THÁNH LỄ TRUYỀN CHƯC LINH MỤC TAI HƯNG HÓA
|
THÁNH LỄ TRUYỀN CHƯC LINH MỤC TAI HƯNG HÓA
|
THÁNH LỄ TRUYỀN CHƯC LINH MỤC TAI HƯNG HÓA
THÁNH LỄ TẠ ƠN THIÊN CHƯC LINH MỤC
THÁNH LỄ TẠ ƠN THIÊN CHƯC LINH MỤC
|
THÁNH LỄ TẠ ƠN THIÊN CHƯC LINH MỤC
|
THÁNH LỄ TRUYỀN CHƯC LINH MỤC TẠI PHÁT DIỆM
|
THÁNH LỄ TRUYỀN CHƯC LINH MỤC TẠI PHÁT DIỆM
|
HÀNH HƯƠNG ĐỨC MẸ ĐỒNG ĐINH PHÁT DIỆM
CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: 2V 5,14-17; 2Tm 2,8-13; Lc 17,11-19
MỤC
LỤC
1.
Phong cùi
2.
Biết ơn
3.
Dòng suối ân tình – Thiên Phúc
4.
Đón nhận ơn cứu độ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5.
Tạ Ơn Chúa – Logos
6.
Thể hiện của tự do thực sự
7.
Đức tin của con đã cứu con – Veritas
8.
Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
9.
Lòng biết ơn – Lm Ignatio Trần Ngà
10.
Lòng biết ơn - Lm. Trần Việt Hùng
11.
Chín người kia đâu?
12.
Ưu tiên cho việc tạ ơn - Achille Degeest
13.
Hãy dâng lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa
14.
Tất cả là hồng ân
15.
Lòng biết ơn
16.
Mười người phong hủi - McCarthy
17.
Đức tin đích thực - R. Gutzwiller
18.
Lòng biết ơn
19.
Biết ơn
20.
Cám ơn
21.
Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
22.
Suy niệm của JKN
23.
Gặp gỡ để bày tỏ lòng biết ơn
24.
Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
25.
Chú giải của Noel Quesson
1.
Phong cùi
Người
phong cùi trong xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu là kẻ bất hạnh, không phải chỉ
mang một nỗi đau nơi thân xác mà còn mang cả một nỗi đau trong tâm hồn.
Thực
vậy, sau khi mắc phải chứng bệnh nan y này, thì lập tức, họ bị khai trừ khỏi xã
hội. Đi đâu cũng phải ra dấu để mọi người xa tránh. Đây không phải chỉ là một
biện pháp vệ sinh nhằm ngăn chặn sự lây lan, mà hơn thế nữa trong bầu khí tôn
giáo, người ta có thói quen coi bệnh này như là một hình phạt Thiên Chúa giáng
xuống trên những kẻ tội lỗi. Nếu không phải do chính tội của bệnh nhân, thì
cũng do tội của cha mẹ họ. Vì thế người bệnh bị xã hội coi là kẻ tội lỗi.
Chúa
Giêsu thì khác, Ngài không thể không xót thương họ, nhất là khi họ đã lên tiếng
van xin. Và tất cả 10 người phong cùi đều được khỏi. Chúa Giêsu bảo họ tới
trình diện với hàng tư tế để được chứng thực là mình đã khỏi và nhờ đó mà trở
về với xã hội loài người. Đây là lần thứ nhất họ được chữa lành.
Nếu
phép lạ của Chúa Giêsu làm chỉ là việc chữa lành chứng bệnh hiểm nghèo này thì
có thể kết thúc ở đây. Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ muốn chữa lành về
phần xác, mà hơn thế nữa, còn muốn chữa lành về phần hồn. Vì thế mà câu chuyện
được tiếp nối: Sau khi thấy mình được khỏi, thì một người đã quay trở lại tìm
Chúa Giêsu để tạ ơn Ngài. Và đây cũng chính là một dịp để Chúa Giêsu tỏ lộ cho
chúng ta thấy Ngài không phải chỉ là một thầy thuốc bình thường như mọi thầy
thuốc khác, mà hơn thế nữa, Ngài còn là Đấng Cứu Thế, Đấng tha thứ và xoá bỏ
mọi tội lỗi, bắc lại nhịp cầu cảm thông giữa trời và đất, đưa con người vào
trong liên hệ thương yêu với Thiên Chúa. Chính vì thế mà Ngài đã nói với anh
ta: Đức tin của con đã cứu chữa con. Người phong cùi thứ mười này không phải
chỉ được Chúa chữa lành về phần xác mà hơn thế nữa còn được Chúa chữa lành về
phần hồn và đó là lần thứ hai anh được chữa lành.
Thế
nhưng điều làm cho chúng ta sửng sốt đó là người phong cùi được chữa lành và
quay trở lại với Chúa Giêsu lại là người xứ Samaria. Dân Samaria vốn bị người
Do Thái liệt vào hàng ngoại đạo, không xứng đáng với ơn huệ cua Thiên Chúa. Sự
kiện này buộc chúng ta phải suy nghĩ: Phải chăng kẻ bị coi là ngoại đạo này lại
nhận biết tình thương và ơn sủng của Chúa, trong khi đó những người vốn tự hào
là có đạo, đạo dòng hay đạo gốc, lại tỏ ra vô ơn và bạc bẽo. Và phải chăng đó
cũng chính là thái độ của chúng ta, những người có đạo, đối với Chúa và đối với
những người đã từng góp công xây dựng cuộc đời của chúng ta.
2.
Biết ơn
Trong
cuốn "Nói với chính mình" Đức Cha Bùi Tuần có viết: Tôi rất thích chó
vì chó biết ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, chó cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi
đâu về, chó cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con người vô ơn lãi là chuyện
bình thường.
Một
sự kiện khác cũng khiến chúng ta phải ngạc nhiên không ít: một số người Việt
Nam từ hải ngoại trở về thăm quê hương đã đưa ra nhận xét như sau: Dầu cố gắng
che giấu đến đâu cái tông tích Việt kiều của mình, thì cái tông tích ấy vẫn cứ
bị lộ ra. Và oái oăm thay, cái tông tích ấy được thể hiện không phải qua cách
mua sắm tiêu xài hay qua cách phục sức, mà gắn liền với một chi tiết rất tầm
thường. Người ta nhận ra họ bởi vì họ là những người luôn miệng nói lên hai
tiếng "cám ơn". Nếu quả thực hai tiếng cám ơn đã trở thành quý hiếm
trên môi miệng người Việt Nam hiện nay, thì điều này hẳn phải là một báo động
đáng lo ngại. Đó có thể là dấu hiệu của sự khô cạn tình người trong xã hội
chúng ta đang sống.
Thực
vậy, khi ơn nghĩa đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên sự ràng buộc và tình liên đới
cũng trở thành mong manh. Một khi tình người bị chối bỏ, thì tất nhiên niềm tin
tôn giáo cũng sẽ chỉ là chuyện thừa thãi mà thôi.
Tin
Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa của lòng biết ơn trong cuộc sống
con người. Trong số mười người được chữa lành, thì chỉ có một người quay lại
ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài. Chúa
Giêsu hẳn đã chua xót trước sự vô ơn của con người khi thốt lên: Chớ thì không
phải cả mười người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu sao không thấy ai
trở lại tôn vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại này mà thôi. Tỷ lệ quá thấp,
chỉ có một phần mười. Và một phần mười ấy theo Chúa Giêsu nhận xét lại là thành
phần ngoại giáo. Mặc dù là goại giáo theo nghĩa tôn giáo, nhưng lại rất có đạo
theo nghĩa đạo làm người. Mà bởi đạo làm người cũng là thể hiện của đạo Chúa,
cho nên người ngoại giáo Samaria này, theo cái nhìn của Chúa Giêsu, hẳn phải là
người có đạo hơn chín người Do Thái kia, bởi vì người này đã thực thi cái nhân
đức cao quý nhất của con người là lòng biết ơn.
Con
người không thể là người một cách sung mãn mà không cần đến người khác. Nói lên
hai tiếng cám ơn là nói lên tình liên đới thâm sâu giữa người với người. Tôi
không thể là tôi nếu không có người khác. Tôi cần có người khác để sống hoàn
thiện, để được hạnh phúc. Từ cha mẹ tôi, gia đình tôi, những người thân thích
của tôi cho đến cả những kẻ thù của tôi...Tất cả đều đã đóng góp vào sự trưởng
thành của tôi. Không ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng. Cuộc đời là một
chuỗi những lãnh nhận, từ sự sống cho đến những thành đạt. Không có gì chúng ta
đang có mà không do lãnh nhận từ người khác. Do đó biết ơn là một đòi hỏi thiết
yếu nhất của trái tim con người. Không có lời rủa sả nào thậm tệ bằng ba tiếng:
Đồ vô ơn. Hơn nữa, lòng biết ơn còn là con đường dẫn chúng ta đến gặp gỡ Thiên
Chúa, Đấng là cội nguồn mọi ơn huệ.
Người
Samaria được chữa lành, đã ngợi khen Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Chúa
Giêsu mà tạ ơn Ngài. Như vậy, lòng biết ơn chính là nẻo đường dẫn anh đến gặp
gỡ với Thiên Chúa. Sống cho ra người, sống cho có tình nghĩa, đó là con đường
bảo đảm nhất dẫn chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Vô thần, xét cho cùng, cũng chỉ
là vô ơn, bởi vì kẻ chối bỏ Thiên Chúa, Đấng taọ dựng nên mình thì dĩ nhiên
cũng sẽ chối bỏ người đồng loại của mình.
3.
Dòng suối ân tình – Thiên Phúc
(Trích
dẫn từ 'Như Thầy Đã Yêu')
Trong
một chuyến bay từ Rôma về Nữu Ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn
cô tiếp viên hàng không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức
Tổng, cô tiếp viên mạnh dạn đến gần và hỏi:
-
Thưa Đức Cha, có chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế?
Vị
Tổng Giám Mục nhoẻn miệng cười đáp:
-
Vì đôi mắt của con rất đẹp!
-
Vậy con phải làm gì để cám ơn Chúa đây?
-
Con ạ! Chúa đã lấy tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh
mà đem tặng cho con. Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.
Quả
thật, chỉ ít lâu sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận
tụy băng bó những vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di
Linh dưới lớp áo dòng nữ tu.
Phong
cùi là một bệnh nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này.
Vào thời Chúa Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì
người ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh
cùi bị ruồng bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa
mọi người, xa cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và
phải hô lên rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà
tránh xa.
Thế
mà, trong bài Tin Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết
thương của thể xác và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết.
Căn bệnh quái ác mà họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà
họ cứ tưởng sẽ vĩnh viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn
toàn tẩy xóa. Chỉ nhờ quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã
chết nay được hồi sinh, niềm vui rộn rã như vỡ òa trong tim.
Trớ
trêu thay trong mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có
một người biết dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn
những người vẫn tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.
Chúa
Giêsu phải thốt lên lời quở trách: "Không phải cả mười người được sạch cả
sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa,
mà chỉ có người ngoại bang này?" "Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng
biết ơn cũng là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn
Thiên Chúa đã ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần
hồn là củng cố niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói:
"Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh". Như thế, cám ơn
lại là cơ hội để nhận được thêm ơn.
Cuộc
sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với
những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ
con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không
hề biết nói hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân! Thú
vật còn biết vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận
được ân huệ chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.
Một
đứa trẻ mới bập bẹ tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng "cám
ơn" luôn nằm sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người
có lòng biết ơn. Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con
người. Lòng biết ơn là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân
phận bất toàn của mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết
ơn là thể hiện niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng
biết ơn chính là bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng
nói "cám ơn" với tất cả chân thành, một cữ chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm
cho chúng ta nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.
Cả
cuộc sống của Chúa Giêsu là một "bài ca tạ ơn". Người tạ ơn Cha trước
khi cho Ladarô sống lại, trước khi làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, trước
khi lập Phép Thánh Thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy
chúng ta thể hiện lòng biết ơn ấy: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến
Thầy". Kể từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là thánh lễ tạ
ơn.
Thánh
Phaolô luôn dâng lời tạ ơn lên Chúa: "Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi
vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô". Ngài cám ơn
tất cả những ai giúp ngài trong công việc mục vụ: "Quà anh em tặng cho tôi
đó, chúng khác nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp
nhận". Như vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý: "Cho người có lòng
biết ơn chính là cho vay".
Lạy
Chúa, suốt cuộc đời chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt
đời chúng con được tắm mát trong dòng suối ân tình của anh em.
Xin
cho chúng con luôn biết sống có tình nghĩa, luôn thể hiện lòng biết ơn, luôn
quí trọng những hồng ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho
đời chúng con thêm tươi đẹp và hạnh phúc hơn.
4.
Đón nhận ơn cứu độ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Chúa
Giêsu đang trên đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn thành việc cứu độ.
Chính lúc đi ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa mười bệnh nhân phong,
Chúa cho thấy một vài đặc điểm của ơn cứu độ.
Ơn
cứu độ là phổ quát.
Chúa
muốn cứu độ hết mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi qua Samaria. Samaria
là vùng đất cấm kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất ngoại đạo. Đó là vùng
đất ô uế. Người Do Thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Nhưng Chúa
đã vượt qua ranh giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Tại
Samaria Chúa còn gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một cấm kỵ nữa. Người phong
cùi vốn bị coi là hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ đều trở nên ô uế. Họ bị
loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Tại Samaria, những người phong cùi là những
người ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu độ cho mọi người, kể cả
những người bị khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị hất hủi nhất. Ơn cứu độ
Chúa ban cho tất cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng.
Ơn
cứu độ là nhưng không.
Không
ai dám nghĩ đến việc mời Chúa xuống trần gian. Không ai có công trạng gì khiến
Chúa phải xuống trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp. Chúa xuống trần gian
hoàn toàn do lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế, người Samaria hoàn
toàn bất ngờ khi Chúa đến miền đất của họ. Những người phong cùi lại càng không
bao giờ dám mơ tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị loại trừ rồi. Ngay việc
gặp một người bình thường đã không được phép, huống chi là gặp gỡ Chúa. Nhưng
Chúa đã đến gặp gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng không. Họ chẳng có
công gì. Họ chẳng có quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ tột cùng. Chính
nỗi đau khổ đó đã khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là tình yêu
thương.
Ơn
cứu độ phải được đón nhận với niềm tin.
Tuy
ơn cứu độ được ban rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón nhận đòi phải có niềm
tin. Những người phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua hai thái độ. Thái độ
thứ nhất là đồng thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu: "Lạy Thày Giêsu,
xin cứu chúng tôi". Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Từ cùng
tận nỗi đau khổ, những người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm lòng tha
thiết và với niềm tin vững chắc. Chỉ có Chúa mới thương xót họ. Chỉ có Chúa mới
đủ quyền năng cứu chữa họ. Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày tư tế.
Chúa không chữa họ ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù chưa được
khỏi, nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường. Đang khi đi đường thì họ được khỏi. Đức
tin đã chữa họ.
Ơn
cứu độ phải được đón nhận với niềm vui.
Đây
là niềm vui trong mối tương giao giữa Thiên Chúa với con người. Cốt lõi của ơn
cứu độ là thiết lập mối tương giao, cho con người được trở nên con cái Thiên
Chúa, đồng hưởng hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của niềm vui, niềm hạnh phúc.
Chín người bệnh không trở lại chỉ có niềm vui được khỏi bệnh, nhưng không có
niềm vui trong mối tương giao với Thiên Chúa. Họ có đức tin cầu xin nhưng thiếu
đức tin gặp gỡ với Thiên Chúa. Niềm vui được khỏi bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai.
Chỉ có một người trở lại tạ ơn. Anh trở lại vì mối tương giao. Anh nhận biết
nguồn gốc niềm vui của mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết nguồn gốc hiện hữu của
mình. Anh đã tìm thấy nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm vui của anh sẽ còn mãi
mãi. Đời anh sẽ là một đời tạ ơn không ngừng.
Lạy
Chúa, xin cho con biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa. Chính niềm vui tạ ơn
này đem đến cho con hạnh phúc suốt đời con. Amen.
KIỂM
ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1)
Vì sao Chúa ban ơn cứu độ cho ta và ta phải đón nhận với thái độ thế nào?
2)
Đức tin cầu xin và đức tin gặp gỡ Chúa khác nhau thế nào? Bạn đã tiến đến đâu
trong đời sống đức tin?
3)
Có những miền đất, những con người nào mà bạn coi là cấm kỵ khiến bạn chưa dám
tiếp cận không? Với gương Chúa Giêsu hôm nay, bạn sẽ làm gì?
4)
Biết ơn rất cần trong đời sống tự nhiên. Bạn có biết ơn trong đời sống siêu nhiên
không?
5.
Tạ Ơn Chúa – Logos
Vào
ngày 07/9/2004, hai người phụ nữ Ý tên Toretta và Pari đã bị một nhóm người vũ
trang bắt cóc khi họ đang làm công tác từ thiện tại Irắc. Hai người phụ nữ này
đều thuộc gia đình Công Giáo rất sùng đạo. Cả nước Ý đã lo lắng cho số phận của
2 con tin. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra lời thỉnh cầu với nhóm
người bắt cóc xin hãy vì lòng nhân đạo mà thả 2 người phụ nữ ra. Vơí mọi cố
gắng của chính phủ Ý trong việc đối thoại và thương lượng với nhóm người bắt
cóc, cuối cùng 2 người phụ nữ đã được thả tự do vào ngày 28/9/2004, sau 3 tuần
bị giam giữ.
Vào
ngày 05/10/2004 vừa qua, cô Toretta và Pari đã cùng gia đình đến Vatican xin
triều yết Đức Thánh Cha. Họ quỳ gối trước mặt ngài để cám ơn ngài đã cầu nguyện
và lên tiếng can thiệp để họ được trả tự do. Trước tin vui này, Đức Giáo Hoàng
đã cùng với gia đình 2 người phụ nữ dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.
Hai
người phụ nữ đã cám ơn Đức Giáo Hoàng và tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ đã
lãnh nhận. Đó cũng là thái độ của mọi người trước những hồng ân cao cả của
Thiên Chúa. Nhưng đáng tiếc, nhiều người đã quên nói lời cám ơn trước những ơn
lành mình nhận được.
Bài
Tin Mừng theo thánh Luca hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành mười
người phong cùi, nhưng chỉ có một người trở lại để tạ ơn Chúa. Và thật trớ
trêu, đó lại là một người xứ Samaria, một người dưới mắt người Do thái là một
kẻ ngoại giáo! Đó là một điều đáng buồn, đến nỗi Chúa Giêsu phải thốt lên:
"Chớ thì không phải cả mười người được lành sạch cả sao? còn chín người
kia đâu?". Có lẽ đó cũng là lời chất vấn dành cho những ai không nhận biết
ơn Thiên Chúa để cảm tạ Ngài. Hơn ai hết, chính Chúa Giêsu đã nên mẫu mực cho
chúng ta về lòng biết ơn Thiên Chúa và cả cuộc đời của Ngài luôn vang lên lời
tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Cuộc
đời Chúa Giêsu là bài ca tạ ơn.
Chúa
Giêsu thường tìm đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Nhưng khi biểu
lộ tâm tình tạ ơn thì Ngài lại thực hiện công khai trước mặt mọi người. Chúa
muốn dạy mọi người bài học về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa.
Trước
khi làm phép lạ hóa bánh ra nhiều, Chúa cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn rồi phân
phát cho mọi người (Ga 6, 11). Trong bữa Tiệc Ly, khi lập bí tích Thánh Thể,
Ngài cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ (Lc 22, 19).
Đứng trước nấm mồ Lazarô, trước khi làm cho anh ta sống lại, Chúa Giêsu đã dâng
lời cảm tạ Thiên Chúa (Ga 11, 41).
Cả
cuộc sống của Chúa Giêsu là một lễ tạ ơn liên lỉ. Ngài đã hy sinh mạng sống làm
hy tế dâng lên Đức Chúa Cha. Vì thế, ngày hôm nay, khi dâng lễ tạ ơn mỗi ngày,
chúng ta cử hành mầu nhiệm cuộc đời Chúa, chúng ta sống lại tâm tình tạ ơn của
Chúa, là tâm tình của Người Con dâng lên Chúa Cha.
Cuộc
đời của Chúa là bài ca tạ ơn luôn vang lên những giai điệu vui tươi trong những
giây phút hân hoan và trong cả những giờ khắc bi thảm. Bài ca tạ ơn đó đã ngân
lên từ môi miệng của Mẹ Maria (Magnificat), ông Zacaria (Benedictus) và vẫn
tiếp tục ngân vang trong tâm hồn những người tín hữu hôm nay.
Lời
cám ơn, bông hoa đẹp của cuộc sống.
Ngạn
ngữ Pháp nói: "Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim". Đúng vậy, lời
tri ân cảm tạ là lời nói của con tim. Lòng biết ơn là nghĩa cử của tâm hồn. Chỉ
có những trái tim gỗ đá mới không nhận biết ân huệ được trao tặng. Vì vậy, lòng
biết ơn là bông hoa đẹp tô điểm cho cuộc đời. Chính những lời cám ơn sẽ làm cho
cuộc sống tăng thêm hương vị ngọt ngào và làm cho cuộc đời này thêm ý nghĩa vì
mọi người biết liên đới với nhau hơn.
Ngạn
ngữ Anh nói: "Cho người có lòng biết ơn là cho vay". Quả thật, cuộc
sống hiện tại của mọi người sẽ đẹp biết bao khi mọi người biết chia sẻ tình
thương cho nhau. Mỗi cử chỉ yêu thương sẽ được đánh dấu bằng lời "cám
ơn", sẽ làm giàu thêm tình người. Mọi người sẽ sống trong tình huynh đệ
với những "món nợ tình thương" trao trả cho nhau.
Lời
tạ ơn Thiên Chúa của chúng ta còn là những bông hoa đẹp đẽ nhất của tấm lòng mà
chúng ta dâng cho Chúa mỗi ngày. Những bông hoa ấy trang điểm cho tâm hồn chúng
ta thêm xinh đẹp nhờ những ân sủng Thiên Chúa tặng ban. Vì "thật ra, Chúa
không cần chúng ta ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì
những lời ca tụng của chúng ta chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng
ta ơn cứu độ muôn đời" (Kinh Tiền Tụng Chung, IV). Đúng vậy, những lời tạ
ơn của chúng ta như làn hương tỏa bay lên cao và kéo thêm nhiều cơn mưa hồng
phúc xuống cuộc đời chúng ta, vì thế, khi người Samaria quay trở lại tạ ơn
Chúa, Chúa nói: "Ngươi hãy ra về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa
ngươi". Người Samaria không những được ơn lành bệnh mà còn được ơn cứu rỗi
nữa. Cũng thế, sau khi được tiên tri Êlisê chữa khỏi bệnh cùi, tướng Naaman
người xứ Syria đã trở lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Từ đó, ông nhận được
niềm tin vào Thiên Chúa (bài đọc 1, trích sách Các Vua Quyển thứ hai).
Một
ngày kia, có hai thầy trò đi dạo trên con đường miền quê. Đang đi, họ chợt nhìn
thấy một đôi giày cũ kỹ để bên vệ đường. Đó là đôi giày của người nông dân
nghèo khó đang làm ruộng bên cạnh. Cậu học trò tinh nghịch định giấu đôi giày
đi để trêu chọc người nông dân, nhưng ông thầy đã ngăn cản cậu: con đừng tìm
niềm vui qua việc trêu chọc một con người nghèo khổ như thế, nhưng hãy tìm niềm
vui khác to lớn hơn: con hãy bỏ vào mỗi chiếc giày một đồng tiền xem ông ta
phản ứng ra sao?". Sau khi bỏ tiền vào đôi giày, hai thầy trò trốn vào một
bụi cây để xem người nông dân xử sự thế nào. Khi xỏ chân vào đôi giày để ra về,
người nông dân phát hiện ra hai đồng tiền. Ông ta rất ngạc nhiên nhìn chung
quanh, nhưng không thấy ai, ông ngắm nghía hai đồng tiền thật lâu rồi bỏ vào
túi. Với sự xúc động tràn ngập trong lòng, người nông dân quỳ xuống, ngước mặt
lên trời dâng lời tạ ơn Thiên Chúa đã dùng bàn tay vô hình nào đó đem đến cho
ông một món quà thật đúng lúc trong hoàn cảnh khốn khó hiện tại của gia đình
ông.
Chúng
ta bắt chước người nông dân kia luôn cảm tạ Thiên Chúa trước những ân huệ Ngài
ban. Chúng ta cũng hãy học lấy hành động yêu thương của hai thầy trò: hãy luôn
biết cho đi bằng những "bàn tay vô hình" đầy ắp tình thương. Đó là
cách tạ ơn Chúa tốt đẹp nhất của chúng ta.
6.
Thể hiện của tự do thực sự
(Trích
dẫn từ 'Mỗi Ngày Một Tin Vui' – Radio Veritas Asia)
Trong
suốt nhiều thế kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động
khổ sai bên Ai Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và
đưa họ vào vùng đất tự do. Để đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó,
Thiên Chúa đã thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Đó là lý do tại
sao người Do thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng
của tự do, bởi vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể
có được một ngày nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý
nghĩa nguyên thủy của ngày Hưu lễ.
Thế
nhưng, dần dà qua dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa
ấy của ngày Hưu lễ: thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ
thành một gánh nặng đầy đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ
thành một bản kê khai tỉ mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và
như vậy dấu chỉ của tự do giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với
người Do thái: thay vì là dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên
Chúa, ngày Hưu lễ đã trở thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người,
nhất là làm cho con người xa cách Thiên Chúa.
Đó
cũng là tình trạng của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật lệ không còn là
vì con người, nghĩa là giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con
người và tách lìa con người khỏi Thiên Chúa; con người chú tâm thi hành lề luật
hơn là yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi
người Do thái trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái
thời đó. Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người
Samari không phải tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa
Giêsu đã yêu cầu 9 người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là
đã khỏi bệnh, riêng người Samari không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là
người duy nhất trở lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu
truyện trên cho chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa
Giêsu và cảm tạ Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối bởi lề luật, nên
đã được tự do để nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn
giáo đích thực bởi vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không
thì con người cũng phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không
thể có được trong một xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán
theo thứ công bình hoán đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ
tính toán chi ly về công đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công
nghiệp của mình. Chúa Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa
con người và Thiên Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi
nhưng không, đến độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của
Thiên Chúa, đến độ những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.
Ngày
nay, có lẽ nhiều người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong
Tin Mừng hôm nay. Họ đã bị lề luật giam hãm trong Đền thờ để không còn có thể
nói lên lời tạ ơn đối với Đấng đã thi ân cho mình; họ xem lề luật trọng hơn
điều thiết yếu của niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có
lẽ chúng ta đã tỏ ra trung thành một cách chi ly với luật Hội Thánh, nhưng
nhiều lúc chúng ta vẫn còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh? Tôi phải lần
bao nhiêu chuỗi? Tôi phải ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu
người nghèo khó? Tính toán như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc
khải là Thiên Chúa Tình Yêu. Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta
chờ đợi và tính toán. Một Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm
tình nào xứng hợp hơn là lòng tri ân, niềm tín thác. Đó là sự thể hiện của một
tâm hồn tự do đích thực, nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ
để không ngừng gặp gỡ Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
7.
Đức tin của con đã cứu con – Veritas.
(Trích
dẫn từ 'Hãy Ra Khơi')
Có
câu chuyện kể rằng, một hôm Chúa sai hai
thiên thần xuống trần gian đi làm nhiệm vụ, đúng hẹn hai thiên thần trở về, một
vị đeo cái giỏ nặng trĩu, thấy vị kia đeo cái giỏ nhẹ tênh, hầu như không có gì
bèn nói: Chúa sai tôi xuống trần gian thâu tất cả những lời cầu xin, nhưng
nhiều quá nên cái giỏ của tôi rất nặng. Còn ngài, ngài đã làm gì mà sao cái giỏ
của ngài nhẹ quá vậy? Vị kia trả lời: Tôi xuống trần gian để thu tất cả những
lời tạ ơn, nhưng chẳng có bao nhiêu.
Câu
chuyện phần nào nói lên một thực tế của con người và giúp chúng ta hiểu được
bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe đọc, thì ra người ta hầu như biết cầu xin hơn
là biết đón nhận và tạ ơn. Thánh Luca thuật lại sự kiện có mười người phong cùi
đến gặp Chúa Giêsu và khẩn khoản cầu xin Chúa thương xót, Chúa đã chữa lành
bệnh cho họ, nhưng chỉ có một người quay lại để tạ ơn Chúa. Người quay trở lại
tôn vinh Thiên Chúa lại là một người ngoại, vậy thì chẳng lẽ những người kia
không được lành bệnh sao?
Đọc
bài Tin Mừng này tôi nhớ lại một sự kiện tôi đã gặp mà tôi nhớ rất rõ, đó là
trưa ngày mùng 3 tháng 11 năm 1995 tại một nhà thờ của Dòng Đaminh, có một phụ
nữ ôm một bó hoa tươi đang phân vân đi đi lại lại trước các tượng thánh Đaminh,
thánh Vinh sơn Liêm và thánh Martinô trong khuôn viên nhà thờ. Tôi tiến lại gần
và hỏi hình như bà muốn đặt hoa trước vị thánh nào đó phải không? Bà thú nhận
bà là người ngoại đạo, bà làm việc này theo yêu cầu của đứa con trai của bà.
Nhưng thật đáng tiếc, bà không biết đâu là thánh Martinô, rồi bà tiếp tục tâm
sự: gia đình bà đều ngoại giáo, cách đó nhiều năm đứa con trai của bà học lớp
9, theo các bạn bè Công giáo đến khấn xin thánh Martinô cho học hành tốt đẹp và
tất cả chúng đã đạt được như ý. Kể từ đó, hàng năm vào ngày 3/11 lễ thánh
Martinô nó vẫn mang bông đến tạ ơn thánh nhân, nhưng bởi vì năm nay nó đi xa,
nó vẫn nhớ việc này và nhờ bà làm giúp cho nó.
Một
người ngoại đạo họ không biết Chúa, không đón nhận Phép Rửa, không cùng tuyên
xưng đức tin với chúng ta nhưng họ đã nhận ra nguồn hạnh phúc thật của sự sống.
Họ ý thức rất rõ và xác tín những gì họ đã đón nhận. Họ hiểu ra rằng tất cả
cuộc đời của họ đều là hồng ân. Họ chưa bao giờ tuyên xưng đức tin, nhưng họ đã
luôn sống và thể hiện đức tin: "Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi". Có
thể nói, người biết tạ ơn đó là người có thái độ biết cầu xin và biết đón nhận,
hay là người có thái độ tạ ơn Thiên Chúa, đó là người có đức tin.
Mỗi
người chúng ta khi cầu nguyện, chúng ta thường hay nhắm đến cầu xin và luôn
luôn cầu xin cho chúng ta, cho nên chúng ta đã quên mất rằng, tạ ơn là một
trong những yếu tố quan trọng trong đời sống cầu nguyện. Cùng với chúc tụng,
sám hối, chúng ta cầu nguyện hình như là để cầu xin Thiên Chúa thực hiện theo ý
của chúng ta hơn là để chúng ta nhận ra thánh ý Chúa và thực hành ý Ngài.
Chính
thái độ đó mà chúng ta cứ quay quắt trong ý định riêng tư và dằn vặt trong tính
toán nên không thể nào nhận ra được hồng ân cao cả đầy yêu thương của Thiên
Chúa đang thực hiện trong cuộc đời của mình. Nếu chúng ta ý thức một chút,
chúng ta sẽ nhận ra cuộc đời của chúng ta là cả một cuộc đời đầy những hồng ân.
Vì vậy, chúng ta phải chúc tụng, tạ ơn cả cuộc đời và cả một cuộc đời của chúng
ta phải là một cuộc đời tạ ơn liên lỉ.
Xin
cho mỗi người chúng ta vững mạnh trong đức tin để nhận ra trên thế giới này
Thiên Chúa vẫn đang sống, vẫn đang hành động, đang ở với chúng ta, để chúng ta
chúc tụng và tạ ơn. Giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin và xin cho
mỗi người chúng ta cũng sống trọn vẹn đức tin để chúng ta chúc tụng, tạ ơn
Chúa.
8.
Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Những
bài Thánh Kinh hôm nay ít nhiều đều đề cập tới một tâm tình tự nhiên của con
người: lòng biết ơn. Tướng Naaman sau khi được khỏi bệnh đã quay trở lại gặp
người của Thiên Chúa với một lễ vật tạ ơn. Người phong hủi Samaria thấy mình
được khỏi bệnh liền quay trở lại tạ ơn Đức Giêsu. Những câu chuyện như thế
không có gì đáng nói, vì là lẽ thường tình trong xã hội. Nhưng ở đây tâm tình
biết ơn có một điểm nổi bật khiến cho Đức Giêsu phải ngạc nhiên và trân trọng:
sự biết ơn phát xuất từ lòng tin và là lời diễn tả lòng tin.
Trong
một chỗ khác trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói về Naaman "Cũng thế, trong
thời tiên tri Êlisêô có nhiều người bị phong cùi trong Israel, nhưng không ai
trong họ được chữa lành, chỉ có Naaman, người dân ngoại.", để ca ngợi lòng
tin của viên sỹ quan A-ram này. Cũng như ở đây, Đức Giêsu không khỏi đau đớn khi
lên tiếng hỏi "Không phải cả mười người đều được khỏi bệnh sao? Thế thì
chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có
người ngoại quốc này?" Và Người dã đưa ra kết luận "Đứng dậy và đi!
Lòng tin của con đã cứu con". Rõ ràng, lòng biết ơn là điều thường tình,
nhưng biết ơn bởi lòng tin thì là một điều thật họa hiếm. Sự biết ơn trong cuộc
sống xã hội thường chỉ phát xuất từ quyền lợi bản thân: muốn người làm ơn có
một cái nhìn thiện cảm và vui lòng. Ngay cả trong tôn giáo, thường cũng chỉ gặp
được những lời tạ ơn như thế.
Tiên
tri Êlisêô, và cả Đức Giêsu nữa khi bắt người bệnh của mình phải đi tắm ở sông
Giođan hay đi trình diện với các tư tề là để họ phải đặt mình trước ngưỡng cửa
đức tin. Naaman, và người phong hủi thời Đức Giêsu qủa thực đã phải đấu tranh
với bản thân mình để có sự vâng phục trong đức tin. Đức tin không cắt đứt người
tin khỏi những tương quan trong cuộc sống, nhưng giúp con người biết nhìn mỗi
tương quan ấy trong cái nhìn của Thiên Chúa. Naaman muốn dâng lễ vật cho
Êlisêô, điều đó sẽ làm cho đức tin vừa chớm nở nơi Naaman bị tổn thương, nên
người của Thiên Chúa đã trả lời "Trước mặt Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi
phục vụ, tôi thề sẽ không nhận gì cả". Naaman đã hiểu để tạ ơn ông phải
làm cho chính trọn vẹn đời sống trở thành Lễ Tế cho Thiên Chúa. Người phong hủi
Samaria cũng nhận được một lệnh truyền tương tự "Đứng dậy về đi! Lòng tin
của anh đã cứu anh." Lời tạ ơn phải là cả hành trình đời sống thường ngày
trong lòng tin.
Chúng
ta sẽ không hiểu đúng tâm tình tạ ơn theo đức tin, nếu không cùng thánh Phaolô
chiêm ngưỡng Lễ Tạ Ơn của chính Đức Giêsu. Bằng một gợi nhớ thật vắn gọn, nhưng
thánh Phaolô đã cho thấy Lời Tạ Ơn của Đức Giêsu xuất phát từ đâu, và đi về đâu
"Con hãy nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chỗi dậy từ cõi chết, Đấng xuất
thân từ dòng dõi Đavít." Lời Tạ Ơn đi từ nhập thể, ngang qua sự chết và
sống lại vinh hiển. Đó là sự VÂNG PHỤC ĐỨC TIN toàn hảo của Đức Giêsu đối với
LÒNG TRUNG TÍN tuyệt đối của THIÊN CHÚA trong GIAO ƯỚC của Ngài "Người vẫn
một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ lời hứa của mình." Lời
tạ ơn như thế, đòi hỏi người tin "cùng chết với Người" "cùng
kiên tâm chịu đựng với Người". Lễ Tạ Ơn bắt nguồn và hình thành trong
chính cuộc sống.
Người
Kitô hữu chúng ta ngày nay thường muốn đóng khung lễ tạ ơn của mình trong nhà
thờ, nơi đền đài. ở đó họ đôi khi cũng rất quảng đại, nhưng cuộc sống của họ
lại là nơi của những thần tượng khác. Thật đau lòng thay.
Cuộc
sống hôm nay thật qúa nhiều khó khăn: nhiều gia đình phải bươn trải từng ngày
cũng không đủ sống. Lại thêm bị ám ảnh chiến tranh, người ta bắt đầu có khuynh
hướng thu gom và tích trữ, và dường như cố quên đi những mảnh đời đau khổ. Lời
Tạ Ơn không còn là "cùng cam chịu chết, cùng cam chịu đựng". Đức
Giêsu "hôm qua,hôm nay và mãi mãi" vẫn là "đồng hình đồng
dạng" với những con người lam lũ đễ làm thốt lên trong lòng họ NIỀM TIN
vào lòng Thương Xót của Thiên Chúa, và biến cuộc đời những con người cùng khổ
thành Lời Tạ Ơn và Chúc Tụng, bằng sự hiến thân đến cùng cho họ. Lễ tạ ơn của
chúng ta phải là "lễ tạ ơn" của những con người đang bị khủng bố, bị
bom đạn dày xéo, bị lũ lụt cuốn trôi. Chính trong thời điểm khó khăn của chính
mình, sự hiến tặng tình thương của mỗi người mới là của lễ mà Thiên Chúa chờ
đợi.
Từ
quan điểm ấy, một lần nữa tôi tha thiết mời gọi sự giúp đỡ đặc biệt cho anh em
bị lũ lụt của chúng ta. Sự khó khăn của chúng ta không thể là lý do để chúng ta
khép lại Tình Thương Trung Tín của Thiên Chúa.
9.
Lòng biết ơn – Lm Ignatio Trần Ngà
(Trích
dẫn từ 'Cùng Đọc Tin Mừng')
Sau
một trận động đất dữ dội hoặc một vụ khủng bố tựa như đã xảy ra tại Trung Tâm
Thương Mại NewYork tháng 11 năm 2001, một số người bị vùi dưới hàng khối bê
tông và gạch đá, nhưng không bị chết ngay vì được nằm lọt vào một khoang trống.
Trong khoảng không gian chật khít người, vừa tối tăm vừa ngột ngạt đó, họ dùng
điện thoại di động gọi về gia đình, gọi cho nhân viên cứu hộ đến cứu giúp. Mạng
sống của họ chỉ được tính từng giây!
Trong
những giờ phút kinh hoàng như thế, người ta cảm nhận rằng được sống thêm mươi
phút nữa, dù chỉ thêm mươi phút nữa thôi, cho đến khi toán cấp cứu đến kịp, là
cả một hồng ân vô cùng lớn lao. Và đang lúc gần như bị chôn sống dưới cả một
núi bê tông như thế, họ nghiệm thấy rằng được tự do hít thở như bao nhiêu người
khác bên ngoài là một ân huệ vô cùng quý báu; được uống vài ngụm nước lúc nầy
thì thật sung sướng không gì bằng...
Mươi
phút sống... một chút không khí trong lành... mấy ngụm nước... là những gì mà
những người lâm nạn hết lòng khao khát và ước mơ, nhưng những ước mơ giản dị đó
đã không đến được với nhiều nạn nhân bị chôn vùi ở nhiều nơi vì tai nạn hầm mỏ,
vì nạn khủng bố hay động đất... nhưng những ân huệ đó đang ở trong tầm tay
chúng ta cách dồi dào và dư dật. Chúng ta có thừa những gì mà những người lâm
nạn đang mơ ước. Thế mà chúng ta không xem đó là ân huệ, mà chỉ xem đó là
chuyện thường tình.
Nước,
không khí, ánh nắng mặt trời... chỉ là một vài trong vô vàn ân huệ Thiên Chúa
rộng ban cho mọi người. Đếm sao cho xiết những ân huệ Chúa ban. Vậy mà số người
nhận ra và tỏ lòng tri ân Thiên Chúa thì vô cùng khan hiếm.
Khi
Chúa Giêsu đi qua biên giới Samaria thì gặp mười người phong cùi. Họ là những
người mang số phận bi đát. Vì mắc bệnh truyền nhiễm đáng sợ, họ bị xã hội
Do-thái thời bấy giờ xua ra khỏi gia đình, làng mạc, cách ly với tất cả mọi
người. Những con người bất hạnh nầy tụ tập với nhau, sống trong các hang hốc
ngoài đồi núi, áo quần tả tơi, đầu tóc bù xù và buộc phải để đầu trần, đi đâu
phải lấy tay che miệng và hô lên báo hiệu cho người qua lại biết mà lánh xa. Vì
thế, họ không được phép lại gần Chúa Giêsu để xin Ngài cứu chữa. Họ phải đứng
đằng xa kêu lên: "Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi".
Theo
luật quy định, nếu có người nào mắc bệnh phong có cơ duyên lành bệnh, thì phải
đến trình diện với các tư tế, để khám xét lại. Nếu thực sự được lành bệnh thì
họ mới được cho hoà nhập với cộng đồng. Chúa Giêsu bảo mười người phong đến
trình diện với các tư tế là vì lý do đó. Họ đã đi trình diện, đã được chứng
nhận là khỏi bệnh, nhưng chỉ có một người xứ Samari, người được xem là thuộc
phường rối đạo, biết quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa và cảm tạ Chúa Giêsu. Còn
chín người kia thì không. Chưa được ơn thì van vái cầu xin, được ơn rồi thì nín
thinh như hến.
Chuyện
kể rằng có hai thiên thần được Thiên Chúa sai xuống trần, một vị có nhiệm vụ
thu gom những lời cầu khẩn van xin của con người; còn vị kia thì đi thu nhặt
những lời tạ ơn người ta dâng lên Chúa. Chỉ vài giờ sau, vị thiên thần có nhiệm
vụ thu gom lời cầu nguyện van xin của nhân loại vội vã trở về vì hai va-li lớn
của ngài đầy cứng và nặng trịch vì những lời cầu khẩn, khiến ngài hầu như không
cất cánh nổi để bay về. Chờ mãi không thấy thiên thần kia trở lại, Thiên Chúa
lại sai một vị thiên thần khác xuống thế kiếm tìm, thì mới hay là thiên thần
thứ hai đang rảo khắp phố phường, khắp hang cùng ngõ hẻm suốt cả tháng trời mà
chẳng gom góp được bao nhiêu lời tạ ơn nên còn phải lặn lội đến những nơi xa
xôi hiểm trở may ra có thể kiếm thêm được ít gì nữa chăng!
Dấu
hiệu để nhận ra người có văn hoá là biết nói tiếng cám ơn. Trong xã hội văn
minh, dường như hai tiếng cám ơn liên tục được phát ra làm ấm lòng người nghe
và làm tăng thêm giá trị của người nói. Người biết nói tiếng cám ơn, khi được
người khác làm ơn cho mình, cả trong những điều nhỏ nhặt, được đánh giá là
người văn hoá, văn minh.
Ước
gì trong tương quan với Chúa, mỗi người chúng ta cũng không thua kém những
người khác trong xã hội thế trần, biết nhận ra hồng ân Thiên Chúa bao phủ đời
mình và luôn dâng lời cảm tạ Thiên Chúa vì hồng ân Ngài tuôn ban trong suốt
dòng lịch sử đời mình. Và lời tạ ơn đẹp nhất, xứng hợp nhất, là cùng với Chúa
Giêsu dâng hy tế tạ ơn Thiên Chúa Cha qua mỗi thánh lễ hằng tuần.
10.
Lòng biết ơn - Lm. Trần Việt Hùng
Có
một vở kịch, nhan đề 'Phố Của Chúng Tôi' (Our Town), nơi đó có một người phụ nữ
trẻ bị chết. Việc xảy ra là cô ta được Chúa cho phép trở lại dương thế để sống
lại một ngày của đời cô. Cô chọn ngày sinh nhật của tuổi 12. Trở lại thế gian,
mới vài giờ trôi qua, cố ta la lớn 'Tôi không thể, tôi không thể tiếp tục. Thời
gian trôi qúa mau. Tôi không có thời gian để ngắm nhìn nhau... Ôi dương gian
quá tuyệt vời cho bất cứ ai nhận ra nó. Rồi, với dòng lệ tuôn rơi, cô hỏi, 'Con
người có cảm nhận được đời sống, trong khi họ đang sống ở trần gian không?
Tiếng thầm trả lời cô, 'Không'. Các thánh và các thi sĩ có thể – đôi khi họ
nhận ra.
Trong
sách Các Vua kể câu truyện ông tướng Naaman được tiên tri của Chúa chữa lành
bằng cách bước xuống sông Giođan tắm bảy lần. Naaman được thanh sạch các dấu
vết của bệnh tật. Ông đã tỏ lòng tôn kính Thiên Chúa và trở lại dâng lời tạ ơn
vị tiên tri của Chúa: Sau đó, ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên
Chúa. Đến nơi, ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: "Thật tôi
biết không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel.
Vì thế, tôi xin ông nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông" (2V 5, 15). Trước
khi được rửa sạch tì vết phong cùi, Naaman là người dân ngoại. Ông chưa bao giờ
nhận ra hồng ân sự sống và cuộc sống. Vâng lời người của Chúa, bước xuống dòng
sông và bảy lần ngụp lặn dưới dòng nước, Naaman được hoàn toàn đổi mới. Từ ân
huệ nhỏ được chữa lành, ông nhận ra ân huệ của sự sống và Đấng ban sự sống.
Naaman
đã thay đổi tận tâm can. Ông đã hoàn toàn đổi hướng. Giờ đây, ông đã chọn Chúa
làm gia nghiệp cuộc đời: Naaman nói thêm rằng: "Tuỳ ý ông, nhưng tôi xin
ông ban phép cho tôi, là đầy tớ của ông, được chở một ít đất vừa sức hai con la
chở được, vì từ nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu
hoặc hy lễ cho thần minh nào khác" (2V 5, 17). Qua sự khiêm cung và lòng
thành tín, Naaman đã được Thiên Chúa chữa lành. Ông đã nhận lãnh hồng ân thanh
tẩy cả hồn lẫn xác. Với lòng tri ân, ông đã trở lại tìm đến người của Chúa. Ông
đã xưng tụng danh Thiên Chúa và tôn thờ Chúa. Một thái độ khôn ngoan tuyệt vời.
Cũng thế, đã nhiều lần Chúa chữa lành tâm hồn thể xác của chúng ta. Mấy khi
chúng ta nhận diện ra lòng thương xót và tình yêu của Chúa để dâng lời tạ ơn.
Biết
rằng mọi sự trên thế gian này đã qua, đang qua và sẽ qua mau. Mỗi ngày chúng ta
sống là mỗi giây phút rút bớt đời sống của chúng ta. Chẳng mấy ai nói rằng cuộc
sống như thế là qúa đủ hay quá dài. Cho dù người thượng thọ cao niên vẫn muốn
sống thêm, dù một ngày vắn gọn. Chúng ta cần trân quí món qùa của sự sống. Mỗi
giây phút sống là hồng ân Chúa ban. Nếu buông bỏ giữa chốn hoang địa, chúng ta
đã biến mất từ lâu. Ngay từ lúc được thụ thai trong lòng mẹ, chúng ta đã tùy
thuộc vào người khác. Cha mẹ sinh chúng ta vào đời trần trụi. Từng giây phút,
chúng ta bắt đầu nhận lãnh và chịu ơn suốt dọc cuộc sống. Hồng ân sự sống là
cao trọng nhất. Thiên Chúa đã an bài môi trường chung quanh để đón nhận chúng
ta vào đời. Xã hội con người đã gầy dựng và dọn sẵn sàng để đáp ứng nhiều nhu
cầu cuộc sống. Chúng ta chỉ cần cố gắng bỏ công sức để đón nhận, góp phần và
hoàn thành sứ mệnh.
Sự
liên đới trùng điệp ân phước trong cuộc sống có một giây truyền nối tiếp. Kẻ
đến trước, người tới sau. Ai cũng nhận ơn và cần có thái độ biết ơn. Biết ơn,
cám ơn, tạ ơn, tri ân, mang ơn và trả ơn nói lên tính ưu việt của con người.
Càng biết ơn, chúng ta càng sống làm người hơn. Chúng ta biết rằng không có sự
gì là tự nhiên mà có. Phàm bất cứ sự gì đều có nguyên nhân và hậu qủa. Điều
quan trọng là chúng ta nhận diện ra những hoa trái mà chúng ta đang thụ hưởng,
cả tinh thần lẫn thể chất. Người đời rất đau lòng vì sự vô ơn, bạc nghĩa và
phản phúc. Người ta nói là: Ăn cháo đái bát. Còn ngại hơn nữa khi thiên hạ nói:
Cứu vật, vật trả ân. Cứu nhân, nhân trả oán. Cho dù sự giúp đỡ rất nhỏ nhoi lúc
khởi đầu, nhưng đó chính bậc thang để giúp chúng ta tiến lên: Có bột mới gột
nên hồ là thế. Tha nhân chính là ân nhân. Ai cũng có vô số các ân nhân ẩn danh
trong cuộc sống. Tất cả những kiến thức và của cải chúng ta đang hưởng dùng,
đều có sự đóng góp công sức của người khác. Thái độ biết ơn phải được trải dài
mọi nơi và mọi lúc.
Trong
bài phúc âm tường thuật câu truyện mười người phong cùi được Chúa chữa lành,
nhưng chỉ có một người ngoại giáo trở lại dâng lời tạ ơn Chúa. Câu truyện làm
cho chúng ta phải tự vấn lương tâm. Có thể chúng ta là những người tín hữu rất
chân thành, nhưng bị loại tên ra ngoài. Thánh Luca tường trình: Một người trong
bọn họ thấy mình được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên
Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là
người xứ Samaria (Lc 17, 15-16). Qua các Bí Tích trong Hội Thánh, chúng ta được
rửa sạch tội nguyên tổ, được tha thứ các tội riêng, được nhận lãnh các ân sủng
và nhận của ăn chữa lành và dưỡng nuôi hồn xác, bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta
luôn nhớ dâng lời tạ ơn Chúa.
Chúa
Giêsu không trách cứ những người đã được ơn chữa lành phong cùi. Chúa ngạc
nhiên không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa: Không thấy ai trở lại tôn vinh
Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này (Lc 17, 18). Người làm ơn không đòi phải
trả ơn. Nhưng người nhận ơn, có bổn phận cám ơn. Chúa nhắc nhở mỗi người chúng
ta đừng bao giờ quên tạ ơn vì những ân phúc đang được vui hưởng. Truyện kể: Bob
Evans, một người bị mù từ khi mới sanh. Năm 50 tuổi, nhờ cuộc giải phẫu, mắt
của ông đã được nhìn thấy lần đầu tiên. Ông đã vui sướng một cách ngoại thường.
Thế giới của ông đã thay đổi ngoài sức tưởng tượng. Qua bài phỏng vấn trong tờ
báo, ông chia sẻ vài điều rất phấn khởi, "Tôi không thể đợi tới buổi sáng
thức dậy để nhìn xem những cái tôi có thể nhìn thấy. Mọi sự qúa kinh ngạc trong
thế giới. Ban đêm, tôi ngắm nhìn các vì sao lấp lánh...tôi như bay bổng trên
cao. Bạn không nhận biết mọi sự mà bạn nhìn thấy là qúa tuyệt vời sao!
Chúng
ta trải nghiệm cuộc sống với biết bao hồng ân. Thời gian sống thật quí báu.
Chúng ta đã hoang phí biết bao thời gian trong đời một cách vô ích. Đôi khi
chúng ta than rằng sao mà ngày dài thế, thời gian chán nản quá và tìm mọi cách
để quên và giết thời gian. Thiệt là uổng phí! Thảm kịch của đời sống là chúng
ta cố đạt tới cùng đích và chẳng bao giờ sống thực sự. Chúng ta chạy theo thời
gian để hoàn thành hết ước mơ này sang ước mơ khác. Ít khi chúng ta dừng tâm
lại để nhận biết sự hiện hữu thực sự trong tâm tình biết ơn. Biết ơn có nghĩa
là chúng ta nhận diện và chạm tới cuộc sống. Tôi đang sống trong giây phút
tuyệt đẹp này, đang hít thở thật đầy, ngắm nhìn thật kỹ và an hưởng tất cả
những gì hiện diện chung quanh.
Thánh
Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêô đã khuyên răn một cách rất chân tình: Nếu
chúng ta kiên tâm chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta
chối bỏ Người, thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta (2Tm 2, 12). Ngài vạch rõ con
đường phải đi để được lãnh nhận ơn cứu độ. Chúng ta không có con đường nào khác
ngoài sự tin tưởng và phó thác vào Đức Kitô. Tất cả những sự khổ đau đời này
rồi cũng sẽ qua mau. Những khổ đau của chúng ta ở thế gian này chẳng là chi, so
với hạnh phúc Nước Trời mà Chúa đã hứa ban.
Lạy
Chúa, hồng ân Chúa bao la tuyệt vời. Từng hơi thở, từng nhịp sống và từng giây
phút trong đời là những ân huệ Chúa thương ban. Chúng con chỉ biết cúi đầu tạ
lễ và xin ơn phúc lành của Chúa. Cảm tạ ơn Chúa và tri ân đồng loại suốt cả
đời.
11.
Chín người kia đâu?
Suy
Niệm
Mười
người phong đón gặp Đức Giêsu. Họ chỉ dám đứng xa, nài xin Ngài thương xót. Đức
Giêsu không chữa cho họ ngay, Ngài muốn thử thách lòng tin của họ. Ngài bảo họ
hãy đi trình diện với các tư tế như thể họ đã được khỏi bệnh rồi. Mười người
phong đã vâng phục lên đường, và chính trên đường đi, tất cả được khỏi bệnh.
Niềm
vui bất ngờ ùa vào lòng mọi người. Cả nhóm tiếp tục cuộc hành trình, trừ một
người phong ở vùng Samari.
Lòng
biết ơn đối với Đức Giêsu khiến anh quay lại, sấp mình dưới chân Ngài mà tạ ơn.
Chín
người kia đâu?
Đức
Giêsu ngạc nhiên đặt câu hỏi.
Chắc
họ đã đi trình diện các tư tế như lời Đức Giêsu, nhưng họ quên Đấng mới ban ơn
cho họ.
Họ
vui mừng ngừng lại ở quà tặng, nhưng không vươn tới người tặng quà.
Họ
đã có lòng tin nên được khỏi bệnh, nhưng họ lại thiếu lòng biết ơn cần thiết.
Lòng
biết ơn khiến lòng tin trở nên sâu xa hơn, vì là gặp lại chính Đấng đã ban
tặng.
Chín
người kia đâu?
Đức
Giêsu không làm phép lạ để được biết ơn. Ngài mong những người kia trở lại để
gặp họ, và trao cho họ chính con người Ngài. Điều này còn quý hơn cả ơn được
khỏi bệnh.
Ơn
lành bệnh chỉ là nhịp cầu để ta gặp gỡ Đấng ban ơn, và lớn lên trong niềm tin
cậy mến.
Chín
người kia đâu?
Có
khi tôi thường thuộc về nhóm chín người. Tôi quá quen với những ơn Chúa ban,
đến độ thấy đó là chuyện bình thường, đến độ không thấy cần phải tỏ lòng biết
ơn.
Thật
ra, biết ơn phải là tâm tình chủ yếu chi phối lời cầu nguyện và cuộc sống của
tôi.
Toàn
bộ đời tôi là một hồng ân, một quà tặng. Tôi muốn sống đời tôi như một lời tạ
ơn không ngừng.
Tạ
ơn là mãn nguyện về những gì đã lãnh nhận, là thấy mình được bao bọc bởi Tình
Yêu, và muốn làm mọi sự để đáp lại Tình Yêu đó.
Người
phong vùng Samari đã trở lại tôn vinh Thiên Chúa, vì Ngài đã chữa anh lành bệnh
qua Đức Giêsu.
Chúng
ta cũng đã nhận được biết bao ơn Chúa từ tay những người xa lạ hay thân quen.
Xin
cám ơn cuộc đời, cám on mọi người.
Đời
tôi là quà tặng của Chúa cho tôi. Ước gì nó thành quà tặng của tôi cho mọi
người.
Gợi
Ý Chia Sẻ
Ngày
nay người ta nói nhiều về lòng biết ơn đối với thầy cô, cha mẹ. Theo bạn, tại
sao nhiều bạn trẻ vẫn sống một cách lãnh đạm, vô ơn?
Có
khi nào bạn tạ ơn Chúa vì những khó khăn và vấp ngã trong cuộc sống không? Bạn
có thấy những mảng tối trong đời bạn cũng có thể là một ơn không?
Cầu
Nguyện
Con
tạ ơn Cha vì những ơn Cha đã ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con
không nhận là ơn.
Con
biết rằng con đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là
chuyện tự nhiên.
Con
thường đau khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao
bọc bằng ân sủng.
Tạ
ơn Cha vì những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay
vì Cha muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin
cho con vững tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho
đời con.
12.
Ưu tiên cho việc tạ ơn - Achille Degeest
(Trích
dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Theo
lề luật Do thái, bệnh phong hủi phải được một tư tế kiểm chứng và kẻ bất hạnh
bị tuyên bố là 'ô uế', bị gạt ra ngoài lề xã hội, nói với ai phải đứng đàng xa.
Tên bệnh ấy thời xưa chỉ nhiều chứng bệnh ngoài da. Lâu lâu có người khỏi bệnh,
họ cũng phải được một tư tế kiểm chứng, sau đó được trở về sinh hoạt bình
thường. Như vậy, chúng ta hiểu tại sao Đức Giêsu dạy mười kẻ tật phong hãy đi
trình diện các tư tế để được nhìn nhận lành bệnh. Trong số mười bệnh nhân, chỉ
có mỗi một kẻ trở lại tạ ơn Thiên Chúa. Sau khi nêu rõ sự vô ơn của chín bệnh
nhân kia, Chúa nhấn vào ba điểm: Kẻ biết ơn quê xứ Samaria, nghĩa là một kẻ
ngoại giáo đối với người Do thái –kẻ ấy công khai tôn vinh Thiên Chúa– và được
chữa lành vì có đức tin. Một số người nghĩ rằng, Chúa giải thích như vậy, phải
chăng Người muốn gián tiếp xác nhận thần tính của Người. Dẫu sao chúng ta có
thể nêu ra hiểm họa tội vô ơn nấp trong lòng người ta, nó là hình thức gớm
ghiếc nhất của tính ích kỷ. Chúng ta cũng nhấn thêm vào bổn phận cảm tạ Thiên
Chúa.
1)
Tại sao chín kẻ phong hủi không nghĩ đến việc phải làm trước hết là trở lại tạ
ơn Đức Giêsu?
Chắc
hẳn họ hấp tấp muốn được xác nhận khỏi bệnh thật sự để sớm trở về trong xã hội.
Họ quan tâm trước nhất đến việc đó, họ chỉ biết nghe theo tư lợi mà quên bẵng
việc tạ ơn, hoặc giả nghĩ rằng tạ ơn sau cũng được, nghĩa là sẽ tạ ơn vào lúc
quá muộn. Giữa một bên là quyền lợi về mặt xã hội vì khỏi bệnh, bên kia là tâm
tình muốn tạ ơn tức khắc, họ đặt ưu tiên cho quyền lợi của họ. Đức Giêsu tỏ
thái độ bằng cách lên án chủ nghĩa hình thức, nó bóp nghẹt tâm hồn. Chúa còn
lên án như vậy nhiều lần nữa, nhất là khi nói đến ngày Hưu lễ. Không bao giờ
Chúa coi rẻ Lề Luật, nhưng Người cho biết tín hữu nào tuân thủ Lề Luật mà thiếu
đức tin sống động thì chẳng còn giữ được tình nghĩa con người. Chúng ta kết
luận: Nếu vì tuân thủ Lề Luật, dẫu là Lề Luật Kitô giáo, mà quên mất những đức
tính tự nhiên hoặc không nhớ đến sự khẩn thiết trước tiên của đời sống nội tâm
–con người lúc đó không còn giữ được tinh thần tuân thủ đích thực.
2)
Bổn phận tạ ơn.
Theo
định nghĩa tôn giáo; tạ ơn là tâm tình biết ơn, thán phục, tôn vinh, sùng kính,
dâng lên Thiên Chúa. Phúc Âm và Tân Ước trình bày Đức Giêsu là hiện thân của sự
tạ ơn. Phúc Âm cho thấy con người ít có xu hướng tạ ơn không vị lợi, trong khi
Đức Giêsu thì thường xuyên trong trạng thái tạ ơn Cha Người. Theo lời khuyên
của thánh Phaolô, thái độ gương mẫu của Đức Giêsu phải là thái độ tất nhiên của
người Kitô hữu. "Anh em hãy để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ"
(Cl 2,7) – vì nhiều lẽ: vì ân huệ đức tin, vì ơn cứu chuộc, vì đức ái của Đức
Kitô tràn đầy tâm hồn, vì Thánh Thần ngự trong Kitô hữu. Sống kết hợp với Đức
Kitô là sống trong niềm tạ ơn Thiên Chúa.
13.
Hãy dâng lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa
(Trích
trong 'Mở Ra Những Kho Tàng' - Charles E. Miller)
Thánh
Lễ lớn lao là hành động trung tâm tôn giáo của chúng ta là những người Công
giáo. Bởi vì Thánh Lễ là hành động của Đức Kitô Thượng Tế và Thân Thể Ngài là
Giáo Hội, đó là một tác động thánh vượt trên hết cả mọi cái khác. Không có gì
có thể ngang với sức mạnh quyền năng của Thánh Lễ, có thể thay thế sự quan
trọng của Thánh Lễ (x. Hiến chế về phụng vụ, đoạn 7).
Thánh
Lễ thì giàu có phong phú mà chúng ta không có thể nào lưu lại hoặc nghĩ về
trong một dấu hiệu đơn độc. Thánh Lễ là một hy tế không đổ máu của thánh giá,
đó là bữa ăn tối của chúng ta, đó là việc tưởng nhớ sống động về mầu nhiệm Vượt
Qua, và bí tích của sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, đó là Thân Mình thật
của Ngài đã được tuôn đổ vì chúng ta, đó là bữa tiệc thánh mà trong đó Đức Kitô
đã tiêu hủy Mình hoàn toàn, đó là những lời nài xin và lời hứa từ sự Phục Sinh
và cuộc sống đời đời. Giữa những chỉ định rực rỡ này của Thánh Lễ, nhiều vị tư
tế và dân chúng kể từ Công đồng Vatican II đã thường sử dụng một từ, từ đó
là"hy tế Thánh Thể, Euchris".
Euchris
là một từ Hy lạp được dùng trong Tân Ước mà chúng ta đã chuyển dịch sang là:
"Dâng lời tạ ơn". Dâng lời tạ ơn có liên quan đến sự biết ơn mà chúng
ta mắc nợ trong thời gian nơi bạn bè, cũng như nơi liên hệ của chúng ta với
Thiên Chúa; vì lý do này vị linh mục đọc: "Hãy để chúng ta dâng lời tạ ơn
Chúa là Thiên Chúa chúng ta". Đáp lại: "Thật chính đáng để dâng lên
Ngài lời tạ ơn và ngợi khen" và thêm lời"ngợi khen" là để chúng
ta biết mình phải dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa. Chúng ta nhận biết rằng quan
hệ của chúng ta với Cha trên trời, Đấng là Chúa và là Thiên Chúa chúng ta.
Hãy
nhớ dâng lời tạ ơn là việc tốt đẹp, đừng để cho việc đó trở nên xấu xa. Khi một
người trong mười người bị bệnh hủi đã được chữa lành trở lại ngợi khen Thiên
Chúa, Chúa Giêsu đã hỏi: "Còn chín người kia đâu?". Chúng ta hầu như
có thể nghe lại câu hỏi thất vọng của Ngài. Chúng ta cũng không cần làm thất
vọng Chúa Giêsu và Cha của Người. Hãy nhớ rằng Thánh Lễ là hy tế tạ ơn của
chúng ta là lời tạ ơn của chúng ta dâng cho Thiên Chúa.
Tất
cả chúng ta đều có lý do để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trong Thánh Lễ. Hôm nay
chúng ta có thể ước ao cám ơn Chúa vì đặc ân sự sống nơi một em bé sơ sinh,
hoặc chúc sức khỏe đã được phục hồi nơi một người già lão bệnh hoạn. Chúng ta
cũng có thể dâng lời tạ ơn Thiên Chúa về công việc sau một thời gian dài thất
nghiệp, cho một giải pháp nơi một gia đình đang tranh cãi, hoặc cho một sự độ
lượng của một người bạn tốt. Mỗi Chúa Nhật chúng ta cần hồi tâm lại về những
động lực cá nhân của chúng ta để dâng lời cám ơn. Tiếp đó, chúng ta hãy nhớ
rằng luôn luôn ở mọi nơi, mọi lúc là phải tạ ơn Thiên Chúa, đơn giản bởi vì
Chúa là Thiên Chúa của chúng ta. Dâng lời tạ ơn diễn tả quan hệ của chúng ta
với Thiên Chúa.
Tạ
ơn là một điều mà Naaman người Syria đã muốn dâng lên Thiên Chúa. Ông đã được
tẩy sạch bệnh phong cùi sau khi đã tắm bảy lần trong dòng nước của sông Giođan.
Ông đã yêu cầu lấy hai thúng đất của Israel để xây nên một Đền Thờ trên Syria,
nơi quê hương của ông, để từ nơi đó ông có thể dâng lời tạ ơn với Thiên Chúa.
Kinh nghiệm của ông như là một dấu hiệu của phép rửa chúng ta. Chúng ta đã rửa
sạch trong phép rửa và đã được thông dự vào chức tư tế của Đức Kitô. Phép rửa
kêu gọi chúng ta trở thành một dân thờ lạy Thiên Chúa, dâng cho Ngài lời tạ ơn
và ngợi khen. Nhưng chúng ta không cần đất đặc biệt, không cần một vị trí đặc
biệt, để dâng lời tạ ơn cho Thiên Chúa. Bất cứ khi nào Thánh Lễ cử hành, đó là
lễ dâng đẹp nhất của lời cám ơn và ngợi khen Thiên Chúa. Đối với chúng ta luôn
luôn mọi nơi và mọi lúc đều có thể dâng lời cám ơn Thiên Chúa và chúng ta làm
điều đó khi cử hành hy tế Thánh Thể.
14.
Tất cả là hồng ân
(Trích
trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Đầu
tháng 10 năm 1962, chiếc phi cơ hàng không PanAm (Mỹ), chở mấy trăm Giám mục
người Mỹ đi họp Công Đồng chung Vatican II. Trong hai cô tiếp viên hàng không
phục vụ hành khách, có một cô kiều diễm tuyệt vời. Đức Cha Fulton Sheen, Tổng
Giám Mục giáo phận New York đồng thời là một nhà văn và một nhà hùng biện nổi
tiếng Nước Mỹ, đã lưu ý đến sắc đẹp của cô tiếp viên nầy.
Thế
rồi, khi phi cơ hạ cánh, hai cô đứng bên cửa xuống cầu thang chào từ biệt và
hành khách đáp lại hai tiếng cám ơn. Nhưng đến lượt Đức Cha Fulton Sheen, người
ta thấy ngài đưa miệng ghé vào tai cô tiếp viên xinh đẹp kia mà nói nhỏ một câu
gì không ai nghe được.
Bốn
tháng sau, khi khóa I Công Đồng chung Vatican II kết thúc, các Giám Mục được về
nước nghỉ. Một hôm, cô chiêu đãi viên xinh đẹp nọ tìm đến gặp Đức Cha Fulton
Sheen: "Thưa Đức Cha, Đức Cha còn nhớ con là ai không?" – "Tôi
còn nhớ lắm, Đức Cha còn đáp. Cô là tiếp viên trên chiếc hàng không đưa chúng
tôi đến Rôma". – "Nhưng Đức Cha còn nhớ Đức Cha đã nói gì với con
không?" – "Tôi đã nói: có khi nào cô đã tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho
cô sắc đẹp tuyệt vời không?" – "Thưa Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà
hôm nay con đến hầu chuyện Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà Cha nghĩ con phải
làm gì để tạ ơn Chúa?". Trước câu hỏi đột ngột, Đức Cha Fulton Sheen lúng
túng không biết trả lời làm sao. Ngài trấn tỉnh, chấp tay lên ngực, rồi ngước
mắt lên trời như thể xin ơn soi sáng. Trong chốc lát, ngài nói: "Cha vừa
mới được một tin từ Việt Nam: đó là Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp đang
là Giám Mục giáo phận Sài Gòn, đã xin từ chức để đi phục vụ một trại phong cùi
ở miền núi Di Linh – Lâm Đồng. Nhưng người phong cùi ở đó khốn khổ lắm con ạ!
Họ đang chờ cái chết đến với họ. Vậy theo ý cha, cách tạ ơn Chúa đẹp lòng Ngài
hơn cả và có ý nghĩa hơn cả là con hãy hy sinh một thời gian, đem nụ cười xinh
tươi, đem tiếng nói dịu dàng, đem duyên sắc mặn mà của con để an ủi họ".
Mặt cô tiếp viên tái dần đi. Cô đứng lặng yên trong mấy phút. Đột nhiên cô cúi
đầu tạm biệt không nói một lời. Rồi từ đó không biết hai người còn gặp nhau hay
thư từ liên hệ gì nữa chăng. Nhưng đầu năm 1963, đài phát thanh cũng như báo
chí ở Sài Gòn loan tin: "Một nữ tiếp viên rất xinh đẹp của hãng hàng không
Panam tình nguyện đến Di Linh – Lâm Đồng để sống với những người phong cùi
trong sáu tháng".
Thưa
anh chị em,
Cái
nhìn đức tin thúc đẩy chúng ta tạ ơn Chúa là như thế đó. Nhận được ơn thì phải
biết chia sẻ cho người khác, để nói với Thiên Chúa và anh em mình rằng:
"Tất cả đều là hồng ân". Biết bao ơn lành lớn nhỏ Chúa tuôn đổ xuống
trên cuộc đời chúng ta. Có bao giờ chúng ta nhận ra những hồng ân ấy để dâng
lên những lời cảm tạ mỗi ngày không? Những điều chúng ta đang có tưởng rằng tầm
thường, nhưng thật ra lại rất phi thường. Đừng đợi khi mắt mù, tai điếc, cụt
tay, què chân chúng ta mới nhận ra có thân thể lành lặn là quý giá vô cùng. Nếu
chúng ta biết cám ơn những gì mình đang có, chúng ta sẽ biết cám ơn suốt đời vì
tất cả những gì Ngài đã ban cho.
Chúa
Giêsu đã hỏi: "Không phải cả mười người được khỏi phong cùi sao? Thế thì
chín người kia đâu, sao không trở lại tạ ơn Chúa, mà chỉ có một người ngoại giáo
nầy thôi?" Đối với người Do Thái, người bị phong cùi được coi như bị Thiên
Chúa chúc dữ và còn bị luật coi là người mắc ô uế nhơ bẩn, bị xã hội khai trừ,
phải sống biệt lập trong bãi tha ma, đi đâu thì phải lắc chuông lên tiếng báo
động cho người ta xa tránh.
Nhưng
Chúa Giêsu không xa tránh họ. Họ đã đến với Chúa như Chúa đến với họ. Vì Ngài
là tình thương cứu chữa. Chỉ có tình thương mới tìm đến với những con người bị
bỏ rơi, bị loại trừ. Trên đất nước chúng ta có hàng chục trại phong cùi. Một số
trại do các tu sĩ, nữ tu đảm nhận điều hành, chăm sóc các bệnh nhân. Nếu ở Việt
Nam tên tuổi của Đức Cha Jean Cassaigne gắn liền với trại phong cùi Di Linh thì
danh tiếng của Đức Cha Đamien còn vang vọng giữa hải đảo Milokai – Thái Bình
Dương, người mà nhà ái quốc Gandhi đã ca ngợi và nói: "Nên tìm hiểu đâu là
nguyên do phát sinh một cuộc sống anh hùng như vậy". Nguyên do của cuộc
đời hy sinh ấy là tình yêu mến Chúa như Chúa đã yêu thương chúng ta cho đến tận
cùng.
Vậy
khi chúng ta được Chúa ban ơn, được mọi ơn lành hồn xác thì đừng quên cám ơn
Chúa và đừng kiêu hãnh khinh miệt kẻ khác. Thánh Inhaxiô nói: "Tội lớn lao
hơn cả là tội vô ơn". Trong nhóm 10 người phong cùi được Chúa chữa lành,
chỉ có một người đã trở lại cám ơn Chúa và người đó lại là người ngoại giáo.
Nhiều khi chúng ta được ơn Chúa, nhưng không biết cám ơn Chúa. Khi hoạn nạn thì
khấn vái bốn phương, khi được như ý thì quên lời đã nguyện hứa. Tệ hơn nữa, còn
tự kiêu tự phụ khinh miệt những người xấu số, bệnh tật, nghèo khó, phong cùi.
Cám
ơn là dấu chỉ của lòng tin. Chúa nói với người phong cùi biết ơn đang sụp lạy
dưới chân Ngài: "Anh hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của anh đã cứu chữa
anh". Chính lòng tin đã thúc giục người Samari phong cùi trở lại tạ ơn
Chúa trước hết, đang khi chín người Do Thái kia lo đi trình diện các tư tế để
được xác nhận và được hội nhập vào cộng đoàn. Trong bài đọc I hôm nay, quan
Naaman sau khi dược lành sạch phong cùi, cũng vì lòng tin đã tìm đến Ngôn sứ
Êlizê và tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa: "Thật tôi biết, không có
Thiên Chúa nào khác trên hoàn vụ ngoài một Thiên Chúa của Israel".
Anh
chị em thân mến,
Tạ
ơn Chúa là dấu chỉ của niềm tin. Tạ ơn Chúa không chỉ là chuyện lễ nghĩa, nhưng
là nét đặc trưng của những tâm tình mà con người phải có trước các ơn thiêng đã
lãnh nhận từ Thiên Chúa. Việc bẻ bánh ngày xưa cũng như Thánh lễ ngày nay là
gì? Phải chăng là tâm tình tạ ơn mà người Kitô hữu khiêm tốn và hân hoan dâng
lên Thiên Chúa là Cha vì hồng ân Ngài đã ban cho chúng ta trong Đức Giêsu? Phải
chăng là phương thế tuyệt hảo để chúng ta nhận thức lại sự phong phú đích thực
của mình và tìm lại bình an của niềm tin giữa những lắng lo cuộc sống?
Cũng
chính trong tâm tình tạ ơn đó, chúng ta họp nhau chung quanh Bàn Tiệc Thánh nầy
để cử hành Thánh Thể – Bí Tích Tạ Ơn. Ước chi lễ tế tạ ơn nầy đem lại cho chúng
ta bình an và niềm vui sướng vô hạn. Bình an và niềm vui của một đức tin đã gặp
được Đấng Cứu Độ.
15.
Lòng biết ơn
(Trích
dẫn từ 'Vietvatican.org' - bài viết của Nguyễn Hiền Nhu)
Tin
Mừng Lc 17, 11-19, thánh sử Luca thuật lại câu chuyện xảy ra khi Chúa Giêsu
đang trên đường tiến lên Giê-ru-sa-lem. Có mười người phong hủi đón Ngài để xin
Ngài chữa lành. Họ không dám tiến tới gần Ngài nhưng chỉ đứng đằng xa. Họ cất
tiếng thưa rằng: "Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Ngài bảo
họ đến trình diện với tư tế, và họ đã vâng lời Ngài. Trên đường đi, tất cả mười
người đều được sạch. Trong mười người đó, có một người đã quay trở lại cám ơn
Ngài.
Được
sạch là một niềm mong mỏi bấy lâu trong họ. Đã lâu lắm rồi, họ hằng khao khát
được lành lặn, được sống gắn bó với những người mình thương yêu. Nhìn thấy
người ta áp má chúc lành nhau, bắt tay hỏi han sức khỏe của nhau, họ ao ước
được một lần như thế. Sách Lê-vi viết rằng: "Người mắc bệnh phong hủi phải
mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên: 'Ô uế! Ô uế!' Bao lâu còn mắc bệnh,
thì nó ô uế; nó ô uế: nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài
trại." (Lv 13,45-46).
Người
bị bệnh phong bị xem là ô uế. Họ bị tước quyền chung sống với những người thân
quen; họ phải sống riêng ra. Họ bị đẩy ra bên lề xã hội. Tôi còn nhớ thời gian
tôi được gởi đến sống với người phong tại Trại Phong Bến Sắn ở Bình Dương. Có
một bệnh nhân phong thuật lại với tôi câu chuyện của chị: một ngày kia, trên
đường về nhà, chị bước vào quán ăn để mua ít thức ăn cho con. Có một người phát
hiện chị đến từ trại phong, thế là người đó la lên, và tất cả lần lượt bỏ bàn
ăn đi nơi khác, cách xa chị. Thế đó, xã hội ngày nay, những bệnh nhân phong
đang bị hất hủi. Xã hội ngày xưa đối xử với người phong còn tệ hơn thế. Để bảo
vệ những người khác, họ buộc các bệnh nhân phong tự mình thốt lên "Ô uế! Ô
uế!" (Lv 13,45) để người ta biết và tránh xa. Không ai dám đến gần bệnh
nhân phong, không ai dám làm bạn với họ. Họ bị cô lập. Có lẽ nỗi đau thể xác do
đặt tính của bệnh phong mang lại sẽ không nặng bằng nỗi đau tinh thần do sự kỳ
thị của xã hội gây ra cho họ.
Hơn
thế nữa, xã hội Do Thái thời bấy giờ quan niệm bệnh tật là do tội lỗi, người bị
bệnh là người phạm tội và bệnh là án phạt của Thiên Chúa. Như vậy, người phong
hủi còn bị hao mòn tinh thần từng ngày do mặc cảm tội lỗi.
Thấu
cảm được vết thương khốn cùng của những bệnh nhân, Chúa Giêsu đã chữa lành bệnh
cho họ. Việc chữa lành của Chúa không đơn thuần chỉ là việc chữa lành của một
bác sỹ. Có lẽ hơn ai hết, Chúa đã hiểu những khát khao sâu kín trong lòng của
họ. Chúa bảo họ đi trình diện tư tế, đi đến với người có thẩm quyền về phương
diện xã hội cũng như tôn giáo thời bấy giờ để được kiểm chứng đã thanh sạch.
Theo luật Lê-vi, một bệnh nhân phong khi được lành bệnh, phải đi trình diện với
tư tế. Sau khi được tư tế khám xét, nếu như họ đã được lành bệnh, thì sẽ được
tư tế tuyên bố là sạch. Khi được tuyên bố thanh sạch rồi, họ mới được quyền
sống chung với xã hội, mới được hưởng những gì cơ bản nhất của một thành viên trong
cộng đồng (x. Lv 13).
Từ
thân phận người bị xã hội đẩy ra ngoài, giờ đây, họ được đón nhận. Chính Chúa
đã mang lại cho họ niềm vui đó. Giờ đây, họ hoàn toàn có thể được sống chung
với người thân, hoàn toàn có thể sánh bước cùng người họ thương yêu trên con
đường làng vào mỗi buổi chiều. Họ sẽ không còn mặc cảm tội lỗi nữa. Quá khứ đã
qua đi, và chính Chúa đã mở ra cho họ một cuộc sống mới. Nỗi đau trước đây bây
giờ đối với họ sẽ là một kinh nghiệm quý giá; kinh nghiệm ấy đưa họ tới yêu quý
cuộc sống họ đang có hơn.
Tuy
nhiên, khi thấy mình được sạch, một người trong số họ đã quay trở lại để cám ơn
Chúa. Một việc làm nhỏ bé nhưng tuyệt vời. Anh đã tạm quên con đường đi nhanh
đến trình diện vị tư tế để được tuyên bố thanh sạch. Anh đã tạm quên đi niềm mơ
ước bấy lâu của mình để quay trở lại cám ơn Đấng đã mang lại cho anh niềm vui.
Niềm vui của anh đã trở nên trọn vẹn hơn khi anh được chính Chúa tuyên bố
"con hãy đứng dậy mà về: vì lòng tin của con đã cứu chữa con". Chúa
khen ngợi lòng tin của anh. Quà tặng chỉ là phương tiện để dẫn đưa con người
tới gặp Đấng tặng quà. Niềm vui của anh giờ đây trọn vẹn hơn vì không chỉ anh
được thanh sạch, mà còn được gặp Đấng Chữa Lành anh. Tâm hồn anh giờ đây tràn
ngập hân hoan.
Có
lẽ trong tương lai, khi gặp lại Chúa, chín người kia sẽ cám ơn ngài. Có lẽ
trong thâm tâm của họ đang mang một niềm tri ân nào đó mà họ chưa ý thức hoặc
chưa có cơ hội diễn tả. Phải chăng niềm vui đó đã đến với họ quá bất ngờ, quá
lớn lao, khiến họ quên cám ơn ân nhân của họ. Dường như có một chút gọi là vô
ơn nơi họ, một chút vô tâm khi họ xem trọng ân huệ hơn là Đấng ban ơn. Họ đã
không đủ nhạy bén để nhận ra rằng mình đã bỏ qua một cơ hội quý giá để đếp gặp
Đấng đã ban ơn cho mình. Họ hân hoan vui mừng và đi tiếp con đường để hòa mình
vào xã hội; đó là điều tốt đẹp, nhưng sẽ tốt đẹp hơn biết bao nếu họ không chỉ
dừng lại với niềm vui hiện tại của bản thân để dành giây lát tri ân Đấng ban
cho họ niềm vui đó. Chúa không hề hẹp hòi với họ, không hề vì một chút vô ơn
của họ mà rút lại quà tặng. Cho dù họ có quay trở lại cám ơn Ngài, hoặc cho dù
họ đã quên Ngài đi chăng nữa, thì chính Ngài là Đấng đã khôi phục quyền được
sống như một con người của họ. Hy vọng rằng sẽ có một dịp nào đó họ sẽ nhận ra
sự thiếu sót này và quay trở lại tri ân Ngài.
Một
lời trách nhẹ nhàng của Chúa "còn chín người kia đâu?" như một lời
nhắc nhớ những người nghe lời này của Ngài ý thức được lòng biết ơn của mình.
Có khi tôi cũng thuộc về nhóm chín người kia. Hằng ngày, tôi vẫn nhận biết bao
ơn lành từ Ngài; nhận nhiều đến độ tôi cảm thấy là bình thường và không cần
thiết phải cám ơn. Chúa ơi, xin đừng để con vô cảm trước những ân huệ của Chúa.
Từng giây từng phút trong đời con được bao bọc bởi tình yêu vô biên của Ngài.
Hãy biến đổi tâm hồn con để cuộc đời con trở nên một lời tri ân Ngài.
16.
Mười người phong hủi - McCarthy
Suy
niệm 1: ĐIỀU ẤY XẢY RA NHƯ THẾ NÀO?
Vào
thời đại của Đức Giêsu, bệnh phong hủi không có thuốc chữa. Khi một người mắc
phải bệnh ấy, có sống cũng như chết. Thế mà tại sao chín người phong hủi đã không
trở lại để cám ơn Đức Giêsu vì Người đã chữa lành cho họ? Chúng ta không lạm
dụng trí tưởng tượng của chúng ta khi vẽ lại những gì đã xảy ra. Chúng ta giả
sử điều đó xảy ra trong thời đại của mình.
Người
thứ nhất là Miriam, vợ của một người bán hàng. Khi về lại nhà, bà thấy nhà mình
bừa bãi, lộn xộn. Không phải do lỗi của chồng bà. Ông phải tất bật với công
việc. Trở lại gặp Chúa không còn là vấn đề nữa – ít ra là trong lúc này.
Người
thứ hai là Aaron, một nông dân. Mùa hè này là một mùa tồi tệ, và toàn thể mùa
màng có nguy cơ bị mất trắng. May mà dự báo thời tiết đã nói rằng thời tiết
tốt, có mưa nhiều đúng vào những ngày ông có thể trở lại.
Người
thứ ba là Saul. Khi ông ta trở lại nhà, gia đình ông đã mở tiệc mừng ông. Họ
không muốn nghe ông nói đi đến nơi nào đó. Ông đã không xa nhà đủ rồi hay sao?
Chính họ đã ngăn cản ông trở lại gặp Chúa.
Martha
là người thứ tư. Khi chị trở về nhà thì chương trình Tivi chị ưa thích vẫn còn,
trong thời gian sống cách ly vì bệnh phong hủi, chị luôn thèm khát được xem
chương trình đó. Giờ đây chị mải mê với chương trình ấy. Chị muốn ngày mai trở
lại gặp Chúa. Nhưng ngày mai không bao giờ đến.
Người
thứ năm là Daniel. Trước khi ông bị phong hủi, ông rất thành công trong kinh
doanh, khi ông về đến nhà, ông thấy việc kinh doanh hoàn toàn suy sụp. Trở lại
gặp Đức Giêsu không nằm trong các ưu tiên của ông. Chẳng bao lâu sau, ông hoàn
toàn quên việc đó.
Amos,
người thứ sáu không có nhà để về. Anh đã cảm thấy rất cay đắng về căn bệnh
phong hủi của mình và về cuộc sống chung. Khi anh trở về, anh gom góp được ít
tiền bạc mà người ta cho anh, về đến thành phố, anh uống rượu. Việc trở lại
không bao giờ có trong đầu anh.
Peter
là người thứ bảy. Khi anh về nhà, anh không có việc làm. Vì thế khi nghe nói về
một cuộc phỏng vấn để được nhận vào một chỗ làm tốt, anh đến ngay. Trong lúc
này, anh không thể trở lại.
Anna
là người thứ tám. Lúc đó nhiên liệu đang bị khan hiếm. Chị hiện đang trên đường
về nhà thì thấy một trạm xăng còn mở cửa. Chị phải xếp hàng ba giờ liền để được
đổ đầy bình xăng. Sau đó chị đi thẳng về nhà. Thật đáng thương khi muốn phung
phí xăng cho một cuộc hành trình thật sự không cần thiết.
Người
thứ chín là Joseph. Khi ông ta về nhà, ông ta quyết định bán câu chuyện của ông
ta cho một tờ báo. Không để mất thời gian. Một người khác có thể có cùng ý
tưởng ấy và sẽ phỗng tay trên. Quay lại không có chỗ trong kế hoạch của ông.
Sau
cùng, đó là Simon. Ông có mấy lý do để không quay trở lại. Một lý do đặc biệt
thuyết phục. Ông là người Samari lại được một người Do Thái chữa lành. Một
người Samari cám ơn một người Do Thái không phải là chuyện dễ. Nhưng là một
người nhân ái, ông gạt bỏ những lý lẽ ấy và quay lại để cám ơn.
Xin
lỗi! Những lý lẽ ấy xem ra nguỵ biện, đê tiện, trơ trẽn và rác rưởi. Nhưng có
hiệu lực trong chín trên mười trường hợp. Chúng ngăn cản chín người ấy làm một
việc mà có lên trời người ta cũng phải làm.
"Chúng
ta viết trên cát những ơn ích mà chúng ta nhận được, nhưng viết trên đá cẩm
thạch những tổn thất" (Thomas More).
Chín
người phong hủi không thể diễn tả lòng biết ơn. Sự vô ơn ấy nói với chúng ta
điều gì? Điều đó nói lên rằng họ chỉ lành lặn ở ngoài da. Bệnh phong hủi đã
hết, nhưng không có gì khác nơi họ đã thay đổi. Sau kinh nghiệm cay đắng ấy, họ
trở về với những thái độ cũ, những tập quán, mục tiêu của họ và sự nông cạn của
cuộc đời. Họ đã không học được gì từ đau khổ của họ. Đây là một bi kịch thật
sự.
Nhưng
rõ ràng người Samari đã học được từ kinh nghiệm đau thương của mình. Kể từ đó,
ông đã trở thành một con người hoàn toàn đổi khác, như Naaman sau khi được
Êlisa chữa lành phần xác. Naaman và người Samari được chữa lành cả xác lẫn hồn.
Trong
những lúc tốt đẹp, chúng ta quên mất Thiên Chúa, dù rằng chúng ta vẫn tiếp tục
phục vụ Người bằng môi miệng. Nhưng rồi một cơn bệnh đến bắt chúng ta phải quỳ
gối xuống, và bất ngờ chúng ta đối diện với sự nghèo nàn, yếu đuối và tính dễ
chết của chúng ta. Tuy nhiên, nếu điều ấy đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn
và làm cho chúng ta sống tâm linh hơn thì nó đúng là một ơn lành trong bộ áo
cải trang. Dường như trong mười người phong hủi, chỉ có một người được đưa đến
gần Thiên Chúa hơn qua bệnh tật và sự bình phục của người ấy.
Suy
niệm 2: CÁI NHÌN SÂU XA HƠN
Câu
chuyện mười người bị phong hủi có một bài học rất rõ ràng, đó là tầm quan trọng
của việc bày tỏ lòng biết ơn. Nhưng nó có một bài học khác: Tìm thấy Thiên Chúa
qua đau khổ. Đau khổ có thể đưa con người rời xa Thiên Chúa hoặc có thể đem họ
đến gần Thiên Chúa. Nhiều người trở lại đạo là những tân tòng của Ngày Thứ Sáu
Tốt Lành: họ vào Nước Chúa qua những cái cổng của đau khổ. Naaman là một gương
tốt.
Vào
một giai đoạn của đời mình, ông ở đỉnh cao của ngọn sóng. Ông có một công việc
danh giá: chỉ huy trưởng đạo quân hùng mạnh của nước Syri. Ông được nhà vua
kính nể có quyền lực và danh tiếng. Ông ta không cần Thiên Chúa. Tôn giáo không
có vai trò nào trong đời sống của ông. Ông là kiểu mẫu của một số người thành
công hôm nay. Họ dường như không dành chỗ cho Thiên Chúa trong đời họ.
Tuy
nhiên, khi ông đã đạt đến đỉnh cao của quyền lực, ông mắc một chứng bệnh kinh
khủng: bệnh phong hủi. Thình lình, thế giới của ông bắt đầu tan rã.
Một
phút trước, ông ở đỉnh cao của thế giới. Một phút sau ông rơi xuống vực thẳm.
Tuyệt
vọng về việc chữa trị, ông phải nuốt trửng lòng tự hào và tìm kiếm sự giúp đỡ
của ngôn sứ Êlisa ở Do Thái, một quốc gia nhỏ bé mà ông đã từng cướp bóc và
khinh miệt. Tuy nhiên điều ông tìm kiếm là một "thứ thần dược" để ông
có thể sớm quay về và đảm nhận đời sống cũ giống như trước đây.
Nhưng
ông đã mau chóng nhận ra rằng không có thứ thần dược ấy; không có sự chữa lành
mau chóng và không đau đớn. Vì thế ông phải học để trở nên khiêm nhường và nhẫn
nại. Ông đã học tuân lệnh để thay đổi. Nhưng thời gian ông bỏ ra không uổng
công bởi vì ông không chỉ được chữa lành bệnh phong hủi mà còn được hoán cải.
Ông tìm thấy Thiên Chúa chân thực. Vì thế sau cùng ông có lý do để cám ơn bệnh
phong hủi của ông, bởi vì qua đó ông đã nhận được ơn đức tin.
Người
ta tự hỏi chín người phong hủi thu được gì từ kinh nghiệm khủng khiếp của họ.
Khi họ không tạ ơn Thiên Chúa thì không chắc họ đã rút ra được lợi ích tâm linh
nào từ kinh nghiệm ấy.
Giống
với ông Naaman trước khi mắc bệnh, trong những thời kỳ tốt đẹp, chúng ta bỏ
quên Thiên Chúa, dù rằng chúng ta vẫn tiếp tục phục vụ Người bằng môi miệng.
Nhưng rồi một bệnh tật hoặc một cái gì tương tự bắt chúng ta phải quỳ gối, và
chúng ta bất ngờ đối diện với sự nghèo nàn, yếu đuối và phải chết của chúng ta.
Chúng ta nhận ra nền móng mà trên đó chúng ta đã xây dựng bao nhiêu niềm hy
vọng sao quá mong manh, nông cạn.
Nếu
điều ấy đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn và làm cho chúng ta sống tâm linh
hơn thì đó là một sự chúc lành trong bộ y phục cải trang. Dường như chỉ một
trên mười người phong hủi đã được đưa đến Thiên Chúa gần hơn qua bệnh tật và sự
bình phục của người ấy.
Chúng
ta không phải lúc nào cũng làm chủ những gì xảy đến với chúng ta, nhưng chúng
ta phải làm chủ phản ứng của chúng ta khi sự việc xảy đến. Ví dụ như, có hai
người bị thương nặng trong một tai nạn. Một người chọn cách sống cay đắng kinh
nghiệm ấy và bị nó huỷ hoại. Người kia sống kinh nghiệm ấy với lòng biết ơn.
Người này tin rằng dù sự việc xảy ra là gì, dù nó có đau khổ thì nó vẫn có thể
đem lại một điều tốt. Vấn đề không phải là quên nó đi mà nhớ đến nó và hội nhập
nó vào trong đời sống của mình.
Ước
muốn đền đáp lại một điều gì là một dấu chỉ cao cả của lòng biết ơn. Khi bạn có
đầy lòng biết ơn, bạn sẽ không có chỗ cho sự cay đắng hoặc căm giận. Mọi người
hạnh phúc đều biết ơn. Những người bội bạc không thể có hạnh phúc.
CÂU
CHUYỆN KHÁC
Một
ngày nọ, David bố thí cho một người nghèo mà ông gặp trên đường phố. Khi ông
tiếp tục bước đi ông bắt đầu cảm thấy một niềm vui thoả mãn bừng lên trong ông.
Nhưng rồi một bóng tối lướt qua ông – ông nhớ lại người nghèo đó đã không cám
ơn ông. Sau đó, ông kể lại sự cố cho vị giáo trưởng của ông. Vị giáo trưởng
kiên nhẫn lắng nghe, sau đó ông này nói: "Ông cảm thấy thế nào khi ông bố
thí?"
"Tôi
cảm thấy rất vui" David đáp.
"Điều
đó không đủ là phần thưởng cho ông sao?"
"Con
vẫn nghĩ rằng hắn ta phải cám ơn con", David nhấn mạnh.
"Chắc
chắn ông không muốn được cám ơn vì đã có hành động như một người theo đạo phải
có? Vậy thì ông đã cám ơn Thiên Chúa chưa?".
"Về
điều gì?" David ngạc nhiên hỏi.
"Vì
Người đã ban cho ông cơ hội trở nên một công cụ để tình yêu của Người đến với
một người đồng loại của ông", câu đáp là như thế.
17.
Đức tin đích thực - R. Gutzwiller
1.
Niềm tin bất toàn.
Mười
người phong cùi hình như đã có một niềm tin lớn lao. Họ nghe nói về Đức Kitô và
tin rằng Ngài có thể chữa lành họ. Chính vì niềm tin đó, mà họ đã vượt qua
những luật lệ cưỡng bách họ sống tách biệt.
Họ
đến một làng nhỏ, tiến gần đến Đức Giêsu và xin Ngài thương họ. Họ đã thất vọng
hoàn toàn đối với khả năng của con người, chỉ còn tin tưởng vào sự cứu giúp của
Đức Kitô thôi.
Niềm
tin đó đã bị thử thách và rồi được giữ vững, vì Chúa Giêsu không chữa cho họ
ngay, Ngài gửi họ tới trình diện với các tư tế, đó là lệ thường đối với những
người được chữa khỏi: nhưng đây họ đâu đã được khỏi. Do đó, người ta có thể
đoán được rằng họ sẽ đứng im, không nhúc nhích cho tới khi Chúa giải thoát họ
khỏi cơn bệnh ghê tởm.
Thế
mà, họ lại đã tin, chỉ dựa vào có một lời của Ngài thôi. Và rồi đang khi đi, họ
thấy mình được khỏi, họ có niềm tin đích thật, dầu vậy, đó cũng chỉ là niềm tin
bất toàn. Họ còn bám víu vào ngoại cảnh, nhắm vào tật bệnh và sự lành lặn của
họ.
Vì
thế, họ không khám phá được Đấng chữa lành họ là ai. Họ chưa đi sâu vào cái
chính yếu. Ngoài sức khoẻ thể xác, Ngài còn ban cho họ sức khoẻ của tâm hồn.
2.
Đức tin hoàn toàn.
Chỉ
có một người, lại là người ngoại quay lại tìm gặp Chúa Giêsu, tuyên xưng đức
tin vào Thiên tính của Ngài và phục lạy để tỏ lòng cảm tạ tri ân.
Chỉ
có người này có được đức tin hoàn toàn. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói với
anh ta: 'Hãy chỗi dậy mà về, lòng tin của anh đã chữa anh'. Cả xác lẫn hồn được
giải phóng, được chữa bệnh và thánh hoá một lượt.
Anh
ta không còn bị bận trí vì cái thân xác phong cùi vây hãm. Đức tin hoàn toàn
không dừng lại ở việc chữa trị mà phải dừng lại ở người chữa mình; không phải ở
công việc mà là ở tác giả của công việc đó. Đức tin chân thực vượt lên trên mọi
dấu chỉ, để được gặp gỡ Thiên Chúa hằng hữu.
18.
Lòng biết ơn
Nhờ
có cuốn sách Sehirdler's Ark và cuốn phim Schindler's List, tên của Oskar
Schindler được hàng triệu người trên thế giới biết đến. Schindler là một nhà
công nghiệp người Đức. Trong suốt Thế chiến II, ông đã cứu hàng ngàn người Do
thái ở Ba Lan khỏi các trại tập trung. Khi chiến tranh chấm dứt, quân Đức rút
khỏi Ba Lan và người ta chờ đợi quân Liên Xô đến. Ngay trước khi quân Liên Xô
đến, Schindler cũng đã quyết định trốn qua phương Tây.
Khi
những công nhân người Do Thái, giờ đây đã được tự do nghe tin ông ra đi, họ họp
lại để xem có thể bày tỏ lòng biết ơn ông như thế nào. Phải bắt tay ngay để làm
một món quà bằng kim loại. Rồi một người gợi ý một cái gì tốt hơn. Ông ta mở
miệng mình ra và chỉ chiếc răng vàng.
"Hãy
lấy cái này", ông nói, "Nó mà còn là nhờ có Oskar, bọn mật vụ SS muốn
chiếm lấy các vật dụng bằng mọi cách. Cái răng của tôi lẽ ra cũng đã ở trong
đống đồ trong nhà kho của SS, giữa những chiếc răng vàng của những người
khác".
Ban
đầu, những người khác phản đối đề nghị ấy, nhưng vì người ấy nài nỉ mãi nên
người ta nhận. Một tù nhân trước kia là nha sĩ ở Cracow đã lấy cái răng vàng đó
ra khỏi hàm răng. Một thứ kim hoàn trong số họ nấu chảy vàng và tạo thành một
chiếc nhẫn. Vòng bên trong của chiếc nhẫn, người ta ghi những lời lấy từ Kinh
Talmud: "Người nào cứu sống chỉ một mạng người, người ấy cứu sống toàn bộ
thế giới".
Đó
là một cử chỉ bày tỏ lòng biết ơn làm người ta ngạc nhiên và cảm động sâu xa.
Đó là một trong những việc kỳ diệu về lòng biết ơn –nó làm cho chúng ta muốn
đền đáp một điều gì. "Lòng biết ơn là ký ức của tâm hồn" (Tục ngữ
Pháp). Nhưng rồi người ta phải nói rằng đó là điều tối thiểu mà người ta có thể
làm khi người ta mang ơn Schindler về cuộc đời của họ.
Mười
người phong hủi trong Tin Mừng cũng mang ơn Đức Giêsu về cuộc đời của họ. Tuy
nhiên, chỉ có một người trở lại để cảm ơn Người.
Dường
như cũng kỳ lạ khi người quay trở lại để cảm ơn là một người ngoài cuộc –một
người Samari. Nhưng điều đó không thường xảy ra đó sao? Người trong cuộc cho
rằng mọi sự là đương nhiên và chính người ấy cũng được coi là đương nhiên. Trái
lại, người ngoài cuộc nhìn mọi sự vật là một ân huệ. Chúng ta thấy bài đọc I
cũng một ý tưởng. Người nước ngoài Naaman trở lại để cảm ơn Êlisa vì đã chữa
cho ông khỏi bệnh phong hủi.
Chúng
ta đòi người khác biết ơn mình hơn là tỏ lòng biết ơn người khác. Điều này chỉ
ra lòng ích kỷ của chúng ta khi chúng ta thi ân. Nếu có người nào nhận thấy
người anh em mình vô ơn, bội bạc thì người ấy không tìm kiếm hạnh phúc cho
người khác mà tìm kiếm hạnh phúc cho chính mình.
Đức
Giêsu đòi hỏi lòng biết ơn, không phải cho chính Người. Điều Người nói là:
"Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang
này?". Qua đó rõ ràng Người không nghĩ đến chính mình. Người nghĩ đến
những người phong hủi. Người nhận một ân huệ có thể bày tỏ lòng biết ơn là một
điều tốt và cần thiết.
Chúng
ta biết bày tỏ lòng biết ơn là một việc rất quan trọng. Trước tiên điều ấy tốt
cho chúng ta, nó bắt buộc chúng ta phải biết món nợ mà chúng ta còn mắc người
khác. Lòng tri ân dĩ nhiên cũng tốt cho người khác ấy –nó làm cho người làm ơn
cảm thấy được đánh giá cao. Người không cảm ơn điều nhỏ, sẽ không cảm ơn điều
lớn. Vì thế điều quan trọng là biết ơn và đánh giá cao các ơn huệ nhỏ mà người
khác làm cho chúng ta cũng như các dịch vụ mà chúng ta nhận được mỗi ngày.
Về
việc thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần những lời
cảm ơn của chúng ta nhưng chúng ta cần cảm ơn Thiên Chúa. Điều ấy nhắc chúng ta
rằng mọi sự mà chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cảm ơn Thiên Chúa về điều
xảy đến cho chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố gắng biết ơn về trọn cả
cuộc đời mình: điều xấu cũng như điều tốt, những niềm vui và nỗi buồn, những
thành công và thất bại. Đó không phải là một việc dễ dàng. Chúng ta chỉ thật sự
gọi mình là những người có lòng biết ơn khi chúng ta có thể nói lời cảm ơn về
mọi việc đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri ân này làm chúng ta có khả
năng cải tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta và coi nó như là con đường cụ thể
trong đó Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta đến giây phút này.
Khi
chúng ta nhìn lại đời sống của mình, chúng ta thấy rằng những điều làm tổn
thương chúng ta và những điều giúp đỡ chúng ta không thể tách rời nhau. Chúng
ta hãy cố gắng nhìn ra bàn tay hướng dẫn của Thiên Chúa yêu thương trong mọi
việc đã đưa chúng ta đến nơi chúng ta đang có mặt hiện nay.
19.
Biết ơn
Thái
độ vô ơn của chín người Do Thái được chữa lành, phải chăng cũng chính là thái
độ của mỗi người chúng ta?
Rải
rắc trên đường đời, chúng ta đã nhận lãnh biết bao nhiêu ơn lành của Chúa, từ
những ơn làn phần xác, đến những ơn lành phần hồn, thế nhưng chúng ta cho rằng
mình được quyền hưởng dùng những ơn lành ấy và chẳng bao giờ chúng ta nghĩ tới
việc phải cảm tạ Ngài.
Khi
gặp gian nan thử thách, chúng ta khẩn cầu cùng Chúa, chúng ta thú nhận những
sai lỗi, những vấp phạm của mình và chúng ta hứa với Ngài điều nọ điều kia. Thế
nhưng, khi tai qua nạn khỏi, chúng ta dường như không còn nhớ gì nữa và chẳng
bao giờ biết cám ơn Ngài.
Nếu
thái độ vô ơn của chín người Do Thái đã làm cho Chúa Giêsu phải buồn phiền, thì
chắc chắn thái độ vô ơn của chúng ta cũng sẽ chẳng hơn gì. Làm sao chúng ta có
thể kể ra cho hết những ơn lành Chúa đã ban, bởi vì tình thương của Ngài thì
dạt dào như biển khơi, không bờ không bến.
Thân
phận chúng ta chỉ là tro bụi, thế nhưng, Chúa đã dựng nên, đã trao tặng sự sống
phần xác, đã chiếu dõi ánh sáng đức tin phần hồn và đã hứa ban niềm hạnh phúc
vĩnh cửu làm sản nghiệp, vậy mà chúng ta lại không biết cảm tạ Ngài hay sao?
Lòng
biết ơn là một bông hoa tươi xinh của tình bác ái. Trái lại, sự vô ơn chính là
một phép lạ vĩ đại của ma quỉ. Tôi xin đưa ra một thí dụ.
Chẳng
hạn sức khỏe là một điều quí giá mà không một quà tặng trần gian nào có thể
đánh đổi được. Một ông tỷ phú, trong cơn hấp hối, dù có bỏ ra hằng triệu đô la
cũng không thể nào mua về cho mình sự sống, bởi vì đó là một hồng ân của Chúa.
Thế mà biết bao nhiêu lần chúng ta đã hoang phí cho những cuộc nhậu thâu đêm,
cho những canh bài suốt sáng. Đáng lẽ chúng ta phải dùng cuộc sống để làm đẹp
tâm hồn và nâng tâm hồn lên cùng Chúa mà cảm tạ Ngài, thì chúng ta lại sử dụng
nó để làm nô lệ cho những đam mê dục vọng xấu xa, cho những ý đồ đen tối và bất
chính...
Vì
thế, thánh Bernađô đã nói:
-
Sự vô ơn là một bức tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và tạo vật, là một chiếc
đập ngăn chặn nguồn suối với dòng sông.
Bởi
đó, phải biết cảm tạ Chúa vì tâm tình biết ơn cũng chính là một lời kinh tuyệt
vời chúng ta dâng lên Chúa, một cách không so đo, không tính toán.
Với
những người biết ơn, chắc chắn Chúa sẽ ban cho họ những sự cần thiết, mặc dù họ
không kêu xin. Vì biết ơn là một nhân đức đẹp đẽ nhất của người Kitô hữu. Chúng
ta hãy cảm tạ Chúa, không phải chỉ trong những giờ phút may mắn và gặp được
những sự tốt lành. Trái lại, chúng ta còn phải cảm tạ Chúa ngay cả trong những
khi buồn phiền với những tai ương hoạn nạn xảy ra.
Có
một chàng thanh niên, cha mẹ chẳng may bị giết chết trong một cuộc thảm sát.
Tuy buồn, nhưng anh vẫn thầm thĩ kêu lên cùng Chúa:
-
Lạy Chúa, con xin quì gối cảm tạ Chúa vì sự đau khổ con đang phải chịu cũng là
một ơn huệ Chúa ban, để con biết chia sẻ với những khổ đau của Chúa.
Lòng
biết ơn cũng chính là một dấu chỉ để phân biệt người đạo đức thật với kẻ đạo
đức giả. Kẻ đạo đức giả thì trong những hoàn cảnh đen tối thường kêu trách
Chúa. Còn người đạo đức thật, thì luôn khám phá ra bàn tay yêu thương của Chúa
trong mọi tình huống, vì đối với họ: mọi sự đều là hồng ân.
Lời
kinh cảm ta tuyệt vời nhất, theo tôi nghĩ, đó là lời kinh chúng ta thường hát
trong thánh lễ:
-
Chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa.
Hay
như trong kinh tiền tụng, chúng ta vốn thường đọc:
-
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu rỗi
cho chúng con.
Và
sau cùng, ở mọi nơi và trong mọi lúc, hãy sống một cuộc sống đạo đức và thánh
thiện, bác ái và yêu thương, nhờ đó bản thân chúng ta sẽ trở thành những chứng
nhân cho tình thương của Chúa và cuộc đời chúng sẽ trở thanh một hiến lễ tạ ơn
dâng lên Chúa.
20.
Cám ơn
Một
trong những tiếng được kể là đẹp nhất trong kho tàng ngôn ngữ con người, từ
đông sang tây, từ bắc tới nam, tức là khắp mọi nơi. Một tiếng rất ngắn nhưng
đưa đi rất xa, nếu chúng ta biết sử dụng nó một cách trọn vẹn, chân tình. Đó là
tiếng "cám ơn". Nhưng trong thực tế, dường như người ta còn quá dè
dặt và tiết kiệm tỏ lòng biết ơn nhau và cám ơn nhau.
Bài
Tin Mừng Chúa Giêsu lưu ý chúng ta về lỗ hổng trầm trọng ấy. Chúa đã làm phép
lạ chữa lành cho cả mười người phong cùi. Thế là họ ra đi sung sướng, thỏa mãn,
chỉ có một người nghĩ tới việc trở lại cám ơn Chúa. Chúa hỏi người ấy:
"Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia
đâu?" Chỉ là vì họ quên cám ơn. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta quên: cố
tình quên hoặc vô tình quên như thế.
Có
phải chúng ta vẫn thường coi việc người khác làm cho chúng ta hay phục vụ chúng
ta như là những chuyện đương nhiên, những việc họ phải làm? Chẳng hạn khi có
người lưu ý một ông giám đốc hay một ông chủ về sự tận tâm của người thừa hành
hay người giúp việc, thì các vị này đã tỉnh bơ trả lời: "Họ đã được trả
lương để làm việc ấy mà". Người ta trả tiền công và tưởng thế là sòng
phẳng.
Chúng
ta nên suy nghĩ tới đức bác ái Kitô giáo, tới tình người được gói ghém trong tiếng
"cám ơn", dù khi đã trả tiền công. Thực vậy, có biết bao nhiêu chuyện
mà người ta không thể thanh toán được bằng tiền bạc, nhưng bằng một nụ cười,
một thoáng quan tâm, một tiếng cám ơn. Những người bán hoa đã viết một biểu ngữ
trước quầy hàng của họ thế này: "Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những
bông hoa". Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm tình của mình ra nhờ những
cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền "puộc boa", tiền trà nước,
đó là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bày tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập
để biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.
Chúng
ta phải biết cám ơn những người sống chung quanh mình, bắt đầu từ những người
gần gũi nhất, đó là những người trong gia đình. Người ta nói: hạnh phúc của mái
gia đình tùy thuộc một phần không nhỏ vào bổn phận nhớ ơn nhau. Cuộc sống của
chúng ta được dệt thành bởi trăm ngàn điều nhỏ mọn chẳng đáng kể gì, thế mà
hạnh phúc gia đình phần lớn lại lệ thuộc vào những điều chẳng đáng kể gì đó, là
tiếng "cám ơn" bé nhỏ nói cho đúng lúc.
Thực
vậy, hạnh phúc thay gia đình nào có những người con biết nói cám ơn người cha
người mẹ vẫn tận tâm tận lực lo lắng cho chúng và suốt ngày tảo tần mưu ích cho
chúng. Và cũng thật hạnh phúc cho gia đình nào người chồng biết nói cám ơn đối
với người vợ và người vợ biết nói cám ơn đối với người chồng. Tiếng cám ơn
người chồng nói với người vợ đáng giá hơn tất cả mọi thứ vật chất, vì nó chứng
tỏ người chồng lưu ý tới những gì người vợ làm cho mình. Cũng vậy, tiếng cám ơn
người vợ nói với người chồng sẽ động viên cho ông thêm nghị lực, thêm can đảm,
thêm sức mạnh để hăng say với công việc đều đều cực nhọc vất vả hằng ngày.
Sau
hết nhưng trước hết và trên hết, chúng ta phải biết cám ơn Thiên Chúa, vì tất
cả những gì chúng ta đang có, đang sử dụng: về ngôi nhà đang che chở chúng ta,
cái bàn kia, cái giường ấy, chiếc tủ này, những quyển sách đó, cái đèn đang
cháy sáng kia, những người bạn chúng ta gặp tình cờ trong cuộc sống, và hàng
trăm hàng ngàn điều khác đang ở trong tầm tay chúng ta... Chính Thiên Chúa ban
cho chúng ta những điều ấy xuyên qua những nguyên do phụ thuộc. Vì thế, chúng
ta phải luôn dâng lên Thiên Chúa tâm tình cảm tạ tri ân như đối với nguyên nhân
tối hậu, từ đó phát xuất ra mọi điều thiện hảo cho chúng ta.
Có
một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây: Một
đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói:
"Bố ơi, con sẽ đếm xem trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé". Sau đó,
tôi nghe giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4... Rồi tôi chăm chú
vào việc đọc báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi
đọc xong bài báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123,
124, 125...Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi:
"Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế". Nghe con
gái nhận xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với
Chúa: "Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa
đã ban", và càng đếm, trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không
phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường
phải thốt lên như con gái tôi: "Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá
nhiều hồng ân của Chúa đến thế".
Hôm
nay, mỗi người chúng ta hãy nhìn lại thời gian đã qua, nghĩ lại quá khứ cuộc
đời mình và gia đình mình: có phải chúng ta đã lãnh nhận được rất nhiều ơn lành
của Chúa mà rất ít khi chúng ta để ý cám ơn Chúa và tri ân Ngài không? Đó là
một thiếu sót lớn lao đấy. Cuộc đời chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa, từ mọi
người thực là nhiều: từ một đồng bạc đến một sản nghiệp, từ một nụ cười đến một
tình thương, từ một lời chào đến những lời an ủi, khích lệ, trao đổi, gặp gỡ...
tất cả và bất cứ sự gì chúng ta lãnh nhận được đều là những viên gạch xây dựng
đời chúng ta và gia đình chúng ta. Nên chúng ta phải luôn tạ ơn Chúa và cám ơn
mọi người. Tạ ơn Chúa là chúng ta đem các ơn mình đã lãnh nhận được trình bày
với Chúa, để rồi Chúa sẽ ban lại nhiều hơn, như người ta thường nói: "Một
lần cám ơn là hai lần xin ơn".
Xin
Chúa cho chúng ta luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Chúa như thánh Phaolô đã
khuyên bảo giáo dân Côlôsê: "Anh em hãy luôn sống trong tâm tình tạ ơn
Chúa và biết ơn Chúa". Đồng thời, chúng ta cũng phải luôn biết cám ơn mọi
người, vì có thể nói, tất cả những người có liên hệ xa gần với chúng ta, đều là
những ân nhân của chúng ta.
21.
Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
TÌNH
YÊU THIÊN CHÚA ĐƯỢC DIỄN TẢ QUA TRUNG GIAN CON NGƯỜI
Thiên
Chúa là tình yêu. Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa. Ai nói mình yêu
Thiên Chúa mà ghét anh em mình, đó là người nói dối. Tình yêu đối với Thiên
Chúa được diễn tả qua tình yêu con người đối với nhau. Thiên Chúa cũng yêu
thương con người qua những trung gian của Ngài, cụ thể qua những con người sống
chung quanh chúng ta.
Thay
đổi con người, để có thể lãnh nhận hồng ân
Naaman
trước khi xuống tắm bảy lần ở sông Jordan, đã phẫn nộ với tiên tri Êlisa vì ông
tưởng rằng tiên tri sẽ đứng trước ông, giơ tay cầu khẩn cùng Thiên Chúa, và
chữa ông khỏi. Đằng này, tiên tri chỉ sai người nói với Naaman: "đi tắm
bảy lần ở sông Jordan, thì sẽ được sạch". Naaman nghĩ: "Nước sông ở
Đa-mát chẳng sạch hơn nước sông ở Jordan sao?" Và Naaman đã không muốn
xuống tắm.
Naaman
đòi người của Thiên Chúa phải làm theo suy nghĩ và cách thế của mình. Nhưng
Thiên Chúa không muốn thế, và người của Thiên Chúa lại không muốn vậy. Đòi hỏi
để được khỏi bệnh quá đơn giản đến độ Naaman không thể tin được, và không muốn
tin. Nếu Naaman không khiêm tốn bỏ mình để làm theo lời sứ giả của tiên tri,
thì chắc ông chẳng khỏi bệnh. Trong cuộc sống, người ta cũng thường đòi Thiên
Chúa phải làm theo ý người ta, theo điều kiện người ta đặt cho Chúa. Trường hợp
của Naaman cho thấy, nếu người ta không bỏ mình, e rằng người ta khó có thể đón
nhận hồng ân của Thiên Chúa.
Bao
nhiêu yếu tố xảy đến giúp Naaman đón nhận hồng ân: người tớ gái "quá thơ
ngây" suýt gây họa cho cả nhà vua nước mình, những đầy tớ của Naaman
khuyên ông nên vâng lời vị sứ giả của tiên tri, và cả dòng sông nước không được
sạch dưới con mắt của Naaman. Trong cuộc sống của mỗi người, dường như cũng
được đan dệt bằng bao nhiêu lời, bao nhiêu biến cố nhỏ nhỏ, để làm nên mỗi
người như hiện tại. Chúng ta có nhận ra đó là những hồng ân để tạ ơn Thiên Chúa
không?
Đức
Giêsu- tình yêu của Thiên Chúa cho con người
Người
phong cùi, theo luật Do Thái, không được tiếp xúc với người lành. Chính vì vậy,
họ đứng đàng xa và kêu xin Đức Giêsu thương xót, chữa lành họ. Họ đáng thương,
không chỉ vì con bệnh hành hạ làm họ đau đớn thể xác, nhưng họ còn đau khổ hơn
khi phải tách biệt với xã hội con người, với những người thân yêu: cha mẹ, vợ
chồng, con cái của họ. Đức Giêsu giúp con người giao hoà với Thiên Chúa và giao
hoà với nhau.
Đức
Giêsu nói với những người phong cùi: "đi trình diện với các tư tế".
Luật Do Thái dạy những người phong cùi thấy mình khỏi bệnh, phải đi trình diện
thầy tư tế, để được xác nhận là đã khỏi bệnh. Đang khi họ đi, họ được khỏi.
Niềm tin phó thác biểu lộ qua thái độ vâng lời Đức Giêsu, làm những người phong
cùi được khỏi bệnh. Thiên Chúa đòi con người tin tưởng và phó thác tất cả nơi
Ngài. Tin tưởng phó thác tất cả nơi Thiên Chúa, đó là dấu chỉ của những người
được thương và được cứu độ.
Chỉ
có mỗi người ngoại trở lại để tạ ơn Thiên Chúa. "Chín người kia đâu? Không
phải cả mười người được khỏi sao?" Chín người kia chắc chắn được khỏi bệnh
phong cùi, còn người ngoại này không chỉ được khỏi bệnh thân xác, nhưng còn
được nhiều ơn thiêng liêng khác nữa. Nhận ra hồng ân Thiên Chúa trong đời mình,
là một dấu chỉ của người đang sống hạnh phúc.
Thiên
Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín
"Nếu
chúng ta cùng chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài". Đi theo
Đức Giêsu, đòi chúng ta phải bỏ mình, bỏ những ham muốn của thế gian và xác
thịt. Không chiều theo những ham muốn của xác thịt và thế gian, là một cách
chết cho thế gian, cùng chết với Đức Kitô. Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành
tín: nếu chúng ta chết cho thế gian cùng với Đức Kitô, chúng ta sẽ được cùng
sống lại với Ngài.
"Nếu
chúng ta chối Ngài, Ngài cũng chối chúng ta". Sở dĩ vậy, vì nếu chúng ta
cứng lòng và cố tình chối Ngài, đứng đối nghịch với Ngài. Ngài không thể làm
khác được. Thiên đàng không thể có đối với người không muốn "lên thiên
đàng". Về phía Thiên Chúa, Ngài luôn luôn yêu thương con người, Ngài muốn
con người ở trong tình yêu của Ngài, Ngài muốn họ "lên thiên đàng"
nhưng Ngài không buộc họ phải lên thiên đàng. Nếu một người cố tình thù nghịch
Ngài, Ngài phải chịu vì Ngài đã cho con người tự do.
"Nếu
chúng ta bất trung, thì Ngài vẫn trung thành". Nếu vì yếu đuối, chúng ta
bất trung, thì Thiên Chúa vẫn thành tín, Ngài chờ đợi chúng ta trở lại với
Ngài. Tình yêu Thiên Chúa đối với con người được cụ thể qua bí tích hoà giải,
mỗi khi con người trở lại với Thiên Chúa, đều được lãnh ơn hoà giải với Ngài
qua trung gian thừa tác viên của Giáo Hội. Hơn nữa, hối hận hay muốn trở lại,
đã là hồng ân của Thiên Chúa cho tội nhân rồi.
Câu
hỏi gợi ý chia sẻ:
1.
Xin bạn cho một vài thí dụ cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người qua các
trung gian!
2.
Đức Giêsu có là diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người không? Xin
bạn chia sẻ quan điểm lập trường của bạn.
3.
Với kinh nghiệm bản thân, thay đổi bản thân nên có thể đón nhận hồng ân, hay,
đón nhận hồng ân nên thay đổi chính mình? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm!
22.
Suy niệm của JKN
Câu
hỏi gợi ý:
1.
Có thể tín nhiệm vào lương tâm của những người thường tỏ ra vô ơn với những ân
nhân của mình không? Tại sao?
2.
Người Kitô hữu có nhiều tâm tình biết ơn hơn những người khác không? Nếu không
thì bạn nghĩ thế nào?
3.
Trong đời sống Kitô hữu, chúng ta cần phải biết ơn những ai? Và phải làm những
gì để tỏ lòng biết ơn đối với những người ấy?
Suy
tư gợi ý:
1.
Làm ơn đừng nên nhớ, chịu ơn chớ nên quên
Bài
đọc I đưa ra cho ta một hình ảnh rất đẹp. Tướng của Sy-ri là Na-a-man bầy tỏ
lòng biết ơn của mình đối với ngôn sứ Ê-li-sa một cách cụ thể bằng lễ vật mà
ông tha thiết xin ngôn sứ nhận cho. Còn ngôn sứ Ê-li-sa thì cương quyết từ
chối, mặc dù lễ vật ấy chắc chắn sẽ giúp ngài sống đỡ thiếu thốn, và nhất là –
theo cách suy nghĩ bình thường của người đời – có thể tạo cho ngài nhiều phương
tiện hơn để thi hành sứ mạng của mình.
Cả
hai thái độ tốt đẹp trên có thể làm chúng ta suy nghĩ và xét lại thái độ của
chúng ta khi hàm ơn ai hoặc làm ơn cho ai. Thông thường người ta có tâm lý hay
quên hoặc không nhận ra những điều tốt người khác làm cho mình, nhưng lại dễ
nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho người khác. Không những thế, mình còn
mong họ nhớ ơn và trả ơn mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì ta buồn phiền, oán
trách, thậm chí sẵn sàng lên tiếng chê bai.
Đức
Giêsu cũng như các bậc cổ nhân xưa dạy ta thái độ nhớ và biết ơn đối với những
người hy sinh cho ta, những người làm những điều tốt lành cho ta. Không phải
chỉ nhớ và biết ơn, mà còn phải đền đáp lại ơn đó khi nào có thể. Nhưng đối với
những người mà ta làm ơn cho, thì trái lại, không nên nhớ, cũng không nên đòi
hỏi họ phải biết ơn hay trả ơn ta. Trang Tử, một triết gia Trung Hoa, khuyên ta
nên "vô kỷ, vô công, vô danh" trong các việc làm của ta, nghĩa là
không làm vì mình, làm rồi không cậy công, cũng không mong được khen ngợi, biết
ơn.
2.
Suy nghĩ về lòng biết ơn
Một
trong những nguyên nhân hay động lực quan trọng của tình yêu thương là lòng
biết ơn. Không phải tình yêu thương nào cũng phát xuất và đặt nền móng trên
lòng biết ơn: Thiên Chúa hay cha mẹ yêu thương ta không phải vì mang ơn ta.
Nhưng rõ ràng là tình thương của ta đối với Thiên Chúa, cha mẹ và nhiều ân nhân
khác phát sinh và đặt nền tảng trên lòng biết ơn. Thiên Chúa và cha mẹ yêu
thương ta trước, sinh thành tạo dựng, nuôi dưỡng giáo dục ta. Tình thương đó,
công ơn đó làm nẩy sinh nơi ta lòng biết ơn, khiến ta đáp lại tình thương đó
bằng chính tình yêu thương của ta đối với các Ngài. Lòng biết ơn đối với Thiên
Chúa và cha mẹ lại là tiêu chuẩn nền tảng để đánh giá mọi thứ biết ơn khác. Một
người vô ơn đối với Thiên Chúa và cha mẹ, thì khó mà biết ơn thật sự đối với
người khác.
Khi
làm ơn cho ai, giúp ai việc gì, mà về sau người đó vô ơn, tự nhiên ta cảm thầy
buồn, có khi đau khổ. Khuynh hướng tự nhiên của mọi người là mong muốn hoặc đòi
hỏi người thụ ơn mình phải biết ơn (mặc dù khi làm ơn cho ai, tính cao thượng
đòi hỏi ta vượt khỏi khuynh hướng tự nhiên ấy). Do đó, lòng biết ơn là một đức
tính rất cần thiết trong giao tế xã hội, trong tư cách một con người. Trong xã
hội, tiếng "cám ơn" luôn luôn nở trên môi những con người có giáo
dục, lịch thiệp, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng cám ơn xuất phát từ đáy lòng luôn
luôn làm vui lòng những người tốt bụng, khuyến khích họ tiếp tục thi ân làm
phúc. Trong đời sống tâm linh, tinh thần hay tôn giáo, lòng biết ơn đối với
Thiên Chúa và các ân nhân cần phải được biểu lộ trong các kinh nguyện, lễ nghi,
trong tâm tình và cử chỉ của các tín hữu.
Trong
bài Tin Mừng hôm nay, ta thấy 10 người được Đức Giêsu chữa lành, nhưng chỉ có
một người trở lại cám ơn Ngài. Và mỉa mai thay, người biết ơn đó lại là một
người ngoại giáo! Điều này làm ta phải tự hỏi: người Kitô hữu có nhiều tâm tình
biết ơn hơn các tín đồ tôn giáo khác không? Nếu ta không tốt bằng họ hoặc không
hơn họ, thì việc ta nỗ lực truyền giáo cho họ quả thật có phần nào nực cười! Việc
Đức Giêsu – với tư cách là thầy dạy về tâm linh – đã trách móc 9 người vô ơn
kia không biết tạ ơn Thiên Chúa cho thấy: rõ ràng là lòng biết ơn không thể nào
thiếu được trong đời sống tu đức, đời sống hướng về sự toàn thiện. Không những
thế, nó có thể là căn bản cho một lương tâm đứng đắn. Một người vô ơn, thường
xuyên vô ơn, khó có thể có một lương tâm tế nhị và đúng đắn. Nhưng mỉa mai
thay, biết bao người mang danh theo Chúa lại tỏ ra vô ơn với những người làm ơn
cho mình nhiều hơn người thường!
3.
Biết ơn ai? – Bốn trọng ân trong đời sống con người
Trong
Phật giáo, có bốn trọng ân mà người Phật tử thường được các sư tăng nhắc nhở,
nhất là vào dịp lễ Vu Lan (rằm tháng 7 âm lịch): ơn cha mẹ, ơn tam bảo (Phật,
Pháp, Tăng), ơn tổ quốc xã hội, và ơn thầy bạn. Chúng ta thử khai triển bốn
trọng ân ấy trong chiều hướng Kitô giáo.
•
Ơn cha mẹ: Cha mẹ trước tiên của chúng ta là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã
tạo dựng và sinh thành chúng ta, cho ta sự sống siêu nhiên lẫn tự nhiên, đồng
thời ban cho ta đủ mọi ơn để duy trì và phát triển sự sống ấy. Kế đến là cha mẹ
ruột thịt của ta, là người sinh ra ta, nuôi dưỡng giáo dục ta nên người. Công
ơn của cha mẹ ta to lớn biết bao! Ca dao có câu: "Công cha như núi Thái
Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra". Người trần gian mà ta phải
biết ơn nhất là cha mẹ.
•
Ơn tam bảo: là công ơn của những người đã đem lại cho ta đời sống tâm linh, làm
cho đời sống tâm linh ta phát triển và trở nên phong phú.
–
Người đầu tiên mà ta phải nói tới là Đức Giêsu, Đấng chủ chốt đem lại đời sống
tâm linh cũng là vị Thầy lớn nhất về đời sống này cho mọi người Kitô hữu. Ngài
cũng là Đấng cứu chuộc để ta có lại đời sống thần linh, siêu nhiên của Thiên
Chúa đã bị mất từ thời nguyên tổ, trước khi ta sinh ra. Bên cạnh Đức Giêsu có
Mẹ của Ngài là Đức Maria. Theo niềm tin của người Công giáo, tất cả mọi ơn
Thiên Chúa ban, đều nhờ Mẹ và qua tay Mẹ.
–
Kế đến là Lời Chúa, hay Kinh Thánh và Tin Mừng, là phương tiện hữu hiệu nhất
Thiên Chúa dùng để soi sáng cho ta đi đúng đường, hầu phát triển đời sống thần
linh và tâm linh của ta. Ta cần phải biết ơn bằng cách năng đem ra suy gẫm để
thực hành những gì Lời Chúa chỉ dạy.
–
Giáo Hội các cấp (toàn cầu, địa phương, giáo xứ, cộng đoàn cơ bản), là yếu tố
nhân sự để tiếp nối công trình của Đức Giêsu, đồng thời là môi trường đào tạo
và nuôi dưỡng đời sống tâm linh của ta. Nói một cách cụ thể hơn đó là các tông
đồ, các vị chủ chăn các cấp mà gần nhất là cha xứ, những người dạy dỗ ta về mặt
tâm linh (các nhà thần học, tu đức, các giáo lý viên, các huynh trưởng hội đoàn,
v.v...)
Đó
là Tam Bảo của Kitô giáo, là các đại ân nhân của chúng ta, mà chúng ta phải
luôn luôn yêu mến và tỏ lòng biết ơn.
•
Ơn tổ quốc và xã hội: Chúng ta không chỉ sống trong gia đình và Giáo Hội, mà
còn sống trong lòng quốc gia dân tộc nữa. Quốc gia xã hội đã tạo cho chúng ta
những điều kiện dễ dàng để có một đời sống ấm no, yên vui, hạnh phúc, một cách
bao trùm, tổng quát, vượt khỏi khả năng hạn hẹp của cha mẹ, gia đình ta. Chúng
ta được sống trong an vui, là do công sức của biết bao người đã từng hy sinh
xương máu để bảo vệ tổ quốc, đã vắt óc ra để đưa ra những chính sách sáng suốt
hầu phát triển xã hội về kinh tế, văn hóa, v.v... làm cho đời sống của ta tươi
đẹp. Để thấy được công lao của quốc gia xã hội, ta thử tưởng tượng nếu mình
sống một mình trong rừng, ta sẽ thấy thiếu thốn và không được bảo vệ như thế
nào!
•
Ơn thầy bạn: Trong đời sống của ta, ta còn biết bao người phải mang ơn, trước
hết là những vị thầy đem lại cho ta đời sống tri thức, những người giáo dục ta
nên người. Sau là những bà con thân thuộc, bạn bè, những người quen biết...
Biết bao người đã vô tình hoặc cố ý làm ơn cho ta trong tất cả mọi lãnh vực mà
ta có thể biết hoặc không biết. Chúng ta có bổn phận phải biết ơn và tìm cách
trả ơn những người ấy.
Cầu
nguyện
Lạy
Cha, xin cho con ý thức được rằng lòng biết ơn chính là thước đo của tình yêu
đối với Thiên Chúa, nhân loại, Giáo Hội, xã hội, và tha nhân, và cũng là tiêu
chuẩn đánh giá lương tâm và tư cách một con người. Xin giúp con ý thức được
những hồng ân mà Chúa ban cho con từng giây từng phút, để con nhận ra được hạnh
phúc Chúa ban hầu cảm tạ Chúa. Xin cho con luôn nhạy bén nhận ra tình thương,
sự hy sinh, những ơn huệ, những cử chỉ yêu thương của những người chung quanh
đối với con, để con cảm thấy hạnh phúc vì được yêu thương, đồng thời biết đáp
trả bằng chính tình yêu chân thành và sự hy sinh của con. Xin cho con biết luôn
cầu nguyện và mong ước những sự tốt lành cho các ân nhân của con. Amen.
23.
Gặp gỡ để bày tỏ lòng biết ơn
(Suy
niệm của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.-
Ngữ cảnh
Với
giai thoại Đức Giêsu chữa mười người phong này (17,11-19), tác giả bắt đầu phần
thứ ba (17,11–18,14) của bài tường thuật hành trình lên Giêrusalem: tại c. 11a,
độc giả gặp lời nhắc về hành trình này lần thứ ba (hai lần trước: 9,51; 13,22).
Cho dù c. 11b tạo ra một điểm khó giải thích ("thập giá của các nhà chú
giải") do có những lời quy chiếu về Samari và Galilê, độc giả vẫn không
quên rằng mối bận tâm thần học của Lc là đưa Đức Giêsu về thành định mệnh, để
tại đó công cuộc cứu độ loài người được vĩnh viễn hoàn tất.
Đây
là giai thoại chỉ có trong Tin Mừng Luca.
2.-
Bố cục
Bản
văn có thể chia thành bốn phần:
1)
Địa điểm (17,11);
2)
Đức Giêsu chữa lành mười người phong (17,12-14);
3)
Người Samari trở lại cám ơn Đức Giêsu (17,15-18);
4)
Liên hệ giữa đức tin và cứu độ (17,19).
3.-
Vài điểm chú giải
-
Đức Giêsu đi qua giữa hai miền Samari và Galilê (11): "Đi qua giữa (dia
meson) hai miền Samari và Galilê" có thể có nghĩa là đi trong giải đất làm
thành biên giới giữa hai miền. Nếu thế, hẳn là Đức Giêsu đi theo con đường này
để đến thung lũng Giođan phía Sythopoli và từ đó đi xuống tới Giêrikhô (18,35),
rồi từ đó Người sẽ đi lên Giêrusalem. Từ ngữ meson (mesos, "giữa")
được dùng ở đối-cách, thay vì thuộc-cách (Đối-cách: accusative; thuộc-cách:
genitive) và không có mạo từ dường như hỗ trợ cho cách giải thích này. Cả về
mặt địa lý, cách giải thích này cũng chắc chắn hơn, bởi vì nếu Đức Giêsu đi về
Giêrusalem, thì Người đi từ bắc xuống nam; nhưng nếu Người "đi qua Samari
và Galilê" (theo một cách dịch), thì dường như Người đi từ nam lên bắc!
Phải chăng chi tiết địa lý này có một ý nghĩa thần học? Trong trường hợp này,
chắc là Lc viết "đi qua Samari và Galilê", mà mắt nhìn lui về phía
sau để ngó lại đoạn đường đã đi qua. Con đường và hoạt động của Đức Giêsu luôn
luôn được hướng dẫn bởi Giêrusalem, nên bây giờ Người như đứng tại Giêrusalem
mà nhìn ngược lại. Ta chỉ có thể hiểu được lộ trình, cuộc tiến bước và tất cả
hoạt động của Người nếu khởi đi từ Giêrusalem, nơi số phận bi thương đang chờ
Người. Phần tường thuật cuộc hành trình đã bắt đầu với một sự cố nhắc đến
Samari, nay Samari cũng bắt đầu chặng cuối của cuộc hành trình. Như thế, Samari
là cái cầu chuyển Lời Chúa từ Galilê đến Giêrusalem, rồi từ Giêrusalem đến với
Dân ngoại. Sau khi sống lại, Đức Giêsu sẽ giao cho các môn đệ sứ mạng này:
"Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê và
miền Samari và cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8). Như thế, con đường Đức
Giêsu theo hôm nay phác ra trước con đường Giáo Hội sẽ theo sau này: con đường
của Giáo Hội là hoa trái của con đường Đức Giêsu.
Chúng
ta ghi nhận rằng về phương diện ngữ học, cách giải thích thứ hai có thể chấp
nhận được: cách dùng dia trong thể thơ với từ ngữ chỉ nơi chốn ở đối-cách, dù
chỉ có ở đây trong Tân Ước, ta thấy có trong hy-ngữ sau này.
Cũng
khó có thể chọn lựa dứt khoát cách giải thích nào. Theo N. Guillemette, nếu Lc
đã muốn nói "ở biên giới của Samari và Galilê" như BJ ("aux
confins de la Samarie et de la Galilée") hoặc "dọc theo biên giới
Samari và Galilê", hẳn ông đã nói. Về phương diện này, dường như cách dịch
của TOB ("Người đi băng qua Samari và Galilê", "il passa à
travers la Samarie et la Galilée") tự nhiên hơn. Mặc dù cách giải thích
thứ hai có thể khiến ta có ấn tượng là hơi ép về mặt thần học, nó lại hài hòa
với các bận tâm thần học và địa lý của tác giả Luca. Vì thế, trong khi chờ đợi
những khám phá mới, Guillemette nghiêng về cách giải thích này.
-
mười người mắc bệnh phong (12): Rất có thể con số "mười" chỉ có nghĩa
là một con số tròn.
-
Hãy đi trình diện các tư tế (14): Đức Giêsu không chữa lành họ, mà bảo họ cứ đi
gặp các tư tế trong tình trạng bệnh tật. Người gợi đến quy tắc Lv 13,49. Các
"tư tế" đây có lẽ nói chung là giới chức phục vụ thánh điện, chứ
không nhất thiết là tư tế Do-thái đang làm việc tại Đền Thờ Giêrusalem hoặc tư
tế Samari đang phục vụ tại Núi Garidim.
-
Anh sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn (16): Hành vi phủ phục cho hiểu là
anh ta nhìn nhận Đức Giêsu là người của Thiên Chúa.
4.-
Ý nghĩa của bản văn
*
Địa điểm (11)
Vị
trí địa lý cũng như ngôi làng đều không được xác định. Điều quan trọng là Đức
Giêsu đang tiến về Giêrusalem; trên đường, Người đi qua cả Samari, là khối dân
bị coi là bội giáo, và Người đã có những khám phá độc đáo.
*
Đức Giêsu chữa lành mười người phong (12-14)
Vào
thời Đức Giêsu, có câu tục ngữ nói rằng: "Có bốn hạng người có thể được
coi như người chết, dù vẫn sống, đó là những người nghèo, người phong cùi,
người mù và người không có con". Mọi chứng bệnh đều bị coi như hình phạt
của Thiên Chúa để trừng phạt tội lỗi, nhưng bệnh phong cùi được coi như là
chính biểu tượng của tội. Người Do-thái nghĩ rằng Thiên Chúa dùng bênh phong
cùi để trừng phạt kẻ ghen tị, kiêu căng, quân trộm cướp, giết người, thề gian
và loạn luân.
Hôm
nay Đức Giêsu gặp mười người phong. Đôi khi số phận cướp mất sự tự do hành động
của con người, buộc con người phải sống một kiểu sống rất giới hạn. Ai mắc bệnh
phong là rơi vào tình trạng đó. Người ấy bị dứt khoát loại khỏi gia đình và
làng quê và phải sống bên lề cộng đồng nhân loại. Người ấy chỉ được sống chung
với những người cũng mắc chứng bệnh đó. Vì sợ bị lây nhiễm, xã hội bắt họ phải
la to hoặc rung chuông mà báo cho biết là họ đang đến; họ sống nhờ xin bố thí,
nhưng luôn phải ở cách những vùng dân cư; họ được vào một làng, nhưng không
được vào một thành có tường lũy bao quanh. Như thế, vì chứng bệnh này, họ phải
sống một kiếp sống thê thảm bên lề xã hội. "Mười" có thể có nghĩa là
"toàn vẹn". Như thế, "mười người phong" tượng trưng cho
tình trạng tội lỗi, là biểu tượng của tội, của tình trạng bần khốn của con
người, của tình trạng xa lìa Thiên Chúa và người thân cận. Đức Giêsu đã gặp
mười người đúng với hoàn cảnh của họ: họ đứng đàng xa và kêu lớn tiếng xin Đức
Giêsu giúp đỡ. Đáng ghi nhận là nhóm này gồm cả người Do-thái lẫn người Samari.
Hẳn là bệnh tật và sự bần khốn đã giúp xóa đi những tị hiềm giữa Do-thái và
Samari (x. Lc 9,53; Ga 4,4-9). Sự bất hạnh đã đưa họ lại với nhau và làm cho họ
thành bạn bè. Mười người phong cùi này không tách riêng nhau ra mà xin giúp đỡ
từng người một; họ cùng đi với nhau mà gặp Đức Giêsu. Lời cầu xin của họ là lời
thỉnh cầu của cộng đoàn: "Lạy thầy Giêsu, xin rủ lòng thương chúng
tôi!" (c. 13).
Trong
trường hợp bà goá Nain (7,11-17) và người phụ nữ còng lưng (13,10-17), Đức
Giêsu đã lấy sáng kiến, đến gần và thương xót cứu giúp các bà. Trong trường hợp
những người phong này, Người lại để cho họ có sáng kiến, họ cầu khẩn Người.
Người cũng chẳng đến gần họ, mà lại bảo họ đi xa Người, như thể Người muốn
tránh né họ. Người phái họ đến gặp các tư tế mà bề ngoài chưa hề làm gì để chữa
họ cả. Theo quy định của Cựu Ước (Lv 13–14), các tư tế có thẩm quyền tuyên bố
về các chứng bệnh này. Các vị phải xác nhận rằng một người phong đã thật sự
khỏi bệnh. Nhờ phán quyết này mà một người đã hết bệnh được tái nhập xã hội.
Mười người phong này cần được chữa lành đã, thì việc họ đi trình diện các tư tế
mới có ý nghĩa. Đức Giêsu lại bảo họ cứ việc đi, vì Người đòi hỏi họ có lòng
tin để hiểu rằng việc ra đi do Người truyền lệnh có một ý nghĩa và đưa đến một
cùng đích. Trong khi đi đường, họ đã được khỏi bệnh.
*
Người Samari trở lại cám ơn Đức Giêsu (15-18)
Cho
tới lúc này, mười người phong được giới thiệu như một nhóm. Tất cả đều sống như
nhau; tất cả đều sống một biến cố như nhau. Bây giờ có một người tách khỏi nhóm
và quay lại với Đức Giêsu. Tại sao chỉ có một người trở lại bày tỏ lòng biết
ơn? Tại sao Đức Giêsu than thở về chín người kia khi chính Người đã truyền họ
đi và trình diện trước tiên với các tư tế? Phải chăng người Samari đã không
vâng lời Người? Có lẽ những người khác cũng sẽ trở lại cám ơn Đức Giêsu, nhưng
lúc này họ vội vã đến gặp các tư tế vì họ muốn được tuyên bố là sạch bệnh càng
sớm càng tốt và thế là bỏ được số phận bi đát. Họ mong muốn được trở vào cộng
đồng nhân loại càng sớm càng tốt, như là những thành viên có đầy đủ quyền lợi
và nghĩa vụ. Họ nhìn tới tương lai, chứ không nhìn lui về Đấng đã kéo họ thoát
khỏi số phận bi thương. Chỉ có một người duy nhất đã "quay trở lại và lớn
tiếng tôn vinh Thiên Chúa". Chỉ có người Samari này đã nhận ra được Đức
Giêsu là ai và muốn nhìn nhận tư cách đặc biệt của Đức Giêsu như là trung gian
của Thiên Chúa. Chín người kia làm các công việc theo cách quy ước và đi theo
những cách hành đạo truyền thống, họ không nhận thấy là một trật tự mới đã được
thiết lập. Điều này đã xảy ra cho dân Israel. Những kẻ laic đạo, những người
ngoại giáo là những người đầu tiên nhận ra rằng Đức Giêsu là Đấng trung gian
đưa ơn cứu độ của Thiên Chúa đến cho trần gian.
*
Liên hệ giữa đức tin và cứu độ (19)
Người
Samari này ca ngợi Thiên Chúa và cám ơn Đức Giêsu. Anh coi điều Đức Giêsu đã
làm cho anh là một ân huệ của Thiên Chúa. Tất cả mười người đều đã được lành.
Nhưng chỉ đối với anh Samari này, cuộc chữa lành không những là dịp khôi phục
sức khoẻ và đời sống chung với loài người, mà còn trở thành dịp gặp gỡ Thiên Chúa
và Đức Giêsu. Chứng nan y đã đưa anh đến một tiếp xúc đầu tiên với Đức Giêsu,
một cuộc gặp gỡ từ đàng xa. Sau khi được chữa lành, anh không chạy xa Đức
Giêsu, nhưng đã trở lại với Người mà ca ngợi Thiên Chúa. Với lần thứ hai này,
anh có thể gặp Người gần kề hơn, như Đấng đã tỏ lòng thương xót anh. Không
những trong tư cách là người đã chữa bệnh phong, mà còn trong tư cách là người
có ơn ban thường trực là kinh nghiệm này, Đức Giêsu chỉ cho anh lộ trình sau
này. Tất cả giai thoại kết thúc bằng câu nói: "Đứng dậy về đi! Lòng tin
của anh đã cứu chữa anh".
Đức
Giêsu không nói: "Tôi cứu chữa anh", mà lại nói: "Lòng tin của
anh đã cứu chữa anh". Anh đã nhận biết hoạt động của Đức Giêsu là Đức
Chúa, anh đã đón nhận, nay anh dâng trả lại cho Người. Những người khác nhận
được sự chữa lành như là một món nợ được trả, họ giữ ân huệ của Thiên Chúa lại
cho mình. Chỉ có anh Samari này "quay trở lại", "hoán cải"
và nhận biết rằng anh ta mắc món nợ phải trả. Vì thế, chỉ có anh này mới thật
sự "được cứu".
Bằng
việc quay trở lại với Đức Giêsu, người Samari cho chúng ta thấy rằng anh đã
hiểu tại sao lúc đầu anh lại được sai đến với các tư tế. Anh phải nói cho họ
biết tin này: Thiên Chúa đã sai đến Đấng từng được các ngôn sứ loan báo, Đấng
làm cho người mù được thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ què được đi, người chết trỗi
dậy và người cùi được lành (x. Lc 7,22). Anh làm chứng rằng Thiên Chúa ở gần
mọi người, kể cả người phong cùi. Từ nay sẽ không còn chia cách giữa người khỏe
mạnh và người phong cùi, giữa người công chính và lẻ tội lỗi.
+
Kết luận
Đức
Giêsu đã chiếu cố đến cả mười ngươi phong cùi, dù họ là người Do-thái hay là
người Samari. Tuy nhiên cách Người chữa lành đòi hỏi sự cộng tác nghiêm túc của
con người. Trước tiên, các bệnh nhân phải đi trình diện với các tư tế, y như thể
họ đã lành: họ phải chứng tỏ đức tin bằng cách vâng lời Người mà đi đến với các
vị lãnh đạo có quyền cho họ được tái tháp nhập vào trong cộng đồng. Sau đó,
điều mà Đức Giêsu chờ đợi chứ không truyền lệnh: họ phải chứng tỏ đức tin vào
Người bằng cách nói lên tâm tình biết ơn. Chỉ có một người bị coi là bội giáo,
coi như kẻ ngoại, là người Samari, đã quay trở lại mà cám ơn, tức là nhìn nhận
rằng điều tốt lành mình có được là do một Đấng khác. Chỉ khi thực hiện được cả
hai điều này, vâng lời và cám ơn Thiên Chúa, người ta mới thực sự được lành
mạnh trọn vẹn. Đức tin phát sinh từ việc nhận biết ân huệ Thiên Chúa ban và
được diễn tả ra bằng một tiếng "cám ơn" không ngừng. Khi nhìn nhận
người Samari đã được đức tin chữa lành, Đức Giêsu đã công nhận chỉ có anh này
mới được chữa lành hoàn toàn.
5.-
Gợi ý suy niệm
1.
Mười người phong cùi được lành bệnh đang khi họ đi đường với nhau. Tân Ước vẫn
so sánh đời sống Kitô hữu như một hành trình dài, mệt nhọc. Sự lành mạnh thiêng
liêng của chúng ta không xả ra tức khắc. Nếu chúng ta đã sống nhiều năm như một
người "phong cùi", chúng ta sẽ không được chữa lành đột ngột. Chúng
ta phải đi với nhau, và trên đường đi, chúng ta sẽ nhận ra rằng tất cả chúng ta
đã được chữa lành.
2.
Nghĩ về thân phận người phong, chúng ta phải đặt ra cho mình câu hỏi: Ai là
những người đang sống một cuộc sống bên lề cộng đồng chúng ta? Họ đang phải
sống kiểu sống nào? Hôm nay, có những dạng bệnh và tật mới, hoặc một sự sa cơ
thất thế, cũng khiến người ta có thể bị đẩy ra bên lề xã hội. Phải chăng chúng
ta coi đó là chuyện đương nhiên, dễ hiểu?
3.
Thông thường khi nhận được một sự trợ giúp, người ta mau quên người đã giúp đỡ
mình. Người ta say sưa với viễn tượng tương lai đang mở ra. Đối với Thiên Chúa,
có khi ta còn đối xử tệ hơn. Bởi vì Người thường xuyên ban cho chúng ta qua
nhiều ơn lành, chúng ta chẳng nghĩ rằng mọi điều ta có đều là do Thiên Chúa xót
thương ban tặng. Chúng ta cứ lao tới trước, bỏ lại đàng sau chúng ta Đấng liên
tục ban ơn để chúng ta có thể lao tới phía trước.
4.
Khi chúng ta nhận được một điều tốt lành, chúng ta nên đặt ra cho mình câu hỏi:
Điều gì đáng giá hơn đối với chúng ta, ân huệ hay là người ban ơn? Cần phải đặc
biệt đặt ra câu hỏi này cho mọi ơn lành nhận được từ Thiên Chúa. Nếu chúng ta
chỉ chú ý đến ân huệ (quà tặng), nghĩa là đến các của cải vật chất, đến sức
khoẻ, v.v., thì trái tim của chúng ta còn giới hạn, còn ích kỷ. Nếu đi từ quà
tặng, chúng ta chú ý đến tình yêu và lòng nhân ái của ân nhân, thì kinh nghiệm
về ân huệ trở thành gặp gỡ mới mẻ và riêng tư với người ban ơn. Ân ban có thể
là một sự trợ giúp lớn lao. Nhưng điều làm cho chúng ta sung sướng hơn nữa là
có thể nhận biết sự tốt lành của Đấng ban và có thể cám ơn Ngài về điều đó.
Không phải là Thiên Chúa nhận được gì từ lời cám ơn của chúng ta. Nhưng chúng ta
sẽ nên nghèo nàn hơn nếu không cám ơn Ngài. Nếu chúng ta chỉ ích kỷ nhìn vào
tặng phẩm, chúng ta đang mất khả năng thấy, trải nghiệm và nhận biết tình yêu
của Đấng ban ơn.
5.
Cám ơn Thiên Chúa là dâng trả ân huệ về cho Ngài, là nhìn nhận Ngài là nguồn
mạch tuôn trào ra ân huệ chúng ta đã lãnh nhận. Cám ơn là đi vào luồng tương
giao tình yêu phát xuất từ Thiên Chúa đến với chúng ta và trở lại với Ngài.
Người vô ơn là người chặn đứng luồng tương giao này lại, không cho nó trở về
với nguồn mạch, và sẽ làm cạn khô tương giao đang có. Công trình cứu độ của Đức
Giêsu chỉ thực sự sinh hiệu quả nếu chính chúng ta cởi mở để cho mọi sự quay
trở lại với Người.
24.
Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
TRONG
MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI ĐƯỢC CHỮA LÀNH, CHỈ MỘT NGƯỜI SAMARI BIẾT ƠN
Lần
thứ ba, một điệp khúc về cuộc hành trình lên Giêrusalem làm giai đoạn trình
thuật (c.11). Thay vì tiếp tục con đường xuống phiá Nam, dường như Chúa Giêsu
rẽ qua hướng Đông, giữa Galilê và Samari, để đến thung lũng sông Giođan. Ghi
chú này làm cho dễ chấp nhận việc có mặt của một người Samari trong nhóm người
Do Thái bị phong cùi.
Trình
thuật về việc chữa lành (cc. 12-14) rất ngắn và giống với 5,12-16, trong đó lần
đầu tiên Chúa Giêsu đối diện với một trong những kẻ tiện dân bị loại khỏi cộng
đoàn. Chắc hẳn ở đây họ không phục lạy nhưng họ chào kính Chúa Giêsu như một vị
Thầy –như các môn đệ gọi Ngài. Họ kêu xin Ngài, mà không xin rõ được chữa lành
(so sánh với 5,12) cũng không xin của bố thí. Chúa Giêsu báo họ đi đến các tư
tế, là những người đúng theo luật lệ của Lv 14,1tt, có nhiệm vụ nhận xét về
việc lành bệnh. Tuy nhiên, Chúa Giêsu không làm một cử chỉ gì để chữa bệnh và
như thế việc lành không xảy ra ngay tức khắc (so sánh với 5,13).
Khi
nghe lời Chúa Giêsu chỉ dạy, mười người này chứng tỏ có lòng tin tưởng, một
niềm tin trái ngược với niềm tin của đại tướng Naaman người Syri (x.4,27),
thoạt tiên ông này từ chối làm theo lời báo của của ngôn sứ Êlisê (2V 5,10-12).
Như vậy, việc chữa lành xảy ra từ xa.
Cho
tới đây, trình thuật đề cao quyền lực lớn lao của lời Chúa Giêsu và, do đó,
chuẩn bị cho câu giải đáp mà Ngài sắp nói với các người Pharisêu (17,21). Nhưng
cao điểm của lời giải đáp này nằm ở những gì xảy ra sau khi chữa lành và sẽ
minh hoạ khoảng cách giữa việc chữa bệnh và ơn cứu độ. Trong các câu 15-19, một
trong các người phung cùi được chữa lành quay trở lại ngay cả trước khi vâng
lệnh Chúa Giêsu và Lề Luật: vừa tôn vinh Thiên Chúa, anh vừa sấp mình –điều đã
bị bỏ ở các câu 12-13, và nhất là tạ ơn Chúa Giêsu. Và điều đáng ngạc nhiên là
chỉ tới đây, một khi thái độ của anh gây ấn tượng tốt cho ta, ta mới biết anh
thuộc về chủng tộc nào: đó là một người Samari. Sự tương phản giữa lòng biết ơn
của người này và sự vô ơn của chín người khác vẽ nên một đường ranh phân biệt
giữa những người Do Thái và người mà chính Chúa Giêsu nói đến như một người
ngoại bang (người Samari cũng như người Do Thái nhìn nhận uy thế của Luật Môsê,
và như vậy nhìn nhận uy thế của những quy luật trong sách Lêvi về bệnh phong).
Như trong dụ ngôn về người Samari tốt lành (10,30tt) và khi rao giảng ở
Nagiaret (4,24-27). Trình thuật nhấn mạnh đến tình yêu mà các người ngoại bang
bày tỏ. Do đó, Chúa Giêsu bác bỏ cái nhìn theo chủ nghĩa dân tộc quá khích,
theo đó Thiên Chúa chỉ tỏ mình ra cho người biết trong các thể chế văn hoá: chính
bên cạnh Chúa Giêsu mà người ta tôn vinh Thiên Chúa.
Lúc
nào cũng nghĩ đến Thiên Chúa trong những mối bận tâm của mình nên Chúa Giêsu
trách cứ chín người tật phong khác vì đã không tôn vinh Thiên Chúa. Nhưng chính
lời Chúa Giêsu nói về đức tin (c.19) mới là đỉnh cao của trình thuật. Mười
người phong cùi được chữa lành, nhưng duy nhất chỉ có người Samari biết ơn mới
được tuyên bố là được cứu độ. Như vậy ơn cứu độ là điều cao quý hơn việc chữa
lành thể xác. Và niềm tin trọn vẹn của kẻ quay trở lại thì cao quý hơn niềm tin
tưởng đã thúc đẩy cả mười người đi trình diện với các tư tế trước khi được chữa
lành. Việc chữa lành chỉ khai mở cho ơn cứu độ trọn vẹn khi con người nhận ra
sáng kiến nhưng không của Thiên Chúa đối với mình và nếu họ đáp lại bằng cách dấn
thân vào một liên hệ thật sự với Chúa Giêsu: đó là niềm tin trọn vẹn.
25.
Chú giải của Noel Quesson
Trên
đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi...
Một
lần nữa, Luca nhắc chúng ta biến cố đang được chuẩn bị. Đức Giêsu đang sống
những tuần lễ cuối cùng. Trước tiên tôi cần dành thời gian để dừng lại trên
từng chữ đó: Đức Giêsu... đi... lên... Giêrusalem. Chúng ta hãy thử hình dung
cảnh tượng. Hãy thử tưởng tượng những tư tưởng của Đức Giêsu lúc Người đang
tiến bước. Giêrusalem! Mục tiêu của cuộc hành trình sau cùng.
Đức
Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê
Luca
nhấn mạnh rằng Đức Giêsu đi qua miền Samari. Người không theo các quan điểm về
chủng tộc của những người đồng thời: Người không ngần ngại đi qua miền đất ấy
mà người dân ở Giêrusalem đã tuyệt thông. "Quả thế, người Do Thái không
được giao thiệp với Người Samari" (Ga 4,9).
Khi
vương quốc ở miền Bắc sụp đổ và dân bị đi đày năm 722 trước công nguyên. Quân
đội chiến thắng Át-xi-ri đã đưa những đám nô lệ về định cư lại trên miền
Samari. Những đoàn dân ấy thuộc mọi chủng tộc từ mọi miền chuyển về tạo thành
một sự pha trộn về chủng tộc và tôn giáo. Các hội đoàn tôn giáo ở Giêrusalem
vẫn coi họ như những người dị giáo.
Quan
điểm phóng khoáng của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta. Chúng ta đã không giữ
lại những hơi hướng khinh thị đối với một số hạng Người, một số chủng tộc, một
số môi tường đó sao?
Điều
lý thú mà Luca mang lại cho miền Samari là nó chứa đựng một ý nghĩa tượng trưng
sâu sắc: Chính trong tỉnh này mà "sứ vụ Tin Mừng hóa" đã thực hiện
những bước đầu tiên bên ngoài vùng Giu-đê. Khúc dạo đầu của việc phát triển to
lớn của Giáo Hội trong những vùng đất của dân ngoại.
Đối
với những Kitô hữu, phải có những con người khác ngoài con đường mà Đức Giêsu
đã mở đầu. Ngày hôm nay, có phải tôi tránh xa những "miền Samari".
Lúc
Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người.
Trong
miền đất bị chúc dữ này; đây là những người bị chúc dữ nhiều nhất. Ở đây cũng
vậy, tôi phải dám tưởng tượng ra cảnh tượng đó. Dưới từ ngữ "phong
hủi", trong tâm thức của Kinh Thánh (Lv 13 và 14); người ta gọi chung mọi
bệnh tật trên da thịt, bề ngoài rất ghê tởm và không chỉ bệnh phong hủi theo
nghĩa y học hiện đại.
Hơn
thế nữa, Kinh Thánh nhìn trong bệnh phong hủi một hình phạt của Thiên Chúa,
hình ảnh của chính tội lỗi làm hư hỏng con người.
Còn
Đức Giêsu, Người không sợ. Là sự dịu dàng của Thiên Chúa. Người đã đến vì những
người nghèo hèn nhất. Ngày hôm nay cũng thế, Đức Giêsu đã không ghê tởm tội lỗi
của tôi, tội lỗi của những người gớm ghiếc nhất. Đức Giêsu đã đến vì điều đó để
cứu chuộc, để chữa lành.
Họ
dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng.
Tôi
tưởng tượng tiếng kêu của mười cái cổ họng ấy.
Ngay
khi họ nhận ra có người nào đó ở đằng xa, họ có thói quen kêu lớn tiếng, một
điều bắt buộc. Luật của Môsê thật hà khắc nhằm đóng khung dịch bệnh lan truyền:
"Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên;
"ô uế! ô uế!" (Lv 13,45). Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên
phải bị cấm đến ở những nơi có dân cư, và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi
thờ phụng. Những người nghèo ấy thuộc về hạng nghèo nhất.
Lạy
Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!
Họ
gọi Đức Giêsu bằng tên Người, một sự kiện tương đối hiếm thấy trong các sách
Tin Mừng. Trong ngôn ngữ Aramêen, Jéshouah có nghĩa là "Thiên Chúa
cứu". Kitô hữu Phương Đông gọi "kinh cầu Chúa Giêsu" chính là
lời cầu xin ấy được lặp lại nhiều lần: Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng
con. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. Chúng ta,
cũng rất thường lăp lại kinh này trong thánh lễ: Kyrie eleison. Lạy Chúa, xin
thương xót!
Thấy
vậy, Đức Giêsu bảo họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế.
Cũng
theo Luật (Lv 14,2). Các tư tế là những Người duy nhất có tư cách xác nhận sự
lành bệnh. Vậy mệnh lệnh này của Đức Giêsu phải được họ hiểu như một lời hứa
chữa lành.
Người
ta không khỏi ngạc nhiên bới sứ cứng rắn bề ngoài của Đức Giêsu. Thay vì chữa
lành họ ngay tức khắc, người đòi hỏi những người tội nghiệp khẳn khổ ấy ra đi
như thế. Và chúng ta thấy họ ra đi, vẫn còn chứng bệnh phong hủi gớm ghiếc ở
trên người.
Mọi
sự xảy ra như thể Đức Giêsu muốn thử thách Đức tin của họ, có thể nói như thế.
Và chúng ta nghĩ đến cùng một thử thách đức tin mà ngôn sứ Êlisê bắt ông
Na-a-man, gốc Xyri phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một
biện pháp; điều này làm ông Na-a-man nổi giận!
Ngày
nay đối với chúng ta cũng thế, đức tin thường là một thử thách đi qua đêm tối
và không thấy, không hiểu chúng ta phải trông cậy vào lời Người. Chúng ta cầu
xin Chúa để được giải thoát. Người hứa một ngày nào đó sẽ giải thoát chúng ta.
Và chúng ta phải tiếp tục đi theo con đường của chúng ta với chỉ lời hứa của
Người.
Đang
khi đi thì họ được sạch
Một
lần nữa, phép lạ hoàn thành trong sự kín đáo, ở một khoảng cách xa Đức Giêsu.
Khía cạnh "giật gân" lạ lùng mà chúng ta rất thích đã cố tình bị làm
cho mờ nhạt.
Chúng
ta cũng ghi nhận những cộng hưởng tôn giáo của việc chữa lành này, một việc
chữa lành không được mô tả dưới khía cạnh y học: Đấy là một sự "thanh
luyện". Lời cầu xin của các bệnh nhân hầu như là lời phụng vụ: "Xin
thương xót chúng con". Đức Giêsu đã yêu cầu họ "trình diện với các tư
tế".
Xuyên
qua sự chữa lành đặc biệt này, chúng ta được mời gọi nhận ra một dấu chỉ. Đức
Giêsu có thể thanh luyện tôi. Đức Giêsu có thể cứu tôi nữa.
Trước
tiên chúng ta chớ xin Người những lợi ích vật chất "Lạy Chúa Giêsu Kitô,
xin hãy chữa lành tâm hồn con người hôm nay bằng Mình và Máu Chúa".
Một
người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh
Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn
"Vinh
quang của Thiên Chúa! Hãy "cao giọng lên để" ca ngợi vinh quang của
Thiên Chúa!"
"Sấp
mình xuống dưới chân"! Một cử chỉ mà những Người phương Tây no nê không
bao giờ làm nữa, trừ một vài người trẻ tuổi. Chúng ta có cái bụng quá căng khó
mà sấp mình sát đất được. Chúng ta tưởng rằng chúng ta chỉ mang ơn chính mình,
khả năng và công việc của mình, những tài sản mà chúng ta thừa mứa. Chúng ta
không ngạc nhiên khi thấy những người Hồi giáo có thể gập mình làm đôi đến độ
trán họ chạm vào mặt đất đó sao? Một ngày nào đó, bạn hãy thử làm ở nhà bạn
không cần ai thấy. Và trong tư thế đó của thân thể, hóa ra không, bạn hãy để
cho tư tưởng của bạn thoát đi đến những điều mà tư thế ấy hầu như bắt buộc bạn
thực hiện: Con không là gì cả con đã nhận tất cả. Lạy Chúa, con đang ở trước
mặt Chúa. Con chỉ là một kẻ quê mùa bẩn thỉu, một "Ađam". Con chỉ là
cát bụi trên mặt đất cát bụi này.
Trong
Kinh Thánh, sự sấp mình xuống tận đất là một cử chỉ mà người ta chỉ làm trước
Thiên Chúa. Ở đây, người phong hủi được chữa lành đã sấp mình sát đất
"trước mặt Đức Giêsu". Đức Giêsu tham dự vào vinh quang và sự vô cùng
của Thiên Chúa: Một mầu nhiệm còn ẩn giấu đằng sau nhân tính rất người của Đức
Giêsu!
"Mà
tạ ơn!" "eucharistôn!", "trong khi tham dự vào Thánh Thể
"...
Ngày
nay cũng thế, trong tiếng Hy Lạp hiện đại, "cám ơn" thì nói
"efkaristo". Thật là tai hại khi sự chuyển thể của ngôn ngữ đã làm
chúng ta mất dần ý nghĩa của các từ. Ai trong chúng ta khi nói "tôi đến
với Thánh Thể" thì một cách tự phát nghĩ rằng "tôi đến tạ ơn"...
tôi sẽ nói lời tạ ơn Thiên Chúa! Thánh lễ trước hết chính là Giáo Hội bước vào
một hành động cao cả, "hành động tạ ơn" Đức Giêsu khi "Người ra
khỏi thế gian này để về với Chúa Cha".
"Người
cầm lấy bánh, người cầm lấy rượu, tạ ơn và nói: "này là Mình Ta, này là
Máu Ta, chịu nộp vì các con". Mọi bữa ăn của người Do Thái và đặc biệt là
bữa ăn lễ Vượt qua đều bắt đầu bằng một bài "berakha" "kinh tạ
ơn". Đức Giêsu được đào tạo trong tín ngưỡng của dân tộc Người, đã không ngừng
tạ ơn Thiên Chúa vì sự dịu dàng và lòng nhân hậu của Người dựng nên thế giới
bao la và xinh đẹp và cho chúng ta biết bao điều tốt lành đặc biệt là lương
thực để sống: (bánh và rượu). Người còn giải thoát và cứu chuộc chúng ta. Chúng
ta hãy biết ơn Người. Chúng ta không còn biết cám ơn Thiên Chúa.. Chúng ta luôn
miệng nói tiếng cám ơn vì lịch sự về mọi việc, do thói quen mà không cần suy
nghĩ ở bàn ăn, cửa hàng, trên đường phố; cũng không để nó tạo ra một quan hệ
với một ai. Vả lại việc nói cám ơn phải làm chúng ta hiệp thông với một con
người: thật ra, đó là một lời bộc lộ tình yêu thương. Nói cám ơn, thông thường
phải nhìn thẳng vào người đã làm cho chúng ta hạnh phúc? Người phong hủi tội
nghiệp của Tin Mừng, khi nhận được hạnh phúc của mình, đã đi được một khoảng
xa. Trong sự vui mừng ngây ngất, người ấy muốn tìm lại khuôn mặt của Đức Giêsu.
Anh ta đi ngược trở lại con đường. Anh trở về với Người để nói với Người lời
cám ơn! Và giờ đây, tôi thử tưởng tương những cử chỉ, giọng nói và khuôn mặt
của anh ta.
Anh
ta lại là người Sa-ma-ri.
Vậy
ra Người ngoại quốc, người dị giáo, người đáng khinh nhất đó đã có cử chỉ nhân
bản nhất, tự nhiên nhất.
Đức
Giêsu mới nói: "Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín
người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người
ngoại bang này?" Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin
của anh đã cứu chữa anh.
Đối
với Đức Giêsu, phép lạ này là một thất bại; bởi vì nó không tạo ra hiệu quả mà
Người có quyền chờ đợi: Đối với chín Người kia, phép lạ này không tạo ra
"đức tin". Điều thật sự đáng kể đối với Người. Và vì thế Đức Giêsu
rất buồn.
Người
Kitô hữu thật sự phân biệt với tất cả các "tín đồ khác không phải vì họ
cầu nguyện, họ xin ơn và họ được ơn. Mà chính vì họ "cảm tạ" Thiên
Chúa qua Đức Giêsu Kitô. Cần phải đi từ đức tin sơ đẳng chỉ biết cầu xin đến
đức tin phát triển biết hướng về Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối) để gặp gỡ thật
sự Khuôn Mặt của Người.
Sưu
tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét