoặc, ngược lại như thể Đức Giêsu yêu cầu các môn đệ của Người
không được tham gia vào các công việc trần thế...
Vậy phải cố gắng hiểu biết
tư tưởng ẩy của Đức Giêsu để áp dụng nó vào thời đại chúng ta. Vì thế chúng ta
phải chú trọng đến cả hai phần của câu đó, mà vẫn cho phần thứ hai tất cả giá
trị của kết luận có tính quyết định.
a) Của Xê-da, trả về Xê-da...
Trong viễn cảnh của toàn bộ Cựu ước, mọi quyền bính đều do Thiên Chúa mà
có. Và chúng ta cũng đã nghe trong bài đọc đầu tiên của Chúa nhật hôm nay: Một
ông vua dân ngoại như Ki-rô đã được Thiên Chúa xức dầu để thực hiện các công
việc của Thiên Chúa "dù không biết Thiên Chúa" (I-sai-a 45,1-4-6).
Thánh Phaolô áp dụng chính nguyên tắc ấy để yêu cầu các Kitô hữu đầu tiên tuân
phục các chính quyền dân sự (Rôma 13,1-7; Titô 3,1-2).
Thật vậy, không ai có thể coi chừng sự liên đới xã hội và dân sự. Và hẳn
người ta sẽ giải thích Tin Mừng rất sai khi muốn cắt đời sống con người thành
những lát rời nhau như thể các Kitô hữu và Giáo Hội có thể không biết đến chính
trị... như thể tôn giáo phải quanh quẩn trong nhà thờ và không được ảnh hưởng
trên đường phố, đô thị, các công việc, gia đình, luật pháp, thuế khóa... Quả
thật, Đức Giêsu đã thướng từ chối đóng vai trò của "Đấng Mê-si-a" xã
hội chính trị mà người ta muốn bắt Người làm: đó là ý nghĩa sâu xa của kinh
nghiệm tâm linh của các cám dỗ đến với Người lúc bắt đầu đời sống công khai (Mt
4,8-10); đó là ý nghĩa của việc Người chạy trốn vào sự cầu nguyện khi người ta
muốn đưa Người lên làm vua sau khi hóa bánh ra nhiều (Ga 6,14-15); đó là ý nghĩa
lời Người quở trách Phêrô khi ông này xuống ngăn cản Người trở thành Đấng
Mê-si-a đau khổ (Mt 16,21-23); đó là ý nghĩa rất rõ ràng của lời Người tuyên bố
với Philatô: "Tôi là vua, nhưng nước tôi không thuộc về thế gian này"
(Ga 18,36).
Tuy nhiên, trong lời đáp lại của Đức Giêsu: "của Xê-da, trả về
Xê-da", khó mà không nhận thấy một lời mời gọi phải tính đến quyền bính đã
được thiết lập và tôn trọng các quyền hành của nó. Khi chọn thái độ ấy, Đức
Giêsu đưa vào thế giới cổ đại một sự phân biệt cách mạng: Người giản thiêng
chính trị bằng việc khẳng định Xê-da là Xê-da... nhưng không phải là Thiên
Chúa! Trong khi mà Xê-da vì là Xê-da nên tiếp tục thực hiện chức vụ của ông ta!
Đó là một chức năng thuộc về con người phụ thuộc mọi sự cố bất ngờ, và những
thực tế xã hội chính trị phức tạp, khống chế độ, những hệ thống, những ý thức
hệ. Nhưng vẫn chưa nói hết tất cả.
b) Của Thiên Chúa trả về Thiên Chúa...
Chúng ta là những con người hiện đại nên chúng ta biết giờ đây mọi nền
chính trị coi thường phần thứ hai này của tư tượng Đức Giêsu rồi sẽ dẫn con
người đi về đâu. Những xã hội "không Thiên Chúa" cũng là những xã hội
phi nhân. Khi Nhà Nước coi mình là thần linh, nó sẽ đè bẹp con người. Chính
Xê-da cũng phải phục tùng Thiên Chúa, và trả cho Thiên Chúa sự gì thuộc về
Người. Việc Đức Giêsu đề cao "bổn phận của chúng ta đối với Thiên
Chúa" là một việc rất có ý nghĩa, trong khi mà người ta không hỏi Người
câu hỏi ấy nhưng chỉ hỏi Người một câu hỏi thế tục: Vì thế mệnh đề này là đỉnh
điểm của toàn bộ trang Tin Mừng hôm nay. "Của Thiên Chúa trả về Thiên
Chúa". Cả cuộc đời của Đức Giêsu không ngừng kêu gọi chúng ta điều đó.
Chính trị dù rất quan trọng bởi vì nó là nghệ thuật đem lại công ích, không
phải là tất cả con người, không phải là phần chủ yếu nhất của con người.
"Con người không chỉ sống bởi bánh"... bởi chỗ ở, bởi thị trường, bởi
sự sản xuất. Được tạo dựng theo "hình ảnh của Thiên Chúa" "theo
hình và hiệu của Thiên Chúa", con người có số phận phải chia sẻ chính sự
sống của Thiên Chúa. Nếu Xê-da đã có thể in hình của mình lên những đồng tiền
và vì thế người ta phải trả lại tiền đó cho Xê-da thì còn hợp lý hơn thế biết
bao đối với Con người đã được hình ảnh của Thiên Chúa đóng ấn, con người phải
"trả mình" trọn vẹn về cho Thiên Chúa! (St 1,26). Con người đáng được
tôn trọng tuyệt đối vì số phận của con người vốn thánh thiêng. Như thế Đức
Giêsu không để cho Người bị mắc bẫy mà người ta giăng ra cho Người. Một lần
nữa, người đã mạc khải điều kín nhiệm và sứ mạng của Người: Thiết lập Triều đại
của Thiên Chúa... và bởi thế mạc khải chiều kích cao cả nhất của con người!
Nhưng quả thật, có phải tôi trả cho Xê-da điều thuộc về Xê-da? Có phải tôi coi
chiều kích chính trị của đời tôi là điều nghiêm túc? Và có phải tôi cũng trả
cho Thiên Chúa điều thuộc về Người. Có phải đời sống tôi được hiến dâng hoàn
toàn cho Thiên Chúa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét