ĐỨC THÁNH CHA THĂM COLUMBIA |
THÁNH LỄ ĐỒNG TẾ |
ĐỨC THÁNH CHA THĂM HỌP BÁO TRÊN MÁY BAY ĐI COLUMBIA |
NHÀ NGUYỆN NẬM LÚC BỊ SẠT LỞ VÙI LẤP |
CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN - A
1.
Liên hệ với người khác.
Tại một học viện quân
sự, ngày kia huấn luyện viên ra đề tài cho các sĩ quan hãy vẽ một chiếc cầu. Cả
lớp đều hiểu đó là một chiếc cầu được thiết kế cho mục đích quân sự, trừ ra một
chàng sĩ quan có ý kiến khác hẳn. Anh đặt chiếc cầu trong bối cảnh thơ mộng của
một ngọn núi, dưới ngọn núi là dòng sông mà hai bên bờ là những thảm cỏ xanh.
Nổi bật nhất là hai cậu bé đang đứng trên dầu để câu cá. Huấn luyện viên không
chấp thuận bài làm của anh và ra lệnh cho anh phải loại bỏ hai cậu bé. Thế là
anh liền chuyển hai cậu bé xuống thảm cỏ xanh, nhưng huấn luyện viên càng tỏ ra
tức tối, buộc anh không được để lại hình ảnh hai cậu bé trong bản vẽ. Cuối cùng
anh vẽ hai cái mộ trên thảm cỏ xanh của bờ sông. Anh muốn nói cho huấn luyện
viên biết rằng mình đã chôn hai cậu bé trong hai ngôi mộ đó.
Với tâm hồn nghệ sĩ
hoàn toàn khác biệt với mục tiêu quân sự, anh quan niệm chiếc cầu được xây là
để nối liền hai bờ sông hầu giúp con người qua lại mà liên hệ được với nhau.
Thiếu sự đi lại của con người, chiếc cầu không những trở nên vô nghĩa, mà còn
tượng trưng cho sự chết chóc xảy ra giữa con người với nhau.
Từ câu chuyện trên chúng ta nhận thấy: Không
ai trong chúng ta có thể sống cô độc lẻ loi một mình như một hải đảo giữa biển
khơi hay như một phái đài biệt lập, trái lại chúng ta sống là sống với người khác.
Và trong cuộc sống chung này chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va
chạm, bực bội và buồn phiền, vì bá nhân bá tánh, mỗi người đều có một tính tình
riêng. Hơn nữa, nhân vô thập toàn, ai cũng có những sai lỗi khuyết điểm của
mình.
Bởi đó trước những sai lỗi của người khác,
chúng ta hãy biết nhường nhịn và chịu đựng, quên đi và tha thứ vì một sự nhịn
là chín sự lành, nhờ đó, chúng ta sẽ tạo được một bầu khí hoà thuận cảm thông.
Hơn nữa, chúng ta còn phải có can đảm nói cho nhau sự thật. Nghĩa là chúng ta
còn phải chọn những giây phút thuận tiện, dùng những lời nói ôn tồn để nhắc bảo
nhau, hầu nhờ đó giúp nhau thăng tiến bản thân, đổi mới cuộc đời.
Còn đối với những sai lỗi của bản thân, khi
được người khác nhắc bảo, chúng ta hãy có can đảm nhận lỗi và xin lỗi bởi vì
chính những sai lỗi này làm cho người khác phải đau khổ và buồn phiền. Nếu
những lời nhắc bảo mà sai, chúng ta sẵn sàng bỏ qua. Còn nếu đúng thì chúng ta
hãy cố gắng uốn nắn sửa đổi để nhờ đó đổi mới cuộc đời. Bởi vì ai khen ta mà khen
phải là bạn ta, còn ai chê ta mà chê phải, đó là thầy ta.
2.
Nhắc bảo.
Qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay tôi muốn chia
sẻ về bổn phận nhắc bảo lẫn nhau.
Trước hết, điều chúng ta nhắc bảo phải là
những sai lỗi. Không phải chỉ những sai lỗi đến chúng ta hoặc gây thiệt hại cho
chúng ta, mà còn là những sai lỗi nói chung, những tội phạm bề ngoài, gây nên
gương mù gương xấu. Mục đích chúng ta nhằm tới không phải là để phê bình chỉ
trích, mà là để cứu thoát người anh em, trình bày cho họ biết những sai lỗi để
uốn nắn sửa đổi mà thăng tiến bản thân như lời Chúa phán:
-
Nếu
nó nghe con thì con sẽ cứu được nó… và con được lợi thêm một người anh em.
Thực vậy, tội lỗi là sự ác to lớn và nặng nề
nhất, là sự lầm lạc tai hại nhất, vì thế nhắc bảo người anh em cũng là một công
việc bác ái cao thượng nhất. Hơn thế nữa, nếu không nhắc bảo, nhiều khi còn có
hại cho chúng ta và chính chúng ta cũng phải liên đới phần nào trách nhiệm đối
với linh hồn người khác mà một ngày kia chúng ta sẽ phải trả lẽ trước tôn nhan
Chúa.
Thế nhưng phải nhắc bảo như thế nào? Chúa
Giêsu đã phân chia thành ba giai đoạn. Trước hết là phải nhắc bảo riêng tư giữa
họ và ta. Nếu giải pháp đó không xong, thì dùng giải pháp thứ hai, đó là hãy
giải quyết với hai hay ba nhân chứng, chứ không phải là tố cáo và đưa nhau ra
tòa. Nếu giải pháp thứ hai cũng không xong, thì phải đem đến cho Giáo Hội. Giáo
Hội ở đây có thể là Giáo Hội địa phương hay Giáo Hội nói chung. Cụ thể là nhờ
đến quyền bính phần đạo, chứ không phải là quyền bính phần đời, vì đây không phải
là trường hợp để trừng phạt, mà là trường hợp để cải hóa. Đến lúc đó, mà họ còn
không nghe nữa thì phải coi như người ngoại giáo và bị loại ra khỏi Giáo Hội.
Để xác quyết cho quyền bính của Giáo Hội,
Chúa Giêsu đã nói thêm:
-
Sự
gì các con cầm buộc, thì trên trời cũng cầm buộc và sự gì các con tháo cởi thì
trên trời cũng tháo cởi.
Như chúng ta cũng vừa nói: Nhắc bảo anh em là
một nghĩa vụ bác ái đòi buộc chúng ta phải thực hành, nhưng phải thực hành với
tinh thần siêu nhiên, và với cách thức phù hợp với tâm lý.
Trong việc phân rẽ đông tây của gia đình Kitô
giáo, những người con của Giáo Hội đã có những lầm lẫn đáng tiếc trải dài nhiều
thế kỷ chưa thể hàn gắn. Về lý, Giáo Hội có đủ lý nhưng về cách thức thi hành
thì đã xảy ra nhiều điều đáng tiếc, chính vì thế mà Đức Phaolô VI đã xin lỗi
anh em Chính Thống cũng như Tin lành về những điều đáng tiếc ấy. Đây là một
hành động đáng chúng ta suy nghĩ.
Trong việc nhắc bảo cũng vậy, nếu không khéo
léo và tế nhị thì có thể đi đến chỗ đổ vỡ. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã bảo
chúng ta tiên vàn hãy nhắc bảo riêng tư để tìm lấy một sự cảm thông chân tình.
Với chúng ta ngày hôm nay chúng ta thường
nghe nói nhiều đến từ ngữ đối thoại, tuy nhiên người ta đã lạm dụng hành động
này. Bởi vậy trong bức thông điệp “Ecclesiam Suam” Giáo Hội của Ngài. Đức Thánh
Cha Phaolô VI đã định nghĩa đối thoại là một nghệ thuật thông cảm siêu nhiên.
Sự đối thoại đòi cả hai bên những điều kiện sau đây:
Đó là phải rõ ràng và minh bạch, không úp mở,
không dấu diếm cũng như không thủ đoạn.Tiếp đến là phải hiền dịu, xuất phát từ
tình yêu và lòng kính trọng lẫn nhau và sau cùng là tín nhiệm, tin ở lời mình
nói và thiện chí chấp nhận của người nghe.
Hãy áp dụng những điều kiện ấy trong việc
nhắc bảo lẫn nhau, để chúng ta thực hiện được một hành vi bác ái cao thượng,
đẹp lòng Chúa.
3.
Sửa lỗi anh em – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Con người ai cũng có lầm lỗi. Vậy mà thái độ
ứng xử trước lầm lỗi của người khác lại không giản đơn. Đối với lỗi lầm của
người khác, ta thường có hai thái độ, hoặc quá khắc nghiệt loại trừ, hoặc quá
thờ ơ lãnh đạm. Cả hai thái độ đó đều thiếu xây dựng. Quá khắc nghiệt loại trừ
sẽ khiến ta can thiệp thô bạo vào đời tư, sẽ gây ra bất mãn, đổ vỡ. Quá thờ ơ
lãnh đạm sẽ buông thả mặc cho sự xấu tràn lan, sẽ làm cho xã hội suy thoái.
Giáo Hội là một cộng đoàn những con người.
Lầm lỗi là không thể tránh khỏi. Vì thế muốn cộng đoàn phát triển, việc sửa lỗi
là cần thiết, nhất là đối với những lầm lỗi công khai ảnh hưởng đến đời sống
cộng đoàn.
Tuy nhiên sửa lỗi là việc khó. Không khéo thì
lợi bất cập hại. Lời Chúa hôm nay đưa ra những hướng dẫn cần thiết giúp việc
sửa lỗi có kết quả.
Muốn sửa lỗi phải quan tâm. Chúa nói: Khi anh em ngươi sai lỗi. Vâng, người sai lỗi
đó không phải ai xa lạ. Đó là anh em tôi, là người nhà của tôi, là một thành phần
của đời tôi. Nếu lầm lỗi giống như một cơn bệnh, làm sao tôi không lo lắng chạy
chữa cho người thân, nhất là cho chính bản thân khi bị mắc bệnh? Nếu lầm lỗi
giống như mất mát người thân, làm sao tôi không đau xót lên đường đi tìm ngay
tức khắc?
Muốn sửa lỗi cần can đảm. Càng ngày người ta càng muốn tránh đụng chạm, mích lòng.
Dại gì nói những chuyện không vui để mua thù chuốc oán vào thân. Vì thế, để sửa
lỗi, cần phải can đảm. Can đảm đến với người lầm lỗi. Can đảm nói sự thật về
lỗi lầm của họ. Can đảm chấp nhận những rủi ro do việc sửa lỗi đưa đến như sự
giận ghét, sự công kích, chấp nhận bị phê bình ngược lại.
Muốn sửa lỗi phải trân trọng. Trân trọng vì người lầm lỗi đó là người anh em tôi, là
đáng quí trọng đối với tôi. Trân trọng vì người anh em tuy có lầm lỗi, vẫn có
khả năng sửa đổi. Sửa lỗi là tin vào thiện chí, vào mầm mống tốt đẹp Chúa gieo
vào lương tâm mỗi người. Sự khinh miệt, lên mặt kẻ cả sẽ chỉ chuốc lấy thất
bại.
Muốn sửa lỗi phải rất tế nhị. Tâm hồn người lầm lỗi rất mong manh. Vừa đầy tự ái vừa đầy
mặc cảm. Một lời nói không khéo sẽ dẫn đến đổ vỡ. Một thái độ vô tình sẽ càng
khơi thêm hố ngăn cách. Vì thế Chúa dạy tôi phải rất tế nhị khi sửa lỗi. Thoạt
tiên chỉ gặp riêng một mình. Gặp riêng là một thái độ tế nhị. Sự tế nhị tạo nên
cảm giác an toàn, kính trọng và yêu thương. Sự tế nhị tạo ra một bầu khí tín
nhiệm thuận lợi cho việc cởi mở tâm tình, khai thông bế tắc. Sự tế nhị sẽ trở
thành chiếc cầu đưa người lầm lỗi trở về cộng đoàn.
Sau cùng, muốn sửa lỗi phải kiên trì. Việc sửa lỗi không giản đơn.
Không phải làm một lần là thành công ngay. Vì thế phải rất kiên trì và có nhiều
phương án. Kiên trì để vẫn tiếp tục dù đã một lần thất bại. Có nhiều phương án
để cương quyết đi đến thành công. Hôm nay Chúa đưa ra cho ta ba phương án để chinh
phục người anh em: Gặp riêng, gặp có người làm chứng và sau cùng mới đưa ra
cộng đoàn.
Như thế, việc sửa lỗi hoàn toàn là một việc
làm được thúc đẩy do tình yêu. Chính bầu khí tin yêu đó sẽ khiến cộng đoàn phát
triển. Ai cũng mong được sống trong một cộng đoàn yêu thương như thế. Vì khi
lầm lỡ ta biết mình không bị loại trừ nhưng sẽ được quan tâm giúp đỡ, một sự
giúp đỡ chân thành, tế nhị và đầy yêu thương.
Lạy Chúa, xin ban cho con tâm hồn bác ái đầy
tế nhị của Chúa.
GỢI Ý CHIA SẺ
1.
Sửa
lỗi anh em, góp ý phê bình, dễ hay khó?
2.
Khi
biết anh em lầm lỗi, bạn làm gì? Vạch mặt chỉ tên hay giả điếc làm ngơ?
3.
Trong gia đình, trong xứ đạo bạn, đã có sự góp
ý tốt đẹp chưa?
4.
Lợi được người anh em.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong cộng đoàn Hội Thánh, các Kitô hữu là
anh chị em của nhau (Mt 23,8) và là anh chị em với Đức Kitô nhờ biết thi hành ý
Cha trên trời (Mt 12, 48-50).
Thế nhưng Hội Thánh vẫn có người lỗi phạm.
Đời sống của họ nghịch với đòi hỏi của đức tin.
Chúng ta không thể lạnh lùng khi thấy anh em
mình sa ngã, bởi lẽ tất cả chúng ta làm nên một thân thể. Chúng ta mang vết
thương của nhau.
Bài Tin Mừng hôm nay gợi cho thấy thái độ ta
phải có trước một người lầm lỗi.
Trước hết, phải mạnh dạn góp ý. Chỉ ai yêu
thực sự mới dám góp ý thẳng thắn. Nhiều khi chúng ta chỉ dám nói sau lưng.
Nhiều khi chúng ta không đủ can đảm góp ý. Vì sợ người khác giận mình, vì sợ
mất một số quyền lợi hay vì sợ chính mình bị góp ý. Góp ý xây dựng là một dấu
chỉ yêu thương, chứ không phải là đi tìm cọng rơm trong mắt người. Nhưng phải
biết cách góp ý. Cần giữ sự kín đáo và tôn trọng nhau.
Nếu người sai lỗi cứ bướng bỉnh, cố chấp, thì
nên đem theo vài người nữa, không phải để gây áp lực, nhưng để cho thấy tính
khách quan hơn.
Nếu họ vẫn không chịu nghe, thì phải đưa ra
cộng đoàn. Nếu họ cũng không chịu nghe cộng đoàn, thì phải chấp nhận thái độ tự
cô lập của họ.
Như thế góp ý có nhiều giai đoạn.
Cần tế nhị, kiên nhẫn, yêu thương, vì Thiên
Chúa không muốn một ai phải hư mất, tuy Ngài cũng không muốn có gương xấu xảy
ra.
Góp ý là một bổn phận của yêu thương, nhưng
bản thân tôi cũng cần được góp ý.
Một cộng đoàn trưởng thành là cộng đoàn có
khả năng ngồi lại để góp ý cho nhau, trong giáo xứ, trong gia đình và từng nhóm
nhỏ.
Chúng ta đang sống trong tinh thần Sám Hối -
Canh Tân.
Chúng ta cần yêu thương để dám góp ý, cần
khiêm tốn để được góp ý.
Có khi chúng ta quen sống trong bầu khí chịu
đựng nhau, giữ kẽ, dĩ hoà vi quý. Như thế là duy trì một sự trì trệ kéo dài.
Mong sao mau đến ngày các Kitô hữu trên thế
giới ngồi lại với nhau để dàn xếp những bất đồng và trở nên hiệp nhất như ý
Chúa muốn.
Gợi Ý Chia Sẻ
· Góy ý và được góp ý
đều là những điều khó làm và khó chịu. Có khi nào bạn thành công về chuyện này
chưa? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm nếu có?
· Có thể vào năm Hai
Ngàn Lẻ?, một Công Đồng Chung sẽ được tổ chức, quy tụ mọi Kitô hữu thuộc Công
Giáo, Chính Thống, Tin Lành? Bạn hy vọng gì nơi một Công Đồng như vậy?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa có người bạn thân là
La-da-rô. Chúa cũng coi các môn đệ là bạn hữu.
Tạ ơn Chúa đã cho con những người bạn để nâng
đỡ con trên đường đời. Dù chúng con có nhiều điểm khác biệt, nhưng xin hiệp
nhất chúng con trong tình yêu.
Xin cho chúng con biết yêu thương nhau thật
tình, chia sẻ cho nhau mọi nỗi buồn vui, nâng nhau dậy khi vấp ngã, phấn khởi
trước những thành công, khích lệ trước một cố gắng nhỏ, và nhất là thẳng thắn
góp ý cho nhau, để cùng nhau tiến bộ.
Lạy Chúa, xin mở rộng vòng tay con, để có thể
đón nhận những người bạn mới.
Xin cho con đừng trở nên nghèo nàn vì chỉ
muốn làm bạn với ai giống con.
Xin dạy con biết thế nào là gặp gỡ. Gặp gỡ
không phải chỉ là quảng đại cho đi, mà còn là khiêm nhưởng nhận lãnh.
Gặp gỡ không phải chỉ là tâm sự về mình, mà
còn là lắng nghe người khác.
Gặp gỡ không phải chỉ là phân phát sự giàu có
của mình, mà còn là nhìn nhận và đón nhận sự phong phú của tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên bạn
của Ngài, nhờ đó, chúng con mãi mãi là bạn thân của nhau. Amen.
5.
Cộng đoàn Kitô giáo là một chuyện đứng đắn.
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)
Ba đoạn trong bài Tin Mừng mà Giáo Hội đem ra
làm bài học có vẻ khác nhau xa, như thể Chúa đã lần lượt nói về những vấn đề
riêng biệt. Cứ sự thực thì những lời nói của Chúa Giêsu đều gặp nhau trong cái
thực tại là cộng đoàn Kitô giáo. Trong cộng đoàn thường có những luật lệ sống
chung, và hơn nữa, giáo quyền có phép ban hành những luật sống đó và cuối cùng
tất cả đều được thực hiện nhân danh Đức Kitô và chính vì thế mà có Chúa Kitô
hiện diện trong đó.
1) Những luật sống chung trong Giáo Hội –trong cộng đoàn
Kitô giáo đều nhắm đến đối tượng chính là làm cho Đức Ái được mọi người tôn
trọng.
Chúa chỉ dẫn cho chúng ta cách thức phải giữ trong trường hợp có tranh chấp.
Công việc đầu tiên phải làm là tạo sự gặp gỡ, giữa cá nhân và cá nhân trong ước
muốn tìm hiểu nhau hơn. Có hai trường hợp có thể xảy ra, dựa trên ý nghĩa của
câu nói: “Nếu người anh em của con phạm tội”. Theo nghĩa đầu tiên thì hễ người
nào phạm đến Thiên Chúa cách tỏ tường, trong trường hợp này, phải bắt đầu bằng cách
giữ kín điều lầm lỗi mà mình biết được, rồi với thái độ thông cảm, tìm cách đưa
người anh em ra khỏi chỗ lầm lạc. Theo nghĩa thứ hai, hễ người nào đó có lỗi
với chúng ta, tức là làm hại đến chúng ta, lúc đó phải tìm cách giúp người anh
em có lỗi hiểu rõ sự thiệt hại đã gây ra cho chúng ta, rồi không làm nữa. Nếu
công việc đầu tiên ấy tỏ ra không có kết quả, lúc đó người ta mới chạy tới cộng
đoàn để xin sửa trị kẻ lầm lỗi. Và nếu lúc đó kẻ ấy cũng không sửa mình, ta vẫn
không có quyền khai trừ, không cầu nguyện và không tha thứ cho kẻ ấy, nhưng ta
có cớ để cắt đứt ít nhiều mối tương quan thuộc phạm vi xã hội.
2) Điều mà chúng con ràng buộc ở dưới đất… Ta vừa thấy
Chúa ban cho “Giáo Hội”, cho cộng đoàn Kitô giáo, quyền xét xử cách ăn ở của
một trong các thành phần của Giáo Hội. Giáo Hội chỉ có thể làm được điều này
nhờ những kẻ cứng đầu, những người có trách nhiệm. Người ta có quyền đi từ Giáo
Hội, quan niệm dưới khía cạnh quyền bính, đến con người của các vị thủ lãnh.
Trong Giáo Hội toàn thể các tín hữu sống Đức tin, nhưng do ý muốn của Chúa
Kitô, cũng có những người mang trách nhiệm giáo dục đức tin và giúp kẻ khác
thực hành đức tin cách trung thành. Đó là các tông đồ với vị thủ lãnh là Phêrô.
Ngày nay ta có các giám mục và vị thủ lãnh là Đức Giáo Hoàng. Ở điểm này, một
đoạn khác trong Tin Mừng Matthêu có nói rõ về vai trò nổi bật của Phêrô và qua
đó vai trò của Đức Giáo Hoàng (Mt 16, 19). Xin xác định điểm này là Phêrô xưa
vốn là Giám mục của giáo phận La mã. Đức Giám mục của La mã đích thân là người
kế vị của Phêrô. Người tiếp tục giữ quyền hành và chức vụ của Phêrô. Các vị
tông đồ khác lập thành Giám mục đoàn đầu tiên, mặc dầu không được cơ cấu hóa
nhưng là có thực. Ngày nay các vị Giám mục là những người kế vị tập thể các
tông đồ với các quyền hạn và chức vụ của các ngài. Do ý muốn của Chúa Kitô,
Phêrô có quyền trên toàn thể các tông đồ. Cũng thế, Đức Giáo Hoàng ngày nay
cũng có quyền trên đoàn thể các Giám mục. Cái quyền ấy nằm trong địa vị nổi bật
đối với cá nhân Người và cũng là quyền quyết định trong việc chia sẽ một công
việc chính yếu là cai quản Cộng đoàn của Giáo Hội.
3) Cộng đoàn sống trung thành với đức tin và đức ái lôi
kéo sự hiện diện của Chúa Kitô. Khi các Kitô hữu, dầu là ít ỏi và nếu chỉ có
hai người đi nữa, mà tụ họp với nhau nhân danh Đức Giêsu thì Người ở giữa họ.
Điều ấy có nghĩa là, khi chỉ có hai người công giáo với nhau, và nếu họ biết
thông cảm trong đức tin và đức ái, họ làm thành một tế bào của giáo hội. Không
biết người ta có thấy được tầm quan trọng của điều này trong đời sống gia đình,
lúc hội họp anh chị em trong khu phố hay trong những hoạt động chung để mở rộng
Nước Chúa? Một nhận xét quan trọng: lẽ dĩ nhiên là một tế bào của Giáo Hội chỉ
có giá trị khi giữ được liên lạc và đoàn kết với Giáo Hội phổ quát cách mật
thiết.
6.
Trách nhiệm về người anh em.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong quyển sách về
truyền thống của các vị ẩn tu có thuật lại câu chuyện sau đây:
Ngày kia khi Đức Giám
Mục Amolas đến thăm mục vụ một làng nọ, dân chúng đã bày tỏ với Ngài lòng bất
mãn tột độ của họ đối với một vị ẩn tu trên núi, vì ông ta đem theo một phụ nữ
để chung sống.
Từ dạo ấy, vị ẩn tu
không ngớt là đối tượng để dân làng đàm tiếu, chỉ trích và lên án. Thấy Giám
Mục Amôlas đến, họ xúm lại vây quanh Ngài và nói: hôm nay Ngài đã đến đây thì
Ngài phải chấm dứt ngay lập tức tình trạng sa đọa bê bối gây nhiều gương mù
gương xấu của vị ẩn tu trên núi kia.
Sau khi nghe những
lời kết án gây gắt của dân làng, Giám Mục Amôlas quyết định leo lên núi. Ngài
đi đầu, dân làng lũ lượt nối gót theo sau. Vị ẩn tu thấy đám đông kéo đến túp
lều của mình, ông ta hoảng sợ và cấp tốc bảo người phụ nữ chui vào trốn trong
một cái thùng gỗ rỗng.
Đức Giám Mục là người
đầu tiên đến trước túp lều, và cũng là người đầu tiên bước chân vào. Ngài đưa
mắt nhìn chung quanh và hiểu ngay tình tình. Ung dung, Ngài đi thẳng đến chỗ
ngồi ngay trên chiếc thùng gỗ để nghỉ chân, nơi người phụ nữ ẩn trốn. Rồi bình
thản khoát tay gọi dân làng vào và bảo:
-
Vào đây, các người
hãy vào mà lục xét túp lều để tìm người phụ nữ. Khi họ không tìm đâu ra bóng
dáng người đàn bà, Đức Giám Mục mới nói:
-
Bây giờ các ngươi
phải quỳ xuống xin lỗi Thiên Chúa vì đã nói xấu vị ẩn tu này vô cớ.
Nhưng sau đó, khi mọi
người đã lục tục kéo nhau xuống núi, Đức Giám Mục Amôlas tiến gần vị ẩn tu, nắm
chặt hai bàn tay của ông, đưa mắt nhân từ nhưng cương nghị nhìn sâu vào đôi mắt
của ông và chậm rãi nói:
-
Hỡi người anh em, hãy
cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn đấy!
Anh chị em thân mến, hai thái độ khác nhau
giữa dân làng và Giám Mục Amôlas đối với một người lầm lỗi, có thể giúp chúng
ta hiểu rõ hơn giáo huấn của Chúa Giêsu về việc sửa chữa lỗi lầm của anh em.
Ngược lại với phản ứng của dân làng, Đức Giám Mục Amôlas đã cố gắng áp dụng lời
khuyên của Chúa Giêsu: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi
sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi”. Trong một tình trạng khó xử, Ngài đã
tìm cách đem vấn đề đã được mọi người bàn tán trở thành một vấn đề cá nhân để
có dịp thuận tiện nói chuyện diện đối diện với vị ẩn tu. Tiếp đến, Ngài đã
không sửa lỗi ông như một người có thẩm quyền. Trái lại, Ngài đã dùng thẩm
quyền của mình bảo vệ cho vị ẩn tu, để sau đó có thể khuyên nhủ ông như một
người anh em. Và sau cùng, dù không cấu kết với đám đông để khinh thường và lên
án vị ẩn tu đang vấp phạm, cũng như nêu mối nguy hiểm của lỗi lầm này với phần
rỗi của đương sự, qua một lời khuyên nhẹ nhàng nhưng thẳng thắn: “Hỡi người anh
em, hãy cẩn thận giữ mình kẻo mất linh hồn”.
Thưa anh chị em, Giáo Hội là một cộng đoàn
huynh đệ, trong đó mọi người là anh em với nhau vì đã được làm con cùng một Cha
trên trời trong Đức Giêsu Kitô. Vì thế, mỗi Kitô hữu đều có trách nhiệm nâng đỡ
nhau, sửa lỗi nhau để sống xứng đáng là con cái của Chúa trong đại gia đình của
Ngài. “Chị ngã, em nâng”; “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy
đi sửa lỗi nó”. Chúa Giêsu nhắc nhớ chúng ta trách nhiệm đó. Ở đây không có ý
nói về việc ai đó xía vô đời tư của người khác, nhưng có ý nói về một người anh
em ý thức trách nhiệm phải giúp đỡ người anh em khác sống tốt hơn, vì ích chung
của Giáo Hội.
Đây là một việc làm tế nhị, khó khăn, đòi hỏi
phải nhẫn nại, bởi vì người ta làm việc trên sự tự do và nhân vị của mỗi con
người. Chúa Giêsu đề ra ba giai đoạn: Trước hết cá nhân đối diện với cá nhân.
Nếu người phạm lỗi không chịu nghe nhưng lời góp ý để sửa chữa lỗi lầm, người
ta sẽ đem theo một hoặc hai người nữa cho việc góp ý được thấu lý đạt tình và
có sức mạnh hoán cải hơn. Nếu người mắc lỗi ngoan cố thì sự việc sẽ được đưa ra
trước cộng đoàn, tức là một thứ Giáo Hội địa phương và nếu người mắc lỗi cũng
không chịu nghe cộng đoàn, lúc đó người ta mới kể nó như người ngoài cộng đoàn,
như người ngoại giáo.
Đó quả là một biện pháp khôn ngoan. Nó làm
cho người có trách nhiệm sửa lỗi luôn luôn giữ được sự bình tĩnh, nhẫn nại,
đồng thời thể hiện tấm lòng từ bi và thái độ tôn trọng nhân vị, tự do của người
phạm tội có dịp hồi tâm, phản tỉnh để nhận ra sự sai quấy của mình. Lúc đó,
không một tội nhân nào còn có lý do để quy trách nhiệm về tội mình, về cách xử
lý mình cho anh em, sau khi đã đối diện với anh em qua ba giai đoạn ấy.
Tóm lại, tất cả đều phải nhắm đến sự sống của
cộng đoàn, phải thi hành với tình yêu huynh đệ. Giáo Hội chỉ giúp cho cá nhân
và xã hội được tốt lành, hoàn thiện khi đóng đúng vai trò người giữ gìn, bảo vệ
nơi nào chân chính và điều thiện có thể bị tấn công, bị phá hủy, đồng thời đẩy
lui những điều ác, điều xấu làm tổn thương, sứt mẻ mối tương quan của con người
với chính mình, với cộng đoàn và với quyền bính hợp pháp.
Khi chúng ta cùng cộng đoàn hay Giáo Hội lên
án những bất công và tệ đoan xã hội cũng như sự suy thoái đạo đức… chính là lúc
chúng ta thực thi trách nhiệm sửa chữa lỗi lầm của nhau, cho mình và cho xã
hội. Trách nhiệm này, Chúa đã trao cho chúng ta trong tư cách là người con cái
của Chúa và Giáo Hội.
Anh chị em thân mến, chúng ta họp nhau đây
nhân danh Chúa Giêsu Kitô, để cầu nguyện, để gặp gỡ Thiên Chúa và anh em. Chúa
Giêsu đang sống và ở giữa chúng ta. Ngài soi sáng cho chúng ta biết sự thật về
chính mình và tình liên đới với nhau, để chúng ta trả cho nhau món nợ duy nhất,
đó là món nợ tình yêu thương nhau, món nợ không bao giờ trả được.
7.
Chúng ta là người canh chừng một người khác.
(Trích trong ‘Mở Ra
Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Bộ phận dự báo thời tiết bị buộc phải báo
trước những cảnh báo cho mọi người về những hoàn cảnh nguy hiểm có thể xảy ra,
ví dụ như bão tố, lụt lội. Những nhân viên trong bộ phận dự báo thời tiết không
bị tố cáo bởi bổn phận của họ phải đưa ra những giả định mà dân chúng lại không
muốn nghe cảnh báo theo cách đó, hoặc cảnh báo áp đặt trên họ và làm cho họ
giận dữ hay mang các tin tức xấu đến làm làm cho dân chúng cảm thấy bất an.
Phụng vụ trong Chúa Nhật này làm cho chúng ta
ý thức rằng, chúng ta có trách nhiệm đối với những người khác. Những cơn bão đã
nổ lên trong đời sống của nhiều người, những người mà các bạn quen biết và yêu
thương. Bộ phận dự báo thời tiết không thể ngăn cản được lũ lụt hay bão tố, nó
chỉ có thể đưa ra những lời cảnh báo sớm bao nhiêu có thể, để cho mọi người
chuẩn bị đón nhận hay tránh xa tai hoạ. Không giống như những nhân viên dự báo
thời tiết, chúng ta có thể thật sự xoay chuyển được những cơn bão cá nhân ra
chỗ khác, đặc biệt là khi chúng ta cảnh báo kịp lúc.
Chúng ta phải chấp nhận sự kiện là Thiên Chúa
chỉ định chúng ta là người canh chừng người khác như Người đã chỉ định tiên tri
Êzêkiel. Chúng ta phải nhận ra rằng món nợ trói buộc chúng ta với tình yêu tha
nhân, bao gồm trong việc can đảm cảnh báo cho người khác những nguy hiểm hoặc
những tai hoạ sắp xảy ra.
Nhiều thiếu niên đã bực tức với vha mẹ và
thầy cô giáo của chúng vì các ngài đã cảnh báo chúng về những điếu thuốc, những
chai rượu, say xỉn và chuyện phái tính. Bọn chúng nghĩ rằng mình đã đủ lớn “để
thoát ra khỏi vòng kiềm tỏa”, rằng bọn chúng không còn “khờ” đâu. Bọn chúng ước
ao được đối xử giống như những người trưởng thành và nói về những chuyện khác.
Áp lực trên những người có trách nhệm với lũ trẻ thật lớn lao, nhưng chúng ta
chỉ hối tiếc khi chuyện đã xảy ra mà chúng ta không cảnh báo trước.
Những người trưởng thành biết rõ hơn những bạn
trẻ, nhưng họ vẫn mắc sai lầm. Thường thường chuyện đó xảy ra khi một cuộc hôn
nhân tan vỡ, một người bạn nói: “Tôi chẳng ngạc nhiên chút nào, tôi thấy trước
chuyện này sẽ đến thôi”.
Một số người sẽ lắc vai người bạn và hỏi: “Vì
sao anh không báo hay nói trước với tôi về chuyện ấy?”
Một người đàn ông hay một phụ nữ mất việc vì
ông hay bà ấy quá say xỉn do uống nhiều bia rượu. Đó là điều xảy ra mà không hề
bất ngờ, thường thường người ta không chú ý đến vị hôn phu, bạn bè hoặc người
cộng tác. Thật là xấu hổ nếu không có người can đảm đứng lên và nói: “Bạn cần
sự giúp đỡ. Hãy đến với tôi trong một buổi họp mặt của nhóm AA”.
Dân chúng của những thời đại khác nhau có thể
dần dần lạc xa khỏi Giáo Hội. Họ trở nên bất thường trong việc đi tham dự thánh
lễ. Chẳng mấy lúc, họ chỉ còn đi hai lễ là Giáng sinh và Phục sinh, rồi sau đó
là chẳng đi một lễ nào hết. Họ mất đi cảm thức về sự định hướng và mục đích của
đời sống. Có thể là bởi không có người nào nồng nhiệt mời họ lưu lại Giáo Hội,
hoặc khẩn nài họ trở lại với việc thực hành đức tin công giáo của họ?
Thật không dễ dàng chút nào khi phải cảnh báo
người khác. Họ có thể ra đi và mất luôn. Nhưng giống như tiên tri Êzekiel,
chúng ta phải làm một người canh chừng những người khác. Món nợ mà chúng ta nợ
trói buộc chúng ta vào tình yêu dành cho người khác, bao gồm việc buộc phải
cảnh báo người khác về những nguy hiểm thiêng liêng trong đời sống của họ, hay
tha lỗi cho những người không tin chúng ta hay bổn phận của chúng ta. Chúng ta
không thể lạm dụng khi cho rằng người hay thắc mắc sẽ không muốn lắng nghe
chúng ta, hoặc ông (bà) ấy sẽ bỏ đi và giận dữ, hoặc là vì chúng ta không thích
hợp với loại công việc như vậy.
Trong Thánh lễ chúng ta hợp giọng cùng mọi
người để cầu nguyện cho tha nhân. Sự cầu nguyện này sẽ dẫn chúng ta tới lẽ
phải. Chúng ta biết rằng lẽ phải là chấp nhận trách nhiệm đối với những người
khác.
8.
Dám khiển trách.
Tôi biết có ít người có thể thành công làm
điều mà Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta: “Nếu anh em ngươi lỗi phạm, hãy đi sửa bảo
anh em và chỉ ra lỗi lầm của người đó khi chỉ có mình ngươi với người đó mà
thôi”.
Chúng ta có nói, phải, chúng ta có nói nhưng
nói sau lưng người khác. “Cô bé tóc nâu ấy, bạn có biết không? Nó chẳng đáng
thương chút nào cả!” Hoặc chúng ta xem họ có sạn trong đầu, chúng ta la lên,
hung dữ, vụng về, Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta khéo léo và đầy yêu thương: “Bạn
hãy chỉ cho người đó biết lỗi lầm của họ, nhẹ nhàng khuyên bảo họ khi chỉ có
hai người mà thôi. Nếu người đó lắng nghe bạn thì bạn đã chinh phục được người
đó rồi”.
Chinh phục họ. Để hiểu rõ thiếng này, cần
phải nghĩ đến tiếng la lên của người cha có đứa con hoang đàng: “Con ta đã mất
và nay đã tìm lại được!”. Khi nói về một tội phạm với những tình cảm này, chúng
ta có cơ may chinh phục họ.
Chinh phục họ! Chứ không phải giao chiến với
họ. Chúng ta thường khiển trách, nhưng có lẽ chúng ta không tin rằng đó là một
hành vi Tin Mừng, do đó điều này đòi buộc có một con tim của Tin Mừng.
Cái gì nổi lên trong tim tôi lúc tôi sắp sửa
chửi mắng? Người bị chất vấn sẽ nhanh chóng phát hiện ra ý thích dễ sợ đó là
làm nhục mà ít người sửa phạt tránh được. Hoặc nêú chúng ta đặt mệnh lệnh và
danh dự lên trên tất cả, thì chúng ta khó mà chủ được cơn giận của chúng ta:
“Bạn có biết bạn đặt chúng tôi vào hoàn cảnh nào hay không?” Nói chung, họ bất
cần: “Đây là vấn đề của tôi!”.
Chúng ta có tìm ra được giọng nói để bảo họ:
“Đây cũng là vấn đề của tôi!”. Tôi không thể tỏ ra dửng dưng. Bạn hãy bỏ qua
những vụng về của tôi, có điều bạn hãy nghe tôi nói điều tôi âu lo về bạn, tôi
yêu thương bạn”.
Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta luôn yêu thương
ngay cả khi đó là điều rất khó, nếu không thì “yêu thương” có nghĩa là gì?
Chúng ta có lẽ sẽ phải đóng khung những điều rất khó khăn gay go. Tất cả các
bậc cha mẹ và những người có trách nhiệm đều nói điều đó. Giờ đây, khi chúng có
nguy cơ bị lưu ý, chúng ta băát đầu tấn công: “Bạn rao giảng, nhưng bạn có thực
hành đạo đức của bạn hay không?” Hãy thử nói vui (nếu có thể được!): “Bạn có
lý, tôi thấy cọng rơm của bạn chứ không phải cái xà nhà của tôi. Nhưng dầu sao
thì chúng ta cũng hãy nói về cọng rơm của bạn”. Những lời khiển trách thì khó
mà được tiếp nhận và chúng ta cần đến an bình đến nỗi chúng ta sẽ cố gắng tránh
né bổn phận khó nhọc này. Ít ra chúng ta không phải là một kẻ hay la rầy bẳm
sinh, và thế là ở đây phải xem xét kỹ vấn đề! Thường thì chúng ta cho qua,
nhưng ý muốn yên lành bằng bất cứ giá nào chắc chắn không phải theo tinh thần
Tin Mừng.
Biết bao lần một lời nói thông minh, yên lành
và yêu thương đã cứu được một kẻ nào đó? Có chung quanh họ những người bạn là
những người thấy rõ ràng và than vãn mà không dám tiến bước: “Phải nói với
họ...”.
Thế thì bạn hãy nói đi. Bạn hãy để cho Chúa
Giêsu thúc đẩy. Đấng đã nói với bạn: “Hãy cố gắng chinh phục”.
9.
Giáo Hội
1) Giáo huấn của Giáo
Hội
Trong trường hợp xảy ra tranh chấp cá nhân,
người Công giáo không nại đến quyền bính ngay, nhưng haỹ cùng nhau giải quyết
công việc, ở đây phải tuyệt đối dè dặt. Tuy nhiên, nếu thấy thực hiện như thế
không ích gì, bởi vì vấn đề khá quan trọng, phải tìm đến nhân chứng; nhờ đó,
cuộc tranh luận tuy còn tính cách cá nhân, những mỗi bên sẽ có nhiều lý do
thuận lợi hơn để xác định lập trường. Tuy vậy, nếu bên nào cố chấp làm cho cuộc
tranh luận bế tắc, phải cần đến quyền bính Giáo Hội phân xử. Quyền bính Giáo
Hội là toà án luân lý và tôn giáo tối cao, không chịu một kháng án nào nữa:
Phán quyết do quyền bính Giáo Hội cũng có giá trị ở dưới thế như ở trên trời.
nhưng ngày nay, ta còn có thể chấp nhận giá trị bất khả kháng của phán quyết
Giáo Hội nữa không?
Giáo Hội vẫn có chức vụ chính thức và quyền
bính đích thực. Giáo Hội có quyền xử án và tuyên án. Ai bất tuân Giáo Hội,
không còn là chi thể của Giáo Hội, họ bị coi như lương dân hay một tội nhân
công khai. Quả thực, trước hết, Giáo Hội chuyên lo về lãnh vực thiêng liêng,
nhưng điều đó không có nghĩa là Giáo Hội chỉ chú trọng đến nội giới, linh ứng,
ơn sủng. Giáo Hội còn là một cộng đoàn có quyền lợi, nhiệm vụ và thẩm quyền.
Giáo Hội vô thể chế, vô quyền bính, không phải là Giáo Hội Chúa Kitô. Đức Kitô
vô cùng sáng suốt đã lưu ý đến những yếu đuối khốn nạn của nhân loại để giúp
chúng ta vượt qua, nhờ tinh thần nội tâm biết hoan hỉ dễ dàng tuân phục quyền
bính. Khi tình yêu càng mãnh liệt, việc tuân phục càng dễ dàng, và lúc đó, có
quyền bính cũng không mấy cần thiết. Nhưng hiện nay, tình yêu chưa ngự trị mọi
nơi, nên còn phải lo củng cố quyền bính và công lý. Vậy nên Giáo Hội Đức Kitô
mới vừa quan tâm đến tinh thần bên trong và phận vụ bên ngoài.
2) Cộng đồng cầu
nguyện
Giáo Hội không phải chỉ là một tổ chức do
quyền bính và những người nắm giữ quyền bính tạo thành, nhưng mỗi lần các tín
hữu họp nhau nhân danh Đức Kitô, là một Giáo Hội nhỏ bé hiện hình. Kinh nguyện
liên kết nhân loại với nhau và với Đức Kitô, để làm thành một cộng đoàn của Đức
Kitô. Ngoài lối cầu nguyện riêng tư trong phòng kín, còn có loại kinh nguyện
cộng đoàn có tầm quan trọng và hiệu quả đặc biệt, vì loại kinh nguyện này không
những chỉ liên hệ đến các cá nhân, nhưng đến cả cộng đoàn. Đức Kitô ngự giữa
các tín hữu đang tụ họp. Đó là Đức Kitô mầu nhiệm, cầu nguyện để bảo đảm lời
xin sẽ được chấp nhận. Vậy ngoài yếu tố chế định pháp lý và yếu tố thiêng liêng
nội tâm, Giáo Hội còn ẩn chứa yếu tố mầu nhiệm của Đức Kitô. Mầu nhiệm kỳ diệu
là chính sự hiện diện huyền nhiệm của Đức Kitô giữa chúng ta. Đó là dữ kiện
tiên quyết giúp ta nhìn nhận quyền bính chế định và tuân theo đòi hỏi luân lý
siêu nhiên, đồng thời tin tưởng vào lời hứa nhận lời ta cầu nguyện. Giáo Hội
không có Đức Kitô chỉ là một tập hợp nhân loại. Đức Kitô không có Giáo Hội chỉ
là một cá nhân đơn độc. Đức Kitô và mầu nhiệm Giáo Hội đó là chân lý thấy trong
Tin Mừng. Cũng như cành nho kết hợp với đầu mình, người tín hữu phải kết hợp
với Đức Kitô. Chỉ khi nào hiểu biết như thế ta mới nắm trọn chân lý.
10.
Làm đẹp.
Có một câu chuyện kể
với tựa đề ‘Chiếc thùng bị thủng’ như sau: Một người kia có hai chiếc thùng lớn
để gánh nước. Một trong hai chiếc thùng ấy bị thủng. Vì thế, khi gánh từ giếng
về, nước trong thùng chỉ còn một nửa. Chiếc thùng còn nguyên rất tự hào về sự
hoàn hảo của mình, còn chiếc thùng bị thủng cứ luôn áy náy vì đã không chu toàn
nhiệm vụ.
Một ngày kia, chiếc
thùng bị thủng mới thưa với ông chủ:
-
Tôi thật sự xấu hổ về
mình, tôi muốn xin lỗi ông!
Ông chủ ngạc nhiên
hỏi lại:
-
Nhưng ngươi xấu hổ về
chuyện gì?
Chiếc thùng buồn bã trả
lời:
-
Chỉ vì cái lỗ thủng
trên thân tôi mà ông không nhận được đầy đủ những gì xứng đáng với công sức của
ông!
Đến đây thì ông chủ
ôn tồn bảo:
-
Không đâu, ngươi cứ
yên tâm. Mỗi khi đi từ giếng về nhà, ngươi hãy chú ý nhìn xem những luống hoa
bên vệ đường. Quả thật, dọc theo bên đường là những luống hoa thật rực rỡ.
Chiếc thùng bị thủng
cảm thấy vui vẻ hơn được một lúc, nhưng rồi về đến nhà, nó vẫn chỉ còn được một
nửa thùng nước. Chiếc thùng lại thấy ân hận:
-
Tôi xin lỗi ông!
Ông chủ lại hỏi:
-
Ơ hay, thế ngươi
không nhận ra rằng hoa chỉ mọc ở bên này đường, phía của ngươi thôi sao? Ta đã
biết được cái lỗ thủng của ngươi và ta đã tận dụng nó. Ta đã gieo những hạt
giống hoa bên vệ đường phía bên ngươi, và trong những năm qua, chính ngươi
không ngờ mình đã tưới cho chúng được tốt tươi. Ta đã hái những đóa hoa để
trang hoàng cho căn nhà. Nếu không có ngươi, căn nhà của ta đâu có được tươi
mát và duyên dáng như thế này!
Ông chủ đã sửa chữa
khuyết điểm của chiếc thùng bị thủng rất là tế nhị và tài tình. Thay vì đem hàn
lại lỗ thủng hoặc bỏ hẳn chiếc thùng đi, ông lại sử dụng nó vào hai nhiệm vụ,
vừa gánh nước vừa tưới hoa. Điều này đã khiến nó không còn áy náy, mà trái lại,
càng thêm hãnh diện vì đã đem lại lợi ích cho chủ nó.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng dạy
chúng ta hãy khéo léo sửa lỗi cho nhau như thế: “Nếu người anh em của ngươi
trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó”. Như vậy, đây là một bổn phận, một
trách nhiệm trong cộng đoàn. Bổn phận này rất khó làm vì nó gây khó chịu cho
người lỗi phạm.
Đức Giêsu đề nghị chúng ta theo tiến trình ba
bước. Trước hết hãy sửa lỗi anh em trong chốn riêng tư, kín đáo, để có sự tin
trọng họ. Nếu anh em còn cố chấp thì đem theo một hai người có uy tín giúp họ
nhận thức rõ về tội của mình. Nếu họ cũng không nghe thì phải trình với vị có
trách nhiệm trong Hội thánh để giúp họ có thái độ dứt khoát nhận lỗi sửa mình.
Như thế, tội lỗi nào cũng liên hệ với cộng
đoàn, lỗi lầm nào cũng xúc phạm đến Chúa và thiệt hại cho anh em. Nhưng tội lỗi
là điều không sao tránh khỏi trong các cộng đoàn, cho dù cộng đoàn ấy là do
chính Chúa thiết lập. Giáo Hội thánh thiện, nhưng cũng bao gồm những tội nhân.
Vậy việc sửa lỗi trong cộng đoàn là điều phải có, cho dẫu là một việc rất ái
ngại, vì nó đụng đến cái thành trì kiên cố nhất của con người, đó là cái tôi
đầy kiêu hãnh. Henry Ford có nói: “Đừng chỉ lo tìm lỗi lầm nhưng hãy tìm cách
chữa trị”. Vậy phải chữa trị cách nào? Hay nói cách khác, thái độ nào cần phải
có khi sửa lỗi cho anh em?
Trước hết, hãy bày tỏ một tâm tình yêu thương
họ. Hãy nghĩ rằng đây là công việc giúp đỡ anh em nên tốt hơn: Đừng lên án, chỉ
trích gay gắt, nhưng luôn tế nhị dịu dàng. Tán dương ưu điểm của họ, và cho họ
thấy việc sửa đổi lỗi lầm cũng dễ dàng thôi.
Thứ đến, hãy kính trọng họ cách chân tình,
luôn giữ thể diện cho họ đừng chà đạp lòng tự ái của họ. Vì chính chúng ta cũng
không hoàn hảo, cũng tội lỗi yếu đuối như bao người, nên khiêm tốn nhận mình
cũng lầm lỗi. Hãy đặt câu hỏi cho họ thấy lỗi của họ, và kiên nhẫn lắng nghe,
khích lệ họ sửa đổi.
Cuối cùng, hãy kiên trì cầu nguyện cho họ,
nhất là cầu nguyện cùng với cộng đoàn, vì “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh
em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban
cho”.
11.
Nhắc bảo
Như nhiều lần chúng ta đã xác quyết: chúng ta
không sống cô độc lẻ loi như một hòn đảo giữa biển khơi hay như một pháo đài
biệt lập. Trái lại, chúng ta sống là sống với người khác, trong một cộng đồng,
trong một xã hội. Và trong cuộc sống chung này, chúng ta phải nương tựa vào
nhau rất nhiều.
Chẳng hạn: về phương diện xã hội, chúng ta
lao động sản xuất ra lúa gạo hầu người khác có cơm ăn, thì đồng thời người khác
cũng có bổn phận lao động đem lại cho chúng ta vải vóc và những vật dụng cần
thiết khác.
Về phương diện con người. Mỗi lời nói, mỗi
hành động của chúng ta, đều tạo nên một ảnh hưởng trên người khác, đồng thời,
mỗi lời nói mỗi hành động của người khác cũng ảnh hưởng trên chúng ta. Bởi vậy,
chúng ta có bổn phận phải giúp đỡ nhau cả về vật chất lẫn tinh thần.
Một trong bổn phận về mặt tinh thần đó là hãy
nhắc bảo những lầm lỗi cho nhau, để nhờ đó mà uốn nắn, sửa đổi hầu thăng tiến
bản thân, vì nhân vô thập toàn, ai cũng có những lầm lỗi khuyết điểm của mình.
Đây cũng là điều mà Chúa Giêsu nhấn mạnh đến qua bài Tin Mừng sáng hôm nay.
Thực vậy, Chúa Giêsu không bao giờ khuyến
khích chúng ta dò xét kẻ khác, nhất là những người ở trong cùng một xứ đạo với
mình. Tất cả những lời khuyên của Chúa Giêsu mà chúng ta vừa nghe chỉ có thể
được hiểu như là một biểu lộ của tình bác ái. Vì chính Chúa đã nói: Cha các
ngươi, Đấng ngự trên trời không muốn cho một người nào bị hư đi.
Như thế, ở đây Chúa Giêsu muốn nhắc lại cho
chúng ta bổn phận phải ân cần chăm sóc đến anh em về mặt tinh thần và thiêng
liêng. Giúp người anh em đang gặp khó khăn, đưa tay nâng đỡ người anh em đang
trong vòng tội lỗi, là một đòi hỏi của tình yêu.
Nếu có một vài Kitô hữu chuyên môn xía vào
chuyện thiên hạ, theo kiểu bới bèo ra bọ, vạch áo cho người xem lưng thì ngược
lại, có một số giáo dân khác lại kém dấn thân, chỉ biết có mình với Chúa, theo
kiểu an phận, mũ ni che tai.
Thế nhưng, ở đây Chúa Giêsu đưa ra một quan
điểm khác, Ngài dạy rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với nhau. Tôi không
thể hờ hững trước tình trạng thiêng liêng của anh em tôi. Hơn nữa, chẳng ai
thoát khỏi lầm lỡ, hay yếu đuối, nên rất có thể một ngày kia người khác cũng có
dịp thi hành cái bổn phận nâng đỡ thiêng liêng ấy đối với tôi. Có lẽ họ sẽ sẵn
sàng làm việc này, nếu họ thay chính tôi thi hành với tất cả sự tế nhị và nhân
ái cần thiết.
Nói tóm lại, trước những sai lỗi của kẻ khác,
chúng ta hãy có can đảm nói cho họ biết trong tình thương và tế nhị. Đồng thời,
khi được người khác nhắc bảo, chúng ta hãy có can đảm lắng nghe. Nếu sai thì
chúng ta sẵn sàng bỏ qua, còn nếu đúng, thì chúng ta hãy coi đó như một tiếng
chuông báo động Chúa gửi đến để cảnh tỉnh chúng ta. Vì như tục ngữ Tây phương
đã bảo: Ai khen ta mà khen phải, ấy là bạn ta còn ai chê ta mà chê phải ấy là
thầy ta.
12.
Nhân danh Thầy
Một vị linh mục chánh
xứ nọ nghe tin có một giáo dân sắp bỏ nhà thờ, không chịu tham dự thánh lễ nữa.
Người giáo dân phản kháng này trước đây đã thường lập luận rằng ông có thể liên
hệ trực tiếp với Thiên Chúa một cách dễ dàng giống như đi ra ngoài cánh đồng
tiếp xúc với thiên nhiên. Vào một tối mùa đông, linh mục chánh xứ đã đến thăm
người con miễn cưỡng này trong tình thân hữu. Hai người ngồi nói chuyện hàn
thuyên với nhau trước lò sưởi, cố ý tránh né đề cập đến vấn đề đi nhà thờ. Sau
một lúc, vị linh mục chánh xứ cầm lấy cái kẹp than trên kệ kế bên lò sưởi, lôi
kéo một cục than lớn ra khỏi ngọn lửa. Ngài đặt cục than hồng đang cháy giở ra
ngoài lò sưởi. Cả hai đều chăm chú nhìn cục than trong im lặng. Cục than bị rút
ra khỏi ngọn lửa liền ngưng cháy thật nhanh, và biến thành màu xám tro, trong
khi các cục than khác trong lò cứ tiếp tục cháy sáng. Lời nhắn nhủ lặng lẽ của
linh mục chánh xứ đối với người giáo dân ương ngạnh đã được đón nhận. Sau một
hồi lâu thinh lặng, ông quay sang cha xứ và nói: “Chúa nhật tới con sẽ đi lễ”.
Bài Phúc âm hôm nay có ba phần: phần thứ nhất
nói về việc sửa sai lỗi lầm của người anh chị em, phần thứ hai nói về sự tha
thứ, và phần thứ ba là hiệu quả của lời cầu nguyện. Yếu tố chung nối kết tất cả
các phần lại với nhau chính là cộng đoàn, hay Giáo Hội. Đức tin, cậy, mến của
chúng ta không thể bị cô lập, nhưng phải sống trong sự liên hệ với những người
khác. Không có cộng đoàn, đời sống tinh thần của chúng ta sẽ chết giống như cục
than hồng đưa ra khỏi ngọn lửa.
Cộng đoàn của Matthêu đa số là người gốc Do
Thái, nhưng cũng pha trộn những tín hữu ngoại kiều. Vì thế, nên có những bất
hoà, đụng chạm, tranh chấp. Để phân giải những chia rẽ xảy ra trong cộng đoàn,
thánh sử nhìn vào lời Chúa khuyên dạy, dựa trên uy tín và sức mạnh của thần khí
hiện diện trong cộng đoàn hay Giáo Hội để sửa dạy những sai lầm, kêu gọi sự hoà
giải, tha thứ và cùng đồng tâm nhất trí với nhau trong lời cầu nguyện.
Phúc âm hôm nay cũng được công bố trong bối
cảnh phân rẽ hiện tại của thế giới và đặc biệt của nước Hoa Kỳ tưởng niệm những
nạn nhân của vụ khủng bố xảy ra ngày 11.9.2001 ở thành phố New
York , Washington D.C., và Pennsylvania . Biến cố đã
qua đi, nhưng điều làm tôi lưu ý nhất là những thánh lễ Chúa nhật sau ngày
khủng bố 11.9, nhà thờ đầy nghẹt giáo dân tham dự. Tại sao thế? Tôi tin rằng vì
tất cả mọi người đang cố gắng đi tìm cho mình một ý nghĩa giữa những thảm kịch
giết người tàn bạo vô nghĩa. Chúng ta cần đến sức mạnh, sự nâng đỡ và hướng dẫn
của cộng đoàn và Giáo Hội. Chúng ta cần đến nhau để tìm về với Thiên Chúa.
13.
Nhân danh Thầy
Theo bản tính yếu đuối của con người, sự tha
thứ không phải là việc dễ làm, và không phải ai cũng có thể dễ dàng tha thứ
được. Nhất là tha thứ cho kẻ thù giết hại chính mạng sống của mình. Phải là
những người có tâm hồn cao cả, noi gương Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa đã làm khi
Ngài chết trên cây Thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ
làm”.
Tám mươi chín người
thân thuộc họ hàng của Simon Wiesenthal đã bị giết chết bởi những người lính
Đức quốc xã. Sau chiến tranh, Simon đã trở thành một con người đi săn bọn Đức
Quốc xã để trả thù. Ông bắt đầu cuốn sách bằng một kinh nghiệm của chính ông,
một tù nhân trong trại tập trung. Một ngày nọ ông bị lôi kéo ra khỏi hàng lao
động và được đưa lên cầu thang phía sau đi tới một căn phòng tối om trong bệnh
viện. Một người y tá dẫn ông vào phòng, rồi bỏ ông ở đó một mình với một khuôn
mặt được băng bó trắng xoá đang nằm trên giường. Một người lính Đức đã bị
thương rất nặng, toàn thể khuôn mặt được băng kín. Với một giọng nói run rẩy,
người lính Đức đã tự thú tất cả tội lỗi với Wiesenthal. Anh nói về những phương
pháp tàn bạo mà đơn vị của anh đã sử dụng để giết người Do Thái. Rồi anh tự thú
nhận những tội ác do chính anh đã làm.
Một vài lần
Wiesenthal đã cố gắng rời bỏ căn phòng, nhưng mỗi lần như thế cái hình hài
giống như bóng ma đã vươn tới và van xin anh ở lại. Cuối cùng, sau 2 giờ đồng
hồ, người lính đã nói với Wiesenthal lý do tại sao anh được mời đến đây. Anh
nói: “Tôi biết rằng điều tôi đang xin hầu như quá lớn đối với anh. Nhưng không
có câu trả lời của anh, tôi không thể chết bình an được”. Anh van xin sự tha
thứ vì tất cả những người Do Thái anh đã giết. Wiesenthal ngồi im lặng một lúc.
Ông nhìn vào khuôn mặt băng bó của người lính Đức. Sau cùng, ông đứng dậy bỏ
căn phòng ra đi không nói lời nào. Ông đã bỏ lại người lính trong nỗi thống khổ
không được tha thứ!
Đây là câu chuyện thật về Wiesenthal. Nó được
coi như một trường hợp cực đoan, tuy nhiên, tôi tin rằng trường hợp như vậy
không phải là không thường xảy ra đối với chúng ta. Tha thứ cho một người đã
gây ra đau khổ cho chúng ta là một trong những điều khó khăn nhất mà một người
Kitô hữu được kêu gọi để làm.
Vào ngày 11.9.2001. Alfred Braca là một trong
số hàng ngàn người đã chết trong những cuộc tấn công vào toà nhà Thương Mại Thế
Giới. Bà quả phụ Jean, và bốn người con đã mất đi một người chồng, người cha
trong buồn sầu. Một tháng sau, Jean Braca đã nhận được một cú điện thoại từ
tổng đài điện thoại hãng MCI. Người tổng đài đã chuyển cho bà một tin quan
trọng: những lời cuối cùng của Alfred Braca, chồng bà.
Trước khi toà nhà tháp đôi sụp đổ, Alfred
Braca đã gọi điện thoại cho nhân viên tổng đài của hãng điện thoại MCI và yêu
cầu bà chuyển lời cuối cùng của ông cho gia đình. Ông đã nói với họ rằng ông
rất yêu thương mọi người trong gia đình. Ông biết rằng ông đang ở trong một
tình thế rất nghiêm trọng. Và muốn cho gia đình biết ông và 50 người khác đã
quy tụ lại với nhau để cầu nguyện trong giây phút nguy kịch này. Và đây là hành
động cuối cùng của họ trước khi chết.
Căn nguyên của khủng bố có thể là sự hiểu
lầm, hận thù và bạo động. Sức mạnh quân sự không thể bứng rễ được nó. Bom đạn
và tên lửa không thể bay tới phá huỷ sự hận thù trong lòng con người được. Trái
lại, sự hận thù càng gia tăng hơn nữa. Nó chỉ có thể được cải hoá bằng sự cảm
thông, lòng yêu thương và cầu nguyện.
Đây chính là lời kêu gọi tha thứ, hoà giải,
yêu thương và cùng nhau cầu nguyện của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay: “Ở
đâu có hai hay ba người tụ họp nhân danh Thầy, thì Thầy ở giữa những người ấy”.
14.
Vẽ chân dung
Lời Chúa hôm nay dạy các môn đệ của Ngài, dạy
cho dân chúng cũng như dạy cho tất cả chúng ta một việc rất quan trọng trong
đời sống hằng ngày, đó là tinh thần bác ái trong việc xét đoán, phê bình người
khác. Chúng ta cùng nhau chia sẻ một vài ý tưởng qua bài Phúc Âm theo thánh Mátthêu
(x. Mt 18,15-20).
Khi đọc lại đoạn Tin Mừng trên, hẳn mỗi người
chúng ta đều bật cười và lẩm bẩm rằng: Chúa Giêsu dạy thật có lý, vì rõ ràng
đức bác ái dạy rất phù hợp với đạo tự nhiên của con người, bằng chứng là lúc
chưa được may mắn nghe Tin Mừng của Chúa, mọi người chúng ta đã từng dạy con
cháu trong đạo xử thế: "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ".
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng
lặp lại cùng một tư tưởng đó nhưng với kiểu văn châm biếm: "Hãy lấy cái đà
ra khỏi mắt ngươi trước đã thì ngươi sẽ thấy rõ để lấy hạt bụi ra khỏi mắt anh
em ngươi". Qua đó chúng ta nhận thấy rằng, trong cái triết lý đời sống nơi
trần gian này cũng như của đời sống vĩnh cửu, chúng ta phải tôn trọng vì theo
nguyên tắc: "Muốn cho đi thì phải có trước đã, vì không ai có thể cho cái
mình không có bao giờ". Cũng như muốn làm việc gì, chúng ta phải biết mình
có khả năng hay không. Và trong lời dạy của Chúa Giêsu bao giờ cũng tiềm tàng
đức bác ái và tinh thần khiêm nhượng trong đó. Trong việc giúp đỡ người khác là
anh em thì tôi phải kính trọng họ, tôi phải nhận thấy rõ chính tôi cũng là
người tội lỗi yếu đuối như bao người khác trước mặt Thiên Chúa chí tôn chí
thánh.
Trong đời sống thực hành hằng ngày, cụ thể
qua việc sửa sai cho nhau, phải thực sự là một việc giúp đỡ chứ không phải là
cuộc xét xử, chỉ trích, lên án nhau. Để được như thế, mỗi người chúng ta phải
hiểu rằng, con người được Chúa dựng nên không phải để xét xử, chỉ trích, lên án
anh chị em mình, nhưng để sống đời sống làm con Thiên Chúa và để giúp đỡ anh
chị em khác trở thành con Chúa và cùng chung sống đời sống gia đình mà có Thiên
Chúa là Cha. Đó chính là đức bác ái Công Giáo mà Chúa Giêsu đã dạy trong Tin
Mừng.
Hôm nay trong tinh thần bác ái của Chúa dạy,
chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì những lời phê bình, kết án, xét đoán, chỉ trích,
thiếu bác ái. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tinh thần tha thứ cho anh em
trong cùng một Cha trên trời là Đấng luôn ban cho người công chính cũng như cho
những kẻ lầm đường lạc lối. Chính vì thế mà trong Tông Thư Ngàn Năm Thứ Ba Đang
Đến, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã kêu gọi tất cả con cái của Giáo Hội hãy
làm một cuộc tự vấn lương tâm và sám hối về những lầm lỗi của mình trong quá
khứ. Giáo Hội đã nhận ra rằng, trong quá khứ con cái của mình đã có những hành
động thiếu khoan nhượng trong khi loan báo Tin Mừng. Chúng ta không thể quên
được những cuộc thập tự viễn chinh để triệt hạ người Hồi Giáo, các tòa điều tra
để thiêu sống những người bị xem là lạc giáo trong thời Trung Cổ, những cuộc
chiến tranh giữa Công Giáo và Tin Lành hồi thế kỷ XVII. Chúng ta cũng khó quên
được những hoạt động truyền giáo, vì nhiệt tình loan báo Chúa Kitô, các tín hữu
đã không ngần ngại dùng võ lực và nhiều sức ép khác để bóp nghẹt niềm tin và tư
tưởng của người khác.
Lịch sử đã sang trang, ngày nay Giáo Hội thấy
cần phải sám hối và quay trở lại gần với Tin Mừng của Chúa hơn. Tin Mừng của
Chúa thiết yếu là chính con người của Chúa Giêsu, Đấng đã đồng bàn ngồi với
những người bị xã hội gạt ra bên lề, cảm thông tha thứ không ngừng cho những người
tội lỗi. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cư xử như
Ngài. Từ sáng chói nhất mà Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm
nay phải là hai chữ "Anh Em". Khi người anh em lỗi phạm thì ngươi hãy
đến với nó, chuyện vãn với nó, khuyến dụ nó, dù tội lỗi đốn mạt xấu xa đến đâu
thì tha nhân vẫn là người anh em của chúng ta. Chúa dạy ta hãy đến với người
anh em không phải với thái độ miệt thị, loại trừ, mà bằng sự cảm thông tha thứ.
Tựu trung đi bước trước để gặp gỡ, lắng nghe,
đối thoại, cảm thông tha thứ, đó là cách cư xử giữa những người anh em con cùng
một Cha trên trời. Mỗi ngày Chúa Nhật chúng ta đến gặp gỡ trong tình anh em ấy,
Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Nếu ngươi đến dâng của lễ nơi Bàn Thờ mà
chợt nhớ có điều bất bình với người anh em, hãy bỏ của lễ mà đi làm hòa với
người anh em trước đã, rồi hãy đến dâng của lễ" (Mt 5,23-24).
Nguyện xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp sức
cho chúng ta, để mỗi ngày Chúa Nhật, sau khi ra khỏi nhà thờ chúng ta cảm thấy
được bổ sức hơn, hầu sống và làm chứng cho Tin Mừng của Chúa một cách tốt đẹp
hơn.
15.
Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Giữa
lầm lỗi của mình và của người khác, giữa việc sửa sai lỗi của mình và sửa sai
lỗi người khác, cái nào quan trọng hơn? Có cần phải sửa lỗi cho anh em mình không?
Tại sao?
2.
Cộng
đoàn, xã hội hay Giáo Hội trong đó mình đang sống có thể có những sai lỗi
không? Mình có trách nhiệm sửa sai tập thể không?
Suy tư gợi ý:
1. Trên đời, ai cũng có lỗi. Bản thân ta cũng có lỗi
Trên đời này, ngoại trừ
Đức Giê-su mà ta tin tưởng là hoàn toàn vô tội và không hề lầm lỗi, thì chẳng
ai là người hoàn hảo: «nhân vô thập toàn». Ai cũng có lầm lỗi, và ai cũng đều
được mời gọi «nên hoàn thiện, như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48).
Vì thế, ai cũng cần được sửa lỗi.
Tự nhận ra lầm lỗi hay
sai trái của mình, rồi tự sửa đổi, là điều tốt nhất, lý tưởng nhất, nhưng quả
rất khó. Tâm lý chung của mọi người là «thấy cái rác trong con mắt của người
anh em, mà cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới» (Mt 7,3). Vì
thế, mình dễ thấy lỗi của người khác hơn lỗi của mình; ngược lại, người khác dễ
thấy lỗi của mình hơn thấy lỗi của họ. Vì thế, để trở nên hoàn thiện, chúng ta
hãy giúp nhau nhìn thấy lỗi của mình, bằng cách người này chỉ lỗi cho người
kia. Chẳng hạn trong gia đình thì vợ chồng chỉ lỗi cho nhau, cha mẹ con cái chỉ
lỗi cho nhau. Trong các cộng đoàn, trong giáo xứ hay trong Giáo Hội cũng vậy.
Điều ấy nói thì dễ,
nhưng trong thực tế, không ai thích người khác chỉ lỗi cho mình. Khi có ai chỉ
lỗi cho ta, dù có nhận ra người ấy nói đúng, ta vẫn cảm thấy bị xúc phạm khiến
ta nóng mặt, nổi quạu, huống gì trường hợp người ấy nói không đúng, hoặc ta
không nhận ra người ấy nói đúng. Vì ai cũng coi «cái tôi» của mình quá lớn!
Người chỉ lỗi cho ta, dù thiện chí, nhiều khi cũng phải hứng chịu những «trận
lôi đình», sự giận hờn, ác cảm, thậm chí sự trả đũa của ta. Nhưng nếu ta ý thức
mình chỉ là con người bất toàn, có những lầm lỗi mà mình không hề biết, và nếu
ta thật sự mong muốn mình trở nên hoàn thiện, ta sẽ cảm thấy vui mừng và biết
ơn khi có người cho ta biết sự sai trái hay thiếu sót của ta. Sự vui mừng và
biết ơn khi được sửa lỗi là một điểm thực tế để biết mình có thật sự khiêm
nhường và thánh thiện không.
2. Ai cũng phải sửa lỗi.
Bản thân ta cũng phải sửa lỗi
Một khi đã nhận ra lỗi
của mình, vấn đề kế tiếp là quyết tâm sửa lỗi. Điều này cũng không luôn luôn dễ
dàng, vì những sai lỗi nhiều khi là những thói quen cố hữu, lâu năm, hoặc phát
xuất từ một quan niệm hay một thành kiến. Bỏ đi một quan niệm hay thành kiến
quả rất khó khăn. Ngoài ra, những sai lỗi có thể gắn liền với một quyền lợi hay
một thú vui nào đó " đôi khi rất lớn" của ta. Từ bỏ sai lỗi nhiều khi
đồng nghĩa với từ bỏ một quyền lợi, một thú vui, một chứng ghiền. Nhưng dẫu thế
nào, hễ là điều xấu, là sai trái, thì ta phải sửa sai, nhất là khi nó tai hại
cho tha nhân, xã hội, hoặc cho chính bản thân ta. Có chịu sửa lỗi, ta mới trở
nên hoàn thiện hơn.
3. Sửa lỗi cho người
khác là một việc bác ái
Tự sửa lỗi mình là điều
quan trọng nhất trước khi sửa lỗi người khác. Nhiều người chỉ quan tâm sửa lỗi
người khác, còn mình thì … chẳng bao giờ chịu sửa:
«Chân mình những lấm mê mê,
lại cầm bó đuốc mà rê chân người» (Ca dao).
Điều đó thật đáng mỉa
mai! Tuy nhiên, nếu chỉ sửa lỗi mình mà không hề quan tâm giúp tha nhân sửa
lỗi, thì một cách nào đó ta chưa đủ tình thương chân thành đối với họ. Chính
Đức Giê-su trong bài Tin Mừng hôm nay cũng khuyên ta phải sửa lỗi cho anh em.
Nhưng hãy xét xem động
lực nào thúc đẩy ta sửa lỗi cho anh em? Động lực vị kỷ hay vị tha? Ta muốn sửa
lỗi anh em vì yêu thương họ và muốn họ nên hoàn thiện hơn? Hay ta muốn lên mặt
chứng tỏ họ kém ta và ta hơn họ? Hay ta chỉ muốn giải quyết ổn thỏa sự thiệt
thòi khó chịu họ gây ra cho ta? Cùng là việc sửa lỗi anh em, nhưng một đằng có
giá trị yêu thương, được Thiên Chúa chúc phúc, và người được sửa lỗi đón nhận
vui vẻ; một đằng chỉ là một hành vi ích kỷ, chẳng mấy giá trị trước mặt Thiên
Chúa, và thường gây bực tức nơi người bị sửa lỗi.
4. Phương cách sửa lỗi
người khác
Tình thương, tính vị tha
là điều hết sức cần thiết khi ta muốn sửa lỗi anh em. Nhưng không đủ, cần khéo
léo, có nghệ thuật, nhất là thể hiện được tình thương hay đức ái. Đức Giê-su có
đưa ra một tiến trình sửa lỗi anh em.
a) Một mình mình với
người anh em có lỗi: «Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi
sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi». Khi ta có lỗi, ta không muốn lỗi của
ta được quảng cáo để ai cũng biết ta có lỗi. Nếu có ai muốn sửa lỗi cho ta, ta
muốn người ấy kín đáo nói với ta, và chỉ nói với ta thôi, để sau khi sửa lỗi
xong, ta như người không hề phạm lỗi ấy. Tại sao ta không làm như thế khi sửa
lỗi người khác? Làm như thế, ta chứng tỏ mình tôn trọng danh dự và uy tín của
người kia, đó là điều tối thiểu của lòng bác ái.
Nếu lầm lỗi ấy chỉ mang
tính cá nhân, không gây tại hại hay tổn thất cho người khác hoặc cộng đoàn, thì
ta nên dừng lại ở đây. Bổn phận bác ái của ta tới đây kể như xong. Hãy để cho
đương sự quyền tự do, sửa lỗi hay không là tùy họ. Ta phải công nhận điều này:
ai cũng có một số tật xấu, sai lỗi, và ai cũng có quyền có một số tật xấu hay
sai lỗi nào đó, miễn là không làm hại đến người khác hay xã hội. Nếu con người
trong xã hội không có quyền này thì xã hội ấy rõ ràng là thiếu tự do, thiếu
nhân quyền. Ta cần tôn trọng tự do của người khác. Chỉ trừ trong gia đình hay
trong tu viện: khi con cái hay tu sinh cần được giáo dục, thì tất cả mọi tật
xấu đều cần được sửa sai cho dù không đến nỗi có hại cho tha nhân hay xã hội.
b) Dùng biện pháp mạnh
hơn: «Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để
mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân». Để sửa
lỗi, không phải lúc nào nhỏ nhẹ riêng tư cũng thành công, nhất là khi người
được sửa lỗi không đủ thiện chí, hoặc người sửa lỗi chưa đủ uy tín hay tiếng nói
chưa đủ mạnh. Nếu lầm lỗi này có hại cho nhiều người hoặc cho xã hội, thì người
sửa lỗi có bổn phận phải áp dụng một phương pháp mạnh hơn, nhưng cần tiệm tiến,
không nên đốt giai đoạn.
- Trước hết nên tìm một hai người khác có uy tín và tình thương đối với người
sai lỗi để cùng họ sửa lỗi cho người ấy. Như thế sẽ có một tiếng nói mạnh hơn
khiến người kia phải suy nghĩ và sửa lỗi.
-
Nếu vẫn không được thì
sao? Đức Giê-su nói: «Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh», nghĩa
là nên báo cho những người có trách nhiệm đối với người ấy. Chẳng hạn trong gia
đình thì có cha mẹ, trong giáo xứ thì có cha sở, trong tu viện thì có cha bề
trên, trong giáo phận thì có giám mục, ngoài xã hội thì có chính quyền hay tòa
án các cấp… Nếu là người trong Giáo Hội thì nên xử lý nội bộ trước, chừng nào
không được thì mới nên đưa ra ngoài đời. Nói chung, sửa lỗi cần phải theo một
tiến trình tiệm tiến, từ riêng tư đến công khai, từ nội bộ ra ngoại bộ, từ nhỏ
thành lớn, từ đề nghị thành ép buộc… Không nên đốt giai đoạn.
c) Biện pháp cuối cùng khi tất cả mọi biện
pháp đều thất bại: Đức Giê-su nói: «Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì
hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế». Nếu đã tìm đủ mọi cách
để sửa lỗi mà đương sự không nghe, vẫn tiếp tục con đường sai lầm có hại cho
tha nhân và cộng đoàn, thì phải dùng một biện pháp thật mạnh, là loại trừ họ
khỏi cộng đoàn, coi họ như người ngoại hoặc người thiếu thiện chí. Nên nhớ, cho
dù có dùng đến biện pháp này, thì biện pháp này vẫn chỉ là một phương tiện bất
đắc dĩ của tình thương, nghĩa là vẫn phải duy trì họ trong tình thương của
mình.
5. Can đảm sửa lỗi cho Giáo Hội và xã hội
Không chỉ trên bình diện cá nhân mà một tập
thể, một cộng đoàn, một xã hội hay một Giáo Hội cũng có thể sai lỗi và cũng cần
được sửa lỗi.
Nếu cộng đoàn của mình có những khiếm khuyết
phương hại tới trật tự hay sự phát triển chung của chính cộng đoàn, của xã hội
hoặc Giáo Hội, thì các thành viên, nhất là những người lãnh đạo trong cộng đoàn
ấy, có nhiệm vụ tìm cách sửa sai. Sống trong một xã hội có cơ chế bất công, đàn
áp, chỉ phục vụ cho một đảng phái hay một thiểu số, bất chấp quyền lợi của đa
số dân chúng, thì người trong xã hội ấy, nhất là Ki-tô hữu, có nhiệm vụ tìm
cách cải thiện, đem lại sự công bằng, hợp lý và ổn định cho xã hội.
Nếu trong Giáo Hội mình đang sống có những
sai trái, thì tất cả các thành viên, nhất là hàng giáo phẩm và giáo sĩ, có
nhiệm vụ tìm cách sửa sai để Giáo Hội nên hoàn chỉnh hơn. Chẳng hạn hiện nay
Giáo Hội đang quá quan tâm tới những lễ nghi, hình thức bên ngoài, mà thiếu
chiều kích sống đạo nội tâm: rất cần điều chỉnh lại. Hoặc trong ba chức năng
quan trọng ngang nhau của người Ki-tô hữu, Giáo Hội đang có chiều hướng chỉ
quan trọng hóa chức năng tư tế (thờ phượng) mà coi nhẹ hoặc bỏ lửng chức năng
vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội, ngoại cảnh) và ngôn sứ (làm chứng
cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương). Vì thế, trong một xã hội
đầy bất công và đàn áp, lối sống đạo què quặt như thế có thể trở thành một thứ
thuốc phiện tinh thần làm tê liệt sức đấu tranh cần phải có của quần chúng để
chống lại những bất công hay tệ nạn của xã hội.
Thiết tưởng Giáo Hội cần có những nỗ lực sửa
sai hơn tất cả mọi tổ chức hay thế lực khác, để Giáo Hội trở nên hoàn thiện, vì
chính Giáo Hội luôn luôn rao giảng và cổ võ sự thánh thiện, hoàn hảo như một
lệnh truyền của Đức Ki-tô. Giáo Hội cần phải làm gương trong lãnh vực này.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha, xin giúp con ý thức bổn phận trước
tiên và trọng đại nhất của con là trở nên hoàn thiện. Nhưng con không thể nên
hoàn thiện một mình, con cũng có bổn phận giúp người khác, trong đó có những
người chung quanh con, và hơn nữa, cộng đoàn của con, xã hội và Giáo Hội con
đang sống. Tất cả đều được Cha mời gọi nên hoàn thiện. Xin cho con biết khéo
léo trong việc làm cho tha nhân nên hoàn thiện. Amen.
16.
Sửa lỗi nhau
Đã là con người, khi đã biết sử dụng trí
khôn, hay khi còn sử dụng được trí khôn bình thường, thì còn lầm lỗi, và còn
lầm lỗi là còn cần được sửa chữa, như ca dao tục ngữ đã nhìn nhận: “Tha thứ là
bệnh của trời, lỗi lầm là bệnh con người chúng ta”. Quả thực, Thiên Chúa sinh
ra chúng ta, mỗi người mỗi vẻ, mỗi người mỗi tính, không ai giống ai: người thì
nhanh nhẹn, người thì chậm chạp, người thì hăng say năng nổ, nhiệt tình, người
thì tiêu cực, ơ hờ, lười biếng, người thì mau miệng, người thì chậm nói, người
thì mạnh bạo, người thì nhút nhát: “Bá nhân bá tánh”, trăm người thì có trăm
tính cách khác nhau. Vì thế, mỗi người phải phát huy ưu thế của mình, và tận
dụng nó trong việc giúp đỡ anh em mình cái mặt yếu kém của họ, không được ỷ vào
ưu điểm Chúa ban mà lên mặt tự phụ khinh thường người khác.
Hơn nữa nhân vô thập toàn, không ai là hoàn
hảo, tuyệt đối không bao giờ sai lầm hay thiếu sót. Trái lại, còn thường xuyên
lầm lỗi và thiếu sót nữa, nên chỉ bảo cho nhau, góp ý xây dựng cho nhau, sửa
lỗi lẫn nhau là một điều cần thiết. Đây là một cách cư xử rất khó khăn, rất
phức tạp, đòi hỏi phải hết sức tế nhị và phải làm.
Chúa Giêsu hiểu biết tâm lý con người, Ngài
biết rõ chúng ta yếu đuối, hay lầm lỗi, thiếu sót và cần sửa chữa, nên Ngài đã
chỉ dạy chúng ta một cách sửa lỗi nhau rất hay, rất tế nhị. Đó là khi chúng ta
muốn sửa lỗi ai, chúng ta phải ý tứ làm từng bước như Chúa chỉ dạy trong bài
Tin Mừng hôm nay, thì mới kết quả và thành công.
Bước thứ nhất hay việc đầu tiên là gặp gỡ
riêng giữa hai người, chỉ hai người thôi, ta và người sai lỗi. Gặp gỡ và nói
chuyện với nhau trong tình thân ái, kín đáo và chân thành. Gặp gỡ như vậy, một
đàng sẽ giúp chúng ta hiểu nhau, thông cảm nhau và biết đúng sự thật hơn. Đàng
khác, sẽ giúp cho người sai lỗi thấy được lỗi lầm của họ để sửa chữa và phục
thiện.
Sau khi đã gặp gỡ riêng rồi mà vẫn không kết
quả, người sai lỗi vẫn cứng lòng, tự ái, cố chấp, thì mời một hoặc hai người
làm nhân chứng và cùng góp ý. Nhiều người nhiều bộ óc, tất nhiên sẽ uy thế hơn,
cao kiến hơn, vừa minh chứng cho lòng thành thật của chúng ta, vừa cho người
sai lỗi thấy rõ và phải nhìn nhận điều sai trái của họ.
Nếu vẫn không kết quả, khi ấy mới đưa ra cộng
đoàn hay đưa đến người có thẩm quyền để giải quyết. Chúng ta hãy nhớ đưa ra
người có thẩm quyền trong Giáo Hội chứ không phải người có thẩm quyền ngoài xã
hội. Tức là chúng ta không bao giờ kiện cáo nhau để đem nhau ra tòa án phần
đời. Chẳng hay ho gì mà còn mang tiếng cho đạo nữa. Chúng ta cũng phải nhớ là
chỉ sau khi đã gặp gỡ riêng và nhờ người khác góp ý rồi mới đưa tới người có
thẩm quyền. Có những người đưa ngay vụ việc tới người có quyền, hoặc là để ton
hót, lấy điểm hoặc là vì lòng ghen ghét, ganh tị, tức giận, như thế sẽ làm tổn
thương tự ái và hậu quả sẽ tệ hại hơn.
Nếu đã làm hết cách theo khả năng mà vẫn
không kết quả, thì hãy nhận sự giới hạn của mình và phó dâng người anh em cho
lòng nhân từ của Thiên Chúa là cầu nguyện cho họ. Chúng ta cầu nguyện và cộng
đoàn cầu nguyện, chắc chắn lời cầu nguyện ấy sẽ được Chúa nhận lời. Chúng ta
hãy nhớ: việc góp ý xây dựng hay sửa lỗi nhau phải nhằm mục đích là để giúp họ
trở nên tốt hơn. Chúng ta phải sửa lỗi anh em trong tình mến chứ không phải vì
lòng tự ái, không phải vì ganh tị, lại càng không phải vì tức giận, thù ghét.
Đàng khác, chúng ta cũng phải để ý đến vấn đề
tâm lý nữa, tức là để ý đến thời gian, không gian và cách cư xử nữa. Có việc
chúng ta góp ý lúc này thì không kết quả, nhưng lúc khác lại có kết quả, hoặc
chỗ này thì được việc, nhưng chỗ khác lại thất bại. Nhất là cách hành sử: “Lời
nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”, “Lời ngọt thì lọt
đến xương”. Như thế sẽ không làm tổn thương lòng tự ái hay danh dự của người
sai lỗi và họ dễ dàng phục thiện hơn.
Vì vậy, về phía người góp ý hay sửa lỗi phải
ý tứ: đừng bao giờ đứng vai trò quan tòa xét đoán anh em. Có khi một điều không
đáng gì, nhưng chúng ta lại quan trọng hóa hay phóng đại to ra, khiến vấn đề
trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Như thế, người sai lỗi sẽ rút lui về chính
mình, căm hờn và tức giận, rồi phản ứng mạnh hơn.
Còn về phía người được góp hay sửa lỗi, thì
phải bình tĩnh và khiêm tốn. Đây là một dịp ơn Chúa đến với mình, đây là một
lần Thiên Chúa quan phòng gửi sứ giả của Ngài đến với mình, nên hãy khiêm tốn
đón nhận. Bởi vì ai phản đối ta, ai chê trách ta, mà chê phải, trách đúng, thì
đó là ông thày dạy ta mà ta không phải trả tiền, như những câu danh ngôn mà các
nhà giáo dục thường nói: “Ai khen ta mà khen phải, đó là bạn ta. Ai chê ta mà chê đúng, đó là thầy ta. Ai nịnh hót ta, nịnh hót cả điều sai
lỗi của ta, đó là thù địch của ta. Ai phản đối ta, mà phản đối đúng, đó là thày
dạy ta mà không lấy tiền”.
Sau hết chúng ta nhớ,
trước khi góp ý xây dựng hay sửa lỗi ai, chúng ta phải cầu nguyện xin Chúa soi
sáng và hướng dẫn: “Lạy Chúa, trước khi con sửa lỗi anh em, xin Chúa nhắc con
hãy nhớ rằng: con cũng là tội nhân, cũng thiếu sót và lầm lỗi, có khi còn nặng
hơn họ nữa. Xin Chúa, nếu vì bổn phận, con phải sửa lỗi, xin cho con biết lấy
tinh thần bác ái yêu thương mà cư xử hơn là chỉ trích, xét đoán anh em. Xin cho
con luôn biết rộng lượng bao dung với người khác, vì con biết chắc rằng Chúa
vẫn tha thứ cho con”.
17. Chú giải của
Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
ANH EM SỬA LỖI NHAU
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Nếu anh em ngươi trót
phạm tội”: câu giả thiết này từ môi miệng Chúa
Giê-su thốt ra trước tiên cho thấy rõ ràng al2 Giáo Hội không bao gồm những kẻ
hoàn thiện, song là những tội nhân. Sáng kiến Chúa Giê-su khuyên kẻ chứng kiến
lỗi anh em nên làm, xem ra mâu thuẫn với lời Người nói trong Diễn từ trên núi
về "cọng rác và cái xà" (7, 1- 5). Nhưng động từ được dùng ở đây
olegohô, (sửa lỗi, trách cứ) - cũng là động từ trong Ga 16, 8 xác định hành
động của Chúa Thánh Thần “sẽ bắt lỗi thế gian" - cho thấy rõ một công việc
như thế phải được thực hiện trong tình bác ái và phải diễn tả, không phải một
sự khiển trách đầy khinh miệt hay quát mắng kiêu căng, nhưng là niềm hy vọng
rằng một nỗ lực vì sự thật như thế sẽ tạo dịp cho hành động của Chúa Thánh
Thần, Đấng duy nhất minh xác được tội trạng và dẫn tội nhân ăn năn thống hối.
Nếu người đáng khiển trách chịu nghe lời sửa lỗi, đó sẽ là một chiến thắng của
Chúa Thánh Thần? "Ngươi đã lợi được anh em người". Không phải “lợi
được" một người bạn hay một nạn nhân trong một cuộc chiến đấu, nhưng là
lợi được một phần tử của Giáo Hội mà người đó sắp lìa bỏ đi.
"Hãy kèm theo ngươi
một, hai người nữa": Chỉ thị này nhấn mạnh
đến sự kiên nhẫn phải có đối với tội nhân bướng bỉnh: bản văn Đnl 19, 15 mà chỉ
thị này tham chiếu, đã đưa ra một lô biện pháp nhằm bảo vệ tội nhân khỏi sự độc
đoán và việc vội vã áp dụng các biện pháp trừng giới. Đây không phải là những
chứng nhân buộc tội mà ngươi ta đã kiếm lấy từ trước vì như thật thì thật là
ghê tởm, song là những người trợ lực những kẻ có nhiều cơ may thành công nhất
trong việc sửa lỗi tội nhân, trước khi phải nại đến thẩm quyền cao hơn hết.
"Hãy thưa với cộng
đoàn (Thật là đáng tiếc khi BJ và Nguyễn Thế Thuấn dịch như
thế, vì bản Hy ngữ nói rõ ràng "Giáo Hội". Câu này, với 16, 18, là
hai nơi duy nhất trong 4 Tin Mừng dùng chữ ekklêsia): Việc đưa tội nhân ta
trước Giáo Hội không phải là một sự xét xử, song là một việc long trọng khuyên
dụ hoán cải nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Trong trường hợp này, Giáo Hội chẳng còn
làm gì khác hơn là công bố chính sứ điệp của mình: lời ân xá và tha thứ; nhưng
lời này sẽ trở thành lời xét xử đối với những ai bác bỏ, khước từ. Chính vì
công bố sứ điệp đó mà cộng đoàn nhận được quyền cầm buộc và tháo cởi (c. 18).
Quyền bính của cộng đoàn không phải là quyền bính của một tòa án hay một cơ
quan tài phán nhân loại đâu, vì nó hệ tại ở việc đặt lương tâm con người đối
điện với Thiên Chúa công bình và nhân ái. Kết quả là kẻ "chẳng màng nghe
Giáo Hội", nghĩa là từ chối nghe lời mời gọi ăn năn, thì đương nhiên tự
loại trừ khỏi cộng đoàn được xây dựng trên ân sủng trong Chúa Kitô đó; đương sự
không còn là "anh em" nữa. Điều y đã làm khi phạm tội (cách riêng
tư), giờ đây cộng đoàn chỉ còn công khai xác nhận và đòi y phải trả lẽ. Y đã tự
tách khỏi cộng đoàn vì tội của y, nên cộng đoàn mới chứng thực sự kiện bằng
cách ghi nhận y đã từ chối nắm bàn tay đưa ra để lôi y vào.
"Mọi điều dưới đất
các ngươi cầm buộc": Việc chuyển đột ngột từ
số ít sang số nhiều nầy đặt ra vấn đề ý nghĩa của chữ "các ngươi".
Chúa Giêsu ngỏ lời với ai đây? Có kẻ nghĩ là các sứ đồ những người chấp chưởng
và là yếu nhân trong phẩm trật Giáo Hội, hay một cách thái quá, là mỗi cá nhân
Kitô hữu, cái nghĩa đã bị công đồng Trentô lên án nhưng không đưa ra một lời
giải thích đích xác tích cực nào. Văn mạch bảo ta xem chữ các ngươi ấy là toàn
thể các môn đồ có một trách nhiệm mục vụ trong cộng đoàn địa phương (xem cc.2.
10. 12. 13, nơi có cùng một chữ các ngươi như thế); nghĩa này đã được thánh
Tôma bênh vực. Lời đây cũng song song với lời đã được nói dưới dạng thức một
lời hứa cho Phêrô (16, 19). Chắc chắn Chúa Giêsu không có ý truất bãi quyền đã
ban cho Phêrô như cho viên.quản gia của mình, nhưng đúng hơn Người muốn liên
kết các môn đồ với kẻ nắm giữ chìa khóa ấy.
"Nếu hai người
trong các ngươi ": Thoạt nhìn, giây liên
lạc giữa các câu 19-20 với những gì đi trước không rõ ràng cho lắm. Kỳ thực có
sự liên tục và khai triển cùng một chủ đề: mọi phán định chính thức của Giáo
Hội sẽ được phê chuẩn ở trên trời và ngay cả mọi lời cầu xin của một số người
hiệp nhau trong đức tin cũng sẽ được trên trời đoái nhậm. Khi hai người họp
nhau trong đức tin trước nhan Thiên Chúa của Chúa Giêsu Kitô là họ đứng với
nhau trên cùng mảnh đất vững chắc của ân sủng, là họ nhận biết mình được hiệp
nhất bởi cùng một lòng nhân ái, cùng một lòng tha thứ khiến họ thành anh em,
thành conc ái của Cha trên trời. Nơi đâu người ta hiệp nhau “nhân danh Chúa
Giê-su”, nghĩa là không phải trong niềm kiêu hãnh thiêng liêng và đức công
chính riêng biệt, nhưng là trong việc cung xưng mình là “bé nhỏ", trong
việc nhìn nhận mình là tội nhân, thì chỉ nơi ấy mới có sự đợi chờ trong đức tin
và vì thế sẽ được nhậm lời; Chúa Kitô ở đâu, Giáo Hội ở đó vậy.
"Ta ở giữa
họ": Trong sách "Tuyển tập danh ngôn tiên tổ”, một phần
khả kính của truyền thống giáo sĩ Do thái, có một lời diễn tả cùng ý tưởng về
lệ luật của dân Thiên Chúa: Khi hai người cùng ngồi bàn luận về những lời của
sách Torah, thì Shékinah ở giữa họ" (Pirqé Abot 3,2). Thế mà Shékinah
(tiếng Hy bá có nghĩa nơi ở") thoạt tiên chỉ Đám mây sáng chói (Xh 40,
34-38;Cv 16,2) bay lượn giữa hai thần Kérubin trên nắp hòm bia. Đám mây sáng
chói này được xem như là vật biểu lộ cách hữu hình việc cư ngụ thường xuyên của
Giavê ở giữa dân Ngài. Bây giờ chính Chúa Giêsu hiển vinh đang ở giữa môn đồ
Người, một cách gần gũi hơn bất cứ ai ở giữa những người khác.
KẾT LUẬN
Đoạn văn này cho ta thấy
rõ mối giây liên kết mật thiết giữa tội lỗi của một cá nhân với đời sống của cả
cộng đoàn. Tội ấy chẳng những liên can lời Giáo Hội chính thức, tới cái mà ngày
nay la gọi là bí tích cáo giải, song còn liên hệ chặt chẽ với trách nhiệm của
mọi phần tử trong cộng đoàn. Đây là một trách nhiệm được san sẻ và được diễn tả
cách rõ ràng phân minh. Trước tiên mỗi người có bổn phận khuyên bảo anh em
mình, rồi phải có nhiều người đến tiếp tay giúp đỡ, cuối cùng nại đến thẩm cấp
tối cao, đến toàn thể cộng đoàn. Bình diện tích được nối kết với bình diện
ngoại bí tích, và cả hai trực tiếp liên hệ đến việc cứu rỗi kẻ đã phạm tội.
Ngoài ra đoạn này còn
cống hiến một hình ảnh rất sâu xa và rất đẹp về Giáo Hội. Giáo Hội hiện hữu khi
người ta cùng tuyên xưa niềm tin vào danh Chúa Giêsu, cái danh mà nhờ đấy ta
được cứu rỗi (Cv 4, 12). Và trong việc tuyên xưng đó. Chúa Giêsu trở nên hiện
diện. Thiên Chúa ở giữa loài người như vậy đó. Ngài là Emmanuen,
Thiên-Chúa-ở-cùng- chúng-ta. Chính sự hiện diện của Ngài qui hướng lời cầu
nguyện chung và đảm bảo chắc chắn lời đó sẽ được chấp nhận. Chính nhờ sự hiện
diện của Ngài mà lời phán quyết của cộng đoàn mới có sức mạnh thần linh. Sau
cùng chính sự đảm bảo đó là lý do khiến Giáo Hội vững lòng cậy trông và không
ngừng hân hoan trên cõi thế.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Không thể có vấn đề chú giải phần đầu của bài Tin Mừng
hôm nay (việc anh em sửa lỗi nhau) như là lời khuyến khích dò xét các người
cùng xứ đạo với mình và nhận định họ theo giá tn luân lý của họ. Tất cả mọi lời
khuyên đây của Chúa Giêsu chỉ có thể được hiểu như một biểu thức của tình bác
ái.
Vì ta thấy chúng đi tiếp
sau câu: "Nơi Cha các ngươi Đấng ngự trên trời không hề có ý để mặc hư đi
một người nào trong những kẻ nhỏ này". Và thật thế, ở đây Chúa Giêsu muốn
nhắc lại cho ta việc ân cần săn sóc anh em ta về mặt tinh thần, thiêng liêng.
Giúp một người anh em đang gặp khó khăn, đưa tay đỡ nâng một người anh em đang
trong vòng tội lỗi, là một yêu sách của tình yêu, một lòng trung tín với công
việc của Chúa.
2. Nếu có một vài Kitô hữu chuyên xía vào chuyện thiên hạ,
thì ngược lại có một số Kitô hữu khác lại kém dấn thân, chỉ biết mình với Chúa.
Thế mà ở đây Chúa Giêsu dạy rằng tất cả chúng ta đều có trách nhiệm với nhau.
Tôi không thể hững hờ trước tình cảm thiêng liêng của anh em tôi. Và vì chẳng
ai thoát khỏi lầm lỡ hay yếu đuối nên rất có thể một ngày kia người khác cũng
sẽ có dịp thi hành đối với tôi cái bổn phận nâng đỡ thiêng liêng ấy. Có lẽ họ
sẽ sẵn sàng làm việc này, nếu họ đã thấy chính tôi thi hành với tất cả sự tế
nhị và nhân ái cần thiết. Trong cộng đoàn môn đồ của Chúa Giêsu. "Không ai
là một hòn đảo"....
3. Sở dĩ ta đến nhà thờ cầu nguyện, chính là để thờ lạy
Chúa Giêsu đang hiện diện cách thể lý ở đó, dưới hình bánh hình rượu. Nhưng
cũng là để gặp lại anh em ta và hiệp nhất với họ trong kinh nguyện. Và khi, trong
một lời nguyện cầu đầy sốt sắng và khiêm tốn, ta đồng tâm nhất với trí kết hợp
với anh em trong Giáo xứ, thì ta không chỉ ở trước Mình Thánh Chúa Kitô đang
hiện hiện trong nhà tạm mà thôi, mà còn ở trong Mình thánh Người, và làm thành
Nhiệm thể Người, vì Chúa Giêsu đã nói:Người sẽ hiện diện giữa ta. Và bấy giờ
Chính Chúa Giêsu cầu nguyện ở trong ta. Làm sao chúng ta lại không được nhận
lời vì Người đã long trọng tuyên bố: "Lạy Cha, con biết Cha hằng nhậm lời
con" (Ga 11, 42)?
18. Chú giải theo Fiches Dominicales
CÓ TRÁCH NHIỆM VỚI NHAU
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Giáo Hội, một cộng
đoàn huynh đệ.
Sau lần thứ nhất loan
báo cuộc khổ nạn, Đức Giêsu cùng các môn đệ rời miền "Cêsarée
Phiìipphê" đi lên Giêrusalem. Sau cuộc biến hình trên núi, giờ đây Ngài
tới Capharnaum, tại đó, theo Matthêô Ngài đã loan báo diễn từ thứ tư trong Phúc
âm Matthêu "diễn từ về đời sống Giáo Hội". Những hướng dẫn, giúp cho
cộng đoàn mà Ngài sáng lập phản ảnh được hình ảnh của "Cha trên
trời".
J. Potin báo trước:
"Trong chương 13 này, Matthêu đã tập họp lại những lời nói khác nhau của
Đức Giêsu về đề tài cộng đoàn. Rất nhiều lời đã được Đức Giêsu nói với các môn
đệ trong tình thân mật, nhất là trong những tháng ngày Ngài bỏ Galilê để chuẩn
bị lên Giêrusalem. Đức Giêsu chuẩn bị cho các môn đệ sống trong một bầu khí yêu
thương huynh đệ, khi phải xa lìa Ngài sau cuộc khổ nạn. Bất kể tương lai có ra
sao, tinh thần quan tâm tới những kẻ bé nhỏ, yếu ớt tinh thần tha thứ lẫn cho
nhau này phải tràn ngập cộng đoàn. Bốn mươi năm sau, lúc Matthêô viết Phúc âm,
những lời mời gọi của Đức Giêsu vẫn còn hiện thực. Cộng đoàn mà Ngài nhắn nhủ
gồm các Kitô hữu gốc Do Thái lẫn gốc dân ngoại, thuộc nhiều tầng lớp xã hội
khác nhau. Đời sống cộng đoàn giữa anh chị em đôi lúc có khó khăn. Tới những
lời Đức Giêsu nói với nhóm các môn đệ vẫn còn là thực tế. Chính vì thế, tác giả
Phúc âm đã gom chúng vào trong một diễn từ, quảng diễn một chút cho phù hợp với
Giáo Hội "của ông", nghĩa là cộng đoàn của ông. Trước tiên, Đức Giêsu
miêu tả cộng đoàn các môn đệ của Ngài như một cộng đoàn đặc biệt quan tâm tới
những kẻ "bé nhỏ" tin vào Chúa, những Kitô hữu mà đức tin còn rất
mỏng manh (18,1-10) và lo lắng cho những "con chiên lạc, người Kitô hữu
tránh xa cộng đoàn và liều mình hư mất (18,12-14). Ngài trình bày một cộng đoàn
sống động thực hành sự nâng đỡ và tha thứ lẫn cho nhau. Đó là thái độ phải có
đối với một người "anh em" đã "phạm tội".. Đó là thái độ
phải có khi anh chị em bất hoà, xung khắc.
2….Thực hành sự tương
trợ và tha thứ lẫn cho nhau.
Sửa đổi anh em: một việc
làm có tính chất Tin Mừng. Chỉ có sự âu yếm của Người Mục Tử tốt lành mới làm
ta hiểu được hết chiều sâu của đoạn Phúc âm nói về người "anh em" đã
"phạm tội" này. Bản văn không nói về tính chất của tội, nhưng lời Đức
Giêsu cho thấy đó là một xúc phạm đến Thiên Chúa và xúc phạm đến một người anh
em, đó cũng là một việc liên quan đến Giáo Hội, cộng đoàn Kitô hữu. Qua những
luật lệ và các thực hành ít nhiều phịu ảnh hưởng của Do Thái giáo, việc xoá lỗi
anh em vừa giúp duy trì sự hài hoà trong Giáo Hội vốn bị đe doạ vì lỗi của một
thành viên trong cộng đoàn, vừa giúp che chở tội nhân khỏi những biện pháp khắc
nghiệt, vội vã. Vì thế tác giả Phúc âm nhấn mạnh trên yếu tố xem ra nền tảng
nhất đối với Ngài: đòi hỏi của Phúc âm về việc nâng đỡ, lòng thương xót và sự tha
thứ lẫn cho nhau. Chính tinh thần ấy đã làm phát sinh ra những cuộc vận động
tiệm tiến nhiều đợt nhằm chinh phục người anh em lầm lạc mà nếp sống làm tổn
tưởng sự duy nhất và chứng tá của toàn thể cộng đoàn Kitô hữu. Mục đích không
phải để hoà giải với một anh em như trong Luca 17,3, nhưng là để "chinh
phục"người anh em này, để đưa người ấy về với Chúa, đồng thời cũng về với
cộng đoàn mà anh đã xa lìa vì tội lỗi. Sửa lỗi anh em: một cuộc vận động tiệm
tiến. Bước 1, nói chuyện riêng, kín đáo giữa một người anh em với một người anh
em mà anh có quyền mong đợi sự giúp đỡ ngược lại trong trường hợp chính anh ta
lầm lỗi. Đó không phải là hạ nhục người tội lỗi, nhưng là giúp anh nhận ra lầm
lỗi. Bước 2: nếu bước 1 không đem lại kết quả mong đợi sẽ đến bước 2: gặp gỡ có
2 hoặc 3 chứng nhân, theo đề nghị của sách Đệ Nhị luật 19, 1 như đã từng dược
thực hành, dưới sự chứng giám của Phaolô, trong cộng đoàn tín hữu tại Côrintô
(2Cr 13,l). Sự hiện diện của các chứng nhân báo đảm cho tính khách quan, đồng
thời đưa vào đó 1 yếu tố cộng đoàn, dù luôn luôn kín đáo. Bước 3: nếu vẫn không
có kết quả, ta còn một phương thế cuối cùng: đưa ra trước Giáo Hội: "trình
bày sự việc trước cộng đoàn Giáo Hội". Nếu tội nhân từ chối nghe Giáo Hội,
thì, theo như bài Phúc âm, "ta hãy coi họ như người ngoại và người thu
thuế". Một công thức dứt khoát không phải là một khinh miệt hoặc kết án:
Đức Giêsu đã trở nên "bạn bè với những người thu thuế kia mà. Công thức ấy
chỉ tuyên bố rằng người tội lỗi tự loại trừ mình ra khỏi cộng đoàn và Giáo Hội
chỉ chứng nhận sự tách lìa này và sẵn sàng đón nhận lại người mà một ngày nào
đó, hy vọng thế, sẽ được ơn thánh thay đổi, giải phóng sửa lỗi anh em: một cuộc
vận động từ đầu đến cuối đều nhờ lời cầu nguyện của cộng đoàn. Lời cầu nguyện
theo dõi và yểm trợ tiến trình này từ đầu đến cuối. Lời cầu nguyện vẫn tiếp tục
cả khi tội nhân đã lìa xa Giáo Hội, van nài cho người anh em lầm lạc được ơn
hối cải. Đó là một lời cầu nguyện có sức nặng của sự hiện diện của Đấng đã hứa:
"Khi có 2, 3 người tụ họp lại nhân danh Ta, Ta ở giữa họ”? C. Tassin bình
luận: "Vì chính danh thánh Đức Giêsu đã qui tụ các tín hữu lại, nếu họ
thực sự tụ họp lại chỉ để hành động nhân danh Ngài trong những vấn đề khó, họ
chắc chắn họ sẽ có sự hiện diện chủ động và hiệu quả của Ngài. Vậy một coi sự
thực hành việc "sửa lỗi anh em" là một bổn phận của các cộng đoàn tín
hữu Ngài nhấn mạnh đến bầu khí cầu nguyện và ý chí hành động "nhân
danh" Đức Kitô. Chính Đức Kitô sẽ nối kết mọi người đã tham dư cuộc vận
động này".
BÀI ĐỌC THÊM:
1) Việc sửa lỗi anh em (Mgr. L. Daloz, Le
Règne des cieux s’est approché, DDB )
Đoạn Phúc âm này đưa ra một tiến trình hoà
giải một trường hợp tế nhị trong đời sống các cộng đoàn: "Phải lành gì khi
anh em ngươi phạm tội”. Câu trả lời không dễ Đức Giêsu nói gì? Hãy đi tìm nó và
trách móc! Đó không phải là cách hành động. Ta thường cho rằng đó là việc cá
nhân của người đó "vấn đề của nó" và rằng nó có tự do! Can thiệp, tìm
gặp và trách móc, chẳng phải là tôi đã pha mình vào những việc không có liên hệ
đến tôi, xen vào đời tư cá nhân; không kín đáo, không khoan nhượng, và liều
mình gây gổ với anh ta sao? Ngay trong mối tương quan giữa tín hữu với nhau, ta
vẫn thường hành xử như người đời quen làm trong xã hội. Ta không muốn pha mình
vào công việc của người khác, ta né tránh. Dĩ nhiên trước khi can thiệp ta phải
kiểm chứng xem có nên trách móc không, làm cách nào cho có kết quả. Hơn nữa xã
hội ta đang sống khác với xã hội thời Đức Giêsu. Ta ít cảm thấy liên đới hơn.
Tự do cá nhân là một cuộc chinh phục tương đối mới, và tuyên ngôn Nhân quyền là
một hiến chương phần lớn dựa trên những tự do cá nhân này. Ta không muốn phá
huỷ nó vì người khác và ta cũng không muốn người khác can thiệp vào đời sống,
tư cách của ta. Ta khó chịu khi có ai đến cho ta một bài học luân lý! Còn nữa,
thường thường điều mà ta không muốn nói trước mặt người khác, ta lại ít tế nhị
khi nói sau lưng họ...
Đức Giêsu đã nêu lên thái độ phải giữ trong
cộng đoàn môn đệ của Ngài. Ta không thể rập khuôn cách làm của ta theo những gì
diên ra chung quanh. Cảm thấy có liên hệ đến những hành vi của anh em, đó là
chuyện bình thường. Chính vì thế mà Đức Giêsu nói: Nếu anh em ngươi phạm tội...
Anh em ngươi, đâu phải là người xa lạ, ngươi không thể nói rằng tội lỗi của nó
không liên hệ gì tới ngươi. Vì sự sống của anh em ngươi, sự sống vĩnh cửu của
anh ta, liên đới ngươi lắm chứ. Khi yêu ai, ta đâu dửng dưng để mặc người ấy
lún sâu vào sự dữ. Ta sẽ tìm dịp cảnh tỉnh, giúp đỡ không làm anh ta phật lòng,
không la mắng anh. Lỗi khuyên dạy của Đức Giêsu giả thiết ta phải có mối liên
lạc huynh đệ. Phải chăng đó là vấn đề cần đặt ra cho đời sống cộng đoàn chúng
ta? Có tình thân rồi, ta có thể nói với nhau nhiều chuyện, giúp đỡ nhau nhiều
việc. Trách móc không có nghĩa là nói nặng lời, hung hăng, dữ tợn. Trái lại lời
khuyên của Đức Giêsu kêu gọi ta hành động với sự tế nhị: "Nếu anh em ngươi
phạm tội, hãy đi gặp và trách móc nó giữa hai người với nhau. Sự kín đáo của
cuộc vận động tránh đưa tội lỗi ra công khai. Điều này hoàn toàn phù hợp với
một mối liên lạc cá nhân, huynh đệ. Và Đức Giêsu nhấn mạnh đến mục đích của
cuộc vận động: đó là cứu lấy anh em, chinh phục anh em, để nó đừng hư mất: nếu
nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được một người anh em. Đó không phải là lời nói gắt
gỏng, của thói phê bình chỉ trích, hay đối nghịch. Đó không phải là từ ngữ hạ
nhục, là sự dò xét chế tài của kẻ bề trên. Ai tiến hành cuộc vận động ấy cũng
phải sẵn sàng đón nhận sự trách móc ngược lại.
2) Mô hình của mọi cuộc hoà giải trong Giáo Hội.
Trong chương 18 mà ta quen gọi là "diễn
từ về cộng đoàn các môn đệ", là sự miêu tả một tiến trình hoà giải trong
Giáo Hội tạo nên, một cách nào đó, mô hình căn bản cho mọi hoà giải trong Giáo
Hội. Đó là một tiến trình bao gồm cả gặp gỡ của cá nhân lẫn vận động của cộng
đoàn. “Nếu anh em ngươi phạm tội, hãy đến nói với nó..." (Mt 18,15). Một
cuộc hoà giải thực sự luôn luôn đòi có một tiếp xúc cá nhân bằng cách nào đó.
Giáo Hội luôn ý thức về tầm quan trọng của tiếp xúc này. Chính vì thế, ở mọi
thời, dù phép cáo giải có mặc hình thức nào đi nữa, vẫn luôn luôn dành chỗ cho
một đối thoại cá nhân. Một đối thoại như thế thường rất khó khăn - Chính Đức
Giêsu đã có kinh nghiệm đau đớn về điều đó - nhưng không phải vì thế bỏ cuộc:
"nếu nó không nghe ngươi, hãy nhờ 1 hoặc 2 ngươi khác đi với ngươi... nếu
nó từ chối nghe họ, hãy đưa ra cộng đoàn Giáo Hội..." (Mt 18,16-18). Hãy
ghi nhận sự tiệm tiến của những phương thế được sử dụng để thoát ra khỏi tình
trạng gãy dỗ: đó là phối hợp những cố gắng để nối lại đối thoại, nói lên sự
thực và tìm lại được sự hiệp thông. Chính nhờ cộng đoàn mà quyết định được thi
hành, trước mặt cộng đoàn mà sự hoà giải phải được ký kết. Trong trường hợp sự
hoà giải thất bại, Phúc âm nói tiếp: nếu nó từ chối nghe Giáo hội, hãy coi nó
như người ngoại hoặc như người thu thuế.... Rất nhiều nhà bình luận đã chú giải
lời nói như kết án, loại trừ này: nhưng ta có thể hiểu một cách hoàn toàn khác
hẳn, dưới ánh sáng của Phúc âm: vào thời Đức Giêsu, từ ngữ "ngoại
đạo" chỉ những người, tuy theo một đạo (thời đó ai mà không có đạo?) nhưng
vẫn chưa quay trở về với Thiên Chúa Hằng Sống và Chân thật còn về "những
người thu thuế vào thời chiếm đóng của đế quốc La-mã, họ khép mình trong một hệ
thống bất công. Tuy nhiên, trong Phúc âm ta thấy Đức Giêsu, dù người Do Thái
đạo đức lấy làm vấp phạm, vẫn ăn uống với những người thu thuế, dưới ánh sáng
của thái độ của Đức Giêsu, đối xử ai như "kẻ ngoại đạo và người thu thuế
là một lời mời gọi hãy có thái độ đồng hành với những người, mà vì lý do nào
đó, vẫn chưa có đức tin hoặc đóng kín trong sự bất công và không thể tự mình thoát
ra. Họ chưa đón nhận được Tin Mừng của một Thiên Chúa "không muốn kẻ tội
lỗi phải chết, nhưng muốn nó ăn năn ám hối và được sông (Ez 18, 23). Chính
trong bối cảnh cầu nguyện cộng đoàn mà sự hoà giải có thể được thực hiện. Điểm
cốt yếu trong cuộc vận động không gì khác hơn là ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ở
đây ta gặp lại lời tuyên bố long trọng: "Thật, Ta bảo thật các người, điều
gì các con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc và điều gì các còn cởi mở
dưới đất, trên trời cũng cởi mở (Mt 18,18). Lời nói đó được sử dụng để nói lên
uy quyền của Phêrô là đầu Giáo Hội (Mt 15,19). Nhưng Đức Giêsu nói thêm:
"... Ta lại bảo các ngươi: nếu hai người dưới đất hiệp ý với nhau" và
xin sự gì, Cha Ta trên trời sẽ ban cho họ (Mt 18,19-20). Đây không đơn thuần là
một giải quyết giữa anh em loài người, nhưng là cùng nhau đến trước tình yêu
Thiên Chúa, chỉ mình Ngài có quyền Trong một bối cảnh như thế, người thi hành
tác vụ hoà giải phải cư xử không phải như chủ nhân của sự tha thứ nhưng phải
như tôi tớ của sự tha thứ của Thiên Chúa mà chính đương sự là kẻ đầu tiên được
thụ hưởng. Trong lịch sử, mô hình Phúc âm này có lẽ đã được ứng dụng nhiều cách
khác nhau mà chúng ta đã phần nào được thừa kế.
19.
Suy niệm của Noel Quession
Đức Giêsu bảo các môn đệ:"Nếu người anh em của anh
trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó
chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình".
Đoạn Tin Mừng ngày hôm nay được trích từ bài
giảng lớn thứ tư của Đức Giêsu, theo cách bố cục Tin Mừng của Matthêu. Đây là
những giáo huấn về đời sống "cộng đoàn".
“Cộng đoàn" mà chắc chắn Matthêu nghĩ
đến chính là nhóm nhỏ Kitô hữu, tập hợp mỗi Chúa nhật để cữ hành Thánh Thể, và
tạo thành một Giáo hội địa phương. Ngay từ đầu, chúng ta nhận thấy tính chất
thực tế của Đức Giêsu: "Nếu người anh em của anh trót phạm tội…” Giáo hội
không phải là một cộng đoàn gồm những "người thanh khiết các thánh",
nhưng những "người tội lỗi". Đức Giêsu đã rất sáng suốt tiên liệu
rằng "các Kitô hữu không tốt hơn những người khác", như thỉnh thoảng
người ta vẫn nói. Giáo hội được tạo nên bởi những con người mỏng dòn như xã hội
thế tục. Đức Giêsu không mơ đến một Giáo hội không có vấn đề. Người sẽ đưa ra
một thủ tục để thử giải quyết những khó khăn mà có ngày sẽ phát sinh trong mọi
nhóm người.
Thật vậy điều Đức Giêsu nói ở đây có thể được
áp dụng cho mọi môi trường sống của chúng ta với một tỉ lệ nào đó:Gia đình,
nhóm, hiệp hội, nhóm bạn, các đồng nghiệp… Biết bao nhiêu là xung đột, căng
thẳng, chống đối nhau!
Đôi khi lúc mới khởi đầu, mọi sự xem ra đơn
giản và hài hòa. Và rồi với thời gian trôi qua, nhiệt tình xuống dần, nhóm có
nguy cơ tan rã nếu không ai quan tâm đến sự liên kết và hiệp thông.
Không một nhóm con người nào tránh được tội
lỗi, sự khốn khổ của con người... kể cả Giáo Hội!"Nếu anh em của anh trót
phạm tội…”
Phải làm gì, bây giờ?
Anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu
nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi của người anh em mình...
Chúng ta nhận thấy ngay, trong những chữ cô
đọng ấy bầu khí mà Đức Giêsu đặt chúng ta vào. Đó là một bầu khí của tình yêu
chứ không phải là của sự phán xét.
Than ôi, có những "vị quản giáo mắc
khuyết điểm" lẫn lộn hết mọi sự, và lúc nào cũng sẵn sàng lên lớp những
người khác trong một thái độ phê phán có hệ thống. Như thế là làm sai lạc tư
tưởng của Đức Giêsu, vì đã có xu hướng "buộc tội" và "đè
nặng" lên kẻ có tội. Tất cả Tin Mừng rõ ràng nói với chúng ta điều ngược
lại. Và văn cảnh trực tiếp của bài giảng này về cộng đoàn chỉ nói về sự tế nhị
và lòng nhân hậu đối với anh em mình. Ngay trước đoạn văn mà chúng ta đọc hôm
nay, Đức Giêsu đã kể lại dụ ngôn con chiên lạc: "Anh em hãy coi chừng, chớ
khinh một ai trong những kẻ bé mọn này… Hãy như người chăn chiên mất một con
chiên chạy đi tìm nó…Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai
trong những kẻ bé mọn này phải hư mất" (Matthêu 18,10-14). Và ngay sau bản
văn của chúng ta về sự sửa lỗi anh em, Đức Giêsu sẽ đòi hỏi Phêrô "tha thứ
bảy mươi lần bảy" (Matthêu 18,21-22) Kế đó Đức Giêsu sẽ lên án thái độ của
người đầy tớ không biết thương xót, không có trái tim, không biết tha thứ một
món nợ cho người bạn mình (Matthêu 18,23-35).
Như thế, chúng ta phải can thiệp, chỉ với một
bầu khí của tình yêu thương. Người ta chỉ có quyền phê bình một người anh em
nếu người ta " yêu thương người ấy!Toàn bộ Tin Mừng cao rao với chúng ta
Đức Giêsu nhân hậu với những người tội lỗi.
"Hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó..."
“Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình ..”
Người ta cảm thấy rằng Đức Giêsu rất muốn đó
là giải pháp cho sự xung đột. Khi một người được món lợi là anh em mình thì
trời cao sẽ xuống với đất?Đó chính là niềm vui của giải pháp ấy!
Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai
người nữa, để mọi công việc được giải quyết căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng
nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh.
Đức Giêsu thực hiện thêm một bước với biết
bao sự tế nhị tâm lý!
Trước tiên là mặt giáp mặt trong sự kín đáo,
để cho nếu có thể không ai biết có điều xấu và người phạm lỗi có thể giữ được
tiếng- tăm và danh dự của mình... và rồi, đến lúc phải đem theo một, hai anh em
khác là để tránh những phán đoán quá chủ quan trong đó người ta có thể đánh giá
sai lầm, và cũng để ý số đông tìm thấy những lập luận có thể thuyết phúc hơn.
Phải làm mọi sự để tránh sự hấp tấp và sự độc đoán.
Chỉ sau khi đã dùng hết cách khuyên nhủ,
người ta mới phải cắt bỏ một cách đau đớn.
Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như
một người ngoại hay một người thu thuế.
Công thức này đụng chạm đến chúng ta, nhất là
lại do Đấng là người ta đã gọi "bạn của những người thu thuế và những
người tội lỗi (Matthêu 1 1, 19). Sự lên án khắc khe này chỉ có thể hiểu được
một cách chính xác bởi người ta đã thử hết cách để cứu người anh em. Người ta
cũng có thể nói rằng chính người anh em đã tự mình loại mình ra khỏi cộng đoàn
với việc nhiều lần khước từ sửa lỗi. Đã ba lần, người ấy gạt bỏ bàn tay mà
người ta đã giơ ra cho người ấy. Sau khi đã nhẫn nại đem lại cho người ấy mọi
cơ may, cộng đoàn thấy mình bất lực đối với người anh em đó…
Nhưng phải nói thêm rằng, cả trong những
trường hợp tối hậu ấy, chúng ta không giảm bớt lòng yêu thương người ấy, kẻ tội
lỗi ấy... bới lẽ chúng ta phải yêu thương cả kẻ thù của mình (Matthêu 5,43~8).
Và Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai của Chúa nhật này, nhắc chúng ta rằng
"Anh em đừng mắc nợ gì ai, ngoài món nợ tương thân tương ái" một món
nợ không bao giờ trả hết (Rm 13,8).
Thầy bảo thật anh em:"Dưới đất, anh em cầm buộc
những điều gì trên trời cũng cầm buộc như vậy, dưới đất, anh em tháo cởi những
điều gì trên trời cũng tháo cởi như vậy.”
Đức Giêsu không bao giờ chỉ là một nhà luân
lý, một hiền giả, một nhà nhân bản. Những lời khuyên mà chúng ta đã nghe cho
đến nay là những nguyên tác tâm lý sơ đẳng, có giá trị đối với mọi quan hệ của
con người. Nhưng Đức Giêsu giờ đây đưa ra thêm một khía cạnh "thần
học". Người mạc khải một mầu nhiệm ẩn giấu. Thiên Chúa hiện diện trong
toan tính cứu vớt anh em mình... Thiên đàng liên quan với những gì xảy ra trên
mặt đất.
Ý muốn của Thiên Chúa là không một con chiên
nào bị hư mất, nên sự sửa lỗi anh em trở thành một con đường của lòng nhân hậu
của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, nhiều người chỉ khám phá sự tha thứ của Thiên Chúa
(trên trời) nếu họ khám phá sự tha thứ của anh em (dưới đất) được thực hiện bằng
một thái độ nhân bản của lòng yêu thương cứu độ.
Vại trò “cầm buộc và tháo cởi" mà Đức
Giệsu đã ban cho cá nhân Phêrô một vài ngày trước đó (Matthêu 16,19), cũng được
ban cho toàn thể cộng đoàn, trong cùng những từ ngữ (Matthêu 18,18). Giáo hội
là môi trường của lòng thương xót, nhân hậu. Những Kitô hữu đưa về Thiên Chúa.
Ôi trách nhiệm to lớn biết bao?
Giữa
"đất” và "trời” có sự tương giao?
Giữa
"thời gian" và "vĩnh cửu”, có sự tương giao?
Sự mạc khải của Đức Giêsu là ở điều này:Điều
mà người ta cầm buộc được hay tháo gỡ được ở trần gian này, trong lúc này...
được "cầm buộc" hoặc "tháo gỡ" nơi Thiên Chúa mãi mãi…
Và không chỉ cho chúng ta, nhưng cũng cho
những người khác Giáo Hội là một cộng đoàn ở đó mỗi người chịu trách nhiệm về
đời sống Đức Tin của anh em mình. Chúng ta có thật sự gánh trách nhiệm cho nhau
không?Giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái?Thông thường, chúng ta hay -hèn
nhát chúng ta không quan tâm đến đức tin của những người khác, Một vấn đề thời
sự nóng bỏng... Biết bao đứa trẻ đã từ bỏ đức tin của cha mẹ chúng. Biết bao
anh em dường như đi theo con đường rời bỏ cộng đoàn đức tin..
Vậy có nên tuyệt vọng không?
Thầy còn bảo thật anh em: "Nếu ở dưới đất, hai người
trong anh em hợp lời- cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời,
sẽ ban cho"
Đức Giêsu lặp lại công thức nhấn mạnh long
trọng:Thầy còn bảo thật anh em!Công thức ấy thường chỉ một mạc khải về mầu
nhiệm đức tin, được che khuất khỏi sự nhận xét của con người. Và Đức Giêsu trở
về chủ đề về sự tương quan giữa "đất" và "trời".
Có nên tuyệt vọng khi chúng ta không
"nhìn thấy" kết quả của những nỗ lực đối với những anh em, tội lỗi từ
chối sống đời thánh thiện theo ơn gọi Kitô hữu của họ? ít ra bề ngoài là như'
thế? Đức Giêsu đáp lại "không" với chúng ta!
Bỏ vì, Người nói, cộng đoàn - Giáo Hội không
phải là một hiệp hội như – những hiệp hội khác. May mắn thay!
Cộng đoàn đức tin này ít lệ thuộc vào những
nỗ lực của con người để có thể kết thúc bằng sự thất bại mà lệ thuộc nhiều hơn
vào: Chúa Cha, Đấng ngự trên trời. Đức Giêsu yêu cầu chúng ta phải tin vào hiệu
quả... ẩn giấu ở trên trời của lời cầu nguyện, những hiệu quả mà những phương
tiện thông thường của con người không thể nhận thấy được. Sự cầu nguyện ấy
không phải là sự lười biếng, bởi vì người ta đã làm hết sức trước đó. Nhưng là
phương sách cuối cùng Đức Giêsu khẳng định với chúng ta phải tin vào hiệu quả
của phương sách đó. Đối với nhiều bậc cha mẹ trong gia đình, lời nói ấy của Đức
Giêsu phải là ánh sáng quyết định mặc dù không kiểm chứng được... "Nếu ở
dưới đất hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì thì lời cầu
nguyện của họ sẽ có hiệu quả với Chúa Cha; Đấng ngự trên trời"…
Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy thì có
Thầy ở đấy giữa họ.
Không, Giáo hội, cộng đoàn những người tội
lỗi như mọi người khác, không phải là một hiệp hội như các hiệp hội khác:Đức
Giêsu sống lại với tất cả quyền năng tinh thần của Thiên Chúa ở đấy giữa những
người quy tụ nhân danh Người. " '
Rõ ràng chúng ta không còn ở trong lãnh vực
luân lý xã hội học, hay nhân bản. Chúng ta ở trong lãnh vực đức tin. Sự thống
nhất của Giáo Hội ở bên trên những xung đột chia rẽ con người. Mọi nỗ lực hòa
giải luôn phải được thực hiện. Nhưng khi những bàn tay chúng ta đưa ra không
được tiếp nhận, thì chúng ta vẫn phải tin rằng điều mà con người không làm
được, Thiên Chúa làm được" (Mt 17,20-19.26; Lc 1,37).
Một giấc mơ điên rồ chăng? Một ảo tưởng không
có thật chăng? Không phải thế! Nhưng đó là một bí quyết tuyệt vời của chủ nghĩa
lạc quan đi đến mức tin rằng không môt người nào, không một hoàn cảnh nào mà
sau cùng không thể cứu vãn được (1Cr 8,11).
"Người anh em này mà Đức Kitô đã chịu
chết để cứu chuộc...". Làm thế nào mà chúng ta lại thất vọng vì người ấy.
20.
Sửa lỗi tha nhân - Lm Đan Vinh
I. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
Ý CHÍNH: NẾP SỐNG CỘNG
ĐOÀN.
Tin Mừng hôm nay mô tả nếp sống cộng đoàn Hội
Thánh là các thành viên phải yêu thương nhau, thể hiện qua việc tế nhị sửa lỗi
cho nhau và cùng cầu nguyện chung với nhau:
- TẾ
NHỊ SỬA LỖI CHO NHAU (c 15-18): Khi có người nào trong cộng đoàn sai lỗi, thì
do tình thương thúc đẩy, các tín hữu có bổn phận phải sửa lỗi cho họ. Muốn việc
sửa lỗi đạt được kết quả tốt đẹp thì người sửa lỗi phải tỏ ra tế nhị và kiên
nhẫn sửa lỗi qua 4 giai đoạn sau: Trước hết phải gặp riêng giữa hai người. Nếu
không kết quả thì đưa thêm hai nhân chứng theo. Nếu kẻ có lỗi vẫn cố chấp không
nghe thì hãy đưa ra trước cộng đoàn. Nếu họ không chịu nghe cộng đoàn thì hãy
kể họ như người ngoại giáo, và phó thác họ cho lòng nhân từ của Thiên Chúa.
- CÔNG
HIỆU CỦA LỜI CẦU NGUYỆN CHUNG (c 19- 20): Đức Giê-su khuyên các tín hữu
nên hiệp nhất cầu nguyện chung trong một cộng đoàn. Mỗi lần hội họp nhau với
trong tình yêu thương thì Đức Giê-su hứa sẽ ở giữa họ và lời cầu xin của cộng
đoàn sẽ dễ được chấp nhận.
CHÚ THÍCH:
- (c 15) Nếu người anh em của anh trót phạm
tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được cả món
lợi là người anh em mình:
· Người anh em: ở đây
là anh em thiêng liêng cùng trong một cộng đoàn đức tin (x Mt 23,8; 28,10).
· Phạm tội: Không nhất
thiết là tội phạm đến người sửa lỗi, nhưng là những lỗi nặng nề, công khai,gây
gương mù gương xấu và làm tổn thương đến cộng đoàn. Câu này cho thấy Hội Thánh
không chỉ bao gồm những người hoàn thiện, mà còn có cả những tội nhân nữa.
· Hãy đi sửa lỗi nó: Ở
đây Đức Giê-su dạy phải đi sửa lỗi cho kẻ có tội do đòi hỏi của đức bác ái. Vì
mỗi thành viên trong cộng đoàn đều có trách nhiệm liên đới với đời sống đạo đức
của anh em mình. Sự sửa lỗi này không mâu thuẫn với lời dạy về việc phải tránh
xét đoán anh em và đừng đòi lấy cái rác ra khỏi mắt anh em, đang khi có cả cái
xà trong mắt mình (x Mt 7, 1-5). Như vậy sửa dạy không phải là sự khiển trách
hay la mắng miệt thị, mà là do tình yêu thương. Do đó, cần tạo điều kiện để tội
nhân nhận ra tội mình và thành tâm sám hối.
· Một mình anh với nó
mà thôi: Đây là sửa lỗi cá nhân, nhằm tôn trọng và giữ thể diện cho kẻ có tội.
Nếu cách này không hiệu quả thì mới sử dụng tới cách khác hiệu quả hơn.
· Được món lợi là người
anh em mình: Món lợi ở đây không có nghĩa là "có lời" thêm được một
người bạn hay là chiến thắng được một đối thủ. Nhưng là giúp cho Hội Thánh khỏi
bị mất đi một thành viên.
- (c 16) Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy
đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào
lời hai hoặc ba chứng nhân:
Chỉ thị này nhấn mạnh đến sự kiên nhẫn phải
có đối với những tội nhân bướng bỉnh cố chấp. Việc đem theo một hoặc hai người
nữa là để tội nhân ý thức hơn về tội của mình, như luật Mô-sê đã dạy: "Một
nhân chứng duy nhất không thể đứng lên buộc tội một người về bất cứ tội lỗi
nào. phải căn cứ vào lời của hai hay ba nhân chứng, sự việc mới được cứu
xét" (Đnl 19,15). Tuy nhiên, chỉ thị của Đức Giê-su nói đây không phải là
nhân chứng buộc tội, nhưng là những người trợ lực có uy tín, để giúp tội nhân
dễ dàng sửa lỗi.
- (c 17) Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi
thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một
người ngoại hay một người thu thuế:
· Đi thưa Hội Thánh:
tức là đi thưa với Hội Thánh địa phương, vì Hội Thánh đã được Chúa ban cho quyền
cầm buộc và tháo cởi (x Mt 18,18). Đưa ra Hội Thánh không phải để bị xét xử,
nhưng để tỏ lòng sám hối và sẽ được ân xá. Nhưng nếu kẻ đó vẫn cố chấp không
chịu sửa lỗi, thì tức là đã tự loại mình ra khỏi Hội Thánh, và từ đây không còn
là thành viên của Hội Thánh nữa.
· Kể nó như một người
ngoại: Nếu kẻ có tội cố chấp không muốn ở trong Hội Thánh, thì sẽ được kể là
“dân ngoại hay người thu thuế “, nghĩa là ở ngoài Hội Thánh, là người đang sống
trong sự lầm lạc về đức tin và luân lý. Từ nay Hội Thánh không còn trách nhiệm
trực tiếp phải lo cho họ nữa, nhưng chỉ còn biết phó thác họ cho lòng nhân từ
thương xót của Thiên chúa.
- (c 18) Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh
em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh em
tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy:
· Dưới đất anh em cầm
buộc những điều gì: Đức Giê-su trao cho Nhóm Mười hai cũng một thứ quyền cầm
buộc và tháo cởi đã trao cho ông Phê-rô trước đó (x Mt 16,19). Nhờ đó, Hội
Thánh có thể thiết lập luật lệ cho các tín hữu về các vấn đề có liên quan đến
cả tòa trong cũng như tòa ngoài. Khi trao quyền cầm buộc tháo cởi cho Nhóm Mười
Hai, Đức Giê-su không bãi bỏ quyền của Phê-rô để ban chung cho Hội Thánh. Nhưng
Người chỉ muốn các môn đệ được liên kết với Phê-rô như người đứng đầu.
· Dưới đất, anh em tháo
cởi những điều gì …: "Mọi phán quyết của Hội Thánh về đức tin và luân lý
đã được Đấng kế vị thánh Phê-rô công bố ở trần gian, thì cũng sẽ được Chúa phê
chuẩn ở trên trời".
- (c 19) Thầy còn bảo thật anh em: Nếu ở dưới
đất, hai người trong anh em họp lời cầu nguyện bất cứ điều gì, thì Cha Thầy,
Đấng ngự trên trời sẽ ban cho:
Lời cầu nguyện của mỗi người ở trong phòng
kín là cách cầu nguyện khiêm tốn làm đẹp lòng Chúa (x Mt 6,6). Nhưng lời cầu
nguyện chung của hai ba người họp lại với nhau lạicàng đẹp lòng Chúa hơn và dễ
được Chúa Cha chấp nhận hơn. Cầu nguyện chung là một phương thức co võ và duy
trì đức ái và sự hiệp nhất cộng đoàn. Tóm lại, khi hội họp với nhau, các tín
hữu cần lưu ý hai điều quan trọng: Một là phải họp nhau trong sự bác ái và hiệp
nhất cầu nguyện chung. Hai là phải nhân danh Đức Giê-su, nghĩa là họp nhau để
uy trì sự đồng tâm nhất trí xây dựng Hội Thánh và phục vụ cho Tin Mừng ngày một
lan rộng.
- (c 20) Vì ở đâu có hai ba người họp lại
nhân danh Thầy, thì Thầy ở đấy, giữa họ:
· Hai ba người họp lại
nhân danh Đức Giê-su: Đây không phải là ự họp nhau để vui vẻ ăn nhậu với nhau
và mang tính thế tục, nhưng là hội họp nhau nhân danh Đức Giê-su, trong niềm
cậy trông vào Thiên Chúa, để nghe lời Đức Giê-su phán dạy dưới ơn soi sáng và
hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.
· Có Thầy ở đó với họ:
Trong thời Cựu Ước, Đức Chúa luôn hiện diện ở giữa dân Người dưới hìng dạng cột
mây đậu trên Nhà Tạm ban ngày và ban đêm thì có lửa trong cột mây đó (x Xh
40,34-38). Người cũng hứa sẽ hiện ra với dân Is-ra-en trong đám mây trên nắp xá
tội của Hòm Bia giao ước (x Lv 16,2). Đến thời Tân Ước, không những Đức Giê-su
hứa sẽ hiện diện mỗi khi cộng đoàn họp nhau cầu nguyện, mà cả khi họ hội họp
nhau nhân danh Người. Người hiện diện để giúp cộng đoàn xây dựng tình yêu
thương hiệp nhất, giúp họ sửa lỗi cho nhau, hòa giải giữa những kẻ đang bất
bình chia rẽ nhau, để sau đó mọi người lại được hiệp thông với nhau và dễ dàng
quan tâm phục vụ lẫn nhau.
II. HỌC SỐNG LỜI
CHÚA:
1. LỜI CHÚA:
-
"Nếu
người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với
nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em
mình" (Mt 18,15).
-
"Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em
hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời sẽ ban cho. Vì
ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ"
(Mt 18, 19-20).
2. CÂU CHUYỆN:
NGÔN SỨ NA-THAN SỬA
LỖI VUA ĐA-VÍT.
Đức Chúa sai ông Na-than đến với vua Đa-vít.
Ong vào gặp vua và nói với vua: "Có hai người trong cùng một thành, một
người giàu một người nghèo. Người giàu thì có chiên dê và bò nhiều lắm. Còn
người nghèo chẳng có gì cả, ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua. Ong
nuôi nó và nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông. Nó ăn chung bánh với
ông, uống chung chén với ông, ngủ trong lòng ông, ông coi nó như một đứa con
gái. Có khách đến thăm người giàu. Ong này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò
của mình mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm. Ong lại đi bắt con chiên cái
của người nghèo mà làm thịt đãi người đến thăm ông". Vua Đa-vít bừng bừng
nỗi giận với người ấy và nói với ông Na-than: "Có Đức Chúa hằng sống! Kẻ
nào làm điều ấy thật đáng chết! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã
làm chuyện ấy và đã không có lòng thương xót". Ong Na-than nói với vua
Đa-vít: "Kẻ đó chính là ngài! Đức Chúa, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế
này: "Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai trị Ít-ra-en. Chính Ta
đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un. Ta đã ban cho ngươi nhà của chúa thượng
ngươi, và đặt các người vợ của chúa thượng ngươi vào vòng tay ngươi. Ta đã cho ngươi nhà Ít-ra-en và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu mà còn quá ít, thì Ta
sẽ ban thêm cho ngươi gấp mấy lần như thế nữa. Vậy tại sao ngươi lại khing dễ
lời Đức Chúa mà làm điều dữ trái mắt Người? Ngươi đã dùng gươm đâm U-ri-gia
người Khết. Vợ
y ngươi đã cướp làm vợ ngươi. Còn chính y, ngươi đã dùng gươm của con cái
Am-mon mà giết. Ay vậy, gươm sẽ không bao giờ ngừng chém người nhà của ngươi,
bời vì ngươi đã khinh dễ Ta và cướp vợ của U-ri-gia người Khết, làm vợ ngươi.
Đức Chúa phán thế này: Ta sắp dùng chính nhà
của ngươi mà gây họa cho ngươi. Ta sẽ bắt các vợ của ngươi trước mắt ngươi mà
cho một người khác, và nó sẽ nằm với các vợ của ngươi giữa thanh thiên bạch
nhật. Thật vậy, ngươi đã hành động lén lút, nhưng Ta, Ta sẽ làm điều ấy trước
mặt toàn thể Ít-ra-en và giữa thanh thiên bạch nhật”. Bấy giờ vua Đa-vít nói
với ông Na-than: "Tôi thật đã đắc tội với Chúa" (2 Sm 12,1-13).
Phương cách ngôn sứ Na-than sửa lỗi cho vua
Đa-vít trong câu chuyện trên thật tế nhị và đầy bác ái. Na-than xứng đáng đại
diện cho Thiên Chúa để sửa dạy các tội nhân. Đây cũng là gương mẫu cho chúng ta
khi sửa lỗi cho kẻ có tội theo tinh thần Đức Giê-su muốn dạy hôm nay.
NGƯỜI MÙ LẠI SỬA LỖI CHO NGƯỜI SÁNG MẮT.
Chuyện xưa kể rằng: Có một người mù đi trong
đêm tối. Một tay anh ta xách theo chiếc đèn đang cháy sáng. Tay
kia anh giữ chiếc bình sành đang đội trên đầu. Một người đi đường thấy vậy thì
cho là anh mù ngốc nghếch, nên đứng lại vừa cười vừa hỏi rằng: "Này anh mù
ngốc kia ơi! Đối với người đui như anh thì ban ngày có khác gì ban đêm mà sao
anh lại phải cầm đèn theo mình làm chi cho vất vả như thế?". Người mù liền
ôn tồn trả lời: "Thật ra tôi mù nên không cần cây đèn này. Nhưng tôi cầm theo
vì nó rất cần cho những người sáng mắt các anh. Để trong đêm tối khi các anh
không thấy gì sẽ không đụng vào tôi và có thể làm bể chiếc bình sành qúy giá
của tôi đang đem theo đây".
Người sáng mắt trong câu chuyện trên tượng
trưng cho loại người kiêu ngạo, luôn khinh thường người khác, nên thường hay
chê bai những người xem ra thua kém mình. Nhưng anh ta đâu ngờ, chính người mù
lại dạy cho anh thấy được sự giới hạn của mình. Bằng việc cầm chiếc đèn đang
cháy sáng đi trong bóng đêm, người mù không nhằm tránh cho mình khỏi bị vấp
ngã. Vì đối với người mù thì đêm cũng chẳng khác gì ngày. Nhưng anh lo cho
người sáng mắt, trong bóng tối không thấy, nên có thể đụng vào anh, làm bể
chiếc bình sành anh đang mang trên đầu.
CÁCH SỬA LỖI TẾ NHỊ CỦA MỘT VỊ GIÁM
MỤC.
Ngày kia có một vị giám mục có dịp ghé thăm
dân chúng trong một ngôi làng nọ. Khi gặp ngài, dân làng đã bày tỏ sự bất bình
đối với một vị tu sĩ kia đang sống trên núi lén lút với một phụ nữ. Sau đó họ
yêu cầu ngài đi kiểm tra thực tế. Vị tu sĩ từ xa thấy đám đông đang tiến đến
gần chỗ mình thì hoảng sợ. Ong bảo người phụ nữ sống chung tạm trốn trong một
chiếc thùng gỗ để bên cạnh cửa ra vào. Khi đến nhà tu sĩ, vị giám mục yêu cầu
dân chúng đứng chờ bên ngoài để ngài vào trước một mình xem sao. Sau khi bắt
tay chào hỏi vị tu sĩ, giám mục đưa mắt quan sát và đã hiểu rõ sự việc. Bấy giờ
ngài thản nhiên đến ngồi lên trên chiếc thùng gỗ kia và mời dân làng cùng vào
trong nhà. Nhưng sau khi tìm kiếm từ trong ra ngoài nhà mà không thấy ai, dân
làng đành buồn bả ra về. Chờ cho mọi người về hết, bấy giờ vị giám mục mới nhìn
vào mặt tu sĩ và nghiêm nghị nói với ông ta rằng: "Này người anh em. Hãy
cẩn thận giữ lấy linh hồn của mình!".
Nói ít hiểu nhiều, vị tu sĩ kia đã nhận ra
lỗi của mình và rất biết ơn vị giám mục đã thương và che chở mình. Từ ngày đó
ông đã thay đổi để sống phù hợp với nếp sống của một tu sĩ hơn.
3. SUY NIỆM:
Hội Thánh gồm các tín hữu có đức tin và đã
thánh hoá nhờ các bí tích. Nhưng bao lâu còn ở trần gian, các tín hữu vẫn có
thể sai lỗi như bao người khác. Họ có thể sai lầm và phạm phải những tội lỗi
gây gương mù gương xấu và nên cớ vấp phạm cho người ngoài. Tuy nhiên, không
phải Hội Thánh cứ thấy con cái sai lỗi là phạt ngay. Bài Tin Mừng hôm nay gợi
cho chúng ta thái độ phải có đối với những anh chị em trong cộng đoàn khi họ
sai lỗi, để sao cho vừa giữ được đức bái ái lại vừa đem lại hiệu quả giúp tội
nhân nhận ra lỗi lầm mà thành tâm sám hối và tu sửa nên tốt hơn.
SỬA LỖI LÀ MỘT HÀNH VI BÁC ÁI YÊU THƯƠNG:
Đức Giê-su dạy các tín hữu chúng ta không
được im lặng khi thấy anh chị em mình có lỗi, nhưng phải mạnh dạn và thẳng thắn
góp ý để giúp họ nhận ra lỗi lầm mà sửa đổi (x Mt 18,15)..Vì Thiên Chúa không
muốn cho những kẻ có tội phải chết, nhưng muốn họ ăn năn sám hối va được sống.
Nhiều khi chúng ta không dám thẳng thắn sửa lỗi vì sợ làm cho họ tức giận hay
sợ sẽ bị mất quyền lợi, hoặc sợ bị ám hại. Im lặng như thế là đồng lõa. Tuy
nhiên, cần phân biệt góp ý sửa lỗi với thái độ tọc mạch, "vạch lá tìm sâu,
bới lông tìm vết", hoặc kiêu ngạo muốn lên mặt dạy đời, như người ta
thường nói: "Chân mình những lấm bê bê. Lại cầm bó đuốc mà rê chân
người". Hay như lời Chúa quở trách thái độ kiêu căng của các Biệt Phái và
Luật sĩ Do thái: "Sao anh thấy cái rác trong con mắt của người anh em, mà
cái xà trong con mắt của mình thì lại không để ý tới? Sao anh lại nói với người
anh em: Hãy để tôi lấy cái rác ra khỏi mắt bạn, trong khi có cả một cái xà
trong con mắt anh? Hỡi kẽ đạo đức giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt anh trước đã, rồi
anh sẽ thấy rõ, để lấy cái rác ra khỏi mắt người anh em" (Mt 7,3-5).
Nhưng sửa lỗi là một hành động yêu thương,
giống như cha mẹ vì thương con nên mới sửa dạy: "Yêu cho roi cho vọt, ghét
cho ngọt cho bùi". Thấy một người đang đi vào con đường nguy hiểm mà cứ im
lặng không cảnh báo để họ biết đường đề phòng hay kịp thời quay trở lại, thì đó
là một hành vi lỗi đức bác ái nghiêm trọng. Thấy một người làm sai có thể gây
thiệt hại cho bản thân và người khác mà không kịp thời ngăn chặn thì đó chính
là một tội ác!
NGHỆ THUẬT SỬA LỖI THA NHÂN:
Tuy nhiên, sửa lỗi tha nhân cũng giống như
bác sĩ giải phẫu một khối u ác tính. Nếu thiếu kinh nghiệm hay làm không khéo
thì không những không hiệu quả mà còn gây thiệt hại cho những bộ phận khác
trong thân thể. Cũng vậy, sửa lỗi cho anh em chính là một nghệ thuật, đòi người
ta phải tuân theo một số kỹ thuật. Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su dạy phải
sửa lỗi cho anh em cách tế nhị, kín đáo và kiên nhẫn.
· Tế nhị tức là phải
đặt mình vào hoàn cảnh của người bị sửa lỗi, để làm cho họ khỏi bị bẽ mặt xấu
hổ.
· Kín đáo là phải góp ý
riêng tư không để người thứ ba được biết.
· Kiên nhẫn là không
nóng vội khi thấy người kia cố chấp bướng bỉnh, không chịu nhận lỗi. 9ức Giê-su
dạy ba bước phải làm khi sửa lỗi anh em: Bước thứ nhất là gặp riêng giữa ta và
người có lỗi. Nếu họ không nghe thì sang bước thứ hai là mang theo một hoặc hai
nhân chứng, không phải để làm áp lực, nhưng là để công việc được sáng tỏ và
khách quan hơn, nhờ lời của một hợac hai nhân chứng, gọi là "Ba mặt một
lời". Nếu họ vẫn cố chấp không nghe, thì mới sang bước thứ ba là đưa ra
cộng đoàn. Không phải để xét xử, nhưng để lấy thế giá của cộng đoàn luôn có
Chúa hiện diện mà khuyên bảo họ (x Mt 18,20). Nếu họ vẫn cố chấp không nghe
cộng đoàn, thì bấy giờ họ đã tự loại mình ra khỏi Hội Thánh, từ đây không còn
được mang danh nghĩa là "anh em" và không còn là thành viên của Hội
Thánh. Cũng giống như một chi thể bị hoại tử, nếu giữ lại sẽ hại lây sang các
chi thể khác, nên cần được cắt bỏ càng sớm càng tốt. Bấy giờ họ được kể vào
thành phần "dân ngoại và thu thuế", nghĩa là họ không còn ở trong Hội
Thánh. Từ đây Hội Thánh không chịu trách nhiêm trực tiếp đối với họ nữa, và chỉ
còn biết phó thác số phận của họ cho lòng nhân từ và thương xót của Thiên Chúa.
THẤY NGƯỜI LẠI NGHĨ ĐẾN TA:
Góp ý sửa lỗi anh em là một bổn phận do tình
yêu thương thôi thúc. Nhưng bản thân mỗi người chúng ta cũng cần được người
khác góp ý sửa lỗi. Một cộng đoàn trưởng thành là một cộng đoàn có khả năng
ngồi lại để góp ý cho nhau. Trong mỗi cộng đoàn tu sĩ, mỗi hội đoàn hay mỗi giáo
xứ rất cần có những lúc ngồi lại để phê bình góp ý xây dựng nhau trong tình yêu
thương. Cần làm sao cho lời góp ý của chúng ta phát xuất từ tình thương, chứ
không do ghen ghét đố kỵ hay ác cảm cá nhân. Cần có đủ sự khiêm tốn để sẳn sàng
lắng nghe những lời phê bình góp ý của anh em, và ngay cả phê bình mạt sát của
những kẻ thù ghét ta. Nhiều khi chúng ta nghĩ rằng: Hãy chịu đựng nhau cho
xong, hãy sống "dĩ hòa vi quý". Nhưng nếu như vậy sẽ xảy ra tình
trạng trì trệ và không thể tiến bộ được. Bấy giờ người ta sẽ đối xử với nhau
"bằng mặt chứ không bằng lòng". Bầu khí cộng đoàn trở nên ô nhiễm do
sự lạnh nhạt và thủ thế giữ kẽ với nhau. Chính việc dám đối diện với thực tế
nhiều khi phủ phàng, dám chấp nhận sự mổ xẻ đau đớn, sẽ làm cho đời sống chúng
ta ngày một tốt lành thánh thiện hơn, cộng đoàn sẽ có được bầu khí vui tươi
thật sự, phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa và sự hiện diện thực sự của Đức Ki-tô
như Người đã nói: "Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có
Thầy ở đấy, giữa họ" (Mt 18,20).
4. THẢO LUẬN:
1.-
Bạn đã bị ai khác phê bình góp ý chưa? bạn cảm thấy thế nào khi bị người khác
nói về sai lỗi khuyết điểm của mình?
2.-
Góp ý sửa lỗi cho người khác có phải là một việc làm cần thiết hay không? Tại
sao?
3.-
Khi thấy người trên có một lỗi nghiêm trọng, ta nên góp ý sửa lỗi thế nào để
vừa kết quả tốt, vừa tránh được quan hệ căng thẳng giữa người đó với ta sau
này?
4.-
Khi làm việc trong một công sở hay một công ty mà cả tập thể từ trên xuống dưới
đều đồng lòng thâm lạm công quỹ để chia nhau. Vậy ta phải khôn ngoan cư xử thế
nào để tránh khỏi bị đào thải và giữ được sự công bình cần thiết?
III. HIỆP SỐNG CẦU
NGUYỆN
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xưa Chúa cũng đã từng có
những người bạn thân là ba chị em mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô ở làng Bê-ta-ni-a
(x Ga 11,5.11). Chúa không còn coi các môn đệ là tôi tớ, nhưng là bạn hữu nghĩa
thiết, để chia sẻ mọi sự của Chúa có cho các ông (x Ga 15,15). Hôm nay chúng
con tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con những người bạn thân, để nâng đở chúng con
trên đường đời.
LẠY CHÚA, dù giữa chúng con còn có nhiều khác
biệt, nhưng xin Chúa hãy hiệp nhất chúng con nên một, trong tình yêu của Chúa.
Xin cho chúng con biết thật tình yêu thương nhau, biết chia sẻ cho nhau những
niềm vui nỗi buồn, biết nâng đỡ an ủi nhau khi bị vấp ngã thất bại, biết động
viên khen ngợi nhau trong những lúc thành công, luôn khích lệ nhau cố gắng vươn
lên, và nhất là thẳng thắn góp ý xây dựng cho nhau để cùng thăng tiến. Xin cho
chúng con trở nên bạn hữu nghĩa thiết của Chúa, nhờ năng học hỏi suy niệm lời Chúa,
để từ đó, chúng con có thể trở thành bạn thân của mọi người thiện chí.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. - Đ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.
2) LẠY MẸ MA-RI-A. Xin
cho chúng con biết mở rộng vòng tay để tiếp nhận những người bạn mới, xin cho
chúng con đừng chỉ muốn làm bạn với những ai giống mình, nhưng sẵn sàng tiếp
xúc với hết mọi người, kể cả những kẻ đã từng chỉ trích nói xấu con. Xin cho chúng con
biết quảng đại cho đi và cũng biết khiêm nhường nhận lãnh.
LẠY MẸ. Mỗi lần đến với tha nhân, xin cho
chúng con biết đem Chúa là niềm vui và hạnh phúc đến với họ, như Mẹ đã làm khi
đến thăm gia đình Gia-ca-ri-a. Xin cho chúng con mỗi khi nói chuyện với kẻ
khác, không phải chỉ dành nói về mình, mà còn biết kiên nhẫn lắng nghe để hiểu
nhu cầu và tâm tư của người khác. Xin cho chúng con mỗi lần nói chuyên, không
chỉ biết khoe khoang thành tích của mình, nhưng còn biết khiêm nhường học hỏi
những ý tưởng tốt đẹp của người khác. Nhờ đó tâm hồn chúng con sẽ ngày một
phong phú hơn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A. -Đ ) XIN CHÚA NHẬM
LỜI CHÚNG CON.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét