ĐỨC PHANXICÔ VÀ BA NỘI |
CÂY ỔI 300 TUỔI |
GIÁO ĐIỂM NẬM XÉ CỦA NGƯỜI MÔNG |
TRƯỞNG BAN TÔN GIÁO LÀO CAI THĂM GIÁO ĐIỂM NẬM XÉ CỦA NGƯỜI MÔNG - |
ĐỨC PHANXICÔ VÀ BA
NỘI - CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN -
1. Con đường thập giá.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cho chúng
ta tiếp xúc với một khuôn mặt Phêrô, hoàn toàn khác hẳn với khuôn mặt Phêrô
trong Chúa nhật tuần trước.
Như chúng ta đã biết: Phêrô vừa được
Thiên Chúa mạc khải để ông nhận biết Đức Kitô là vị cứu tinh. Ông vừa được Chúa
Giêsu ca ngợi, đặt làm nền tảng của Giáo Hội. Thế nhưng chỉ sau đó ít phút,
Phêrô lại là người đầu tiên vấp ngã khi Chúa Giêsu loan báo cách thức Hoặc hoàn
thành sứ mạng Thiên Chúa đã trao phó.
Đây là lần đầu tiên Ngài nói với các
môn đệ về cuộc hành trình đi lên Giêrusalem của Ngài. Tại đây, Ngài sẽ phải đau
khổ, bị giết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại. Một viễn tượng không có gì
sáng sủa. Thấy vậy, Phêrô bèn lên tiếng can ngăn. Lời can ngăn ấy có thể đã
xuất phát từ niềm tin của ông vào tình thương của Thiên Chúa Cha. Bởi vì ông đã
từng được nghe Chúa Giêsu giảng dạy về sự quan phòng của Chúa Cha đối với từng
cánh chim, từng bông hoa. Thiên Chúa là một người cha chỉ muốn những điều tốt
cho con cái. Một người cha thế gian còn không nỡ cho con mình cục đá, khi nó
xin cái bánh, thì làm sao Thiên Chúa lại có thể để cho người con yêu dấu của
Ngài gặp phải sự khốn khó. Và như thế, điều Chúa Giêsu vừa mới loan báo, làm
sao có thể xảy ra được.
Mặt khác, Phêrô cũng đã từng được
chứng kiến quyền năng của Thầy mình. Chúa Giêsu đã nhiều lần làm phép lạ cho kẻ
đau yếu được khỏi bệnh, cho kẻ chết được sống lại, dẹp yên được cả phong ba bão
táp, thì làm sao Ngài lại để cho mình gặp phải sự khốn khó?
Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng
lời, vì ông đã đơn giản hoá vấn đề, và do đó đã vô tình làm công việc của Satan.
Thực vậy, khi Satan đưa Chúa Giêsu lên nóc đền thờ, nó đã rỉ tai: Nếu Ngài là
Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống vì các thiên thần Chúa sẽ nâng đỡ để
chân Người khỏi vấp phải đá. Thiên Chúa và quyền năng của Đức Kitô ở đây bỗng
trở nên một thứ phương tiện cho người ta sử dụng để thực hiện những ý đồ phù
phiến của mình.
Sự thực thì đây không phải là một cơn
cám dỗ đặt ra cho một mình Chúa Giêsu mà hơn thế nữa, rất nhiều lần bản thân
chúng ta cũng đã gặp phải. Rất nhiều lần chúng ta đã nêu lên câu hỏi: Tại sao
Chúa không cho tôi trúng số để tôi thoát khỏi cảnh nghèo nàn, để tôi có thời
giờ làm những công việc đạo đức, hay để tôi có tiền dâng cúng, làm phúc bố thí.
Tại sao Chúa không cho Giáo Hội gặp được những điều kiện thuận lợi, để làm cho
Nước Chúa được mở rộng và danh Chúa được cả sáng.
Thế nhưng, chúng ta quên rằng sứ mạng
của Chúa Giêsu là sứ mạng của người tôi tớ đau khổ. Con đường Ngài đã chọn để
cứu độ trần gian là con đường thập giá. Lẩn tránh những xác tín này là phản bội
lại sứ mệnh của mình, và đó chính là cơn cám dỗ lớn nhất đối với Giáo Hội và
đối với bản thân chúng ta. Bởi vì, thay vì thực thi thánh ý Chúa trong việc
phục vụ người khác, thì chúng ta lại muốn xin Chúa phục vụ cho những quyền lợi
riêng tư của chúng ta.
2. Thập giá.
Người môn đệ của Chúa Giêsu hôm nay có
thể trở thành một Satan, một thứ kỳ đà cản mũi không cho Ngài thực hiện sứ mạng
Chúa Cha trao phó như Phêrô ngày xưa.
Thực vậy, chúng ta thường hay quên đi
một cách cố tình hay vô ý, lời mời gọi của Chúa Giêsu:
-
Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập
giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Chúng ta có thể dễ dàng loại bỏ sang
một bên tư tưởng của Thiên Chúa để chạy theo tư tưởng của loài người, để rồi
cuối cùng đánh mất bản chất người Kitô hữu. Môn đệ không trọng hơn thày. Nếu
Chúa Giêsu đã chọn con đường đau khổ và thập giá vì trung thành với sứ mạng
phục vụ con người trong sự thật và tình thương, thì người môn đệ của Ngài cũng
phải dám liều mạng sống mình vì Ngài, cũng như vì anh em, thì mới hy vọng tìm
lại được mạng sống mình.
Đường lối Chúa Cha đã chỉ cho Đức Kitô
thực hiện dường như không đi đúng với cái lý luận thường tình của con người
được phản ảnh qua thái độ của Phêrô. Con người dễ dàng chọn theo chiến thuật
của Satan, mau mắn xử dụng của cải, danh vọng và quyền lực để thực hiện mọi ý
đồ của mình. Và con người cũng dễ viện cớ phục vụ vinh quang Thiên Chúa: Xin
cho danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, để xây dựng sự nghiệp của riêng mình.
Trái lại, qui luật sống của chúng ta,
những người môn đệ Chúa, được thánh Phaolô xác quyết: vinh dự của chúng ta là
thập giá Đức Kitô. Đừng lầm tưởng rằng đó là một tâm trạng bệnh hoạn, ưa chuộng
khổ đau. Dù muốn hay không, thập giá vẫn có mặt trong cuộc sống con người, dưới
những danh nghĩa khác nhau, như đau khổ, bệnh tật, tai nạn, cô đơn… nhưng thập
giá không chỉ là chịu đựng, chấp nhận một cách thụ động. Vác thập giá còn là
một chọn lựa tích cực, như Chúa Giêsu đã từng tâm sự: Thày sẽ phải chịu một
phép rửa và lòng Thày khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn tất. Phép
rửa ấy chính là cái chết trên thập giá.
Thế nhưng trong cuộc sống, chúng ta có
biết bao sự chọn lựa đi ngược lại với thập giá, tương tự như hành động của
Phêrô lẩn trốn khỏi thành Rôma đang khi hoàng đế Nêrôn ra tay bắt đạo. Và trên
đường, Phêrô đã gặp Chúa Giêsu đi ngược chiều. Phêrô lên tiếng hỏi: Quo vadis
Domine. Lạy Thày, Thày đi đâu đấy? Chúa Giêsu trả lời: Ta đi vào thành Rôma để
chết thay cho con.
Người môn đệ Chúa vác thập giá mình mà
theo Chúa khi đứng về phía con người, phục vụ cho sự sống, cho tình thương, cho
sự thật dù có phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Thập giá sẽ không đè
bẹp con người đi theo Chúa, bởi vì chính Ngài tự nguyện làm một Simong ghé vai
vác đỡ, đồng thời chính thập giá sẽ nâng chúng ta lên và đem lại cho chúng ta
sự sống vĩnh cửu.
Bởi vì, thập giá đã được đóng lên từng
việc làm, sẽ đảm bảo chất lượng yêu thương, đúng với nguyên mẫu của Chúa Giêsu.
3. Mất trước được sau – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Ở đời ai cũng muốn được và sợ mất.
Nhưng làm thế nào để được và không mất thì không phải ai cũng biết cách làm. Vì
không phải cứ thu vào là được. Không phải cứ buông ra là mất. Trái lại rất
nhiều khi phải chịu mất trước rồi mới được sau. Mất nhỏ để được lớn. Mất ít để
được nhiều. Đó hầu như là qui luật trong đời sống hằng ngày. Ta dễ hiểu điều
này trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay. Nhà đầu tư muốn được lợi
nhuận cao, sẽ không giữ kỹ tiền của trong nhà, buộc chặt lại rồi đem chôn giấu
đi, trái lại phải huy động hết vốn liếng hiện có trong nhà đổ vào đầu tư. Vốn
lớn thì lời mới lớn.
Muốn được phải chịu mất trước. Đời
sống đạo đức không đi ra ngoài qui luật đó. Chúa Giêsu dạy ta: “Ai muốn theo
Thầy, hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo”.
Đi theo Chúa là đi vào con đường của
Chúa.
Con đường của Chúa là con đường từ bỏ. Cuộc đời
Chúa Giêsu là một cuộc từ bỏ không ngừng. Từ bỏ trời để xuống đất. Từ bỏ địa vị
Thiên Chúa để làm người. Từ bỏ cuộc sống an nhàn nơi thôn làng để đi vào cuộc
phiêu lưu rao giảng Tin Mừng. Từ bỏ cứu thế bằng con đường dễ dãi do ma quỉ xúi
giục, để đi vào con đường chật hẹp khó khăn theo ý Đức Chúa Cha. Cuộc từ bỏ cam
go nhất chính là từ bỏ ý riêng mình. Đó là một cuộc chiến khốc liệt khiến Người
phải toát mồ hôi máu. Nhưng Người đã đi đến cùng con đường từ bỏ. Hình ảnh
Người chết trần trụi trên thánh giá là hình ảnh một người từ bỏ tất cả đến tận
cùng. Không còn một chút hơi thở. Không còn một giọt máu. Không còn một chút
danh dự. Không còn gì cả.
Con đường của Chúa là con đường thánh giá. Người đã
ôm lấy thánh giá và vác. Không phải chỉ là thánh giá gỗ trên đường lên Núi Sọ,
nhưng là thánh giá cuộc sống trải dài suốt đời người. Thánh giá kiếp người.
Thánh giá kiếp nghèo. Thánh giá bị chống đối. Thánh giá bị hiểu lầm. Thánh giá
bị bỏ rơi. Thánh giá bị phản bội. Thánh giá thách thức. Thánh giá thất bại. Thánh
giá oan ức. Thánh giá tủi nhục. Thánh giá cô đơn. Thánh giá nặng lắm nên nhiều
lần Người đã ngã xuống. Thánh giá ghê sợ lắm nên Người đã có lần muốn chối bỏ.
Nhưng rồi Người lại đứng lên tiếp tục vác đi cho đến cùng, cho trọn con đường.
Nhưng nếu đường của Chúa Giêsu chỉ
dừng tại đây thì đó là một con đường bế tắc. Nếu định mệnh của Chúa Giêsu kết
thúc tại Núi Sọ thì đó là một định mệnh diệt vong. Không! con đường của Chúa
còn là con đường phục sinh. Định mệnh của Chúa là một định mệnh vinh quang.
Con đường thánh giá là con đường dẫn đến phục
sinh.
Con đường từ bỏ là con đường dẫn tới vinh quang. Phải qua sự chết mới đến sự
sống. Phải qua tủi nhục mới đến vinh quang. Phải qua gian khổ mới đến hạnh
phúc. Thánh Phaolô đã hiểu biết tường tận con đường của Chúa nên đã nói: “Chúa
Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chuá mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị
ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân
nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế,
Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn
danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và
trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi
loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Chúa Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2, 6-11).
Cũng thế, khi mời gọi ta bước theo
Người, Người không muốn ta đi vào tàn lụi diệt vong, nhưng muốn ta triển nở đến
viên mãn. Nên Người nói tiếp: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”.
Như thế từ bỏ không phải để mất mà để
được, được lại một cách sung mãn, hoàn hảo và cao cả phong phú hơn gấp bội. Mất
hiện tại để được tương lai. Mất đời này để được đời sau. Mất phàm tục để được
thần thiêng. Mất tạm bợ để được vĩnh cửu.
Thánh Phanxicô Khó Nghèo đã cảm nghiệm
sâu xa chân lý này nên đã thốt lên lời ca bất hủ: “Vì chính khi hiến thân là
khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi
thứ tha là khi được tha thứ. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình
để được chính Chúa, nguồn mạch hạnh phúc của con.
GỢI Ý CHIA
SẺ
1.
Mất trước được sau. Bạn áp dụng câu này trong
đời sống đạo thế nào?
2.
Chúa Giêsu mời gọi: “Ai muốn theo Thầy, hãy
từ bỏ mình, vác thập giá mà theo”. Bạn nghĩ sao về đòi hỏi này của Chúa, có quá
khắt khe không?
3.
Hạnh phúc không có sẵn nhưng phải phấn đấu
mới đạt được. Bạn có tâm đắc điều này không?
4. Nếu được cả thế giới.
(Trích
trong ‘Manna’)
Suy Niệm
Đức Giêsu đã gặp nhiều cám dỗ trong
đời. Cám dỗ bởi ma quỷ trong sa mạc. Cám dỗ bởi đám đông đòi
xem phép lạ từ trời. Cám dỗ bởi nhiều người thách xuống khỏi thập giá.
Bài Tin Mừng hôm
nay cho thấy Đức Giêsu bị cám dỗ bởi chính Phêrô, người mà Ngài đã đặt làm nền
tảng cho Hội Thánh. Cơn cám dỗ này nguy hiểm biết bao, vì đến từ tình thương
của một người môn đệ.
Phêrô không thể
nào chấp nhận được chuyện Đấng Mêsia phải chịu khổ đau và chịu chết. Đức Giêsu
đã mạnh mẽ chống lại cơn cám dỗ này. Ngài nói với ông như nói với Xatan trước
đây: "Xatan, lui lại đàng sau Thầy!"
Phêrô đã đi trước
Thầy. Ông quên mất vị trí đi sau của người môn đệ. Ông không ngờ mình trở nên
viên đá làm Thầy suýt vấp.
Lối nghĩ của
Phêrô rất tự nhiên, rất "người", nhưng đó không phải là lối nghĩ của
Thiên Chúa. Dần dần ông mới chấp nhận số phận bi đát của Thầy và dám mất tất cả
vì Thầy.
Sống ở đời ai
cũng tranh phần được, và sợ mất. Vấn đề là phải xác định xem đâu là cái được
thực sự, lâu bền, trọn vẹn, đâu là cái được quan trọng nhất, cần thiết nhất.
Kitô hữu là người
say mê cái được vĩnh cửu, vì thế họ chấp nhận những mất mát tạm thời: mất công,
mất của, mất thì giờ, mất uy tín, mất tương lai và mất cả mạng nữa.
Họ tin rằng cuối
cùng chẳng có gì mất cả. Mọi sự họ mất vì Thầy Giêsu, họ đều được lại.
Mất tạm thời để
giữ được mãi mãi. Từ bỏ chính mình là để tìm lại cái tôi trong suốt hơn, ngời
sáng hơn.
Các vị tử đạo là
những người say mê sự sống, đến nỗi dám chấp nhận cái chết. Các ngài coi trọng
sự sống vĩnh cửu của mình hơn cả thế giới phú quý vinh hoa.
Lắm người tưởng
mình được, hoá ra lại mất Lắm người vui lòng mất, hoá ra lại được. Chúng ta cần
suy nghĩ sâu về cái được, cái mất, để không phải hối hận sau này.
Đức Giêsu đã mất
tất cả và đã được lại tất cả. Đó là lý do khiến chúng ta dám từ bỏ, hy sinh,
dám vượt lên trên lối sống thực dụng, ích kỷ.
Không cần đợi sau
cái chết, ta mới thấy mình được. Bình an, niềm vui, triển nở trong tự do và yêu
thương là những cái được ta có ngay từ đời này.
Gợi Ý Chia
Sẻ
·
Cuộc đời thường được ví như một cái chợ: chợ
đời. Ai cũng phải tranh đua, vật lộn, thậm chí dùng cả những thủ đoạn, lọc lừa
để thắng được người khác. Bạn nghĩ một Kitô hữu đạo đức có cơ may thành công
giữa chợ đời không?
·
Chấp nhận sống đúng Lời Chúa là chấp nhận vác
thập gía. Có khi nào bạn đã vác thập giá vì sống Lời Chúa không? Có thập giá
nào hiện nay bạn còn sợ vác?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Chúa đẵ chịu chết và sống lại, xin dạy
chúng con biết chiến đấu trong cuộc chiến mỗi ngày để được sống dồi dào hơn.
Chúa đã khiêm tốn và kiên trì nhận lấy
những thất bại trong cuộc đời cũng như mọi đau khổ của thập giá, xin biến mọi
đau khổ cũng như mọi thử thách chúng con phải gánh chịu mỗi ngày, thành cơ hội
giúp chúng con thăng tiến và trở nên giống Chúa hơn.
Xin dạy chúng con biết rằng chúng con
không thể nên hoàn thiện nếu như không biết từ bỏ chính mình và những ước muốn
ích kỷ.
Ước chi từ nay, không gì có thể làm
cho chúng con khổ đau và khóc lóc chỉ vì quên đi niềm vui ngày Chúa phục sinh.
Chúa là mặt trời tỏa sáng Tình Yêu
Chúa Cha, là hy vọng hạnh phúc bất diệt, là ngọn lửa tình yêu nồng nàn; xin lấy
niềm vui của Người mà làm cho chúng con nên mạnh mẽ và trở thành mối dây yêu
thương, bình an và hiệp nhất giữa chúng con. Amen. (Mẹ
Têrêxa Calcutta)
5. Nghị lực của người Công giáo phát xuất từ đâu?
(Trích trong ‘Lương
Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)
Sau khi đã làm vài phép lạ lẫy lừng,
trong đó có phép lạ hóa bánh ra nhiều và sau lúc đã khiêu khích Phêrô tuyên bố:
“Thày là Đức Kitô, con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu cho rằng các môn đệ đã
có thể nghe được những lời tiên báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn của Người, Người
biết là các môn đệ sẽ không hiểu một cách rõ rệt, nhưng họ cũng sẽ nhận ra ý nghĩa
các lời Người vừa đủ để hứng chịu một sự xung đột não trạng của họ, khiến họ
trông cậy vào một Đức Kitô làm vua với nhiều đắc thắng trần thế. Não trạng ấy
sẽ bám chặt lấy trí óc của các ngài cho đến ngày Chúa sống lại. Cần phải có
ngày Hiện xuống để mở lòng họ, giúp họ nhận biết Chúa Giêsu cách đích thật.
Trong lúc chờ đời, Chúa đã chuẩn bị họ đón nhận một sự mạc khải làm họ hoang
mang nhiều nhất: Ngài, Đức Giêsu, sẽ chịu đau khổ, sẽ chết và sẽ sống lại, phản
ứng tức thời của họ không có hơi hướng đề phòng. Họ đã phát biểu qua tiếng nói
của Phêrô: ‘Điều đó, lạy Chúa, không thể nào có được’. Chúa Giêsu trả lời như
Người đã trả lời với ma quỷ trong sa mạc: ‘hãy đi xa khỏi mặt Ta’. Chúa Giêsu
nghĩ tới cái định mệnh sẽ dẫn Người đến thập giá, Người áy náy sợ hãi. Bởi lẽ
Người sợ hãi nên Người cực lực bác bỏ những gì cám dỗ Người thay đổi ý hướng.
Người nhất định gìn giữ nguyên vẹn sự gắn bó của Người với tư tưởng của Thiên
Chúa, tức là với ý muốn của Cha Người. Tất cả những gì đi ngược lại hiện ra như
một sự cám dỗ và Người cự tuyệt một cách dứt khoát. Trước lúc hấp hối trong
vườn cây dầu Chúa Giêsu đã trải qua nhiều cuộc chiến đấu trong bản tính nhân
loại của Người. Đọc qua chúng ta nên lưu ý đến tính hay thay đổi của lòng người
như các môn đệ đã cho thấy. Sau khi tuyên xưng đức tin: “Thày là Đức Kitô”, các
môn đệ đã từ chối không chấp nhận điều mà Chúa Kitô nói với họ.
1) Tại sao
Đức Giêsu lại tỏ ra quyết liệt trước mắt các môn đệ là những người có ý ngay
lành và lòng tốt nên tìm cách thay đổi ý hướng Người trên con đường đưa tới
cuộc Khổ nạn? Bởi vì nơi Người là Con Thiên Chúa, thánh ý Thiên Chúa
khiến ý muốn của loài người vượt qua những giới hạn riêng của mình. Mầu nhiệm
về con người của Chúa Kitô là Đấng vừa là người vừa là Thiên Chúa, không thể
nào chúng ta hiểu thấu được. Nhưng người ta có thể nghĩ rằng cái nghị lực của
Chúa do bản tính Thiên Chúa của Người đã hiến cho Chúa Giêsu một cường độ đặc
biệt trong ý muốn nhân loại của Người, cũng như sự nhã nhặn thiêng liêng đã
hiến cho cảm giác của Người một khả năng vô biên để chịu đau khổ. Không biết
chúng ta có suy nghĩ cho đủ rằng sự trung thành với đời sống công giáo chỉ có
thể có nếu chúng ta thông công với nghị lực thiêng liêng của Chúa Giêsu? Riêng
chúng ta, chúng ta bị đặt trước mọi cơn cám dỗ, có những cơn cám dỗ gây ra do
sự yếu đuối của chúng ta và những cơn cám dỗ từ bên ngoài vào kể cả từ phía ma
quỷ. Chúng ta chỉ có thể xua đuổi một cách mạnh mẽ, nếu chúng ta thông phần vào
sức mạnh của chính Chúa Kitô qua lời cầu nguyện, qua các phép bí tích và qua
đức bác ái.
2) Tư tưởng
của con không phải là tư tưởng của Thiên Chúa nhưng là của loài người. Câu trả
lời nghiêm khắc của Chúa Giêsu đối với thánh Phêrô làm chúng ta phải suy nghĩ.
Nó đặt ra vấn đề đức tin xác thực. Thực vậy theo lẽ thông thường và cũng là
điều Thiên Chúa mong muốn chúng ta phải suy nghĩ về đức tin. Một đức tin ý thức
và sống động phải là một đức tin được đón nhận cách sáng suốt. Nơi nhiều người
trong thế giới của chúng ta hiện nay, đức tin tiến triển trong sự tìm kiếm. Lúc
đó một câu hỏi được đặt ra là liệu khi suy nghĩ về đức tin, chúng ta có khuynh
hướng thu hẹp đức tin trong cách thức suy nghĩ của loài người hay là chúng ta
biết lo lắng để uốn nắn cách thức suy nghĩ của loài người cho phù hợp với lời
giáo huấn, với luật lệ và lý tưởng của đức tin? Chúng ta đang sống trong một
thời kỳ mà ngay cả trong Giáo Hội người ta thích những tư tưởng của loài người,
hơn là tư tưởng của Thiên Chúa. Xin cứ nhìn nhận đó là một sự cám dỗ muôn đời.
Điều ấy có nghĩa là các Kitô hữu của mọi thời đại, kể cả các Kitô hữu ngày nay,
đã và đang phải chống lại sự cám dỗ.
6. Đọc bản hợp đồng cho cẩn thận.
(Trích trong
‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)
Người nào đã mua một bản bảo đảm chính
trị hoặc ký kết một bản hợp đồng thì bản phải biết đọc kỹ mọi điều kiện, ngay
cả những phụ chú chữ nhỏ nữa. Thiên Chúa đã ký kết hiệp ước với chúng ta và
chúng ta gọi đó là một giao ước.
Hôm nay phụng vụ khẩn nài chúng ta đọc
lại toàn bộ các điều kiện bản hợp đồng, nhưng bản hợp đồng này không có những
phụ chú chữ nhỏ. Thánh Kinh kể lại những giáo huấn của Đức Kitô được trình bày
trước mắt chúng ta bằng chữ in hoa, những gì chúng ta cần phải biết về giao ước
của chúng ta với Thiên Chúa. Chúng ta cũng sẽ chú ý đến sự khác nhau giữa một
bản hợp đồng với một giao ước. Một hợp đồng bị trói buộc bằng luật, một giao
ước trói buộc bằng tình yêu.
Một cuộc hôn nhân hợp pháp là một bản
hợp đồng. Bí tích hôn nhân là một giao ước. Một bản hợp đồng bị trói buộc bởi
luật pháp. Giao ước thì trói buộc bằng tình yêu. Trong Giao ước mà Giáo hội bị
trói buộc là tình yêu Thiên Chúa, vì giao ước ấy mà chúng ta trông mong đáp
bằng tình yêu của chúng ta. Một bản hợp đồng, chỉ định bổn phận cho cả hai bên
được in lên giấy, có hai bên cùng ký tên và đóng dấu. Giao ước của chúng ta
được diễn ta trong một con người. Con người đó là Chúa Giêsu Kitô. Bên trong
người là tình yêu của Thiên Chúa qua thần tính của Người. Cũng bên trong con
người nhân loại của Người là tình yêu của chúng ta. Điều này có nghĩa là để
hiểu biết Giao ước, trước tiên chúng ta phải nhìn lên con người của Chúa Giêsu
Kitô.
Hôm nay trong Phúc âm, Chúa Giêsu chỉ
định phần của Người trong giao ước. Người sẽ đi lên Giêrusalem. Ở đó Người sẽ
chết vì chúng ta. Người sẽ đóng dấu giao ước, không phải bằng mực nhưng bằng
chính máu của Người. Hãy chấp nhận tình yêu được diễn tả trong cái chết của Con
Người, Thiên Chúa Cha sẽ đưa Người tới đời sống mới.
Còn phần của chúng ta trong giao ước là gì? Chúa Giêsu
trình bày nó theo cách thế này: “Những người muốn theo Ta phải từ bỏ mình,
vác thập giá mình hằng ngày và theo Ta”. Đây có vẻ như một loại tình
yêu lạ lùng, phải vác thánh giá để đến chỗ viên mãn của đời sống, nhưng đó là
sự khôn ngoan của Thiên Chúa, dự định của người. Chúng ta gọi dự định của Người
là mầu Nhiệm Vượt Qua.
Ngay cả nhà đại tiên tri Giêrêmia cũng
phải tranh đấu dễ hiểu được sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Ngài không do dự phàn
nàn: “Ôi lạy Chúa, Chúa đã bịp con và con
đã để cho mình bị bịp”, chỉ khi Thiên Chúa nhấn mạnh thì tiên tri Giêrêmia
mới chấp nhận vai trò tiên tri của ông nhưng ngay khi ông nói tất cả sự thật
thì ông liền bị chế nhạo và bắt bớ.
Thánh Phaolô được chúc phúc bởi một
mạc khải đầy đủ, đã nắm bắt tốt hơn mầu nhiệm Vượt Qua này. Ngài khẩn nài những
người Roma hãy dâng hiến thân xác mình như “một lễ hy sinh sống động thánh
thiện và đáng cho Thiên Chúa chấp nhận”. Chính chúng ta được mời gọi tiếp bước
theo sự khẩn nài này bởi việc tham dự thánh lễ của chúng ta. Trong lời nguyện
Thánh Thể, đặc biệt là lúc thánh hiến, chúng ta hợp với Chúa Giêsu, vị linh mục
của chúng ta trong việc hiến dâng chính mình trên thánh giá. Đó sẽ là cách thế
của chúng ta để nói rằng, chúng ta muốn theo ý muốn của Thiên Chúa trong đời
sống của chúng ta, trong tất cả những gì cần thiết. Đó cũng là cách thế chúng
ta củng cố giao ước của Chúa Kitô, Máu Giao ước mới và vĩnh cửu.
Chúng ta phải tiếp tục suy niệm về
những hạn từ của giao ước. Với đức tin và ân sủng của Thiên Chúa, chúng ta có
thể chấp nhận được những hạn từ cách sung sướng, bởi vì bằng việc làm chúng ta
hợp nhất chính mình với Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng sẽ dẫn chúng ta
tới sự viên mãn của tình yêu và tình yêu ấy là ý nghĩa thật sự của giao ước
chúng ta với Thiên Chúa.
7. Thập giá, biểu tượng của tình yêu.
(Trích
trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Văn sĩ Công
giáo người Anh, tên là Gilbert Chesterten, trong cuốn tiểu thuyết mang tựa đề:
“Bầu Trời Và Thập Giá”, đã kể câu chuyện sau đây:
“Tôi biết có
một người thù ghét thập giá. Ông ta tìm mọi cách để triệt hạ cho bằng được. Bao
nhiêu tác phẩm nghệ thuật có hình thập giá ông đều xé nát. Ngay cả cây thập giá
bằng vàng ở cổ vợ ông, ông cũng tìm cách để giựt đứt và liệng đi. Ông bảo rằng
thập giá là biểu tượng của sự dã man, hoàn toàn đối nghịch với niềm vui, với
cuộc sống.
Ngày kia,
không còn chịu đựng nổi hình thù của thập giá nữa, ông đã leo lên tháp chuông
nhà thờ giáo xứ, đập gẫy thập giá và liệng xuống.
Sự thù hằn
đối với thập giá không mấy chốc đã biến thành điên loạn. Một buổi chiều mùa hè
nóng bức, ông đứng tựa lưng vào một ban công gỗ, miệng phì phà khói thuốc. Bỗng
chốc, ông thấy nguyên cả chiếc ban công gỗ biến thành một dãy thập giá. Rồi
trước mặt ông, đàng sau ông nơi nào cũng có thập giá. Hoa cả mắt lên, ông cầm
gậy đánh đổ tất cả những cây thập giá ấy. Vào trong nhà, bất cứ vật gì làm bằng
gỗ cũng được ông nhìn thấy với hình thù thập giá. Không thể dùng gậy mà đập
nữa, người đàn ông đành phải dùng đến lửa mới mau ra tiêu diệt được thập giá.
Thế là ngọn lửa bốc cháy thiêu trụi căn nhà. Ngày hôm sau, người ta tìm thấy
xác của người đàn ông đáng thương trong dòng sông bên cạnh nhà”.
Nhà văn đã kết luận: “Nếu
bạn bắt đầu bẻ gẫy thập giá, thì chẳng mấy chốc bạn cũng sẽ phá hủy chính cái
thế giới có thể sống được này”.
Thưa anh chị em, với cái chết của Chúa
Kitô, thập giá đã trở thành biểu tượng của sự chiến thắng, đó là chiến thắng
của tình yêu trên hận thù. Nơi nào có thập giá, nơi đó con người còn tin ở sức
mạnh của tình yêu. Đập đổ thập giá, có nghĩa là chối bỏ tình yêu và nâng đỡ hận
thù. Một thế giới không có tình yêu là một thế giới của chết chóc. Không cần
phải leo lên tháp chuông nhà thờ để có thể triệt hạ thập giá. Hình thù của thập
giá, dấu chỉ của tình yêu đã được ghi khắc trên mỗi con người rồi, bởi lẽ mỗi
người đều là giá máu của Chúa Kitô.
Trong Tin Mừng hôm nay sau khi Chúa
Giêsu báo trước cho các môn đệ cuộc tử nạn thập giá của Ngài, Ngài liền mời
gọi: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”. “Bỏ
mình, vác thập giá mà đi theo Thầy”là những yếu tố cấu tạo ra cuộc sống của
người môn đệ Chúa Giêsu. Những điều kiện Chúa Giêsu đề ra cho các môn đệ của
Ngài cũng là những điều kiện được đề ra cho chúng ta hôm nay. Những điều kiện
này không dễ gì được chấp nhận, vì nó bao gồm đau khổ và tử nạn thập giá. Tuy
nhiên, Chúa Giêsu không những loan báo cuộc khổ nạn mà còn loan báo cuộc phục sinh:
“Ngày thứ ba sẽ sống lại”, và lời loan báo đó đã được thực hiện.
Anh chị em thân mến, não trạng của con
người ngày nay là: “Tôi muốn sống cuộc sống của tôi”, nghĩa là sống thoải mái,
tự do, hưởng thụ, lạc thú. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta lời yêu cầu của
tình yêu. Và thứ tình yêu đích thực thì hoàn toàn ngược với những gì thế gian
đề ra cho chúng ta, đó là “hãy từ bỏ mình”. Yêu là phải từ bỏ mình để sống cho
người mình yêu. Không có tình yêu đích thực nếu không có sự từ bỏ. Yêu bao giờ
cũng phải trả giá đắt. Chẳng hạn, can đảm khẳng định mình đi theo Đức Kitô
trong một môi trường thù địch, hoặc giữ được ý thức san sẻ cho người nghèo đói
khi cuộc sống xung quanh chúng ta đều kích thích mình lo tích trữ hay tiêu xài
phung phí cho chính bản thân; hoặc sống lương thiện trong công chuyện làm ăn
khi người ta cứ gian tham, bốc lột… Như thế, yêu thực sự, phải trả cái giá phải
trả. Hay nói như Tin Mừng hôm nay: “Hãy từ bỏ mình”. Hãy từ bỏ mình như thế để
chứng tỏ mình yêu Chúa thật tình.
Thưa anh chị em, chúng ta thường bị
cám dỗ thêm đường thêm mật vào Tin Mừng cho dễ nghe, dễ nuốt. Nhiều người, nhất
là giới trẻ, thoạt tiên tỏ ra say mê Chúa Giêsu như là thần tượng của họ về
tình huynh đệ, về công bằng, về tình yêu… Nhưng khi phải thực hiện cụ thể câu:
“Từ bỏ mình, vác thập giá của mình mà đi theo Chúa Giêsu”, thì… họ giống như
chàng thanh niên giàu có đã từ bỏ Chúa Giêsu ra đi trước con mắt thương tiếc
của Ngài. Yêu Chúa phải theo Chúa trung thành đến tận cùng- đến Núi Sọ và Thập
giá – Chính như thế đó mà đau khổ có một ý nghĩa đối với người Kitô hữu: đau
khổ làm cho người Kitô hữu giống Thầy mình và kết hợp với Ngài. Nếu chúng ta
yêu mến Chúa thật lòng, chúng ta cũng phải yêu luôn cả thập giá của Chúa, những
thập giá lớn nhỏ đủ cỡ mà Chúa gởi đến hằng ngày cho chúng ta. Đức Hồng Y
Suhard đã nói: “Chúng ta đừng bao giờ tìm Chúa` Kitô mà không có Thánh giá, và
cũng tránh tìm Thánh giá nào không có Chúa Kitô”.
Cái nghịch lý của thân phận người Kitô
hữu là: “Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình
(hiến dâng mạng sống mình vì tình yêu) thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Chân lý
này chỉ sáng tỏ sau ngày Phục Sinh. Vì vậy, nếu Chúa Giêsu “ngày thứ ba Ngài
sống lại”, thì người Kitô hữu trung thành đi theo Chúa Giêsu trên con đường “từ
bỏ mình, vác thập giá”, cũng sẽ có “ngày thứ ba”của mình, ngày phục sinh vinh
quang. Con đường thập giá là con đường dài, gồ ghề và đầy bóng tối. Nhưng đó là
con đường nhờ đó mà tình yêu đã gặt hái được chiến thắng vĩ đại nhất, chiến
thắng trên tội lỗi và sự chết của cả loài người.
Anh chị em thân mến, mỗi lần cử hành
Thánh lễ là mỗi lần tái diễn hy lễ trên thập giá của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng
nhau nguyện xin Chúa cho chúng ta khi tham dự Thánh lễ, biết khám phá mầu nhiệm
tình yêu và cứu chuộc của Chúa, đồng thời biết lấy tình yêu đáp trả tình yêu
cũng một cách như Chúa, để thập giá dẫn đưa tất cả chúng ta đến vinh quang phục
sinh với Ngài.
8. Tại sao có đau khổ?
Chúa Giêsu nói: “Thầy sẽ phải chịu đau
khổ và người ta sẽ giết Thầy”. Xa hơn một chút, Ngài sử dụng những từ ghê gớm
này là vì chúng ta: “Từ bỏ mình, vác thập giá mình, mất sự sống mình”
Chúng ta đừng thử thoát ra khỏi đó,
lựa lọc Tin Mừng chính là từ chối Tin Mừng. Dầu vậy điều đó không có nghĩa là
chấp nhận Tin Mừng một cách mù quáng nhưng trên lý thuyết mà thôi. Kẻ nào thực
sự muốn đi theo Tin Mừng thì không ngần ngại đặt vấn đề để biết rõ phải đi đâu
và tại sao phải đi.
Tại sao Chúa Giêsu phải chịu cực hình
Thánh Giá? Đối với Phêrô đây là điều không thể tưởng tượng được. Chúa Giêsu
phản ứng nghiệt ngã bởi vì hình dung điều sắp xảy ra là điều khó chịu đối với
Ngài. Trong khi đấu tranh chống lại sự âu lo, Ngài muốn hoàn toàn đi vào trong
đường lối của Thiên Chúa, thế mà Phêrô kéo Ngài về lại đường lối của con người.
“Hỡi Satan, hãy cút đi!”. Đường lối của Chúa chứ không phải đường lối của con
người. Điều này có nghĩa là Ngài phải một lần nữa xua đuổi cám dỗ trở nên một
Đấng Cứu Thế được toàn dân bỏ phiếu ủng hộ, một Đấng Cứu Thế tành công mà không
phải đi qua con đường khổ nạn. Không, phải tới lúc Ngài sẽ bị lăng nhục và bị
giết vì lòng ghen ghét. Đó là đường lối của Chúa chứ không phải đường lối của
con người.
Đường lối
của Chúa sao? Đường lối của Chúa ở đây đối với chúng ta thật khó hiểu!
Thiên Chúa muốn có sự đau khổ sao? Thật là phạm thượng. Chúng ta chỉ đoán thấy
Thiên Chúa trao ban Con của Ngài để cứu chuộc chúng ta và điều này dẫn đến giờ
phút âu lo này. Trong một thế giới bất công, bạo lực và theo đạo hình thức,
Chúa Giêsu đã xử sự theo cách Ngài dứt khoát phải chết. Đó là điều giờ đây Ngài
cảm nhận được. Chúa Cha không giao phó Ngài cho cái chết, Chúa Cha giao phó
Ngài cho sự cứu chuộc mà sự cứu chuộc này phải kinh qua cái chết.
Vẫn còn mầu nhiệm. Nếu tôi tự
hỏi: “Tại sao có đau khổ và chết chóc”, tôi sẽ không bao giờ thoát ra khỏi đó,
tôi không thể hiểu được ý của Chúa. Nhưng tôi có thể nhìn xem Chúa Giêsu nắm
bắt được ý của Chúa như thế nào: “Ngài bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Ngài sẽ
phải chịu đau khổ”.
Tôi có quyền xem đây là điều kỳ lạ,
cách mạng, miễn là tôi chấp nhận để cho gương của Chúa Giêsu dạy cho tôi môt
bài học. Ngài đã không chấp nhận đau khổ một cách mù quáng. Ngài đã thấy đường
lối này rồi, Ngài đã thấy rằng Ngài “phải” chịu đau khổ. Đàng sau Ngài, và đây
là nghịch lý lớn của Kitô giáo, chúng ta tiếp tục tiến vước trong bóng tối
nhưng cũng trong ánh sáng nữa. Do đó, khi chúng ta muốn “cứu mạng sống của
chúng ta” bằng cách tách chúng ta ra khỏi Ngài (vì sợ đau khổ) thì chúng ta sẽ
mất nó. Giờ đây chúng ta có thể hiểu rõ hơn khẳng định của Ngài: “Kẻ nào mất
mạng sống mình vì Ta thì sẽ được sống”
Nhưng các tiếng này đối với chúng ta
có vẻ như không thể hiểu được và khó nghe bao lâu mà chúng ta không biến chúng
thành kinh nghiệm. Nếu vậy, không ai theo Chúa Giêsu và ăn năn hối cải. Trái
lại, những ai không đọc Tin Mừng thì chắc hẳn những kẻ đó bị đóng khung trong
những câu hỏi tại sao.
9. Thập giá Đức Kitô.
I. ĐẠI DIỆN
ĐỨC KITÔ HAY PHẢN NGHỊCH ĐỨC KITÔ (16, 21-23)
Trên đây, Đức Kitô vừa được các môn đệ
nhìn nhận như Đấng phải đến để thực hiện một khúc rẽ trong lịch sử. Vì thế, mặc
dầu dân Do Thái không nhận biết Chúa, các môn đệ vẫn tin nhận Ngài như vị Cứu
Thế, Con Thiên Chúa hằng sống. Thánh Phêrô vừa tuyên xưng đức tin này. Nhờ thế,
Ngài đã được Chúa trao quyền thủ lãnh cùng với chìa khoá nước trời. Nền móng
đầu tiên của Giáo hội đã được thiết lập, căn cứ trên sứ mệnh của vị Tông đồ.
Quyền lực ma quỷ cũng không nổi lên chống lại được. Tuy nhiên khi Chúa Giêsu
vừa mới quyết định hoàn tất việc kỳ diệu này, thì bóng đen hoả ngục đã bắt đầu
quấy rối. Bối cảnh bỗng thay đổi đột ngột.
1) Cảnh tương phản:
Chính Đức Kitô không ngần ngại loan
báo, Ngài sẽ bị thất bại, chịu đau khổ, chịu chết rồi sẽ sống lại. Đó thực là
một tương phản ghê sợ: Ngài là vị Cứu tinh, Con Thiên Chúa, sử dụng vương quyền
Thần Linh, thiết lập một cộng đồng mới cho Thiên Chúa, thế mà Ngài sẽ bị kết
án, bị xử hình do chính dân Ngài chọn. Nếu ngay từ bây giờ, Ngài rời bỏ dân
Israel và các thủ lãnh, họ cũng chẳng thay đổi ý kiến để cứu Ngài. Ngược lại,
sự xa cách này càng làm họ ngoan cố từ chối Ngài rồi tăng thêm lòng căm thù. Có
ba tầng lớp được dân tín nhiệm: Bậc Lão thành, đại diện giai cấp lãnh đạo, các
Tư tế coi việc Phụng tự trong đền thánh, các Luật sĩ, chuyên viên luật pháp.
Tất cả các tầng lớp đều kết án Ngài. Chúa Kitô bị chối bỏ nhân danh dân tộc ,
Đền thờ và luật pháp. Than ôi, tình cảnh đó đã là một thảm trạng không phải cho
Chúa Giêsu nhưng cho dân Do thái.
Chúa Giêsu đã tiên báo định mệnh của
Ngài quá đột ngột, khiến cho các môn đệ xúc động không còn nghĩ đến biến cố
Phục sinh nữa. Sự Phục sinh đối với họ có lẽ quá khó hiểu. Các bản văn tiên tri
ám chỉ những đau khổ của tôi tớ Giavê vẫn là những giòng chữ chết, vô nghĩa
trước mắt họ. Họ không nghĩ tới mầu nhiệm Thập giá.
2. Đối với Phêrô, Phêrô cũng cảm thấy một
tương phản như thế:
Chúa là người được chọn, được đặc ân,
nắm trong tay vương quyền tối thượng siêu nhiên, thế mà bỗng nhiên bị lao xuống
vực thẳm. “Cút đi Sa-tan”. Lời Chúa có vẻ thô bạo. Nhưng hình thức đó nói lên
tầm nghiêm trọng của vấn đề. Đường lối do Chúa Cha chỉ định sẽ đưa đến
Golgotha. Ai muốn Ngài xa khỏi đường lối này, là kẻ nuôi những tư tưởng hoàn
toàn phàm tục để cám dỗ Chúa. Thánh giá là tột đỉnh của đời Chúa Giêsu, là bí
mật đích thực và là mầu nhiệm chân chính của ơn cứu chuộc. Nhờ sự chết của
Ngài, chúng ta sẽ được sống nhờ việc Ngài tự huỷ, chúng ta sẽ được Phục sinh.
Đối với Phêrô, lời Chúa dạy thực là
khẩn thiết. Vì yêu mến Chúa, Phêrô can ngăn Chúa. “Thầy đừng chịu như thế”.
Hình như đó là lời can ngăn phát sinh do tình yêu giả trá, vì tình yêu chân
chính đưa đến Thiên Chúa. Tình yêu đó nhận biết rằng Thánh ý Thiên Chúa là tình
yêu, nên tất cả những gì không tùng phục thiên ý, chỉ là vẻ nhiệt thành bên
ngoài, chứ không phải lòng mến thực sự. Thánh Phêrô đã có đức tin đảm nhận tất
cả để đáp lại lời Chúa. Ngài còn phải học để biết tin tưởng và yêu mến một cách
trung thực. Người sẽ phải chu toàn phận sự theo tinh thần Thiên Chúa chứ không
phải theo quan niệm nhân loại. Người phải đổi cách sống và suy nghĩ. Người phải
biết đòi hỏi đó. Ngài và những người kế vị phải chấp nhận như thế.
Kết quả ra sao sau lời can ngăn của
Phêrô? Chúa Giêsu đã khiển trách “cút đi Satan”. Chúa khiển trách vì Phêrô đã
nuôi những tư tưởng phàm tục do ma quỷ xúi dục. Thế là đấng mà Chúa Giêsu tuyển
chọn làm kẻ đại diện, đã vô tình biến thành kẻ phản nghịch. Lời Luther sau này
ám chỉ Giáo Hoàng là địch thủ chí tử của Đức Kitô, hình như vô tình đã có một
vài dấu vết nơi vị Giáo Hoàng tiên khởi.
Nhưng chớ vội lầm tưởng! Tin Mừng đã
đổi giọng điệu! Chắc hẳn Người sẽ là địch thủ của Đức Kitô nếu Người đã ngoan
cố theo cách suy nghĩ riêng: “Như thế, người ta sẽ thấy rõ vẻ mâu thuẫn giữa
chức vụ và tinh thần của Người”. Song không phải như thế. Trong các đoạn Tin
Mừng kế tiếp, ta thấy rằng chính Thánh Phêrô được Chúa dẫn lên núi biến hình
cùng với Thánh Giacôbê và Gioan. Người đã được chiêm ngắm Chúa trong vinh
quang. Lời Chúa tiên báo cách nghiêm trọng sự phục sinh của Ngài lúc đó rất dễ
hiểu với Thánh Phêrô. Trong chương mười bảy Tin Mừng Matthêu, Chúa đã dùng một
phép lạ đặc biệt, giúp Phêrô được hiểu biết chắc chắn về chức vụ là con Thiên
Chúa của Ngài. Trong chương 19, chính Phêrô đã nói nhân danh anh em đồng viện,
rồi cũng chính người cùng với hai con ông Giêbêđêô đã gần Chúa trong vườn Cây
dầu. Sau đó, người đã chối Chúa, lao sâu xuống vực thẳm lần thứ hai. Nhưng khi
Chúa đã sống lại, theo Tin Mừng Thánh Gioan, Ngài đã trao phó cho Thánh Phêrô
quyền chăn dắt đoàn chiên. Công vụ sứ đồ mô tả Phêrô là người hướng dẫn và là
thủ lãnh của Giáo Hội sơ khai. Quả thực, trong khoảnh khắc, Phêrô đã nghĩ lại.
Ý tưởng nhân loại do ma quỷ xúi dục đã nhường chỗ cho ý nghĩ do Thiên Chúa linh
ứng. Môn đệ đã qua ngưỡng cửa Thánh giá. Người đã chấp nhận tinh thần của Thầy
Chí Thánh. Chức vụ trong Giáo Hội phải nhằm mục đích phục vụ Thánh giá. Các
viên chức trong Giáo hội không được ích kỷ, không được để bị lôi cuốn bởi tính
yếu đuối và lòng đạo đức sai lạc trong các quyết định. Vị đại diện Đức Kitô
phải theo tinh thần Đức Kitô chu toàn nhiệm vụ đã nhận lãnh. Chỉ khi nào biết
mặc lấy tinh thần Đức Kitô, nhận lãnh chức vụ nơi Ngài, hoàn toàn giống như
Ngài, được niêm ấn bằng Thánh giá, bấy giờ họ mới không phải là địch thủ của
Đức Kitô.
Vậy ngay từ khi bắt đầu huấn luyện
tông đồ, Chúa đã nói về Thánh Giá. Người ta không xứng đáng với danh hiệu tông
đồ, nếu không yêu thích Thánh Giá. Đó là chân lý không những có giá trị đối với
Phêrô, nhưng còn đối với chúng ta.
II. BẮT
CHƯỚC ĐỨC KITÔ (16, 24-28)
Không phải chỉ có Chúa Giêsu và Thánh
Phêrô mới được mời gọi chịu đau khổ, nhưng tất cả các môn đệ của Chúa cũng đều
phải chịu đau khổ.
Ở đây không mập mờ “Nếu ai muốn làm
môn đệ của ta hãy bỏ mình”. Phải từ bỏ những nguyện vọng, chương trình, tư
tưởng riêng để hoà hợp với nhãn quan Thiên Chúa. Vì tư tưởng loài người không
phải là tư tưởng của Thiên Chúa. Về vấn đề này, lời Chúa nói với Phêrô rất rõ
ràng. Kitô giáo không phải để mỗi người tôn vinh chính mình theo chiều hướng
nhân loại, nhưng Kitô giáo đòi phải thực hiện một bước tiến mới mẻ tuyệt đối:
Phải chết đi để được sống, từ bỏ để lãnh nhận, từ chối để quyết đáp.
Tự thâm tâm phải từ bỏ để vác thập giá
mình theo Chúa. Đó là một tâm tình sẵn sàng chịu chung số phận với Chúa Giêsu,
chịu bách hại và lùng bắt. Thánh giá là sự hành quyết nhục nhã dành cho những
tên nô lệ. Phải biết chuẩn bị chịu khổ hình này. Phải liều chịu như vậy. “Ai
muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất, còn ai mất mạng sống mình vì ta, sẽ cứu được”.
Ở đây không những chỉ nói về lợi lộc và thua thiệt đối với của cải tạm thời,
nhưng đối với chính mạng sống để bị thua thiệt hoàn toàn hay được lợi lộc hoàn
toàn. Phải từ bỏ cả vũ trụ hư nát hơn là đánh mất linh hồn hay làm hại linh hồn
bất diệt. Cuộc sống vĩnh cửu thực là vô giá. Lấy gì đền bù lại linh hồn. Vậy ta
phải có mục đích duy nhất là bắt chước Đức Kitô. Tôn giáo không phải chỉ là một
lãnh vực hoạt động trong hoạt động khác của cuộc sống. Kitô giáo cũng không
phải chỉ là một hỗ trợ phụ thuộc, ngược lại, Kitô giáo đòi hỏi phải chọn lựa
quyết liệt để trở nên con người hoàn toàn mới mẻ.
Sở dĩ Chúa Giêsu đòi hỏi như thế là vì
một nguyên do rất đặc biệt “Con Người phải đến trong vinh quang Chúa Cha với
các Thiên thần, bấy giờ Ngài sẽ thưởng công cho mỗi người tuỳ theo sự nghiệp
của họ”. Sự kiện ấy đem lại một viễn tượng mới về cùng đích tối hậu trường tồn
và vĩnh cửu: Ta phải từ bỏ để chuẩn bị ngày Chúa đến. Tất cả những gì thuộc về
dương thế và thời gian đều có tính cách chuẩn bị và tiên phong. Mục đích thực
sự của chúng ta là Thiên đàng vĩnh cửu. Đức Kitô đã đến lần thứ nhất để hoàn
tất thực tại này. Nhưng thực tại ấy vẫn còn bí ẩn nhiệm mầu để chỉ hiển hiện
khi Chúa bày tỏ vinh quang rực rỡ trong lần tái giáng. Như thế người công giáo
nhìn về một vũ trụ khác mà ngay từ bây giờ họ có thể hướng tới. Thế giới hiện
tại tạm thời cũng có đôi chút hấp dẫn. Những ai đứng bên ngoài Kitô giáo không
biết đến thực tại khác ngoài thế giới này, thì họ cho thái độ của Kitô giáo là
một thái độ mơ mộng đầy ảo tưởng, không biết lợi dụng thế giới và thời gian.
Ngược lại người công giáo lại gọi kẻ dấn thân hoàn toàn vào trần thế mà quên đi
thực tại siêu việt, là kẻ mù quáng thiển cận và suy bại. Đó là những lập trường
không thể đội trời chung. Một đàng quá ích kỷ vụ lợi, một đàng đòi xả kỷ hy
sinh; một đàng thích hưởng thụ, một đàng thích dâng hiến cuộc sống. Để đáng
được làm môn đệ của Chúa Giêsu, phải nắm vững lập trường: Sẵn sàng chịu thua
thiệt để được lợi lộc. Thái độ chấp nhận này sẽ biến đổi tất cả đời sống. Không
gì nguy hiểm hơn việc tối thiểu hoá tinh thần bắt chước Đức Kitô. Dù sao, không
thể vừa thuộc về Thiên Chúa vừa thuộc về ma quỷ. Thiên quốc vinh quang của
Thiên Chúa thực bao la! Được vĩnh viễn tham dự vinh quang này là một ơn huệ cao
trọng, vì thế ta sẵn sàng bỏ những gì khác để đền đáp ơn huệ này. Đó là một
thái độ đáp trả vô điều kiện, phát xuất từ một tâm hồn vui vẻ, bằng lòng bước
theo đường Thánh giá, chịu vác Thánh giá hằng ngày. Chết là điều kiện tiên khởi
và tuyệt đối để được sống lại. Chỉ có ai hiểu được điều ấy mới là người Công
giáo.
10. Chúa Giêsu Kitô là
ai?
Có một bài thơ cổ do tác giả vô danh về "Trang Giấy
Gấp Lại". Bài thơ này bằng tiếng Anh, nên khi chuyển dịch sang tiếng Việt,
chúng ta chỉ đọc lấy ý mà thôi, đại ý bài thơ như thế này:
"Trên gác nhỏ ngôi nhà mái lá
Những giọt mưa trên mái lá.
Tôi vẫn mở những quyển tập cũ
Bất chợt cho tôi gặp thấy
Một trang tập đã bị gấp lại
Và bên ngoài tôi đọc thấy
Dòng chữ do
chính tay tôi viết
Lúc còn
thiếu thời như sau:
Thầy giáo
chúng ta bảo ta rằng,
Hãy tạm gác
lại vấn đề.
Vì ở đây
ngay trong lúc này
Nó quả thật
là khó hiểu.
Tôi mở trang
tập bị gấp lại
Đọc vấn đề
tôi đã viết,
Mỉm cười tôi
gật đầu rồi nói
Đúng vậy,
thầy giáo nói có lý
Bây giờ tôi
mới hiểu ra.
Có nhiều
trang sách của cuộc đời
Đã ghi lại
thật khó hiểu.
Bây giờ ta
hãy xếp lại đây
Và để lại
nơi bên ngoài.
Thầy cao cả
của chúng ta bảo
Hãy để những
vấn đề này nằm yên,
Vì chúng
thật khó hiểu,
Rồi ngày kia
trên thiên đàng
Chúng ta hãy
mở ra và đọc,
Rồi chúng ta
có thể nói
Thầy cao cả
thật là có lý,
Bấy giờ
chúng ta mới hiểu.
Bài thơ này như là một kinh nghiệm
sống, có những điều bây giờ trong cuộc đời chúng ta không thể hiểu, trên thiên
đàng, đọc lại chúng ta sẽ hiểu. Điều Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong Phúc
Âm hôm nay quả thật là khó hiểu, khó hiểu cho các ngài và cũng khó hiểu cho
chúng ta hôm nay khi phải đối diện với điều mà Chúa Giêsu gọi là thập giá trong
cuộc đời: "Ai muốn theo Thầy hãy từ bỏ mình vác Thập Giá mình mà theo
Thầy".
Bài Phúc Âm hôm nay trích liền với bài
Phúc Âm tuần trước (x. Mt 16,12-23) trả lời cho câu hỏi: "Các con bảo Thầy
là ai?", thánh Phêrô đã nhanh nhẹn trả lời: "Thầy là Đức Kitô Con
Thiên Chúa hằng sống". Đây là một lời tuyên xưng Đức Tin trọn vẹn, nhưng
không phải do tự sức người của Phêrô mà là do ơn mạc khải của Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu lúc đó đã khen Phêrô là kẻ: "Có phúc", vì được Thiên Chúa
Cha chúc phúc mạc khải cho biết sự thật về Chúa Giêsu, và liền đó có thể nói
chúa Giêsu đã lên chức cho Phêrô, đặt ngài làm đá tảng nâng đỡ trọn vẹn Giáo
Hội của Chúa: "Phêrô con là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây Giáo Hội của
Thầy".
Nhưng sau đó, Phêrô đã không hiểu và
sống trọn vẹn điều ngài đã tuyên xưng. Phêrô đã sa ngã và trở lại theo tâm thức
tầm thường của con người, là không chấp nhận Thầy cao cả về quyền năng mà bị hạ
nhục, bị giết chết trên thập giá ở Giêrusalem. Vì thế, khi nghe Chúa nói về
cuộc khổ nạn của Ngài tại Giêrusalem, thánh Phêrô đã cản đường: "Lạy Thầy
không thể thế được, Thầy sẽ chẳng phải như vậy đâu!". Nhưng Chúa Giêsu
trách Phêrô là Satan, là kẻ cản đường, là kẻ thù của Chúa, không hiểu trọn vẹn
về Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa Nhập Thể chịu đóng đinh, chịu chết và sống
lại.
Con
đường cứu rỗi phải đi qua thập giá, Chúa Giêsu đã đi trọn vẹn con đường này và
Ngài cũng muốn cho đồ đệ của Ngài đi theo con đường đó: "Ai muốn theo Ta,
hãy từ bỏ mình đi, vác thập giá mà theo Ta". Thầy Cao Cả của chúng ta có
lý, bây giờ chúng ta không thể hiểu. Chúng ta chỉ hiểu khi chúng ta được gặp Ngài
trên thiên đàng như bài thơ đã nói: "Thầy Chúng Ta Thật Có Lý", khi
chúng ta mở lại những trang cuộc đời của mình với những khó khăn, những thập
giá, những điều khó hiểu trên thiên đàng.
Xin Chúa giúp cho mỗi người chúng con
can đảm, trung thành cho đến cùng mà đi trọn con đường Chúa muốn cho mỗi người
đi qua, con đường này không phải chỉ với những vinh quang mà thôi, nhưng với
nhiều thập giá đau khổ.
Trong bài đọc II hôm nay (Rm 12,1-12),
thánh Phaolô Tông Đồ đã mời gọi mỗi người hãy dâng hiến đời mình làm của lễ
sống động và thánh thiện làm đẹp lòng Thiên Chúa. Chúng ta hãy dâng hiến trọn
cuộc đời làm của lễ dâng hiến sống động, thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa.
Xin Chúa giúp chúng con củng cố đức
tin mà chúng con tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
11. Từ bỏ.
Caretto là
chủ tịch Công giáo Tiến hành thuộc nước Ý. Ông là một nhân vật nổi tiếng được
mời đi diễn thuyết tại nhiều nơi trên thế giới. Đi tới đâu, ông cũng mang theo
một cuốn địa chỉ dày cộm, để liên hệ với nhiều người và nhiều tổ chức. Thế rồi,
một hôm ông chợt tỉnh và thấy rằng mình chỉ là một kẻ sống bằng nghề buôn bán
tư tưởng đạo đức. Thế là không đầy 24 tiếng đồng hồ, ông đã từ bỏ tất cả để vào
Dòng Tiểu Đệ, sống một nếp sống nghèo hèn và khiêm hạ. Tại đây, người ta đòi
hỏi ông phải từ bỏ mọi sự để bắt đầu thời kỳ tu tập. Ông trả lời: tôi đã từ bỏ
tất cả rồi. Người phụ trách cho biết: anh chưa từ bỏ hết đâu. Ông suy nghĩ một
lát và nhận ra mình còn giữ cuốn địa chỉ. Thế là ông ta bèn đốt cuốn đó đi và
cảm thấy thực sự nhẹ nhõm. Ông đã viết như sau: Ôi, tôi thật hạnh phúc đến nỗi
có thể lăn lộn trên cát và tôi thưa lên: Lạy Chúa, con thực sự yêu mến Chúa.
Trường hợp của Caretto tuy độc đáo
nhưng cũng chỉ là một cách áp dụng lời Chúa Giêsu phán dạy: Ai muốn theo Ta,
phải từ bỏ mình đi. Vậy từ bỏ mình nghĩa là làm sao? Tôi xin thưa, trước hết là
từ bỏ những níu kéo từ bên ngoài. Chẳng hạn như những níu kéo của tiền bạc, của
danh vọng và ngay cả của những người chúng ta thương mến. Con đường vào nước
trời là một con đường nhỏ bé gập ghềnh, chúng ta không thể mang theo những dụng
cụ lỉnh kỉnh, như nồi niêu xoong chảo, củ hành củ tỏi. Chúng ta giống như người
leo núi, để chinh phục một đỉnh núi cao, chúng ta chỉ được phép mang theo những
dụng cụ thật cần thiết mà thôi.
Tiếp đến, là phải từ bỏ những ước muốn
từ bên trong, nhất là khi những ước muốn này đi ngược lại với những đòi hỏi của
Chúa. Đây không phải là chuyện dễ dàng, bởi vì kinh nghiệm cho thấy, chúng ta
luôn bị giằng co giữa sự thiện và điều ác, để rồi cuối cùng chúng ta đã đầu
hàng, đã chạy theo sự ác như lời thánh Phaolô đã diễn tả: Sự thiện tôi muốn thì
tôi lại không làm, còn điều ác tôi ghét thì tôi lại làm. Sống từ bỏ như thế là
sống chiến đấu không ngừng. Sống từ bỏ như thế đòi chúng ta phải liên tục cố
gắng, bởi vì chúng ta cũng giống như một người bơi ngược dòng nước, nếu không
cố gắng bơi, thì sẽ bị dòng nước cuốn trôi.
Tóm lại, từng giây từng phút, mỗi
người chúng ta đều được mời gọi từ bỏ chính mình để làm theo thánh ý Thiên
Chúa. Bởi vì chính Ngài mới là Đấng trao ban cho chúng ta sự sống… Chúa Giêsu
không phải chỉ giảng dạy và đòi buộc chúng ta sống tinh thần từ bỏ như thế.
Trái lại, chính Ngài cũng đã sống và làm gương trước cho chúng ta như lời Ngài
đã phán: Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có cả chỗ tựa đầu.
Và thánh Phaolô đã diễn tả về sự từ bỏ
ấy như sau: Là ngôi vị Thiên Chúa, Ngài không đòi cho mình được đồng hàng với
Thiên Chúa. Trái lại, Ngài đã tự hủy mình đi, mặc lấy thân phận con người, trở
nên giống chúng ta ngoại trừ tội lỗi, Ngài đã vâng phục cho đến chết và chết
trên thập giá. Còn chúng ta thì sao? Để trở nên môn đệ của Chúa, chúng ta có
thực sự sống tinh thần từ bỏ chưa? Nếu có thì chúng ta đã từ bỏ được những gì?
12. Tiền của.
Năm 1923,
bảy nhà kinh doanh cỡ lớn đã gặp nhau ở một khách sạn của một nhà hàng tại một
thành phố ở miền tây nước Mỹ. Họ trao đổi cho nhau những kinh nghiệm về kinh
doanh, và dường như họ nói đến một câu châm ngôn: “Có tiền mua tiên cũng được”.
Nhưng 20 năm sau, điều gì đã xảy đến cho bảy nhà kinh doanh giàu có này? Người
thứ nhất là giám đốc một trong bảy công ty sắt lớn nhất tại Mỹ đã chết vì bị
phá sản. Trong những năm cuối đời, ông đã sống nhờ vào đồng tiền vay của người
khác. Người thứ hai là giám đốc một công ty chuyên sản xuất vật dụng trong nhà,
phải bỏ nước ra đi và chết tha phương cầu thực. Người thứ ba là giám đốc một
hãng gas lớn, cũng đã bị phá sản và trở thành một nhân viên quèn. Người thứ tư
là giám đốc hãng xuất nhập cảng, cũng chết ở nước ngoài, không một đồng xu dính
túi. Người thứ năm là giám đốc một phòng hối đoái lớn tại New York, vừa bình
phục sau một thời gian dưỡng bệnh trong một nhà thương điên. Người thứ sáu là
một nhân vật cao cấp trong chính phủ, vừa ra tù trong một vụ dính líu về tội
tham nhũng mang tai tiếng. Người cuối cùng trong danh sách bảy nhà kinh doanh
thành công nhất của Hoa kỳ trong thập niên hai mươi, cũng tự kết liễu cuộc sống
của mình.
Bức tranh trên đây không hẳn là số
phận tất yếu cho sự giầu có nhất. Có biết bao người giàu có đã có một cuộc sống
an lành, hạnh phúc. Tiền bạc, của cải tự nó không là gì cả. Ai trong chúng ta
cũng cần phải có tiền bạc để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Sự túng
thiếu, bần cùng là một sự dữ mà Thiên Chúa không muốn con cái Ngài phải vướng
mắc vào. Tuy nhiên, tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi. Nếu được xử
dụng như một phương tiện, tiền bạc sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với phẩm giá
của mình hơn, trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như một cứu cánh cho
cuộc đời, nghĩa là chúng ta tôn thờ nó như thần tượng mà quên đi những giá trị
khác trong cuộc sống, một lúc nào đó, sự phá sản về vật chất cũng như tinh thần
là điều tất yếu.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu
nhắc nhở: “Nếu người nào được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có
lợi gì?” hoặc “Được tất cả mọi sự mà mất linh hồn thì ích
gì?”. Qua những lời trên, Chúa muốn kéo chúng ta trở lại với nền tảng
chân lý trong cuộc sống là hãy chuẩn bị cho cuộc sống mai hậu, hãy đầu tư tất
cả cho cuộc sống vĩnh cửu, hãy hướng tất cả mọi sự vào nước trời mai sau. Tóm
lại, hãy dùng tiền của và cư xử thế nào để không những ích lợi cho đời sống
hiện tại mà cho cả linh hồn và cuộc sống mai sau nữa.
Đối với sự vật, người ta có thể nhìn
bằng hai cách khác nhau: người giàu có thường tham lam, muốn thu tích cho thật
nhiều tiền của, vì lòng tham của họ không bao giờ được thoả mãn. Thu tích cho
nhiều mà lòng vẫn không toại nguyện, bởi vì họ không còn khả năng nhận thức giá
trị đích thực của đồng tiền, của sự vật nữa. trái lại, người nghèo mà có tâm
hồn thanh thoát, không ham hố tiền của, sẽ nhìn thấy giá trị đích thực của mọi
sự trên đời. Dưới mắt họ, tất cả đều có giá trị, nhưng chỉ là một giá trị tương
đối. Tất cả phải đặt vào một trật tự hợp lý trong tương quan với con người.
Tiền của là để phục vụ con người, để
giúp con người sống và chu toàn sứ mệnh được trao phó trong hoàn cảnh mà Thiên
Chúa đặt vào họ. Nhưng một khi tôn sùng tiền của, con người sẽ phá huỷ giá trị
và ý nghĩa của chúng, đồng thời đánh mất giá trị của chính bản thân và ý nghĩa
cuộc đời mình. Thực vậy, vì tiền bạc, người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc
đời; vì tiền bạc, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người
khác; vì tiền bạc, người ta có thể chối bỏ cả niềm tin. Đó là nguy cơ mà bất cứ
ai cũng có thể rơi vào.
Vì thế, chúng ta cần sáng suốt để thấy
được bậc thang giá trị của tiền của trong cuộc sống. Chúng ta cần can đảm để
trong khi mưu tìm tiền bạc, của cải vật chất, chúng ta có đủ nghị lực khước từ
mọi hành động bất chính, mọi thoả hiệp với lừa đảo, gian trá. Chúng ta cần
quảng đại để biết mở rộng cõi lòng và đôi tay mà chia sớt, san sẻ cho những
người anh em túng nghèo khốn khổ hơn.
“Được lợi cả thế giới mà thiệt mất
linh hồn thì ích gì?” Chúng ta phải luôn nhắc nhở mình điều đó: không bao giờ
được quên mối tương quan giữa của cải vật chất và đời sống tinh thần, không bao
giờ được quên mối tương quan giữa cuộc sống đời này và đời sau: sẵn sàng hy
sinh của cải vật chất để bảo đảm linh hồn chứ không bao giờ hành động ngược
lại; sẵn sàng hy sinh đời này chứ không bao giờ để mất đời sau. Chúng ta cần
lợi dụng từng giây phút, cần hoàn tất từng công việc, dù nhỏ mọn đến đâu, để
làm giàu cho cuộc sống, để làm cho đời mình có được giá trị vĩnh cửu. Chúa
không cấm chúng ta làm giàu, không cấm chúng ta có nhiều tiền bạc, của cải.
Nhưng Chúa dạy chúng ta đừng chỉ lo làm giàu trước mặt người đời mà thôi nhưng
còn phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa nữa, bằng một cuộc sống siêu thoát và
thánh thiện, bằng một cuộc sống quảng đại, rộng tay chia sẻ và phục vụ. Đó là
cách đầu tư bảo đảm cho gia nghiệp đời mình mai sau.
13. Từ bỏ
Có hai vị ẩn
sĩ lên đường hành hương. Một vị chủ trương cần phải có tiền bạc và những phương
tiện vật chất đầy đủ, thì mới bảo đảm được cho đời sống tu trì. Còn vị kia thì
luôn tin tưởng vào tinh thần từ bỏ và sự quan phòng của Chúa.
Vừa đi hai
vị vừa tranh luận với nhau mà chẳng ai thuyết phục được ai. Khi họ đến bên bờ
một dòng sông thì trời bắt đầu tối. Vị có tinh thần từ bỏ liền đề nghị:
-
Vì không có
tiền, chúng ta không thể thuê được đò. Nhưng thôi, tại sao chúng ta lại lo lắng
quá nhiều đến thế. Chúng ta hãy nghỉ đêm ở bên này và dâng lời chúc tụng Chúa.
Sáng mai thế nào chúng ta cũng tìm ra người giúp chúng ta qua sông một cách an
toàn.
Thế nhưng,
vị tin tưởng vào sức mạnh của tiền bạc và những phương tiện vật chất liền quả
quyết như sau:
-
Ở bên này
sông thì không có làng mạc và thú dữ sẽ tấn công chúng ta bất kỳ lúc nào. Hơn
thế nữa, làm sao chúng ta chịu đựng nổi cái lạnh của đêm nay? Bên kia sông,
chúng ta sẽ nghỉ đêm an toàn trong một quán trọ. Tôi có mang theo tiền và chúng
ta hãy thuê người chèo đò qua sông.
Khi hai
người đã qua sông, vị tu sĩ trả tiền cho người lái đò và nói với người bạn của
mình như sau:
-
Anh đã thấy
được ích lợi của việc giữ tiền trong túi chưa? Điều gì sẽ xảy ra nếu như tôi
cũng sống tinh thần từ bỏ như anh?
Nghe thế, vị
tu sĩ luôn sống tinh thần từ bỏ liền mỉm cười và nói:
-
Chính tinh
thần từ bỏ của anh đã cứu sống chúng ta. Anh đã không tiếc tiền để thuê người
lái đò là gì? Hơn thế nữa, mặc dù không có một đồng xu dính túi, nhưng tôi cũng
vẫn được qua sông, vì Chúa lo liệu cho tôi.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào
đoạn Tin mừng hôm nay. Thực vậy, đọc lại Phúc âm, chúng ta thấy rất nhiều lần
Ngài đã đề cập tới tinh thần từ bỏ.
Lần kia Ngài đang đi đường thì có một
người đến và thưa:
-
Tôi xin theo Thày bất cứ nơi nào Thày đi.
Và Ngài đã nói:
-
Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con
Người thì không có lấy một nơi tựa đầu.
Lần khác Ngài nói với một người:
-
Hãy theo Ta.
Nhưng người đó thưa lại:
-
Xin cho tôi được về chôn táng cha tôi trước
đã.
Và Ngài bảo:
-
Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết, phần ngươi, hãy
đi rao giảng nước Thiên Chúa.
Rồi Ngài kết luận:
-
Ai cầm cày mà còn quay trở lại thì không xứng
đáng làm môn đệ Ta.
Và qua đoạn Tin mừng hôm nay, Ngài còn
xác quyết:
-
Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình.
Như thế, Ngài đòi hỏi nơi chúng ta một
thái độ dứt khoát, không thỏa hiệp, không lửng lơ, không bắt cá hai tay. Bởi vì
giữa Thiên Chúa thánh thiện và tội lỗi xấu xa, không thể nào đội trời chung với
nhau.
Thế nhưng, trong cuộc sống hằng ngày,
nhiều khi chúng ta đã thỏa hiệp với tội lỗi, với những ước muốn riêng tư, mặc
dầu những ước muốn riêng tư ấy đi ngược lại với những đòi hỏi của Chúa. Và tệ
hại hơn nữa, nhiều khi chúng ta đã đầu hàng tội lỗi, chúng ta làm điều xấu, cho
dù chúng ta không muốn.
Chúng ta giống như một người tân tòng
khi được dìm xuống nước, cứ nhất định giơ một cánh tay lên, để cánh tay đó mai
mốt có đi ăn trộm thì không có tội vì đã không thuộc về Chúa.
Thế nhưng, nếu chúng ta nói rằng:
Chúng ta dâng cho Chúa tất cả, mà chỉ dừng lại một xó góc nhỏ bé của con tim
cho tội lỗi, thì đó là dấu chỉ chắc chắn nhất chứng tỏ chúng ta dâng gì cho
Chúa.
14. Mất và được
Có câu
chuyện kể như sau:
Một cô gái
sống cô đơn trong căn nhà gỗ cạnh khu rừng. Một hôm, giữa lúc dạo chơi, cô bỗng
thấy hai chú chim non mất mẹ đang thoi thóp trong tổ trên một chạc cây. Cô vội
đem về nuôi trong một cái lồng rất đẹp. Tình thương của cô đã làm cho hai chú
chim non lớn nhanh và trổ mã. Mỗi sáng chúng cất líu lo chào đón cô.
Ngày kia, cô
sơ ý để một chú chim sổ lồng. Không muốn tình yêu của cô bay mất, nên cô vội
chộp lấy chú chim bé bỏng. Cô sung sướng giữ chặt nó trong tay. Nhưng khi nới
lỏng tay ra cô mới bàng hoàng thấy con chim đã khép mắt lìa đời.
Cô thẫn thờ
nhìn con chim lẻ bạn còn lại trong lồng. Có lẽ nó cần được tự do bay vút lên
bầu trời trong xanh. Cô tiến đến chiếc lồng và nhẹ nhàng tung chú chim lên cao.
Nó lượn trên vai cô, hót vang những giai điệu thánh thót mà cô chưa một lần
được thưởng thức trong đời.
Qua tiếng
hót mượt mà diệu kỳ ấy, cô chợt hiểu rằng cách nhanh nhất để đánh mất tình yêu
là khi ta nắm giữ nó thật chặt. Trái lại, để giữ mãi sự yêu thương thì ta phải
ân cần trao cho cuộc tình một đôi cánh tự do.
Cô gái chỉ
được lại niềm vui khi cô bằng lòng chịu mất đi chú chim bé bỏng. Vì hạnh phúc
của loài chim là được tung bay trên bầu trời, và niềm vui của con người là được
nghe tiếng chim thánh thót.
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng
dạy: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì
Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Cần phải mất đi để được lại.
Người Kitô hữu chỉ thực sự hạnh phúc
khi dám mất đi cái tạm bợ để được lại cái vĩnh hằng, dám mất đi cái mau qua để
được lại cái trường tồn.
Người Kitô hữu chỉ thực sự khôn ngoan
khi sẵn lòng mất đi của cải phù vân để được lại gia tài vĩnh cửu, mất đi sự
sống hay chết để được lại sự sống đời đời.
Hiểu được cái gì phải mất đi và cái gì
sẽ được lại đã không phải là dễ dàng, mà sống được điều đó lại càng khó khăn
hơn.
·
Đâu phải dễ dàng từ bỏ những cái mình thân
thiết nhất, yêu quí nhất; những cái mình dày công kiếm tìm, theo đuổi.
·
Đâu phải dễ dàng, để mất đi những thú vui,
khoái lạc, thỏa mãn giác quan, đê mê thân xác.
·
Đâu phải dễ dàng triệt tiêu cái tôi cao ngạo,
tự mãn, tự tôn đã từng được vuốt ve, nuông chiều.
Phải suy nghĩ cho thật nhiều, phải cầu
nguyện cho thật lâu, để sáng suốt nhận định về cái được, cái mất, cũng là để
khỏi phải hối tiếc khi đã quá muộn. Đây hẳn là câu mà Đức Giêsu đề nghị chúng
ta suy nghĩ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà
theo”. Theo Thầy là phải từ bỏ chính mình hẳn là không dễ dàng. Theo Thầy là
vác thập giá mình mà theo lại không dễ chịu chút nào. Nếu thế, thì đây là một
đòi hỏi hết sức gắt gao, nghiêm túc không thể tùy hứng làm hay không làm. Vì
ngay sau đó, Đức Giêsu đã cảnh báo: “Người (Chúa Cha) sẽ thưởng phạt ai nấy
xứng việc họ làm”.
Các Tông đồ đã từ bỏ mọi sự mà theo
Chúa nên đã được gấp trăm cả đời này lẫn đời sau.
Các vị tử đạo đã từ bỏ sự sống ngắn
ngủi, để được lại sự sống muôn đời.
Thánh Têrêsa đã từ bỏ cả tuổi thanh
xuân nương mình trong chốn viện tu, để được lại biết bao linh hồn nhờ lời cầu
nguyện, hy sinh âm thầm.
Augustinô đã từ bỏ đời sống xa hoa trụy
lạc, để được lại một vị thánh giám mục khôn ngoan thánh thiện lừng danh trong
Giáo Hội.
Maximilien Kolbe đã từ bỏ chính mạng
sống mình, chết thay cho người bạn tù, để được lại chính Chúa là nguồn sự sống.
Mỗi Kitô hữu đều có những cái để từ
bỏ, nhưng cần thiết nhất và cũng khó khăn nhất là phải từ bỏ chính mình, từ bỏ
cái tôi cao ngạo, ích kỷ, hưởng thụ, để được ngay từ bây giờ niềm vui, an bình
và hạnh phúc.
Trên nỗi đau của từ bỏ chúng ta thấy ý
nghĩa ngọt ngào của hy sinh. Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của thiên đàng.
Baeteman nói: “Khi hy sinh dâng lên cao thì hồng ân đổ xuống nhiều”.
15. Đánh đổi
Trong bài Tin Mừng của thánh lễ Chúa
nhật tuần trước ta thấy ông Phêrô đã tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế đến
từ Thiên Chúa hằng sống. Mà theo suy nghĩ của người Do thái nói chung và của
các Tông đồ nói riêng thì Đấng cứu thế sẽ là Đấng giải phóng dân bằng uy quyền
và sức mạnh, bằng quân đội và vũ khí. Do đó, khi Chúa Giêsu loan báo cho các
Tông đồ về cuộc khổ nạn và cái chết Người sẽ phải chịu, các ông không thể chấp
nhận được.
Ông Phêrô đã kéo Chúa Giêsu ra một nơi
và can gián Người: “Thưa Thầy không thể thế được. Thầy chẳng phải chịu như thế
đâu”. Nói câu đó, ông Phêrô đã bày tỏ lòng thương mến và lòng tin tưởng nơi
Chúa Giêsu. Vì thương mến Chúa Giêsu nên ông không muốn Người phải khổ. Vì tin
tưởng Chúa Giêsu nên ông nghĩ rằng không lẽ gì Người đầy quyền năng như thế mà
lại phải chịu để cho người ta bắt bớ, hành hạ và giết đi. Nhưng Chúa Giêsu đã
khiển trách ông: “Hỡi Satan, hãy lui ra đằng sau Thầy. Con làm cớ cho Thầy vấp
phạm, vì con chẳng hiểu biết những gì thuộc về Thiên Chúa mà chỉ hiểu biết
những sự thuộc về loài người thôi”.
Thì ra giữa tư tưởng của Thiên Chúa và
tư tưởng của con người có một khoảng cách và khác biệt rất lớn.
Tư tưởng của con người là muốn mọi sự
dễ dãi, tiện nghi, không vất vả. Cứ nhìn vào cuộc sống hôm nay ta sẽ thấy rõ
điều ấy.
-
Khi coi truyền hình người ta muốn ngồi một
chỗ và dùng bộ phận điều khiển từ xa, khỏi mất công đi lại điều chỉnh.
-
Nếu ngại nấu ăn thì đã có mì, có cháo ăn
liền, có cà phê uống liền khỏi mất công nấu nướng, pha chế.
-
Muốn lên lầu cao thì đã có thang máy, không
phải leo lên từng bậc vất vả…
Tâm lý thích dễ dãi này tự nó không
phải là điều xấu. Trái lại, nó là điều tốt vì nó thúc đẩy những phát minh khoa
học để phục vụ đời sống con người. Nhưng điều đáng nói là người ta lại áp dụng
tâm lý thích dễ dãi ấy vào chuyện Nước Trời. Người ta cũng muốn mình chiếm được
Nước Trời một cách dễ dàng thoải mái như vậy. Càng ít phải cố gắng, ít phải hy
sinh bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Rút ngắn giờ kinh lễ, giảm thiểu việc ăn chay hãm
mình, giữ đạo một cách tối thiểu sao cho khỏi sa hỏa ngục là được.
Với một lề lối suy nghĩ và một cách
sống như thế, con người không thể hiểu được tại sao Thiên Chúa lại chọn con
đường thập giá, con đường đau khổ để cứu độ con người. Tại sao Người không chỉ
phán một lời tha tội cho con người có phải dễ dàng hay không?
Cho dù con người suy nghĩ thế và muốn
thế nhưng Thiên Chúa thì khác. Người vẫn chọn con đường thập giá, chọn những hy
sinh, chọn những thống khổ, chọn cái chết để cứu độ con người. Và Người kêu gọi
những ai muốn tìm hạnh phúc, tìm niềm vui, tìm sự sống, tìm Nước Trời cũng hãy
biết và hãy dám chọn lựa như Người. “Ai muốn theo tôi hãy bỏ mình, vác thập giá
mình hằng ngày mà theo tôi”.
Chúa chọn con đường khổ giá không phải
vì Người thích đau khổ. Chúa muốn con người từ bỏ bản thân và vác thập giá
không phải vì muốn đày đọa con người. Nhưng đau khổ chính là thước đo của lòng
yêu mến, bởi vì chỉ khi yêu nhau thật lòng người ta mới dám hy sinh cho nhau,
mới dám chịu khó, chịu khổ vì nhau. Điều quan trọng là tình yêu được biểu lộ
qua những đau khổ ấy.
Hạnh phúc không bao giờ là một món quà
được cho không, biếu không, nhưng phải mua bằng chính những nỗ lực, những hy
sinh của mình.
Hạnh phúc Nước Trời là một món quà quí
giá nhất và to lớn nhất. Nếu phải mua nó bằng những vất vả hy sinh, bằng những
từ bỏ đau đớn thì đó cũng là điều dễ hiểu thôi.
16. Làm điều khó
Năm 1962,
học sinh lớp thi tốt nghiệp ở trường Trung học Glen Arbor, Michigan, đã dành
tiền để đi tham quan Washington. Số tiền để dành càng nhiều và càng gần đến
ngày lên đường đi về thủ đô. Bất thình lình họ biết rằng một người bạn cùng
lớp, Duane Richardson, bị mắc chứng bệnh ung thư, việc điều trị bệnh này rất
tốn kém. Những bạn trẻ này đã quyết định chuyển giao số tiền chi phí cho cuộc
du lịch để giúp thanh toán phí tổn của người bạn học, dẫu rằng làm như thế là
họ bỏ mất chuyến đi tham quan. Lời đồn về hành động của họ lan ra. Thế là họ
nhận được rất nhiều tiền giúp đỡ từ nghiều phía, đến nỗi cuối cùng có thể thực
hiện được điều ước mơ. Tất cả 33 người, gồm luôn Duane Richardson, đã làm cuộc
hành trình về thủ đô nơi họ được vinh dự đặc biệt.
Đó là bằng chứng về điều Chúa Giêsu
nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “Ai đành mất mạng sống mình vì
Thầy, thì sẽ được sự sống”. Thật vậy, những học sinh quảng đại đã không hiến
mạng sống cho người bạn của họ, nhưng họ sẵn sàng cho đi phần đời sống họ, một
phần rất vui sướng. Họ đã sẵn sàng tử bỏ chính mình, và họ đã được trả lại ngay
trong đời sống này.
Là những người tin theo Chúa Kitô, tất
cả chúng ta cũng phải từ bỏ mình, phải làm một vài hy sinh. Điều chúng ta từ bỏ
để nên người thực sự tin theo Chúa Kitô, có lẽ không đáng loan truyền như hy
sinh quảng đại của các học sinh trong câu chuyện trên, nhưng Thiên Chúa sẽ trả
công cho mỗi người theo việc họ làm.
Như đến tham dự thánh lễ sáng này, các
bạn đã thực hiện một ít cố gắng. Sự ý thức, tích cực tham dự Thánh lễ đòi hỏi
một ít cố gắng. Điều đó còn dễ dàng hơn là cầu nguyện trước khi vào giường ngủ,
còn dễ hơn ngồi ăn mà không xin Chúa chúc lành. Thức dậy và đi làm cũng không
luôn dễ dàng.
Hàng chục lần mỗi ngày, người mẹ phải
quên đi những mệt mỏi và an nhàn và lo lắng cho những người thân yêu trong gia
đình. Cha mẹ phải từ bỏ nhiều điều để chu cấp cho sức khỏe và hạnh phúc của con
cái. Còn các học sinh lại thường không thích đi học. Đó là Thánh giá nhỏ của
các bạn. Mỗi người chúng ta, ít nhất là thỉnh thoảng cũng phải nỗ lực hơn để
làm một vài điều gì khác với những điều phải làm luôn mãi. Đây là thánh giá nhỏ
mà Chúa Giêsu nói tới.
Chúa Giêsu đã làm nhiều điều khó. Ngài
đã vác nhiều thánh giá nhỏ, trước khi vác thánh giá lớn. Ngài đã cầu xin để
Ngài khỏi phải vác lấy nó. Tuy nhiên, Ngài đã cúi mình vâng theo ý Chúa Cha,
như chúng ta cầu nguyện trong bài tiền tụng của Kinh nguyện Thánh Thể II: “...
để chu toàn thánh ý Cha... Ngài đã giang tay chịu khổ hình trên thánh giá”.
Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta cầu nguyện “ý cha thể hiện”, mà Ngài còn tỏ
cho chúng ta biết cách thi hành ý Chúa Cha, không có khó khăn gì.
Chúng ta hãy đem tất cả những thánh
giá nhỏ của chúng ta, và cả thánh giá lớn nữa, và bỏ tất cả vào chén Thánh với
Máu châu báu của Chúa Giêsu, rồi tất cả chúng ta linh mục và giáo dân, dâng
chúng cho Thiên Chúa làm của lễ cao cả nhất. Chúa Giêsu xin chúng ta vác lấy
thánh giá của mình, thực hành một vài hy sinh như các bạn trẻ học sinh trong
câu chuyện. Chắc chắn Ngài sẽ giúp các bạn vác thánh giá đó, các bạn hãy cố
gắng lên. Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
17. Phải từ bỏ mình
Bài Phúc âm mà chúng ta vừa nghe trong
Chúa Nhật XXII Thường Niên năm A hôm nay tiếp tục đoạn Phúc âm theo thánh
Matthêu mà chúng ta đã chia sẻ với nhau trong Chúa Nhật tuần trước. Sau khi hỏi
các tông đồ: "Người ta bảo Con Người là ai?", và Chúa Giêsu hỏi chính
các tông đồ; "Phần các con, các con bảo Thầy là ai?", Phêrô đại diện
cho các tông đồ tuyên xưng đức tin: "Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng
sống".
Từ sau lời tuyên xưng này, Chúa Giêsu
bắt đầu mạc khải cho các tông đồ biết rõ hơn về vận mạng cuối cùng của Ngài, đó
là con đường khổ nạn mà Ngài sẽ phải thực hiện lại Giêrusalem. Lúc đó Phêrô lại
can ngăn Chúa: "Lạy Thầy, không thể được, không phải như vậy đâu. Nhưng
Chúa Giêsu quở trách Phêrô và tiếp tục mạc khải về những điều kiện để theo
Chúa: "Nếu ai muốn theo Thầy thì hãy từ bỏ mình đi, vác Thập giá rồi hãy
theo Thầy. Vì chưng, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất và ai đánh mất sự
sống mình vì Thầy thì sẽ được sống đời lời. Nếu ai được lời tãi cả thế gian mà
mất lình hồn thì được ích gì!".
Chúa Nhật tuần trước chúng ta đã cùng
nhau chia sẻ về cuộc đời của người Kitô, và chúng ta đã nói nơi người Kitô có
hai con người: Một con người tuyên xưng đức tin vào Chúa, tức là một con người
chấp nhận cộng tác với ơn thánh của Chúa để rồi có thể tuyên xưng đức tin, giữ
vững đức tin của mình. Và con người thứ hai là con người cũ, con người có những
khuynh hướng nghiêng chiều về tội lỗi và và các đam mê xấu xa. Con người cũ đó
cần phải thanh tẩy để mỗi ngày con người mới được trở nên mạnh mẽ hơn.
Hôm nay chúng ta tiếp tục chia sẻ về
đề tài này, về đời sống của người Kitô hữu theo chân Chúa. Xin được kể ra một
câu chuyện vui như sau:
Một hôm, đạo
sĩ Makia đưa anh Intyra đến một toà nhà rộng lớn, nơi đó mỗi vị thần được dành
một căn phòng riêng. Căn phòng dừng chân đầu tiên là của vị thần Maida, bấy giờ
đạo sĩ Makia giới thiệu với Intyra: Đây là vị thần đã hứa sẽ cất hết mọi sự đau
khổ khỏi thế giới con người, nhưng Intyra tắc đầu và xin được sang căn phòng
khác. Trước vị thần thứ hai, đạo sĩ Makia giới thiệu thêm: Đây là nữ thần Jupia
có bí quyết giúp con người tránh được đau khổ, nhưng Intyra ra hiệu cho đạo sĩ
cùng đi nơi khác. Cuối cùng hai người đến trước một vị đang bị treo trên Thập
tự như thế này và đạo sĩ chậm rãi trả lời: "Đây là Chúa Giêsu Kitô của
những người Kitô". Với chút xúc động lộ trên gương mặt, anh Intyra xin đạo
sĩ chỉ thêm để có thể làm môn đệ của người bị treo trên Thập tự. Đạo sĩ Makia
ngạc nhiên hỏi: "Này anh, anh làm tôi thắc mắc, hai vị thần anh gặp lúc
đầu, một thì cất mất sự đau khổ, còn một thì đề nghị tránh khỏi đau khổ, nhưng
anh lại không thích người nào cả. Thế nhưng lại sao giờ đây anh lại thích và
muốn làm đồ đệ của một vị chịu chết cách nhục nhã trên Thập tự như vậy?”
Anh Intyra
giải thích cho đạo sĩ Makia: Hứa làm mất đi sự đau khổ trên trần gian này là
lời hứa suông, người ta không thể cất đi được những đau khổ trên trần gian này,
và dạy con người tránh sự đau khổ là dạy con người sống khiếp hèn tránh né, thì
người ta cũng chẳng thể nào tránh né khỏi đau khổ. Vì tránh được sự đau khổ này
thì sự đau khổ khác cũng sẽ tới.
Tuy nhiên, nhìn vào vị Chúa của người
Kitô chấp nhận đau khổ vì người Kitô trên Thập giá như vậy, con người được mời
gọi hiểu ý nghĩa của đau khổ và chấp nhận nó. Hơn nữa, một khi hiểu và chấp
nhận mầu nhiệm đau khổ, thì niềm vui và an hoà có thể trổ sinh trên trái đất
này. Đó là lý do tôi cảm thấy lại sao bị thu hút bởi Đấng chịu chết trên Thập
giá và muốn làm môn đệ của Ngài. Vậy xin đạo sĩ hãy đưa tôi đến nơi mà người
Kitô sống để được trở thành người Kitô.
Chúa Giêsu Kitô mà chúng ta chấp nhận
theo làm môn đệ, Ngài không hứa cho chúng ta được danh vọng, giàu sang, nhưng
Ngài mời gọi chúng ta: "Nếu ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình đi, vác
Thập giá hằng ngày mà theo Ta. Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai đánh
mất sự sống mình vì Thầy thì sẽ được sống muôn đời".
Đây là một sự thật hết sức tốt đẹp mà
có thể nhiều người hay mỗi người trong chúng ta thường tặp đi tặp lại nơi chính
mình. Nhưng nếu chỉ tặp đi tặp lại ngoài môi miệng mà thôi thì không sinh ích
lợi gì, chúng ta cần phải sống và thực hành những chân lý ấy
Câu chuyện về anh Intyra và nhà đạo sĩ
Makia còn một đoạn kết thúc nữa, đó là lúc đạo sĩ Makia hướng dẫn anh Intyra
đến nhà thờ những người Công giáo để xin lãnh Bí tích Rửa tội. Khi bước vào
làng của người Công giáo thì hai người chỉ nhìn thấy những cảnh không tốt đẹp.
Đây thì có nhóm những người đang cãi lộn với nhau nơi khác thì giống như sắp
giết nhau, nơi công cộng thì vang lên những lời nói tục tằn vô lễ Intyra hỏi nhà
đạo sĩ: "Đây là đâu vậy?" Đạo sĩ Makia trả lời: "Đây là làng của
người Công giáo". Vừa nghe qua những lời này, Intyra thúc giục nhà đạo sĩ:
Chúng ta hãy đi nơi khác, tôi mộ mến vào Đấng chịu đóng đinh trên Thập giá,
nhưng tôi không muốn trở thành người Kitô nữa.
Nếu chúng ta chỉ nói: "Lạy Chúa,
Lạy Chúa" ngoài môi miệng mà không sống thực hành trong đời sống của mình,
có thể chúng ta sẽ rơi vào trường hợp như đã xảy ra trong câu chuyện vui trên.
Chúng ta nói mình sẵn sàng theo Chúa, chấp nhận làm môn đệ của Ngài, chấp nhận
những hy sinh, chấp nhận đi trên con đường Thập giá, nhưng trong đời sống chúng
ta có thự hành điều này hay không?
Xin Chúa giúp chúng ta được thực sự
sống những gì mỗi người chúng ta tin, thực hành những gì chúng ta nói, không
phải để khoe khoang, nhưng để góp phần của mình làm tốt cho xã hội chúng ta
đang sống, góp phần giúp anh chị em xung quanh đến với Chúa và chính chúng ta
là người đầu tiên phải đi trên con đường này để đến với Chúa trước tiên, thì
mới có thể hy vọng giúp anh chị em đến với Chúa được. Xin Chúa gìn giữ tất cả
chúng ta trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin
Kính.
18. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
LOAN BÁO CUỘC KHỔ NẠN LẦN THỨ NHẤT
CHÚ GIẢI CHI
TIẾT
"Chúa sẽ có đâu như thế!": Đó luôn
luôn là Satan với lời xúi giục cổ điển: "Các ngươi chẳng chết chóc gì đâu,
nhưng sẽ trở nên như các thần" (Mt 3,4-5), chính nó lại đối diện với Chúa
Giêsu ở đây, cũng như hồi Người bắt đầu sứ vụ: "Nếu Ngài là Con Thiên
Chúa...", “các thiên thần sẽ nâng Ngài trên bàn tay họ" (Mt 4, 5).
Tiếng kêu của Phêrô, kèm theo những lời trách cứ đúng là có nghĩa "Nếu
Ngài là Chúa Kitô – vì Ngài là Chúa Kitô - điều đó không thể nào xảy ra
được". Thế mà chính vì là Kitô mà Chúa Giêsu phải chết.
"Xéo đi sau
Ta, hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta”: Cái đập vào mắt ta trong biến cố này, là những tiếng dữ dội Chúa Giêsu
dùng để trả lời Phêrô; dĩ nhiên Matthêu không chủ ý kể lại một vụ hiểu lầm sơ
sài, chóng qua. Vị trí của câu mắng sau lời tuyên xưng và thiên sai tính và sau
lời loan báo đầu tiên về cuộc Khổ nạn mặc cho nó một sự nặng nề đặc biệt. Vừa
mới được khen là có phúc, giờ đây Phêrô bị gọi là Satan; lúc ấy ‘Ngươi là đá’,
bây giờ ‘Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta’ (cách dịch của BJ: ‘Ngươi cản ngăn Ta’ rõ
ràng quá yếu). Ở đây sự tương phản gần như là mâu thuẫn: Từ địa vị Tảng đá nền
móng khá vững chắc trên đó Chúa Giêsu xây dựng Giáo Hội Người, môn đồ Phêrô trở
nên viên đá vấp phạm mà chính Người suýt phải vấp. Khi hiểu sự nghiêm khắc của
Chúa Giêsu đối với những người gây gương xấu cho kẻ khác cùng sự thẳng tay của
các giải pháp Người đưa ra để chống lại hạng làm gương xấu (18, 6-9), ta mới
lượng được sự khắt khe tàn nhẫn của lời người khiển trách Phêrô. Người đáp lại
ông với những từ ngữ đã dùng để trả lời Satan khi bị cám dỗ trong sa mạc:
"Xéo đi, Satan" (4, 10). Chính vì trong cả hai trường hợp, Phêrô và
Satan đều nghĩ rằng, vì là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu sẽ lợi dụng tư cách đó
như một đặc quyền cá nhân để chiếm đoạt một vinh quang, thuần túy phàm trần.
"Vì ý tưởng
của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa": Đây là một song đối tiêu cực với điều Chúa Giêsu đã nói
ở câu l7: "Không phải thịt máu đã mặc khải cho ngươi, mà là Cha Ta, Đấng
ngự trên trời ". Trong việc gần như tự phát chống đối cuộc Khổ nạn của
Chúa Giêsu, Phêrô đã để thịt và máu nói, do đó tư tưởng của ông không thể phù
hợp với mặc khải của Chúa Cha. "Quả thế, ý nghĩa của Ta không phải là ý
nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải là đường lối của các
ngươi" (Is 55, 8).
"Nếu ai muốn
đi sau Ta": Dù trực tiếp ngỏ với
các môn đồ chỉ thị này vẫn không coi như một lời khuyên sống trọn lành dành cho
một nhóm Kitô hữu ưu tú: ‘bất cứ ai’ (Hy ngữ tis) muốn theo Chúa Giêsu, thì
phải nghe và vâng theo chỉ thị đó, vì nó mô tả chính cuộc sống Kitô hữu cơ bản.
Dĩ nhiên, đây chẳng phải là một điều kiện nhiệm ý, nhưng là một sự dấn thân
tích cực mà người môn đồ không được trốn tránh.
"Vì kẻ muốn
cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ nào mất sự sống mình vì Ta thì sẽ tìm
lại được ": Câu này là câu kế tiếp
dùng chữ sự sống với hai nghĩa khác nhau. Chữ ấy trước tiên chỉ con người cụ
thể với sự sống thể lý trong thời gian của nó, nhưng đồng thời cũng chỉ sự sống
vĩnh cửu theo nghĩa Gioan. Thành thử ta có thể giảng giải ra như sau: kẻ nào
muốn cứu lấy sự sống trong thời gian của mình sẽ mất sự sống vĩnh cửu, còn kẻ
nào đành mất sự sống trong thời gian của mình vì Ta, thì sẽ tìm được sự sống
vĩnh cửu.
Câu 26 cũng phải
được hiểu trong cùng chiều hướng như câu trước, nghĩa là phải mặc cho chữ sự
sống hai nghĩa trên đây. Nếu không, sự nghịch lý Chúa Giêsu nói lên sẽ thành
một câu lý luận tầm thường: dù lời lãi cả và thế gian, con người cũng không thể
hưởng thụ được nó nếu bị thiệt mất sự sống trong thời gian của mình, tức là
chết đi. Ở đây ý nghĩa hoàn toàn trái ngược: nào có ích gì cho con người khi
được lời lãi tất cả thế gian, nếu vì đó mà lại thiệt mất sự sống vĩnh cửu.
"Hay người
ta sẽ cho gì để chuộc lại sự sống mình?": Đây là một câu tục ngữ mà nếu hiểu một cách thông thường thì sự sống con
người quý giá hơn tất cả mọi cái. Nhưng theo văn mạch và đem áp dụng vào sự
sống vĩnh cửu thì nó có nghĩa: cái gì có thể bù đắp lại việc mất sự sống vĩnh
cửu? Câu trả lời diễn dịch từ câu trước: Không gì bù đắp được, ngay cả vũ trụ.
Câu 27 đưa ra lý
do sâu xa cho những chọn lựa cơ bản của môn đồ: đó là Con người một ngày kia sẽ
đến phán xét các chọn lựa đó. Và cuộc phán xét này sẽ định đoạt số phận tương
lai của họ.
KẾT LUẬN
Cuộc Khổ nạn là
một yếu tố trong chương trình cứu rỗi: nó rất "cần thiết". Đó là phần
thâm sâu nhất, mầu nhiệm nhất, "mới mẻ" nhất của tâm hồn và sứ mệnh
Chúa Giêsu. Nhưng đó cũng là lý do trường cửu của sự vấp phạm; nó đã là cớ vấp
phạm cho dân Do thái, cũng như là đề tài thắc mắc của Giáo Hội sơ khai và Giáo
Hội mọi thời. Trước đấy, nó đã là vấn đề của sách Gióp: sau cuộc lưu đầy,
Israel tự thắc mắc về ý nghĩa sự "công chính" của Thiên Chúa. Nói
cách khác, được làm tuyển dân của Thiên Chúa, được làm đối tượng của tình yêu
Ngài có nghĩa là gì? Qua lời mặc khải của Chúa Giêsu, điều mà trong sách Gióp
xem như là một luật trừ (sự đau khổ của người công chính) thì nay thành luật
chung: tình yêu Thiên Chúa đi ngang qua thập giá. Gương Phêrô từ chối nhìn nhận
dung mạo đau khổ của Chúa Kitô là một bài học cho Giáo Hội và cho mọi kẻ tin.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Chúa Giêsu bình
thản loan báo cái chết của Người. Đấng mà nguyên việc xuất hiện đã làm nẩy sinh
mùa xuân của thế giới, nay sẽ phải nếm cơn hấp hối của sự từ bỏ hoàn toàn.
Người ý thức sáng suốt định mệnh của mình, tuy nhiên vẫn biết rõ rằng, theo
cách tính toán nhân loại, điều sắp xảy đến lẽ ra chẳng được xảy đến. Nhưng
Người không buồn tủi, mà hoàn toàn tín thác vào Chúa Cha: Người biết hòn đá bị
loại bỏ dù thế nào đi nữa cũng sẽ trở thành viên đá đỉnh góc.
2) Chúng ta luôn có
phản ứng như Phêrô khi phải chạm trán với thập giá. Cô đơn, nghèo khổ, đau ốm,
bấp bênh tương lai mất người thân thuộc, bất lực chữa trị tật xấu, tất cả hầu
như không thể chấp nhận đối với chúng ta. Thế nhưng, chính đó là cái Chúa Giêsu
yêu cầu chúng ta vác lấy để đi theo Người.
Vì thiếu đức tin
nên ta thường phẫn uất, bất bình khi gặp thử thách. Như Phêrô, ta không thực sự
tin Thiên Chúa thừa sức mạnh để làm phát sinh sự sống từ cái chết, thừa nhân
hậu để từ chính thập giá làm phát xuất niềm vui. Tuy nhiên, chính hôm trước
ngày tử nạn, Chúa Giêsu đã nói đến niềm vui của Người, lúc mà quân canh rình
chực Người để bắt lấy. "Kẻ nào mất sự sống mình sẽ tìm được lại". Mầu
nhiệm vĩ đại, cái mầu nhiệm mà các thánh đã từng kinh nghiệm trong cuộc đời
chịu đóng đinh của họ, đó là niềm vui bất khả phân ly với thập giá. Vâng, nếu
được chấp nhận vì tình yêu, thập giá sẽ trở nên nhẹ nhàng. Điều này không ngừng
bị sự khôn ngoan trần gian phản đối, vì trần gian chỉ rêu rao sự tiện nghi và
việc chạy theo khoái lạc: nó luôn hứa ban hạnh phúc nhưng bao giờ cũng chỉ đem
đến thất vọng ê chề. Nó là kẻ thù không đội trời chung của thập giá. Nhưng khốn
nạn thay, chính khi quay lưng với thập giá là trần gian quay lưng với niềm vui,
với sự sống đích thực. Trần gian không biết và mãi mãi sẽ không biết rằng niềm
vui và đau khổ có thể hòa hợp với nhau khi có sự hiện diện biến đổi của tình
yêu.
19. Chú giải theo Fiches
Dominicales
CON ĐƯỜNG DẪN TỚI
SỰ SỐNG
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Con đường của Con Người…
Đáp lại câu hỏi
Đức Giêsu đặt ra cho các môn đệ "trong miền Xêrarê Philip" trước khi
lên đường đi lên Giêrusalem: "Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô
đã trả lời: "Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Tiếp liền theo
Đức Giêsu đã đặt cho ông một tên mới, tượng trưng cho sứ vụ mà Chúa trao cho:
"Con là Đá trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”.
Đến đây Matthêu
lấy lại công thức mà ông đã giới thiệu mục vụ ở Galilê, đã thuật tiếp: "Từ
thời gian này ..." đó là một cách nói báo trước một bước ngoặt quyết định
trong hành trình của Đức Giêsu Kitô.
2. Thông báo lần đầu về khổ nạn
Những kẻ theo
Chúa cho đến lúc đó, và đã tuyên xưng qua miệng lưỡi của Phêrô căn tính đích
thực của Người, còn cần phải khám phá xem Người phải thực thi sứ vụ của Người
bằng con đường bất ngờ và khó đoán nào. Đức Giêsu từ nay bắt đầu vào việc:
"Bắt đầu từ lúc này, Matthêu viết, Đức Giêsu Kitô bắt đầu tỏ cho các môn
đệ biết: Người phải đi Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các
thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại."
Thông báo lần đầu
trong ba lần về cuộc khổ nạn phân chia cuộc hành trình lên Giêrusalem (xem
17,22-23 và 20,17-19). Mỗi lần đó đều gặp phải sự không hiểu từ phía các môn
đệ. Mỗi lần đó đều quả quyết rằng không có con đường nào khác cho các môn đệ
ngoài con đường mà sư phụ đã đi. Lời can ngăn hăng hái mạnh mẽ của Phêrô. Phêrô
không thể giữ thinh lặng mà không nói lên lời phiền trách trước cái viễn tượng
đen tối, mà ông và các bạn ông đã không thể tin được, nên ông "kéo Đức
Giêsu ra khỏi đám đông, và bắt đầu trách Người: "Xin Thiên Chúa thương
đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!”. Dù ông đã tuyên xưng sứ vụ cứu thế của Thầy
mình, nhưng quan niệm về một Đấng Kitô phải chịu nhục mạ, chịu khổ hình và chịu
chết là điều ông không thể chịu nổi. Ông lấy danh Đức Kitô vinh thắng để chối
bỏ Đấng Cứu Thế đau khổ. Lời khiển trách nghiêm ngặt của Đức Giêsu vào lúc
đương đầu với cuộc khổ nạn và cái chết, Đức Giêsu trải qua cơn thử thách cô
đơn. Không những đám đông dân chúng từ bỏ Người, mà cả đến các bạn hữu cũng
không hiểu Người. Kẻ mà Người vừa chọn làm ‘đá tảng, đá nền để xây Hội Thánh
của Người trên đó’, giờ đây bỗng biến thành viên đá cản đường, hòng làm Người
té nhào trên đường. Ông gợi ý cho Người một con đường "cứu thế" theo
ý loài người, chứ không theo con đường của Thiên Chúa. Việc Phêrô không muốn
chấp nhận, theo J.Potid giải thích, làm sống lại cơn thử thách vĩ đại mà Chúa
đã phải trải qua vào lúc đầu thi hành sứ vụ. Con đường của Người không phải là
đường vinh quang mà những người Do Thái mơ ước cho Đấng Cứu Thế của họ, con
đường trải đầy những việc phi thường, những chiến thắng, những cuộc biểu dương
vinh hiển. Đức Giêsu đã phải loại bỏ những điều đó, bởi vì Thiên Chúa không thể
thiết lập vương quốc bằng vũ lực. Và giờ đây Phêrô làm sống lại trước mắt Người
sự hiện diện của Satan, mà Người đã thắng (trong "Jesus, l'histore
vraie" Centurion 1994, trang 334-335)
"Satan, lùi
lại đàng sau Thầy". Đức Giêsu đã
đáp lại ông cách hết sức gay gắt. Nghĩa là: anh hãy giữ địa vị môn đệ, đàng sau
Thầy. Lời quở trách này, Cl. Tasin quảng giải, vẽ nên nét tương phản với lời
chúc phúc mà Chúa đã nói với Phêrô ở câu 16,7. Ông đã biết tuyên xưng đức tin,
nhưng ông lại không biết từ bỏ ý mình mà chấp nhận ý Thiên Chúa. Sự phản kháng
của ông không những phát xuất từ tính ích kỷ của "ý tưởng loài
người", mà còn phục vụ Satan. Cả một thế giới thù nghịch với sứ mạng của
Đức Kitô ("L'evangile de Matthieu" (Centurion 1991, trang 181).
3. Đường của các môn đệ
Và để cất đi mọi
ngộ nhận, Đức Giêsu quả quyết rằng đối với môn đệ không có con đường nào khác
con đường mà sư phụ đã đi trước: đó là đường thập giá. "Nếu ai
muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Ba câu tiếp
theo đều xây dựng trên từ "mạng sống" sẽ soi sáng tư tưởng lựa chọn
này: "Ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống
mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy”. Ai tự đặt mình làm trung tâm lẽ
sống, người ấy đi vào cõi diệt vong; nhưng ai xem bề ngoài thất bại để uổng mất
mạng sống mình vì Đức Kitô; thực tế tiến tới thành công. “Nếu người ta được cả
thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì?”. Mạng sống con người
không đồng hoá với của cải họ có, cho dầu họ chiếm được cả thế giới. "Hoặc
người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?: nào ai trả được giá thục hồi cho
Thiên Chúa, thánh vịnh 49,8 đã nói. Chỉ cần môn đệ - đầy tớ giống như sư phụ –
đã là đủ rồi (10,24-25), Jean Rachemakers kết luận, từ bỏ chính mình, mang thập
giá lên vai và theo Chúa, là những thành phần làm nên cuộc sống người môn đệ.
Điều mà Thầy đòi hỏi nơi Phêrô thì Người cũng đòi hỏi nơi mọi môn đệ là: chấp
nhận ý định cứu thế của Thiên Chúa theo cách thế được tỏ ra nơi đời sống Đức
Kitô, bởi đó, chấp nhận rằng Chúa Cha khác hẳn với điều mà "xác thịt và
máu huyết" có thể nghĩ ra, hình dung được.
BÀI ĐỌC THÊM
1. Theo Đức Giêsu (Mgr. Daloz trong cuốn "Le Règlle des cieux s'est
approehé" desclée de Brouwer, trang 242-243). Nếu ta chăm chú nghe lời Đức
Giêsu, ta sẽ thấy rằng Người không nói chống đối sự sống. Người không đòi hỏi
các môn đệ phải bỏ sự sống. Trái lại Người kêu mời họ hãy sống phong phú hơn.
Người chỉ cho thấy con đường sống thôi thúc người ta sống tốt tối đa, tức là
sống để trao ban chính bản thân. Ai khép kín trong vỏ ốc của mình, ai chỉ lo
cho bản thân mình, sẽ héo tàn, bởi vì con người không thể thành tựu nếu chỉ
đóng kín lo cho mình. Nếu bạn khép kín, bạn sẽ chết trong khi nghĩ rằng mình
giữ được sự sống. Thu tích của cải để phòng thân sẽ không ích gì, nếu bạn đánh
mất chính mình. Con người ta không được cứu rỗi nhờ những của cải mình có, nhờ
của "sở hữu” nhưng nhờ đức tính của đời sống. Tính "người được lớn
lên khi ta quên mình và trao ban thân mình. "Nếu người ta được cả thế giới
mà thiệt mất mạng sống mình, thì nào có lợi gì hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi
mạng sống mình". Đức Giêsu nhắc cho ta vẻ cao trọng của con người, trái
tim con người được tạo nên để mở ra, để yêu thương, và bạn không thể yêu thương
nếu bạn không cho đi và trao ban chính mình. "Yêu là cho tất cả là trao
ban chính bản thân mình", thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói. Nếu bạn muốn
tự cho mình là trung tâm vũ trụ, nếu bạn muốn qui chiếu mọi sự về bạn, bạn sẽ
đánh mất bản thân: mất linh hồn, yếu tố nhờ đó mà sự sống thực sự là của con
người. Thật là một nghịch lý cho con người, anh ta chỉ thật sự thành tựu cuộc
sống trong khi anh khước từ nó để cho đi. Chúng ta có thể nhận thấy ở ngay
quanh ta, mặc đầu ta không dễ chấp nhận điều đó áp dụng cho chính mình; những
người thành tựu cuộc sống đẹp và hữu ích, là những người không tìm dễ dãi, là
những người cho đi thời gian, sức lực lòng tận tụy để phục vụ tha nhân... cho
đến hy sinh sự sống của mình. Đức Giêsu đã đề cập và soi sáng vẻ cao đẹp cho
con người mới có này. Không những Người đã sống như thế, người còn mạc khải ý
nghĩa đầy đủ. Người đã đi con đường mà Người muốn cho những ai theo Người phải
đi: Ai muốn theo tôi... Nào chúng ta lại không muốn bước theo Người sao? Còn
đường thập giá, người đã làm cho nó trở thành cửa ngõ xuống đường dẫn vào cuộc
sống sung mãn bất ngờ: đó là sự phục sinh. Những câu tiếp theo liên quan đến
phần thưởng Người nói về kết cục của cuộc sống con người. Không phải một lời đe
doạ đâu, mà là một lời hứa. "Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của
Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ Người sẽ thưởng phạt
ai nấy xứng việc họ làm. Không có gì phải sợ khi bạn liều mạng sống vì Đức
Giêsu, vì đó là một bảo đảm tốt nhất cho sự thành tựu cuối cùng: "Ai liều
mạng sống mình vì Thầy, sẽ tìm lại được nó. Đức Giêsu mời ta cân nhắc tầm vóc
đời đời của những lựa chọn của ta, và tương lai vô tận của tình thương đã trao
ban.
2. Biểu trưng của
thập giá (D.Ponnau, Giám đốc
trường Louvre, trong tạp chí "Le Monde de la Bibbe" số 97, trang 5)
Biểu tượng của
Thập giá đi trước và vượt quá biên giới của thế giới Kitô giáo. Tuy vậy nó là
dấu chỉ quen dùng nhất có tính đặc trưng và tính phổ quát của Kitô giáo. Từ
thời trước Đức Kitô và từ thời Đức Kitô, thập giá là một biểu tượng có tính
toàn cầu phổ biến nhất và được nói đến nhiều nhất, ở ngoài những miền đã tin
theo Phúc Âm. Nó liên kết hết mọi người "phương Đông" ở mặt đất, ở
trên trời và trong không gian. Lâu đời trước thời Đức Kitô, thập giá đã là dụng
cụ khổ hình ghê sợ và ô nhục, chỉ dành cho những cặn bã của xã hội, những tên
nô lệ phản động. Nhưng Đức Kitô đã làm nó trở nên biểu tượng của Đức Kitô và
của các môn đệ của Đức Kitô. “Người Do Thái đòi phép lạ, người Hy Lạp tìm sự
khôn ngoan, còn chúng tôi, chúng tôi rao giảng một Đức Kitô chịu đóng đinh, là
vấp phạm đối với người Do Thái, là điên dại đối với dân ngoại, còn đối với
những kẻ được gọi, cả Do Thái và Hy Lạp, Người là Đấng Kitô, quyền năng và khôn
ngoan của Thiên Chúa”. Thánh Phaolô đã nói như thế và chính Đức Giêsu cùng đã
nói: "Ai không vác lấy thập giá và không theo Ta, thì không xứng đáng với
Ta”. Đấng là Ngôi Lời hằng hữu, nói theo các môn đệ tự trao ban ngay từ khởi
thuỷ, như Đấng bị đóng đinh và Đấng kêu gọi người ta chết đi đóng đinh vào thập
giá. Người trao ban bản thân với tư cách đó trong lời Người và trong lời của
những kẻ mà Người linh hứng. Không phải trong ảnh tượng của Người. Phải chờ đến
thế kỷ IV thì ảnh tượng thập giá của Chúa mới được trưng bày cho người ta chiêm
ngường. Thánh nữ Helena đã phát minh ra ở Giêrusalem và rồi sau đó xuất hiện
vinh quang ở thành thánh. Từ đó thập giá được làm bằng kim loại quý và được cẩn
đá quí. Rồi nhiều thế kỷ sau đó mới thấy xuất hiện tượng thánh giá có mang Đấng
chịu khổ hình. Nghịch lý thay một biểu tượng có tính toàn cầu lại là một biểu
tượng ô nhục. Nghịch lý thay sự vinh quang được tung hô bằng lời nói, lại không
thể chịu được bằng mắt nhìn. Người ta đã có thể gây vấp phạm là trương lên tên
gọi của thập giá và của Đức Giêsu bị đóng đinh. Nhưng phải đợi rất lâu sau
người ta mới có thể trưng bày thập giá cho mắt thấy, và đợi một thời gian nữa,
mới thấy trưng bày Đấng mà họ đã đóng đinh vào thập giá. Dấu ấn của thập giá đã
trở nên dấu ấn tối ưu của Kitô hữu trên thế giới. Trên đó người Kitô hữu chiêm
ngắm vị Thiên Chúa đã chọn vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Đức
Kitô và Kitô hữu đã không sáng chế ra biểu tượng có dạng thập giá được tôn vinh
từ Đông sang Tây và khổ hình độc ác nhất. Họ chỉ tạo cho nó thành địa điểm để
Thiên Chúa siêu vời thấm nhập vào mầu nhiệm cô đơn của con người. Đức Giêsu bị
đóng đinh trên đó đã mời gọi một cách độc đáo những kẻ từ nay có thể nhìn ngắm
Người - Người từ đỉnh núi thánh gọi những kẻ đang ở đáy vực cuộc sống - nhìn
ngắm Người, hoặc như gương mẫu tuyệt hảo của tận hiến và yêu thương, hoặc như
dấu chỉ của tận hiến và yêu thương.
20. Chú giải của Noel
Quession
Ông Si-mon Phêrô
thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.”
Trang Tin Mừng
hôm nay chính là phần tiếp theo bài đọc Tin Mừng Chúa nhật vừa qua. Phêrô, nhân
danh nhóm Mười Hai tông đồ đã thừa nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia hay Đấng Kitô.
Và lúc đó Phêrô được Đức Giêsu khen là có phúc vì đã nhận được "mạc khải"
ấy từ Thiên Chúa. Kế đó Đức Giêsu trao cho Phêrô một sứ mạng: Trở thành Tảng Đá
trên đó Người sẽ xây dựng Hội Thánh Người!
Tuy nhiên khi kết
thúc lời hứa cao cả ấy, Đức Giêsu cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai
biết Người là Đấng Kitô.
Tại sao Người bắt
các tông đồ giữ kín bí mật đó?
Phần tiếp theo
bài tường thuật mà chúng ta suy niệm hôm nay cho chúng ta thấy Phêrô và các bạn
ông đã có quan niệm sai lầm như thế nào, và quan niệm ấy cần được thanh luyện
khỏi mọi thứ chủ nghĩa đắc thắng.
Từ lúc đó...
Matthêu qua những
chữ đó muốn nhấn mạnh rằng trong lộ trình của Đức Giêsu, việc "tuyên xưng
đức tin" tại Xêdarê Philipphê là một khúc quanh quan trọng. Trong đời sống
chúng ta cũng thế, một số biến cố đánh dấu sự đoạn tuyệt với cái cũ để mời gọi
chúng ta đến với một điều khác. Chúng ta có sẵn sàng biến đổi đời mình theo lời
Thiên Chúa mời gọi chúng ta không? "Từ lúc đó", Đức Giêsu hoàn toàn
thay đổi phương hướng.
Đức Giêsu Kitô
bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết Người phải đi Giêrusalem.
Từ mấy tuần nay,
Đức Giêsu đã "chạy trốn" ra nước ngoài, đi về những xứ ở miền Bắc
Palestine. Xêdarê, Philípphê, đầu nguồn sông Giođan là điểm cực xa, đối với
thành Giêrusalem "thành phố giết các ngôn sứ (Mt 23,37). Thình lình Đức
Giêsu quay ngược lại hoàn toàn để lên đường đi về Giêrusalem.
Quyết định này,
Đức Giêsu đã phải suy nghĩ chín chắn: Người ‘phải’ đi và chữ phải ở đây có đầy
đủ ý nghĩa Kinh Thánh. Phải đi thôi!
Trong đời sống
chúng ta cũng thế, có những sự cần thiết bắt buộc chúng ta. Chúng ta phải chịu
những sự bó buộc mà mình không tự ý chọn lựa. Đức Giêsu thấy mình đứng trước
hoàn cảnh ấy: phải đi thôi!
Từ ngữ ấy, trong
Kinh Thánh không bao hàm bất cứ một thứ định mệnh nào mà người ta phải tuân
theo một cách thụ động bởi vì người ta không thể làm khác được.
Từ ngữ
"Người phải" luôn luôn có nghĩa là một quy chiếu vào ý muốn mầu nhiệm
của Chúa Cha; ý định khôn dò ấy của Thiên Chúa bắt đầu với việc bẻ gãy ước muốn
tự phát nhất của chúng ta. Dù các biến cố ấy, có khó sống và làm chúng ta chán
nản đến đâu, chúng ta cũng phải nhận ra trong Đức Kitô rằng các biến cố ấy
không thoát khỏi sự điều khiển tối cao của Thiên Chúa. Đến lượt chúng ta khi
nói rằng "mình phải", chúng ta gắn bó với ý muốn của Chúa Cha trong
bóng tối của sự vâng lời của đức tin, và chúng ta khẳng định rằng chính Thiên
Chúa sẽ có quyết định sau cùng. Nỗi đau này không đè bẹp chúng ta dù chỉ trong
một lúc.
Người phải đi
Giêrusalem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây
ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.
Từ ngày đó, Đức
Giêsu sẽ loan báo ba lần cuộc khổ nạn của Người (Matthêu 16,21; 17,22-23;
20,18-19). Như thế Đức Giêsu đã sống từ tuần này sang tuần khác với tư tưởng về
cái chết của Người. Lúc đó, Người khoảng 30 tuổi. Sứ vụ của Người rất quan
trọng, không bao lâu nữa sẽ hoàn tất một cách tàn nhẫn. Về phương diện con
người mà xét, đó là sự thất bại, là chấm dứt mọi sự. Không cần phải là thần
thánh để thấy trước những kỳ hạn nào đó không thể tránh khỏi. Đức Giêsu đã thấy
sự thù nghịch của các quyền bính cũng như sự bỏ rơi của dân chúng ngày càng
tăng lên. Người phân tích rất kỹ sự chống đối này, nó đang phát triển và sẽ lôi
kéo toàn bộ Giêrusalem "các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư...", mọi
viên chức, mọi nhà lãnh đạo tại thủ đô và Người tình nguyện đi đến nơi đó! Lạy
Đức Giêsu xin cho chúng con lòng can đảm để đối đầu với những hoàn cảnh khó
khăn.
Ông Phêrô liền
kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy
gặp phải chuyện ấy?!”. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phêrô: “Xatan, lui lại
đàng sau Thầy. Anh cản lối Thầy..."
Phêrô bị kết án
là "kẻ cám dỗ" đối với Đức Giêsu "Xatan hư hại!"
Qua tiếng kêu ấy
của Đức Giêsu, chúng ta nhận thấy rằng Người đã cảm thấy trong da thịt sự ghê
sợ mà chúng ta cảm thấy trước những gì ngược lại với cảm xúc và ước muốn phát
triển lập tức. Chính Đức Giêsu cũng cảm thấy ước muốn tránh xa thập giá, điều
mà Phêrô đề nghị: "Nếu có thể , xin cất chén này xa con” Cảnh tướng hấp
hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni không chỉ là một giai đoạn thoáng qua: Nhiều lần trong
đời Người, Đức Giêsu đã cảm thấy ghê sợ đau khổ và bị cám dỗ bất tuân những ý
định khôn dò của Chúa Cha.
“Vị Thượng Tế của
chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nổi yếu hèn của ta, vì
Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội
... Người đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên
Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết... Dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã trải
qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục" (Dt 4,15; 5,7-8). Ở
đây, tôi chiêm ngắm Đức Giêsu biết rõ Người đau khổ dường nào khi sống vâng
lời. Chính sự nhẫn tâm trong lời Đức Giêsu đáp lại Phêrô cho thấy cơn cám dỗ ấy
mạnh mẽ biết bao.
Anh cản lối Thầy,
vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài
người.
Chúng ta khám phá
suối nguồn sức mạnh cho phép Đức Giêsu vượt qua những thử thách của Người: Con
mắt tâm hồn của Người không ngừng hướng về Thiên Chúa. Thiên Chúa nhìn những sự
việc của chúng ta theo một cách khác. Trong những hoàn cảnh mà chúng ta phải
sống và bó buộc, chúng ta được mời gọi vượt qua "quan điểm con người"
để chấp nhận "quan điểm của Thiên Chúa".
Thời đại của
chúng ta hiện nay, hơn bao giờ hết bị cám dỗ "giản lược" cả những vấn
đề của đức tin về những cách suy nghĩ của con người. Tất cả những gì vượt quá
lý trí con người không dễ dàng được người ta chấp nhận.
Người ta từ đó đi
đến chỗ cấm Thiên Chúa là Thiên Chúa! Thiên Chúa phải như chúng ta. Thiên Chúa
phải uốn mình theo những tư tưởng của chúng ta.
Nhưng lúc đó,
chúng ta chỉ có một Thiên Chúa ở tầm vóc của chúng ta và theo hình ảnh của
chúng ta; một Thiên Chúa do chúng ta phát minh ra.
Rồi Đức Giêsu nói
với các môn đệ: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá
mình mà theo..."
Chúng ta chớ lướt
qua quá nhanh những lời đáng kinh ngạc này.
Tất cả tâm thức
hiện đại, ở xung quanh chúng ta và thấm nhập vào những phản ứng riêng tư của
chúng ta đều nói về sự phát triển, lạc thú, tự do, sáng tạo thú vui: "Tôi
muốn sống đời sống của tôi! " .
Nhưng Đức Giêsu
đề nghị một lý luận hoàn toàn khác hẳn. Lý luận của thập giá! Lý luận của tình
yêu! Hoàn toàn trái ngược với điều mà thế gian đề nghị với chúng ta, Đức Giêsu
nói: "phải từ bỏ chính mình". Không có tình yêu thương chân thật nếu
không có sự từ bỏ chính mình. Và chỉ cần đưa ra một số hoàn cảnh đau thương
trong đó tình yêu bị nguy ngập, để hiểu rằng tình yêu phải trả giá đắt: Tha thứ
cho một kẻ thù. Có đủ can đảm để nói rằng mình theo Giêsu trong một môi trường
vô tín hoặc nhạo báng. Yêu thương người phối ngẫu một cách trung tín. Tiếp tục
phục vụ con cái xem ra đang chế giễu bạn. Giữ vững ý thức chia sẻ khi mọi sự
đều kích thích ta tích lũy và tiêu xài cho chính bản thân. Luôn giữ sự lương
thiện trong các thương vụ khi mà những quy luật về kinh tế hoặc chính trị là
những luật rừng, cá lớn nuốt cá bé. Để yêu thương cho đúng nghĩa, phải chịu trả
giá.
Như Phêrô, vào
thời kỳ đó, chúng ta bị cám dỗ làm cho êm dịu Tin Mừng. Nhiều người, nhất là
các bạn trẻ được nhân cách của Đức Giêsu lôi cuốn, họ phóng chiếu vào Người mọi
ước mơ của tình huynh đệ, công bằng và yêu thương. Nhưng rồi Đức Giêsu yêu cầu
họ phải từ bỏ chính mình để theo Người. Không còn là chuyện mơ ước leo lên núi
cao: Người trưởng đoàn leo núi mời cả đoàn theo sau ông, ông cầm dây đi trước
và hoàn toàn từ bỏ mình. Người nhắc chúng ta ở mỗi thánh lễ "phải nộp thân
mình và đổ máu mình". Thế mà, người ta không còn đi theo Người đến đó.”
Quả vậy, ai muốn
cứu mạng sống mình, thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ
tìm được mạng sống ấy. Vì nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng
sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta lấy gì mà đổi mạng sống mình?
Đây là nghịch lý
của Đức Giêsu: Phải "mất" để “được".
Công thức điên rồ
chăng? Nó chỉ được soi sáng thật sự trong sự Phục Sinh.
Bất chấp vẻ bề ngoài,
đấy không phải là tự hành khổ hay bệnh hoạn: Đức Giêsu không yêu cầu chúng ta
yêu thích sự đau khổ hay từ bỏ. Người chỉ muốn chúng ta yêu thương cho đến
cùng, sống cho trọn vẹn và đạt được điều chủ yếu. Và sự gợi ý này của Người
không có gì là phi nhân, bất chấp vẻ bề ngoài: "Con có yêu Thầy đến độ có
thể từ bỏ chính con không? Nếu không, con đừng nói với Thầy về tình yêu nữa dù
là tình yêu con người hay tình yêu Thiên Chúa".
Không, Đức Giêsu
không lỗi thời. Người không ngừng nói lại với thế giới điều mà thế giới cần
nhất.
Vì Con Người sẽ
ngự đến trong vinh quang của Cha Người cùng với các thiên thần của Người, và
bây giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm.
Đức Giêsu nói về
sự thành công, sự thành công hoàn toàn và chung cuộc. Đức Giêsu đến Giêrusalem
để chịu nhiều đau khổ và bị giết chết và sẽ sống lại ngày thứ ba. Đó là chiến
thắng ở cuối con đường đau khổ. Khi chúng ta vác thánh giá theo Đức Giêsu,
chúng ta cũng hãy nghĩ đến vinh quang và niềm vui đến gần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét