ĐỨC PHANXICÔ 16 TUỔI |
ĐỨC PHANXICÔ DÙNG BỮA VỚI NGƯỜI NGHÈO |
GX. LÀO CAI, BẢO YÊN MỪNG CHA MINH LỄ TẠ ƠN |
GX. LÀO CAI, BẢO YÊN MỪNG CHA MINH LỄ TẠ ƠN |
GX. LÀO CAI, BẢO YÊN MỪNG CHA MINH LỄ TẠ ƠN |
GX. LÀO CAI, BẢO YÊN MỪNG CHA MINH LỄ TẠ ƠN NHÀ Ô BÀ CỐ |
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN - A
1. Chủ vườn nho.
Chúa Giêsu có thói quen dùng những sự
kiện cụ thể xuất phát từ đời sống để xây dựng những câu chuyện có tính cách
giáo huấn: Nào là mùa nho tới cần phải hái mau. Nào là những người thất nghiệp
không có công ăn việc làm. Nào là số tiền lương một đồng tươi xứng với mức sống
tối thiểu.
Từ đó, Chúa Giêsu đã kể lại câu chuyện
dụ ngôn ngày hôm nay, và qua câu chuyện này Ngài muốn làm cho chúng ta hiểu
rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các ông chủ trên trái đất
này. Họ có bổn phận giữ sự công bằng với thợ thuyền. Còn Thiên Chúa, Ngài không
có một bổn phận như thế đối với loài người vì Ngài đứng ở bên kia sự công bằng
của loài người, một sự công bằng được giới hạn bởi những gì chúng ta mắc nợ.
Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ
có một số tiền công tương xứng của một ngày và không có gì hơn. Đồng thời với
sức cố gắng của một giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương
xứng với một giờ, và cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có
lòng nhân từ. Và lòng nhân từ thì không có giới hạn nào hơn là khả năng ban
phát.
Thiên Chúa là Đấng nhân từ vô cùng,
Ngài có khả năng vô biên. Lòng nhân từ thì đi xa hơn lẽ công bằng. Và lòng nhân
từ của Chúa còn đi xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên
Chúa cần tới các tay thợ để hái quả trong vườn nho của Ngài. Một sự công bằng
tối thiểu được bảo đảm nếu họ quyết tâm ở lại trên bình diện ấy. Nhưng Thiên
Chúa còn biếu thêm nữa nếu họ có tấm lòng rộng lớn.
Dụ ngôn này nhắc cho chúng ta tránh đi
cách suy nghĩ về Thiên Chúa theo cách thức của loài người, nhất là trong thời
buổi hiện nay, một thời buổi đang cố gắng kéo Phúc Âm xuống ngang hàng với
những tư tưởng của loài người. Sứ điệp của Tin Mừng là tình yêu, là lòng nhân
từ, và khía cạnh chính yếu của nó là sự tự do. Trong khi đó sự công bằng thì bị
ràng buộc bởi bổn phận và những gì chúng ta mắc nợ người khác.
Thực vậy, tình yêu và lòng nhân từ thì
không bị ràng buộc bởi kết ước. Điều chính yếu đó là ban phát mà không cần đáp
trả, một sự ban phát hoàn toàn có tính cách nhưng không. Chỉ cần chúng ta biết
đón nhận mà thôi. Hơn nữa, sứ điệp của Phúc Âm đã làm xáo trộn cách thức suy
nghĩ cũng như nếp sống của con người. Dụ ngôn trước hết làm cho bọn biệt phái
sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau, ngang hàng với con cái
Israel trong Nước Trời. Đồng thời dụ ngôn cũng làm cho chính chúng ta phải ngạc
nhiên, bởi vì chính chúng ta cũng có khuynh hướng tự ban phát cho mình công
nghiệp, quyền lợi, và nhiều đòi hỏi. Hãy khiêm tốn đặt mình dưới sự cai quản
duy nhất của lòng nhân từ Chúa. Xin Chúa ban cho chúng ta cũng như cho những
anh em ngoại giáo, không phải những gì tương xứng với sự công bằng, mà còn
những gì do lòng nhân từ của Chúa gợi ra.
2.
Đừng so sánh.
Tại các thành phố hiện nay, cơn sốt về
nhà đất mỗi ngày một gia tăng. Một mảnh đất hôm qua chẳng có giá trị gì, thế mà
hôm nay có thể trở thành tài sản lớn.
Có một bác
nông dân sống ở ven đô, bác nhẩm tính trong đầu rằng: Theo thời giá, miếng đất
của bác có thể bán được hai mươi cây vàng. Nhưng rồi có người đến trả cho bác
những hai mươi lăm cây. Bác mừng rỡ bán vội.
Liền sau đó,
người bên cạnh bán miếng đất chỉ bằng nửa miếng đất của bác mà cũng được hai
mươi lăm cây. Bác tiếc ngẩn tiếc ngơ và lên tiếng cự lại người mua hai miếng
đất ấy. Và người mua đã trả lời bác:
-
Này bác, bộ
tôi phỉnh gạt bác à. Bác đã chẳng thỏa thuận với tôi hai mươi lăm cây sao? Hay
là bác ganh tị vì tôi đã rộng lượng.
Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào
đoạn Tin mừng hôm nay và tự hỏi: Chúa Giêsu muốn đưa ra bài học nào? Và trong
cuộc sống, đám thợ trước được sánh ví với ai? Còn đám thợ sau được tượng trưng
cho hạng người nào?
Chúng ta có thể trả lời: Những kẻ được
thuê sau là những kẻ tội lỗi vào thời Chúa Giêsu, họ đã lắng nghe lời Chúa và
đã sám hối ăn năn. Còn những người được thuê trước là bọn Biệt phái. Họ giận dữ
vì thấy những kẻ tội lỗi sám hối được vào nước trời, và cũng lãnh nhận phần
thưởng y như họ. Thái độ của họ có thể sánh ví với thái độ của một ai đó đã lên
tiếng chỉ trích Chúa, vì Ngài đã tha thứ cho tên trộm lành trên thập giá vào
những giây phút cuối cùng:
-
Hôm nay anh sẽ lên thiên đàng cùng Ta.
Từ thái độ của bọn Biệt phái, chúng ta
nhận thấy: rất nhiều lần chúng ta cũng đã cư xử với những người chung quanh
giống như họ. Chúng ta cảm thấy bực bội tức tối khi người khác giàu hơn chúng
ta, đẹp hơn chúng ta, giỏi hơn chúng ta và gặp nhiều may mắn hơn chúng ta.
Chúng ta đã ghen tị với họ.
Khi cư xử như thế, chúng ta đã phạm
phải một sai lầm lớn là đã xét đoán họ theo những tiêu chuẩn thế gian, chứ
không phải theo những tiêu chuẩn của Chúa. Đường lối của Chúa không giống với
đường lối của thế gian, như lời thánh Phaolô diễn tả:
-
Thiên Chúa đã cố ý chọn những gì thế gian xem
là vô nghĩa để làm bẽ mặt đám người thông thái, và Ngài đã chọn những gì thế
gian cho là yếu nhược để khiến đám thế lực phải hổ thẹn. Ngài đã chọn điều
thiện họ chê bai, khinh bỉ để tiêu hủy những gì thiên hạ cho là quan trọng.
Trong bàn tay của Thiên Chúa, thì một
chiếc màng nhện cũng có thể trở nên một bức tường thành bảo đảm an toàn cho
chúng ta ẩn náu. Và như thế, đoạn Tin mừng mời gọi chúng ta đừng so sánh mình
với người khác mà hãy chấp nhận hiện trạng của mình, như lời thánh Phaolô:
-
Mỗi người nên suy xét về cách cư xử của mình.
Nếu là tốt thì có thể hãnh diện về điều mình làm, nhưng chớ nên so sánh với
điều người khác đã làm. Xét cho cùng, điều quan trọng trong cuộc sống hiện tại
không phải là những gì thiên hạ nghĩ về chúng ta, hoặc chúng ta đã làm việc thế
nào trong vườn nho của Chúa, nhưng điều quan trọng đó là, Thiên Chúa sẽ nghĩ gì
về chúng ta và nhất là về tình yêu mà chúng ta đã dành cho Ngài trong suốt dọc
cuộc đời chúng ta.
3. Lý lẽ của trái tim – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Khi nghe dụ ngôn này có nhiều người
thắc mắc: Chúa có công bằng không khi ban thưởng cho người làm ít cũng bằng
người làm nhiều? Hỏi như thế là chưa hiểu rằng đây chỉ là một dụ ngôn. Dụ ngôn
không phải là một chuyện có thật. Nhưng chỉ là một câu chuyện dùng làm hình ảnh
để giải nghĩa giáo lý của Chúa. Trong dụ ngôn, Chúa không có ý dạy về những
kiến thức trần gian, nhưng muốn nói về những chân lý Nước Trời. Những bài học
mà Chúa muốn dạy ta qua dụ ngôn ‘Người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một’
này là:
1) Chúa yêu
thương hết mọi người và mong muốn mọi người được ơn cứu độ. Vườn nho
tượng trưng cho Nước Chúa. Ông chủ vườn nho là Thiên Chúa. Người được thuê là
người được mời gọi vào Nước Chúa. Tiền lương là sự sống trong Nước Chúa. Hình
ảnh ông chủ ngày ngày ra chợ tìm thuê thợ là hình ảnh của Chúa yêu thương.
Không phải ta đi tìm Chúa, nhưng chính Chúa đi tìm ta. Không phải tìm một lần
mà tìm suốt ngày, từ giờ này sang giờ khác. Nếu những người được thuê vào buổi
sáng sớm tượng trưng cho những người có số phận may mắn, có khả năng hơn người,
thì những người được thuê vào cuối ngày tượng trưng cho những người kém may
mắn, kém khả năng, bị thiệt thòi trong xã hội. Việc Chúa thuê hết mọi người từ
sáng sớm cho đến chiều tà, từ người sang đến kẻ hèn, từ người tài giỏi đến
những người kém cỏi, từ người khỏe mạnh đến người yếu kém, tất cả nói lên lòng
yêu thương của Chúa. Chúa muốn mời gọi hết mọi người, mong muốn hết mọi người
được ơn cứu độ, được hưởng hạnh phúc trong Nước Chúa.
2) Hạnh phúc
Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Nếu Chúa không kêu gọi thì không ai có thể
được vào vườn nho của Chúa, được vào Nước Chúa. Nếu Chúa không ban hạnh phúc
Nước Trời thì chẳng ai có thể tự mình chiếm lấy được. Việc Chúa ban thưởng cho
những người được thuê mướn cuối cùng trước những người được thuê mướn đầu tiên
làm nổi bật chân lý này: Nước Trời là ân huệ Chúa ban. Ân huệ phát xuất từ tình
thương của Chúa chứ không do công đức của ta. Vì thế chẳng ai có quyền đòi hỏi.
Hơn nữa, ơn Chúa ban vượt quá sức, quá lòng mong ước của ta. Hiểu biết điều
này, ta sẽ không ngừng tạ ơn Chúa.
3) Chúa yêu
thương và mong ta biết yêu thương như Chúa. Những người thợ làm từ sáng sớm không
có gì để kêu trách Chúa về tiền lương, vì đã được thỏa thuận từ trước. Họ chỉ
kêu trách vì thấy người làm ít cũng được như mình. Họ kêu trách lòng nhân từ
của Chúa. Đó là điều vô lý. Và Chúa đã nêu rõ điểm vô lý đó: Tại sao kêu trách
vì tôi tốt bụng? Phần mình đã được rồi, tại sao không vui mừng vì những anh em
kém cỏi, kém may mắn cũng được ân huệ vào phút chót. Qua điều này Chúa muốn dạy
ta hãy biết yêu thương những người kém cỏi, bé nhỏ, nghèo hèn. Một xã hội muốn
tốt đẹp phải biết giúp đỡ những người bé nhỏ. Một xã hội chỉ thực sự văn minh
khi biết quan tâm tới những người kém may mắn. Nếu chỉ nghĩ đến bản thân mình
ta sẽ thấy cuộc đời chỉ toàn bất công. Nếu biết nghĩ đến người khác, ta sẽ thấy
cuộc đời thật đẹp đẽ vì chan chứa tình người.
Qua dụ ngôn này ta thấy tư tưởng của
Chúa khác hẳn tư tưởng của con người. Cách cư xử của Nước Trời khác hẳn cách cư
xử của nước trần gian. Lý luận của Chúa khác hẳn lý luận của người đời. Không
tìm lợi lộc cho bản thân nhưng lo tìm hạnh phúc cho người khác. Không trọng
sang khinh hèn, nhưng để ý yêu thương giúp đỡ những người kém may mắn, bị bỏ
rơi trong xã hội. Không dùng lý lẽ của lý trí nhưng dùng lý lẽ của con tim, một
con tim luôn yêu thương, luôn mong muốn hạnh phúc cho mọi người. Chúa mong con
cái Chúa cũng hãy có tư tưởng của Chúa, cư xử như Chúa và yêu thương như Chúa.
Như thế mới có thể làm cho Nước Chúa mau lan rộng.
Lạy Chúa, xin cho con hiểu được đường
lối Chúa và cho con luôn đi trong đường lối của Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA
SẺ
1)
Công bình tuyệt đối có làm cho con người hạnh
phúc không, hay là còn cần tới bác ái nữa?
2)
Qua dụ ngôn này, Chúa muốn dạy tôi điều gì?
3)
Nếu bạn là người tàn tật, yếu ớt, thất bại,
bạn mong chờ điều gì nơi xã hội: công bình hay bác ái?
4. Suy niệm của Achille Degeest.
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa
Nhật’)
TA CÓ CHẤP NHẬN ĐỂ CHO
PHÚC ÂM LÀM TA SỬNG SỐT HAY KHÔNG?
Chúa Giêsu theo thói quen thường dùng
dữ kiện trực tiếp có sẵn trước mắt các môn đệ để xây dựng một câu chuyện. Những
dữ kiện đó là mùa nho chín cần phải hái mau, là hiện tượng thất nghiệp trong
một xã hội đang gặp khủng hoảng kinh tế, là số tiền lương một đồng tương xứng
với mức sống tối thiểu. Bắt nguồn từ đấy, Chúa Giêsu tưởng tượng ra một dụ ngôn
và qua đó Chúa muốn luồn vào một lời giáo huấn. Ngài muốn làm cho người ta hiểu
rằng Thiên Chúa không phải là một ông chủ theo kiểu các chủ nhân trên trái đất
này. Những người này có bổn phận giữ sự công bằng đối với thợ thuyền. Còn Thiên
Chúa, Người không tự nhận là có một bổn phận như thế đối với loài người, vì
Người đứng ở bên kia sự công bằng của loài người. Sự công bằng được giới hạn ở
những gì chúng ta mắc nợ. Sức cố gắng suốt một ngày làm việc sẽ có một số tiền
công tương xứng của một ngày, không có gì hơn. Và với sức cố gắng của suốt một
giờ, lẽ công bằng của loài người sẽ trả số tiền công tương xứng với một giờ,
cũng không có gì hơn. Nhưng đi xa hơn lẽ công bằng còn có lòng nhân từ. Và lòng
nhân từ không có giới hạn nào hơn là khả năng ban phát. Thiên Chúa là Đấng nhân
từ vô cùng, Người có khả năng vô biên, Người không có giới hạn. Lòng nhân từ đi
xa hơn điều mà loài người đáng được hưởng vô cùng. Thiên Chúa muốn cần tới các
tay thợ để hái quả trong vườn nho của Người. Một sự công bằng tối thiểu được
bảo đảm, nếu họ quyết tâm ở trên bình diện ấy, nhưng Thiên Chúa còn biếu thêm
nữa nếu họ có tấm lòng khá rộng lớn. Dụ ngôn này nhắc lại cho ta là phải tránh
suy nghĩ về Thiên Chúa theo kích thước của loài người. Sự nhắc lại này thích
đáng một cách đặc biệt ở thời đại ta, lúc mà những khối óc cho mình là Kitô hữu
đang cố gắng lôi kéo Phúc âm xuống ngang hàng với tư tưởng của loài người trong
lúc cần phải nâng cao nhân tính lên tới trình độ của Phúc âm.
1) Trình độ
của Phúc âm là trình độ của Tình yêu, mà một trong những dấu hiệu bên ngoài là
lòng nhân từ. Dụ ngôn nhấn mạnh ở một khía cạnh chính yếu của lòng
nhân từ, đó là sự tự do. Chớ thì tôi không được sử dụng của cải như sở thích
của tôi sao? Sự công bằng không được tự do, nhưng bị ràng buộc do bổn phận và
những gì ta nợ người khác. Lòng nhân từ, trái lại, không bị ràng buộc bởi khế
ước. Nó chỉ biết một điều tất yếu duy nhất, phát xuất từ chính lòng nhân từ và
thúc giục phải ban phát, nó không muốn tạo ra nơi người thụ hưởng của ban phát
bổn phận phải đền trả. Nó ban phát nhưng không. Điều này không có nghĩa là nó
không chờ đợi một sự đáp ứng nào. Nó chờ đợi người ta nhìn nhận, nghĩa là chờ đợi
ở con người một hành động ý thức và tự do là nhận biết từ đâu và do kẻ nào mà
có những ân huệ mà con người đang thụ hưởng, một lòng biết ơn được diễn tả cách
thông thường qua những lời cám ơn lòng tri ân và những lời ca ngợi. Lòng nhân
từ của Chúa nói lên sự tự do của Chúa lúc ban phát và sự tự do của con người
lúc đón nhận.
2) Trình độ
Phúc âm còn làm xáo trộn cách thức suy nghĩ của loài người. Dụ ngôn làm
người Biệt phái phải sửng sốt vì nó đặt người ngoại giáo, những kẻ đến sau,
ngang hàng với con cái Israel trong Nước Trời. Mục đích của dụ ngôn là làm cho
cả ta cũng phải ngạc nhiên, bởi lẽ trong cộng đoàn Kitô giáo và ngay cả trong
sự cố gắng hàng ngày của ta để sống trung thành, có lẽ ta cũng có khuynh hướng
tự ban phát cho mình công nghiệp, quyền lợi và nhiều đòi hỏi. Hãy để ý và khiêm
tốn đặt mình dưới sự cai quản độc nhất của lòng nhân từ Thiên Chúa. Hãy xin
Chúa ban cho ta cũng như cho anh em ngoại giáo không phải những gì tương xứng
với sự công bằng, nhưng những gì mà lòng nhân từ của Người gợi ra.
5. Thiên Chúa quảng đại – Charles E.
Miller.
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Ngày nay có một điều khẳng định lớn
lao mà mọi người thợ, dù là nam hay nữ, nếu họ cùng làm một công việc như nhau,
cùng một chất lượng như nhau sẽ được trả bằng nhau. Đó chỉ là sự công bằng.
Ngay cái nhìn đầu tiên vào người chủ nợ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu, người đã
trả cho các người thợ cùng một mức lương dù có người chỉ làm có nửa giờ. Bạn sẽ
trả cho những người thợ cùng một mức lương nếu bọn họ làm cùng một thời gian.
Một cách để cắt nghĩa hành động lạ
lùng của người chủ này, không hề có sự bất công trong việc trả lương cho những
người thợ, từ lúc bắt đầu cho đến khi chấm dứt, họ đã đồng ý chấp nhận mức
lương công nhật rồi. Không có sự bất công khi trả lương cho những người thợ làm
đầu tiên vì họ nhận đúng những gì họ đã đồng ý. Và phần lớn chúng ta đều không
cảm thấy thoải mái về dụ ngôn này. Chúng ta đã không thấu đáo vấn đề.
Một bước nữa để chúng ta nhận ra mình
phải thích ứng thế nào với dụ ngôn này. Không có lý do nào để chúng ta nghĩ
rằng, chúng ta là những người đã làm việc lâu giờ và nhiệt thành cho Chúa mà
chúng ta lại được giới thiệu như những người làm giờ thứ nhất, khi họ nói:
“Chúng tôi đã làm suốt cả ngày dưới cái nóng gay gắt”. Thật sự chúng ta đã làm
gì cho Chúa nếu chúng ta so sánh chúng ta với những vị thánh lớn trong suốt
nhiều thế kỷ vừa qua? Và như vậy chúng ta sẽ không có gì phàn nàn về dụ ngôn
này nữa.
Vẫn còn có nhiều ý nghĩa hơn ẩn chứa
trong dụ ngôn này, hơn những gì chúng ta có thể khiêm tốn và thận trong áp dụng
cho chính mình. Ý nghĩa đó được tỏ lộ qua những lời của vị chủ vườn. Khi người
thợ làm vào giờ thứ nhất phàn nàn với ông. Ông đã trả lời cách mạnh mẽ “Tôi
không hề để cho anh bị thiệt hại”. Và tiếp đó ông thêm một câu hỏi khó trả lời:
“Không phải tôi được tự do sử dụng tiền theo ý tôi sao?” Đối với câu hỏi này,
những người công nhân sẽ không có cách trả lời nào khác ngoài việc gật đầu xác
nhận. Nhưng người chủ vườn còn nói thêm một câu tỏ lộ điều cốt yếu của dụ ngôn
này: “Hay là anh ghen tị vì tôi quảng đại chăng?”
Tóm lại, dụ ngôn này nói về sự quảng
đại của Thiên Chúa. Thật sự là tất cả những người thợ, ngoại trừ người cuối
cùng, không biểu thị cho một nhóm người nào trong dân chúng. Chúa Giêsu bao gồm
những người thợ làm sớm trong dụ ngôn chẳng qua vì người muốn nhấn mạnh rằng,
Thiên Chúa luôn luôn công bình nhưng quan trọng hơn là Người rất quảng đại.
Thiên Chúa quảng đại với hết thảy mọi người cuối cùng vào vườn nho biểu thị cho
hết thảy chúng ta.
Thiên Chúa ban phát ân sủng của Người
cho mọi người. Chúng ta không cần phải cố gắng tìm hiểu tại sao một số người có
vẻ như coi thường ân sủng của Thiên Chúa. Nỗ lực của chúng ta sẽ đặt vào việc
nhận biết những ân sủng quảng đại của Thiên Chúa ban xuống trên chúng ta. Người
đã ban cho chúng ta đời sống, gia đình, thế giới mà chúng ta đang sống và Người
đã ban cho chúng ta đức tin công giáo. Tất cả những điều này đều là ân sủng, là
đặc ân đến từ Thiên Chúa. Không có gì dù đơn sơ mặc lòng mà chúng ta có thể làm
để đáng được hưởng phúc lành của Thiên Chúa.
Sự quảng đại của Thiên Chúa được biểu
lộ trong suốt phụng vụ hy tế Thánh Thể. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và
Máu của người con Thần linh của người. Chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình:
“Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con”, những vị thánh cao cả nhất
cũng không xứng đáng với Thánh Thể, và các ngài còn không được hưởng dồi dào bí
tích ấy như chúng ta. Sau khi chúng ta thú nhận sự bất xứng của mình. Chúa
Giêsu mời gọi chúng ta đến với Người để lãnh nhận Mình và Máu Người trong đức
tin.
Và nhờ đức tin đó mà chúng ta không
bao giờ phàn nàn với Thiên Chúa như những người thợ đã làm đầu tiên, nhưng luôn
luôn biết dâng lời tạ ơn và ngợi khen Thiên Chúa, Đấng cao vượt hơn cả trí
tưởng cuả chúng ta là sự quảng đại của người dành chúng ta.
6. Tôi đâu có bất công.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Trong dụ ngôn người cha nhân hậu (Lc
15), chúng ta đã từng thấy thái độ của người con cả nổi giận không chịu vào
nhà, vì anh thấy cha tỏ ra quá bao dung đối với đứa em hư đốn, chẳng những cha
tha thứ mà còn mở đại tiệc ăn mừng.
“Đã bao năm con hầu hạ cha? thế mà
chưa bao giờ? còn thằng con của cha đó... Vậy mà...”
Anh thấy mình bị cha đối xử bất công!
Trong dụ ngôn trên đây, người làm sớm
cũng cằn nhằn vì ông chủ trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng.
Cả hai dụ ngôn đều phản ánh một căng
thẳng có thực do việc Đức Giêsu thường giao du với tội nhân. Ngài quý trọng
từng con chiên lạc, đem đến cho họ niềm vui sống và sự tự tin. Ngài mời họ hoán
cải và hứa ban cho họ Nước Trời.
Như thế, rốt cuộc những người Do Thái
tội lỗi cũng được hưởng hạnh phúc như các ông Pharisêu suốt đời tuân giữ chi li
Lề Luật.
Người Pharisêu bị sốc vì thái độ của
Đức Giêsu. Họ cảm thấy quyền lợi của mình bị xâm phạm.
Khi nhìn thái độ bực bội của người làm
từ sớm, chúng ta hiểu được thế nào là ghen tỵ.
Người làm sớm cằn nhằn ông chủ vườn
nho không phải vì ông đã đối xử bất công đối với họ (họ vẫn được trả đủ tiền
lương mà), nhưng vì ông đã trả cho người làm sau ngang hàng với họ, là những kẻ
vất vả suốt ngày. Nếu ông trả cho người làm sau ít hơn, chắc họ chẳng hề tỏ vẻ
khó chịu.
Người ghen tỵ không vui được với người
vui vì họ không biết yêu thương. Họ coi người kia là kẻ thù, chứ không phải là
bạn, nên sự thành công của ai đó trở thành nỗi đe dọa.
Đức Giêsu mời chúng ta đổi cái nhìn về
Thiên Chúa. Ngài công bình, nhưng không cứng nhắc trong luật lệ. Ngài có trái
tim để tự do yêu, có lòng tốt để bất ngờ trao tặng, Thiên Chúa là Thiên Chúa
của người trộm lành, là chủ của người thợ chỉ làm có một tiếng.
Thiên Chúa công bình lại là người cha
đầy yêu thương. Đức Giêsu cũng mời ta đổi cái nhìn về tha nhân, bớt tự hào về
mình, thêm trân trọng người khác, phá bỏ những hàng rào của nhỏ mọn, ghen
tương.
Đến khi nào người con cả mới chịu vào
nhà để niềm vui của cha, của em là của anh?
Đến khi nào người làm từ sáng sớm biết
chia vui cùng người mới làm buổi chiều?
Đến khi nào tôi mới thật sự vui với
người kế bên chỉ vì người ấy là bạn tôi?
Gợi Ý Chia
Sẻ
·
Cain vì ganh tỵ đã giết em là Aben. Người
ganh tỵ vừa hủy diệt người khác, vừa huỷ diệt chính mình. Có khi nào bạn nuôi
lòng ganh tỵ, ghét ghen không? Làm sao để ra khỏi thái độ đó?
·
Bạn thấy “vui với người vui” dễ hay khó? Có
khi nào bạn vui trước thành công của một người bạn hay của một người mà bạn
không ưa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con quả tim của
Chúa.
Xin cho con đừng khép lại trên chính
mình, nhưng xin cho quả tim con quảng đại như Chúa vươn lên cao, vượt mọi tình
cảm tầm thường để mặc lấy tâm tình bao dung tha thứ.
Xin cho con vượt qua mọi oán hờn nhỏ
nhen, mọi trả thù ti tiện.
Xin cho con cứ luôn bình an, trong
sáng, không một biến cố nào làm xáo trộn, không một đam mê nào khuấy động hồn
con.
Xin cho con đừng quá vui khi thành
công, cũng đừng quá bối rối khi gặp lời chỉ trích.
Xin cho quả tim con đủ lớn để yêu người
con không ưa.
Xin cho vòng tay con luôn rộng mở để
có thể ôm cả những người thù ghét con.
7. Công Bằng Hay Bác Ái?
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Trong cuốn
sách mang tựa đề: “Người đó, chính là bạn”, cha Louis Evely đã kể một câu
truyện sau đây:
Trong một vở
kịch, nhà đạo diễn Jean Anouilb đã dàn dựng cảnh ngày phán xét chung theo như
ông tưởng: Những kẻ lành đang đứng trước cửa vào thiên đàng, chật ních, chen
lấn để vào, chắc chắn thế nào cũng có chỗ sẵn. Hồi hộp, sốt ruột… Nhưng, bỗng
nhiên, người ta bắt đầu xì xầm với nhau: “Hình như Thiên Chúa cũng tha thứ cho
mấy người đứng bên kia nữa”. Thế là họ lại phải một mẻ ngẩn người ra. Họ nhìn
nhau, không thể hiểu được. Họ la ó, phản đối. Họ bất mãn… “Vậy thì cần gì phải
hy sinh khó nhọc cả đời…”. “Tôi mà biết vậy thì tôi đã ăn chơi cho đã đời…”.
Gan mật họ sôi lên. Họ bắt đầu kêu la trách móc Thiên Chúa và cũng chính lúc
đó, họ bị đày xuống hỏa ngục.
Cha Louis
Evely giải thích: ‘Giờ phán xét đã điểm: họ đã tự xét xử lấy họ, đã tự tách
mình ra khỏi hạnh phúc của Chúa. Tình yêu đã biểu hiện cho họ, nhưng họ đã từ
chối không nhận tình yêu: “Tôi từ chối không chấp nhận cái thứ thiên đàng mà
người ta vào như chợ. Tôi phản đối Thiên Chúa đã tha cho hết mọi người. Tôi
không thích Thiên Chúa yêu thương cách mù quáng như thế”. Vì họ không thích
Tình Yêu nên họ không nhận ra được Tình Yêu. Chỉ có Tình Yêu mới làm những
chuyện như thế. Với Chúa, chúng ta phải luôn sẵn sàng để đón nhận những chuyện
bất ngờ như vậy”.
Cũng thế, thưa anh chị em, có lẽ ai
trong chúng ta cũng bị chưng hửng trước cách ứng xử của ông chủ vườn nho mà
ChúaGiêsu diễn tả trong dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này
không ai khác hơn là hình ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu diễn tả trong
dụ ngôn của Tin Mừng hôm nay. Ông chủ vườn nho này không ai khác hơn là hình
ảnh của chính Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn giới thiệu với chúng ta. “Tại sao
ông chủ lại trả công cho mọi người bằng nhau, người chỉ làm có một giờ cuối
ngày cũng được lãnh tiền bằng người đã làm trọn ngày nắng nôi nặng nhọc? Có
phải ông chủ bất công hay không?”. Câu trả lời của ông chủ làm cho những công
nhân và chúng ta phải ngạc nhiên thán phục: “Này anh, tôi đâu có xử bất công
với anh. Anh đã chẳng thỏa thuận với tôi công nhật là một đồng sao? Cầm lấy
phần của anh mà đi đi! Tôi không muốn cho người làm sau chót cũng được bằng
anh. Tôi không có quyền làm thế sao? Hay anh ganh tị vì thấy tôi đối xử rộng
rãi tốt lành với những người khác?”. Quả thật, Thiên Chúa hành xử không theo sự
công bằng của con người, nhưng theo lòng thương xót và tình yêu vô biên của
Thiên Chúa. Qua đó, chúng ta khám phá được một điều quan trọng là suy nghĩ và
hành động của Thiên Chúa khác xa với suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ngôn
sứ Isaia đã nói rõ: “Chúa phán: tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các
ngươi, đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta: Trời cao hơn đất bao
nhiêu thì đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi và tư tưởng Ta cũng
cao hơn tư tưởng các ngươi bấy nhiêu”.
Thưa anh chị em,
Nếu cứ theo lẽ công bằng thường tình
của loài người chúng ta: người làm nhiều sẽ lãnh lương nhiều, người làm ít sẽ
lãnh lương tí, thì hỏi rằng, người làm một tiếng đồng hồ sẽ được bao nhiêu tiền
để đủ nuôi sống gia đình, con cái, đang túng thiếu, nghèo đói? Chính vì thương
xót, thông cảm cảnh nghèo đói, thất nghiệp của các công nhân và vì muốn cho mọi
người có công ăn việc làm, mà ông chủ đã mời gọi mọi người thất nghiệp vào làm
việc bất cứ giờ nào, và đã trả lương cho mọi người bằng nhau, người đến sau
cũng như người đến trước. Câu trả lời của ông chủ vườn: “Hay anh ganh tị vì
thấy tôi đối xử rộng rãi, tốt lành với người khác?”đã vạch ra tâm địa ích kỷ,
hẹp hòi của nhóm công nhân làm từ đầu ngày. Lời đó cho thấy chính họ mới là kẻ
bất công, vì không chấp nhận cho người khác có quyền sống hạnh phúc như họ. Tâm
địa xấu xa của họ càng làm nổi bật lòng nhân nghĩa cao vời của ông chủ. Ông
không đối xử với người ta theo tương quan buôn bán, tính toán, nhưng theo tương
quan tình nghĩa và mời gọi người ta bắt chước cách đối xử tình nghĩa của ông.
Anh chị em thân mến,
Cách ứng xử của ông chủ trong câu
chuyện dụ ngôn chính là cách ứng xử của Thiên Chúa đối với chúng ta. Thiên Chúa
của chúng ta hành động như thế đó. Thật là rộng lượng, nhân từ! Ngài mời gọi
những người thu thuế, những người bị xã hội loài người khinh chê, loại trừ,
những người tội lỗi, vào Nước Trời một cách rộng rãi, cho không, chẳng phải vì
công trạng gì xứng đáng của họ. Người công chính, đạo đức, đừng vì thế mà ganh
tị kêu trách Chúa bất công, giống như những người Biệt Phái Pharisêu đã kêu ca
trách móc Chúa. Lòng thương xót của Thiên Chúa đón nhận tất cả mọi người không
trừ mộ ai, vì bản chất của Ngài là Tình Yêu. Chúng ta thường làm ngạc nhiên và
bị “sốc”trước cách hành xử Thiên Chúa. Đôi khi chúng ta cũng có những phản ứng
như những công nhân làm việc giờ đầu tiên hoặc như những kẻ lành trước cửa
Thiên Đàng trong vở kịch Ngày phán xét chung của nhà đạo diễn Jean Anouilh:
“Sao! Những tên đã sống một cuộc đời bừa bãi, bê bối, lung tung kia cũng được
Chúa tha sao? Thậm chí những kẻ đã bách hại đạo Chúa, nếu sau này ăn năn hối
cải, cũng xứng đáng được hưởng Nước Trời như người Kitô hữu nhiệt thành cả đời
sao? Tên gian phi bị treo trên thập giá bên cạnh Chúa Giêsu cũng được vào Thiên
Đàng sao?” (x.Lc 23,43).
Thiên Chúa chúng ta như thế đó! Thật
rộng lượng, nhân từ. Quả thật đường lối của Ngài khác hẳn đường lối ti tiện,
hẹp hòi của chúng ta. Chúng ta hay so đo, tính toán, đánh giá từ sự so sánh của
chúng ta. Chúng ta nhìn người khác với những cái-họ-có-hơn-mình hay cái-mình-không-có,
để bực tức, ghen ghét. Nhiều khi chúng ta nhân danh công bằng để đối xử hẹp
hòi, khắt khe, độc ác với kẻ khác. Công bằng là mức độ thấp nhất của bác ái.
Công bằng mà không có bác ái là tàn nhẫn, là vô nhân đạo. Phải vượt hơn mức tối
thiểu của công bằng, chúng ta mới có thể đối xử bác ái, tình nghĩa với nhau
được, cuộc sống mới chan hòa tình người, đầy niềm vui và hạnh phúc.
Với những ai hay so đo, tính toán với
anh em, Thiên Chúa sẽ cứ theo luật công bằng mà xét xử; còn những ai rộng rãi,
biết thương xót người, thì sẽ được Ngài xét xử theo lòng nhân từ xót thương.
Thiên Chúa luôn luôn tuyệt vời hơn những gì con tim nghèo nàn của chúng ta có
thể tưởng tượng. Ước gì trái tim chúng ta trở nên giống như trái tim của Thiên
Chúa Tình Thương. Chính trong tình thương, chúng ta sẽ gặp được Thiên Chúa.
8. Vì tôi tốt bụng – Lm Nguyễn Cao Siêu.
Suy niệm:
Sau khi anh thanh niên giàu có từ chối
lời mời của Đức Giêsu, ông Phêrô đã đại diện anh em hỏi Thầy:
-
“Chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy. Vậy
chúng con sẽ được gì?”
Thầy Giêsu đã đáp lại bằng một câu trả
lời khá dài.
-
Họ sẽ được xét xử các chi tộc Israel, được
gấp trăm về mọi sự, và nhất là được hưởng sự sống đời đời (Mt 19, 27-30).
Như thế ở đây Nước Trời được coi như
một phần thưởng, một sự trả công Chúa dành cho những ai dám từ bỏ hy sinh. Các
môn đệ cho đi, và rồi họ sẽ được lại.
Bài Tin Mừng hôm nay nằm ngay sau câu
chuyện trên. Dưới một góc độ nào đó thì cả hai có nội dung rất khác nhau, nhưng
bổ túc cho nhau, để ta có một cái nhìn quân bình về Thiên Chúa.
Thiên Chúa không phải chỉ là Đấng công
bằng, thưởng công cho những gì chúng ta đã vất vả cố gắng. Người còn là Đấng
quảng đại, tốt lành và giàu lòng xót thương.
Dụ ngôn về “người thợ giờ thứ mười
một” cho thấy điều đó. Thật ra phải gọi dụ ngôn này là dụ ngôn về “Ông chủ độ
lượng”. Trong thế giới thời Đức Giêsu, người ta mướn thợ buổi sáng và trả công
cho thợ buổi chiều theo lề luật (Lv 19,13; Đnl 24, 14-15).
Lương công nhật là một quan tiền
(denarius), tiền này tạm đủ để nuôi gia đình ở mức căn bản. Dụ ngôn hôm nay có
nhiều nét khác thường mà không có lời giải thích.
Ông chủ vườn nho tự mình ra chợ mướn
người, thay vì viên quản lý. Những người thợ đứng suốt ngày ngoài chợ (c.6) lại
không được ông chủ thấy và mướn từ đầu, dù ông ra chợ nhiều lần. Chỉ nhóm thợ
đầu tiên mới được thuê với tiền công rõ ràng, còn ba nhóm sau chỉ được hứa sẽ
trả “hợp lẽ công bằng” (c.4). Cuối cùng ba nhóm giữa bị bỏ rơi, để chỉ tập
trung vào nhóm đầu và cuối.
Dụ ngôn này trở nên hết sức khác
thường với việc ông chủ ra lệnh trả công cho người làm cuối trước. Những người
thợ giờ thứ mười một (5 giờ chiều) cả ngày làm có một tiếng, được trả một quan
tiền. Điều này hẳn tạo ra niềm hy vọng cho những ai đã làm từ sáng sớm, “đã làm
việc nặng nhọc cả ngày, lại bị nắng nôi thiêu đốt” (c.12).
Nhưng rốt cuộc những người thợ đầu
tiên cũng chỉ được một quan tiền. Chúng ta cần phải đứng trong hoàn cảnh của họ
để xem họ sẽ sửng sốt, thất vọng, buồn bực, tức giận và cằn nhằn ra sao.
Có lẽ chúng ta cũng phản ứng tương tự
khi gặp chuyện như vậy. Phản ứng này cũng là phản ứng giận dữ của người anh cả khi
biết cha mình đã tiếp đón linh đình sự trở về của đứa con hư hỏng.
Đối với những người thợ, đây rõ ràng
là một sự bất công. Bất công nằm ở chỗ làm nhiều, làm ít, nhận lương như nhau.
Nhưng ông chủ không cho đây là một sự
bất công, vì ông đã trả cho nhóm thợ làm sớm nhất đúng như đã thỏa thuận.
Những câu cuối của dụ ngôn là những
câu đẹp nhất, những câu nói lên bản chất sâu xa của tấm lòng Thiên Chúa. “Tôi
muốn cho người làm cuối này như tôi cho anh” (c. 14). Tôi muốn cho họ nhiều như
tôi đã cho anh, tôi muốn họ bằng anh: đó là ước muốn, là chọn lựa của Thiên
Chúa. Tình thương của Người phá vỡ sự phân biệt người đầu, người cuối, người
làm nhiều, làm ít, công nhiều, công ít. “Chẳng lẽ tôi không được phép làm điều
tôi muốn với tài sản của tôi sao?” (c. 15).
Thiên Chúa giàu sang nên có quyền rộng
rãi thi ân cho kẻ Người muốn. Chẳng ai có thể bắt Người phải đối xử công bình
theo kiểu con người. Chẳng ai có quyền hạch hỏi Người vì Người quá sức độ lượng
(c.12).
“Hay mắt của anh xấu xa vì tôi tốt
lành” (c. 15). Con mắt xấu xa là con mắt khó chịu vì kẻ khác bằng mình, dù
không đáng, ghen tỵ với may mắn và hạnh phúc bất ngờ của người khác.
Đức Giêsu khẳng định mình là người tốt
lành, đặc biệt trong cách cư xử của Người đối với những tội nhân. Anh trộm lành
trên thập giá cũng là người thợ giờ thứ mười một. Anh được hưởng những gì mà
người khác phải nỗ lực cả đời.
Nói cho cùng, vấn đề không phải là
đáng hay không đáng. Chẳng ai xứng đáng để vào thiên đàng, kể cả các thánh. Hạnh
phúc Nước Trời là một ơn ban hơn là một sự trả công hay phần thưởng.
Thiên Chúa vượt lên trên sự sòng phẳng
có tính mua bán của con người. Người không phải là nhà buôn, nhưng là người cha
tốt lành. Cha thương cả hai con, cả đứa ở nhà phục vụ lẫn đứa bỏ đi bụi đời. Thậm
chí đứa hư hỏng hay tật nguyền lại được quan tâm hơn.
Ông chủ vườn nho thương cả những người
đứng ngoài chợ suốt ngày mà không được ai mướn. Có thể vì họ kém khả năng, kém
may mắn hơn những người khác chăng?
Người thợ giờ thứ mười một đã làm được
gì cho vườn nho của ông chủ? Chắc chẳng được bao nhiêu. Nhưng anh ấy đã đứng
chờ suốt ngày. Thế giới này lúc nào cũng có những người thợ giờ thứ mười một, “những
người không được ai mướn” (c.7), những người cứ đứng chờ vậy thôi, suốt ngày,
suốt đời, những người được nhận trễ, chẳng biết mình sẽ được trả lương ra sao. chỉ
biết phó thác cho lòng tốt của ông chủ.
Những người này khác với những người
làm từ sáng, biết chắc mình sẽ được trả công một quan tiền. Dụ ngôn không nói
đến việc người làm cuối reo lên vì được trả công hậu hĩ.
Nhưng chắc là đã có những tiếng reo. Thiên
đàng đầy ắp những tiếng reo như thế, kinh ngạc, ngỡ ngàng, thán phục, tri ân… Chẳng
có ai vào thiên đàng mà lại không reo lên vì thấy những gì gọi là công đức của
mình chỉ là chuyện nhỏ, quá nhỏ để có thể mua được một vé vào thiên đàng.
Người ta cũng sẽ reo lên vì thấy sự có
mặt của những người mà ta tưởng chẳng bao giờ có thể lên thiên đàng được. Thiên
Chúa không chỉ thấy thời gian làm việc trong vườn nho. Người còn thấy cả thời
gian chờ. Nhiều khi chờ còn mệt hơn làm việc. Đừng cằn nhằn! hãy vui với niềm
vui của Thiên Chúa, Đấng hạnh phúc khi thấy người ta ngỡ ngàng vì những ơn bất
ngờ, vì lòng tốt của Ngài không sao hiểu được.
Hãy vui với những người được Chúa yêu,
bất chấp quá khứ của họ. Chúng ta không có quyền buồn như người con cả, khi cha
đang vui. Hãy đổi cái nhìn của mình về Thiên Chúa. Như thế chúng ta cũng sẽ
thay đổi cách cư xử với anh em.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa
Giêsu,
xin cho con
trở nên đơn sơ bé nhỏ,
nhờ đó con
dễ nghe được tiếng Chúa nói,
dễ thấy Chúa
hiện diện
và hoạt động
trong đời con.
Sống giữa
một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,
xin cho con
đừng trở nên cứng cỏi,
khép kín và
nghi ngờ.
Xin dạy con
sự hiền hậu
để con biết
cảm thông và bao dung với tha nhân.
Xin dạy con
sự khiêm nhu
để con dám
buông đời con cho Chúa.
Cuối cùng,
xin cho con sự bình an sâu thẳm,
vui tươi đi
trên con đường hẹp với Ngài,
hạnh phúc vì
được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.
9. Nếu bạn yêu thương bạn sẽ biết Thiên Chúa
Làm sao không ghét ông chủ là người
nhạo báng những người thợ can đảm khi trả công (trước mặt họ!) cùng một số tiền
với những người chỉ làm việc có một tiếng đồng hồ được? May thay các nhà chú
giải giúp chúng ta nhận ra hai bài học của dụ ngôn khó hiểu nhưng đẹp đẽ này.
Trước tiên dụ ngôn này cho thấy lòng
tốt của Thiên Chúa, một lòng tốt vô cùng, không tính toán và làm cho phỉ
nguyện. Thiên Chúa muống trao ban Tin Mừng cho tất cả mọi người, Ngài muốn mở
rộng cuộc sống vĩnh cửu cho tất cả mọi người. Thí dụ cuối cùng về người thợ vào
giờ thứ mười một chính là ngươì trộm lành trên thánh giá nhận được mức lương
rất lớn: “Hôm nay ngươi sẽ được ở cùng ta trên thiên đàng”.
Nhưng dụ ngôn cũng nhằm vào chúng ta:
“Bạn hãy coi chừng khi người ta nói rằng Thiên Chúa tốt lành đến mức đó. Nếu
bạn khó hiểu thì có lẽ chính bạn là người không tốt”.
Cốt lõi của dụ ngôn này nằm ở câu hỏi
của ông chủ nói với kẻ không bằng lòng: “Có phải anh ganh tỵ hay không?”. Cái
nhìn của người thợ lành nghề đối với những người bạn quá may mắn thì không có
thiện cảm: “Đừng đối xử với những người đến trễ như đối xử với chúng tôi”.
Một lần nữa, Chúa Giêsu muốn thay đổi
những người Pharisêu. Ngài biết họ nghĩ rằng: “Chúng tôi làm việc nhiều vì
Thiên Chúa”. Điều đó không sai, nhưng từ trên sự tin chắc này họ xét rằng việc
Chúa Giêsu quan tâm đến những kẻ xấu xa, những người thu thuế và những người
mại dâm là điều không thể chịu đựng được. “Làm sao ngài dám đối xử với họ cũng
tốt và thậm chí còn hơn cả chúng ta nữa? Một luât sĩ hay lui tới với hạng người
này thì có gì để nói với chúng ta về Thiên Chuá cơ chứ? Người đó biết gì về
Thiên Chúa?”
Này nhé, thật sự kẻ nào đó biết đến
lòng tốt của Thiên Chúa thì biết tất cả về Ngài. Chúa Giêsu muốn mạc khải lòng
tốt này và Ngài đụng chạm với những người nói với Ngài: “Không, không phải hiểu
Thiên Chúa như thế đâu”. Có lẽ có điều gì đó kỳ lạ trong phản ứng này, nhưng
nếu chúng ta suy nghĩ về thái độ của chúng ta thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng
tin vào lòng tốt tuyệt vời và phổ quát của Thiên Chúa thì khó hơn là chúng ta
nghĩ.
Không gì ngăn nổi, nhúng ta nghĩ rằng
Thiên Chúa yêu thương những người tốt lành nhiều nhất, ghét những người hoài
nghi, và thế là chúng ta xét đoán nhân danh Ngài vị linh mục này hoặc người nọ
thì độ lượng. “Quan tâm đến những người liêm chính tốt hơn là lân la trong gia
đình này hoặc nơi những kẻ vô lại kia”.
Một người ly dị tái hôn nói với tôi:
“Trong những cộng đoàn Kitô giáo chúng ta không có nhiều tình thương bao
nhiêu”. Một phụ nữ đã lập gia đình với một linh mục không thể chịu đựng nổi:
“Nếu bạn biết được tôi bị ruồng bỏ như thế nào”. Và trong chính trị, có cái
nhìn kỳ cục về những “người không suy nghĩ cho đúng đắn” biết bao!
Một số người sẽ nói hoan hô, chúng ta
sẽ chấp nhận bất cứ cái gì. Hoan hô những người đến vào giờ thứ mười một và
những tên trộm lành! Thiên Chúa yêu thương mọi người chứ? Thế thì chúng ta đừng
mất công tuân giữ đạo đức làm cái gì nữa.
Còn phải bỏ công sức, cần phải có
những người thợ vào giờ thứ nhất. Họ thật may mắn đã được Thiên Chúa nhanh
chóng tuyển dụng một cách bình thản. Nhưng Ngài yêu thương những người đến cuối
cùng làm sao! Họ sẽ chứng tỏ rằng việc luôn luôn ở gần Chúa đã làm cho họ nhận
biết Ngài và tình yêu của Ngài. Than ôi! nếu họ cứng rắn đối với những người
đến trễ và những người lầm lạc, họ cố gắng không bao giờ bỏ lễ, thì họ vẫn ở xa
Thiên Chúa. Thánh Gioan nói: “Ai không yêu thương, kẻ ấy không nhận biết Thiên
Chúa”.
10. Tự do Thiên Chúa
Dụ ngôn nói lên một tính chất chung
giữa chủ nhà và Chúa tể vũ trụ: Đó là sự tự do tối thượng.
1) Đây là sự
tự do của chủ vườn nho: Ông đã gọi vì ông muốn, khi ông muốn và gọi
những ai ông muốn, sau khi đã quyết định phần thưởng và phân công.
Thiên Chúa cũng thế. Ngài hoàn toàn tự
do khi lên tiếng kêu gọi. Không một tạo vật nào tự hào có quyền trước mặt Chúa.
Mà khi nói đến ơn gọi là nói đến tự do. Giáo hội là một cộng đồng ơn sủng. Sau
khi phạm tôi, tạo vật lại được nghe thấy tiếng gọi ân sủng mà đáng lẽ tạo vật
đã bị vất bỏ: Tạo vật không hy vọng trở lại nữa: Đó là chân lý hiển hiện trong
hình ảnh sứ thần cầm gươm canh cửa vườn địa đường. Thánh Phaolô cũng daỵ như
thế trong thư gửi giáo đoàn Roma: Không có gì tuỳ thuộc vào ý chí hay hành động
nhân loại, nhưng tất cả đều tuỳ thuộc vào lòng từ ái Thiên Chúa.
Thiên Chúa có thể tự do gọi những kẻ Ngài
muốn. “Ta thương Giacob và ghét Esau”. Thánh Phaolô so sánh hành động của Thiên
Chúa với người thợ gốm muốn tuỳ ý nặn nên một vật gì tầm thường hay quí giá.
Người thợ hoàn toàn tự do. Thiên Chúa cũng thế. Ngài gọi kẻ nào Ngài muốn:
Người thì được gọi từ trong lòng mẹ như gọi một Tiên tri, người khác được gọi
từ buổi thiếu thời, người khác khi đã đứng tuổi hay về già. Thiên Chúa quyết
định thời gian.
Thiên Chúa tự do chọn lựa nơi nào Ngài
muốn. Đức Kitô tuyên bố với Phêrô: “Người khác thắt lưng con, rồi dẫn con đến
nơi mà con không muốn”. Mức độ ân sủng khác nhau tuỳ theo từng người. Người thì
được gọi vào giờ đau khổ để được cứu rỗi. Kẻ khác được gọi để nên thánh. Người
thì được gọi cứu linh hồn mình. Kẻ khác được gọi để cứu tha nhân. Những người
khác nữa nhất là các thánh nhân được Thiên Chúa uỷ thác một sứ mệnh giữa Giáo
hội chẳng hạn, các vị lập dòng, những người tiên phong, khởi xướng phong trào
canh tân và các nhà tư tưởng…
Thiên Chúa tự do thưởng công: Ta chỉ
nói về công nghiệp và phần thưởng theo cách bất toàn, và chính Đức Kitô theo sự
tự do tuyệt đối của Ngài đã gọi phần thưởng là ân huệ được tham dự vào vinh
quang Thiên Chúa.
Tất cả những tính toán, những dự liệu
pháp lý, những đòi hỏi, những tham vọng, phải tan biến trước oai nghiêm và tự
do của Tạo hoá.
Các tông đồ của Chúa Giêsu phải học
biết điều đó bằng kinh nghiệm riêng. Nếu họ đã không được gọi, họ đã sống cuộc
đời vô nghĩa giống như các ngư phủ khác và bọn thu thuế tại Galilêa. Ngay cả
sau khi đã được gọi làm môn đệ, họ cũng chỉ như những người vô danh khác, nếu
Đức Kitô không phân biệt họ khỏi những người khác. Trong số các môn đệ, Simon
đã chẳng trở thành Phêrô nếu Chúa không tự ý thánh hiến ông thành vị thủ lãnh.
Mặt khác, dù ngã quỵ trước cơn thử thách nặng nề ngày thứ sáu tuần thánh, tất
cả đã đánh mất ơn gọi, nếu sau khi sống lại, Chúa đã không tụ tập lại, và sai
đi truyền giáo, nhất là đối với Phêrô; vì ba lần chối Chúa, ông đã đánh mất
chức vụ thủ lãnh, nếu Chúa không ban lại sau ba lần tuyên xưng lòng mến. Nhờ ba
lần tuyên xưng lòng mến này, Ngài lại trao cho ông quyền chăn dắt đoàn chiên.
Đức Kitô hừa cho họ ngồi trên mười hai toà xét xử mười hai chi họ Israel. Đó là
phần thưởng đổi lại lấy những gì họ đã từ bỏ vì Chúa. Tất cả đều là ơn huệ
nhưng không. Nếu tất cả Kitô hữu ý thức về những ân huệ đã nhận được do Thiên
Chúa tự ý ban cho, thì mười hai tông đồ và những ai sống giữa cộng đồng được
lựa chọn, đã thụ hưởng một ơn gọi đặc biệt, là phải nhận biết ơn huệ Thiên Chúa
và không ngừng nhớ tới.
2) Dụ ngôn
này còn có một giá trị giáo huấn nữa. Thiên Chúa dùng tự do của Ngài để
thực thi lòng nhân hậu. Thêm vào lời quyết đáp: “Ta lại không được quyền làm
điều ta muốn ư?” Ngài nói: “Mắt các ngươi xấu vì thấy ta tốt ư?”.
Thiên Chúa tỏ ra nhân hậu và tự do,
khi mời gọi tất cả mọi người. Trước kia chỉ có một dân tộc duy nhất, một dân
tộc nhỏ bé và được tuyển chọn. Nay nhờ Tin Mừng được loan báo cho tất cả các
tạo vật, tất cả mọi quốc gia trở thành môn đệ Ngài (Mt 28, 16-20). Những tội
nhân cũng sẽ được gọi đúng như lời Thánh Phaolô dạy: “Thiên Chúa đã để mọi
người phạm tội để có thể thương xót mọi người”.
Lòng thương xót của Chúa thực là cao
cả. Mọi người đều được mời gọi chung hưởng. Suốt đời, con người được tham dự
vào vinh quang Thiên Chúa. Được nâng lên bên trên bản tính tự nhiên, con người
sẽ trở thành hình ảnh đích thực của Thiên Chúa, bước đi trong ánh sáng của
Ngài, tiến nhanh nhờ sức mạnh của Ngài, tham dự vào bản tính thần linh của
Ngài. Do đó, tội nhân được gia nhấp cộng đoàn thánh nhân.
Lòng nhân hậu tự do của Thiên Chúa thực
là cao cả, nên mới quyết giữ ơn gọi được miên trường. Ơn gọi không phải là một
dịp tốt duy nhất, sẽ mất đi, nếu người ta không đáp lại. Ơn goị của Thiên Chúa
theo dõi con người không ngừng và con người có thể đáp lại bất cứ lúc nào.
Như thế, chỉ khi nào ý thức về ơn
sủng, con người mới hiểu được sự cao trọng của Thiên Chúa. Mỗi người có thể xử
dụng tự do tuỳ ý. Thiên Chúa cũng sử dụng tự do để tha thứ, vì muốn thể hiện
trọn vẹn tình yêu. Thiên Chúa ban phát mà không tính toán. Đến lượt con người
họ cũng không được tỏ ra là người ganh tị hay ti tiện, trái lại, hãy mở rộng
lượng của Đấng Tối cao. Các tông đồ đã nhận được nhiều sứ mệnh nặng nề. Phải ý
thức điều đó để hoan hỉ trao ban những gì đã nhận lãnh. Những công nhân bất mãn
đã cằn nhằn vì chịu khó nhọc nóng nực cả ngày mà không nhận được vào nước Chúa.
Khi bắt chước Đức Kitô, những thử thách này là một đặc ân chứ chưa phải là một
việc đền tội, một ơn huệ hơn là một bổn phận. Đó là cơ hội để chứng tỏ lòng yêu
mến sâu xa và ưu tiên. Vì ta đã được gọi từ sớm để làm việc nhiều hơn. Con
người phải từ bỏ tiêu chuẩn nhân loại để học biết suy nghĩ và phán đoán cách
khác. Từ đây, mức độ là chính tình yêu. Nhưng tình yêu không bao giờ tính toán.
Ai biết phó thác cho thánh ý Thiên Chúa theo tình yêu Ngài, sẽ tình nguyện tận
hiến tình yêu cho Ngài. Vậy dụ ngôn này có một giá trị đặc biệt để giúp Kitô
hữu suy nghĩ đúng đắn. Dụ ngôn này dạy ta phải hiểu biết cách hành động của
Thiên Chúa, Ngài dùng tự do để bày tỏ tình yêu của Ngài.
11. Ghen tị
Câu chuyện dụ ngôn thuê mướn thợ làm
vườn nho hình như có vấn đề gây thắc mắc: làm sao ông chủ có thể trả công đồng
đều cho tất cả những người thợ làm việc ở các thời điểm khác nhau? Ông chủ có
công bằng chăng khi đối xử với những người chỉ làm một giờ ngang bằng với những
người làm vất vả cả ngày?
Thật ra ông chủ đã đối xử sòng phẳng
với những người làm việc từ sáng sớm. Ông ta đã trả mỗi người một đồng đúng như
đã thoả thuận. Ông ta không bóc lột sức lao động của ai cả: có làm có trả lương
tương xứng, nếu ông ta không gọi thêm thợ thì mọi chuyện bình thường, chẳng có
vấn đề gì, nhưng vì có nhóm thợ làm ít giờ hơn cũng được trả lương bằng mình,
nên có việc ganh tị, và nhất là đánh giá tiêu cực về ông chủ.
Câu chuyện này chúng ta thấy nổi bật
hai vấn đề: Cách đối xử của ông chủ và phản ứng của những người thợ. Ông chủ
vườn nho đây là hình ảnh Thiên Chúa, Ngài tốt lành vô cùng, lòng nhân từ của
Ngài vượt lên trên tất cả những thứ trả công mà người đời sử dụng với nhau
trong cuộc sống, Ngài rất công bằng và thương yêu vô tận. Vì vậy, ngoài sự công
bằng, Ngài còn yêu thương chúng ta theo tự do và tình yêu của Ngài. Trước lời
phàn nàn của những người thợ làm từ sáng sớm mà cũng lãnh công như những người
làm sau, Ngài đã khẳng định quan điểm của Ngài, Ngài hoàn toàn tự do làm theo ý
định của mình, Ngài muốn làm cách nào, lúc nào, chọn ai đều tuỳ ý Ngài mà không
phải lệ thuộc ai cả. Tuy có quyền tự do của mình, nhưng Thiên Chúa không dùng
tự do đó mà làm thiệt hại cho người khác: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với
bạn”. Thiên Chúa luôn công bằng, chỉ có con người mới đối xử bất công với nhau
vì thiếu lòng nhân từ, vì cách nhìn ghen tị của mình.
Quả thật, ông chủ vườn nho được tự do
dùng tiền của mình, thì tại sao Thiên Chúa lại không được tự do trong việc yêu
thương? Ông chủ trả lương rộng rãi với nhóm người này mà vẫn giữ công bằng với
nhóm kia, thì Thiên Chúa trải rộng tình thương của Ngài đến mọi người mà không
cần theo tính toán của người đời. Cách xử sự của Thiên Chúa khác xa với cách xử
sự của mọi người. Có lẽ khó gặp được chuyện này trong cuộc sống hằng ngày,
nhưng lại xảy ra hằng ngày trong đời sống thiêng liêng: Thiên Chúa ban ơn nhiều
hơn lòng mong đợi của con người.
Thiên Chúa rất nhân từ và tốt lành,
Ngài ban ơn cho mỗi người và mọi người mà không tính toán thời điểm, tuổi tác.
Chỉ có con người là hẹp hòi, ích kỷ đối với nhau qua hình ảnh những người thợ
làm vườn nho. Những người làm từ đầu, làm nhiều giờ hơn, không vui mừng khi
thấy ông chủ trả lương cho những người vào làm sau, làm ít giờ hơn cũng bằng
họ, họ đã ghen tị đến đấu tranh với ông chủ, đó là tâm trạng chung của con
người chúng ta: hay so đo, tính toán, thắc mắc, phân bì, ghen tị, ganh ghét.
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị là một trong
bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ ghen tị là người không muốn ai hơn mình, mà
nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó chịu, buồn sầu, tức bực và oán ghét với những
thành công của người khác. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan
sắc, thành công, nhân đức. Người ta ghen tị nhau vì không lượng đúng giá trị
những gì mình có, không thoả mãn với hiện trạng của mình, không nhận ra vị thế
của mình, lúc nào cũng thấy núi khác cao hơn. Người ta ghen tị nhau vì kiêu
ngạo, vì ích kỷ, không muốn ai thành công hơn mình, đạo đức hơn mình, phục vụ
hơn mình. Càng liên hệ thân thiết với nhau người ta càng ghen tị nhau. Thường
thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng gia tộc, cùng một tình thân như
bạn bè mới ghen tị nhau, chẳng hạn chị em ghen tị nhau, nhà giáo, nghệ sĩ, hàng
thịt, hàng cá… ghen tị nhau.
Chúng ta có thể cười người khác khi
thấy họ ghen tị và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con, nhưng chính chúng ta
cũng nên phản tỉnh lại xem: chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác
đau khổ, chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi, giúp đỡ họ. Cho nên, thường
chúng ta hay đi chia buồn hơn là đi chia vui. Có ai vui một cách thành thực khi
anh em mình được may mắn, thành công chăng? Hay là chúng ta tủi thân, rồi mỉa
mai, bôi bác họ?
Chúng ta hãy nhớ: ghen tị sinh ra
nhiều tai hại: ghen tị sinh ra ghen ghét, ghen ghét sinh ra oán thù. Ghen tị thường
đi đến chỗ nói xấu, nói hành, dèm pha, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm
mất tình bác ái và gây nên bao gương mù gương xấu. Vì thế, chúng ta phải tốp
ngay, phải ngưng ngay cái tật xấu ghen tị này. Chúng ta phải biết đánh giá trị
đúng của anh em mà vui cùng kẻ vui. Chúng ta phải tránh sự ghen tị như tránh
rắn độc.
Tóm lại. Tin Mừng hôm nay nhắc nhở
chúng ta hai điều: Thứ nhất, chúng ta phải luôn khiêm nhường nhìn nhận mình
không là gì cả, lúc nào cũng phải nương nhờ vào ơn Chúa, vì tất cả những gì
chúng ta đã có, đang có hay sẽ có đều là do Chúa ban, Chúa là Đấng tốt lành vô
cùng. Thứ hai, mỗi người hãy bằng lòng với hiện trạng của mình, bằng lòng với
những gì mình đang có, đừng nhìn vào người khác mà phân bì ghen tị. Ghen tị làm
mất tình yêu thương và gây nên những gương mù gương xấu. Xin Chúa cho chúng ta
biết đánh giá trị đúng về mình và về anh em, để chúng ta không phân bì, kể công
với ai và cũng không phân bì, ghen tương ai.
12. Ganh tị
Có lẽ bài học đầu tiên chúng ta biết
về lẽ công bình đã xảy ra ở trên bàn ăn khi người mẹ phân chia những miếng bánh
cho các con mình. Con mắt ganh tị của chúng ta đã phân biệt từng chi tiết nhỏ
xem miếng nào lớn hơn, ngon hơn, và đáng giành hơn, rồi than phiền: “Mẹ, mẹ cho
em miếng bánh lớn hơn miếng của con!” Chúng ta đã không biết nhiều về lẽ công
bình, nhưng chỉ biết đến nó khi nhận phần bánh nhỏ hơn. Nếu khôn ngoan, người
mẹ có thể giải thích: “Con ơi, sớm muộn gì con cũng sẽ phải học để biết rằng
cuộc đời không luôn luôn công bằng đâu!” Điều này trẻ con chưa thể hiểu được,
nhưng sau này lớn lên chúng sẽ hiểu.
Đúng như vậy! Cuộc đời không luôn luôn
công bằng. Và nhận ra được điều này cũng không phải là dễ, Có lẽ phải mất một
thời gian khá lâu trước khi chúng ta biết được rằng người mẹ hay Thiên Chúa có
những lý do chính đáng để hành động, và những lý do này thường căn cứ trên tình
yêu, lòng nhân từ và quảng đại.
Trước hết, người mẹ đã làm ra chiếc
bánh và có thể cho theo ý người mẹ muốn. Thứ đến, nếu người em của tôi có vẻ
bệnh – đây là điều khi còn bé tôi không bao giờ nghĩ đến – người mẹ có thể cho
nó thêm một tí nữa để có sức khoẻ, mau khỏi bệnh. Nhưng chắc chắn một điều là
người mẹ hay Thiên Chúa, Đấng đã làm nên mọi sự, không bắt buộc phải cắt nghĩa
cho chúng ta biết lý do. Khi chúng ta lớn lên, chúng ta sẽ nhận ra rằng người
mẹ và Thiên Chúa thường có những lý do riêng dựa trên tình yêu. Các ngài nhìn
thấy điều chúng ta cần.
Điều này được diễn tả trong bài Phúc
âm hôm nay, dụ ngôn thợ làm vườn nho. Đối với công đoàn lao động, việc người
chủ vườn trả tiền mướn cho các nhân công làm việc chỉ một giờ hay vài giờ cùng
số tiền lương trả cho những người làm việc suốt ngày từ sáng đến tối là điều
bất công. Nhưng trước khi chúng ta nói người chủ hay Thiên Chúa bất công, xin
hãy đọc kỹ những lời người chủ nói với những người than phiền trong Phúc âm:
“Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với
tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau
hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh
tị, vì tôi nhân lành chăng?”
Tại sao người chủ đã trả cho những
người đến sau cùng số lương bằng với những người làm việc suốt ngày? Thưa vì
tình thương! Tất cả các công nhân đều có gia đình, cần tiền để nuôi vợ con. Thứ
đến, người chủ biết những người đến vào giờ phút cuối đã đi tìm việc làm suốt
ngày mà không có. Đối với người chủ cả hai lý do đều tốt lành để hành động và
không ai có lý do gì để phê bình ông cả. Nhưng không may, những con mắt ganh tị
do lòng ích kỷ đã làm họ trở nên bất mãn.
Cuốn phim
“Amadeus” kể về cuộc đời của thiên tài âm nhạc, Wolfgang Amadeus Mozart (1756 –
1791). Câu chuyện diễn tả Mozart như một con người khá kỳ dị, gần như bị bệnh
loạn thần kinh, nhưng lại là một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác rất tài ba.
Một trong
những nhân vật đáng chú ý nhất trong cuốn phim, bên cạnh Mozart, là nhạc sĩ
Solieri. Solieri là nhạc sĩ của hoàng cung đã nổi giận với Mozart vì ông tự cho
mình là xứng đáng và giỏi hơn Mozart. Solieri đã khinh ghét và coi Mozart chỉ
là một tên trẻ con, suồng sã, kiêu căng và khả ố. Tại sao Mozart lại có thể là
một nhạc sĩ dương cầm và sáng tác tài ba như vậy được trong khi tư cách của
Mozart không xứng đáng? Trái lại, Solieri là đầy tớ của Thiên Chúa, vâng phục
Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Thế. Chính ông mới là con người tốt hơn và xứng đáng
hơn, vậy tại sao Thiên Chúa đã không ban cho ông món quà tài năng này mà lại
ban cho Mozart?
Ngoài tính
nết trẻ con, Mozart còn quá lố hơn nữa, dám vượt ra ngoài những giới hạn cổ
truyền có thể chấp nhận được. Tuy vậy, vua Joseph II Ao Quốc vẫn thích Mozart.
Mozart xin phép vua được sáng tác một vở nhạc kịch bằng tiếng Đức. Vào lúc đó,
chưa có ai được phép sáng tác nhạc kịch bằng tiếng Đức cả. Tất cả nhạc kịch đã
được sáng tác và trình diễn đều bằng tiếng Ý. Solieri, một người Ý, vừa bị sỉ
nhục về tài năng, vừa bị đe doạ về chức nghiệp vì vở nhạc kịch bằng tiếng Đức
của Mozart.
Solieri rất
ganh tị và buồn bực vì bản nhạc kịch của Mozart đã thành công rực rỡ. Khắp nơi
đều vang lên những lời ca ngợi về nhạc của Mozart cho đến nỗi chính Solieri
cũng phải yêu thích nó. Tuy nhiên, ông lại muốn là chính ông đã sáng tác ra nó.
Solieri biết rằng Thiên Chúa đã ban cho Mozart một thiên tài âm nhạc mà chính
ông mới xứng đáng chứ không phải Mozart. Trong giây phút phẫn uất và tuyệt
vọng, Solieri cảm thấy Thiên Chúa đã bỏ rơi ông, ông gỡ ảnh thánh giá treo trên
tường xuống, đem đi đốt. Ông muốn không có sự thiên vị và đòi hỏi sự công bằng.
Ông muốn được Thiên Chúa ban cho tài năng để làm việc phục vụ Ngài. Tuy nhiên
như chúng ta thấy trong bài Phúc âm hôm nay, tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa
rất khác với những nguyên tắc của con người về lẽ công bằng!
Pascal đã nói: “Con tim có lý lẽ riêng
của nó”. Khi yêu ai người ta dám hy sinh tất cả mọi sự, ngay cả mạng sống mình
cho người mình yêu. Sự kiện Thiên Chúa yêu thương con người đến nỗi đã ban Con
Một Người xuống trần gian, chịu chết trên thập giá vẫn là một mầu nhiệm khó
hiểu của tình yêu Thiên Chúa.
13. Ganh tị
Trong cuốn
tiểu thuyết được soạn thành nhạc kịch “Những Kẻ Khốn Cùng” (Les Miserables),
của Victor Hugo, nhân vật chính là Jean Valjean, đã được thả ra sau 19 năm chịu
khổ sai trong tù. Anh bị tù vì tội ăn cắp một ổ bánh mì cho những người con của
bà chị ăn qua cơn đói. Sau khi được tự do, anh bước đi lang thang cả ngày để
tìm thức ăn và chỗ ngủ qua đêm, không một ai trong làng dám chứa chấp một người
đã có án tù ở trong nhà. Sau cùng, một vị giám mục tốt lành đã mở cửa đón tiếp
Valjean với một bữa ăn tối và chỗ ngủ qua đêm. Tại bữa ăn tối, bà giúp việc cực
lực phản đối giám mục đã ra lệnh cho bà phải dọn bàn ăn với bộ muỗng dĩa bằng
bạc mà toà giám mục thường dùng để tiếp khách. Đêm hôm đó, valjean đã ăn cắp
toàn bộ muỗng dĩa bằng bạc, rồi trốn ra khỏi nhà.
Ngày hôm sau
trên đường tẩu thoát, anh nói dối với cảnh sát rằng Đức giám mục đã ban cho anh
những món đồ quý giá làm kỷ niệm. Nghi ngờ, cảnh sát đem anh trở lại toà giám
mục với những món đồ đã bị ăn cắp. Khi họ vừa đến toà giám mục, Đức giám mục đã
nói ngay rằng ngài rất vui mừng gặp lại Valjean, vì ngài muốn tặng thêm cho anh
những cái chân đèn bằng bạc nữa. hành động tha thứ và nhân từ đáng kính phục
này đã gây ảnh hưởng lớn lao trên cuộc đời của Valjean tới nỗi anh đã thay đổi
hoàn toàn, và trở thành một con người mới. Sau cùng anh đã dâng hiến cuộc đời
còn lại để phục vụ tha nhân với lòng nhân từ hơn là lẽ công bằng.
Người chủ
vườn nho đã cư xử với các công nhân theo định luật của tình yêu và lòng nhân
từ, không phải luật lệ của kinh tế hay toán học nhắm vào tư lợi.
Trong một cuộc phỏng vấn dành cho báo
ZENIT ngày 3/12/2000, Đức Hồng Y Nguyễn văn Thuận đã diễn tả những kinh nghiệm
của ngài về 13 năm tù tội. Với những bạn tù không Công giáo, tọc mạch muốn biết
làm cách nào ngài có thể giữ vững niềm hy vọng của ngài, ngài trả lời: “Tôi đã
bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, bởi vì tôi yêu những khuyết điểm của Chúa Giêsu”.
Tồng giám mục, lúc đó nói: “Trong lúc hấp hối trên thánh giá, người trộm cướp
xin Chúa nhớ đến hắn khi Chúa vào Vương Quốc của Người. Nếu là tôi, tôi sẽ trả
lời: “Tôi sẽ không quên anh, nhưng anh phải đền các tội ác của anh trong luyện
ngục”. Nhưng Chúa Giêsu trả lời: “Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi”.
Chúa đã quên tội lỗi của người này. Cũng một sự việc đã xảy ra với bà Mary
Magdalene, và với người con trai phung phí. Chúa Giêsu không nhớ tí nào, Người
tha thứ cho toàn thế giới”.
“Chúa Giêsu không biết toán học”, ngài
nói thêm: “Điều này được thấy rõ trong dụ ngôn người mục tử tốt lành. Người có
100 con chiên, một con bị thất lạc và không ngần ngại Người đi kiếm nó, để 99
con khác trong chuồng, đối với Chúa Giêsu, một con giá trị bằng 99 con, hay là
có khi hơn nữa.
Dụ ngôn người thợ làm vườn nho được
bắt đầu bằng chữ “Nước Trời”. Chúa Giêsu nói về Thiên Chúa và luật lệ của Nước
Trời. Trong cuốn “The Divine Trap”, Richard Hoefler nói rằng: “Trước hết Thiên
Chúa là người chủ tuyệt đối. Theo như dụ ngôn nói với chúng ta, Người làm điều
mà Người muốn làm với cái gì thuộc về Người. Vương Quốc Thiên Chúa không phải
là một nền dân chủ nơi mà chúng ta quyết định cái cách thức những sự việc sẽ
được làm bởi một đa số phiếu bầu cử”.
Chúa Giêsu đã nói dụ ngôn này không
những với các môn đệ của Ngài, mà còn cho các người Biệt phái, là những người
đã có quan niệm rằng Vương Quốc Thiên Chúa thuộc quyền sở hữu chủ của họ.
Richard Hoeffer đã nhận xét:
“Những người Biệt phái đã quên điều
này. Vương Quốc Thiên Chúa thuộc về Thiên Chúa. Chúa Giêsu đối chất với họ rằng
các ông đã khoe mình là những người đạo đức, có phải vậy không? Mọi người đều
biết và kính trọng các ông vì điều này. Đó là tiền công các ông đã được trả. Đó
là điều Thiên Chúa thưởng cho các ông. Còn đối với những người khác, những
người tội lỗi và nghèo khó, họ có sự liên hệ độc đáo của họ với Thiên Chúa.
Ngài sẽ cư xử với họ theo như Ngài muốn, vì tất cả đều chỉ là những công nhân
trong vườn nho của Ngài. Trong vườn nho này, Thiên Chúa là chủ. Ngài có quyền
tuyệt đối phân phát tiền lương và phần thưởng tuỳ theo ý của Ngài và chỉ có
thánh ý Ngài mà thôi”.
Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Isaia
đã viết: “Tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các người, và đường lối
của các ngươi không phải là đường lối của Ta. Trời cao hơn đất chừng nào thì
đường lối của Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi, và tư tưởng của Ta cũng cao
hơn tư tưởng các ngươi chừng ấy”.
Hãy cảm tạ Thiên Chúa đã mời gọi chúng
ta đến làm việc trong vườn nho của Ngài. Hãy bằng lòng với những ơn lành của
Ngài thay vì đòi hỏi và ganh tị. Hãy dâng lên Thiên Chúa tâm tình phó thác như
lời cầu nguyện của Đức Hồng Y John Henry Newmann:
“Chúa đã ủy thác cho tôi vài công việc
mà Ngài không ủy thác cho kẻ khác. Tôi có sứ mệnh của tôi. Có thể tôi không bao
giờ biết được nó trong cuộc sống này nhưng trong cuộc sống mai hậu ắt tôi sẽ
rõ. Vì thế, tôi tin vào Ngài. Ngài không làm điều gì vô ích. Ngài có thể kéo
dài hay rút ngắn cuộc sống của tôi; Ngài biết rõ điều Ngài định làm. Ôi lạy
Chúa, con xin hiến dâng trọn vẹn toàn xác hồn con trong tay Ngài”.
14. Lòng quảng đại của Thiên Chúa
Douglas được
cả nước biết như là người sáng tạo ra giầy dép. Trong những năm đầu, ông bị
thất nghiệp lâu dài đến nỗi chỉ còn một đồng tiền cuối cùng. Tuy nhiên, ông đã
bỏ một nửa đồng đó – tức là 50 xu – vào giỏ xin tiền ở nhà thờ. Sáng hôm sau,
ông nghe biết có một công việc ở thành phố bên cạnh mà vé đi xe lửa là một
đồng. Xem ra nếu giữ lại 50 xu kia thì thật là khôn ngoan. Tuy nhiên, ông đã
mua vé với 50 xu còn lại và đi nửa đường tới nơi gần đến. Ông bước ra khỏi xe
lửa và bắt đầu đi bộ qua thành phố.
Trước hết
ông đi tới một khu nhà lớn, ông nghe rằng có xí nghiệp ở một quãng đường nữa –
đang cần thuê công nhân. Trong vòng 30 phút, ông có được một việc làm với tiền
lương là 5 đô la một tuần, còn hơn số lượng ở thành phố khác. Tiền lương tuần
lễ đầu tiên của ông đã gấp 10 lần số tiền ông giúp cho công việc của Chúa.
Chúa Giêsu cũng vừa nói với chúng ta
về một số người thất nghiệp khác. Người chủ nhà cho họ làm việc vào những giờ
khác nhau trong ngày. Một ít người làm trọn ngày, những người khác chỉ làm vài
giờ, và số người khác nữa làm việc có một giờ thôi. Vậy mà đến chiều ông chủ
chỉ trả tiền công cho họ bằng nhau. Những người làm việc trước tự nhiên than
phiền, nhưng người chủ trả lời: “Sao các anh lại ghen tỵ về lòng quảng đại của
tôi?”
Bài học chính này là Thiên Chúa luôn
quảng đại, Nước Trời không hoạt động như nước trần gian, và đường lối của Thiên
Chúa không phải là đường lối của loài người, như bài đọc I nói với chúng ta.
Phải, Thiên Chúa rất quảng đại. Bắt đầu với lòng quảng đại, Thiên Chúa tạo dựng
chúng ta, chia sẻ cho chúng ta sự sống và hạnh phúc của Ngài. Dĩ nhiên, với
lòng quảng đại, Thiên Chúa ban cho chúng ta ý chí tự do để chúng ta có thể
quyết định yêu mến Thiên Chúa hay không, lãnh nhận phần thưởng Nước trời hay
không.
Thiên Chúa đã tỏ lộ cho chúng ta nhiều
phúc lành về thể xác và tâm hồn. Ngài cung cấp cho ta dồi dào thực phẩm. Sự
thiếu thốn ngày nay là do tính tham lam và quản lý tồi của con người.
Con Thiên Chúa là chính lòng quảng
đại: Khi Chúa Giêsu biến nước thành rượu, Người bảo những người giúp việc đổ
nước đấy chum “cho tới miệng”, với mẻ cá lạ lùng “họ chất đầy hai thuyền”. Ngài
hóa bánh ra nhiều với vô số đến nỗi bánh dư lại “còn 12 thúng”. Ngài rộng rãi
khen ngợi đồng tiền quảng đại của bà góa. Ngài ban rộng rãi thời gian, sức mạnh
và mối thương cảm. Và sau hết, Ngài đã đổ ra đến giọt máu châu báu cuối cùng mà
cứu độ chúng ta. Ngài còn tiếp tục ban Mình và Máu Ngài trong Thánh lễ này cũng
như mỗi thánh lễ trên khắp cả thế giới trong mọi lúc.
Đấng Thiên Chúa làm người quảng đại
dạy ta rằng: “Hãy cho, người ta sẽ cho lại, và họ sẽ đong cho anh em những đấu
lớn, lắc chặt và đầy tràn, vì anh em đong đấu nào thì sẽ được đong lại bằng đấu
ấy” (Lc 6,38). Người anh hùng trong câu chuyện, Douglas, một thợ đóng giày đã
kinh nghệm điều này.
Ước gì tất cả chúng ta kinh nghiệm
được những kết qủa của lòng quảng đại. Ước gì chúng ta quảng đại với Thiên Chúa
vì Ngài luôn quảng đại với ta.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
15. Thợ làm vườn nho
Có lẽ nhiều
người đã biết đến chuyện nhà triệu phú của một người Mỹ, ông là chủ những tiệm
giầy bên Hoa Kỳ. Lúc còn thanh niên nghèo sơ nghèo xác. Có tần vào nhà thờ dâng
lễ, trong túi chỉ còn một đồng duy nhất, ông đã không ngần ngại dâng cho Chúa
nửa đồng, còn lại nửa đồng.
Sáng hôm
sau, khi đọc trên báo thấy nơi thành phố bên cạnh có hãng cần người làm việc,
anh ra mua vé xe, nhưng rủi thay vé xe một đồng mà bây giờ anh chỉ còn lại nửa
đồng, cứ mua vé xe đi nửa đoạn đường và chủ trương sẽ đi bộ nửa đoạn đường còn
lại. Nhưng khi đến nhà ga nửa đường, anh xuống xe và khi vừa bước đi bộ vài
trăm thước thì anh thấy cạnh đường có xưởng đang cần người làm việc vôi số
lương cao hơn với số lương của công việc mà anh định đến xin nơi thành phố bên
cạnh.
Như thế, có
thể nói: Anh đã đóng góp cho Chúa nửa đồng, Chúa đã cho lại anh góp trăm tần,
nhiều hơn cũ. Và chúng ta cũng nhớ chuyện dụ ngôn của Tagore, thi sĩ Ấn Độ về
người ăn mày chỉ cho Chúa một nắm gạo, nhưng Chúa cho lại một cục vàng Những
người thợ chỉ đóng góp cho Chúa vào giờ cuối cùng, chỉ có một, hai giờ đồng hồ
làm việc, thế mà được Chúa trả công gấp mấy tần, bằng những kẻ mệt nhọc cả
ngày.
Bài dụ ngôn không chú trọng đến việc
đóng góp của con người, nhưng đến thái độ quảng đại của Thiên Chúa là chủ vườn
nho, hơn quá sức tưởng lượng của con người, hơn quá sức tưởng tượng của những
người thợ. Thái độ của những người Pharisiêu nghe Chúa nói dụ ngôn này, thái độ
của một số anh chị em Kitô đầu tiên từ Do Thái giáo hay những người Kitô giáo
đến từ dân ngoại, và ngày hôm nay thái độ của mỗi người chúng ta, thái độ ỷ lại
vào công nghiệp trước mặt Chúa hay vào sự đóng góp của mình cho Chúa, rồi sinh
ra ganh tị, khinh dể những anh chị em khác mà mình cho là không có công khó gì
đối với Chúa.
Trong Nước Chúa, tất cả đều là ân
sủng, tất cả đều do Thiên Chúa bắt đầu trước, phần con người chỉ đáp trả công
vào ân sủng Chúa ban mà thôi. Vì thế, không nên có thái độ ganh tị, ỷ lại,
không nên tự phụ, tự kiêu vì những công việc của mình, nhưng hãy khiêm tốn đón
nhận, tin thắng vào lòng nhân từ của Chúa là Đấng luôn sẵn sàng ban ơn cho mỗi
người chúng ta vượt quá lòng chúng ta mong ước.
Nơi bài đọc II, thánh Phaolô trình bày
cho các tín hữu Philipphê và cho tất cả mọi người chúng ta hôm nay một bí quyết
để sống, đó là không nhìn để so sánh mình với người anh em bên cạnh rồi ganh
tị.
Nhưng hãy nhìn lên mẫu gương của Chúa,
quyết tâm sống như Chúa Kitô, sống kết hiệp mật thiết với Ngài.
Thánh Phaolô đã viết cho các tín hữu
Philipphê mà chúng ta đã đọc trong bài đọc II là “dù tôi sống hay tôi chết, Đức
Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi, đó là sống kết hiệp với Chúa Kitô, chúng
ta chỉ nhắm đến một mục đích duy nhất mà thôi “sống như Chúa Kitô, sống kết
hiệp với Chúa”, để rồi từ đó chúng ta có thể đem cuộc sống của mình, lài năng
của mình mà phục vụ cho anh chị em xung quanh. Dù tôi sống hay tôi chết, Đức
Kitô được vẻ vang trong thân xác tôi qua những việc làm tốt, những việc bác ái
mà chúng ta thực hiện hằng ngày.
Điểm thứ hai chúng ta có thể lưu ý
trong bài Phúc âm hôm nay, đó là phản ứng của con người trước lòng quảng đại
của Thiên Chúa. Con người hay những người thợ được ông chủ vườn nho mướn vào
làm vườn nho cho có thái độ hẹp hòi, ganh tị, đặt giới hạn cho lòng quảng đại
nhân từ của Thiên Chúa: “Ta không có quyền phân phát theo ý Ta hay sao? Hay vì
Ta quá quảng đại mà các người lại ganh tị hẹp hòi”.
Đó là bài học mà Chúa Giêsu muốn ghi
khắc vào tâm trí các tông đồ qua bài dụ ngôn trên. Lòng quảng đại của Thiên
Chúa đối với con người vượt quá sự con người có thể nghĩ đến, nhưng không vì
thế mà lỗi luật công bằng. Tình thương của Chúa vượt quá mức độ công bằng,
nhưng không hủy bỏ sự công bằng. Sự công bằng của Thiên Chúa không như sự công
bằng mà con người chúng ta tưởng nghĩ: “Há anh đã chẳng đồng ý với Ta tiền
lương mỗi ngày một đồng như vậy hay sao? Ngoài ra, Ta muốn thêm cho những kẻ
đến sau bằng những người đến trước, há Ta chẳng làm được như vậy hay sao?”
Qua lòng tốt của Chúa, xem ra như là
Thiên Chúa thiên vị, nhưng sự thật lòng tốt vô biên ấy đã phơi bày tật xấu,
lòng ganh tị của những kẻ đến trước ỷ lại vào công nghiệp riêng của họ, làm
việc cực mệt, nhọc nhằn suốt ngày để yêu sách Thiên Chúa phải thế này, thế nọ,
phải cho họ hơn những người khác, những kẻ đến sau, những kẻ không có công
trạng gì, những người tội lỗi, những người thấp kém trong xã hội. Tựu trung tất
cả chỉ vì ganh tị với anh em xung quanh mà họ đã có thái độ phân bì như vậy.
Sự ganh tị làm cho con người mất đi
lòng biết ơn đối với kẻ thi ân. Thiên Chúa là Đấng thi ân cho con người theo
chương trình Ngài muốn, Ngài ban cho mỗi người chúng ta biết bao nhiêu hồng ân,
những nén bạc khác nhau, người thì năm nén, người thì hai nén, người thì một
nén, nhưng nếu chúng ta ghen tị thì thay vì chúng ta cảm lạ Thiên Chúa, vì
những hồng ân mình đã nhận được; thì chính lúc đó chúng ta quay lại trách móc
Thiên Chúa bất công, thiên vị.
Lạy Chúa, xin giúp cho mỗi người chúng
con biết vượt qua được những thái độ ganh tị này. Xin Ngài mở rộng tâm hồn
chúng con, để chúng con được sống khiêm tốn và quảng đại như Chúa, luôn biết
nhìn ra những hồng ân của Chúa ban cho chúng con mà cảm lạ tri ân, chúc tụng
Ngài. Xin Chúa gìn giữ mỗi người chúng con trong đức tin mà giờ đây chúng con
cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
16. Lòng tốt của Thiên Chúa
(Trích trong ‘Hạt
Giống Nảy Mầm’ – Những gợi ý suy niệm của Lm Trọng Hương)
1. Tư tưởng Của Thiên Chúa không giống tư
tưởng loài người
Loài người chúng ta suy nghĩ giống như
một người buôn bán: món hàng trị giá thế nào, vậy phải mua thế nào, bán thế
nào? bao nhiêu thì đúng, bao nhiêu thì sai?
Chúng ta áp dụng suy nghĩ ấy chẳng
những trong đối xử với người khác, mà còn cho cả Thiên Chúa nữa: tôi đã làm gì
và làm bao nhiêu, cho nên Thiên Chúa phải ban cho tôi ơn gì và ban bao nhiêu.
Chúng ta cho rằng như thế là công bằng.
Nhưng Thiên Chúa không muốn làm người
bán, cũng không muốn làm người mua. Ngài chỉ muốn làm người Cha, yêu thương
chúng ta là con. Ngài chỉ có thương yêu và chỉ dùng lòng tốt để đối xử. Đối với
từng dứa con, Ngài không xét xem nó đã làm được gì, nó đáng được bao nhiêu.
Ngài chỉ nghĩ nó cần được chăm sóc như thế nào, ban cho nó cái gì là tốt nhất.
Khi lẩm bẩm trách, những người thợ làm
nhiều giờ muốn lấy suy nghĩ của mình áp đặt lên suy nghĩ của ông chủ, họ muốn
ông đừng làn người cha yêu thương mà hãy làm người buôn bán vô tình.
2. Công bình và thương xót
Nhiều người đọc xong dụ ngôn này đã
nghĩ rằng Thiên Chúa đối xử không công bình vì Ngài đã trả cùng một đồng cho
những người làm việc suốt ngày và người chỉ làm có một giờ.
Thực ra chẳng có gì là không công bình
cả: Vì ông chủ đã thỏa thuận với thợ về tiền công mỗi ngày là một đồng, nên nếu
ông trả không đủ một đồng thì mới bất công. Nói cho đúng hơn: đối với những
người làm suốt ngày thì ông chủ công bình; còn đối với người làm chỉ có một giờ
thì ông chủ đã đối xử hơn mức công bình: ông đối xứ theo lòng thương xót.
Xem ra, đòi hỏi công bình là điều hợp
lý. Nhưng xét theo thực tế, chúng ta không chịu nổi nếu Chúa cứ theo công bình
mà đối xừ với chúng ta, đúng như lời Thánh vịnh “Nếu Chúa chấp tội thì ai nào
đứng vững được”. Cho nên, xét cho cùng thì chúng ta cần đến lòng thương xót của
Chúa hơn là đến đức công bình của Ngài.
Vả lại đối xử công bình là đối xử bằng
lý, còn đối xử với lòng thương xót là đối xử theo tình. Mỉa mai thay, bất chính
như con người thì hay đòi đối xử bầng lý, còn công chính như Thiên Chúa lại
thích đối xử bằng tình.
Flor McCarthy đã chứng kiến một cảnh
tượng tương tự với dụ ngôn này và cho biết ông đã thay đổi cách suy nghĩ ra sao
sau khi chứng kiến nó: có lần ông đến Cape Town nước Nam Phi. Đó là một buổi
sáng mùa hè. Ông thấy một đám đông đứng ngoài đường không làm gì cả.
Ban đầu ông nghĩ rằng đó là những kẻ
lười biếng, đang khi những người khác lo làm ăn thì những người này đứng đó
chẳng làm gì cả. Đến trưa ông vẫn còn thấy đám người ấy vẫn đứng đó, mồ hôi đã
nhễ nhại ướt đẫm lưng áo. Hỏi kỹ thì mới biết họ là những người thất nghiệp. Họ
đứng chờ ngoài nắng, hy vọng có ai đến thuê họ đi làm chăng. Mãi tới chiều ông
vẫn thấy đám người đó.Và khi hết ngày, họ lủi thủi ra về, trông rất tội nghiệp.
Hôm đó MaCarthy rất hối hận vì đã kết án những người vô tội thất nghiệp ấy. Và
ông đã soạn một lời cầu nguyện như sau:
“Tư tưởng của Ta không giống tư tưởng
các ngươi và đường lối Ta không giống đường lối các ngươi”
“Như trời xanh cao hơn đất bao nhiêu thì
đường lối Ta cũng cao hơn đường lối các ngươi bấy nhiêu”
Lạy Chúa,
Tư tưởng chúng con rất nông cạn, đường
lối chúng con rất hẹp hòi, chúng con nghèo nàn và con tim chúng con chật chội.
Xin Chúa mở rộng trí óc và con tim chúng con để chúng con suy nghĩ giống Chúa
hơn, và hành động giống Chúa hơn.
Xin giúp chúng con đừng bực bội vì
lòng tốt của Chúa đối với người khác
Xin giúp chúng con đừng cho rằng chúng
con đáng được Chúa thưởng công
Xin giúp chúng con ý thức rằng chúng
con cần đến lòng thương xót hơn là đức công bình của Chúa. Amen.
3. Giờ thứ 11
Cuối đoạn Tin Mừng này có một câu bất
ngờ: “Kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết “
Trong Tin Mừng có nhiều thí dụ minh
họa: Một chàng thanh niên giàu có và đạo đức hỏi Đức Giêsu: tôi đã giữ các giới
răn từ thuở nhỏ, vậy tôi phải làm gì thêm để được sự sống đời đời làm gia
nghiệp? Lần kia Phêrô áy náy trình với Chúa: Thưa Thầy này chúng con đã bỏ mọi
sự mà theo Thầy, vậy thì sao? Bồn chồn hơn nữa hai người con ông Dêbêđê nghĩ
rằng mình thuộc số môn đệ đi theo Thầy trước hết cho nên xin Thầy dành cho mình
hai chỗ tả hữu trong Nước của Ngài. Nhưng, đối với những “kẻ trước hết” ấy, Đức
Giêsu đã không dành hai chỗ tả hữu ưu tiên, Ngài lại ban chúng cho hai tên trộm
cướp. Đúng vậy, hai “kẻ sau hết” này đã ở hai bên tả hữu của Thập giá.,
Nói “trước hết” và “sau hết là tính
theo thời gian. Nhưng liên hệ với Chúa không tính bằng thời gian mà bằng sự gắn
bó tình yêu.
4. Hãy có một não trạng mới
Điểm sâu sắc nhất của dụ ngôn những
người thợ vườn nho là đặt đối lập nhau hai não trạng:
a/ Não trạng
của những thợ làm nhiều giờ là óc tính toán: làm gì cũng là để tính công, công
càng nhiều thì phải được hưởng càng nhiều.
Đây là não
trạng của đa số tín hữu chung ta. Chúng ta tính toán mình đã giữ đạo bao nhiêu
năm, đọc kinh dự lễ bao nhiều lần; làm việc lành phúc đức bao nhiêu việc v.v.
Với não
trạng ấy, chúng ta chăm chăm nhìn đến những việc mình đã làm và cứ bo bo nhìn
vào sổ thu của mình. Chúng ta nghĩ rằng khi đến cuối đời (hết ngày làm việc),
trình quyển sổ thu đó cho Chúa thì chắc chắn Ngài sẽ mở kho tàng ơn cứu độ và
thanh toán sòng phẳng cho chúng ta.
Nhưng trong
não trạng ấy, ta là ai, Thiên Chúa làm ai, liên hệ giữa Thiên Chúa và ta là gì?
Ta chỉ là người làm công, Thiên Chúa là người thuê mướn, liên hệ hai bên là hợp
đồng làm ăn: sống đạo theo não trạng này thật là nặng nhọc và vô tình, vô nghĩa.
b/ Thực ra,
Thiên Chúa đâu có tự coi là người thuê mướn và cũng đâu có coi chúng ta là
người làm công. Thiên Chúa yêu thương chúng ta theo hoàn cảnh của mỗi người
chúng ta. Người thì hoàn cảnh này (đứng trước vườn nho từ sáng sớm), người thì
hoàn cảnh khác (đứng trước vườn nho khi đã gần hết ngày), nhưng người nào cũng
được Thiên Chúa thương và ban cho ơn cứu độ (được vào vườn nho, được lãnh một
đồng).
Não trạng
thoải mái và hạnh phúc nhất là cảm nhận tình thương ấy và đáp lại tình thương
bằng cách tận tâm tận lực canh tác vườn nho, không tính toán làm lâu hay làm
mau, làm được nhiều hay làm được ít, chịu cực khổ nhiều hay ít.
Cần phải
thay đổi não trạng: sống đạo không bằng tính toán mà bằng cả tấm lòng.
5. Chuyện minh họa
Đây là diễn tiến một cuộc chạy đua
3000 mét. Lúc bắt đầu, những tay đua chạy san sát nhau thành một nhóm rất đông.
Một lúc sau, một nhóm nhỏ đã tách rời đám đông và chạy phía trước. Còn vài chục
mét nữa thì một người vọt lên rất nhanh và tới đích.
Khán giả vỗ tay hoan hô nồng nhiệt.
Một số người ôm những bó hoa tới tặng nhà vô địch. Các phóng viên xách Camera
và máy chụp hình tới, vừa bấm máy, vừa thu hình, vừa phỏng vấn. Những người hâm
mộ tới xin chữ ký. Một số hãng thương mại đến đề nghị ký hợp đồng với nhà vô
địch.
Cuối cùng, ông chủ tịch Ban Tổ chức
xuất hiện. Người ta mời nhà vô địch lên đứng trên một chiếc bục cao, người hạng
nhì đứng trên bục bên phải thấp hơn một chút, và người hạnh ba bục bên trái
thấp hơn chút nữa. Người ta mang đến 3 chiếc huy chương để ông chủ tịch đeo vào
cổ họ.
Nhưng ông chù tịch ngỏ ý muốn gặp 3
người tới đích cuối cùng. Ban tổ chức không hiểu, nhưng vẫn làm theo lời ông.
Khi họ tới, ông tươi cười trao chiếc huy chương vàng cho người hạng chót, chiếc
huy chương bạc thuộc về người áp chót, và chiếc huy chương đồng cho người kế
tiếp.
Nhà vô địch bực bội phản đối:
-
Như thế là không công bình!
Ông chủ tịch hỏi lại
-
Tại sao? .
-
Tôi hạng nhất, tôi phải được thưởng. Thì anh
đã được thưởng rồi. Này nhé khán giả đã vỗ tay hoan hô anh, báo chí đã chụp
hình anh, những người hâm mộ đã tặng hoa cho anh, những hãng thương mại đã ký
hợp đồng với anh. Anh đã được thưởng quá nhiều rồi. Bây giờ anh hãy nghĩ tới
những người chạy sau chót: họ cũng cố gắng như anh, vất vả không kém gì anh, và
cũng chạy hết đoạn đường 3000 mét như anh.
Anh thử nghĩ xem có công bình không
khi anh thì được tất cả còn họ thì chẳng được gì?
17. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi
ý:
1.
Bạn có đồng ý với cách xử sự của ông chủ vườn
nho không? Tại sao? Lý do khiến bạn đồng ý hay không đồng ý dựa trên lòng ích
kỷ của con người hay dựa trên lòng yêu thương?
2.
Bạn nghĩ sao về chủ trương «Làm theo khả
năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu»? Bạn có áp dụng chủ trương này trong gia
đình bạn không?
3.
Bạn có phân biệt 2 thứ công bằng: công bằng
có tình thương, và công bằng không có tình thương không? Bạn thích thứ công
bằng nào?
Suy tư gợi
ý:
Theo cách giải thích truyền thống, bài
Tin Mừng này muốn nói tới tính «nhưng không» của Nước Trời: người ta được vào
Nước Trời hoàn toàn do ân sủng của Thiên Chúa ban nhưng không, chứ không phải
do công lao của họ, mặc dù người ta vẫn phải có sự cộng tác của riêng mình. Vì
thế, sẽ có những người theo Chúa từ khi vừa chào đời, những người này được cứu
rỗi là một điều dễ hiểu. Nhưng cũng sẽ có những người đã sống suốt cả một cuộc
đời tội lỗi hoặc không biết Chúa, mãi tới cuối đời mới giác ngộ, mới biết Chúa
và theo Chúa. Cuộc đời họ chỉ theo Chúa vào những giây phút cuối cùng, có thể
một vài năm, mà cũng có thể chỉ một vài phút trước khi chết (như trường hợp
người trộm lành cùng chịu đóng đinh với Đức Giê-su trong Lc 23,39-43). Những
người này cũng được ơn cứu rỗi y như những người đã theo Chúa suốt cuộc đời.
Rất có thể những người sống đạo tốt đẹp suốt cả đời sẽ ganh tỵ với những người
ấy. Dụ ngôn này trả lời cho những người ganh tỵ ấy.
Tuy nhiên, ta có thể giải thích dụ
ngôn này theo một kiểu khác, để áp dụng tinh thần yêu thương một cách vô vị
lợi, ít vị kỷ và bớt tính toán, so đo, hơn thiệt với mọi người. Nhất là để tập
quan niệm, suy nghĩ theo cách của Thiên Chúa, cách vị tha, khách quan, không
qui về mình.
1. Hai thứ
công bằng: của trần gian và của Nước Trời
Mới đọc bài Tin Mừng, ai cũng cảm thấy
ông chủ làm vườn nho đối xử như thế với những người làm thuê là không công
bằng: người làm ít cũng như người làm nhiều đều nhận một mức lương bằng nhau.
Vì theo suy nghĩ bình thường của người đời, người làm nhiều phải hưởng lương
cao hơn người làm ít. Nghĩ như thế là hoàn toàn đúng và hợp lý. Nhưng với tình
thương, người ta có thể suy nghĩ khác, cao hơn, mà vẫn hoàn toàn hợp lý.
Thật vậy, nhân loại sau này có một lý
tưởng rất cao cả mà cho tới nay vẫn chưa thực hiện được, đó là làm theo khả
năng và hưởng thụ theo nhu cầu. Nghĩa là hưởng lương nhiều hay ít tùy theo nhu
cầu của mình nhiều hay ít, chứ không tùy theo mình đã làm nhiều hay ít. Lý tưởng
này ai cũng cho là hợp lý và đầy tình thương hơn lối hành xử thường tình là làm
và hưởng thụ theo khả năng. Biết bao người đã say mê và sống chết cho lý tưởng
ấy: Làm theo khả năng, nhưng hưởng thụ theo nhu cầu. Trong lịch sử con người,
nếu lý tưởng này có được thực hiện, thì nó đã được thực hiện trong cộng đồng
Ki-tô hữu nguyên thủy, một cộng đồng hữu kiểu mẫu cho mọi cộng đồng Ki-tô hữu
về sau.
2. Công bằng
của Nước Trời: công bằng có tình thương
Dụ ngôn này diễn tả Nước Trời, vì nó
khởi đầu bằng câu: «Nước Trời giống như…», chứ không phải nó áp dụng cho thế
gian này. Nước Trời là nước của tình thương, trong đó mọi người đều đối xử với
nhau bằng tình thương, và có như thế Nước Trời mới là nước của hạnh phúc. Do
đó, sự công bằng ở trong Nước Trời là một thứ công bằng có tình thương, chứ
không phải là thứ công bằng vô tâm như ở trần gian. Sự công bằng kiểu trần gian
này nếu được thực hiện thì cũng là phúc cho trần gian, nhưng ngay cả thứ công
bằng này nhiều xã hội cũng chẳng thực hiện được.
Tuy nhiên, dẫu được thực hiện, sự công
bằng trần gian vẫn gây nên biết bao nhiêu chênh lệch. Những người có tài năng,
có sức khỏe thì luôn luôn làm được nhiều hơn nên được hưởng lương cao hơn những
người yếu đuối, kém tài năng, bất chấp những người yếu đuối này có thể có nhu
cầu lớn hơn hay nhiều hơn. Vì thế, người có tài có sức thường giàu có, còn
người ít tài kém sức thường nghèo khổ. Như thế, nhu cầu của tôi dù có lớn đến
đâu, nhưng nếu tôi làm được ít, thì tôi chỉ được hưởng ít, cho dù hưởng ít như
thế thì tôi sẽ rất thiếu thốn và đau khổ. Còn nhu cầu của anh dù rất ít, nhưng
nếu anh làm được nhiều, thì anh vẫn được hưởng nhiều, cho dù hưởng nhiều như
thế anh sẽ dư thừa một cách vô ích. Đó là điều hợp lý theo lẽ thường của trần
gian, và ở trần gian này dường như không thể nào làm khác hơn được.
Còn công bằng theo kiểu có tình thương
kia, nếu áp dụng ở trần gian đầy ích kỷ này thì sẽ có cái dở là làm cho nhiều
người đâm ra lười biếng: vì có làm chăm thì cũng chỉ được hưởng bằng người
lười. Cứ nghĩ như thế thì sẽ chẳng còn ai hứng thú trau giồi tài năng của mình
làm gì, vì có tài thì chẳng ích lợi gì cho mình hơn không có tài. Ai cũng có
tính ích kỷ, không ai muốn hy sinh một cách vô vị lợi cho ai cả. Ai cũng muốn
dùng tài năng hay những lợi thế mình có được để phục vụ mình, để làm lợi cho
mình trước đã, không mấy ai muốn ưu tiên cho tha nhân, cho những kẻ hèn kém,
yếu thế, dù họ có nhu cầu nhiều hơn mình. Nếu có tài năng mà không đem lại ích
lợi cho mình, thì tài năng để làm gì?
Nhưng Nước Trời không phải là nước trần
gian, hay ít ra không phải là trần gian như đang có trong hiện tại. Nước Trời
được định nghĩa như một xã hội hoàn hảo, trong đó mọi người đều được hạnh phúc.
Để được hạnh phúc như thế thì mọi người phải yêu thương nhau, và yêu thương một
cách cụ thể là phải quên mình đi để lo cho tha nhân. Khả năng hay tài năng của
mỗi người là để phục vụ tha nhân, để lo cho lợi ích chung, chứ không ai dùng
tài năng chỉ để vun quén cho mình.
Một gia đình hạnh phúc – vì mọi người
trong nhà đều yêu thương lo lắng cho nhau – là một hình ảnh rất cụ thể và sống
động về Nước Trời. Những người lớn, có nhiều khả năng, thì đi làm kiếm tiền
nuôi gia đình. Những em nhỏ tuy không đi làm, nhưng vẫn phải ăn, học, và do đó
phải tiêu một món tiền không nhỏ. Nếu trong nhà có một người đau yếu, bệnh tật,
thì người bệnh này có thể không làm ra được một đồng nào, nhưng lại có thể tiêu
một số tiền lớn nhất trong nhà vì tiền thuốc, tiền bác sĩ rất mắc. Trái lại,
người làm ra nhiều tiền nhất trong nhà có thể lại tiêu xài tiền ít nhất, vì có
ít nhu cầu nhất. Nhưng anh ta vẫn không lấy thế làm bất công, mà cảm thấy như
thế là hợp lý. Anh cho rằng số tiền trong gia đình phải được chia tỷ lệ với nhu
cầu của mỗi người chứ không phải tỷ lệ với số tiền mà mỗi người kiếm được.
Chỉ những gia đình sống theo tiêu
chuẩn hưởng thụ theo nhu cầu mới có hạnh phúc. Còn những gia đình chủ trương
theo tiêu chuẩn hưởng thụ theo số tiền mình làm ra thì sẽ phát sinh nhiều đau
khổ ê chề.
3. Bạn thích
sống theo thứ công bằng nào?
Trong dụ ngôn người chủ vườn nho trả
tiền theo nhu cầu chứ không theo giờ làm thật là hợp lý nếu xét theo lý luận
của tình thương. Những người làm từ sáng sớm hay những người chiều mới vào làm,
người nào cũng đều có vợ con phải nuôi, một gánh gia đình phải cưu mang. Người
vào làm sau, sở dĩ họ vào làm trễ chỉ vì họ không có may mắn có việc để làm từ
sáng sớm, cho dù họ rất muốn có. Trong dụ ngôn này, Chúa Giêsu muốn cho thấy
một đặc tính của Nước Trời, cũng là lý tưởng của mọi xã hội trần gian, là tình
thương. Sự công bằng trong Nước Trời không dựa trên tính vị kỷ của con người,
mà dựa trên tình thương phải có đối với nhau. Và sự công bằng dựa trên tình
thương ấy mới là sự công bằng đẹp lòng Chúa, sự công bằng mà Chúa muốn làm
gương mẫu cho chúng ta trong xã hội.
Đương nhiên sự công bằng ấy chưa thể
áp dụng một cách phổ biến trong một xã hội mà các thành viên còn quá ít tình
thương. Nhưng ít ra nó có thể áp dụng và cần phải áp dụng trong các gia đình
Kitô hữu, trong các cộng đoàn Kitô giáo, nhất là trong các cộng đoàn cơ bản.
Gia đình bạn, cộng đoàn Ki-tô hữu nhỏ bé của bạn đã nỗ lực trở thành một nước
trời nho nhỏ chưa? Sự công bằng được áp dụng trong đó là thứ công bằng nào? Của
thế gian hay của Nước Trời?
Cầu nguyện
Lạy Cha, thế giới này chưa thể áp dụng
một cách đại trà thứ công bằng có tình thương theo kiểu Nước Trời được. Nhưng
trong những cộng đoàn Ki-tô hữu nhỏ bé như gia đình Ki-tô hữu của con, trong
cộng đoàn cơ bản của con, trong đó mọi người coi nhau như anh chị em ruột thịt,
con sẽ cố gắng cổ võ việc áp dụng sự công bằng ấy, để mọi người trong đó phần
nào hưởng nếm trước hạnh phúc của Thiên Đàng, một thứ hạnh phúc được xây dựng
trên tình thương và do tình thương tạo nên. Amen.
18. Tình yêu
Chuyện xảy
ra vào thế kỷ thứ 16 tại An Độ. Trong triều đình có hai vị sĩ quan nổi tiếng vì
những đam mê của mình. Một người thì ganh tỵ, một người thì tham lam.
Ngày kia,
nhà vua có sáng kiến rất độc đáo để sửa đổi những tính xấu ấy. Ông cho triệu
tập hai viên sĩ quan vào giữa triều đình, loan báo sẽ tưởng thưởng họ vì đã
phục vụ trong nhiều năm qua. Họ có thể xin gì tùy thích, xong người đầu tiên mở
miệng xin chỉ được những gì mình muốn, còn người thứ hai sẽ được gấp đôi.
Nhiều phút
trôi qua, không ai mở miệng nói trước. Người tham lam nghĩ trong lòng: nếu tôi
nói trước, tôi sẽ được ít hơn người kia. Còn người ganh tỵ lý luận: Thà tôi
không được gì còn hơn mở miệng nói trước để tên kia được gấp đôi. Vì thế, không
ai muốn lên tiếng trước.
Cuối cùng,
vua yêu cầu người ganh tỵ nói trước. Người này lại nghĩ: thà không được gì còn
hơn để tên tham lam được gấp đôi. Hắn liền tuyên bố:”Tôi xin được chặt đứt một
cánh tay…”. Hắn cảm thấy sung sướng với ý nghĩ là người tham lam sẽ bị chặt hai
cánh tay.
Người ghen
tỵ thà chịu mất một cánh tay còn hơn nhìn thấy người kia được của cải gấp đôi
mình. Người ghen tỵ trước khi tiêu diệt kẻ khác, họ đã tự hủy diệt chính mình.
Dụ ngôn trong Tin Mừng hôm nay kể lại,
người đi làm vườn nho từ sáng sớm ghen tỵ với người chỉ làm một tiếng, mà cũng
được trả một quan như mình. Giá như ông chủ trả cho người làm một tiếng ít tiền
hơn, thì người làm từ sáng sớm đâu có bực tức khó chịu. Chúng ta thấy ông chủ
đâu có xử bất công, vì ông đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền. Ông
trả hậu hĩ cho người mới làm một tiếng, là vì ông tốt bụng, ông có quyền làm
điều đó chứ!
Qua dụ ngôn “Ông chủ vườn nho”, Đức
Giêsu muốn mời gọi chúng ta nhìn sâu vào cõi lòng của Thiên Chúa. Người không
chỉ là Thiên Chúa công bình, mà còn là một người Cha đầy yêu thương. Người đã
không hành xử theo luật lệ, nhưng lại dựa trên tiêu chuẩn của tình yêu. Chỉ khi
nào chúng ta nhận ra Người là Thiên Chúa tình yêu. Chỉ khi nào chúng ta cảm
nhận được lòng tốt của Thiên Chúa nơi bản thân mình, chúng ta mới không còn
ghen tỵ với anh em.
Chúng ta nhớ lại lời ông chủ vườn nho
nói với người ghen tỵ: “Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức?”. Anh
ta ghen tỵ vì anh ta chỉ thấy lòng tốt của ông chủ nơi người khác. Sao anh ta
không nghĩ rằng ông chủ tốt bụng này đã thuê anh làm và trả lương cho anh sòng
phẳng không thiếu một xu. Sao anh ta không nghĩ rằng anh đã rất an tâm vì chắc
chắn đến cuối ngày là anh có một quan tiền; còn người kia vì không có ai thuê
làm nên phải chờ đợi cả một ngày trong lo âu chán chường, vì tối nay vợ con anh
sẽ phải lên giường mà không có gì cho vào bụng.
Cứ nghĩ đến muôn ngàn phúc lộc Chúa đã
ban cho chúng ta, cứ nhìn xem bao niềm đau nỗi khổ của anh em, chúng ta sẽ
không còn lý do nào để mà ghen tỵ. Chính vì không cảm nghiệm được Thiên Chúa
yêu thương, không nhận ra hồng ân của Người trong cuộc đời mình, mà Cain đã
ghen tỵ và giết chết Aben, người anh cả ghen tỵ với đứa em đi hoang nên không
nhìn nhận người em lầm lỡ, người Pharisêu ghen tức với người tội lỗi được Chúa
tha thứ, người làm sáng sớm ghen tỵ với kẻ làm chỉ một giờ.
Ai cứ nghĩ mình xứng đáng được Chúa
ban ơn, mà đi ghen tỵ với những ơn lành Chúa ban cho người tội lỗi, chính là kẻ
bất hạnh nhất. Họ hãy nghe lại lời Kinh thánh:”Những kẻ đứng chót sẽ được lên
hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót”. Thông điệp của dụ
ngôn hôm nay muốn loan báo rằng: Nước Trời là phần thưởng nhưng không của Thiên
Chúa, hoàn toàn do lòng quảng đại yêu thương của Người, chứ không do công
nghiệp của chúng ta. Thiên Chúa ban ơn cho con người chỉ vì lòng yêu thương của
Người mà thôi.
Đừng bao giờ ghen tỵ, đố kỵ nhỏ nhen
khi thấy kẻ khác được nhiều ơn, mà muốn giới hạn hành động yêu thương của Thiên
Chúa.
Đừng bao giờ tính toán sòng phẳng theo
lẽ công bình giao hoán: có công thì được hưởng, có tội thì bị phạt. Vì nếu
Thiên Chúa tính toán lại, chắc chắn số tội của chúng ta sẽ nhiều hơn công phúc,
và người thiệt thòi nhất không ai khác chính là chúng ta.
19. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO
CHÚ GIẢI CHI
TIẾT
“Về Nước Trời thì cũng in như một gia chủ”: Bây giờ ta
đã quen với loại công thức này rồi. Thực vậy, Nước Trời không giống như gia
chủ, nhưng giống như toàn thể câu chuyện trong đó gia chủ đóng vai trò chính.
“Sau khi đã thuận giá với thợ là một quan
tiền”:
Quan tiền tương đương với một phật lăng vàng và lượng trưng tiền công bình
thường của một ngày làm việc thời Chúa Giêsu. Việc ghi nhận hợp đồng tiên quyết
giữa chủ và thợ đây sẽ thấy là quan trọng vào cuối dụ ngôn: khi chỉ nhận một
quan tiền, toán thợ đầu tiên không hề bị thiệt thòi gì cả, vì đó là tiền lương
đã thỏa thuận với nhau.
“Giờ thứ ba, ông ra.. “: Dù theo
qui định, một ngày bắt đầu từ lúc hoàng hôn (xem “việc thánh hóa hưu nhật” bắt
đầu từ chiều thứ 6), người ta vẫn chỉ tính giờ kể từ lúc mặt trời mọc. Như thế
giờ thứ 3, thứ 6, thứ 9 và thứ 11 tương ứng với 9 giờ, 12 giờ trưa, 15 giờ và
17 giờ; ngày làm việc chấm dứt lối 18 giờ.
“Tôi sẽ tính phải chăng cho các anh”: Qua câu
nói đó, các người thợ sau phải hiểu rằng tiền công của họ sẽ là một phần quan
tiền.
“Khởi từ cuối hết cho đến đầu hết”: Đây là một
việc dị thường đối với tập tục đương thời, nhưng trình thuật cố ý kết cấu như
vậy để làm cho ra vẻ thực các lời kêu trách của những người thợ chứng kiến lòng
tốt lạ lùng của gia chủ đối với những kẻ lãnh đầu tiên.
“Đã vác nặng cả một ngày trường, với nắng nôi
thiêu cháy”: Theo toán thợ giờ thứ nhất, họ đã bị thiệt thòi trong
hai chuyện: vất vả suốt 12 giờ, trong lúc các kẻ khác chỉ làm việc có một
tiếng, và hơn nữa đã phải hái nho dưới cơn gió nóng cháy trong lúc những kẻ đến
sau lại được hưởng khí trời mát mẻ ban chiều. Thời hạn và điều kiện làm việc
khó khăn cho họ quyền được trả lương cao hơn.
“Này bạn”: Toán thợ
giờ thứ nhất đã chẳng xưng hô với gia chủ bằng tên hay tước hiệu của ông, và
đây ông ta làm cho họ hổ ngươi khi bắt đầu câu trả lời của mình như thế (x. Lc
15, 31). Người ta vẫn thường dùng lối gọi này lúc nói với kẻ không biết tên; ở
đây nó vừa đầy nhân hậu vừa đầy trách móc: “bồ ơi...”. Trong 3 đoạn Tân ước có
lối gọi này (Mt 20,13; 22,12; 26, 50), kẻ mà người ta nói với là kẻ có phạm lỗi
gì đó.
“Hay bạn ghen tương (Nguyễn Thế
Thuấn: hay mắt bạn lườm nguýt) vì tôi tốt lành”: Câu này là kết
luận thật sự của dụ ngôn, như ta sẽ thấy dưới đây, do đó phải nặc cho nó tất cả
tầm quan trọng. Quả thế, thường thì câu kết luận của dụ ngôn là chìa khóa để
hiểu dụ ngôn. Chữ “ghen tương”, nếu dịch cho sát sẽ là: “mắt ác cảm”, “mắt dữ
tợn”, một thành ngữ cổ xưa của Kinh Thánh thường xuất hiện trong Châm ngôn và
Huấn ca, để diễn tả, như ở đây, cơn tức giận và ghen tương của cả con người.
Nếu đặt thành ngữ “mắt dữ tợn” vào lại trong nguyên bản, thì sự tương phản giữa
các hạn từ mới nổi bật, và bài học của dụ ngôn trở nên rõ ràng hơn: “Hay mắt
bạn dữ lợn vì tôi tốt lành?”. Cách cư xử của gia chủ chẳng phải là hậu quả của
một tính khí chướng kỳ, một bất công hữu ý, nhưng chỉ là kết quả của tâm địa
tốt lành nơi ông: chính đó mới quan trọng. ông không muốn gây thiệt hại cho
người này, ông chỉ muốn làm điều thiện cho người kia.
“Thế đó, những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết, và
kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết”. Vài tác giả xem châm ngôn này như một phần
tất yếu hay hơn nữa, như mộ phần chủ yếu của dụ ngôn. Nghĩ như thế tất nhiên
buộc lòng phải ép lối giải thích dụ ngôn sao cho ăn khớp với câu kết luận đó.
Thánh Gioan Kim Khẩu đã tỏ ra sáng suốt hơn khi tuyên bố trong bài giảng thứ 64
của ngài: “Chúa Giêsu không diễn dịch châm ngôn này từ dụ ngôn đâu. Những người
đầu tiên chẳng trở thành kẻ cuối hết; trái lại tất cả đều được thướng như nhau”
(PG 58,614). Khiếu chú giải của ngài đã chỉ cho ngài giải pháp đích thực: châm
ngôn không phát xuất từ dụ ngôn, nhưng đã được thêm vào do loại suy mà thôi.
Thực vậy, nếu thử liên kết câu tục ngữ
với dụ ngôn mà nó được coi như là lại giải thích. Ta thất ngay rằng câu tục ngữ
không thể nào phát xuất từ dụ ngôn, và cả hai chẳng có thể đi không với nhau
được. Theo châm ngôn, thì các kẻ cam kết phải thực sự nên đầu hết và những kẻ
đầu hết phải trở nên rốt cùng. Thánh Gioan Kim Khẩu ghi nhận một cách chí lý là
bản văn hiện thời không thỏa mãn hai yêu sách ấy. Cùng lắm và theo một nghĩa
nào đó, ta có thể chấp nhận rằng các người cuối hết đã nên đầu hết vì họ là
những kẻ đầu tiên được gọi đến nhận tiền lương. Nhưng việc xếp hạng này chỉ có
tính cách bề ngoài. Kỳ thực, tất cả đám thợ, lãnh cùng một phần thướng, đều
ngang hàng như nhau. Đối với họ, chỉ có tiền mới đáng kể. Trẻ em có thể hưởng
lợi lộc hơn khi được kêu đầu, nhưng người lớn lại xem việc trả lương trước hay
sau cũng chả ăn thua. Vì thế, nếu dụ ngôn xem ra biện minh cho câu tục ngữ, thì
đó chỉ là bề ngoài và theo lối chơi chữ mà thôi, chứ thực tế không phải vậy.
Tục ngữ nói đến sự đảo ngược vị trí, còn dụ ngôn lại nói về việc đối xử đồng
đều.
Chính bản văn giúp ta xác quyết lối
giải thích vừa nêu. Các người thợ đầu tiên, khi tỏ ra ghen tương về quyền lợi
đến độ căm tức, đã phàn nàn về chuyện gì? Về việc lãnh lương sau cùng ư? hay về
chuyện bị đẩy lui vào hàng cuối? Chắc chắn là không! Chẳng thay họ phàn nàn,
chống đối gì điểm này. Xin nói lại điều đó không ăn thua gì với họ cả; họ chỉ
cần được trả lương đầy đủ, còn trước hay sau đôi chút không quan trọng. Họ phàn
nàn ở chỗ là: dù đã lao công nhiều hơn kẻ khác, họ vẫn lãnh cùng một đồng lương
như những kẻ đến làm việc sau cùng.
Trước giọng phàn nàn ấy, gia chủ đã
đưa ra câu trả lời duy nhất thích hợp: “Này bạn, tôi đâu xử bất công với bạn,
bạn đã chẳng thuận giá một quan với tôi sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi. Còn
việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn thế. Há tôi lại không được phép
làm như tôi muốn về của cải tôi sao?”. Tất cả ý nghĩa của dụ ngôn đều nằm nơi
câu nói ấy của ông chủ vườn nho. Thế mà trong đó chẳng có vấn đề ngôi thứ, mà
chỉ là sự bình đẳng trong đồng lương. Các chữ dứt khoát thật rõ ràng: “Này bạn,
tôi đâu xử bất công với bạn...Việc cho người cuối hết này bằng bạn, tôi muốn
thế... Há tôi lại không được phép.... sao?”
Thành thử dụ ngôn không ăn khớp với
câu châm ngôn cuối cùng. Câu này chẳng có tương quan nào khác với dụ ngôn ngoài
một tương tự (loại suy) có tính cách ngôn từ về đề tài mà thôi. Đó là một câu
kết luận bề ngoài. Như trong nhiều trường hợp tương tự, kết luận bề ngoài này
hẳn đã được thêm vào câu chuyện, có lẽ do chính Chúa Giêsu, hoặc do chính tác
giả Tin Mừng hay do truyền khẩu bằng cách vay mượn câu nói đó ở một văn mạch
khác. Dù sao, các câu kết luận bề ngoài phải được giải thích dưới ánh sáng dụ
ngôn (chứ không ngược lại?), nhưng với sự tự do uyển chuyển phù hợp với một
loại văn thể như thể. Vì đã được gắn vào phần cuối câu chuyện (19, 16), nên có
lẽ câu kết luận đó cũng được ghi lại ở đầu (19, 30) để làm khung văn chương cho
dụ ngôn và để thay thế cho câu nhập đề lịch sử.
KẾT LUẬN
Mối liên hệ giữa con người và Thiên
Chúa thuộc bình diện ân sủng. Đó là đối tượng đích thực, là giáo huấn căn bản
của dụ ngôn. Thật vậy, dụ ngôn đưa ra một mặc khải chủ yếu về Thiên Chúa và
cách Ngài nhìn xem sự vật, hay như dụ ngôn người mắc nợ bất nhân (18, 23-33).
Trong lúc đó, các giáo sĩ thường tính toán phần thưởng mà người ta có quyền
lãnh nhận, xác định phần thưởng mà Thiên Chúa ban cho mỗi việc lành. Cách quan
niệm sự vật này hoàn toàn bị dụ ngôn đạp đổ. Ta còn có thể hy vọng gì khi phần
thưởng tương ứng với công nghiệp của ta? Trái lại, nếu ta chờ đợi tất cả từ
lòng tốt của Thiên Chúa và không nại tí gì vào sự công bằng của Ngài, thì đó
chẳng phải là niềm hy vọng của ta sao?
Ý HƯỚNG BÀI
GIẢNG
1) Ta không thể dựa vào trình thuật
này để kết luận rằng Thiên Chúa chẳng ân thưởng cho mỗi người tùy theo công
việc của họ. Như thế sẽ đi ngược với Thánh Kinh. Nhưng đúng hơn phải kết luận
rằng: ngay cả lúc Thiên Chúa ân thưởng mỗi người tùy theo công việc của họ,
Ngài cũng chỉ làm vì lòng tốt chứ không vì bất cứ một sự công bình giao hoán
nào cả. Mỗi liên hệ của ta với Thiên Chúa chẳng phải là một cái gì khả dĩ đo
lường được cũng như giản lược được vào thứ ngôn ngữ công bằng. Hai cái đều là
ân sủng.
2) Đó là một sự thật trước tiên có
tính cách hạ con người xuống vì nó bảo với con người rằng: ngươi không phải là
kẻ có thể thực sự nói tay đôi với Thiên Chúa vĩnh cửu, nhân danh quyền lợi mà
ngươi đã chiếm hữu nhờ sức mạnh của riêng ngươi, không phải là kẻ có thể tính
sổ với Ngài được. Vì theo sự thật đó, tất cả đều được bao phí bởi lòng nhân ái
tự do của Thiên Chúa, bởi những ý định khôn dò của Ngài. Nhưng đối với chúng
ta, đó cũng là một sự thật đầy an ủi phấn khích, một sự thật giải phóng ta khỏi
một gách vô cùng nặng nề. Vì nếu ta đòi tính sổ với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa
cũng sẽ đòi tính sổ với ta, và bấy giờ chắc chắn ta là kẻ thiệt thòi. Tốt nhất
là phó mặc tất cả vào lòng nhân ái của Thiên Chúa! Vì nếu như vậy, thì dù bắt
đầu phục vụ Thiên Chúa sớm hay muộn, dù khi có cảm tưởng như Giáo Hội đòi hỏi
nhiều ở ta, ta vẫn có thể luôn luôn an tâm và nói: Chúa là Thiên Chúa của mọi
niềm an ủi và từ bi, Chúa là Thiên Chúa thi ân và trả cho mỗi người một quan
tiền mà bản thân họ không thể tự sức mình làm ra được, Chúa là Thiên Chúa ân
thưởng chúng con, ngay cả lúc chúng con thực sự chỉ là những tôi tớ mọn hèn và
tội nhân nghèo khó.
3) Ta không được phẫn uất nếu, ngay từ
đời này, ta nhận thấy những kẻ là la coi như là những đại tội nhân (nhưng ta có
được quyền phê phán giá trị thiêng liêng của họ không?) được mạnh khoẻ, thông
minh hơn, giàu có hơn ta v.v... Thiên Chúa ban ơn cho những ai Ngài muốn. Ngài
thích tỏ ra nhân hậu ngay cả đối với những kẻ vô ơn với Ngài.
4) Chỉ Thiên Chúa mới có thể hoàn toàn
yêu thương, tha thứ con người, yêu thương trên hết mọi sự và như thế làm đảo
lộn mọi tính toán đê tiện của con người. Ngài là Đấng yêu thương một cách sung
sướng vì Ngài chẳng để ý đến các công nghiệp nhỏ bé của ta cho bằng đến tình
yêu bao la của Ngài.
5) Nếu nhìn kỹ hơn thì những kẻ được
ưu đãi thực sự trong dụ ngôn có lẽ là những người thợ giờ thứ nhất. Dĩ nhiên,
họ đã “vác nặng cả một ngày thường với nắng nôi thiêu cháy”, song chủ đã làm họ
khỏi nỗi sợ thất nghiệp, khỏi mối lo về cơm bánh là những thứ hẳn từng dày vò
các người khác, những kẻ mà buổi chiều mới được mướn làm công. Cũng vậy các tín
hữu đã anh dũng trung thành với đức tin suốt đời là những người được ưu đãi so
với những kẻ chỉ đến với Chúa vào cuối cuộc sống, những kẻ có lẽ chưa bao giờ
kinh nghiêm được sự bình thản nội tâm, kinh nghiệm được niềm vui và sự an lòng
vì biết mình ở trong tay Thiên Chúa.
20. Chú giải của Fiches Dominicales
TÌNH YÊU VƯỢT XA CÔNG LÝ
VÀI ĐIỂM CHÚ
GIẢI:
1. Bảo vệ
quyền lợi và đặc quyền
Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin tại
Xêsarê Philipphê, Đức Giêsu trước khi lên Giêrusalem, đã loan báo lần đầu tiên
về cuộc khổ nạn sắp tới, Ngài không quên cảnh báo các môn đệ: “Ai muốn theo
Thầy, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Thầy”. Tại Caphanaum, Ngài đã phác
hoạ khuôn mặt của cộng đoàn mà Ngài sáng lập phải có, nếu cộng đoàn ấy muốn phản
ánh hình ảnh của “Cha trên trời”. Một cộng đoàn biết quan tâm tới “những kẻ bé
mọn”; một cộng đoàn huynh đệ biết giúp đỡ thương xót và tha thứ cho nhau.
Hôm nay Ngài đến Giuđêa, bên kia sông
Giođăng (19,1) tại đó Ngài bắt đầu dạy cho những kẻ theo Ngài biết sự đảo
nghịch mà họ phải đi tới. Sự đảo nghịch có trong mọi lãnh vực đời sống, đời
sống vợ chồng, thái độ với trẻ em, mối liên hệ với của cải vật chất (19, 3-39).
Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho giờ thứ mười một -Phúc âm Chúa nhật XXV
Thường niên- cho ta một minh hoạ về sự đảo nghịch Phúc âm này. Thoạt tiên, dụ
ngôn này gây phẫn nộ nơi công chúng quen có mặt trong các buổi quy tụ ngày Chúa
nhật, vẫn nhạy cảm với việc bảo vệ quyền lợi xã hội và với vết thương do nạn
thất nghiệp gây ra. Đức Cha L. Daloz tự hỏi: “Dụ ngôn đó không chống lại tất cả
những quy tắc về công bình phân phối và về quản lý tốt đẹp đó sao. Ai đời đi
thuê mướn thợ vào các giờ giấc khác nhau rồi cuối cùng trả lương cho người cuối
cùng cũng bằng người đầu tiên! Tự nhiên ta dễ đồng ý với những người mong được
trả nhiều hơn, lẩm bẩm kêu trách chủ: “Những người đến sau cùng chỉ làm việc có
một giờ mà ông đối xử cũng thư chúng tôi, trong khi chúng tôi phải chịu vất vả,
nóng nực suốt ngày”. Nếu dụ ngôn muốn dạy ta rằng đó là cung cách hành xử của
Thiên Chúa, thì chúng ta phải thất vọng. Trong Phúc âm, có những lời của Đức
Giêsu rất bí hiểm, nếu không nói là gây vấp phạm ta cảm thấy đồng ý với phản
ứng của người anh của đứa con phung phá khi nó trở về, người cha dọn tiệc ăn
mừng, dù nó đã phung phí hết tiền bạc. Ta không hiểu làm sao những phường trộm
cắp, đĩ điếm lại vào Nước Trời trước chúng ta. Ta khó mà chấp nhận cung cách
hành xử của người chủ vườn nho. Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đã rút ra, một
kết luận: “Vậy những kẻ sau cùng sẽ trở lên trước hết, và những kẻ trước hết sẽ
trở lên sau cùng”. Ta muốn la lên: không công bình! Vậy thì trung tín, chung
thuỷ có ích gì? Tội gì mà chịu cực giữ luật Thiên Chúa, nếu Ngài ban Nước Trời
cho những kẻ đến sau cùng, chẳng chịu nắng nôi khó nhọc gì, ta cần phải tìm
hiểu dụ ngôn này.”
Việc quan trọng nhất là phải xác định
cử tọa mà dụ ngôn nhằm nói với. Ở đây Đức Giêsu nói với người Do Thái, đúng
hơn, với những thành phần ưu tuyển trong tôn giáo của họ: những biệt phái và
luật sĩ vừa tức giận vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người thu thuế,
những người tội lỗi, vừa ghen tương vì sự quan tâm mà Đức Giêsu bày tỏ với họ.
Một bối cảnh rất gần với dụ ngôn người cha và hai con trai ở Lc 15 mà dụ ngôn
này có nhiều điểm tương đồng. Đức Giêsu không hề muốn đụng chạm tới lãnh vực
công bình xã hội. Điều Ngài tìm kiếm là, qua dụ ngôn nghịch lý này, dẫn các
thính giả tới chỗ tự tra vấn về mối tương quan của họ với Thiên Chúa và với anh
em: cả họ nữa, họ đã chẳng bị cám dỗ co lại trong đặc quyền đặc lợi của họ,
không còn biết kinh ngạc trước lòng quảng đại kỳ diệu của Thiên Chúa đối với
mọi người và hoa trái của ân sủng Người nơi anh em họ đó sao?
Câu chuyện khởi đầu rất bình thường.
“Nước Trời giống như ông chủ vườn nho sáng sớm ra chợ thuê người làm...”? ông
chủ vườn nho này “ra đi” nhiều lần (cũng như người cha. trong dụ ngôn của Luca
15 ra nhiều lần) vào những giờ khác nhau để nhắc lại lời mời gọi: “Hãy vào làm
vườn nho cho ta”, chẳng có gì đặc biệt khiến ta phải chú ý, cho tới lúc, bất
chấp những luật lệ sơ đẳng về lợi nhuận, ông còn ra chợ “vào lúc 5 giờ chiều”,
trong khi mặt trời sắp lặn nhường chỗ cho bóng đêm? Ta vẫn còn chưa hết ngạc
nhiên! Vào lúc chiều tối, thay vì trả công cho người làm sớm nhất và để cho họ
ra về, ông chủ lại ra lệnh cho viên quản lý trả lương 'bắt đâu từ những người
làm sau hết và kết thúc bằng những người làm đầu tiên”, họ sẽ là chứng nhân cho
cử chỉ của ông? Những người được thuê vào lúc 5 giờ chiều tiến đến và nhận “mỗi
người 1 đồng bạc”. Những người đầu tiên, đã chịu cực khổ suốt ngày, tò mò quan
sát cảnh tượng và hy vọng sẽ được trả “nhiều hơn”. Nhưng khi đến phiên họ, họ
cũng chỉ nhận được một đồng bạc như hợp đồng lúc thuê mướn. Từ im lặng, ngạc
nhiên đến “lẩm bẩm kêu trách”: “Họ lẩm bẩm kêu trách ông chủ”. Những tiếng lẩm bẩm
khiến ta nhớ lại tiếng lẩm bẩm của đứa con trưởng khi cha long trọng đón tiếp
đứa con phung phá trở về (Lc 15). Những tiếng lẩm bẩm hoà nhịp với tiếng lẩm
bẩm của con cái Israel suốt thời gian băng qua sa mạc, và tiếng lẩm bẩm của bọn
biệt phái và luật sĩ khi nhìn thấy thái độ của Đức Giêsu đối với nhưng người
thu thuế và tội lỗi họ lẩm bẩm kêu trách Ngài: “Người này tiếp đón kẻ tội lỗi
là ăn uống với họ” (Lc 15). Điều khiến những người thợ đầu tiên bất mãn đó là
thấy những kẻ “chỉ làm việc một giờ” lại được đối xử ngang hàng với họ: “ông
đối xử với họ cũng như chúng tôi”. Việc làm đã xong, những điều kiện trong đó
họ làm việc chẳng đem lại cho họ đặc quyền đặc lợi nào, so với những người
khác, “những người cuối cùng này” mà họ nói đến với sự khinh miệt y như đứa con
trưởng trong dụ ngôn ở Luca 15: “Thằng con trai cha đó” (Lc 15,30) hoặc người
biệt phái trong Luca 18: “tên thu thuế kia”.
2) … hay
ngây ngất vì ơn Thiên Chúa ban nhưng không cho mọi người.
Ông chủ vườn nho nói với người phát
ngôn của những người thợ bất mãn: “Hay là bạn bất bình vì tôi nhân lành”. Giống
như anh cả của đứa em hoang đàng, những người thợ làm giờ đầu tiên là biểu
tượng cho tất cả những ai nhân danh quyền lợi tự cho là nhận được từ Thiên
Chúa, nhân danh cái gọi là đặc quyền, ngạc nhiên và vấp phạm vì thái độ của Đức
Giêsu đối với những người tội lỗi: đó là những người biệt phái và luật sĩ của
hôm qua… và cả hôm nay nữa. Làm như ơn cứu độ không phải là ân huệ ngoại thường
và nhưng không, vượt xa sự xứng đáng của ta muôn trùng. Đức Giêsu tự đứng về
phía ông chủ vườn nho cũng như về phía người cha đón tiếp đứa con trai đã mất
mà nay lại tìm thấy. Thái độ của hai nhân vật này phản ánh lối sống của họ, lối
sống bị người ta chê trách. Với những người phản đối thái độ của Ngài đối với người
tội lỗi Ngài dám tuyên bố: Thiên Chúa không hành động khác hơn! Thiên Chúa
giống như người Cha ăn mừng đứa con trở lại, như ông chủ vườn nho trả lương cho
người thợ làm sau cùng cũng bằng người thợ làm đầu tiên. Chắc chắn khi thuật
lại dụ ngôn này của Đức Giêsu, Matthêu muốn áp dụng nó vào Giáo Hội thời đó:
“Những người đầu tiên” là những người Do Thái; “những người cuối cùng”, dân
ngoại đã nhận được cái mà Israel coi như đặc quyền. Claude Tassin kết luận:
Vậy, dụ ngôn nhắm tới những người có phản ứng giống như phản ứng của đứa con
trai cả trong truyện người con phung phá. Thiên Chúa đã quyết định tỏ sự âu yếm
đối với những người tội lỗi đó là lý do tại sao Đức Giêsu, sứ giả của Ngài, lại
thích gần những người này đến thế, điều đó gây phẫn nộ cho một số người công
chính vì họ tự coi mình có quyền được Thiên Chúa quan tâm hơn những phường
chẳng ra gì kia, đâu quan tâm gì đến phục vụ Trời - làm như thể khi cứu vớt
những người tội lỗi, Thiên Chúa đã lấy đi điều gì của những kẻ trung thành.
Trái với bài học mà tác giả Phúc âm rút ra. Dụ ngôn không hạ “những người đầu
tiền” xuống hàng “những người sau cùng”, nhưng dụ ngôn chỉ nhấn mạnh đến sự
bình đẳng làm phát sinh ơn phúc lạ thường cho người tội lỗi.
BÀI ĐỌC
THÊM:
1. Công bình
kỳ cục
(G. Boucher, La terre parle au ciel) Công bình! Ta gọi ngươi bằng tất cả khát
vọng. Ta đấu tranh vì một thế giới công bình hơn. Ta phát động cách mạng để đập
tan bất công. Thậm chí ta còn nói tới thật là ghê tởm- cuộc chiến tranh chính
nghĩa. Các toà án của ta đó để thực thi công bình. Lời cầu nguyện của ta kêu
lên tới Chúa để cho người nghèo, người bị bóc lột được lắng nghe. Niềm vinh dự
của các xã hội, các quốc gia là tạo lập được một hiến pháp, nhưng luật lệ và
những cơ chế giúp cho trật tự công bình tiến bộ. Do đâu dụ ngôn Phúc âm bắt ta
làm ngược lại? Do đâu khi đọc dụ ngôn lần đầu ta khó chịu như những người thợ
làm đầu tiên dã khó chịu, họ tự cho mình và nạn nhân của một sự bất công. Đối
với con người, thực thi công bình không phải là trả cho mỗi người điều gì thuộc
về họ, theo sức lao động và giả trị của họ sao? Nhưng trong khuôn khổ Nước Trời
lại là chuyện khác: có một Đấng tên là Thiên Chúa, là sự viên mãn? ban cho mọi
người những gì chính đáng. Thiên Chúa công chính hoá những ai mong muốn. Ngay
từ giờ đầu tiên. Ngay từ phút khởi đầu. Nhưng cũng có khi ở nữa đời người, thâm
chí cả ở phút chót của cuộc đời nữa. Thiên Chúa kêu mời mọi người hãy đến để
được công chính hoá như người ta nhận một quà tặng, một ân ban. Có người trả
lời ngay tức khắc từ lúc rạng đông. Có kẻ chỉ nghe được lời đề nghị ở giữa
ngày. Đôi khi mãi đến cuối ngày có người mới nhận ra cơ may Chúa ban mà theo
ngôn ngữ bác học, ta gọi là ân sủng. Thiên Chúa làm cho nên công chính như ta
trở nên trong suất khi ta ở trong ánh sáng. Thiên Chúa biến ta nên công chính
như chính Ngài là Đấng công chính, điều đó không có gì giống với những mô hình
nhân loại. Bởi vậy ai nhận biết mình được Thiên Chúa công chính hoá sẽ chỉ có
thể mừng vui khi thấy ân phúc đó đến với người láng giềng, người đối thủ, người
đối địch... vì lối sống của Thiên Chúa đã thấm nhập đời anh. Thời giờ chẳng có
gì quan trọng. Ta chỉ có thể cầu mong cho mọi người biết nắm lấy cơ may của
mình, những người cùng sống trong chung cư những bạn đồng nghiệp, những người
thân và cả những người không thân nữa. Sự công bình theo nghĩa của Thiên Chúa
chỉ được thực hiện khi ta biết nắm bắt cơ may của mình, như người thợ giờ thứ
11 đã chọn đi làm việc. Và qua kinh nghiệm, ta biết rằng, để lãnh được lô độc
đắc của Thiên Chúa, không có gì bằng một biến cố thúc bách ta, một chứng từ
chất vấn ta, phần ta hãy biết đón nhận ân sủng mà Thiên Chúa ban cho và sống
sao cho mọi người chung quanh ta khao khát được ân sủng ấy, lương bổng ấy.
2. Một ví dụ
khiêu khích bắt ta phải tự vấn (MGT. L. Daloz, Le
Règne des cieux siest approché DDB).
Đức Giêsu lấy làm gương thái độ của
người chủ đối với thợ của mình, thực là một ví dụ khiêu khích, chứng minh điều
Thiên Chúa không là, không giống như ta tưởng. Ngài hành động không theo cách
ta làm. Ngài tốt lành vượt xa các ông bố trần gian muôn trùng. Nhờ đó, Đức
Giêsu cho ta chứng nghiệm được tình yêu của ta hẹp hòi biết bao: “Bạn bất bình
vì tôi nhân lành ư?”. Dụ ngôn này dạy ta biết Thiên Chúa, nhưng cũng biết chính
mình. Nếu ta thấy đồng tình với những người thợ lẩm bẩm kêu trách, không phải
vì ta đã tưởng tượng Thiên Chúa theo thước đo của ta, và muốn đóng khung Ngài
trong những quan niệm chật hẹp của tình yêu giới hạn của ta sao? Dụ ngôn của
Đức Giêsu trước hết là nói với dân Do Thái, họ là những người được kêu gọi
trước hết, rồi mới tới dân ngoại. Dụ ngôn soi sáng tình trạng các cộng đoàn đầu
tiên, trong đó những người từ đa thần giáo tới sau cũng có cùng quyền lợi như
các tín hữu gốc Do Thái. Ngày nay, vấn đề vẫn còn đó, tuy hoàn cảnh có khác
Giáo huấn của Đức Giêsu vẫn luôn có cùng mục đích, cùng hiệu quả: Ngài mạc khải
sự cao thượng của tình yêu Thiên Chúa “chiều cao, chiều rộng và chiều sâu của
tình yêu ấy”. Tình yêu ấy thay đổi đường lối của ta, mở rộng lòng ta. Phản ứng
của ta thường là giới hạn tình yêu ấy theo khuôn thước của ta. Nhưng “giới hạn
của tình yêu là yêu không giới hạn”! Sau cùng, sứ điệp của dụ ngôn phải chăng
không nằm trong những từ ngữ đơn sơ này, chúng nói với ta về Thiên Chúa: “Ta
nhân lành”. Hơn cả lương bổng, điều quan trọng là tiếng gọi, luôn luôn đổi mới
từng ngày, từng giờ, ở mọi thời trong lịch sử cũng như ở mọi lứa tuổi của đời
người, tiếng gọi này không gạt ai ra ngoài lề đó là ân sủng cho những người đầu
tiên cũng như cho những người cuối cùng, tiếng gọi của Thiên Chúa nói với con
người mà Ngài yêu thương không mỏi mệt và Ngài muốn rằng không ai bị bỏ quên:
“Nào, cả anh nữa, hãy đến làm vườn nho cho tôi”.
21. Chú giải của Noel Quesson
NHỮNG NGƯỜI THỢ LÀM VƯỜN NHO
Dụ ngôn “những người thợ làm vườn nho
vào giờ sau hết” rất nổi tiếng. Người ta thường phê bình dụ ngôn này, đưa ra
những phán đoán chỉ trên bình diện con người theo sự công bằng xã hội và theo
kinh tế. Về phương diện này, thái độ của vị Thầy chí thánh ít ra cũng rất kỳ lạ
và khác thường. Một ông chủ xí nghiệp sẽ nói với bạn rằng theo gương ông chủ vườn
nho chỉ có nước làm phá sản xí nghiệp. Một “công nhân” sẽ nói với bạn rằng
không tôn trọng một tháng lương hợp lý căn cứ vào công việc thực tế được hoàn
thành là việc không bình thường; và một ông chủ độc đoán như thế thật là bất
xứng. Nhưng tất cả những lời giải thích này thì quá phiến diện chưa đạt đến sự
thật. Rõ ràng Đức Giêsu không đề cao sự bất công xã hội. Phải có một cách đọc
khác trang Tin Mừng nổi tiếng này, xứng đáng là một Tin Mừng!
Chúng ta hãy nhớ rằng “dụ ngôn” là một
thể loại văn chương rất xác đáng mà người ta không thể đọc bằng bất cứ cách nào
cũng được. Trong một dụ ngôn, khác với lối văn phúng dụ, mọi chi tiết cụ thể
không chứa đựng bài học: Phải tìm kiếm cao điểm của câu chuyện, ý nghĩa trung
tâm của nó. Những chi tiết còn lại chỉ để tạo ra sự mạch lạc trong câu chuyện,
tô điểm cho câu chuyện thêm thú vị đôi khi với sự hóm hỉnh khiến người ta phải
chú ý, quan tâm.
Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa
tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình.
Giờ đây, mọi sự bắt đầu như một câu
chuyện có thật. Chúng ta đang ở Pa-lét-tin trời vừa tảng sáng. Những “thợ làm
công nhật” trên quảng trường của ngôi làng chờ đợi người ta đến thuê làm công
nhật, ngày này qua ngày khác. Tình trạng sống lây lất qua ngày ấy thật thảm hại.
Chúng ta phải ghi nhận điều đó nơi những con người không có việc làm ổn định:
tình trạng này vẫn còn là tình trạng của hầu hết các người cha trong gia đình ở
các nước thế giới thứ ba.
Tuy nhiên, dù phần mô tả đoạn đầu có
thực tế đến đâu thì chúng ta cũng được báo cho biết ở đây điều quan trọng không
phải là một bài học xã hội, nhưng là một mạc khải về Nước Trời. Vậy chúng ta
hãy coi chừng.
Sau khi đã thỏa thuận với thợ là mỗi ngày một
quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc Khoảng giờ thứ ba ông lại trở ra,
thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ: “Cả các
anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng. Họ liền
đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy.
Khoảng giờ mười một ông trở ra và thấy còn có những người khác đang đứng đó,
ông nói với họ: “Sao các anh đứng đấy suốt ngày không làm gì hết?”. Họ đáp: “Vì
không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa hãy đi vào vườn nho!”
Nếu tính ra giờ hôm nay ông chủ đi ra
tìm thợ từ sáng sớm, rồi lúc 9 giờ sáng lúc giữa trưa, lúc 3 giờ và lúc 5 giờ
chiều. Vì thế chúng ta phải đoán ra rằng đây không phải là một ông chủ bình
thường: không ai lại đi thuê thợ làm vườn trước lúc nghỉ việc chỉ có một giờ!
Đây là một “ông chủ” quan tâm sâu sắc đến bi kịch của những kẻ thất nghiệp ấy:
“Tại sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết?”. Câu chuyện mà Đức Giêsu
kể lại nhắc chúng ta rằng vấn đề thất nghiệp trầm trọng, than ôi, không chỉ là
vấn đề của ngày hôm nay. Và nếu chúng ta dừng lại ở phần đầu của dụ ngôn này
không để cho các thiên biến của ý thức hệ chi phối, thì chúng ta thấy Đức Giêsu
mô tả một người đã nhân từ một cách tuyệt vời rồi: năm lần trong một ngày, ông
không mệt mỏi, lo lắng đem lại việc làm, đồng lương, nhân phẩm, cho những người
nghèo bị rơi vào cảnh khốn cùng.
Chúng ta không quên ghi nhận điệp khúc
được nhắc lại: “Hãy đi vào vườn nho” trong toàn bộ Cựu Ước, và do đó đối với
các thính giả đầu tiên của Đức Giêsu, vườn nho là biểu tượng của “Dân Thiên Chúa”
(Is 5,1-7; Gr 2,21; Ed 17,6; Hs 10,1; Tv 78, 9-16). Theo nghĩa này, vườn nho là
nơi hạnh phúc, nơi Giao ước với Thiên Chúa, nơi mà Thiên Chúa không ngừng mời
gọi chúng ta bước vào. “Hãy đi vào vườn nho của tôi... Hãy vào mà hưởng niềm
vui của chủ anh!” (x. Mt 25, 21-23).
Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản
lý: “Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ bắt đầu từ những người vào làm sau chót
tới những người vào làm trước nhất”.
Nói theo kiểu của con người thì chỉ
bắt đầu từ lúc này trở đi, câu chuyện xem ra không có thật. Đây là dấu chỉ
chúng ta phải đến gần “cao điểm” của dụ ngôn. Một cách rõ ràng hơn, ông chủ rất
kỳ lạ này muốn rằng những người có công nhiều nhất với vườn nho phải làm chứng
nhân cho điều mà ông sắp làm cho những người vào sau hết: họ sẽ chứng kiến việc
ông chủ trả lương cho những người khác. Tại sao? Sẽ rất đơn giản nếu như ông
chủ trả công cho người làm nhiều trước và để họ ra về trước.
Vậy những người mới vào làm lúc giờ
mười một (5 giờ chiều) tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến
lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng
cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn gia chủ:
“Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với
chúng tôi là những người phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi
thiêu đốt!”
Bản văn Hy Lạp dùng một chữ có nghĩa
chính xác: “họ lẩm bẩm”. Đó là từ ngữ trong Kinh Thánh nói về những tiếng lẩm
bẩm, cằn nhằn của dân Israel trong sa mạc (Xh 16,9; Tv l06,25), nó diễn tả thái
độ rất thường gặp của chúng ta khi chúng ta không hiểu những thử thách đang ập
xuống chúng ta; khi chúng ta phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng
nôi thiêu đốt; khi chúng ta lên án Thiên Chúa. Những kẻ lẩm bẩm, cằn nhằn ấy
trong dụ ngôn này vào thời Đức Giêsu, rõ ràng là các kinh sư và biệt phái
Họ không ngừng lẩm bẩm chống lại Đức
Giêsu khi Người tiếp đón những “kẻ thu thuế, kẻ tội lỗi và gái điếm”. Vào thời
của Matthêu, những người “sau cùng” được đặt ngang hàng với những người “đầu
tiên”, đó là những dân ngoại được đưa vào trong Giáo hội ngang hàng với những
người Do Thái bản địa. Ngày nay cũng thế, chúng ta còn nghe Đức Giêsu nói lại
với chúng ta một cách mạnh mẽ rằng với Thiên Chúa, không có những người được ưu
đãi, có đặc quyền. Những “người thợ của giờ sau cùng” được đối xử bình đẳng với
những người đầu tiên hưởng nhờ vườn nho của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng, Đức
Giêsu thường đề cao giá trị của những người nghèo, những kẻ bị loại trừ, những
người sau hết, những người tội lỗi! Đối với những người cảm thấy khó chịu, lẩm
bẩm, Đức Giêsu nói rằng đó chính là thái độ của Thiên Chúa “giàu lòng thương
xót” ‘dives in miséricordia’ theo một tước hiệu đẹp của một Thông điệp của Đức
Gioan Phaolô II.
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ:
Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thỏa thuận với tôi là một
quan tiền sao? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào
làm sau chót này cũng được bằng bạn. Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tùy ý định
đoạt về những gì là của tôi sao? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen
tức?”
Không, chúng ta không còn ở trong một
hoàn cảnh bình thường để rút ra những nguyên tắc về công bình xã hội chúng ta
lắng nghe một ‘mạc khải thần học về những thái độ của Thiên Chúa’. Đây là một
chân dung tuyệt vời mà Đức Giêsu vẽ lại Cha Người cho chúng ta:
Một Thiên Chúa yêu mến mọi người, đặc biệt
những người bị bỏ rơi, và muốn đưa họ vào “Vườn nho” của Người, trong hạnh phúc
của Người.
Một Thiên Chúa tuôn đổ những ân huệ
một cách dồi dào, Người “mời mọc” và “kêu gọi” mọi lúc, mọi tuổi, trong mọi
hoàn cảnh.
Một Thiên Chúa mà lòng “nhân từ” không
bị giới hạn bởi công nghiệp của chúng ta, và Người cho chúng ta nhiều hơn cái
mà chúng ta có được bởi những nỗ lực của riêng mình. Một Thiên Chúa gạt bỏ
người nào cho rằng mình đặc quyền và ngăn cản người khác được hưởng những quyền
lợi ấy.
Như thế Tin Mừng hôm nay công bố với
chúng ta một chân lý chủ yếu của đức tin chúng ta mà Thánh Phaolô đã triển khai
rộng ra trong các thư Rôma và Galát: “Tất cả những ai tin đều được như thế…
Thật vậy, mọi người đã phạm tội và bị tước mất vinh quang Thiên Chúa, nhưng họ
được trở nên công chính do ân huệ Thiên Chúa ban không. Vậy thì hãnh diện ở chỗ
nào? Chẳng còn gì để hãnh diện... Thật vậy, chúng tôi nghĩ rằng: người ta được
nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì luật dạy (Rm 3, 22-31).
“Hay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen
tức?”
Dụ ngôn này phải đem lại một niềm hy
vọng lớn lao cho biết bao bậc cha mẹ hôm nay nhìn thấy con cái họ từ bỏ đức
tin. Đối với Thiên Chúa, không có gì mất đi mãi mãi, Người còn đi ra thuê thợ
cho đến phút chót. Không bao giờ Người đến quá muộn. Vả lại, chúng ta, hãy nhớ
rằng Đức Giêsu không chỉ bằng lòng với việc “kể lại” câu chuyện này. Người còn
áp dụng câu chuyện này vào cuộc sống khi ban Thiên đàng vào giây phút chót cho
người trộm bị đóng đinh với Người.
Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng
đầu còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.
Thay vì giữ chặt chúng ta trên vẻ bề
ngoài bất công, giờ đây chúng ta được mời gọi hãy vui mừng chỉ vì lòng nhân từ
tuyệt vời của Cha chúng ta. “Anh em hãy có lòng thương xót như Cha anh
em trên trời là Đấng xót thương”. Từ vài thập kỷ, yêu sách về sự công
bình hay công lý trên thế giới đã có nhiều tiến bộ. Dĩ nhiên là không có vấn đề
quay lại đàng sau. Nhưng việc thế giới tiến bộ về hướng tình yêu thương và tấm
lòng há chẳng cần thiết sao? Đó là một chủ đề mà Đức Giáo Hoàng diễn tả trong
một thông điệp của ngài:
“Trong thế giới hiện đại, ý thức về công
lý trên bình diện rộng đã trỗi dậy... và Giáo Hội chia sẻ với nhân loại ở thời
đại chúng ta ước muốn mãnh hệt, sâu xa và một đời sống công bằng ở mọi phương
tiện. Tuy nhiên, người ta dễ dàng nhận ra những chương trình xây dựng trên ý
tướng công bằng khi đem ra thực hiện nhiều khi phải chịu sự biến dạng... bởi
lòng oán hận, thù nghịch mà cả sự tàn ác. Kinh nghiệm của quá khứ và của thời
đại chúng ta chứng tỏ chỉ có công lý mà thôi không đủ, nếu người ta không cho
phép một sức mạnh sâu xa hơn là tình yêu thương xây dựng đời sống con người.
Thế thì, chúng ta được trả về với sự
chiêm ngắm lòng thương xót của Thiên Chúa: “Lòng nhân hậu là một sức mạnh đặc
biệt của tình yêu còn mạnh hơn tội lỗi và sự bất trung. Trong một nghĩa nào đó,
lòng nhân hậu ở vị trí đối lập với công lý của Người, và trong nhiều trường hợp
tỏ ra mạnh hơn, căn bản hơn công lý” (Gioan Phaolô II).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét