CÁC TÂN TÒNG NGƯỜI MÔNG MỚI LANH NHẬN BÍ TÍCH KHAI TÂM |
DÂNG HOA TẠI VĂN BÀN TRONG NHÀ NGUYỆN |
DÂNG HOA TAI BẢO HÀ |
LEGIÔ BẢO HÀ |
BẢO HÀ DÂNG HOA |
200 EM DÂNG HOA CỘNG ĐỒNG TẠI CAM ĐƯƠNG |
CỘNG ĐOÀN HƠ MÔNG NẬM XÉ |
THÁNH LỄ ĐỒNG TẾ MƯNG KỶ NIÊM 7 NĂM LM CHA ANTÔN MARIA LÊ VĂN THI THỪA SAI VN |
THÁNH LỄ ĐỒNG TẾ MƯNG KỶ NIÊM 7 NĂM LM CHA ANTÔN MARIA LÊ VĂN THI TS VN |
VĂN BÀN DÂNG HOA CỘNG ĐỒNG TẠI SÂN KHẤU |
CHÚA NHẬT 7 PS
Cv
7,55-60; Kh 22,12-14,16-17.20; Ga 17, 20-26
MỤC LỤC
1. Hiệp nhất
Một linh mục dòng Tên làm việc tại Ấn độ, đó là cha Anthony de Mello, đã kể
lại một câu chuyện tưởng tượng như sau:
Ngày kia, Chúa Giêsu than phiền là Ngài chưa bao giờ được đi xem một trận
bóng đá nào cả. Và thế là chúng tôi bèn đưa Ngài đi xem một trận đấu rất gay go
giữa một đội Tin Lành và một đội Công giáo.
Đội Công Giáo làm bàn trước. Một không. Chúa Giêsu vỗ tay hoan hô và tung
cả mũ lên trời.
Vài phút sau, tới phiên đội Tin Lành làm bàn. Một đều. Lần này, Chúa Giêsu
cũng vỗ tay reo hò và tung cả mũ lên trời.
Một khán giả ngồi bên cạnh lấy làm ngạc nhiên và khó chịu về thái độ của
Chúa Giêsu. Ông ta lấy tay đập lên vai Ngài và hỏi:
- Này ông bạn, ông bạn ủng
hộ đội nào vậy?
Xem chừng như còn bị kích thích bởi trận đấu, Chúa Giêsu trả lời:
- Tôi hả? Tôi không ủng hộ
đội nào cả. Tôi đến đây là chỉ để thưởng thức trận đấu mà thôi.
Người khán giả đã khó chịu về thái độ của Chúa Giêsu, bây giờ lại càng bực
bội hơn nữa. Ông ta quay sang người bên cạnh và nói nhỏ:
- Gã này quả là một tên vô
thần.
Trên đường về nhà, chúng tôi bàn luận với Ngài về tình hình tôn giáo trên
thế giới. Chúng tôi nói với Ngài:
-
Lạy Chúa, những
người có tôn giáo thật buồn cười, Họ tưởng rằng Thiên Chúa chỉ đứng về phía họ
và chống lại với kẻ thuộc tôn giáo khác.
Chúa Giêsu gật đầu tỏ vẻ ưng
ý. Ngài nói:
-
Đó là lý do tại
sao Ta không ủng hộ tôn giáo, mà chỉ ủng hộ con người mà thôi. Con người quan
trọng hơn tôn giáo. Con người quan trọng hơn ngày Sabbat. Các con nên biết là
chính những người có đạo đã treo Ta trên thập giá.
Khi nói đến hiệp nhất, chúng
ta thường mơ tưởng đến một sự hiệp nhất, trong đó những ai nghĩ khác chúng ta,
đều phải qui phục và đứng về phía chúng ta. Thế nhưng, sự hiệp nhất theo ý muốn
của Chúa thì khác. Sự hiệp nhất này không xóa bỏ những sự phong phú riêng biệt
của mỗi người, hay mỗi nhóm. Giáo hội phải xây dựng sự hiệp nhất trong sự tôn
trọng những khác biệt chính đáng.
Chỉ có một Chúa, một phép
rửa, một đức tin, nhưng có nhiều cách diẽn tả khác nhau. Để nói về Chúa Giêsu,
chúng ta có tới bốn cuốn phúc âm. Vậy tại sao lại không chấp nhận có nhiều có
nhiều cách sống đạo, sống Tin mừng khác nhau trong Giáo hội và trong thế giới?
Qua thư gửi tín hữu Corintô,
thánh Phaolô đã dùng hình ảnh các chi thể của một thân xác để nói về sự hiệp
nhất của Giáo hội trong sự đa dạng, bổ túc và liên đới với nhau. Thân xác có
nhiều chi thể. Chân tay, mắt mũi, môi miệng…tất cả đều phải cộng tác chặt chẽ
với nhau để làm cho thân xác được lớn mạnh, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm
về sự lớn mạnh ấy.
Cũng thế, mỗi người chúng ta
là một chi thể của Giáo hội. Tuy trình độ khác nhau, ý nghĩ khác nhau và việc
làm khác nhau, nhưng mỗi người đều phải cộng tác với nhau để Giáo hội được phát
triển, đồng thời liên đới chịu trách nhiệm về sự phát triển ấy.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho
Giáo hội, để mọi phần tử biết sống hiệp nhất trong tôn trọng lẫn nhau. Hiệp
nhất nhưng không đơn điệu. Đa dạng nhưng luôn hiệp nhất và hiệp thông cùng
nhau.
Lúc đó, Giáo hội được sánh ví
như một vườn hoa, và mỗi thành viên là một loài hoa khác nhau, một hương thơm
khác nhau.
Ôi xinh đẹp thay, phong phú
thay Giáo hội Đức Kitô!!!
2.
Trong cung lòng Thiên Chúa - ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
Trong lịch sử Việt Nam , tôi thích
nhất tướng Trần Hưng Đạo. Trần Hưng Đạo không những có tài thao lược mà lại có
đức độ hơn người. Người ta gọi ngài là Đức Thánh Trần thật xứng đáng. Thời nhà
Trần có hai tướng tài: Trần Hưng Đạo và Trần Quang Khải. Nhưng hai gia đình lại
có mối thù không đội trời chung. Cha của Trần Hưng Đạo truớc khi tắt thở còn
dặn Trần Hưng Đạo phải thay cha trả thù. Nhưng giặc Nguyên sang xâm lăng nước
ta. Trần Hưng Đạo suy nghĩ: Giặc ngoại xâm đang đe doạ. Nếu trong nước các
tướng tá không đoàn kết thì không phá nổi thế giặc đang rất mạnh. Nghĩ thế,
Trần Hưng Đạo gạt bỏ mối thù nhà, đến làm hoà với Trần Quang Khải. Một hôm,
Trần Hưng Đạo sang thăm Trần Quang Khải, tự tay nấu nước tắm cho Trần Quang
Khải và nói: “Hôm nay được hân hạnh tắm cho Ngài quốc công”. Trần Quang Khải
vui vẻ trả lời: “Hôm nay hân hạnh được tướng công tắm cho”. Từ đó hai người hoà
thuận. Cùng chung vai sát cánh phục vụ đất nước. Nhờ sự đoàn kết của hai tướng
tài, quân ta đã đánh thắng giặc Nguyên.
Sự đoàn kết của Trần Hưng Đạo
và Trần Quang Khải rất phù hợp với bài Tin Mừng của Chúa Nhật 7 Phục Sinh. Hôm
nay, Chúa tha thiết cầu nguyện cho cái Chúa hiệp nhất.
Chúa tha thiết với sự hiệp
nhất vì Chúa biết rằng: Có hiệp nhất mới xây dựng được cộng đoàn vững mạnh. Tục
ngữ Việt Nam
có câu: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn”. Có đoàn kết làm việc gì
cũng xong. Chia rẽ làm suy yếu cộng đoàn. Làm cho công việc trì trệ. Và có khi
làm tan rã cộng đoàn.
Chúa tha thiết với sự hiệp
nhất vì Chúa biết rằng có hiệp nhất trong nội bộ mới có thể truyền giáo thành
công. Hiệp nhất chính là dấu chỉ của môn đệ Chúa như Lời Chúa đã dạy: “Người ta
cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ của Thầy, là các con thương yêu nhau”.
Qua dấu chỉ hiệp nhất, người ngoài mới nhận biết Chúa. Thời sơ khai, khi nhìn
thấy các tín hữu đầu tiên sống đoàn kết yêu thương, người ngoại đạo đã bảo
nhau: “Kìa xem họ yêu thương nhau biết bao”. Từ đó có nhiều người xin vào đạo
để được sống trong cộng đoàn hiệp nhất yêu thương.
Sau cùng, Chúa tha thiết với
sự hiệp nhất, vì Chúa muốn ta được hạnh phúc. Có hiệp nhất mới có hạnh phúc.
Hạnh phúc của ta là được sống sự sống của Thiên Chúa. Sự sống bắt nguồn từ
Thiên Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi hiệp nhất với nhau đến nỗi trở thành một. Như lời
Chúa Giêsu nói: “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy. Thầy và Cha Thầy là
một”. Cho đến độ: “Ai thấy Thầy là thấy Cha”.
Sự hiệp nhất giữa Ba Ngôi là
nguồn mạch sự sống, nguồn mạch hạnh phúc của ta. Tuy nhiên để được thông phần
vào sự sống hạnh phúc đó, ta phải hiệp nhất yêu thương nhau. Thiên Chúa là Tình
Yêu, là sự Hiệp Nhất. Muốn được hoà nhập vào nguồn mạch hạnh phúc đó, ta cũng
phải đoàn kết yêu thương nhau. Chỉ những ai có tinh thần hiệp nhất yêu thương
mới có thể gia nhập cộng đoàn hiệp nhất yêu thương của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Hiệp nhất yêu thương không là
một món hàng làm sẵn, nhưng là một tiến trình xây dựng dài lâu. Xây dựng bằng
từ bỏ ý riêng. Xây dựng bằng nhịn nhục tha thứ. Xây dựng bằng hy sinh quên
mình. Vì thế để đạt đến yêu thương đòi hỏi phải rất nhiều phấn đấu. Phấn đấu
của bản thân. Phấn đấu của cả tập thể.
Nếu biết phấn đấu để hiệp
nhất, ta sẽ xây dựng được cộng đoàn vững mạnh, ta sẽ truyền giáo thành công và
nhất là ta sẽ được tham dự vào sự sống và hạnh phúc của Ba Ngôi Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin thương hiệp
nhất chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Tại sao người ta luôn chia
rẽ. Chia rẽ đem đến những thiệt hại nào?
2. Tại sao Chúa Giêsu tha
thiết với sự hiệp nhất?
3. Ba Ngôi Thiên Chúa đã thể
hiện sự hiệp nhất thế nào?
4. Bạn phải làm gì để xây
dựng sự hiệp nhất?
Người ta nói đến Phúc Âm về
nhân tính, tức là ba Phúc Âm nhất lãm của các thánh chép sử Matthêu, Marcô và
Luca, trong đó mô tả, với một số chi tiết nhân tính, lịch sử Đức Giêsu trong
hoàn cảnh sinh hoạt, giao tế, lao động, rao giảng của Người. Chúa được trình
bày như một người rất cụ thể, rất “thực”, nhưng cũng là một Đấng Mêsia. Các thư
thánh Phaolô và Phúc Âm theo thánh Gioan được xem như Phúc Âm về thần trí, vì
hai ông nhấn mạnh vào những viễn ảnh vĩnh cửu do thân thế Đức Giêsu mở ra cho
chúng ta. Tất cả những văn bản trên hợp thành một bức hoạ song bản, một bộ Phúc
Âm duy nhất. Sự suy niệm của chúng ta không được tách rời hai tấm hoạ nhân tính
và thần trí, tuy nhiên chúng ta có thể theo khuynh hướng của mình hoặc chỉ dẫn
của phụng vụ mà tuỳ thích đọc Phúc Âm nhất lãm hoặc Phúc Âm về thần trí. Hôm
nay phụng vụ mời gọi suy niệm về một trong những đoạn cao đẹp nhất trích Phúc
Âm theo thánh Gioan. Chúng ta có thể nêu ra một trong những chức năng cơ bản
của Giáo Hội, đó là chức năng trung gian và sự đòi hỏi hợp nhất do chức năng
ấy.
1) Giáo Hội đóng vai trò trung gian của Đức Kitô bên
cạnh thế gian.
Chúa Giêsu cầu nguyện cho các
tông đồ của Người và cho tất cả những ai sau này nhờ hoạt động tông đồ sẽ tin
vào Người. Chúa biết rằng các tông đồ thật sự thuộc về thế gian, Người cầu xin
cho các ông cũng thuộc về Thiên Chúa. Làm trung gian là đứng giữa, được thiện
cảm của cả hai bên, đóng vai gạch nối, tiếp xúc, hoà giải, giao liên. Các tông
đồ tượng trưng cho Giáo Hội. Chúa cầu xin cho Giáo Hội của Người được thật sự
thuộc về thế gian, đồng thời triệt để thuộc về Thiên Chúa. Thành phần Giáo Hội
là những con người, cho nên Giáo Hội tham gia vào thực thể nhân loại, một hỗn
hợp bí ẩn trong đó vụng về chậm chạp xen lẫn linh hoạt cao quý. Giáo Hội cần
phải tham dự vào đời sống Thiên Chúa, mà bản chất là hợp nhất trong tình yêu.
Sự tham dự ấy là đối tượng lời cầu nguyện của Đức Giêsu. Chúa muốn rằng phong
trào đại kết (là nét độc đáo của sự tương giao giữa Ba Ngôi Thiên Chúa) phải
tiếp nối trong Giáo Hội và trở nên dấu ấn sự hiện diện sống động của Thiên Chúa
giữa nhân loại.
2) Vai trò trung gian của Giáo Hội phải mang dấu ấn
đại kết.
Thiên Chúa không chia rẽ với
chính Thiên Chúa. Khi những Kitô hữu chia rẽ với nhau, họ đi ngược yêu cầu
chính của ơn gọi Kitô giáo. Bất hạnh lớn nhất của Giáo Hội là trong phạm vi yêu
thương mà không vượt khỏi hạn chế của tâm trí và yếu hèn của tội lỗi. Ở điểm
này, mỗi người chúng ta phải tự đặt những câu hỏi rất thực tiễn. Thật vậy, một
Kitô hữu tất nhiên có thể nói rằng sự chia rẽ giữa những “Giáo Hội” (sự phân
hoá này giống như một vết thương trong trái tim Chúa), là một vấn đề vượt quá
sức mình, những dẫu sao phải ý thức về mức độ trách nhiệm của mình. Bằng cách
nào? Bằng cách chiến đấu chống sự tội trong con người mình, vì chính sự tội gây
chia rẽ –cầu nguyện cho phong trào đại kết- trong khung cảnh sinh hoạt của mình
trở nên một cực đại kết chứ không đối đầu –và sau hết, noi gương Chúa, ăn ở
hiền lành và khiêm nhượng trong lòng. Mỗi Kitô hữu phải lãnh trách nhiệm mang
trong não trạng, trong ngôn ngữ, trong cách cư xử của mình dấu ấn của tình yêu
hợp nhất và biểu hiện của Thiên Chúa.
Suy Niệm 1. BÀI HỌC TỪ TÊPHANÔ
Thánh Têphanô là người môn đệ
đầu tiên của Đức Giêsu chết vì đức tin. Têphanô là một thanh niên quảng đại và
can đảm. Ông đã làm chứng cho Đức Giêsu bằng lời nói và việc làm, và đã trả
bằng cái giá của sự chết.
Đặc tính nổi bật của cái chết
ấy là nó giống với cái chết của Đức Giêsu. Giống như Đức Giêsu, Têphanô vô tội.
Giống như Đức Giêsu, ông bị buộc tội phạm thượng, và bị xét xử trước Thượng Hội
Đồng của người Do Thái. Giống như Đức Giêsu, ông chết chỉ vì một hành vi bạo
lực bên ngoài thành, (trong cách này, cả hai bị đối xử như những người bị loại
bỏ trong cái chết).
Giống như Đức Giêsu, Têphanô
cũng đã cầu nguyện cho những người đã giết ông: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Sau cùng, như Đức Giêsu đã trao linh
hồn của Người vào tay Thiên Chúa với lời cầu nguyện. “Lạy Cha, con xin phó linh hồn con trong tay Cha”.
Têphanô cũng thế, khi chết, ông đã phó linh hồn ông trong tay Đức Giêsu với
lời này: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Trong tất cả những sự kiện,
Luca có một ý định rõ ràng. Cái chết của vị tử đạo phản chiếu cái chết của Đức
Giêsu.
Sự tàn ác trong việc ném đá
Têphanô khiến người ta phải suy nghĩ. Những người giết ông cởi hết quần áo của
ông ra và đặt dưới chân thủ lãnh Sao lô là một người Pharisêu cuồng tín. Ông
này nghĩ rằng mình đã làm sáng danh Thiên Chúa khi giết chết những người như
Têphanô. Ngày nay, một số người cũng nhân danh Thiên Chúa giết người. Giết
người khác để tôn vinh Thiên Chúa là một điều ghê tởm.
Sao lô như chúng ta biết
không lâu sau đã hoán cải trong đức tin và trở thành một chiến sĩ vĩ đại nhất
của đức tin. Chắc chắn, ông đã bị xúc động trước lòng can đảm và sự tha thứ mà
Têphanô đã biểu lộ khi ông này chết. Sự hoán cải của Sao lô chứng tỏ rằng một
người có thể thay đổi, và Thiên Chúa không bao giờ gạt bỏ một ai.
Nhưng Têphanô không chỉ bày
tỏ những phẩm chất ấy lúc chết. Một người không trở thành một anh hùng lúc chết
nếu người ấy không là một anh hùng khi sống. Thánh Têphanô đã chứng tỏ sự cam
kết theo Đức Giêsu trong đời sống. Ông là một trong những Phó tế đầu tiên được
các tông đồ chỉ định để phân phát lương thực cho các quả phụ. Nhưng ông cũng đã
rao giảng Lời Chúa. Và chính sự rao giảng không chút sợ hãi của ông về Đức
Giêsu đã làm cho các thủ lãnh đạo Do Thái nổi giận.
Têphanô đã đem lại loại làm
chứng cao nhất cho Đức Kitô; ông làm chứng với cái chết của mình. Mức độ làm
chứng này không được ban cho hoặc đòi buộc mọi người. Điều được đòi buộc nơi
mỗi người chúng ta là phải làm chứng với đời sống của chúng ta. Đây không phải
là một cách làm chứng êm ái mà là một cách thế gay go và đòi hỏi nhiều sức mạnh
với lòng can đảm. Thế giới ngày nay đang kêu gọi sự làm chứng của những người
không sợ trở nên một Kitô hữu chân chính.
Ngoài việc chỉ cho chúng ta
phải làm chứng như thế nào, Têphanô còn chỉ cho chúng ta cách chết thế nào mà
mỗi Kitô hữu phải ao ước đó là chết với lòng tha thứ mọi kẻ thù và trao phó
mình cho lòng nhân hậu và thương xót của Chúa.
Suy Niệm 2. BÀI HỌC TỪ PHAOLÔ
Có một hậu cảnh, nhưng đóng
vai trò quan trọng trong công việc ghê tởm ném đá Têphanô đó là Sao lô. Ông giữ
áo cho những người ném đá và là một thủ lãnh trong việc bách hại các Kitô hữu.
Dù vậy, cũng chính ông ít lâu sau đã được đức tin hoán cải và trở thành một
chiến sĩ vĩ đại nhất của đức tin. Khó mà tin được điều đó nơi cùng một con người.
Sự kiện Phaolô tham gia vào
việc giết Têphanô không có nghĩa ông là một người hoàn toàn xấu xa. Đúng hơn đó
là một sự mù quáng. Thái độ cuồng tín tôn giáo đã làm ông mù quáng. Tuy nhiên,
có một khía cạnh khác tốt hơn nơi ông. Rõ ràng ông là một người có cam kết cao
độ, có khả năng làm việc gian khổ và chịu hy sinh to lớn.
Khi một người trải qua một
cuộc hoán cải, chúng ta thường nói: “Anh/chị ấy đã trở thành một con người hoàn
toàn mới”. Nhưng đó không phải là toàn bộ
sự thật. Trong mỗi cuộc hoán cải, vừa có sự liên tục và sự gián đoạn. Những
yếu tố tiêu cực đã bị vượt qua, và những mục tiêu mới đã được thiết lập. Tài
năng và thiên hướng của một người không bị chối bỏ, càng không bị mất đi; đúng
hơn, chúng được định hướng lại.
Nếu chúng ta có mặt lúc
Têphanô bị giết và thấy được vai trò của Phaolô trong vụ việc, hẳn là chúng ta
đã loại bỏ ông mãi mãi. Chúng ta có xu hướng làm “đông cứng” người khác trong
một giai đoạn đặc biệt của đời sống họ. Chúng ta mãi mãi xét đoán họ trên nền
tảng của một kinh nghiệm xấu. Chúng ta có khuynh hướng chia người ta thành hai
loại: thánh nhân và tội nhân.
Nhưng con người không dễ phân
loại như thế vì con người vốn phức tạp. Một số người dường như không biết gì về
bản tính chia cắt của mỗi con người. Ngay khi họ khám phá một sự yếu đuối nơi
một người nào, họ liền loại bỏ người ấy mãi mãi. Đối với họ, cái chai luôn có
mùi của chất lỏng mà chai đã chứa đựng. Nhưng điều đó có đúng đắn và khôn ngoan
không? Chúng ta có nên cấm người ta thay đổi không?
Một nền văn hoá không không
ích lợi gì cho chúng ta. Thái độ đối với tội phạm là giam chúng lại và vất chìa
khoá phòng giam đi. Một nền văn hoá không tin vào sự tiến bộ hoặc cứu chuộc là
một nền văn hoá không hy vọng. Phải chăng đức tin chúng ta quá nhỏ bé đến nỗi
chúng ta không thể chấp nhận sự thay đổi và trưởng thành? Như thể ai giết người
là đến từ một hành tinh khác, và không đáng có cơ may trở thành người, để sửa
chữa và chuộc lại lỗi lầm.
Chúng ta phải học tập sự nhẫn
nại và khoan dung mà trước tiên là với chính mình. Chúng ta phải biết rằng
chiến đấu để dẹp bỏ. Và chúng ta cũng phải khoan dung đối với người khác. Một
con người sẽ được xét xử, không phải bởi chỉ một hành động hoặc bởi chỉ một
giai đoạn nào đó của đời mình mà là bởi toàn bộ cuộc đời của người ấy.
Câu chuyện của Phaolô cho
thấy rằng một người có thể thay đổi, và Thiên Chúa không bao giờ gạt bỏ một ai
ra ngoài ơn cứu chuộc. Một người có thể gây ra một lỗi lầm lớn, nhưng sẽ được
cứu chuộc bởi ân sủng của Thiên Chúa như trường hợp của Phaolô. Đó là một bài
học to lớn trong đời ông. Chắc chắn, một trong những yếu tố khiên Phaolô hoán
cải là gương sáng của Têphanô, Têphanô là một Kitô hữu chân chính. Phaolô đã
xúc động bởi lòng can đảm và sự tha thứ mà Têphanô đã bày tỏ khi ông chết.
TIẾP CẬN KHÁC: Hội đoàn của người yếu.
Làm một tín hữu trong thế
giới ngày nay có thể là một công việc lẻ loi. Nhưng chính ở chỗ này mà cộng
đoàn xuất hiện. Chúng ta cần có cộng đoàn để nâng đỡ đức tin của chúng ta.
Trong bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu đã cầu nguyện cho sự hiệp nhất của các môn đệ
người: “Lạy Cha, xin cho họ được nên một
như chúng ta là một”. Nhưng có phải đây là một lý tưởng không thể có sao?
Phải chăng người ta không cần trở nên hoàn thiện và thuộc về một cộng đoàn như
thế?
Ngày xưa, một thanh niên có
lý tưởng được một cộng đoàn các thầy tu lôi cuốn. Ước muốn gia nhập cộng đoàn
ấy là một điều không tránh khỏi đối với anh. Và khi gia nhập, anh trở thành một
tập sinh. Ban đầu anh được huấn luyện để trở thành một thành viên của một cộng
đoàn những người thánh thiện. Nhưng anh không ở lại đó lâu khi anh có một sự
thức tỉnh đột ngột. Anh khám phá rằng những người mà anh xem như hoàn hảo cũng
có đầy những thiếu sót và bất toàn. Thật vậy, họ cũng mỏng dòn, tội lỗi và vị
kỷ như anh. Anh ta hoàn toàn vỡ mộng đến nỗi anh đã rời bỏ tu viện.
Một cộng đoàn Kitô hữu không
gồm những người hoàn hảo. Cộng đoàn nhỏ các Tông đồ mà Đức Giêsu cầu nguyện cho
họ gồm những người nhút nhát, yếu đuối và sợ hãi. Jean Vanier nói về “Hội đoàn
của những người yếu” và nói rằng sự đoàn kết lớnhơn có thể là kết quả của việc
chia sẻ sự yếu đuối so với việc chia sẻ sức mạnh.
Điều này xem ra mâu thuẫn.
Nhưng hãy lấy một bó sậy làm ví dụ. Từng cây sậy thì yếu ớt và dễ bị bẻ gãy.
Nhưng khi cột chung thành bó, chúng hầu như không thể bẻ gẫy được. Với con
người cũng thế, sức mạnh to lớn là kết quả của việc quy tụ, đặc biệt quy tụ
những người yếu đuối. Cộng đoàn dường như được liên kết với sự yếu đuối và dễ
bị tổn thương. Khi người ta đang vui hưởng sự thành công, người ta tìm kiếm sự
thán phục, nhưng khi người ta yếu đuối, người ta tìm kiếm sự hiệp thông. Nếu
người ta tìm thấy sự hiệp thông, người ta biết rằng họ được yêu thương không
phải vì những thành tựu của họ, nhưng vì họ là ai. Kết quả là họ đạt được sự
tín nhiệm lẫn nhau.
Và tâm hồn của một người có
khả năng và mạnh mẽ luôn mở ra và tiếp xúc với lời kêu gọi yêu thương đến từ
một người yếu đuối hơn mình. Khi một người nào đó nói với bạn về sự thành công
và năng lực khác thường của người ấy, bạn thán phục người ấy. Nhưng khi người
ấy chia sẻ những thất bại và yếu đuối của người ấy với bạn, người ấy gợi lên
lòng thương cảm. Sự thương cảm dẫn đưa và tạo ra sự hiệp thông.
Sức mạnh được giấu kín trong
sự yếu đuối và cộng đoàn chân thật gồm những bạn bè yếu đuối. Hội những người
Nghiện rượu Vô Danh là một ví dụ cho điều này. Điều kéo các thành viên đến với
nhau không phải để được chia sẻ sức mạnh mà là chia sẻ sự yếu đuối là thừa nhận
một cách trung thực sự yếu đuối và tính chất dễ tổn thương mà người nào cũng
có. Không ai là một mối đe doạ cho người khác, và điều này làm họ sẵn sàng chia
sẻ và đón nhận lẫn nhau. Không phải là người hoàn hảo mới được chia sẻ đời sống
cộng đoàn.
Các Kitô hữu tiên khởi chịu
đựng lẫn nhau bằng việc cầu nguyện và cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa cũng như
yêu thương phục vụ lẫn nhau. Chúng ta có thể làm được điều tương tự. Chúng ta
có thể cùng nhau tiến bước, lắng nghe và học hỏi lẫn nhau. Chúng ta phải mở
rộng sang những thành viên khác của cộng đoàn cùng loại hiểu biết và thương cảm
mà chính chúng ta mong ước nhận được từ họ.
“Mầu nhiệm cứu độ của tình
yêu Thiên Chúa được nhìn thấy không phải
trong một cộng đoàn của các anh hùng tâm linh mà của anh chị em khuyến khích
nhau trong cuộc hành trình về Vương quốc của niềm hy vọng và thương xót”
(Timothy Radeliffe).
5.
Chú giải của Noel Quesson
Hôm nay, chúng ta đọc phần
cuối “Lời cầu nguyện cho linh mục” của Đức Giêsu.
Đức Giêsu ngước mắt lên trời và cầu
nguyện rằng
Tôi thử mường tượng ra quang
cảnh trên. Lúc đó là vào chiều thứ năm, Đức Giêsu sắp sửa ra đi chịu chết. Sau
khi đã bầy tỏ những tâm sự cuối cùng khá lâu vó các bạn hữu mà Ngài sắp rời bỏ,
Đức Giêsu bắt đầu ngỏ lời với Chúa Cha: Ngài cầu nguyện. Đây là lời cầu nguyện
dài nhất của Đức Giêsu trong các Tin Mừng.
Con không chỉ cầu nguyện cho những người
này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con.
Một lần nữa, chúng ta được
mời gọi tìm hiểu xem Đức Giêsu đã ý thức thế nào về Người. Người khoảng ba mươi
tuổi sắp phải chết, chỉ dùng ba năm để đề xuất một công trình cần thực hiện.
Một trong số mười hai môn đệ mà Người đã tuyển chọn, vừa mới ra ngoài để phản
nộp Người Đức Giêsu còn biết rằng, mười một ông khác cũng sẽ bỏ Người. Trong
tình huống đó, Đức Giêsu “cầu nguyện” cho những kẻ nhờ lời họ mà tin vào Người
trong tương lai. Vâng, Đức Giêsu đã nhìn thấy trước toàn bộ công việc phát
triển rộng lớn của công trình Người thực hiện. Người nhìn thấy từng đoàn lũ
người sẽ tin vào Người. Người đã thấy trước Giáo hội.
Đức Giêsu đã cầu nguyện cho
mọi người, trong những thời đại tiếp sau, sẽ tin vào Người: Người cầu nguyện
cho tôi, ngay chiều hôm đó.
Đó là lời cầu nguyện được
thực hiện vào một buổi chiều, lời cầu nguyện của một con người cụ thể. Thánh
Phaolô quả quyết, lời cầu nguyện đó sẽ không khi nào chấm dứt, bởi vì giờ đây
Người đang ngự bên hữu Thiên Chúa để cầu nguyện giúp cho chúng ta (Rm 8,34).
“Ngài hằng sống để chuyển cầu cho họ”. (Dt 7,25).
Vậy nội dung của lời cầu
nguyện đó là gì? Đức Giêsu có cầu xin Chúa Cha cho các tín hữu không?
Xin cho tất cả nên một...
Lời nguyện chúc cơ bản mà Đức
Giêsu muốn dành cho Giáo hội của Người: đó là sự Hiệp nhất!
Một lần nữa, qua lời cầu
nguyện này, Đức Giêsu xuất hiện trước chúng ta như một người sáng suốt phi
thường. Người đã cảm thấy trước biết bao đám đông dân chúng, từng tỷ con người
sẽ tin vào Người (điều đó đã trở nên hiện thực)! Người dũng cảm thấy rằng, thảm
kịch to lớn của các tín hữu là sự “chia rẽ” (điều đó cúng đã xảy ra)!. Tư tưởng
tôn giáo đúng nghĩa, vẫn thường mang trong mình nguy cơ ly giáo, vì những điều
tuyệt đối mà nó chuyển tải, vì những thái độ cao thượng mà nó gợi lên: đáng
buồn thay, các bè phái lại rất gần với sở thích kiếm tìm chân lý. Các ý thức hệ
hiện đại, với đặc tính thường quá triệt để của chúng, luôn dẫn đến sự cuồng
tín, và do đó đến những ly cách và sai lầm.
Vâng, sự hiệp nhất là một
trong những đề tài bi thiết hiện đại. Biết bao sự hiệp nhất đã bị gẫy đổ, biết
bao thái độ chống đối, biết bao mối hận thù trong thế giới, cũng như trong Giáo
hội.
Lạy Cha, như Cha ở trong Con và Con ở
trong Cha
Đó không chỉ là một sự thông
cảm bình thường giữa hai người bạn. Còn có một điều gì khác hơn là một sự khoan
nhượng chân thành với nhau. Đó không chỉ là “sự đồng hiện hữu,bình ổn” của các
khối, mà trên thực tế họ tìm hết cách để kịch hệt tiêu diệt lẫn nhau.
Mô hình tiêu biểu được Đức
Giêsu đưa ra cho các Kitô hữu, đó là Chúa Ba Ngôi. Dù là nhiều nhưng chỉ làm
nên một. Thực sự, chúng ta luôn nghĩ đến một thứ hiệp nhất quá dễ dãi, đó là
những người không suy tư như chúng ta; con phải liên kết lại với chúng ta! Khi
hai người chia rẽ nhau vì sở thích, chọn lựa, tập quán, thì không phải là sự
hiệp nhất đích thực. Khi đơn thuần, ta triệt hạ một trong hai người tương quan:
lúc đó, sự hiệp nhất chỉ là loại bỏ một trong hai; một thứ đồng hóa mà thôi!
Trái lại trong Thiên Chúa, các ngôi vị hoàn toàn tách biệt nhau, nhưng lại tôn
trọng nhau, luôn sống trong mối hiệp thông trọn vẹn mà không lẫn lộn; đó là sự
hiệp nhất của nhiều ngôi vị. Theo Thiên Chúa, sự hiệp nhất không ở chỗ chỉ nhằm
tẩy xóa những tiềm năng khác nhau của mỗi nhóm người, mỗi cá nhân trong một thứ
phối hợp mà không để ý đến nét nổi bật và thi vị. Giáo hội cần phải xây dựng
một sự hiệp nhất trong thái độ tôn trọng những khác biệt chính đáng.
Tại sao mọi chủng tộc, mọi
nền văn hóa lại phải làm mất đi nét độc sáng, đã được Thiên Chúa trao ban cho
họ như một yếu tố của sự hòa hợp phổ quát? Tại sao một kiểu đạo đức lại có thể
buộc những người cầu nguyện cách khác phải tuân theo? Cần phải chân thành thú
nhận rằng, Giáo hội Công giáo từ lâu vẫn lẫn lộn “sự hiệp nhất” với “Âu Châu”
hay “La tinh” của mình. Những nhà thần học có tầm cỡ của các xứ truyền giáo
thường nghĩ rằng, những mầu nhiệm quan trọng của Kitô giáo (Chúa Ba Ngôi, Nhập
thể, Cứu chuộc ...) chỉ thực sự bày tỏ tất cả sự phong phú thần học, khi chúng
được chuyển dịch lại nhờ các bộ óc của những người Aán Độ, những người Châu
Phi, chịu ảnh hưởng của Phật giáo hay thuyết Vật Linh; cũng như các mầu nhiệm
đó đã bắt đầu bày tỏ ánh sáng đầu tiên qua tư tưởng Hi Lạp của Platon và
Aristote.
Nhưng chúng ta sẵn sàng sống
“sự hiệp nhất” thâm sâu đó giữa những “người khác biệt” không?
Ngày nay, mọi Người đều nói
đến “tính đa dạng” và hiệp nhất”. Thực sự, chúng ta có hướng tới một thái độ
chân thành lắng nghe những khác biệt, một trao đổi những khả năng riêng tư một
chia sẻ văn hóa, “những hệ kín”, một sự tôn trọng kẻ khác không?
Để họ được hoàn toàn nên một,
như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai con.
Đức Giêsu đã nói với chúng ta
hãy “yêu thương như Người”. Ở đây, Người nói hãy trở nên “một” như Ba Ngôi
Thiên Chúa! Nhưng trong câu này, Người còn thêm rằng, chính sự giống nhau đó
làm nên Giáo hội mang tính “thừa sai”. Công đồng Vatican II, Công đồng đầu tiên
trong lịch sử đề cập tín điều về Giáo hội một cách trực diện, trong Hiến chế
tín lý quan trọng “Lumen Gentium” (Aùnh sáng muôn dân), đã đặt trọn vẹn suy
tư'của mình trên một kiểu nói của thánh Xy-pri-anô, giám mục thành Các-ta-gô
vào khoảng năm 250: “Giáo hội là một dân tộc rút ra sự hiệp nhất cho mình, từ
sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần”. Giáo hội là sự mở rộng cho
nhân loại, kiểu tương quan liên vị hoạt động trong Thiên Chúa Giáo hội là “bí
tích hữu hình” của Thiên Chúa, là “dấu chỉ” của Người: “Giáo hội, ở trong Đức
Kitô, như là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện để kết hợp mật thiết với
Thiên Chúa, và để hiệp nhất với toàn thể nhân loại” (LG số 1).
Thỉnh thoảng ta tiếp tục tìm
kiếm xem đâu là những kỹ thuật những cách thức làm tông đồ tốt hơn, những công
trình cần phải thiết lập hay nuôi dưỡng, để “Phúc âm hóa” thế giới, để thế gian
tin; để trao lại đức tin cho người trẻ, những người trưởng thành đã đánh mất
nó. Từ lâu, Đức Giêsu đã trả lời, đã đưa ra quan điểm của Người: chính sự “hiệp
nhất” có sức loan báo Tin Mừng! “Hãy nhìn xem, họ yêu thương biết bao”, hẳn là
người ta có thể nói về các Kitô hữu như thế, về những con người sống đức tin
thế nào để đức tin có sức hấp dẫn kẻ khác. Lạy Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh
Thần, xin làm cho chúng con nên một như Chúa.
“Phần con, con đã ban cho họ vinh quang
mà Cha đã ban cho con, để họ được nên một như chúng ta là một: Con ở trong họ
và Cha ở trong con, để họ được hoàn toàn nên một, như vậy, thế gian sẽ nhận
biết là chính Cha đã sai con và đã yêu thương họ như đã yêu thương con”.
Đó là lời cầu nguyện của Đức
Giêsu dâng lên Chúa Cha, dành cho chúng ta. Đó là cách Đức Giêsu thông truyền
tất cả những gì Người đã sống trọn vẹn nhất. Người chia sẻ cho ta “bí quyết
riêng” của Người, bí quyết giúp Người thành công vô song, giúp Người được vinh
quang, phấn khởi, tươi vui: đó là sự kết hiệp mật thiết của Người với Chúa Cha,
được bày tỏ trong hình ảnh thân mật “cư ngụ trong nhau”: Cha ở trong con. Đức
Giêsu là con người hoàn toàn thoát khỏi cái tôi, để trọn vẹn “ở trong Chúa
Cha”.
Lời nói của Người ư? Đó là
những lời của Chúa Cha (Ga 3,2; 7,16; 8,26.38.40...): Yêu thương.
Ý muốn của Người ư? Đó là ý
muốn của Chúa Cha (Ga 4, 34; 5,30; 6,38 ...): Yêu thương.
Hành động của Người ư? Đó là
hành động của Chúa Cha (Ga 5,17. 20.30.36; 8,28 ...): Yêu thương.
Con người của Người ư? Đó là
con người của Chúa Cha (Ga 10,30) “Cha và con, chúng ta là một”: yêu thương.
Hình tượng của Chúa Ba Ngôi
đó là “mô hình” cho chúng ta, là chương trình hành động của chúng ta trong phạm
vi gia đình, thành phố, nghề nghiệp, đoàn nhóm, Giáo hội và mọi tương quan yêu
thương!
Lạy Cha, con muốn rằng con ở đâu, thì
những người Cha đã ban cho con cứng ở đó với con, để họ chiêm ngưỡng vinh quang
của con, vinh quang mà Cha đã ban cho con, vì Cha đã yêu thương con trước khi
thế gian được tạo thành.
Lời nói “Con muốn” trên đây
của Đức Giêsu là lời nói duy nhất trong toàn bộ Tin Mừng: một kiểu nói đòi hỏi
ít gặp thấy trên môi miệng rất “tùng phục” của Người đối với Chúa Cha; thế
nhưng lại mang đầy ý nghĩa. Vậy ý muốn duy nhất của Đức Giêsu là gì, khiến
Người đã mạnh dạn nài xin Chúa Cha như thế? Biết bao người đã chia sẻ “số phận
diệu kỳ của Người con yêu dấu, là thứ hạnh phúc mà chính Người đã cảm mến trước
khi thế gian được tạo thành. Chúng ta không nên lướt nhanh trên những kiểu nói
thực sự đã làm ta choáng váng: Thực sự đó là “bản tính Thiên Chúa”, hiện hữu
trước khi thế giới lộ hình, mà Đức Giêsu muốn khai mở cho chúng ta thấy.
Lạy Cha là Đấng công chính, thế gian đã
không biết Cha, nhưng Con, Con đã biết Cha, và những người này đã biết là chính
Cha đã sai Con. Con đã cho họ biết danh Cha, và sẽ còn cho họ biết nữa.
Đó là thảm kịch của Đức
Giêsu. Là cuộc thương khó là nỗi đau khổ luôn ám ảnh suốt đời Ngài. Đó là từ
chối của con người trước “đề nghị” của Thiên Chúa. Là sự khước từ tình yêu
Khước từ giao ước. “Bạn có muốn chung sống” với tôi không? - Không. Chúng ta có
thuộc vào số những người mà Đức Giêsu nói đến, những người “nhận biết” món quà
tặng phi thường được trao hiến cho họ không? Chúng ta có trở nên “Hiền thê” của
sách Khải huyền hoàn toàn sung sướng không?
Để tình Cha đã yêu thương Con ở trong
họ, và Con cũng ở trong họ nữa.
Lời nguyện của Đức Giêsu đã
kết thúc bằng những lời trên đây. Sang câu kế tiếp, ta sẽ bước vào vườn Ôliu,
để chứng kiến cuộc nộp bắt do Giuđa dẫn đầu.
Ta có thể nghĩ rằng, Đức
Giêsu vẫn tiếp tục những tư tưởng cầu nguyện như thế, trong những giờ phút cuối
cùng của đời Người. Ta cũng có thể nghĩ rằng, ở trên trời, Người vẫn tiếp tục
chuyển cầu như trên. Chóp đỉnh thực sự quan trọng của Tin Mừng, “Tin vui” lớn
lao: đó là chính Tình yêu của Thiên Chúa, Tình yêu Ba Ngôi, Tình yêu Chúa Cha
đã yêu Chúa con, Tình yêu tuyệt đối và vô biên của Thiên Chúa, được chia sẻ cho
mọi người muốn đón nhận.
Điều đang hoạt động giữa lòng
nhân loại, trong những toan tính yêu thương bé nhỏ đáng thương của ta, cho dù
có bất toàn đi nữa, thì thực sự đó là “mối tương quan hoàn hảo, kết hợp các
ngôi vị trong Thiên Chúa Ba Ngôi tình yêu” mà một ngày nào đó, chúng ta sẽ được
nối lại!
6.
Chú giải của Fiches Dominicales
LỜI CẦU NGUYỆN TRỌNG ĐẠI CỦA ĐỨC GIÊSU XIN CHO HỌ NÊN
MỘT
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI:
1. Tiếp theo diễn từ giã biệt
Xưa kia, trước khi ông Môsê
lìa xa các môn đệ, thì ở phần cuối những lời từ biệt, ông đã cầu xin Thiên Chúa
chúc lành cho các chi tộc Israel (Đnl 33). Cũng thế, trong Tin Mừng Gioan, Đức
Giêsu, Môsê mới, trước khi lìa xa các môn đệ cũng ngước mắt lên trời đàm thoại
với Cha Người. Người thâu tóm một trật trong lời cầu của mình, cả quá khứ những
ngày sống ở trần gian, cả tương lai đang chờ đón Người và các môn đệ.
-
Trước hết Người
cầu cho chính mình (c. 1-5).
Rồi nhắc đến tình thế do cuộc
ra đi của Người gây nên, Người cầu cho các môn đệ (c.6-19).
-
Và sau cùng Người
cầu cho các tín hữu tương lai (c.20- 26). Sách Bài đọc đã trích đoạn sau cùng
này để đọc trong Chúa nhật VII Phục sinh.
2. ...là lời cầu nguyện trọng đại của
Đức Giêsu.
Đức Giêsu cầu xin: “Xin cho
họ nên một” bằng hai vế (c 20 - 21 và 22-23), được kết cấu theo kiểu song hành.
Từ ngữ “nên một” không phải
được sử dụng lần đầu nơi Gioan. Đức Giêsu dùng từ ngữ đó để chỉ sự liên kết
giữa Người với Cha (10.30) và Người cũng đã áp dụng cho các tín hữu: “Sẽ chỉ có
một đoàn chiên và một mục tử” (10, 16). Còn trong lời cầu nguyện cho các môn đệ
lúc này, từ ngữ đó còn vượt xa mối liên hệ tình cảm giữa các tín hữu, nó chỉ sự
hiệp nhất thuộc hữu thể và xuất phát từ sự hiệp thông của Thiên Chúa. X.
Léon-Dufour giải thích: “Thật vậy, đọc mấy câu trước và câu sau này thì ta
hiểu: sự hiệp nhất nên một của các “tín hữu bắt nguồn từ sự hiệp nhất của Chúa
Cha và Chúa Con”
Chính nhờ sự hiệp nhất của
các môn đệ mà người đời sẽ nhận biết rằng Đức Giêsu là Đấng Chúa Cha sai đến:
“Như vậy thế gian sẽ nhận biết là chính Cha đã sai Con”
-
“Con ở đâu thì họ
cũng ở đó với Con”. Ở với Đức Giêsu bên cạnh Chúa Cha chính là “chiêm ngưỡng
vinh quang của Người” - tác giả giải thích tiếp - là được thấy người mặt đối
mặt, “Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2).
-
Nhưng việc các
tín hữu được dự phần vào vinh quang của Người Con duy nhất, phát xuất từ việc
cũng ở lại với nhau, vốn sẽ là đặc điểm của đời sống đức tin. Bởi vậy, lời
nguyện kết thúc bằng câu: “Để tình Cha đã yêu thương Con ở trong họ, và Con
cũng ở trong họ nữa”. Sự chiêm ngưỡng cuối cùng chỉ có thể xảy ra, nếu nó đã
được khởi đầu trong cuộc đời người Kitô hữu.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Dấu chỉ của Thiên Chúa nơi trần gian
Đức Giêsu đã sống những giờ
phút sau hết của cuộc đời trần thế của mình với nhóm nhỏ môn đệ. Người sắp bị
nộp vào tay những kẻ toan giết Người.
Đó là “giờ của Người”. Tuy nhiên ánh mắt của Người không bị lu mờ vì những
lo âu của giờ phút ấy. Aùnh mắt ấy mở rộng tầm nhìn hướng về đám đông những
người sẽ tin theo Người cho đến ngày tận thế. Chúng ta cũng nằm trong số những
kẻ được Chúa cầu nguyện cho, cùng với các môn đệ Chúa thuộc mọi thế hệ. “Con
không chỉ cầu cho những người này nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào
Con”.
Chúng ta được lời cầu nguyện của Chúa nâng đỡ. Đó không phải là nơi nương
tựa của ta đó sao? Người cầu xin điều gì cho các kẻ tin Người chỉ xin có một
điều duy nhất: “Cho họ được nên một, như Cha ở trong Con là như Con ở trong
Cha, cho họ cũng ở trong chúng ta”.
Ta luôn bị cám dỗ hiểu sai những lời này, không dám bạo dạn và hiểu đúng
tầm mức. Có khi chúng ta hiểu những lời đó như một bổn phận Đức Giêsu trao cho
ta, để cổ võ sự hiệp nhất và xóa bỏ những chia rẽ. Sự hiệp nhất nên một mà Đức
Giêsu nói ở đây không phải là một bổn phận Chúa trao cho ta đâu. Nó là một ân
huệ của Chúa Cha, một ân huệ mà Đức Giêsu cầu xin cho ta. Nó chỉ là một nhiệm
vụ phải chu toàn, bởi vì trước hết nó là một ân huệ. Hơn nữa, sự hiệp nhất mà
Đức Giêsu xin cho ta nằm ngoài tầm tay của sức lực loài người: làm sao ta có
thể hiệp nhất nên một cách thân mật như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha? Sự
hiệp nhất thần linh này chỉ có thể thực hiện nơi chúng ta, nếu chính Thiên Chúa
thực hiện trong ta. Đó chính là điều Đức Giêsu nói: “Con đã ban cho họ vinh
quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một, như chúng ta là một...” ước
vọng của Đức Giêsu là các môn đệ đi vào sự hiệp thông đời sống, là chính sự
sống của Thiên Chúa. Chính vì thế, Ngươi mới tỏ cho họ biết danh Chúa Cha và
thông truyền cho họ tình yêu duy nhất phát xuất từ Chúa Cha: “để tình Cha đã
yêu thương Con ở trong họ, và Con cũng ở trong họ nữa”.
Bởi vậy, cộng đoàn các môn đệ có thể trở thành dấu chỉ của chính Thiên Chúa
giữa trần gian, dấu chỉ của Thiên Chúa là Tình yêu. Bởi vì họ ở trong Thiên
Chúa và Thiên Chúa sống trong họ, chính nhờ họ mà Thiên Chúa tỏ mình ra cho thế
gian. Tình yêu nối kết họ là tình yêu của chính Thiên Chúa, là chính tình yêu
nối kết Chúa Cha với Chúa Con. Cũng bởi vậy, cộng đoàn các môn đệ có thể khơi
dậy đức tin: “Như vậy để thế gian tin rằng Cha đã sai Con”. Đức Giêsu hướng về
một mình Thiên Chúa. Sự hiệp nhất toàn bích đến từ Thiên Chúa và liên kết các
môn đệ lại với nhau, là biểu hiệp sự hiện diện của Thiên Chúa, giữa thế gian.
“Như vậy, thế gian có thể nhận biết rằng chính Cha đã sai Con vì đã yêu thương
họ như Cha đã yêu thương Con”. Ơn gọi của chúng ta vĩ đại dương nào Này đây
chúng ta được gọi để trở nên địa điểm cho Thiên Chúa tỏ mình cho thế gian? Chỉ
có sức mạnh lời cầu nguyện của Đức Giêsu mọi có thể thực hiện được điều đó trong
chúng ta.
2. Hội
Thánh là hiệp thông
(HĐGM Pháp: “Giáo lý cho người lớn”, trg 187-188).
“Tôi tin Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền”. Khi
các tín hữu tuyên xưng đức tin trong kinh Tin Kính, họ xác quyết rằng Hội Thánh
được nhận biết nhờ những đặc điểm đó. Đó là những “điểm son” của Hội Thánh. Vì
không chỉ mô tả mặt ngoài của Hội Thánh, mà còn nói lên chân lý sâu xa về mầu
nhiệm Hội Thánh. Xác quyết những điều đó thuộc lãnh vực đức tin, chứ không phải
chỉ nguyên nhờ nhìn bề ngoài mà biết được.
“Hội Thánh toàn cầu xuất hiện như một dân tộc mà hiệp nhất do sự hiệp nhất
giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”
Nguồn phát sinh sự hiệp nhất của Hội Thánh được nói đến trong thư thánh
Phaolô gởi tín hữu Êphêsô: “Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em
đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm
tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi
người và trong mọi người” (Ep 4,4-6).
Bởi vậy, Hội Thánh quả quyết rằng sự hiệp nhất Hội Thánh có được không do
chính mình, mà là hồng ân của Chúa Thánh Thần.
Sự hiệp nhất này có thể nhìn thấy được, và theo lời Đức Kitô hứa, sẽ không
bao giờ mất đi. Nó biểu hiện trong việc tuyên xưng cùng một đức tin, được định
thức trong cùng một kinh Tin Kính. Sự hiệp nhất ấy có nền tảng là một phép Rửa
duy nhất, làm cho mọi môn đệ Đức Kitô nên một dân tộc duy nhất.
Bí tích Thánh Thể, bí tích của sự hiệp nhất, củng cố, xây dựng và không
ngừng canh tân sự hiệp thông giữa các tín hữu, liên kết họ lại với nhau bằng
dây đức ái. Tác vụ tông đồ, tác vụ các Giám Mục, linh mục, phó tế là phục vụ
cho sự hiệp thông của Hội Thánh.
Bởi vì sự hiệp nhất của Hội Thánh không chỉ do cơ cấu tổ chức tốt đẹp hay
do kỷ luật chặt chẽ, mà do sự hiệp thông. Coi Hội Thánh như hiệp thông đó là
“một khái niệm trung tâm và nền tảng” (Thượng HĐGM đặc biệt năm 1985). Khái
niệm này được triển khai trong các lài liệu của Công Đồng Vatican II. Sự hiệp
thông này là hiệp thông giữa Chúa Cha, với Con của Người, Đức Giêsu Kitô, trong
Chúa Thánh Thần (xem 1 Ga l,3) và là sự hiệp thông giữa các môn đệ trong tình
bác ái.
Sự hiệp nhất còn là một yếu tố căn bản và cần thiết cho việc làm chứng của
các tín hữu sống trong thế gian và cho sự khả tín của việc truyền giáo.
7. Hiệp nhất
Mỗi người Kitô hữu chúng ta vì đã được rửa tội, nên ai cũng có trách nhiệm
và trách nhiệm phải truyền giáo, nghĩa là có bổn phận phải rao giảng về Thiên
Chúa, về Chúa Kitô và nước trời cho những người khác. Trong việc thực thi bổn
phận ấy, sống hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt. Vậy sự hiệp nhất đó, là
sự hiệp nhất nào? Sự hiệp nhất ấy có giá trị đặc biệt như thế nào trong việc
truyền giáo? Và người Kitô hữu chúng ta phải sống sự hiệp nhất ra sao, để góp
phần vào công việc truyền giáo của Giáo Hội? Phụng vụ lời Chúa qua bài Tin Mừng
hôm nay sẽ trả lời cho chúng ta những câu hỏi đó.
Trước khi từ biệt trần gian, Chúa Giêsu đã cầu nguyện một cách tha thiết
với Chúa Cha cho các tông đồ và tất cả những ai nhờ lời họ mà tin vào Chúa
Kitô, trong đó có chúng ta được ơn hiệp nhất: “Con không chỉ cầu xin cho những
người này nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào Con để tất cả nên một”.
Sự hiệp nhất ở đây là một ân huệ của Chúa Cha mà Chúa Giêsu đã tha thiết
cầu xin với Cha Ngài cho chúng ta. Do đó hiệp nhất ở đây không thể là giả tạo
như sự hiệp nhất của hai cây gậy buộc lại với nhau thành một; cũng không như
hai người bạn đi đường cùng nhau, cùng mục đích, cùng mối lợi, nhưng là nhắm
lợi ích riêng của mình; càng không phải là sự hiệp nhất rẻ tiền: cố nhịn nói,
cố tránh va chạm để người ngoài nhìn vào không biết chúng ta đang chia rẽ. Trái
lại, đây là sự hiệp nhất trong tình yêu thương của Thiên Chúa. Sự hiệp nhất đó
phải được như là sự hiệp nhất giữa Thiên Chúa Ba Ngôi: “Như Cha ở trong Con,
như Con ở trong Cha”.
Như vậy, sự hiệp nhất ở đây không phải là bất cứ sự hiệp nhất nào, mà là sự
hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Cha trong Thánh Thần. Căn bản của sự hiệp nhất này
là tình yêu phát xuất từ Cha và chính trong sự hiệp nhất này là sức mạnh có
tính thuyết phục thế gian tin vào Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế và nhận ra tình
yêu thương của Chúa Cha đối với nhân loại.
Chắc hẳn, Chúa Giêsu biết rất rõ sự hiệp nhất mà Ngài mong ước thiết tha
cho chúng ta (như đã trình bày ở trên) có một sức mạnh truyền giáo rất đặc
biệt. Sở dĩ như vậy, vì Thiên Chúa và nước trời là những mầu nhiệm, những thực
tại vô hình không dễ gì tin, bởi mắt phàm không thấy. Trái lại, khi nhìn thấy
đời sống yêu thương hiệp nhất của các tín hữu, người ta sẽ nhận ra có sự hiện
diện của Thiên Chúa và nước trời.
Đức cố Giáo Hoàng Phaolô VI cũng đã diễn tả sâu sắc về giá trị tông đồ của
sự hiệp nhất, ngài nói: “Lời di chúc thiêng liêng của Chúa Giêsu cho chúng ta
hiểu rằng, sự hiệp nhất giữa chúng ta không những là bằng chứng chúng ta là môn
đệ Ngài, nhưng còn là bằng chứng Ngài được Chúa Cha sai đến và đó cũng là trắc
nghiệm về sự đáng tin của các Kitô hữu và của Chúa Kitô”.
Quả vậy, có hiệp nhất với nhau, các kẻ tin mới tỏ ra mình không phải là
những con người bị chia rẽ bởi những tranh chấp, nhưng là những con người có
đức tin trưởng thành, có khả năng đối thoại, gặp gỡ nhau nhờ việc cùng tìm kiếm
chân lý cách chân thành vô vị lợi. Như vậy sự hiệp nhất minh chứng chúng ta là
môn đệ Đức Kitô, là những con người có đức tin vững mạnh và đó là lý do hấp dẫn
người ngoài để họ dễ tin vào lời chứng của chúng ta. Hơn nữa, một sự hiệp nhất
đến từ Thiên Chúa liên kết chúng ta lại với nhau là biểu hiện sự hiện diện của
Thiên Chúa và nước trời ở giữa thế gian, như lời Chúa Giêsu thân thưa cùng Chúa
Cha:”Xin cho họ nên một, như vậy, thế gian có thể nhận biết rằng chính Cha đã
sai Con và đã yêu thương họ như đã yêu thương Con”.
Sống hiệp nhất nên một cách thân mật như “Cha ở trong Con và Con ở trong
Cha” có một sức mạnh rất đặc biệt cho việc loan báo Tin Mừng. Thế nhưng làm sao
chúng ta có thể hiệp nhất nên một cách thân mật như Cha ở trong Con và Con ở
trong Cha được? Quả thật, một sự hiệp nhất như thế nằm ngoài tầm tay của chúng
ta và sự hiệp nhất này chỉ có thể thực hiện nơi chúng ta nếu chính Thiên Chúa
thực hiện trong ta. Đó là điều mà Chúa Giêsu đã nói: “Con đã ban cho họ vinh
quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được nên một như Chúng Ta là một…” Vinh
quang ở đây, chính là sự sống của Thiên Chúa. Việc chúng ta hiệp nhất vào chính
sự sống của Thiên Chúa là cơ sở cho việc chúng ta hiệp nhất với nhau, cho nên
phương thế hay nhất để thực hiện sự hiệp nhất giữa chúng ta là mức độ chúng ta
thông hiệp vào vinh quang của Chúa Giêsu, vào cuộc sống Thần Linh của Ngài, nhờ
việc kết hiệp với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, qua rước lễ, viếng Chúa
Giêsu Thánh Thể; nhờ việc lắng nghe và thực thi lời Chúa trong cuộc sống; nhờ
việc chân thành cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong Giáo Hội, giữa các Kitô hữu
với nhau và cho một thế giới tốt đẹp hơn. Một khi hiệp nhất với Chúa Giêsu như thế,
chúng ta sẽ dễ dàng hiệp nhất và yêu thương nhau, tránh được mọi hận thù, chia
rẽ, ghét ghen… Có như thế, chúng ta mới thực sự là dấu hiệu để người ngoại nhận
ra Thiên Chúa là tình yêu và nhận ra Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế được Chúa Cha
sai đến để thực hiện chương trình yêu thương của Người, và lúc đó chúng ta sẽ
thấy rằng sống hiệp nhất có một sức mạnh rất đặc biệt trong việc truyền giáo.
Ước chi phụng vụ lời Chúa hôm nay giúp chúng ta ý thức được sống hiệp nhất
có một sức mạnh truyền giáo; ý thức rằng Chúa Giêsu đã tha thiết cầu nguyện cho
chúng ta được hiệp nhất với nhau như Ngài trong Cha và Cha trong Ngài; ý thức
rằng Chúa Giêsu đang cần đến sự cộng tác của chúng ta với ơn Chúa để làm triển
nở sự hiệp nhất trong cộng đoàn xứ đạo, gia đình của chúng ta. Nhờ đó chúng ta
sống gắn bó với Chúa Giêsu hơn qua việc năng dâng lễ, hiệp lễ, lãnh nhận các bí
tích, lắng nghe lời Chúa, cầu nguyện cho sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình
cũng như trong xứ đạo của chúng ta. Hơn nữa, có Chúa Giêsu là giềng mối sự hiệp
nhất trong chúng ta, chúng ta sẽ dễ dàng sống hiệp nhất yêu thương đối với anh
chị em của chúng ta. Nguyện xin Chúa Giêsu tiếp tục tác tạo sự hiệp nhất nơi
chúng ta.
Khi cầu nguyện cho các môn đệ tương lai điều quan tâm chính của Người là sự
hiệp nhất giữa họ. Người cầu xin Chúa Cha: “Để họ được nên một như chúng ta là
một”. Sự hiệp nhất không giống như sự đồng phục. Đức Giêsu chọn lựa các môn đệ
với đủ loại tính khí, phân cách, phong cách và tầng lớp xã hội để gợi ý rằng
Người đã tìm trong tính đa dạng một sức sống lành mạnh.
Sự nên một không thể được thực hiện trong một cộng đoàn từ chối sự khác
nhau. Sự nên một được hoàn thành khi mọi thành viên khác nhau và góp phần bằng
những ơn gọi khác nhau, nhưng tất cả đều được hiệp nhất xung quanh một mục đích
chung bởi sự yêu thương nhau. Mỗi người chúng ta phải được thanh luyện khỏi nhu
cầu chứng tỏ mình là tốt nhất. Chúng ta phải mở rộng lòng mình với những người
khác và vui mừng tiếp đón những ơn gọi của họ.
Chúng ta được kêu gọi từ nhiều tình trạng khác nhau để tạo thành một thân
thể trong Đức Kitô. Bằng sự vượt lên trên những sự khác nhau đó, chúng ta trở
thành nhân chứng của Thiên Chúa, Đấng cho ánh sáng chiếu soi trên những đường
lối khác nhau. Người ta kể lại một câu chuyện rằng ngày thứ ba của công cuộc
sáng thế, sau khi đã tạo ra cây cối, Thiên Chúa đụng phải một vấn đề bất ngờ.
Những cây tuyết tùng ở xứ Libăng dường như quá cao đến nỗi chúng bị cám dỗ sinh
ra lòng kiêu ngạo. Và thế là Thiên Chúa quyết định tạo ra chất sắt.
Các cây ấy lập tức biết rằng đã có mối đe dọa và bắt đầu khóc, vừa khóc
chúng vừa nói: “Oâi khổ thân chúng tôi, một ngày nào đó, chúng tôi sẽ bị lưỡi
rìu đốn ngã”. Nhưng Thiên Chúa đã trấn an chúng; Người nói với chúng: “Nếu
không có cái cán, cây rìu chỉ là một cục sắt. Mà cái cán rìu lại làm bằng gỗ,
các ngươi hãy cố sống trong bình an và không phản bội nhau. Hãy sống hiệp nhất
và cái rìu sẽ không có quyền lực gì để chống lại các ngươi”.
Đức Giêsu biết rằng sự nên một hay hiệp nhất là sự sống của cộng đoàn non
trẻ (các môn đệ). Nhưng phải có sự nên một trên nền tảng yêu thương, và là kết
quả của lòng trung thành với giới răn yêu thương: “Anh em hãy yêu thương nhau
như Thầy đã yêu thương anh em”.
Cộng đoàn là một thách đố lớn. Tình huynh đệ còn đi xa hơn sự tha thứ cho
nhau. Nó bao hàm sự liên đới, chia sẻ, tùy thuộc, nhân hậu và niềm vui mừng
trong hạnh phúc của những người khác. Tính vị kỷ là một tai họa đối với một
cộng đoàn: mỗi người yêu cầu cộng đoàn quan tâm đến mình, nhưng không một ai
muốn quan tâm đến những người khác.
Đáng buồn là qua bao thời đại, sự hiệp nhất mà Đức Giêsu mong ước cho Giáo
Hội của Người đã bị rạn nứt nhiều lần. Kết quả là ngày nay chúng ta không phải
chỉ có một mà có nhiều Giáo Hội Kitô giáo. Những chia rẽ giữa các Kitô hữu là
một cớ gây vấp ngã cho người ngoại giáo. Tuy nhiên, điều thật sự gây vấp ngã
không phải là có nhiều tín ngưỡng và sự hành đạo khác nhau của các Kitô hữu
thuộc các giáo phái khác nhau, nhưng là giữa họ, có sự thù địch nhau. Chúng ta
thấy sự thù địch được đẩy nén cực độ trong bài đọc sách Công vụ Tông đồ liên
quan đến việc giết chết Têphanô. Ở đây chúng ta có những người trung kiên của
một tôn giáo (Do thái giáo) giết những người của một tôn giáo khác nhau. Chúng
ta không nên ngồi chờ điều đó. Nhưng phải chuẩn bị sẵn sàng cho sự qui tụ sắp
tới của mọi Kitô hữu.
Kitô hữu chúng ta thường bị tố giác là những người bị ám ảnh với sự sống
đời sau mà lãng quên mất cuộc sống hiện tại. Nhưng Kitô giáo không phải là một
tôn giáo nghi kỵ cuộc sống cho dù là bên ngoài có vẻ đối ngược với cách sống
của một số người. Chúa Giêsu đã không đến trần gian để cướp đi niềm vui của
cuộc sống. Chúa Giêsu đến mang cho nhân loại Tin Mừng: cuộc sống này là món quà
Thiên Chúa ban cho chúng ta bởi vì Ngài yêu thương chúng ta và lo lắng cho
chúng ta! Có lẽ bởi vì chúng ta còn chưa hiểu rõ được sứ điệp Tin Mừng mà Chúa
Giêsu mang đến cho chúng ta tại thế gian cho nên chúng ta mới lo sợ đến sự sống
đời sau. Thật ra sự sống đó đã bắt đầu ngay từ ở đời này. Sự sống đó đến với
chúng ta, và nếu chúng ta còn không biết sống ở đời này ngay bây giờ thì việc
lo sợ đến sự sống đời sau thật là vô ích.
Có một câu truyện kể về một chàng thanh niên trẻ xích lại gần, ôm người bạn
gái và nói, “Em ơi, anh rất yêu em, anh rất cần em, anh không thể nào sống nếu
thiếu em.” Người con gái nhẹ nhàng đẩy người bạn ra và bảo, “Làm ơn đi anh
Gioan, đừng nói như vậy. Đừng có làm như thiệt vậy.” Và anh Gioan liền hỏi lại,
“Như thiệt vậy?” Thật ra đó là cách thức mà nhiều người chúng ta thường nói và
bày tỏ trong cuộc sống mà trong tâm tư không có ý gì cả. Chúng ta chỉ nói chơi
thôi.
Chúa Giêsu không bao giờ chơi chữ với chúng ta như thế. Chúng ta còn nhớ
câu truyện người thanh niên giàu có đi tìm sự an ủi cho sự trống rỗng trong tâm
hồn của anh. Anh có tất cả những gì cần thiết trong cuộc sống, thế nhưng anh
vẫn cảm thấy một sự trống rỗng. Anh đã tuân giữ Thập Giới từ khi còn bé. Đối
với tiêu chuẩn của cuộc sống, anh là người gương mẫu và lý tưởng, thế nhưng anh
lại là một người xa lạ đối với cuộc sống của chính mình. “Lạy Thầy nhân lành,
con phải làm gì để tìm kiếm được sự sống đời đời?” (Lc 18:18). Chúa Giêsu đã
trả lời với anh một cách thành thật và đứng đắn rằng anh cần phải làm thêm một
điều nữa là hãy về bán hết của cải và bố thí cho người nghèo khổ và đến theo
Ngài (Lc 18:22).
Có một câu truyện khôi hài như vầy. Một người đàn ông nọ có một sáng kiến
muốn đi trên một sợi dây thừng bắt ngang qua Thác Niagara. Sáng kiến này đã
được nhiều người thực hành, thế nhưng người đàn ông này còn táo bạo hơn nữa là
ông định tâm sẽ vừa đi trên dây vừa đẩy một chiếc xe cút-kít và chở một người ở
trên đó. Ông đã không ngừng luyện tập đi trên dây và đẩy chiếc xe cút-kít chở
đầy đá. Một ngày nọ, có một người đến nói với ông rằng anh rất tin tưởng ông ta
có thể làm được chuyện đó. Người đi trên dây hỏi lại, “Có phải anh rất tin
tưởng tôi có thể làm được chuyện này không?” Người kia liền trả lời, “Tôi tin
như thế!” Người đi trên dây liền bảo anh ta, “Vậy thì anh hãy lên ngồi trên
chiếc xe cút-kít này để tôi đẩy anh đi trên dây.”
Đó là điều mà Chúa Giêsu đã làm đối với những ai muốn đi theo Ngài. Ngài
hỏi họ có tin vào Ngài không, nếu có thì, “Hãy ngồi vào chiếc xe cút-kít! Hãy
chứng minh! Hãy từ bỏ những chiếc thuyền đánh cá! Hãy từ bỏ gia đình! Hãy theo
ta!” Việc này thường được gọi là vâng lời một cách tuyệt đối mà không ngoại lệ.
Đó là điều làm cho nhiều người phải điêu đứng ngập ngừng khi phải đối diện. Cái
lý do tại sao là bởi vì chúng ta coi thường sự việc, chúng ta lơ là không
nghiêm túc. Chúng ta không hoàn toàn tín thác vào Chúa Giêsu khi Ngài nói với
chúng ta phải trả cái giá để đạt được sự viên mãn của mình.
Nếu các bạn là những người đang đi tìm những câu trả lời cho những thắc mắc
của cuộc sống thì bạn nhớ hai điều: hãy nghiêm túc và hãy chuẩn bị để trả cái
giá mà nó đòi hỏi. Các bạn phải sẵn sàng như Thánh Stêphanô trong thời Giáo Hội
tiên khởi. Bởi vì vâng lời Chúa Kitô một cách tuyệt đối, ngài đã phải chịu sỉ
nhục và ném đá do những người chống đối. Tại chỗ bị ném đá, thánh nhân đã quì
gối và cầu rằng, “Lạy Chúa, xin nhận lấy linh hồn con... Nói thế rồi, ông an
nghỉ” (Cv 7:59). Những lời cuối cùng này chứng tỏ rằng Thánh Stêphanô đã nắm
chắc được điều ông tin và hiểu được ý nghĩa của cuộc sống, và ông sẽ đi đâu.
Thánh Stêphanô không phải là người xa lạ với sự sống đời sau, và cũng không
phải là người xa lạ với sự sống đời này. Thánh Stêphênô đã không do dự để trả
lời lời kêu gọi của Chúa Giêsu để bước vào chiếc xe cút-kít bởi vì thánh nhân
đã quá quen với sự việc đó nhiều lần trước khi ngài trả lời để đi theo cuộc
sống làm chứng nhân. Thánh nhân đã tin vào lời hứa của Đức Kitô rằng khi cuộc
sống này kết thúc thì phần thưởng sẽ là hân hoan và vui mừng. Nhiều người trong
chúng ta, có lẽ tất cả chúng ta, sẽ được hỏi để mà trả cái giá dưới một hình
thức nào đó.
Chúng ta đi tham dự Thánh Lễ và chẳng có chút gì biến đổi cả. Chúng ta cần
phải làm gì để chúng ta được biến đổi. Chúng ta có tin rằng Chúa Giêsu có thể
đem tình yêu của Thiên Chúa vào trong cuộc sống của chúng ta, canh tân cuộc
sống của chúng ta! Vậy, chúng ta hãy nhảy vô chiếc xe cút-kít, hãy đặt sự sống
của chúng ta trong tay Ngài, và hãy hoàn toàn tín thác vào Ngài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét