THƯỜNG HUẤN HỘI ĐỒNG GX. LÀO CAI
|
LỄ KHẤN TRỌN SR. HƯƠNG CANAĐA |
THÁNH LỄ KHỞI CÔNG XÂY NHÀ THỜ BẮC CƯỜNG |
ĐỨC CHA CHỤP ẢNH VỚI CÁC CẤP CHÍNH QUYỀN LÀO CAI |
CHẦU THÁNH THỂ TẠI GX CỐC LẾU |
THÔNG BÁO TUYỂN
SINH
ƠN GỌI
THỪA SAI VIỆT NAM
I. ĐIỀU
KIỆN DỰ TUYỂN :
Có ước muốn tìm hiểu đời sống tu trì
Đã tốt nghiệp PTTH : tuổi từ 18-23;
Nếu đang theo tốt nghiệp đại học: tuổi không quá 27
Có ước muốn tìm hiểu đời sống tu trì
Đã tốt nghiệp PTTH : tuổi từ 18-23;
Nếu đang theo tốt nghiệp đại học: tuổi không quá 27
Nếu
đã trúng tuyển Đại Học, tuổi không quá 25.
II. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỂ LỆ GHI DANH
Thời gian : Từ nay cho đến ngày 30 tháng 07 năm 2016
Địa điểm : HỌC VIỆN THỪA SAI 791/4 LÊ TRỌNTẤN, P.Bình Hưng Hòa, Quận Bình Tân, Tp. HCM
II. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỂ LỆ GHI DANH
Thời gian : Từ nay cho đến ngày 30 tháng 07 năm 2016
Địa điểm : HỌC VIỆN THỪA SAI 791/4 LÊ TRỌNTẤN, P.Bình Hưng Hòa, Quận Bình Tân, Tp. HCM
III. Liên
hệ:
1 Cha Giuse Phạm Văn Quy Tel: 0985218557
2 Cha Giuse Đỗ Văn
Thụy - Tel: 0918 874 938
Email cha phụ trách ơn gọi : quypv@yahoo.com
IV. Hồ sơ gồm:
Email cha phụ trách ơn gọi : quypv@yahoo.com
IV. Hồ sơ gồm:
1. Đơn xin
tìm hiểu ơn gọi theo mẫu (có dán ảnh và cha xứ xác nhận)
2. Bản sao
Bằng Tốt Nghiệp Phổ Thông Trung Học hoặc Tốt Nghiệp Đại Học
3. Bản sao
học bạ cấp ba hoặc bảng điểm những năm Đại học
4. Bản
sao CMND và sổ Hộ Khẩu, sổ Rửa Tội(photô)
Hồ sơ có thể nộp trực tiếp cho Ban Đặc Trách
Ơn Gọi
hoặc gởi qua đường bưu điện theo địa chỉ :
hoặc gởi qua đường bưu điện theo địa chỉ :
Lm PHẠM VĂN
QUY - HỌC VIỆN THỪA SAI 791/4 LÊ TRỌNG TẤN, P.Bình Hưng Hòa Quận Bình Tân,
Tp. HCM
V. THỜI GIAN VÀ MÔN THI VÀO ỨNG SINH:
V. THỜI GIAN VÀ MÔN THI VÀO ỨNG SINH:
1. Ngày 31/07/2016 tại: HỌC VIÊN HỘI THỪA SAI VIỆT NAM
2. Môn thi: gồm Anh Văn, Việt Văn và Giáo Lý.
3. Thời gian: 8h - 9h30 môn Việt Văn; 9h45 - 11h:Giáo
Lý; 15-16 Anh văn
Ban Đặc
Trách Ơn Gọi
HỘI THƯA SAI VIỆT NAM
HỘI THƯA SAI VIỆT NAM
|
HỘI THỪA SAI
VIỆT NAM
BAN ỨNG SINH
ĐƠN XIN TÌM
HIỂU
ƠN GỌI THỪA SAI
VIỆT NAM
Kính gởi :
ĐỨC CHA PHÊRÔ ĐẶC TRÁCH HỘI THỪA SAI
VIỆT NAM
BAN TUYỂN SINH ƠN GỌI THỪA SAI VIỆT NAM
Con là (tên Thánh, Họ và tên):………………………………………………..
Sinh ngày…… tháng……. Năm………………tại :…………………………
RT:…………………………..TS:…………………….tại………………………
Do
:………………….……………………………………………………………
Số
CMND :………………… Ngày cấp : ………….Nơi cấp :……………….
Tốt nghiệp
phổ thông trung học năm :………………………………………..
Tốt nghiệp
Đại học năm:…………………Cao đẳng……………….............
Chuyên
ngành:………………………………………………………………….
Tên
cha:…………………………………….. Sinh năm:…………………
Tên
mẹ:…………………………………….. Sinh năm:……………………
Số anh chị
em : [
] anh trai, [ ] chị gái,
[ ] em trai, [ ] em
gái
Địa chỉ gia
đình :................................................................................................
Thuộc giáo
xứ :.........................cha xứ...............................Tel:………
Giáo
phận:...............................................................................................
Đã tìm hiểu
dòng(nếucó) :.............................................................................
…
Tên Cha bề
trên :.....................................
Tel :…………………………….. ….Địa chỉ liên lạc (của bản thân):………………………………………………….
…..
Điện thoại: ……………………….
Email ……………… ………………………
Ngày xin gia nhập ứng sinh Hội
TSVN:……………………………………….. …
Ngày được gia nhập công đoàn:………………………………………………. …..
Con xin tìm hiểu ơn gọi Thừa Sai
Việt Nam
Giáo
xứ ……………….., ngày
tháng năm 2016
Xác nhận của cha
xứ
Ứng sinh ký tên
KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
1. Kitô hữu, chứng nhân truyền giáo.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
“Anh chị em đi khắp thế giới, loan báo Tin
Mừng cho muôn dân”. Thưa anh chị em, đó là mệnh lệnh cuối cùng
của Chúa Giêsu. Giáo Hội từ thời các Tông đồ trải qua các thời đại cuối cùng
của Chúa, bất chấp mọi trở ngại.
Thế nhưng, qua 20 thế kỷ truyền giáo, số
người tin theo Chúa Kitô vẫn là một thiểu số đáng lo ngại so với dân số thế
giới ngày càng gia tăng. Hiện nay, dân số thế giới đã lên đến trên 5 tỷ người,
thế mà số tín hữu công giáo chỉ được 900 triệu, nhưng 50 phần trăm là ở Nam Mỹ,
còn triệu kia rải rác ở Châu Âu, Bắc Mỹ, Châu Á, Châu Úc và Châu Phi.
Riêng tại Châu Á của chúng ta, một lục địa
với hơn 3 tỷ người, trong số đó chỉ có 3% là người Công giáo. Tại Trung Quốc
chỉ có 4 triệu người Công giáo giữa một tỷ dân. Tại Nhật Bản có lối 500 ngàn
người Công giáo giữa 123 triệu dân. Ở Nam Triều Tiên, 5 triệu người Công giáo
trên 42 triệu dân. Tại đất nước Việt Nam chúng ta chỉ có hơn 4 triệu
rưỡi người Công giáo trên 72 triệu dân, tỷ lệ hơn 6%. Tại TP. Hồ Chí Minh chúng
ta có khoảng hơn 450 ngàn (485.584) người Công giáo trên hơn 5 triệu dân, tỷ lệ
13%. (Tại Hạt Tân Định, có 41.105 người Công giáo trên 266,000 dân). Đó là
những con số trên giấy tờ, trong sổ Rửa Tội, còn trên thực tế, họ có sống đạo
hay không là chuyện khác.
Như chúng ta được biết, ở những miền có đông
giáo dân Công Giáo- ở Nam Mỹ chẳng hạn- đời sống dân chúng ở đó lại nghèo đói
và thiếu linh mục.Ở Braxil, một nước lớn nhất Nam Mỹ, dân số 107 triệu, đại đa
số là Công giáo. Thế mà gần đây người Công giáo đã bỏ Giáo Hội để sang Hội
Thánh Tin Lành tính ra có trên 17 triệu người (lý do có lẽ là để được hưởng trợ
cấp). Trái lại, ở các nước giàu có, phồn thịnh về vật chất- như ở Châu Âu và
Bắc Mỹ- người Công giáo lại đánh mất niềm tin và không còn tôn trọng các giá
trị đạo đức tinh thần nữa, coi thường các luật luân lý của Giáo Hội về đời sống
hôn nhân gia đình. Sự kiện đó đang trở nên mối lo âu và là một vết thương đau
nhức nhối nhất của Giáo Hội ngày nay.
Xin đan cử ra đây một dấu chỉ của thời đại:
Đầu năm 1998, tại thành phố Amsterdam ở Hà Lan, Hội Đồng Giáo Mục đã quyết định
đóng cửa một loạt 5 ngôi thánh đường đồ sộ của thành phố, vì không có giáo dân
lui tới nữa, trong khi đó phí khoản 9dê3 bảo trì các ngôi thánh đường này lại
quá lớn. Tại Bắc Mỹ cũng thế, Đức Hồng Y Josef Bernardin, Tổng Giáo Mục Chicago
tuyên bố: ngài buộc lòng phải đóng cửa 13 giáo xứ, 2 cơ sở truyền giáo và 6
trường tiểu học Công giáo trong giáo phận của ngài. Còn Đức Hồng y Szoka, Tổng
Giám Mục Giáo phận Detroit cũng tuyên bố quyết định đóng cửa 30 giáo xứ thuộc
giáo phận của ngài. Lý do đóng cửa là vì thiếu người và thiếu tiền (x. Bùi
Tuần, Ơn Trở Về, tr.85).
Nói lên những dấu chỉ thời đại ấy để chúng ta
thấy rằng: Con người ngày nay đã bỏ Chúa, không còn tin vào Chúa nữa, hoặc có
nhiều người tin, nhưng với một niềm tin hời hợt, hững hờ. Chính vì thảm trạng
nầy mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành thông điệp “Sứ Vụ Đấng Cứu
Độ” (Redemptoris Missio, 1990) để đặt toàn thể Giáo Hội trước sứ mạng truyền
giáo và tái truyền trong Thiên Niên Kỷ Thứ III.
Hôm nay, ngày Thế Giới Truyền Giáo, Đức Thánh
Cha lại gởi đến toàn thể Dân Chúa một sứ điệp với chủ đề: “Tất cả các kitô hữu
đều được mời gọi làm người truyền giáo và chứng nhân”. Đức Thánh Cha nói:
“Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba, Chúa Giêsu quyết liệt lập lại những lời Ngài
đã nói với các Tông đồ trước khi về trời, những lời hàm chứa bản chất sứ vụ của
người Kitô hữu: “Anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp
các miền Giuđê, Samari và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8). Quả thực, Kitô
hữu là ai? Thưa họ là người được Chúa Kitô “chiếm đoạt” (x.Pl 3,12), và vì thế,
là người khao khát làm cho Chúa Kitô được mọi người nhận biết và yêu mến ở khắp
mọi nơi “cho đến tận cùng trái đất”. Chính niềm tin vào Chúa Kitô thúc đẩy
chúng ta trở thành những nhà truyền giáo, những chứng nhân của Ngài. Nếu không
thực hiện được điều đó, có nghĩa là niềm tin củ chúng ta còn bất toàn, khiếm
khuyết và chưa trưởng thành.
Do đó, “Truyền giáo là vấn đề của niềm tin,
nó là thước đo niềm tin của chúng ta nơi Chúa Giêsu và nơi tình yêu của Ngài
dành cho chúng ta” (RM số 11). Đức tin và truyền giáo đi đôi với nhau: đức tin
càng mạnh càng sâu thì nhu cầu truyền thông, chia sẻ và làm chứng niềm tin càng
bức thiết. Ngược lại, nếu đức tin suy yếu thì nhiệt tình truyền giáo cũng suy
giảm và khả năng làm chứng cũng mất đi sức mạnh. Đó là điều vẫn xảy ra trong
lịch sử Giáo Hội: sự sút giảm lòng nhiệt thành truyền giáo là triệu chứng của
sự khủng hoảng đức tin. Điều này phải chăng xảy ra khi người ta đánh mất xác tín
sâu xa là: “Đức tin càng vững mạnh khi đem chia sẻ” (RM.2). Vì chính khi loan
báo Chúa Giêsu Kitô và làm chứng về Ngài mà đức tin của chúng ta được củng cố
và tái khám phá con đường đưa đến một nếp sống đúng theo Tin Mừng của Ngài. Như
thế, chúng ta có thể nói: “Truyền giáo là một phương thuốc chắc chắn nhất chống
lại cuộc khủng hoảng đức tin. Chính nhờ dấn thân truyền giáo mà mỗi thành phần
Dân Chúa củng cố căn tính mà mình và hiểu rõ là: không ai có thể là Kitô hữu
đích thực nếu không là chứng nhân” (số 2).
“Mỗi Kitô hữu được sáp nhập vào Giáo Hội nhờ
Bí tích Thanh Tẩy, đều được mời gọi làm nhà truyền giáo và chứng nhân. Đó là sự
ủy nhiệm rõ ràng của Chúa Kitô. Và Thánh Thần sai mỗi người kitô hữu ra đi loan
báo và làm chứng về Chúa Kitô cho muôn dân: đó là nhiệm vụ và đặc ân, bởi vì đó
là một lời mời gọi cộng tác với Thiên Chúa để cứu độ mỗi người và cả nhân loại”
(số 3).
Truyền giáo bằng đời sống chứng tá Tin Mừng
giữa đời, làm chứng cho Chúa Kitô bằng đời sống yêu thương, bác ái, công bình,
cụ thể trong gia đình, ngoài xã hội, là sứ vụ của mọi người giáo dân. Làm chứng
cho sự thánh thiện, như những người sống các Mối Phúc của Tin Mừng, đó là căn
tính của người Kitô-hữu-chứng-nhân. Con người ngày nay có vẻ dửng dưng không
muốn tìm về Thiên Chúa, nhưng trong thực tế, họ cảm thấy cần đến Thiên Chúa và
họ bị các Thánh thu hút và đánh động, những vị thánh đã biểu lộ khuôn mặt của
Thiên Chúa trong đời sống của mình, như những ánh sao trong đêm tối.
Giáo Hội Việt Nam chúng ta ngày nay phải truyền
giáo trong môi trường cụ thể chúng ta đang sống, với những con người cụ thể
chúng ta đang gặp. Chúa Kitô cần đến chúng ta để đem Tin Mừng vào lòng dân tộc.
Chúa Kitô cần đến tâm hồn quảng đại và sẵn sàng của chúng ta, cần đến đời sống
nhân chứng của chúng ta để bày tỏ cho anh em đồng bào tình yêu thương vô biên
của Ngài. Tích cực tham gia vào công cuộc Phúc-âm-hóa mới, đó là công việc đặc
trưng của những năm chuẩn bị tiến đến Thiên Niên Kỷ Thứ Ba của Hồng Ân Cứu Độ.
2. Khánh nhật truyền giáo – Lm Trần Ngà.
Mến Chúa và yêu người là hai giới răn trọng
nhất. Điều đó thì trẻ con cũng thuộc. Nhưng điều quan trọng là làm sao thực thi
lòng mến Chúa qua việc yêu thương con người là hiện thân của Thiên Chúa.
Yêu Chúa mà lại ghét người thân cận thì thật
là điều trớ trêu như câu chuyện sau đây:
Có một vị
hoàng thái tử vào rừng săn bắn gặp một cô gái hái củi trong rừng. Không hiểu
Trời xui đất khiến làm sao mà họ yêu nhau tha thiết ngay từ buổi gặp gỡ đầu
tiên.
Hoàng tử
quay về triều như kẻ mất hồn, ngày đêm tương tư cô gái nghèo mà anh đã đem lòng
thương mến và rồi anh khẩn khoản xin vua cha cưới nàng cho bằng được.
Để tìm hiểu
xem cô gái có thực sự yêu thương con trai mình bằng tình yêu chân thực hay
không, vua cha dạy cho hoàng tử cải trang làm nông dân để thử lòng cô gái...
Thế là hoàng
tử hoá thành người nông dân, đến cắm lều gần nhà cô gái, ngày ngày vác cuốc ra
đồng làm lụng. Anh lân la đến làm quen với cô gái trong hình hài một nông dân.
Mặc dù cô
gái vẫn thầm yêu và mong được kết hôn với hoàng tử, nhưng cô tạ không nhận ra
hoàng tử nơi người nông dân nghèo khổ nầy. Cô đã đối xử với anh rất lạnh nhạt
và cuối cùng đã xua đuổi anh.
Tiếc thay,
cô đã đánh mất cơ hội vô cùng quý báu: mất vinh dự trở thành công nương, thành
hoàng hậu tương lai.
Như vị hoàng tử kia hoá thân thành nông dân
để thử lòng cô gái, Thiên Chúa cũng hoá thân thành người phàm để thử thách tình
yêu của chúng ta. Ngài đã từ trời xuống thế, hoá thân làm người, cắm lều ở giữa
loài người, trở nên người thân cận của mỗi người.
Thế nên, khi yêu thương người thân cận là
chúng ta yêu thương Chúa, và khi chúng ta từ khước hay bạc đãi người thân cận
là bạc đãi Chúa. Tình yêu thương người thân cận là thước đo tình yêu của chúng
ta đối với Thiên Chúa.
Mẹ Têrêxa là người giữ điều răn yêu thương
nầy cách tuyệt hảo. Mẹ nhìn thấy Chúa trong những người phong cùi, trong những
người bần cùng khốn khổ và mẹ tận tình yêu thương săn sóc những người ấy hết
sức tận tình.
Mẹ dạy nữ tu của mẹ: "Con thấy linh mục
nâng niu trân trọng Mình Thánh Chúa trong thánh lễ ra sao thì con hãy làm như
thế đối với người cùng khổ."
Mẹ là người vừa yêu mến Thiên Chúa trên trời
lại vừa yêu mến Chúa hịên diện trong những người khốn khổ. Mẹ không tách rời
hai giới răn mến Chúa và yêu người, nhưng mẹ đã yêu Thiên Chúa trong con người.
Khi hỏi tại sao người công giáo chúng ta
truyền đạo mà không thu hút được nhiều người về với Hội Thánh?
Chắc chắn là vì chúng ta chưa sống theo đạo
yêu thương. Nếu chúng ta theo phương cách sống đạo của mẹ Têrêxa Calcutta, tha
thiết yêu mến Thiên Chúa nơi con người, thì đạo chúng ta trở thành hấp dẫn, và
bản thân chúng ta cũng có sức thu hút được nhiều người như mẹ Têrêxa đã minh
chứng bằng đời sống của mẹ: Mẹ được người đời xem là bà thánh sống, được mọi
người yêu mến, cả những người Hồi Giáo, Ấn giáo, Bà La Môn và các đạo khác đều
vô cùng quý mến mẹ.
Nhân ngày Truyền Giáo, xin cho chúng ta biết
áp dụng phương thế truyền giáo tuyệt hảo của mẹ Têrêxa là yêu mến Thiên Chúa
trong con người, hy vọng nhờ đó, đạo Chúa trở thành một tôn giáo rất đẹp, rất
hấp dẫn và nhiều người sẽ quay về với đạo yêu thương nầy.
3. Chứng nhân trong sự hiệp nhất
yêu thương.
(Trích trong ‘Cùng
Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Thế giới ngày hôm qua cũng như hôm nay luôn
ngưỡng mộ những chứng nhân cho tình yêu. Một Tê-rê-sa thành Calcutta nhỏ bé nhưng có một trái tim lớn lao
đã làm cho cả thế giới kính phục. Ở Việt Nam , người công giáo hay không công
giáo họ vẫn nói với nhau về một vị giám mục dám bỏ ngai tòa để đến ở cùng những
người cùi tại trại cùi Di linh. Đó chính là Đức Giám mục Cassien. Ngài đã dùng
tình yêu để xoa dịu những những đau đớn cho người cùng khổ. Ngài đã chết cho
tình yêu, nên tình yêu của Ngài mãi ở lại nơi dương thế qua mọi thời đại.
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, thiết
tưởng là dịp thuận lợi để chúng ta nhìn lại tinh thần chứng nhân tin mừng của
giáo hội sơ khai. Một giáo hội non trẻ nhưng có sức mạnh biến đổi trần gian.
Một giáo hội bị cấm đoán nhưng vẫn lan tỏa đến tận cùng thế giới. Một giáo hội
nhỏ bé nhưng ai cũng có tinh thần truyền giáo, khiến thánh Phaolô đã từng nói
rằng: "Tôi trồng, Apolo tưới, Thiên Chúa mới cho mọc lên". Vậy đâu là
điểm son để giáo hội có thể vượt qua mọi trở ngại để phát triển và canh tân bộ
mặt trái đất? Thưa đó chính là tinh thần hiệp nhất yêu thương.
Theo sách tông đồ công vụ, thời giáo hội sơ
khai, các tín hữu "sống hiệp nhất với nhau, và để mọi sự là của chung. Họ
đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu"
(Tđcv 2, 44). Họ hợp nhất với nhau không chỉ về niềm tin mà còn hiệp nhất trong
tình liên đới chia sẻ của cải vật chất cho nhau. Sự liên đới này tạo nên một
cộng đoàn bác ái yêu thương, trong đó mỗi người đều được cộng đồng quan tâm,
nâng đỡ và chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu của từng người.
Chính đời sống yêu mến nhau nơi các tín hữu
mà Giáo hội sơ khai đã được toàn dân thương mến. Sự thương mến đó đã đem nhiều
người về với Chúa. Sự thương mến đó cũng là nơi bảo vệ các tín hữu khỏi những
cuộc tàn sát của bạo chúa hung tàn. Vâng, nếu ngày xưa cộng đoàn Giáo hội sơ
khai đã được "toàn dân thương mến" (Tđcv 2,47a), thì đời sống của xứ
đạo chúng ta hôm nay, cũng phải là một cộng đoàn được những người chung quanh
nhìn bằng ánh mắt trìu mến thân thương. Đó cũng là cách chúng ta ca tụng Chúa
và giúp cho "càng ngày càng có nhiều người gia nhập Giáo hội" (Tđcv
2, 47b).
Thế nên, tinh thần truyền giáo mời gọi chúng
ta hỗ trợ nhau không chỉ về tinh thần mà còn cả về vật chất, không chỉ là những
người có đạo mà còn cả những người lương dân. Đồng thời sự chia sẻ này cũng nói
lên sự xóa bỏ những tị hiềm, ghen ghét trong cộng đoàn để đón nhận nhau trong
tinh thần bác ái huynh đệ. Lấy "dĩ hòa vi quý" để sống hài hòa, nâng
đỡ đùm bọc lẫn nhau tạo nên một cộng đoàn chan hòa yêu thương, bác ái, chia sẻ,
cảm thông. Đó cũng là dấu chỉ cho thấy chúng ta là môn đệ Chúa Giêsu, là chứng
nhân của Tin mừng giữa lòng dân tộc Việt Nam .
Vì chưng, giới luật quan trọng nhất của kytô
giáo chính là Mến Chúa - yêu người, thì người người ky-tô hữu chúng ta phải thể
hiện điều đó qua từng lời nói, từng việc làm, luôn được cân nhắc cho vừa ý trời
và phù hợp với luân thường đạo lý làm người. Vì vậy, một đời sống chứng nhân
Tin mừng cũng phải thể hiện bằng một đời sống hòa hợp với cộng đồng, với tha
nhân. Nhất là biết thể hiện sự tương thân tương ái nơi cộng đồng giáo xứ, sự
hiệp nhất yêu thương trong tình huynh đệ với tha nhân, nhờ đó mà Tin mừng mới
nở hoa trên từng môi trường sống của người tín hữu. Chúng ta không thể là một
người kytô hữu tốt mà lại đối xử thật tồi tệ với anh chị em chung quanh. Lối
sống này không chỉ là lỗi luật Chúa mà còn là cớ vấp phạm cho những người chưa
biết Chúa. Nhà lãnh tụ Ganhi của An Độ đã từng nói: "Nếu những người kytô
giáo sống đúng tinh thần giáo lý của họ. Tôi sẽ mời gọi cả dân tộc Ấn trở
lại". Chúng ta không thể truyền giáo mà còn mang nặng tính bè phái, tỵ hiềm,
chia rẽ. Lối sống này đã không thu góp về cho giáo hội những tín đồ mới mà còn
đẩy biết bao người ra khỏi giáo hội bởi lối sống ích kỷ, độc đoán của chúng ta.
Thực tế đã có rất nhiều những cộng đoàn, những xứ đạo đổ vỡ vì sự bè phái đã
phá đổ tình hiệp nhất yêu thương. Đã có rất nhiều người bỏ đạo, chối đạo vì sự
bất khoan dung của chúng ta đã đẩy họ ra khỏi Giáo hội, khỏi cộng đoàn. Và cũng
có rất nhiều cái nhìn thiếu thiện cảm của anh em lương dân nhìn đến chúng ta,
chỉ vì chúng ta sống thiếu công bình, thiếu lòng bác ái, thiếu lòng bao dung.
Thế nên mỗi người tín hữu phải biết sống tinh
thần truyền giáo khởi đi từ lòng mến Chúa, yêu người nơi mỗi người chúng ta.
Chúng ta mến Chúa nên chúng ta hăng say truyền giáo. Chúng ta yêu mến tha nhân
nên chúng ta muốn chia sẻ niềm vui với tha nhân. Tình yêu mến mời gọi chúng ta
đi đến với tha nhân bằng một tình yêu chân thành, không khoe khoang, không giả
dối. Tình yêu mến mời gọi chúng ta dấn thân một cách quảng đại để đem tình yêu
Chúa nối kết tình người, đưa con người đến cùng Thiên Chúa và giúp con người
xích lại gần nhau.
Nguyện xin Chúa Giêsu là Đấng đã từ trời
xuống để gieo tin mừng yêu thương vào cho nhân thế, nâng đỡ và giúp chúng ta
sống ơn gọi truyền giáo bằng một tình yêu mến nồng nàn. Ước gì đời sống chúng
ta cũng trở thành một lời chứng sống động cho tin mừng khi chúng ta dám sống
triệt để theo những đòi hỏi của tin mừng là mến Chúa trên hết mọi sự và yêu mến
tha nhân như chính mình. Amen.
4. Cách thức truyền giáo.
(Trích trong ‘Cùng
Nhau Suy Niệm’ của Lm Tạ Duy Tuyền)
Hôm nay ngày khánh nhật truyền giáo, chúng ta
nghe âm vang lời mời gọi của Chúa vẫn còn vang vọng tới hôm nay: "Anh em
hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo".
Chúa không nói riêng một ai. Chúa mời gọi tất cả. Chúa không đòi hỏi khả năng,
bằng cấp, học vị mà chỉ cần có nhiệt huyết làm tông đồ cho Chúa. Chúa cũng
không đòi hỏi người truyền giáo phải hiểu biết tín lý thần học sâu xa, hay luân
lý uyên thâm, Chúa chỉ cần có lòng quảng đại dấn thân mở mang nước Chúa. Chúa
đã sai 72 môn đệ ra đi với đôi bàn tay trắng, thế mà khi trở về ai cũng vui
mừng vì thành quả họ đã đạt được. Chúa đã thưởng công cho mỗi người như nhau,
không phân biệt người đến sớm, kẻ đến muộn, người đạo gốc hay mới theo đạo. Từ
người thợ giờ thứ 9 cho tới giờ thứ 11 đều được ân thưởng theo lòng nhân từ của
Chúa.
Vậy đâu là cách thức truyền giáo hữu hiệu
nhất cho người tông đồ của Chúa?
Thánh Gioan Tông đồ đã viết: "Ngôi lời
đã hoá thành nhục thể và cư ngụ giữa chúng ta". Chúa Giêsu là Lời hằng
sống gieo vào thế gian, nhưng Lời đã mang lấy xác phàm giống như chúng ta,
ngoại trừ tội lỗi. Ngôi Lời đã trở thành nguồn ơn cứu độ để những ai tiếp xúc
với Ngài đều có thể nhận lãnh được sự sống dồi dào cả tinh thần lẫn thể xác.
Ngôi Lời đã mặc lấy thân phận con người, để có thể gần gũi, cảm thông và chia
sẻ với những khổ đau của con người. Cuộc sống của Ngài đã trở thành trở thành
lẽ sống cho con người, "Sống để yêu thương", và Ngài đã đi trọn con
đường tình yêu là "dám chết cho người mình yêu". Vì vậy, cách thức
duy nhất mà Chúa trối lại cho chúng ta là "anh em hãy yêu thương nhau như
Thầy đã yêu thương anh em". Lời Chúa và giáo huấn của Chúa phải trở thành
cung cách sống của người tín hữu. Một đời sống bác ái yêu thương mới thực sự là
phương thế hữu hiệu nhất để giới thiệu về Chúa cho tha nhân. Lời nói và việc
làm phải đi đôi với nhau. Mang danh kytô hữu và sống đời kytô hữu phải nên một
trong con người có đạo mới thực sự trở thành chứng nhân cho Chúa.
Vì vậy, Truyền giáo không thể chỉ đi lễ, đọc
kinh cầu nguyện là xong bổn phận chứng nhân cho Chúa. Nếu như thế mới chỉ là
hành vi trả lại công bằng cho Chúa, vì việc tạ ơn là hành vi đền đáp lại ân ban
của Thiên Chúa dành cho con người. Truyền giáo không phải là việc tuân giữ các
giới răn của Chúa. Nếu như thế mới là giữ đạo chứ chưa truyền đao. Truyền giáo
không phải là nói thật hay, thuyết trình thật hùng hồn là có thể đem nhiều
người về với Chúa. Nếu như thế mới chỉ là tiếp thị chứ chưa mang đạo vào đời
như muối như men ướp mặn trần gian.
Trong thông điệp "khánh nhật truyền giáo
2006", Đức Thánh Cha Bênedictô 16 đã viết: "Sứ mạng truyền giáo, nếu
không được định hướng bởi Lòng mến, nếu không phát sinh từ một hành động sâu xa
của tình yêu thần thiêng, thì sứ mạng đó liền bị rút gọn về chỉ còn như là một
hành vi nhân ái và xã hội không hơn không kém. Tình yêu mà Thiên Chúa có đối
với mỗi người, kết thành trung tâm của kinh nghiệm sống và loan báo Phúc
Âm".
Như vậy, Đức Thánh Cha đã tái khẳng định cách
thức mà Chúa Giêsu muốn chúng ta đi đó là thực hành bác ái. Không có lòng mến
thì không thể trở thành nhân chứng cho niềm tin của mình. Yêu Chúa luôn đi liền
với yêu mến tha nhân. Và thánh Phaolô còn quả quyết "Lòng mến chính là sợi
giây ràng buộc chúng ta nên một với Đức Kytô".
Hôm nay nhân ngày khánh nhật truyền giáo,
chúng ta hãy rà xét lại lòng mến của chúng ta đã trở nên dấu chỉ của người kytô
hữu hay chưa? Ngày xưa cộng đoàn tín hữu tiên khởi họ đã sống thật hiệp nhất
với nhau, ngày ngày họ đến hội đường để nghe các tông đồ rao giảng. Họ chia sẻ
đời sống hằng ngày với nhau, để không ai phải thiếu thốn. Họ được toàn dân
thương mến và ngày càng có thêm nhiều người gia nhập Giáo Hội. Ước gì cộng đoàn
xứ đạo chúng ta cũng được những người chung quanh nhìn bằng ánh mắt trìu mến,
đầy thiện cảm và tôn trọng, và ngày càng có những người muốn sống đời kytô hữu
như chúng ta. Amen.
5. Hãy đi khắp thế gian.
Suy Niệm
"Hãy đi
khắp thế giới, loan báo Tin Mừng..."
Lời Đức
Giêsu mời gọi làm chúng ta nhức nhối.
Thế giới
chẳng phải ở đâu xa. Thế giới là quê hương tôi với gần 80 triệu dân. Thế giới
là những người tôi vẫn gặp, những nơi tôi vẫn sống. Thế giới ấy, chân tôi chưa
một lần đi hết, miệng tôi chưa một lần loan báo tin vui.
Tôi có lòng
tin không? Tôi có dám tin Lời Chúa không?
Chúa hứa cho
những ai tin được khả năng trừ quỷ, nghĩa là giải phóng con người khỏi mọi hình
thức nô lệ, khả năng chữa bệnh để xoa dịu nỗi đau của trần gian, khả năng nói
những ngôn ngữ mới để đem lại hiệp nhất. Các tông đồ đã tin và thấy Chúa cùng
làm việc với mình. Họ chẳng bao giờ cô đơn trên bước đường rao giảng.
Có nhiều
cách loan Tin Mừng, nhiều cách truyền giáo.
Cách thứ
nhất là bằng chính cuộc sống bản thân. Nếu các Kitô hữu đều siêu thoát danh
lợi, sống trung thực, thanh khiết, sống chung thủy, yêu thương... Một Kitô hữu
nghèo mà vui tươi, hạnh phúc, thì đó là một lời chứng đáng tin cậy.
Làm cho xã
hội được tốt đẹp hơn, đó cũng là một cách loan báo Tin Mừng rất hiệu quả. Kitô
giáo phải góp phần xây dựng một thế giới hòa bình và huynh đệ, công bằng và ấm
no, nơi nhân phẩm của từng người được tôn trọng, nơi bóng tối của sự ích kỷ tàn
nhẫn bị đẩy lui.
Mẹ Têrêxa
Calcutta đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với bao người
cùng khổ. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để lập các cộng đoàn.
Còn thánh
Têrexa nhỏ đã truyền giáo tại chỗ bằng lời cầu nguyện và những hy sinh nhỏ bé.
Chị là nữ tu dòng Kín, sống trong bốn bức tường, nhưng lại được phong làm bổn
mạng các xứ truyền giáo. Chị đã đi khắp thế giới, không phải bằng đôi chân,
nhưng bằng lòng ước ao của một trái tim cháy bỏng.
Phải sống
sao để người ta thắc mắc, đặt câu hỏi. Nhưng cũng phải sẵn sàng trình bày câu
trả lời.
Dù bạn chẳng
uyên thâm về giáo lý nhưng hãy bập bẹ nói về Chúa bằng kinh nghiệm của bạn.
Truyền giáo
là giới thiệu cho người khác Đấng tôi đã quen. Có thể người ấy đã biết Đấng này
từ lâu rồi.
Anrê đã gọi
Simon, Philipphê đã gọi Nathanaen đến gặp Chúa. Cần tập đến với người khác như
Đức Giêsu đã đến với người phụ nữ Samari. Hãy xin nước uống, trước khi nói về
Nước Hằng Sống. Hãy tìm hiểu người đối diện trước khi loan báo Tin Mừng. Chúng
ta cần thấm nhuần văn hóa dân tộc thì mới biết cách nói về Chúa Cha cho đồng
bào mình.
Nếu cả đời,
mỗi Kitô hữu mời được một người theo đạo, thì nguyện ước của Đấng Phục Sinh
được thành tựu.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Thánh Têrêxa nhỏ đã được tôn phong làm tiến
sĩ Hội Thánh. Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo bằng cầu nguyện và hy sinh của
chị? Bây giờ có hợp thời không?
·
Mẹ Têrêxa hiến đời mình cho người cùng khổ,
bệnh tật, không phân biệt tôn giáo, màu da... Bạn nghĩ gì về kiểu truyền giáo
này? Nó có đánh động trái tim con người hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi
thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và
cao quý nhất. Đó là Trái Tim, một Trái Tim bừng cháy tình yêu.
Chính tình
yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì
các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa
Giêsu, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con, ơn gọi của con chính là tình
yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong Hội Thánh: nơi Trái Tim Hội Thánh,
con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả, vì tình yêu bao trùm mọi ơn
gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của
con được thực hiện. (dựa theo lời của thánh Têrêxa)
6.
Suy niệm của Lm Hoàng Kim Toan.
ĐỨC MARIA,
MẪU GƯƠNG TRUYỀN GIÁO
Đôi khi tôi
tự hỏi, tại sao Chúa Nhật Truyền Giáo lại được nhắc trong tháng Mân Côi, tháng
dâng kính Đức Mẹ, cùng với Đức Mẹ chiêm ngắm tình thương của Thiên Chúa, bằng
những tràng chuỗi đơn sơ và thành kính nhất qua lối cầu nguyện theo Tin Mừng.
Những dòng suy niệm này trả lời cho tôi câu hỏi đó.
Những trang
Tin Mừng về Đức Maria thật là phấn khởi cho trần thế chúng ta. Có một người phụ
nữ, mang trọn vẹn sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa vào trong lòng nhân thế. Nhân
loại vui mừng bởi sự đón nhận này của Mẹ Maria, “để từ nay mọi đời sẽ khen tôi
diễm phúc”. Thiên Chúa đã làm cho Mẹ những kỳ công lớn lao nơi Mẹ và còn làm
những điều lớn lao ấy cho nhiều tâm hồn nhân thế chúng ta.
Sự chuẩn bị
một tâm hồn vô tì tích là sự chuẩn bị của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần thực hiện
nơi Đức maria những điều lớn lao, bởi Mẹ là người đã để Chúa Thánh Thần hoạt
động và làm phát sinh hoa trái của Người. “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên Bà, và
quyền năng Đấng Tối Cao sẽ ngự xuống trên Bà” (Lc 1, 35), hoa trái của Chúa
Thánh Thần là hoan lạc và bình an. Mẹ đã mang hoan lạc và bình an của Thiên
Chúa cắm rễ vào trong trái đất. Maria, công trình tuyệt diệu của Chúa Thánh
Thần, nhân thế có một con người được Chúa Thánh Thần chuẩn bị cho sự toàn vẹn
để xứng đáng đón nhận Đức Giêsu, Con thiên Chúa vào trong lòng nhân thế, lịch
sử đã đổi hướng đi về nguồn ơn cứu độ, về niềm vui của Thiên Chúa đã hứa từ
ngàn xưa, và trở nên hiện thực trong sự cưu mang này. Đức Maria trở nên người
diễm phúc là nhờ sự chuẩn bị của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần có thể làm
cho con người tội nhân của Eva cũ, xuất hiện một Eva mới vô tì tích, trong
trắng đẹp lòng trước mặt Thiên Chúa. Maria, công trình của Chúa Thánh Thần thực
hiện cho nhân loại.
Maria, là
người Mẹ truyền giáo đúng nghĩa nhất, bởi sự tinh tuyền của Mẹ, bởi Mẹ là kỳ
công của Chúa Thánh Thần hoạt động trên trái đất này. Mẹ đã đón nhận Con Thiên
Chúa cho thế gian và đưa Con Thiên Chúa vào trong thế gian và đó là Tin Mừng
đúng nghĩa nhất cho trần thế. Từ nay, nhân loại nhận ra rằng: Sứ vụ truyền giáo
là sứ vụ của người mang tin vui, tin cứu độ, tin được Thiên Chúa đoái thương.
Đức Giêsu Con lòng Mẹ, một Người Con của nhân loại, một người Con của Thiên
Chúa là nguồn ơn cứu độ, suối trào niềm vui cho nhân thế.
Người loan
báo Tin Mừng là người được Chúa Thánh Thần tác động cách đặc biệt trên cuộc đời
của họ. “Đức Maria lên đường vội vã” (Lc 1, 39). Sự vội vã của con người mang
niềm vui khôn tả, thúc đẩy mau mắn lên đường, nhắc lại hình ảnh xưa Isaia đã
tiên báo: “Đẹp thay trên núi đồi bước chân người loan báo tin mừng, công bố
bình an, người loan tin hạnh phúc, công bố ơn cứu độ và nói với Sion rằng:
“Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị” ”. (Is 52, 7). Đức Maria mang trọn niềm vui
Đấng Cứu Độ mà nhân loại đón đợi, không thể không vui và niềm vui chất ngất,
thúc đẩy lên đường loan báo tin vui. Nếu trong lòng tôi và trong lòng bạn mang
niềm vui ngập tràn như thế tôi và bạn cũng sẽ vội vã lên đường loan báo. Đức
Maria trở nên người loan báo Tin Mừng đúng nghĩa bởi vì Mẹ mang trọn niềm vui
Chúa Thánh Thần. Ai để cho Chúa Thánh Thần hoạt động trong cuộc đời của mình
cũng là người mang trọn niềm vui loan báo.
Không chỉ là
loan báo mà thôi, Đức maria còn là người công bố Tin Mừng. Người công bố là
người đã xác tín một cách chắc chắn về những gì Thiên Chúa đã làm cho mình. Đức
Maria đã nghiệm thấy như thế trong cuộc đời của Mẹ: “Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi những điều cao cả, danh Người thật chí thánh chí tôn” (Lc 1, 49). Thấy được
tình thương Thiên Chúa thể hiện trong cuộc đời mình, người loan báo sẽ đi xa
hơn nữa để, công bố Tin Mừng Thiên Chúa đã làm cho mình. Sự công bố mang một
niềm tin xác tín, đã gặp và đã thấy. Sứ vụ loan báo Tin Mừng hôm nay, cần chứng
nghiệm nơi người loan báo Tin Mừng như thế, bởi vì người ta đang cần chứng nhân
hơn thày dạy. Đức Maria nhận ra bàn tay Toàn Năng của Thiên Chúa thực hiện
trong cuộc đời của Mẹ, nên Mẹ là người công bố sứ điệp chắc chắn về Ơn Cứu Độ
của Thiên Chúa cho nhân loại.
Niềm xác tín
của Đức Maria mang một chiều kích rất riêng tư, nhờ Mẹ đã “hằng ghi nhớ tất cả
những điều ấy trong lòng” (Lc 3, 51). Cầu nguyện là chiêm ngắm những điều Thiên
Chúa đã thực hiện nơi mình, là cuộc trao đổi, đối thoại giữa nhưng khó khăn,
thử thách. Đức Maria trở thành người công bố Tin Mừng, bởi Mẹ đã chiêm ngắm
công trình của Thiên Chúa thực hiện cho dân tộc, cho chính Mẹ. Sự chiêm ngắm,
đối thoại dẫn đến một xác tín riêng tư chắc chắn để đi đến một công bố cho muôn
người. Con đường cầu nguyện của Đức maria đã đi qua là con đường mời gọi những
người truyền giáo hôm nay thực hiện.
Truyền giáo
không là công cuộc cày xới những mảnh đất hoang, cũng không là công cuộc cải
đạo cho những người khác niềm tin. Đối với Đức Maria truyền giáo có nghĩa là
đem chính Đức Giêsu cho nhân loại. Đức Giêsu có là niềm vui cho bạn không?
trước khi là niềm vui công bố cho người chung quanh bạn, trở lại niềm xác tín
này chúng ta trở lại niềm xác tín của Đức Maria, khi Mẹ xác tín: “Linh hồn tôi
ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46). Tràn ngập niềm hân hoan bởi Mẹ đã gặp thấy và
cưu mang chính niềm vui của Đức Giêsu trong lòng Mẹ. Đức Maria không mang niềm
vui nào khác ngoài niềm vui: “Thần trí tôi hớn hở vui mừng trong Thiên Chúa,
Đấng cứu độ tôi” (Lc 1, 47). Niềm vui của Thiên Chúa trong ngày Thiên Chúa đoái
thương, ngày nào không là ngày Thiên Chúa đoái thương, nhưng đôi lúc chúng ta
lại quên mất cảm nghiệm thực sự điều này, để rồi sứ vụ truyền giáo của mỗi
thành viên chúng ta cứ hoài dang dở. Đức Maria đã mang chính Đức Giêsu, quà
tặng tuyệt hảo nhất của Thiên Chúa, nguồn ơn cứu rỗi duy nhất, công bố, trao
tặng cho nhân loại.
Dù là người
loan báo, dù là người công bố Tin Mừng đi chăng nữa, Đức Maria luôn đặt mình
dưới sự bảo trợ hoạt động của Chúa Thánh Thần. Không thể tách rời Đức Maria
khỏi hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đức Maria là công trình tuyệt hảo của Chúa
Thánh Thần. Dù Đức Maria có được như thế nào chăng nữa, Mẹ cũng luôn đặt mình
trong tâm khảm của người: “phận nữ tỳ hèn mọn, Người đã đoái thương nhìn tới”
(Lc 1, 48). Người truyền giáo cũng thế, không thể tách rời Chúa Thánh Thần với
hoạt động của mình được. Ai có thể chinh phục sự sâu thẳm của lòng người quy
hướng về Thiên Chúa, nếu đó không phải là tác động của Chúa Thánh Thần. Chúa
Thánh Thần mời gọi con người theo nhiều nẻo đường khác nhau, để quy tụ cho
Thiên Chúa một Dân được hiến thánh. Chúng ta là những dụng cụ Thiên Chúa dùng,
và hãy đặt cuộc đời mình vào bàn tay của Thiên Chúa.
Không có
công trình nào là thua mất cả với ánh mắt nhìn đức tin của Đức Maria, đôi khi
gặp những người cứng cỏi quá sức, hãy phó dâng cho Thiên Chúa, như người gieo
giống chỉ biết chờ đợi cho hạt giống nảy mầm. Đức Maria đã thấy nghiệm điều này
trong cuộc đời của Mẹ: “Chúa biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu
căng” (Lc 1, 51). Chúng ta cần biết chờ đợi điều Thiên Chúa sẽ cho mọc lên, sự
chờ đợi là một bài học cuối kết thúc cho sứ vụ truyền giáo chúng ta học nơi Đức
Maria.
Kính dâng Mẹ
những suy nghĩ này, bởi hơn ai hết Mẹ là vị Thày tốt nhất dạy chúng con sống sứ
vụ truyền giáo.
7. Hãy loan báo Tin mừng.
Một đạo sĩ hỏi các đệ tử: Các con có biết khi
nào đêm tàn và ngày xuất hiện, khi nào ánh sáng tới và bóng tối lui đi không?
Các đệ tử thi nhau trả lời: Thưa thầy, có phải đêm tàn và ngày xuất hiện là khi
từ xa nhìn một đoàn vật người ta có thể phân biệt được con nào là con bò con
nào là con trâu không? Thày lắc đầu: không phải. Đệ tử khác trả lời: Thưa thầy
có phải ánh sáng tới và bóng tối lui là khi từ xa nhìn vào vườn cây, người ta
có thể phân biệt được cây nào là cây xoài cây nào là cây mít không? Thầy vẫn
lắc đầu: không phải. Thấy không ai trả lời được, thầy mới giải nghĩa: Đêm tàn
và ngày xuất hiện, ánh sáng tới và bóng tối lui là khi nào ta nhìn vào mặt
người xa lạ và nhận ra đó là anh em mình.
Thật là khó
hiểu. Tuy trên đời ta thấy có nhiều thứ ánh sáng. Có ánh sáng mặt trăng mặt
trời. Có ánh sáng đèn dầu, đèn điện. Có những ánh sáng như tia X, tia hồng
ngoại. Nhưng tất cả những ánh sáng đó chỉ giúp ta nhìn rõ sự vật. Không thấy có
thứ ánh sáng nào soi vào mặt người xa lạ mà biến người ấy thành người thân của
mình.
Mẹ Têrêxa
dường như đã tìm ra thứ ánh sáng ấy. Mẹ là một nữ tu người Anbani, được sai đến
phục vụ người nghèo tại Ấn Độ, thấy người nghèo khổ quá tội nghiệp. Biết bao
người hấp hối ngoài lề đường. Chết rồi xác bị quẳng vào đống rác như xác thú
vật. Biết bao trẻ thơ bị bỏ rơi. Biết bao gia đình chui rúc trong các căn nhà ổ
chuột. Biết bao người đói khát không đủ cơm ăn áo mặc. Mẹ lăn xả vào phục vụ
người nghèo.
Một hôm Mẹ
đi thăm một ông già cô đơn trong căn lều tồi tàn. Bước vào lều Mẹ phải động
lòng thương cảm. Vì tất cả đồ đạc chỉ là một mớ giẻ rách. Căn lều bụi bặm bẩn
thỉu ngoài sức tưởng tượng. Và nhất là ông già thu mình lại không muốn giao
tiếp với ai. Mẹ chào hỏi ông cũng không thèm muốn trả lời. Mẹ xin phép dọn dẹp
căn lều ông cũng làm thinh. Đang khi dọn dẹp, Mẹ thấy trong góc lều có một cây
đèn dầu bụi bám đen đủi. Sau khi lau chùi, Mẹ kêu lên: Ô, cây đèn đẹp quá. Ông
già nói: Đó là cây đèn tôi tặng vợ tôi ngày cưới. Từ khi bà ấy chết, tôi không
bao giờ đốt đèn nữa. Thấy ông đã cởi mở, Mẹ Têrêxa đề nghị: Thế ông có bằng
lòng cho các chị nữ tu mỗi ngày đến thăm và đốt đèn cho ông không? Ông đồng ý.
Từ đó mỗi buổi chiều, các chị tới thăm ông, dọn dẹp nhà cửa, nói chuyện với
ông. Ngọn đèn ấm áp trong căn lều ấm cúng. Ông trở nên vui vẻ hơn. Ông đi thăm
mọi người. Mọi người đến thăm ông. Cuộc đời ông vui tươi trở lại.
Trước kia
cuộc đời ông tăm tối không phải vì ông không thắp đèn. Nhưng vì ngọn đèn trong
trái tim ông đã tắt. Trái tim khép kín nên ông mất niềm tin vào con người, vào
cuộc sống. Ông nhìn mọi người như thù địch. Từ ngày các nữ tu đến đốt đèn đời
ông vui lên, sáng lên. Đời ông sáng lên không phải vì có ngọn đèn dầu hỏa soi
sáng. Nhưng vì trái tim ông bừng sáng. Ngọn đèn tâm hồn ông rạng rỡ. Tâm hồn
ông cởi mở và ông nhìn thấy mọi người là anh em. Thứ ánh sáng ấy ta thấy trong
Phúc âm, khi người Samaritanô nhân hậu cúi xuống săn sóc, băng bó vết thương
cho người bị nạn bên đường. Hai người nhìn nhau. Một làn ánh sáng lóe lên. Và
họ nhận ra nhau là anh em.
Cứ như thế
Mẹ Têrêxa miệt mài phục vụ người nghèo. Lập những trung tâm đón tiếp những
người hấp hối, săn sóc để họ được chết, được chôn cất như một con người. Nuôi
trẻ mồ côi. Xây bệnh viện. Xây trường học. Công việc càng ngày càng mở rộng. Số
người theo Mẹ ngày càng đông và Mẹ lập dòng Nữ tử Thừa sai Bác ái chuyên phục
vụ người nghèo. Hiện nay nhà dòng đã có mặt trên 132 quốc gia. Mẹ được thế giới
biết tiếng. Mẹ được nhiều giải thưởng trong đó có giải Nobel Hòa bình. Năm
1997, khi Mẹ qua đời, 80 nguyên thủ quốc gia, trong đó có phu nhân tổng thống
Mỹ Bill Clinton và phu nhân tổng thống Pháp Jacques Chirac đã đến dự đám tang.
Và nước Ấn Độ, đa số dân theo Ấn Độ giáo, vốn không ưa đạo Công giáo, đã chôn
cất Mẹ theo nghi thức quốc tang. Hai mươi mốt phát súng đại bác tiễn đưa linh
hồn Mẹ về trời.
Mẹ Têrêxa là
một nhà truyền giáo thành công của thế kỷ 20. Vì Mẹ đã biết thắp lên ngọn đèn
soi trong đêm tối. Giữa đêm tối vật chất hưởng thụ. Mẹ đã thắp lên ngọn đèn
siêu nhiên của thiên đàng. Giữa đêm tối rụt rè nghi kỵ Mẹ đã thắp lên ngọn đèn
ấm áp tình người. Trái tim Mẹ là một ngọn đèn sáng. Ánh sáng ấy tỏa lan tới
muôn người làm cho mọi người nhận biết khuôn mặt hiền lành khiêm nhường của Đức
Kitô và làm cho mọi người nhìn nhau là anh em.
Vào thời
Cộng sản còn mạnh và còn chống đối Công giáo kịch liệt, Mẹ Têrêxa vẫn có thể
lập nhà ở Nga, ở Cuba và cả ở Việt Nam. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã có thể đi
khắp thế giới như lời Chúa truyền. Với tấm lòng bác ái, Mẹ đã chiếu tỏa ánh
sáng Tin Mừng khắp thế giới.
Hôm nay Giáo
hội cầu nguyện cho việc truyền giáo. Hôm nay Giáo hội mời gọi chúng ta góp phần
vào việc truyền giáo. Không gì bằng ta hãy noi gương Mẹ Têrêxa, thắp lên ngọn
lửa tin yêu trong lòng mình, đem ngọn lửa yêu thương phục vụ soi sáng khắp nơi.
Thế giới sẽ bừng sáng và mọi người sẽ nhìn nhận nhau là anh em.
8. Chứng tá.
Truyền giáo
là nhiệm vụ của mọi Kitô hữu. Đây là điều công đồng Vaticanô II nhắc đi nhắc
lại nhiều lần: việc rao giảng Tin Mừng là bổn phận chính yếu. Bổn phận căn bản
của Giáo hội và mỗi Kitô hữu. Công đồng đã làm nổi bật vấn đề truyền giáo và đã
định nghĩa Giáo hội là Giáo hội truyền giáo và coi việc truyền giáo là nghĩa vụ
tông đồ của mỗi Kitô hữu. Theo công đồng, không một tín hữu nào đáng gọi là tín
hữu mà có thể khước từ nhiệm vụ truyền giáo. Việc truyền giáo không thể là một
việc tùy sở thích, nhưng mỗi tín hữu phải coi đây là vấn đề sống đạo, vấn đề
sinh tồn của Giáo hội và là trách nhiệm của chính mình.
Đối với
người giáo dân, qua sắc lệnh về tông đồ giáo dân. Công đồng còn cho thấy vai
trò quan trọng của người giáo dân trong việc truyền giáo, vai trò là men, là
muối, là ánh sáng, là chứng nhân giữa đời. Bởi vì giáo sĩ không thể sống chân
bùn tay lấm nơi đồng ruộng với những nông dân; giáo sĩ không thể gồng gánh theo
chân những người buôn bán đi vào đầu đường xó chợ; giáo sĩ không thể đầu tắt
mặt tối làm việc trong những cơ xưởng, nhà máy, công trường… nhưng chính những
giáo dân nhà nông, những giáo dân buôn bán, những giáo dân công nhân, có nhiệm
vụ đem Chúa đến cho anh em mình nơi đồng ruộng, chợ búa, xí nghiệp, nhà máy,
nghĩa là những nơi mà giáo sĩ không thể có mặt và không thể đi đến, thì giáo
dân sẽ đóng vai trò chủ chốt và chủ động. Bởi đó, không những giáo dân đóng vai
trò yểm trợ cho giáo sĩ mà còn đóng vai trò chính yếu, thay thế cho giáo sĩ
trong những nơi hay những hoàn cảnh đó.
Như vậy cách
truyền giáo tốt nhất và có hiệu quả nhất là đời sống gương mẫu, đời sống Công
giáo đích thực, nhất là đời sống thể hiện tình yêu thương của chúng ta. Nếu
chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá sai lầm về đạo, khi
chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì chúng ta thực sự trở nên
những bạn tốt, những công nhân gương mẫu trong nhà máy, những công nhân gương
mẫu ngoài công trường. Tóm lại, chúng ta hãy nắm lấy những cơ hội đi lại đây
đó, khi thi hành công tác, khi làm ăn sản xuất, khi xê dịch thăm viếng… để nói
hay làm chứng về Chúa qua lời nói, thái độ và cách đối xử đầy tình yêu thương
của chúng ta.
Mẹ Têrêxa
Cancutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo như sau: đó là “một tín hữu Kitô
say mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi
người nhận biết và yêu mến Ngài”. Mẹ Têrêxa không chỉ làm cho người ta biết và
yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa Giêsu, Mẹ tỏ
bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục vụ của Mẹ. Do
đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêxa là dùng cả cuộc sống của mình để
làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu, truyền giáo không chỉ là rao giảng
một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu thương.
Có người đã kể lại lý do và động lực thúc đẩy
ông theo đạo như sau: “Tôi đau rất nặng, người ta đưa tôi vào bệnh viện, không
ai chăm sóc tôi cả ngoài một chị y tá, chị tỏ ra rất tốt và tận tình giúp đỡ
tôi. Một đêm kia, trời đã rất khuya, tôi thấy chị quỳ gối im lặng trong phòng,
tôi hỏi: “Chị quỳ làm gì thế?”. Chị trả lời: “Tôi cầu nguyện cho ông”. Chỉ mấy
tiếng đó thôi đủ làm cho tôi bấy lâu không biết Chúa, bây giờ được biết Chúa,
tôi thấy Chúa nơi người chị y tá ấy. Giữa những đau khổ thể xác và tinh thần,
nhờ sự săn sóc đầy tình người và những lời cầu nguyện đầy yêu thương của chị y
tá ấy, tôi đã gặp Chúa”.
Câu chuyện
trên cho chúng ta thấy gương sáng và tình yêu thương là bằng chứng cho người ta
nhận ra Thiên Chúa. Có nhiều người không bao giờ thấy chúng ta cầu nguyện sốt
sắng ở nhà thờ, vì họ có đạo đâu mà đến nhà thờ, nhưng họ thấy cách chúng ta
biểu lộ tình thương với họ hay với những người chung quanh mà họ nhận ra Thiên
Chúa của tình yêu. Nếu chúng ta sống thực sự yêu thương thì không ai đánh giá
sai lầm về đạo Chúa, khi chúng ta chứng minh tình yêu bằng đời sống tốt thì
chúng ta thực sự trở nên những người bạn tốt của nhau.
Trong thư
mục vụ năm 2003 của các giám mục Việt Nam, số 10 cũng nói đến cách truyền giáo
này: cầu nguyện cho việc truyền giáo là việc quan trọng hàng đầu, việc truyền
giáo phải đặt nền tảng trên lời cầu nguyện: cá nhân, gia đình, cộng đoàn, giáo
xứ. Trước khi rao giảng bằng lời nói, hãy rao giảng bằng đời sống, chúng ta hãy
nêu gương về đời sống hiệp nhất yêu thương, không có lời rao giảng nào có sức
thuyết phục bằng sự hiệp nhất yêu thương trong gia đình, xóm làng, trong giáo
xứ, trong giáo phận, như lời Chúa phán: “Chính nơi điều này mà mọi người sẽ biết anh
em là môn đệ của Thầy, ấy là nếu anh em thương yêu nhau”.
Tóm lại,
ngày thế giới truyền giáo hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy luôn ý thức về sự quan
trọng của việc truyền giáo và nhắc nhở chúng ta hãy góp phần mình vào công cuộc
truyền giáo của Giáo hội bằng việc cầu nguyện và bằng đời sống tốt đẹp của
chúng ta.
9. Truyền giáo.
“Mỗi người ở
ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo, và mỗi người ở trong Chúa là một nhà
truyền giáo”. Câu nói trên rất đúng và cũng rất hay.
“Mỗi người ở
ngoài Chúa là một cánh đồng truyền giáo”. Điều đó rất đúng. Như vậy, cánh đồng
truyền giáo vẫn còn bao la, mênh mông. Mặc dầu Tin Mừng đã được loan truyền và
đạo Chúa đã được thiết lập cả hai ngàn năm rồi mà số đông vẫn chưa được nghe
biết Tin Mừng, hay nói ngược lại, chưa được một phần ba nhân loại nhận biết
Chúa Kitô. Với đà gia tăng dân số kinh khủng hiện nay, thì một ngày kia số ngày
tin theo Chúa sẽ trở thành thiểu số đáng ngại.
Các nước
được mệnh danh là “Công giáo” như Tây Ban Nha, Pháp, Ý… có tới 70-80 phần trăm
dân số được rửa tội, nhưng được mấy chục phần trăm sống theo đức tin? Từ hơn
nửa thế kỷ rồi, ngay giữa Âu Châu đã vang lên những lời cảnh tỉnh: “Nước Pháp,
xứ truyền giáo”. Nước Pháp mà còn gọi là xứ truyền giáo thì nói gì đến những xứ
truyền giáo chính hiệu như ở Á Châu, Phi Châu. Hai nước có dân số lớn nhất nhì
thế giới là Trung Quốc và An độ, chỉ có không tới một phần trăm là Công giáo.
Nếu đất nước chúng ta đã thấm nhiều máu tử đạo và đang có một cộng đồng Công
giáo tương đối đông đảo, thì sát cạnh nước chúng ta, hai nước Lào và Campuchia
kể như vẫn chưa được rao giảng Tin Mừng.
Ngay tại
Việt Nam chúng ta, tính đến ngày 31-12-2004, số người Công giáo trên toàn quốc
là 5.776.972 người trên tổng số dân cả nước là 82.032.300 người, chiếm tỷ lệ
khoảng 7,04% dân số. Việt Nam
vẫn còn là xứ truyền giáo, và việc truyền giáo vẫn luôn là vấn đề cấp bách.
Chính vì sự cấp bách đó nên Giáo Hội luôn luôn cổ võ tinh thần truyền giáo,
nhất là trong những văn kiện gần đây của Công đồng Vaticanô II cũng như của các
Đức Giáo Hoàng. Cũng nhằm mục tiêu đó, mỗi năm Giáo Hội dành riêng một Chúa
Nhật để cầu cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng, kêu gọi các tín hữu cầu
nguyện, hy sinh, đóng góp, đồng thời thúc giục mọi người tham gia vào công cuộc
cao quý vĩ đại ấy.
Truyền giáo
là bổn phận của mọi người và mỗi người, việc truyền giáo không của riêng ai, và
không phải là một việc làm tùy sở thích, muốn làm hay không cũng được, đây là
một bổn phận, một nhiệm vụ bắt buộc, không ai có quyền trốn tránh và không ai
có lý do nào tự miễn chuẩn cho mình hay tự bào chữa cho mình được. Từ một em bé
đến một cụ già, từ một bệnh nhân đến một lực sĩ, từ một người buôn bán đi khắp
đó đây đến một người nội trợ, từ một người bình dân đến một người trí thức…
trong mỗi hoàn cảnh sinh sống, ai cũng phải truyền giáo, người nào cũng có thể
tìm thấy cách thức truyền giáo thích hợp với khả năng của mình. Do đó, “Mỗi
người ở trong Chúa là một nhà truyền giáo”, câu nói đó rất đúng, mỗi người
chúng ta phải là một nhà truyền giáo.
Đành rằng
không phải ai cũng có thời giờ hoặc khả năng làm công việc truyền giáo trực
tiếp, nhưng tất cả mọi người đều có thể và phải thực hiện cách gián tiếp. Chẳng
hạn, cầu nguyện cho việc truyền giáo; đóng góp vào việc truyền giáo bằng những
hy sinh; bớt tiêu xài một chút trong gia đình hay cho cá nhân mình để đóng góp
vào công cuộc truyền giáo, nhưng trên hết là truyền giáo bằng đời sống chứng
nhân. Đây là cách truyền giáo tốt nhất và hữu hiệu nhất: Truyền giáo bằng đời
sống tốt đẹp của chúng ta, một đời sống đạo đức chân thành, cởi mở, yêu thương
là một tấm gương sáng trước mặt mọi người.
Cách đây ít
năm, có một cuốn Phim Việt Nam gây được nhiều chú ý ở ngoại quốc là phim
“Chuyện Tử tế” của đạo diễn Trần văn Thuỷ, phim được hãng truyền hình Pháp mua
và trình chiếu trong chương trình có tên là Đại Dương. Sau khi xem cuốn phim
này, một ký giả ngoại quốc đã hỏi đạo diễn Trần văn Thuỷ: “Những người Kitô
Việt Nam có thể làm gì để truyền giáo cho dân tộc họ?” Nhà đạo diễn đã trả lời:
“Với tôi, điều người ta mong đợi ở các Kitô-hữu là niềm tin của họ và họ phải
sống điều họ tin”. Lời phát biểu trên đáng để chúng ta suy nghĩ. Sống trong một
đất nước còn nhiều khó khăn, sống trong một dân tộc còn nhiều người chưa biết
Chúa, sống trong một xã hội còn nhiều tiêu cực, thì đối với người Kitô, tin và
sống niềm tin của mình là phải sống, phải tin thật tử tế, tức là tin và sống
tình nhân loại, sống quảng đại, tóm lại là sống tình người. Tin và sống như thế
không phải chỉ là cách sống dành cho các nữ tu, các linh mục mà cũng chính là
sứ mạng và ơn gọi của mỗi Kitô hữu.
Trong Tin Mừng,
chúng ta thấy Chúa Giêsu không chỉ sai 12 tông đồ đi rao giảng nhưng Ngài sai
tất cả 72 môn đệ. Điều này có nghĩa là việc rao giảng Tin Mừng không phải chỉ
dành cho một số thành phần trong Giáo Hội: Giám mục, linh mục, tu sĩ, nhưng là
bổn phận của mọi người và mỗi người. Điều đáng chú ý nữa là khi sai các môn đệ
đi rao giảng, Chúa Giêsu không mấy chú trọng đến phương tiện. Phương tiện mà
Chúa trao cho họ là đừng mang theo túi tiền, bao bị gì cả, phương tiện duy nhất
và tiên quyết là đem lại bình an cho mọi người, là sống chia sẻ, sống trọn tình
người với họ. Tóm lại là sống tử tế với mọi người.
Sống tử tế
là sống vui tươi, sống lạc quan, sống biết điều, sống lịch sự, sống cảm thông,
sống yêu thương với mọi người, sống như thế là chúng ta đang góp phần làm cho
danh Chúa được cả sáng và nước Chúa được trị đến, tức là chúng ta đang truyền
giáo vậy.
10. Đời sống chứng nhân.
Hôm nay,
ngày thế giới truyền giáo. Chúng ta cùng tìm hiểu xem: Truyền giáo là gì? Chúng
ta phải truyền giáo thế nào?
Trước hết,
truyền giáo là gì? Truyền là truyền bá, truyền thông, chuyển giao, rao giảng,
loan truyền… Giáo là giáo lý, đạo giáo, Tin Mừng, Phúc âm… Truyền giáo là
truyền bá đạo, là rao giảng Phúc âm, là loan truyền chân lý của Chúa cho người
khác. Đó là ý nghĩa thứ nhất, nghĩa hẹp, nghĩa chặt và chính xác. Đàng khác,
truyền giáo còn có nghĩa là lập những cộng đoàn Kitô hữu trong đức tin, trong
phụng tự Thánh Thể, bác ái như Giáo hội mong muốn. Nói khác đi, truyền giáo là
“trồng” Giáo hội vào các dân tộc, các địa phương, cho đến khi những người trong
địa phương ấy trở nên tín hữu, thành một đoàn chiên. Theo ý nghĩa này, truyền
giáo không phải chỉ là truyền bá một số giáo lý, nhưng là truyền thông sự sống
của Chúa cho anh em khác, vì Thiên Chúa là Đấng hằng sống, đạo Chúa là đạo sự
sống, là nguồn sống, có khả năng thay đổi, biến cải những con người từ không có
Chúa trở thành có Chúa, từ mất Chúa trở thành tìm lại được Chúa. Truyền giáo
theo nghĩa này là truyền sự sống của Chúa Kitô mà chúng ta đã có sang cho anh
em mình, như thân cây nho chuyển nhựa sống sang cho cành nho. Sau hết, truyền
giáo còn có một nghĩa nữa là củng cố, tăng cường, huấn luyện đức tin cho một
cộng đoàn, cho các tín hữu, để họ lại ra đi truyền giáo cho những người khác.
Những ý
nghĩa trên đây cho thấy hai chiều của việc truyền giáo: chiều rộng và chiều
sâu. Nếu làm cho những người chưa biết Chúa hoặc những người biết mà đã bỏ
Chúa, được nhận biết và yêu mến Chúa. Đó là truyền giáo theo chiều rộng, là mở
rộng nước Chúa và làm tăng thêm số người thờ phượng Chúa. Còn nếu làm cho những
người đã biết và yêu mến Chúa được hiểu biết và yêu mến Chúa hơn, để rồi họ lại
tiếp tục làm những công việc ấy nơi những người khác. Đó là truyền giáo theo
chiều sâu, vì làm cho nước Chúa được vững chắc hơn và làm tăng thêm số người
Công giáo sốt sắng, đạo đức.
Việc phân
biệt ý nghĩa như trên đây rất quan trọng để chúng ta hiểu rõ hơn việc truyền
giáo, vì truyền giáo không phải chỉ có nghĩa là làm cho những người ngoại,
những người lương, những người chưa biết được biết và yêu mên Chúa, nhưng còn
có nghĩa là truyền giáo cho cả những người Công giáo sống trong một họ, một xứ
với chúng ta nữa. Chúng ta phải sống một đời đạo đức, sốt sắng, thánh thiện để
làm gương tốt cho họ, để giúp cho họ thêm lòng yêu mến và tôn kính Chúa.
Đó là ý
nghĩa của việc truyền giáo. Và như vậy tất cả chúng ta đều có nhiệm vụ truyền
giáo. Việc truyền giáo không của riêng ai và không phải là một việc làm tùy sở
thích, muốn làm hay không cũng được. Nhưng đây là một bổn phận, một nhiệm vụ
bắt buộc. Mỗi người chúng ta phải coi đây là vấn đề sống đạo, là vấn đề sinh
tồn của Giáo Hội và là trách nhiệm của chính mình.
Vậy chúng ta
phải truyền giáo thế nào? Có rất nhiều cách. Chúng ta muốn dùng cách nào cũng
được, nhưng nhất thiết phải thi hành hai cách này là cầu nguyện và đời sống
chứng nhân: Cầu nguyện cho việc truyền giáo là cách thức rất quan trọng: cầu
nguyện cho những người đi truyền giáo, cầu nguyện cho mọi người mở rộng lòng
sẵn sàng đón nhận ơn Chúa, Lời Chúa. Cụ thể như thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, cả
đời không đi đâu truyền giáo, chỉ ở trong bốn bức tường dòng kín cầu nguyện cho
việc truyền giáo. Thế mà Giáo Hội đã tôn phong ngài là quan thầy các nơi truyền
giáo, ngang hàng với thánh Phanxicô Xaviê. Xin anh chị em hãy suy nghĩ: Chúng
ta có thường xuyên thi hành việc này không? Chúng ta có cầu nguyện cho việc
truyền giáo không? Nếu không thì đó là tội thiếu sót, bỏ việc phải làm. Thứ hai
là truyền giáo bằng chính đời sống chứng nhân của mình: Đây là cách truyền giáo
tốt nhất và hữu hiệu nhất, đó là truyền giáo bằng đời sống tốt đẹp của chúng
ta. Một đời sống đạo đức, chân thành, cởi mở, yêu thương là một tấm gương sáng
trước mặt mọi người. Một đời sống tốt đẹp có sức lôi cuốn hơn những lời nói
hay, vì “Lời nói lung lay, gương bày lôi kéo". Chúng ta hãy suy nghĩ: đời
sống chúng ta hiện nay có làm chứng cho Chúa, cho đạo không?
11. Hãy
thả lưới bên phải thuyền.
Các Tông đồ
đã đánh cá vất vả suốt đêm mà không được con cá nào. Nay Chúa Giêsu bảo các
ngài phải ra khơi một lần nữa. Chắc các ngài phải ngần ngại lắm. Ngần ngại vì
vừa qua một đêm vất vả, thân thể mỏi nhừ vì suốt đêm phải vật lộn với biển cả,
với sóng gió, với chài lưới. Ngần ngại vì đang buồn ngủ. Mắt chĩu nặng vì suốt
đêm không ngủ, đang cần một giấc ngủ để hồi phục sinh lực. Ngần ngại vì vừa bị thất
bại ê chề, đã mất hết ý chí phấn đấu. Thế nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa, ra
khơi, thả lưới. Và kết quả thật là bất ngờ. Lưới đầy cá chất đầy hai thuyền đến
gần chìm.
Qua bài Tin
Mừng này Chúa muốn dạy tôi những bài học về việc truyền giáo.
Bài học thứ nhất: Truyền giáo là một công
việc đòi hỏi vất vả. Phải lao
động đêm ngày. Như các Tông đồ đã chài lưới suốt đêm thâu trong sương đêm giá
lạnh, trong sóng gió biển khơi, trong vất vả cực nhọc. Suốt đêm đã lênh đênh
trên biển cả, sáng sớm vừa mới về tới đất liền, tưởng được nghỉ ngơi, không ngờ
lại phải ra khơi ngay tức khắc. Ra khơi cả lúc đang mệt mỏi cần nghỉ ngơi.
Người muốn truyền giáo cũng phải noi gương các tông đồ. Làm việc không nghỉ.
Phải đầu tư sức lực và trí tuệ. Phải phấn đấu không ngừng. Làm cho hết việc chứ
không làm cho hết giờ. Và phải chấp nhận tất cả những mỏi mệt, những thử thách.
Bài học thứ hai: Truyền giáo là một công việc
đòi hỏi kiên trì. Vì việc
truyền giáo có nhiều thất bại hơn thành công, có nhiều mệt nhọc hơn vui thích,
nên việc truyền giáo đòi hỏi rất nhiều kiên trì. Kiên trì khi đã gặp thất bại.
Kiên trì khi đã chán nản, mệt mỏi rã rời. Kiên trì khi gặp những trắc trở. Như
lời thánh Phaolô khuyên dạy: “Hãy rao giảng Lời Chúa. Hãy lên tiếng, lúc thuận
tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2Tim 4,2). Các Tông đồ thật kiên trì, mặc
dù đã thất bại sau suốt một đêm vất vả, các ngài vẫn tiếp tục ra khơi theo lệnh
Chúa truyền. Trong quá khứ, ta đã gặp nhiều thất bại trong việc truyền giáo.
Hôm nay Chúa lại mời gọi ta hãy ra khơi, hãy lên đường truyền giáo. Ta hãy mau
mắn đáp lời Chúa mời gọi, kiên nhẫn làm việc trên cánh đồng truyền giáo, bất
chấp mọi thất bại, bất chấp mọi chán nản.
Bài học thứ ba: Truyền giáo là một công việc
đòi hỏi thanh luyện bản thân. Truyền giáo
là công việc thánh thiện nên người truyền giáo phải thánh thiện. Sự thánh thiện
khởi đi từ nhận thức thân phận yếu hèn tội lỗi. Và từ đó nảy sinh nhu cầu được
thanh luyện. Như Phêrô cảm thấy mình tội lỗi không xứng đáng ở gần Chúa. Như
Phaolô ngã ngựa cảm thấy mình lầm lạc. Như Isaia cảm thấy môi miệng mình ô uế.
Sau khi được thanh luyện các ngài đã trở thành những nhà truyền giáo gương mẫu.
Thánh hóa bản thân là một điều kiện quan trọng để truyền giáo thành công.
Bài học thứ tư: Truyền giáo là một công việc
đòi hỏi lắng nghe Lời Chúa. Vì truyền
giáo là một công việc thiêng liêng. Nên ta không thể cậy dựa vào sức lực phàm
nhân, phương tiện phàm trần. Các tông đồ là những ngư phủ chuyên nghiệp. Các
ngài biết rõ biển hồ Galilê như lòng bàn tay. Thế mà các ngài đánh cá suốt đêm
chẳng được con nào. Đó là bài học dạy ta biết rằng, nếu cậy dựa vào tài sức
riêng, việc truyền giáo sẽ không có kết quả. Việc các tông đồ vâng lời Chúa ra
khơi và vâng lời Chúa thả lưới bên phải mạn thuyền cho ta thấy một thái độ
khiêm nhường lắng nghe. Dù Chúa Giêsu không phải là ngư phủ chính gốc. Dù Chúa
Giêsu không hiểu biết biển hồ, nhưng các ngài vẫn vâng lời Chúa. Chính nhờ thế,
các ngài đã thành công. Người làm việc truyền giáo phải noi gương các tông đồ
biết khiêm nhường nhận biết sự bé nhỏ nghèo hèn của bản thân để thao thức lắng
nghe Lời Chúa. Chỉ làm theo Lời Chúa, làm theo ý Chúa, làm vì Chúa việc truyền
giáo mới có kết quả tốt đẹp.
Xin Chúa ban
cho mỗi người chúng ta một nghị lực mạnh mẽ để sẵn sàng chấp nhận những vất vả
khổ cực trong việc truyền giáo. Xin cho chúng ta biết chấp nhận cả những thất
bại mà vẫn kiên trì lên đường truyền giáo. Và nhất là xin cho mọi người chúng
ta được Chúa dạy bảo, để biết làm theo ý Chúa. Chỉ có như thế, việc truyền giáo
mới có kết quả tốt đẹp.
Lạy Chúa Giêsu,
xin kêu gọi chúng con lên đường truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin thanh luyện
chúng con để xứng đáng làm việc truyền giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con
biết cách làm việc truyền giáo. Amen.
12.
Thầy Ở Cùng Anh Em.
Suy Niệm
Truyền giáo
là một mệnh lệnh và cũng là một ước mơ của Chúa Phục Sinh: "Anh em hãy đi
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ."
Ngài đòi ta
phải ra đi loan báo Tin Mừng, nhưng cuối cùng là phải giúp người khác trở thành
môn đệ của Chúa Giêsu, nghĩa là có tương quan thân thiết với Ngài, dám sống như
Ngài, sống cho Cha và con người.
Đấng Phục
Sinh nắm quyền trên cả thế giới, nên Ngài sai chúng ta đến với mọi dân tộc. Tin
Mừng không còn bị giới hạn trong mảnh đất Israel , nhưng lan rộng khắp trái
đất (x. Mt 10,5). Ngày nào còn một người chưa trở thành môn đệ, ngày ấy trách
nhiệm chúng ta vẫn còn.
"Bằng
cách làm phép Rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần".
Phép Rửa khiến người ta trở thành môn đệ Đức Kitô, và đi vào tương quan với Ba
Ngôi Thiên Chúa.
"Bằng
cách dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho anh em", như thế các môn
đệ thuộc bất cứ thời đại nào đều có một điểm chung, đó là cùng tuân giữ toàn bộ
giáo huấn của Chúa.
"Và đây
Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" Đây không phải là một lời hứa
cho tương lai, nhưng là một điều đang xảy ra trong hiện tại. Chúa Giêsu thật là
Emmanuel (Mt 1,23), Ngài ở cùng Giáo Hội, ở cùng các môn đệ, Ngài ở bên họ
trong mọi bước đường rao giảng (Mc 16,20).
Khi nhìn đến
quê hương Việt Nam ,
chúng ta thấy hơn 70 triệu người chưa biết Chúa. Chúng ta có trách nhiệm loan
báo Tin Mừng, có bổn phận nói về Chúa cho họ, nói bằng lời và nói bằng cuộc
sống cụ thể. Làm sao qua cuộc sống của tôi: yêu thương, tha thứ, hy sinh phục
vụ, bình an vui tươi, người ta gặp được Đấng Vô Hình mà gần gũi? Làm sao tôi có
thể trả lời được những câu hỏi, soi sáng được những vấn đề nhức nhối của họ
bằng ánh sáng Tin Mừng?
Truyền giáo
không phải là tuyên truyền hay mua chuộc, cũng không phải là áp đặt một cách
tinh vi, Truyền giáo là hát lên niềm vui chất chứa nơi lòng mình, là tỏa hương
tự nhiên như đoá hoa. Truyền giáo là hơi thở của một Giáo Hội đầy sức sống
Thánh Thần.
Chúng ta
phải biếu Chúa Giêsu cho con người hôm nay. Nhưng trước hết chúng ta phải có
Chúa Giêsu, và phải biết lắng nghe con người.
Gợi Ý Chia Sẻ
·
Theo ý bạn, tại sao ít người Việt Nam theo đạo
Công Giáo? Có gì cần sửa đổi để người khác dễ chấp nhận đạo chúng ta hơn không?
·
Cha Đắc Lộ đã đi truyền giáo ở Việt Nam và đã
đóng góp nhiều cho việc hình thành chữ Quốc Ngữ. Theo bạn, người Công Giáo Việt
Nam hôm nay có thể làm được điều gì cho quê hương Cha Đắc Lộ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa
Giêsu là Con Thiên Chúa, Chúa đã muốn trở nên con của loài người, con của trái
đất, con của một dân tộc. Chúa vẫn yêu mến dân tộc của Chúa dù họ từ khước Tin
Mừng và đóng đinh Chúa vào thập giá. Xin cho chúng con biết yêu mến quê hương,
một quê hương còn nghèo nàn lạc hậu sau những năm dài chiến tranh, một quê
hương đang mở ra trước thế giới nhưng lại muốn giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo
vệ nền đạo lý của cha ông.
Xin cho
chúng con đừng nhắm mắt ngủ yên trong sự an toàn và tiện nghi vật chất, nhưng
biết trăn trở trước nỗi khổ đau, và làm một điều gì đó thật cụ thể cho những
đồng bào quanh chúng con. Ước gì chúng con biết phục vụ đất nước bằng khối óc,
quả tim và đôi tay. Và ước gì chúng con biết khiêm tốn cộng tác với muôn người
thiện chí.
13.
Truyền giáo.
(Trích trong ‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm Ấn Độ hồi tháng 11.1999. Cao điểm của chuyến
viếng thăm này là nghi thức công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu. Tông Huấn
này là một đúc kết kết quả của Thượng Hội Đồng Giám Mục tại Á Châu nhóm họp tại
Rôma hồi tháng 4.1999. Việc chọn Ấn Độ làm nơi công bố Tông Huấn mang một ý
nghĩa đặc biệt. Những nơi mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II mong mỏi đến viếng
thăm nhất hẳn phải là Đài Loan, Hồng Kông, Trung Hoa Lục Địa và đặc biệt là
Việt Nam. Thế nhưng, cho đến nay người ta vẫn cứ nại đến lý do chính trị và
quan hệ ngoại giao để không cho Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đến viếng thăm
Giáo Hội ở phần đất này. Dĩ nhiên đằng sau những lý do chính trị và quan hệ
ngoại giao ấy, ai cũng thấy rõ chủ trương bài trừ tôn giáo và nhất là chống lại
Giáo Hội. Tựu trung linh hồn của bất cứ một chế độ độc tài ý thức hệ nào cũng
là tinh thần bất khoan nhượng. Người dân không những bị cưỡng bách phải tuyên
xưng ý thức hệ của chế độ mà còn bị kỳ thị loại trừ và bách hại về niềm tin tôn
giáo của mình.
Tuy là một
quốc gia có nền dân chủ lớn nhất thế giới hiện nay, Ấn Độ đang bị xâu xé vì
tinh thần bất khoan nhượng. Tại một quốc gia với một tỷ dân này, liên minh cầm
quyền gồm những người theo chủ nghĩa Ấn Giáo, trong đó có một số thành phần cực
đoan lại tái cử thêm nhiệm kỳ nữa, tinh thần bất khoan nhượng ngày càng gia
tăng tại Ấn Độ. Trong những năm gần đây, người ta ước tính là đã có gần 150 vụ
tấn công nhắm vào nhân sự và các cơ sở của Kitô Giáo, nhiều vị mục sư và linh
mục bị sát hại, nhiều nữ tu bị bạo hành, nhiều nhà thờ bị đốt phá.
Một nhóm Ấn
Giáo cực đoan đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối nhân dịp Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô Ii viếng thăm Ấn Độ. Họ đòi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II lên án các
cuộc trở lại Công Giáo cũng như xin lỗi người Ấn Độ về những phương pháp truyền
giáo cho người Ấn trong quá khứ. Chính trong bầu khí đầy bất khoan nhượng ấy mà
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đến viếng thăm Ấn Độ, đúng hơn chính bầu khí
bất khoan nhượng ấy đã khiến Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II chọn Ấn Độ làm nơi
để công bố Tông Huấn về Giáo Hội Tại Á Châu.
Trong bầu
khí đó chúng ta thấy rằng, sứ điệp mà Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ với
các tín hữu Kitô tại Ấn Độ và toàn thể Á Châu, cũng như với tất cả mọi người Ấn
Độ là sứ điệp về lòng khoan nhượng. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trưng dẫn
cuộc cách mạng bất bạo động vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại do Mahatma
Gandhi chủ xướng, Ngài cũng nói đến tấm lòng khoan dung độ lượng của biết bao
nhiêu nhà hiền triết Ấn Độ.
Quả thật,
tôn giáo nào cũng tốt trong một mức độ nào đó, câu nói này nói lên tinh thần
khoan nhượng vốn là yếu tính của tất cả mọi tôn giáo. Thật thế, tôn giáo nào
cũng dạy con người ăn ngay ở lành; tôn giáo nào cũng lên án ích kỷ, bạo động,
hận thù và tinh thần bất khoan nhượng.
Trong tuyển
tập có tựa đề "Con Đường Đơn Sơ" của Mẹ Têrêsa Calcutta, vị Sáng Lập
Dòng Nữ Tu Thừa Sai Bác Ái đã viết như sau: "Chỉ có một Thiên Chúa và Ngài
là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Do đó, cần phải nhận ra mọi người bình đẳng
trước mặt Chúa. Tôi vẫn luôn luôn nói rằng, chúng ta phải giúp cho một người Ấn
Giáo trở thành người Ấn Giáo tốt hơn; một người Hồi Giáo được trở thành một
người Hồi Giáo tốt hơn và một người Công Giáo trở thành một người Công Giáo tốt
hơn." Lễ quốc táng mà chính phủ Ấn Độ đã dành cho Mẹ cách đây 4 năm chứng
tỏ rằng, sứ điệp mà Mẹ mang đến cho dân tộc này đã được mọi người đón nhận. Sứ
điệp ấy không chỉ được Mẹ Têrêsa nói lên bằng những lời nói suông mà còn bằng
cả cuộc sống của Mẹ nữa.
Hôm nay là
ngày thế giới truyền giáo, chúng ta hiệp nhau cầu nguyện cho công việc truyền
giáo của Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện cách đặc biệt cho các nhà thừa sai trên
cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội. Chúng ta tuyên xưng rằng, Chúa Giêsu Kitô
là Đấng duy nhất cứu rỗi nhân loại, nhưng quan trọng hơn cả là chúng ta được
Giáo Hội mời gọi mỗi người ý thức về sứ mệnh truyền giáo của mình, nhất là hiểu
được ý nghĩa đích thực của việc truyền giáo trong thế giới hôm nay.
Mẹ Têrêsa
Calcutta đã định nghĩa về một nhà truyền giáo: "Đó là một tín hữu Kitô say
mê Chúa Giêsu đến độ không có một ước muốn nào khác hơn là làm cho mọi người
nhận biết và yêu mến Ngài". Mẹ Têrêsa không những chỉ làm cho người ta
biết và yêu mến Chúa Giêsu bằng những lời nói suông, nhưng Mẹ nói về Chúa
Giêsu, Mẹ tỏ bày gương mặt của Chúa Giêsu bằng chính cuộc sống yêu thương phục
vụ của Mẹ. Do đó, truyền giáo thiết yếu đối với Mẹ Têrêsa là dùng cả cuộc sống
của mình để làm cho người ta biết và yêu mến Chúa Giêsu.
Truyền giáo
không chỉ là rao giảng một giáo lý mà thiết yếu là chia sẻ một cuộc sống yêu
thương. Đây chính là cốt lõi mà Chúa Giêsu cô đọng trong giới răn mến Chúa và
yêu người được Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe trong Tin Mừng hôm nay. Trong xã
hội mà Kitô giáo chỉ là thiểu số thì truyền giáo đối với Kitô hữu hiện nay là
quyết tâm sống như thế nào để cho mọi người nhận biết Chúa Giêsu là Đấng đã đến
chỉ để rao giảng một thứ đạo, đó là đạo của tình thương. Trong một chế độ chối
bỏ những quyền tự do cơ bản nhất của con người, thì truyền giáo đối với các tín
hữu Kitô hiện nay chính là biểu lộ được bộ mặt đích thực của Đạo là yêu thương
và khoan nhượng.
TRUYỀN GIÁO
Truyền giáo là ra khỏi chính mình để sống với Chúa.
Vì ra khỏi nhà dễ hơn ra khỏi mình.
Vì ra khỏi nhà dễ hơn ra khỏi mình.
Những quan niệm sai
- Hai tiếng truyền giáo cách chung còn xa lạ với nhiều
người. Vì cho rằng truyền giáo là việc của đức Giáo hoàng, các Giám mục, linh
mục và tu sĩ.
- Truyền giáo ư? Trình độ giáo lý thì kém, đức tin lại
yếu, tôi không có khả năng soạn bài, giảng dạy, thuyết trình, rồi cũng chẳng
quy tụ được nhiều người đến để nghe. Là dân thường nên ai chịu nghe tôi. Vì thế
làm gì dám nghĩ đến chuyện truyền với giáo.
- Truyền giáo là ra khỏi nhà cửa, xứ sở, quê hương đất
nước để giới thiệu Chúa Kitô. Nếu vậy, tôi sinh ra, lớn lên, ăn đời ở kiếp nơi
đây thì không phải làm việc ấy, ai đi ra khỏi xứ thì mới cần. Như thánh Têrêsa
hài đồng Giêsu chỉ sống trong dòng kín thôi, vậy mà ngài được chọn làm bổn mạng
các xứ truyền giáo, thế nên tôi cũng chỉ ở nhà là được, không cần đi đâu hết.
- Mẹ Têrêsa Caculta suốt ngày có mặt nơi phố chợ để tìm
kiếm và lo cho người nghèo, những người xấu số, vì vậy tôi cũng không cần phải
ở nhà với gia đình, nhưng ở…ngoài đường cũng tốt.
Những quan niệm đúng
Bản chất của Giáo hội là truyền giáo, nên ai đã gia nhập
vào Giáo hội qua bí tích rửa tội thì cũng mang trong mình bản chất ấy. Bản chất
truyền giáo, giới thiệu Chúa Kitô cho người khác. Vì thế, tất cả những ai là
công dân nước Chúa thì đều có bổn phận và trách nhiệm loan báo Tin Mừng.
Giống như báo hiếu mẹ cha, đây không phải là nhiệm ý, làm
hay không tuỳ thích. Nhưng báo hiếu là trách nhiệm và là bổn phận của con cái
đối với các ngài. Truyền giáo cũng thế, đây là việc phải làm của mọi thành phần
dân Chúa, chứ không phải là chuyện của riêng ai, giáo dân hay nhà tu. Một mặt
để chúc tụng tạ ơn Chúa, một mặt để báo hiếu Ngài. Vì vậy, nói cho người khác
biết về Thiên Chúa là Cha tốt lành của mình là việc hãnh diện cần làm. Cha hãnh
diện về con, con hãnh diện về cha. Điều tốt lành này cần phải giới thiệu cho cả
thế giới biết.
Quả thật, có kiến thức, nhiều khả năng hỗ trợ cho
công việc rất nhiều. Nhưng điều quan trọng thì “Truyền giáo là vấn đề
của tình yêu”. Vì thế, tình yêu phải là điều kiện đầu tiên để bắt đầu cho
hành trình này. Nhìn các tông đồ thời sơ khai mà xem, các ông khởi sự bằng việc
kể lại câu chuyện tình yêu của một Đấng mà họ đã nghe, đã nhìn, cùng ăn cùng
sống và Ngài đã chịu chết cho nhân loại.
Chỉ thế thôi, vậy mà biết bao người đã tin theo. Họ không
nghe theo vì lời lẽ bóng bảy hoa mỹ hay bởi khả năng hùng biện cá nhân nơi các
tông đồ, nhưng là sức mạnh của lòng tin. Lòng tin này trở thành bằng chứng mạnh
mẽ khi họ chấp nhận chịu mọi thứ gian khổ, tù đày, phỉ báng, thiệt thân vì Đấng
họ đang nói.
Như vậy, truyền giáo, đơn giản và dễ hiểu là ta kể lại
kinh nghiệm tình yêu, kinh nghiệm sống sống đạo, kể lại những cuộc gặp gỡ thân
tình với Chúa cho người khác. Đơn giản như thế thì ai cũng có thể làm được và
làm tốt.
Truyền giáo là chuyện của những người đi xa, ra khỏi xứ
chứ tôi có đi đâu đâu. Nếu quan niệm như thế thì ta đang dần đóng khung lại với
bầu trời tình yêu mà Chúa đã dành cho con người. Vì ta được sinh ra để sống
với, sống cùng mọi người. Qua vũ trụ thiên nhiên, qua con người, ta dần nhận ra
con người thật của mình, nhận ra nhau, nhận ra Chúa. Vì vậy, việc ra đi và đến
với là điều cần thiết để nhìn thấy hình ảnh tốt lành của Thiên Chúa đang sống
và hoạt động nơi các thụ tạo của Ngài.
Nếu cứ ở suốt ngày ngoài đường thì gọi là truyền giáo, là
giống mẹ Têrêsa thì lầm to. Bác ái không có nghĩa là bỏ bê trách nhiệm. Truyền
giáo không phải là không chu toàn bổn phận. Bởi ta được mời gọi để sống trong
cộng đoàn cụ thể. Cộng đoàn tu trì hay gia đình. Vì thế không thể nói là mọi
người tự lo lấy, còn tôi thì lo đại sự ở đường phố. Vì thế, lửa nhiệt thành
truyền giáo nhiều đến đâu thì cũng không loại trừ việc chu toàn trách nhiệm và
bổn phận tuỳ theo ơn gọi Chúa đã trao.
Như vậy, ra khỏi nhà để truyền giáo xem ra vẫn dễ. Khó
hơn, truyền giáo là ra khỏi chính mình để sống với Chúa. Cứ ở với Ngài, rồi
Ngài muốn ta nói gì, hành động động ra sao, với ai, ở đâu thì ta làm theo như
vậy. Vâng Lời Thầy con thả lưới là điều tốt nhất.
Mẹ Têrêsa Caculta và truyền giáo
Nhiều người cho là mẹ chỉ ăn rồi lo chuyện đường phố.
Thực tế thì khác. Mẹ luôn sống với Chúa trước khi hành động. Cụ thể là:
Cầu nguyện. Mẹ liên lỉ cầu nguyện. Vì Thiên Chúa là
niềm khát khao của mẹ. Chính cầu nguyện đã đưa dẫn mẹ đến phục vụ những người
bất hạnh, nghèo khổ.
Suy gẫm Lời Chúa. Chẳng những cầu nguyện, mẹ luôn gắn bó với
Lời Hằng sống. Và Lời Chúa đúng là đèn soi dẫn lối chỉ đường cho mẹ biết cần
phải làm gì, nói gì, vớ ai và ở đâu. Lời Chúa đã đi vào đời sống, đi vào nhịp
đập, vào máu huyết, vào hơi thở của mẹ. Lời Chúa đã chi phối toàn bộ cuộc sống
của mẹ.
Yêu mến người nghèo và phục vụ tha nhân. Không phải
là thương hại. Nhưng là thương thật lòng. Đời sống nghèo là bằng chứng mẹ chia
sẻ cuộc sống cơ cực bần hàn của đồng loại. Nên việc phục vụ này không phải vì
danh tiếng bề ngoài để người đời ca tụng, mà tất cả vì tình yêu Chúa. Mẹ coi
mọi việc phục vụ ấy là việc phục vụ chính Chúa. Rồi còn coi đây là bổn phận
phải làm. Bổn phận phải yêu thương đồng loại như chính Chúa đã yêu mến mẹ. Tình
yêu này mẹ đã thấu hiểu và cảm nhận được qua đời sống cầu nguyện, suy gẫm, chầu
thánh thể.
Hành động. Mẹ nói: Lời Chúa phải nằm ở đầu các ngón
tay. Quả đúng như vậy, bàn tay mẹ tuy gân guốc, gầy gò xấu xí, nhưng lại có một
sức mạnh tuyệt vời. Là khi chạm đến ai, người đó nhận được tình thương và lòng
thương cảm của mẹ. Có người nói: đời tôi đã phải sống như một con chó, nhưng có
mẹ, tôi hạnh phúc như là thiên thần.
Xét mình
Mỗi người đều có thể trở thành những nhà truyền giáo tốt
khi chấp nhận để Chúa hướng dẫn đời mình. Truyền giáo là vấn đề của tình yêu,
nên việc giới thiệu này không phải là nói về mình, về sự khôn ngoan của người
đời. Nếu chỉ có thế, ta sẽ bị thánh Phaolô chê trách và coi những việc làm ấy
là những tiếng trống chiêng phèng la ầm ĩ giữa phố chợ, mà không có chất lượng,
rỗng tuyếch.
Giáo hội
luôn có nhiều điều kiện tốt để ta chuẩn bị cho công việc truyền giáo. Như thánh
lễ, chầu thánh thể, suy gẫm Lời Chúa, chuỗi mân côi…
Ta có
sống với Chúa chưa? Có yêu mến cầu nguyện, say yêu Lời Chúa, viếng thánh thể.
Ta có yêu
mến người nghèo như Chúa đã yêu thương ta không.
Lý do nào
ta chưa thể yêu họ: nghèo hay giàu, xấu hay đẹp, giỏi hay dốt?
Hãy cùng
cầu nguyện, xin Chúa để mỗi người đều có thể phấn đấu, quyết tâm ra khỏi nhà,
khỏi cổng, khỏi xứ đạo để mang Chúa đến cho mọi người. Cùng chia sẻ cuộc sống
buồn vui với người nghèo, đơn giản vì họ là người.
Hãy yêu
mến người nghèo, không phải vì họ nghèo, nhưng vì họ là người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét