GIÁO ĐIỂM PHÒNG HẢI
|
CỐC MỲ |
THÀNH LẬP GX. ĐIÊN BIÊN
|
LỄ KHẤN DÒNG MẾN THÁNH GIÁ HƯNG HÓA |
EM BÉ BỊ BỆNH U NAÕ ĐƯỢC KHỎI |
LM CUNG GX. MỸ HẢO GP. PHÚ CƯƠNG QUA ĐỜI
|
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Kb 1, 2-3; 2, 2-4; 2Tm 1, 6-9.13-14; Lc 17, 5-10
Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lời Chúa: Cv. 1,12-14; Gl. 4,4-7; Lc 1,26-38
MỤC LỤC
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
1. Đầy tớ vô
dụng
2. Đức tin
3. Làm điều phải
làm
4. Hãy bật rễ
lên
5. Suy niệm của
Lm Đaminh Trần Đình Nhi
6. Chiếc bình
trống rỗng – Thiên Phúc
7. Đức tin và
người đầy tớ vô dụng
8. Nhận và cho
không vị lợi – Achille Degeest
9. Ai là người
thay đổi? – Charles E. Miller
10. Phép lạ của
lòng tin
11. Đức tin –
McCarthy
12. Phục vụ
Thiên Chúa vì yêu thương
13. Đức tin và
khiêm nhường – Veritas.
14. Đức tin và
khiêm nhường
15. Chú giải của
Noel Quesson
16. Lòng tin và
thái độ sẵn sàng phục vụ
Lễ ĐỨC MẸ MÂN
CÔI
1. Quà tặng
2. Lễ Mẹ Mân Côi
3. Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Kinh Mân Côi:
Góp phần xây dựng nhân loại mới
6. Kinh Mân Côi
và Đời Sống Đức Tin
7. Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
8. Phương thuốc
thần diệu – Lm Ignatio Trần Ngà
9. Bài học quan
trọng của kinh Mân Côi
10. Mân Côi, bản
tóm lược Tin Mừng
11. Nhờ Mẹ Đến
Với Chúa
12. Kinh Mân Côi
– Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38)
13. Mẹ Mân Côi –
Mẹ chiến thắng
14. Kinh Mân Côi
– Lời kinh kỳ diệu
15. Đức Chúa ở
cùng Bà
16. Tôi là nữ tỳ
của Chúa
17. Lá sầu riêng
– Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
18. Mẹ đầy ơn
phước – Veritas
CHÚA NHẬT 27
THƯỜNG NIÊN
1. Đầy tớ vô
dụng
Dụ ngôn chúng ta
vừa nghe nói lên mối liên hệ giữa ông chủ và người đầy tớ, hay nói đúng hơn kẻ
nô lệ của ông ta.
Thực vậy, nơi
dân Do Thái vào thời Chúa Giêsu vẫn còn tồn tại chế độ nô lệ. Kẻ nô lệ bị coi
như là một tài sản của ông chủ, khác với người làm công. Người làm công chỉ
phục vụ cho ông chủ trong một số công việc và trong một số giờ giấc nào đó,
ngoài ra anh ta là người tự do. Kẻ nô lệ sau những giờ giấc cực nhọc ở ngoài
đồng ruộng, khi trở về nhà, không được phép nghĩ đến việc ăn uống nghỉ ngơi.
Ông chủ cũng không nghĩ đến việc mời anh ta ăn cơm hay hầu hạ để cám ơn. Kẻ nô
lệ phải lập tức làm những công việc khác để phục vụ cho ông chủ, đến khi chủ
không còn sai khiến điều gì nữa, thì kẻ nô lệ mới được nghỉ ngơi. Và không bao
giờ ông chủ nghĩ đến việc cám ơn hay trả lương cho nô lệ của mình vì nô lệ là
tài sản của chủ. Kẻ nô lệ được phép ăn uống, nhưng bị coi là phương tiện bảo vệ
mạng sống và sức lực mà ông chủ cần đến.
Vậy đâu là ý
nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắn gởi qua câu chuyện kể trên? Chúng ta không được phép
vội vã kết án là Chúa Giêsu ủng hộ cho chế độ nô lệ, nhưng Ngài chỉ muốn dùng
những hình ảnh sống động và cụ thể để dạy cho chúng ta thái độ phải có đối với
Thiên Chúa. Đúng thế mục đích Ngài nhắm tới, đó là chống lại với giáo lý về
công nghiệp của bọn biệt phái. Những người này chủ trương, tất cả những việc
lành, việc thiện đều là công nghiệp trước mặt Thiên Chúa, để rồi Thiên Chúa
phải tính công và trả ơn cho họ theo lẽ công bằng.
Hẳn chúng ta còn
nhớ lời cầu nguyện của một người biệt phái trong đền thờ: Lạy Chúa, tôi đội ơn
Ngài, vì tôi không phải như những người khác, gian tham, bất lương, ngoại tình
hay là như tên thu thuế kia. Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần. Tôi nộp thuế thập
phân về mọi thứ hoa lợi. Chính sự tính toán này, người Pharisêu đã biến Thiên
Chúa thành một con nợ của mình.
Thế nhưng qua dụ
ngôn này Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta thái độ khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa
bởi vì tất cả những gì chúng ta có đều là hồng ân của Ngài hay như lời Ngài đã
nói: Không có Thầy các con không thể làm gì được. Như thế thì làm sao chúng ta
có thể kể công trước mặt Thiên Chúa. Mọi cố gắng luân lý của chúng ta không có
giá trị gì trước mặt Ngài. Mọi việc đạo đức chúng ta làm chỉ là bổn phận chúng
ta phải chu toàn. Mọi hành động bác ái của chúng ta cũng không đủ để cảm tạ
những ơn huệ của Ngài và của anh em đồng loại. Suốt cuộc đời chúng ta cũng
chẳng đủ để cám ơn Ngài, thì làm gì gọi được là công lao. Cho dù chúng ta có
trung thành với Ngài đến hơi thở cuối cùng thì chúng ta cũng vẫn phả kêu lên:
Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô dụng, con chỉ làm việc bổn phận của con mà thôi.
Lẽ tất nhiên,
Thiên Chúa không phải là một ông chủ hà khắc, nhưng Ngài là một người cha yêu
thương, luôn chăm sóc và mong muốn cho chúng ta được mọi sự tốt đẹp, và chắc
chắn Ngài sẽ không bao giờ chịu thua trước tình yêu của chúng ta.
2. Đức tin
Nếu các con có
được một đức tin bằng hạt cải.
Giả sử như chúng
ta có được một cỗ máy thời gian đi ngược dòng lịch sử trở về trước một thế kỷ.
Khi gặp gỡ những người của năm 1895 và đưa cho họ tờ nhật báo hôm nay, chắc hẳn
tờ nhật báo ấy là một cái gì xa lạ và họ chẳng hiểu được bao nhiêu. Chỉ cần nêu
ra một số từ ngữ, chẳng hạn như phi thuyền, siêu thị, chứng khoán, vi tính...
Nếu như họ hỏi:
Truyền hình là gì? Hẳn chúng ta sẽ không ngần ngại trả lời đó là một chiếc máy
giúp chúng ta nhìn thấy sự việc xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ, bên Tàu đúng lúc nó
đang thực sự xảy ra ở những nơi ấy. Giả sử họ hỏi: Hoả tiễn hạch tâm tầm xa là
gì? Hẳn chúng ta sẽ sẵn sàng trả lời đó là một trái đạn khổng lồ được bắn đi có
thể tiêu diệt bất kỳ thành phố nào cách xa hàng ngàn cây số. Giả sử họ hỏi: đổ
bộ mặt trăng là gì? Chúng ta sẽ mau mắn cắt nghĩa đó là việc con người dùng phi
thuyền bay lên và đáp xuống mặt trăng.
Trước những câu
trả lời này, dân chúng của thế kỷ trước sẽ nghĩ gì về chúng ta? Chắc hẳn họ sẽ
cho chúng ta là những kẻ điên khùng, bởi vì một người tỉnh táo thời bấy giờ sẽ
cho rằng chúng ta không thể ngồi ở Việt Nam mà lại biết được những việc đang
xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ và bên Tàu. Và họ cũng cho rằng chúng ta không thể
nào bay được như một con chim để lên tới mặt trăng. Câu chuyện khoa học giả
tưởng trên cho chúng ta thấy: điều mà dân thế kỷ này cho là vô nghĩa và bất khả,
thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện đương nhiên và bình thường. Điều mà
dân thế kỳ này không bao giờ dám mơ ước thì đối với dân thế kỷ khác lại là
chuyện bình thường.
Và bây giờ cùng
với cỗ máy thời gian ấy, chúng ta đi vào tương lai, tới năm 3000. Trên những tờ
báo lúc bấy giờ không còn đăng tải những tin tức về bạo lực, nghèo đói và chiến
tranh, mà chỉ có tình yêu, sự thịnh vượng, hoà bình và thân hữu. Chắc hẳn chúng
ta sẽ nghĩ thầm rằng một thế giới như vậy chỉ là chuyện mơ tưởng, không thực, bởi
vì ở đâu có loài người thì ở đó có bạo lực, có hận thù, có bóc lột và giàu
nghèo.
Thế nhưng, từ đó
chúng ta đi tới một kết luận: Nếu chúng ta tin rằng hoà bình không thể có trên
mặt đất, thì làm sao chúng ta thành công trong việc xây dựng nó. Nếu chúng ta
cho rằng tự cõi lòng con người vốn ích kỷ, thì chắc hẳn chúng ta không thể tạo
được một xã hội công bằng.
Tuy nhiên với
đức tin, chúng ta phải nhìn nhận rằng có thể có bình an trên mặt đất, có tình
yêu giữa con người và có sự hoà điệu giữa các dân tộc. Sở dĩ như vậy là vì Đức
Kitô đã đến giữa chúng ta, dạy cho chúng ta cách sống, cách thực hiện những
điều trên. Đây chính là sứ điệp Ngài muốn gởi gắm chúng ta qua đoạn Tin Mừng
sáng hôm nay.
Nếu các ngươi có
được một đức tin bằng hạt cải, các ngươi có thể chuyển núi dời sông. Nhờ đức
tin mà chúng ta có được quyền năng của Thiên Chúa trong tầm tay của mình. Và
với quyền năng ấy, không gì là không có thể, kể cả một thế giới không còn chiến
tranh, hận thù và nghèo đói.
3. Làm điều phải
làm
Suy Niệm
Người đầy tớ đi
cày hay đi chăn chiên suốt ngày. Khi chiều về, anh còn phải lo cơm nước cho
chủ. Anh chỉ được ăn uống nghỉ ngơi khi chủ đã ăn xong. Đó là chuyện hết sức
bình thường và tự nhiên đối với một người làm công được ông chủ mướn. Chủ không
cần phải tỏ lòng biết ơn anh đầy tớ vì anh đã vâng phục mọi lệnh truyền của
ông.
Chúng ta có thể
là một Kitô hữu đạo đức, có thể đã vất vả nhọc nhằn phụng sự Chúa suốt đời.
Nhưng Thiên Chúa không phải chịu ơn hay mắc nợ chúng ta, và chúng ta không có
quyền đòi Ngài phải trả công cho xứng. Đơn giản chúng ta là tôi tớ của Thiên
Chúa, chúng ta chỉ làm điều phải làm.
Khó biết chừng
nào khi làm được nhiều điều tốt đẹp mà vẫn giữ tấm lòng khiêm nhu.
Những việc đạo
đức chúng ta làm có thể khiến chúng ta tự mãn trước Thiên Chúa. Đó là sa ngã
của một số người Pharisêu và đó vẫn là cám dỗ thường xuyên của chúng ta.
Người Pharisêu
lên đền thờ cầu nguyện, mà thực ra là khoe công trạng của mình (x. Lc 18,9-14).
Công trạng, công
đức, công nghiệp có thể thành vật cản khiến tôi chỉ thấy sự thánh thiện của tôi
mà không thấy, cũng chẳng cần tình thương của Chúa.
Việc tốt tôi làm
có thể làm tôi tự tôn trước anh em.
Người anh cả chỉ
thấy những năm dài phục vụ cha, không khi nào trái lệnh, nên anh chẳng muốn đón
nhận người em út.
Làm thế nào để
chúng ta thật sự khiêm hạ trước Thiên Chúa, trước tha nhân và trước cả lòng
mình.
Nhận mình chỉ là
đầy tớ bình thường, không gì nổi bật, mình chỉ cố làm tròn bổn phận được giao.
Có nhiều bổn
phận ta phải chu toàn.
Bổn phận của một
thụ tạo trước Thiên Chúa Chí Thánh.
Bổn phận là con
cái của Cha trên trời.
Bổn phận là môn
đệ trung tín của Đức Kitô.
Bổn phận là anh
em của mọi người.
Yêu mến, phụng
sự, tôn kính, ca ngợi Thiên Chúa: đó là điều ta chẳng dám tự hào mình đã vuông
tròn.
Giả như ta có
làm được điều gì sáng danh Chúa thì cũng là nhờ ơn Chúa đỡ nâng.
Cả một ước muốn
tốt lành nơi ta cũng đến từ Chúa.
Thiên đàng không
phải là sự trả công của Thiên Chúa. Ngài không ký hợp đồng với người sống đạo
đức để rồi Ngài buộc phải cho họ thiên đàng.
Thiên đàng là một
quà tặng bất ngờ, ngỡ ngàng, không do công của tôi, nhưng do lòng tốt của Thiên
Chúa.
Thiên đàng hạnh
phúc vì tôi được gần Chúa hơn bao giờ.
Chúng ta không
chọn Chúa để được thiên đàng.
Chúng ta mong
thiên đàng để được gần Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, dám
hy sinh hạnh phúc đời này để được hạnh phúc đời sau, đó có phải là một tính
toán vụ lợi không? Con người có quyền tìm cho mình hạnh phúc thực sự không?
Con người khao
khát hạnh phúc thực sự và lâu bền. Bạn nghĩ mình có thể tìm được hạnh phúc đó ở
đâu? Ở thiên đàng có thứ hạnh phúc đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã yêu trái đất này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi
khổ đau và hạnh phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng
con biết đường lên trời, nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn
lên quê hương vĩnh cửu, chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái
đất này, và chuẩn bị nó đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu
đang ngự bên hữu Thiên Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm
chúng con quên trời cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân
chúng con tiến về bên Chúa.
Ước gì qua cuộc
sống hàng ngày của chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
4. Hãy bật rễ
lên
Suy Niệm
Cây dâu là một
loại cây tương đối lớn ở đất Israel, nó có bộ rễ rất to và khỏe. Còn hạt cải là
thứ hạt nhỏ xíu như đầu kim. Đức Giêsu dùng một hình ảnh rất sinh động để nói
lên sức mạnh của lòng tin: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, anh
em có thể ra lệnh cho cây dâu bật rễ lên, mọc dưới biển, nó sẽ vâng lời anh
em."
Để làm bật rễ
một cây dâu thật to, chỉ cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một thứ đức
tin vững vàng mạnh mẽ.
Có nhiều thứ bám
rễ trong đời tôi: những khuynh hướng xấu, những thói quen do môi trường, lối
nhìn, lối nghĩ, lối đánh giá tha nhân, lối sống đạo theo thói quen, hình
thức... Rễ chằng chịt khiến tôi khó gỡ ra để ném tất cả xuống lòng biển.
Chỉ khi có lòng
tin vào quyền năng Thiên Chúa, tôi mới có thể gỡ mình khỏi những ràng buộc, mới
làm được những điều tưởng như không sao làm nổi.
Với lòng tin đơn
sơ, kiên vững, các ngư phủ đầu tiên của Hội Thánh chẳng những đã chuyển được
núi, dời được non, mà còn làm chuyển rung cả thế giới.
"Xin thêm
lòng tin cho chúng con":
Lời nài xin của
các tông đồ cũng là của chúng ta, những người có đức tin nhỏ hơn hạt cải.
Tin là nghe theo
lời Chúa, bước ra khỏi thuyền, đi trên sóng gió và tin mặt nước sẽ cứng như đá.
Tin như thế là
dấn thân, là buông mình trọn vẹn, là thắng vượt được nỗi sợ và lý luận tự
nhiên.
Tin là thái độ
can đảm của người trưởng thành, chứ không phải là thái độ dựa dẫm của người ấu
trĩ.
Người có lòng
tin thì làm được những việc lớn lao, vì người đó đón lấy sức mạnh của Thiên
Chúa và để cho sức mạnh ấy tự do hoạt động nơi mình.
Thế giới hôm nay
có vẻ từ chối niềm tin, thật ra nó đang tìm kiếm một niềm tin nào đó.
Có biết bao giáo
phái đủ loại xuất hiện khắp nơi.
Một số thanh
niên Nhật tìm lẽ sống nơi giáo chủ Asahara.
Khi thanh niên
Singapore có nhà, có xe và thẻ tín dụng, thì họ lại thấy thiếu một cái gì đó
rất sâu.
Con người còn
khắc khoải hoài cho đến khi gặp được Đấng Tuyệt Đối.
Chúng ta xin
Chúa ban thêm lòng tin cho ta, để cuộc sống của ta bừng tỏa ánh sáng cho những
người đang tìm kiếm Chân Lý cứu độ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngày nay, nhiều
bạn trẻ đánh mất niềm tin vào cuộc sống và không thấy cuộc sống có ý nghĩa.
Theo bạn, đâu là những nguyên nhân dẫn đến thái độ chán nản trên đây?
Có những bạn trẻ
không tin vào Thiên Chúa, nhưng lại tin vào những nỗ lực của mình. Họ cố xây
dựng cuộc đời bằng đôi tay và khối óc. Bạn nghĩ gì về họ? Đức Tin có giúp gì
cho bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin
ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích
kỷ và khép kín.
Xin cho con đức
tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì
con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức
tin sáng suốt để con thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng
Vô Hình, nhưng rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người
nghèo khổ.
Xin cho con đức
tin liều lĩnh, dám mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong
bóng đêm chỉ vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế
gian và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức
tin vui tươi, hạnh phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng
vì biết mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin
cho con đức tin cứng cáp qua những cọ sát đau thương của phận người, để dù bao
thăng trầm dâu bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con
người.
5. Suy niệm của
Lm Đaminh Trần Đình Nhi
Chúa Giêsu mời
gọi ta tin vào Người. Trước lời mời gọi này, nhiều người Do-thái và các nhà
lãnh đạo của họ từ chối không nhìn nhận Chúa Giêsu cũng như sứ mệnh cứu thế của
Người. Trái lại, các môn đệ và Kitô hữu thì khẩn cầu Người: "Thưa Thầy,
xin thêm lòng tin cho chúng con." Lời cầu xin của các môn đệ và lời giải
thích của Chúa Giêsu giúp ta hiểu được những chiều kích khác biệt của đức tin.
Tại sao ta xin Chúa thêm lòng tin cho ta? Đâu là sức mạnh của lòng tin? Ngoài
ra, Chúa Giêsu dùng tỉ dụ người đầy tớ làm việc bổn phận để làm sáng tỏ ý nghĩa
nào về lòng tin của ta?
a) Lòng tin là
một ân huệ Chúa ban
Giáo lý Công
giáo gọi đức tin là nhân đức đối thần, nghĩa là chính Thiên Chúa mới là đối
tượng của lòng tin. Đức tin không khởi đầu từ nơi ta, nghĩa là không phải tự ta
muốn tin vào Chúa mà là Chúa muốn ta hãy tin vào Người. Nhưng tại sao Người
muốn ta phải tin vào Người? Bởi vì Người có tất cả những đặc tính để ta có thể
nhìn nhận Người là Đấng nào, phó thác mọi sự trong tay uy quyền của Người và
nhất là có thể lãnh nhận tình yêu Người dành cho ta. Tất cả những đặc tính ấy
làm cho Người trở nên đối tượng lòng tin của ta. Người đã tỏ mình cho ta biết
về Người, đó là một ân huệ cho ta và là khởi đầu cho một mối quan hệ Người muốn
thiết lập giữa Người với ta. Vì thế, đức tin có hai phía: về phần Chúa, Người
là Đấng "trung thành" trong giao ước Người thiết lập với ta; về phần
ta, ta có bổn phận phải đáp lại lòng trung thành của Người. Người muốn đưa ta
tới cùng đích của đời ta là được cứu rỗi và sống bên Người mãi mãi.
Đức tin có lịch
sử của nó, lịch sử gắn liền với lịch sử của một dân tộc. Ông Áp-ra-ham, cha các
kẻ tin, đã được Thiên Chúa tuyển chọn để làm tổ phụ dân tộc Do-thái vì ông
"đã tin vào Thiên Chúa" (St 15,6). Người gọi ông thi hành sứ mệnh dẫn
đầu một dân tộc để chuẩn bị cho toàn thể nhân loại đón nhận ơn cứu rỗi. Ông là
gương mẫu sống đức tin. Cả cuộc đời ông là luôn tín thác vào Thiên Chúa là Đấng
trung thành và toàn năng (Dt 11,11; Rm 4,21). Mà tin vào Thiên Chúa tức là vâng
lời Người và thi hành những điều Người dạy. Tiếp đến, ông Mô-sê và các ngôn sứ
là những người được Thiên Chúa tuyển chọn để hướng dẫn dân Chúa luôn biết tin
vào Người và kế hoạch cứu độ Người sẽ thực hiện qua dân Do-thái. Thăng trầm của
lịch sử đức tin phản ảnh qua lịch sử dân Do-thái. Tuy nhiên cuối cùng, theo
thiên ý nhiệm mầu của Thiên Chúa, lịch sử đức tin vẫn diễn tiến theo "kế
hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới
hồi viên mãn, là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức
Kitô" (Ep 1,9-10). Đức tin đạt tới mức hoàn hảo nơi Chúa Giêsu, Người Tôi
Tớ đã lên đường đi Giê-ru-sa-lem mà "vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu
chết" (Pl 2,7t) để dẫn đưa đức tin của ta đến mức toàn thiện (Dt 12,2).
Như vậy, đối với
một cá nhân hay đối với một dân tộc, lịch sử đức tin là một diễn tiến quy chiếu
về Chúa Kitô và đưa ta đến kết hiệp với Người để nhờ Người, với Người ta đến
với Thiên Chúa Cha.
b) Sức mạnh của
lòng tin
Các môn đệ xin
Chúa Giêsu thêm lòng tin cho các ông. Hoặc nói khác đi, các ông xin Chúa giúp
cho các ông tin vào Người mỗi ngày một hơn. Lập tức Chúa nói đến hiệu quả của
lòng tin ấy. Dĩ nhiên, Chúa không có ý nói đến những phép lạ bề ngoài của lòng
tin là những điều họ đã chứng kiến và nhờ đó họ được tăng thêm niềm tin vào
Người. Nhưng Chúa muốn nhắm tới những phép lạ xảy ra trong tâm hồn mỗi người
môn đệ theo Người. Người hứa: "Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, thì dù
anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng
sẽ vâng lời anh em." Người muốn nói đến những cây dâu của tính hư nết xấu
đã mọc rễ sâu trong tâm hồn ta từ bao năm, đúng như Người đã khuyến khích ta
khi gọi ta làm môn đệ: "Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng." Chúa Giêsu
bảo ta hãy để cho lòng tin vào Người tỏa ra sức mạnh tiêu diệt con người tội
lỗi của ta, nhờ đó ta được biến cải thành mẫu người vâng lời và phục vụ giống
như Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.
c) Phục vụ trong
khiêm tốn
Đức tin luôn
ràng buộc với sứ mệnh. Chúa Giêsu đã thi hành sứ mệnh cứu thế với đức tin hoàn
hảo, tin vào tình yêu của Chúa Cha. Trước khi chết, Người chỉ nói: "Thế là
đã hoàn tất" (Ga 19,30). Một câu nói ngắn gọn, nhưng chứa đựng biết bao
tâm tình. Tâm tình cảm tạ Thiên Chúa Cha. Tâm tình biểu lộ lòng vâng phục. Và
tâm tình khiêm tốn, không kể công hoặc khoe khoang. Sở dĩ Chúa Giêsu có được
những tâm tình ấy là vì suốt cuộc sống trên trần gian, tâm niệm của Người chỉ
là thi hành thánh ý Chúa Cha hoặc tin vào Thiên Chúa Cha mà thôi. Cho nên hôm nay
Người dạy ta cùng một bài học ấy: "Đối với anh em cũng vậy. Khi đã làm tất
cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng,
chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi."
Tỷ dụ người đầy
tớ chu toàn bổn phận cũng cho ta thấy rõ hơn khía cạnh ân huệ của lòng tin. Ta
có được lòng tin vào Chúa, đó là ân huệ Chúa ban nhưng không. Mà Chúa đã dạy:
ta nhận được nhưng không thì cũng hãy cho nhưng không. Nhận lấy và cho đi là
năng động của đức tin được thể hiện trong đời sống phục vụ của người môn đệ, y
hệt như Chúa Giêsu đã lấy tất cả những gì Chúa Cha ban cho Người mà ban lại cho
các môn đệ Người, kể cả sự sống của chính Người. Một đức tin như thế mới đích
thực là đức tin sinh động, chứ không phải đức tin chết (Gc 2,17).
d) Suy nghĩ và
cầu nguyện
"Thưa Thầy,
xin thêm lòng tin cho chúng con" là lời cầu nguyện hằng ngày của tôi, hay
chỉ là lời kêu cứu khi tôi gặp khó khăn hoạn nạn? Lời cầu nguyện ấy có đồng
nghĩa với lời cầu xin cho tôi "được biết Chúa Giêsu rõ ràng hơn, yêu mến
Người nồng nàn hơn và theo Người mỗi ngày một trung thành hơn"?
Tôi thử nhìn lại
lịch sử đức tin của tôi. Đức tin của tôi đang ở giai đoạn nào? Vẫn còn là những
điều học thuộc lòng về đạo hay đã bắt đầu tiến đến giai đoạn nhận ra ơn gọi và
sứ mệnh của mình, để sống mối quan hệ với Chúa?
"Những cây
dâu" nào trong tôi cần phải bật rễ đi để tôi trồng những cây trái sinh hoa
quả đạo đức?
Cầu nguyện:
"Lạy Chúa
Giêsu, con chẳng dám xin đi trên mặt nước như Phê-rô, nhưng nhiều khi con cảm
thấy sống đức tin giữa lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng
gió đẩy đưa và lôi cuốn. Có bao cám dỗ cuốn hút con vô vực sâu. Cả sự nặng nề
của thân xác con cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ
dàng. Nhiều khi con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi
con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay
con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm
tin yếu ớt của con, để con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về
Chúa. A-men."
(Trích RABBOUNI,
lời nguyện 55)
6. Chiếc bình
trống rỗng – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ
'Như Thầy Đã Yêu')
Một thầy Rabbi
già đau bệnh nằm liệt giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ
hết lời ca tụng các nhân đức vô song của thầy.
Một người trong
bọn họ nói: "Từ thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như
thầy". Người khác nói: "Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của
tổ phụ Abraham". Người thứ ba nói: "Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy
không thua sự kiên nhẫn của ông Gióp". Người thứ tư châm vào: "Về sự
cầu nguyện thân mật với Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi".
Vị Rabbi tỏ ra
bồn chồn không vui. Khi các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: "Ông có
nghe họ ca tụng ông không? - Có.
- Thế tại sao
ông lại tỏ ra bực dọc như thế?
Vị Rabbi than
phiền: - Vì không có ai nhắc đến sự khiêm tốn của tôi?
Mong người ta ca
ngợi sự khiêm tốn của mình thì chẳng còn khiêm tốn! Cho dù thầy Rabbi có khôn
ngoan như Salomon, đức tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và
thân mật với Chúa như Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức
ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu
toàn các việc đạo, làm nhiều việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công
trạng thì ngay lúc đó họ không còn thánh thiện nữa.
Vì khiêm tốn là
nền tảng của mọi nhân đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ: "Khi
đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: "Chúng tôi là
những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi". Thật
vậy, chúng ta là những đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải
làm. Cho dù là Đức Thánh Cha cũng luôn luôn nhận mình là "Đầy tớ của các
đầy tớ Chúa". Đã là đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông
sai bảo mà không được kể công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện
hết sức bình thường, chuyện bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như
bổn phận "Mến Chúa yêu người", có ai dám nhận mình không hề thiếu
sót. Cho dù họ có làm được điều gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng
loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa ban cho.
Kẻ kiêu ngạo
không bao giờ cảm thấy mình cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt
được, luôn cho rằng thành công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của
những kẻ kiêu ngạo, của nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi
người chúng ta.
Người khiêm tốn
trái lại, luôn hãnh diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ
càng phải cậy dựa vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất
vui mừng cho rằng đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại
yêu thích những con người khiêm tốn như thế.
Nếu đã ý thức
mình là thân phận nhỏ bé, là "đầy tớ vô dụng", thì cho dù khiêm tốn
bao nhiêu cũng không đủ nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có
những ai thấu hiểu thân phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô
song. Chỉ có những kẻ xóa mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có
những chiếc bình trống rỗng mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.
7. Đức tin và
người đầy tớ vô dụng
(Trích dẫn từ
'Bước Theo' – Phêrô Trần Đình Phan Tiến)
Chúa nhật XXVII
thường niên hôm nay, được kính trọng thể Lễ Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Là Chúa
nhật đầu tháng Mân Côi, nên chi ý nghĩa đoạn Tin Mừng (Lc 17,5-10) được phép
suy tư về Đức Mẹ. Theo đó, đoạn Tin Mừng hôm nay có hai phần:
- Sức mạnh của
ĐỨC TIN
- Khiêm tốn khi
phục vụ
Hai chủ đề của
đoạn Tin Mừng hôm nay thật là ăn khớp (logic) với nhau. Có thể nói, chủ đề thứ
nhất là chủ đề của sự cần thiết trong năm Đức Tin nầy. Đức Tin là một chủ đề
không dễ suy tư, nhưng giá trị của nó rất lớn lao, vì qua sự giải thích của
Chúa Giêsu, thì đức tin không cần "to lớn", chỉ cần như hạt cải là
đủ. Kích thước và sự đo đếm của đức tin, được Chúa Giêsu công khai một cách cụ
thể. Theo đó, lòng tin của con người thật là quá nhỏ bé, không bằng hạt cải.
Đức tin là một khái niệm trừu tượng, nhưng được chính Chúa Giêsu đánh giá cụ
thể bằng một hình ảnh rõ ràng. Ai cũng biết, hạt cải nhỏ bé như thế nào. Nhưng
cây cải bên Israel thì không nhỏ, nó có cành cây rất to, không phải như cây cải
ở Việt Nam, nó có cành lá đến nỗi chim trời đến làm tổ được. Có lần Chúa Giêsu
nói: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây
dâu nầy: 'Hãy bật rễ lên, xuống biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em' (Lc
17, 6). Từ đó, chúng ta hiểu rằng, đức tin của chúng ta không bằng hạt cải.
Điểm quan trọng của việc bước theo Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính
là niềm tin. Niềm tin mà không đủ lớn mạnh, thì như hạt giống bị thối, không
vươn mầm được, vì mọi nhân tố sống đạo được hệ tại bởi niềm tin. Tại sao vậy?
Thưa, vì tất cả mọi sự thiêng liêng đều thuộc về mầu nhiệm, mà mầu nhiệm là
điều không thể nhìn thấy qua con mắt thể xác. Từ đó, nếu muốn xác tín những mầu
nhiệm thiêng liêng, chúng ta cần đến đức tin. Hơn nữa, bản thân đức tin cũng là
một mầu nhiệm. Như vậy, theo đoạn Tin Mừng hôm nay, các Tông đồ xin Chúa Giêsu
ban thêm lòng tin cho các ông. Chúa Giêsu đã ban thêm lòng tin cho các Tông đồ
bằng cách nào? Rõ ràng, chúng ta thấy Chúa ban thêm lòng tin cho các Tông đồ
không phải như cho thêm bánh, hoặc cho thêm đường vào bánh. Mà là Chúa đã ban
thêm cho các ông bằng cách mạc khải cho các ông biết chiều kích của đức tin.
Theo đó, đức tin
càng lớn thì sự khiêm tốn càng cao, nên chi giá trị của đức tin thì không thể
đo lường được. Vì đức tin là sức mạnh có thể làm được những việc phi thường.
Qua đó, chúng ta thấy chưa ai đạt đến niềm tin bằng hạt cải như Chúa Giêsu nói,
ngoại trừ chính Thân Mẫu của Người, Đức Maria, Nữ Vương truyền phép Rất Thánh
Mân Côi. Mẹ Maria là người đã thể hiện niềm tin sắt son, một niềm tin hạt cải
thôi, cũng đủ chứng minh được Lời Chúa nói. Hành trình bước theo Chúa Giêsu,
Con của Mẹ là một hành trình đầy chông gai thử thách, nếu không có niềm tin và
không giữ vững đức tin, Mẹ dễ dàng chối bỏ Chúa. Cùng với nhiều áp lực của xã
hội đương thời, đa số chống lại Chúa Giêsu. Nhưng chính trong những giây phút
đó, từ lúc Mẹ thưa tiếng xin vâng, Mẹ đáp Lời Sứ thần, cũng chính là Lời của
Thiên Chúa, Mẹ luôn trung thành bước theo, và luôn trung tín trong sứ mạng cứu
rỗi nhân loại của Con Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa. Một đức tin bằng
hạt cải thôi, của Mẹ đã đủ minh chứng Lời của Con Mẹ. Vì thế, cho đến ngày nay,
Đức Maria luôn là người dẫn đầu, "người có đức tin bằng hạt cải", bởi
vì sao? Thưa, vì tất cả những gì Mẹ có thể làm được cho nhân loại trong hành
trình cứu chuộc của Con Mẹ, đều do đức tin bằng hạt cải của Mẹ. Điều nầy, cho
thấy sự công bằng của Thiên Chúa, Thiên Chúa không thiên vị Đức Mẹ. Một sự nổ
lực nơi Mẹ cùng với Thánh ân mà Mẹ đã đón nhận nơi Thiên Chúa đã cho Mẹ một đức
tin bằng hạt cải.
Phần hai của
Đoạn Tin Mừng: Khiêm tốn khi phục vụ
Tuy đoạn hai có
nhiều câu hơn, nhưng ý dễ diễn đạt hơn, đó là: khi làm việc thiêng liêng chúng
ta đừng câu nệ về công trạng của mình. Vì không có người đầy tớ nào đòi dùng
bữa trước khi chủ mình chưa dùng bữa. Tất cả những ai bước theo Chúa Giêsu để
phục vụ Hội Thánh, dù phẩm trật cao thấp đều là những đầy tớ vô dụng, chỉ làm
việc theo bổn phận. Vì Ông Chủ chính là Thiên Chúa chứ không phải là chúng ta,
Thiên Chúa toàn quyền trên mọi sự, và là Đấng công bằng, công minh cho mọi loài
thụ tạo, nên chi, khi con người được kêu mời phục vụ, thì nên làm vì mục đích
khiêm tốn, chứ không nên tự cao, tự mãn.
Hai chủ đề riêng
biệt, nhưng được bổ túc cho nhau để đón nhận và phục vụ Thiên Chúa qua tha nhân
là lý tường cao đẹp của người môn đệ Đức Kitô. Được vậy, chúng ta hãy cầu xin
Thiên Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta. Để minh chứng cho sự khiêm tốn phục
vụ, Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết kich thước của "Đức
Tin".
Lạy Chúa Giêsu,
xin thương xót chúng con.
Lạy Nữ Vương Rất
Thánh Mân Côi, xin cầu cho chúng con. Amen
8. Nhận và cho
không vị lợi – Achille Degeest
(Trích dẫn từ
'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Hình như chọn
đoạn Phúc Âm hôm nay Giáo Hội chủ ý đặt một tương quan giữa sức mạnh đức tin và
phục vụ không vị lợi vì đức tin. Đức tin làm được những việc phi thường, nhưng
xong việc người ta không có quyền chờ mong ân thưởng. Hành động theo đức tin
của mình, người tín hữu không được cho là mình có công trạng đặc biệt, nhưng
phải nghĩ rằng hành động như vậy là bình thường, là tất nhiên, thế thôi –cũng
như người nội trợ chu tất công việc gia đình là điều bình thường, không cần gì
khen ngợi. Dụ ngôn mang cái tựa hơi lạ 'những người đầy tớ vô dụng', do một sự
phiên dịch dễ gây hiểu lầm. Nói đúng ra, đầy tớ nào cũng hữu dụng. 'Đầy tớ vô
dụng' ở đây có nghĩa đầy tớ làm bổn phận cách bình thường. Chúng ta suy niệm về
thái độ người có đức tin.
1) Trước hết
chúng ta ý thức rằng đức tin là một ân huệ.
Khi các tông đồ
nài xin Chúa: Xin Thầy ban thêm đức tin cho chúng con, chắc chắn các ông được
Chúa Thánh Linh thần ứng. Thật vậy, đức tin phát sinh và lớn mạnh là trực tiếp
nhờ ơn Thiên Chúa. Cũng như cuộc sống hồn xác của chúng ta tùy thuộc một hành
vi sáng tạo thiên nhiên, đời sống đức tin của chúng ta tùy thuộc một hành vi
yêu thương nâng chúng ta lên tầm cao đời sống siêu nhiên. Trong cả hai hành vi,
ân huệ Thiên Chúa tuyệt đối không vị lợi, sáng kiến hoàn toàn là của Thiên
Chúa. Có ý thức được như thế mới không dám nghĩ đến đòi hỏi yêu sách Thiên
Chúa, mới có được tâm tình thực tiễn vui sướng, thờ kính cảm tạ. Vả lại tinh
thần Phúc Âm của chúng ta nhờ đó được tiếp sức sinh động bằng những việc nhận
và cho không vị lợi, bởi lẽ chúng ta nhận được đức tin Thiên Chúa cho không và
chúng ta cảm tạ Thiên Chúa mà không đòi hỏi Người trả công, ban thưởng.
2) Đức tin phải
ở trong thế hành động
Nhân danh đức
tin mình, Kitô hữu là một người đầy tớ. Đầy tớ làm việc và phục dịch. Công việc
cơ bản người Kitô hữu phải chu tất là ngợi khen Thiên Chúa và phục vụ đồng
loại. Hai việc ấy dính liền mật thiết trong một hành vi bác ái duy nhất. Ngợi
khen là bày tỏ niềm xác tín và cảm biết Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối hoàn toàn
hay thương xót, vì vậy Người có quyền đòi hỏi con người thờ kính, vâng phục,
cảm tạ. Phục vụ đồng loại là biểu lộ niềm xác tín rằng họ có quyền đòi hỏi chúng
ta phục vụ họ. Con người đối với nhau trong tư cách anh em, đối với Thiên Chúa
trong tư cách con cái. Vậy thì thờ kính, ngợi khen là gì? Đó là hình thái cao
nhất của cầu nguyện. Phục vụ, bác ái là gì? Đó là sự biểu lộ tình yêu thương
của Thiên Chúa sống động trong con người, là thực hành những điều cảm biết được
nhờ cầu nguyện, tức là nhờ việc thờ phụng Thiên Chúa và thực thi bác ái. Đức
tin thêm sức mạnh vì ở trong thế hành động. Sức mạnh tăng thêm cho đức tin, đó
là phần thưởng vậy.
9. Ai là người
thay đổi? – Charles E. Miller
(Trích dẫn từ
'Mở Ra Những Kho Tàng')
Chúng ta sống
trong một thế giới đầy bạo lực và oán ghét. Đó là một thế giới được điều khiển
bởi những kẻ sát nhân và điên cuồng. Đó là một thế giới mà những đứa trẻ đã bị
phá thai, những trẻ nhỏ đã bị lạm dụng tình dục và bị giết chết bởi cha mẹ
chúng. Đó là một thế giới mà chính trị, kinh tế đã hư đốn. Có phải sự xấu ở nơi
thế giới bây giờ đã hình thành từ nhiều thế hệ, hoặc đó là phương tiện truyền
thông đã làm cho chúng ta ý thức hơn về những gì đang xảy ra?
Habacuc, một
tiên tri Do Thái đã sống sáu thế kỷ trước Chúa Kitô. Đó là một thời gian thật
sự tồi tệ như thời đại của chúng ta bây giờ. Ở Giuđa, sự nhầy nhụa của chính
trị đã lan rộng, nền luân lý hư hỏng, xã hội bất công, sự khinh bỉ những người
nghèo, và việc thờ lạy ngẫu tượng đã lờ đi Thiên Chúa của Abraham, của Isaac,
của Giacop. Thiên Chúa đã cứu Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai cập, đưa dân vào
đất hứa, đám dân mà Người đã làm Giao Ước quan trọng đối với họ.
Habacuc là một
vị tiên tri bị chán ghét, hầu hết mọi người không ai để ý tới, hoặc là ước mong
thống hối và canh tân. Habacuc đã nói một cách rõ ràng không úp mở. Ông ta đã
trở lại với Thiên Chúa trong cầu nguyện nhưng không phải trong cách lịch sự của
lời kinh cầu, có vẻ thích hợp với oai nghi của Thiên Chúa. Habacuc đã phàn nàn
một cách cay đắng với Thiên Chúa. Sự kiên nhẫn của ông đã đến chỗ tận cùng, ông
ta đã cầu nguyện: "Ôi Lạy Chúa còn bao lâu nữa? Con đã kêu khóc để cầu xin
sự giúp đỡ nhưng Ngài đã không lắng nghe. Con đã kêu lên Chúa. Ôi sự dữ! Nhưng
Ngài đã không can thiệp".
Những người khác
có thể đã cầu nguyện với Thiên Chúa theo cách này trước Habacuc trong Thánh
Kinh như hầu như không ai chú ý tới những điều đó. Habacuc có vẻ như là một
tiếng vang mới đã can đảm nói thẳng lên với Thiên Chúa. Sự nhấn mạnh của ông
với Thiên Chúa đã được chú ý tới, nhưng sự đáp trả của Thiên Chúa thì đáng chú
ý hơn. Ngài đã không ra lời sấm sét để khiển trách những tạo vật nhỏ bé của
Ngài. Thiên Chúa không hỏi: "Tại sao con dám nói với Ta cách như
thế". Đúng hơn Thiên Chúa đã yêu cầu Habacuc kiên nhẫn, tiếp đó Ngài thêm:
"Người công chính, bởi vì đức tin của ngươi sẽ được sống".
Habacuc là một
con người của đức tin. Ông tin rằng Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo phải có trách
nhiệm với những tạo vật của Người. Ông ta kêu lên Thiên Chúa, Đấng đã làm một
Giao Ước với dân Người hãy nhớ lại sự trung thành của Người, tình yêu của Người
đối với họ. Habacuc đã phàn nàn đó là sự thật, nhưng ông đã phàn nàn như một
người công chính với một Thiên Chúa thật, Đấng có thể tẩy rửa sự xấu xa nơi thế
gian này. Ông đã tin rằng Thiên Chúa là Người duy nhất có thể thay đổi. Habacuc
là một người có đức tin lớn lao.
Đức tin là một
đặc ân. Các tông đồ sợ rằng đức tin của họ đã không mạnh đủ, có lẽ họ nghĩ rằng
một điều gì đó giống như Habacuc khi họ hỏi Chúa Giêsu: "Lạy Chúa xin tăng
thêm đức tin cho chúng con". Lời nài xin này làm lớn đức tin của họ cách
chắc chắn và cần thiết cho chính chúng ta khi chúng ta cầu nguyện nơi Thánh Lễ,
đặc biệt là lời cầu nguyện sau khi hiệp lễ, chúng ta xin Chúa sửa lại những
điều sai trái trong xã hội của chúng ta.
Sự cầu nguyện
của chúng ta sẽ được tràn đầy với sự can đảm, điều đó sẽ đến từ đức tin. Thánh
Phaolô đã bảo đảm với Timôthêô;"Thánh Thần của Thiên Chúa đã ban cho chúng
ta không phải là một sự hèn nhát nhưng đúng hơn đã làm cho chúng ta mạnh sức,
yêu thương và khôn ngoan". Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu
phép rửa. Thánh Thần đó sẽ thúc đẩy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa với sự
trông đợi nhưng cũng với sự khẩn nài không chỉ trong Thánh Lễ và bất cứ nơi nào
mà chúng ta cầu nguyện. Khi nào chúng ta cầu nguyện, một người cầu nguyện là
một người khôn ngoan, yêu mến và mạnh mẽ để nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng
sáng tạo và là Đấng công chính bởi vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể thay
đổi.
10. Phép lạ của
lòng tin
(Trích trong
'Niềm Vui Chia Sẻ')
Tại một cộng hoà
thuộc Liên Xô cũ, trong một cuộc mít tinh nọ, một giáo sư muốn chứng minh cho
cử tọa thấy rằng Chúa Giêsu chỉ là một tên phù thủy lừa bịp. Ông lấy một ly
nước, đổ vào đó một ít bột, nước liền đổi ra màu đỏ. Ông tuyên bố với cử tọa
như sau:
"Thưa quý
vị, tôi vừa mới làm một phép lạ. Ngày xưa Ông Giêsu cũng chỉ làm như tôi vừa
làm mà thôi. Ông Giêsu đã biến nước thành rượu theo cách thế tôi vừa làm đó.
Nhưng quý vị hãy xem tôi còn làm được điều ngoạn mục hơn nữa". Nói xong,
ông lấy một thứ bột khác cho vào nước. Nước từ từ đổi màu, rồi trở lại nguyên
trạng.
Trong đám cử
tọa, một người đứng lên phát biểu: "Thưa ông, ông quả thực là người tài ba
nhưng liệu ông có dám uống thử thứ rượu mà ông vừa chế biến hay không?"
Quả thực, ông giáo sư biết mình đang làm trò bịp. Nước mà ông đã cho đổi màu ấy
chỉ là một hóa chất độc hại. Thấy ông giáo sư chần chừ, người vừa lên tiếng
phát biểu mới quay xuống đám đông và bình tĩnh giải thích như sau:
"Thưa quý
vị, đây là sự khác biệt giữa Chúa Giêsu và ông giáosư nầy: với rượu nho của
Ngài, Chúa Giêsu đã rót cho chúng tôi hai ngàn năm hoan lạc rồi. Còn với thứ
rượu mà vị giáo sư nầy chế biến, nhân loại hẳn sẽ bị đầu độc".
Anh chị em thân
mến,
Hai ngàn năm
qua, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục làm phép lạ trong cuộc sống của mọi con người, đặc
biệt là trong cuộc sống của những ai tin vào Chúa. Mỗi cuộc đời Kitô hữu là một
phép lạ phi thường của Chúa Giêsu. Trong phép lạ lớn lao ấy còn hàm ẩn biết bao
phép lạ khác nữa. Chúa Giêsu hôm nay đã nói: "Nếu anh em có lòng tin nhỏ
xíu bằng hạt cải thôi, anh em có thể truyền lệnh cho cây dâu nầy bật gốc lên,
xuống mọc dưới biển kia cũng được". Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn nói
rằng đức tin có khả năng làm phép lạ như một sức mạnh phù phép, bùa chú, hiểu
theo nghĩa đen là "chuyển núi dời non", "bứng rừng trồng xuống
biển". Nhưng Ngài muốn nói: đức tin là một động lực thúc đẩy chúng ta dám
nghĩ, dám làm những việc to lớn, phi thường mà nếu không có lòng tin, chúng ta
không dám hành động. Bởi vì, người có lòng tin thì hành động bằng quyền năng
của Thiên Chúa, chứ không phải bằng khả năng giới hạn của mình. Do đó, người có
lòng tin có thể làm được những việc mà chỉ có quyền năng vô biên của Thiên Chúa
mới làm được. Thực ra, không phải là người ấy hành động nữa mà là chính Thiên
Chúa hành động trong người ấy và qua người ấy.
Nhờ đức tin thúc
đẩy, chúng ta dám khởi công bắt ta vào việc xây dựng cuộc sống cho mình, cho
anh chị em mình, rồi Chúa sẽ tiếp tay giúp sức chúng ta bằng quyền năng vô biên
của Ngài, để hướng dẫn và biến đổi công việc nhỏ bé của chúng ta trở thành công
trình to lớn, vĩ đại, phi thường. Nếu chúng ta không bắt tay vào việc là dấu
chứng tỏ chúng ta chưa tin, hoặc không tin. Có tin, chúng ta mới dám làm, chưa
làm hay không làm là vì chưa tin hay không tin. Đức tin đòi phải có hành động.
Thánh Giacôbê tông đồ đã nói: "Đức tin không có việc làm là đức tin đã
chết rồi" (Gc 2,17). Ngài lấy ví dụ: "Nào có ích gì, nếu người nào
rêu rao mình có đức tin trong khi chẳng chịu làm gì cả? Nếu có anh chị em nào
thiếu ăn thiếu mặc mà một người nào trong anh chị em lại nói với họ: 'chúc anh
chị em đi bình an, ăn no mặc ấm', mà không cho họ những gì cần thiết để ăn mặc,
thì nào có ích gì? Đức tin đó có cứu được người ấy không? Cũng vậy, đức tin
không có việc làm là đức tin đã chết mất rồi" (Gc 2,14-17). Bởi vì đức tin
sống bằng đức ái. Đức tin phải được biểu lộ trong sự thông cảm, tha thứ, chia
sẻ cho nhau cái ăn cái mặc, và nhất là biểu hiện trong sự phục vụ, làm tôi tớ
lẫn nhau một cách vô điều kiện.
Thưa anh chị em,
Sống đức tin là
sống phục vụ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng một câu chuyện bình dân
trong chế độ xã hội phong kiến ở thời đại Ngài mà dạy chúng ta bài học phục vụ.
Chế độ phong kiến là chế độ có chủ có tớ, có địa chủ và nông nô. Tớ phải hầu hạ
chủ như là chuyện đương nhiên. Chủ không bao giờ mang ơn tớ, cũng là chuyện coi
như đương nhiên. Nhưng Chúa Giêsu công bố một đạo lý Tin Mừng khác hẳn quan
điểm phong kiến đó. Chính Ngài đã "đến không phải để được hầu hạ, nhưng để
làm tôi tớ mọi người" (Mt 20,28), và Ngài đòi hỏi: "Ai lớn nhất trong
anh em phải làm tôi tớ mọi người" (Mc 9,35). Tin Chúa, theo Chúa là đem cả
cuộc đời mình hiến thân phục vụ anh em như một chuyện đương nhiên, không đòi
hỏi được đền ơn, đáp nghĩa, được biểu dương hay khen thưởng. Tin Chúa, theo
Chúa không để chi lo cho phận riêng mình cách ích kỷ, không chạy theo lợi lộc,
không tìm thăng quan tiến chức, nhưng để phục vụ mọi người như lẽ sống đời
mình. Thái độ phục vụ không kể công, không vụ lợi là một yếu tố quan trọng đối
với đời sống cộng đồng Giáo Hội cũng như xã hội. Sự đòi hỏi người khác biết ơn
và đền ơn, đó là hành động của ước muốn thống trị và là bước đầu đưa tới thống
trị trên người khác. Muốn cho tương quan trong cộng đồng xã hội mãi mãi trong
sáng là tương quan huynh đệ, Chúa Giêsu đã dạy cách phục vụ không vụ lợi, không
kể công. Có làm được điều gì tốt lành thì đó là việc phải làm chứ chẳng có gì
để mà vênh vang tự đắc, nghĩa là mình có quyền đòi Chúa hay mọi người biết ơn.
Do đó, mỗi khi hoàn thành nhiệm vụ, mỗi người phải khiêm tốn tự nhận mình chỉ
là "người tôi tớ tầm thường, vì đã làm việc bổn phận đấy thôi."
Anh chị em thân
mến,
Nếu nhờ đức tin,
mọi người đều lấy mình làm tôi tớ lẫn nhau thì chắc chắn đức tin ấy sẽ làm được
những việc phi thường. Đó là phép lạ của đức tin có hành động. Và cũng chính
hành động nầy sẽ kiểm tra chất lượng đức tin của chúng ta xem nó bằng bao nhiêu
sánh với hạt cải bé nhỏ. Vì nếu chúng ta có được lòng tin nhỏ bé bằng hạt cải
thôi, chúng ta có thể "chuyển núi dời non", "bứng rừng trồng
xuống biển" cũng được. Đức tin có một sức bật kỳ diệu như vậy. Nhà vật lý
Archimède đã nói: "Nếu có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì
với một đòn bẫy, người ta có thể nâng bổng cả vũ trụ lên". Và văn hào
Kierkegaard đã nói: "Điểm tựa ấy chính là đức tin". Đức tin có cả một
sức bật như vậy, nó có khả năng biến đổi cả xã hội, cả thế giới đầy những bất
công, bạo lực, chia rẽ, chiến tranh nầy thành một vương quốc của tình yêu, thành
một "Trời Mới Đất Mới" trong ngày Cánh Chung.
11. Đức tin –
McCarthy
(Trích dẫn từ
'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng')
Maurice là một
người nghiện rượu. Khi một linh mục đến thăm anh thì anh sống trong tầng hầm
với con chó trong khi vợ anh sống trên căn gác. Về pháp lý, họ đã ly dị và chờ
bán xong căn nhà để rồi chia tay.
Anh ta đã có một
cuộc sống gian khổ. Hầu hết những rối loạn của anh bắt nguồn từ việc uống rượu
mạnh. Anh nói hiện giờ anh uống chừng mực – nhưng nhiều người nghiện rượu vẫn
nói thế. Có lần trong một cơn tuyệt vọng, anh đặt đầu súng vào miệng mình,
nhưng khi nhìn thấy trên ngón tay mình chiếc nhẫn Mân Côi mà em gái anh cho
anh, anh không thể bóp cò.
"Con vẫn
còn tin Thiên Chúa" anh nói. Rồi nước mắt chảy trên khuôn mặt, anh nói
tiếp "Nhưng con ao ước có được đức tin mà con đã có khi còn trẻ".
"Điều gì
làm cho đức tin ấy đẹp đến thế?"linh mục hỏi.
"Khi con
còn trẻ, con đã tin tưởng mọi việc – rất nhiều việc. Con đã chắc chắn về mọi
sự. Nhưng thứ đức tin ấy không kéo dài. Giờ đây, con không tin chắc điều con
phải tin. Con tra hỏi mọi việc. " Anh ngừng lại sau đó buồn bã nói tiếp:
"Có thể vợ con và con sẽ sống chung trở lại. Nhưng con đã làm mất tình cảm
mà con đã có với cô ấy".
"Anh đã đau
khổ nhiều phải không Maurice?" linh mục nói.
"Cha khỏi
phải nói điều đó", anh đáp.
"Anh có cảm
thấy Thiên Chúa ở với anh trong suốt những năm anh say sưa?" linh mục hỏi.
"Con cảm
thấy điều đó, có lẽ trừ lúc con định tự tử. Con đã cảm thấy bị bỏ rơi đến tận
cùng".
Ở đây, người ta
có thể cảm nhận phần nào nỗi cô đơn và đau buồn xé ruột nằm sâu trong mỗi con
người mà đức tin đã mất. Tuy nhiên, đức tin của Maurice không hoàn toàn mất.
Một vài sự vật bên ngoài đã bị cắt xén. Nhưng vẫn còn cái lời bên trong, đó là
niềm xác tín rằng Thiên Chúa hiện hữu và chăm sóc anh ta.
Vì thế, anh bám
chặt lấy đức tin thời niên thiếu. Bấy giờ, mọi vật đơn giản, rõ ràng và chắc
chắn. Anh không nhận thấy rằng những thay đổi lớn lao đã xảy ra trong anh. Một
vực thẳm đã ngăn cách anh với tuổi thơ của anh ngày trước.
Chúng ta không thể
không cảm thấy có thiện cảm với anh. Nhiều người bám chặt lấy đức tin có khi
còn thơ ấu. Và cũng đúng thôi – nó là cái gì đẹp. Nhà thơ Emily Dickinson nói:
Chúng ta bắt đầu
hiểu rằng chúng ta đã tin có một lần và trọn vẹn.
Niềm tin không
hợp lắm khi thường hay biến đổi.
Chúng ta thẹn đỏ
mặt, nếu chúng ta thực hiện được thiên đàng, một biến cố khôn tả.
Chúng ta hẳn đã
tránh xa, thậm chí xấu hổ và nhận được phép lạ.
Chúng ta cứ mãi
nắm lại ý nghĩa tôn giáo của thế giới thơ ấu đã qua của chúng ta. Nhưng tất cả
chúng ta phải để lại tuổi thơ đàng sau mình và cùng với nó một thế giới của
những điều chắc chắn. Đức tin tuổi thơ đi qua hoặc ít nhất đã đổi thay. Tuy
nhiên, không phải Thiên Chúa đổi thay mà chính chúng ta thay đổi. Tuy nhiên,
cảm thấy như Maurice cảm thấy không có nghĩa là chúng ta đã mất đức tin. Tất cả
điều ấy có nghĩa là chúng ta đang chiến đấu với đức tin.
Đức tin thơ mộng
của tuổi thơ không thể bám giữ mãi được. Đức Giêsu nói chúng ta phải vào Nước
Trời như một trẻ nhỏ, nhưng Người không nói chúng ta phải có đức tin của đứa
trẻ. Đức tin của chúng ta phải là một đức tin trưởng thành, một đức tin đã vượt
qua những sự phức tạp và mơ hồ của đời sống.
Mọi người chúng
ta có thể lấy lại lời cầu nguyện của các tông đồ: "Lạy Chúa, xin tăng thêm
đức tin cho chúng con", bởi vì giữ gìn đức tin chưa đủ; chúng ta phải
trưởng thành trong đức tin. Đức tin trưởng thành khi nó thực hành. Đức tin cũng
trưởng thành nhờ được nuôi dưỡng đều đặn. Chúng ta nuôi dưỡng đức tin như thế
nào? Bằng việc cầu nguyện và tiếp xúc với cộng đoàn đức tin.
12. Phục vụ
Thiên Chúa vì yêu thương
(Trích dẫn từ
'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ Trọng' – McCarthy)
Trong số những
người có đạo, có một xu hướng nghĩ rằng Thiên Chúa phải ban cho họ một điều gì
đó. Họ tưởng tượng Thiên Chúa như một ông chủ điển hình. Nếu chúng ta thực hiện
xong công việc thì theo lẽ công bằng, ông chủ trả tiền lương cho chúng ta.
Thiên Chúa ban cho chúng ta phần thưởng thiên đàng vì chúng ta đã trung tín
phục vụ Người khi ở trần gian. Đây là thái độ rất dễ hiểu. Nhưng nó đưa ra một
thái độ làm thuê, vụ lợi vào điều mà chủ yếu phải được xem là một việc làm yêu
thương giữa Thiên Chúa và chúng ta. Mặt khác, nó hoàn toàn không giống với Tin
Mừng.
Sự thật nổi bật
là: chúng ta không bao giờ có thể đặt Thiên Chúa trong tư thế mắc nợ chúng ta.
Đức Giêsu nói rằng dù khi chúng ta đã làm hết mọi việc mà chúng ta hy vọng làm
được (và ai trong ta dám liều lĩnh xác nhận điều đó?) Chúng ta cũng không thể
đưa ra bất cứ đòi hỏi nào với Thiên Chúa. Trong thời đại của Đức Giêsu, đạo Do
thái đã bị ý tưởng công nghiệp chi phối. Đức Giêsu đã đối đầu với thái độ đó.
Chân lý nền tảng
về Kitô giáo là chúng ta có một tôn giáo của ân sủng chứ không phải một tôn
giáo của công nghiệp. Sự cứu chuộc không thể kiếm được. Chúng ta không bao giờ
có thể cho rằng Thiên Chúa mắc nợ chúng ta. Nhưng chúng ta cũng không nên có
quan niệm đó. Thiên Chúa là Cha chúng ta. Chúng ta là con cái của Người. Con
cái không thực hiện ý muốn của cha mình để được thưởng công. Chúng làm điều đó
bởi vì chúng muốn cố gắng đáp lại tình yêu thương của người cha dành cho chúng.
Quả là một niềm
vui lớn khi chúng ta khám phá rằng không phải chúng ta không cần chứng tỏ mình
với Thiên Chúa. Không phải chúng ta kiếm được tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa
yêu thương chúng ta từ lâu trước khi chúng ta có thể làm một điều gì đó xứng
đáng với tình yêu đó. Và Người yêu thương chúng ta cả khi chúng ta là những tội
nhân. Nhiệm vụ của chúng ta là đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Chúng ta không
giữ các giới răn để Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta; chúng ta giữ các giới
răn bởi vì Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Tin Mừng có thể được tóm tắt như
sau: Một Thiên Chúa quảng đại muốn các môn đệ phục vụ Người vì yêu thương không
phải vì bổn phận. Vì thế, đức tin không đủ; chúng ta cũng cần có tình yêu.
Trong khi đức tin làm cho mọi việc có thể, tình yêu làm cho mọi việc dễ dàng.
Các công việc
quảng đại nhất và anh hùng nhất trong đời sống là những công việc hoàn thành,
không phải trong đường lối của bổn phận hoặc với niềm hy vọng có được tiền bạc
hoặc những phần thưởng nào khác, nhưng chỉ thuần túy vì tình yêu. Chúng ta hãy
xem xét tấm gương sau đây.
Buổi chiều muộn
của một ngày mùa đông giá rét. Mọi người đều vội vã trở về nhà. Thình lình một
tiếng kêu vang lên: "Có một người dưới lòng sông". Người ta chạy đến
bờ hè và nhìn xuống dòng nước đầy bùn, dơ bẩn. Đúng là có một người đàn ông
đang dập dềnh trong nước đen. Tiếng kêu cứu tuyệt vọng đến những người đứng
nhìn trong tiếng ồn ào của xe cộ.
Rồi với một
tiếng két của thắng xe, một chiếc xe hơi quẹo ra khỏi luồng xe và cặp vào chỗ
đậu xe sát lề đường. Một thanh niên nhảy ra khỏi xe, cởi áo và giày rồi leo lên
chỗ bờ hè, quan sát thật nhanh và lao xuống nước bùn. Sau một vài nỗ lực không
thành công, anh ta đã túm được người bị nạn và đưa người này đến chỗ an toàn.
Trên lề đường,
một đám đông tụ tập xung quanh người bị nạn và chờ cho xe cứu thương đến. Ngay
lúc đó, xe cứu thương đến và đưa người ấy đến bệnh viện. Ít lâu sau người ấy
khỏe hẳn sau cơn thử thách. Một phóng viên đi qua, thấy câu chuyện có thể được
khai thác, bắt đầu tìm kiếm thông tin. Nhưng thay vì tìm kiếm sự tôn vinh và
tán thưởng của dân chúng, người cứu nạn đã biến mất.
Điều Thiên Chúa
muốn chúng ta làm là chúng ta phải đến với Người như con cái đến với Cha mình,
Người muốn chúng ta xử sự một cách vinh dự, không phải vì hy vọng được thưởng,
mà vì yêu thương Người và nhiệt thành phục vụ Người.
Sự cứu chuộc là
một ơn huệ chứ không phải là một phần thưởng. Một phần thưởng là một vật to
lớn, nhưng nó không thể so sánh với niềm vui của một người cảm thấy khi nhận
được một ân huệ.
13. Đức tin và
khiêm nhường – Veritas.
(Trích dẫn từ
'Hãy Ra Khơi')
Linh mục văn sĩ
Marlin Dòng Tên mời gọi những ai đọc đoạn Tin Mừng trên hãy thực hiện hai việc
làm tưởng tượng sau đây để có thể hiểu thêm phần nào về đoạn Phúc âm mà chúng
ta vừa nghe. Việc tưởng tượng thứ nhất là lùi về quá khứ 200 năm. Tác giả đề
nghị chúng ta cầm lấy một nhật báo vừa xuất bản trong ngày, rồi lùi vào trong
quá khứ 200 năm, giải thích những gì được in trong trang đầu tiên của tờ báo mà
thôi cho những con người chúng ta gặp. Thử hỏi những con người đó sống cách
chúng ta 200 năm về trước có tin được chúng ta hay không? Có biết bao điều mà
những con người đó không thể nào thực hiện được, những điều mà đối với chúng ta
hôm nay xem ra như quá tầm thường. Chẳng hạn chiếc Radio, chiếc máy truyền hình
v.v..., chúng ta có giải thích cách mấy đi nữa về chiếc truyền hình như là một
kỹ thuật để giúp ta nhìn thấy và nghe được những gì xảy ra cách ta hàng ngàn
dặm. Họ cũng sẽ trả lời chúng ta rằng, thông thường theo sự hiểu biết của chúng
tôi thì chuyện đó không thể nào có được. Đó là nếu lùi vào quá khứ chỉ cách
chúng ta 200 năm mà thôi, và càng lùi xa hơn nữa thì còn nhiều chuyện khó tin
hơn nữa.
Rồi tác giả
Marlin mời chúng ta đi nhanh về tương lai phía trước chúng ta 200 năm. Hãy
tưởng tượng như có một người xa lạ nào đó sống trước chúng ta 200 năm trở lại
nói với chúng ta hôm nay đây rằng, họ đang sống trong thế giới thật là hòa
bình, không hận thù, không chiến tranh, không khổ cực, liệu chúng ta có tin người
đó hay không? Hay chúng ta cũng chỉ trả lời giống như câu trả lời chúng ta nghe
trong trường hợp thứ nhất là nghe thường tình mà nói thì làm sao có chuyện đó
được. Vì thường tình chúng ta đang giận ghét nhau, đang đánh giặc với nhau,
đang mưu mô ám hại nhau... Thường tình chúng ta cảm nhận là như thế thì làm sao
có thể tin vào điều khác được.
Quả thật, giữa
con người với nhau trong cùng một thế giới vật chất hữu hình mà đã là khó tin
nhau rồi thì thử hỏi làm sao ta có thể tin vào một người đến từ thế giới khác
để nói cho chúng ta biết những sự thật khác với sự thật chúng ta thường biết.
Điều này hướng dẫn chúng ta hiểu thêm tâm trạng của các tông đồ khi các ông tha
thiết khẩn xin Chúa: "Lạy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con" mà
chúng ta vừa đọc nơi câu đầu của bài Phúc âm hôm nay.
Trước đó, Chúa
Giêsu vừa nói cho các ông về những sự thật của một cuộc sống cao thượng hơn,
một cuộc sống có triển vọng được triển nở vào trong cõi đời đời. Đừng sống ích
kỷ như người giàu có đối với Ladarô, đừng làm gương mù gương xấu, đừng làm tội,
nhưng hãy tha thứ cho nhau. Đó là những chuyện, những điều dạy khác thường,
ngoại thường không thể tưởng tượng được của một số người sống xa cách Chúa,
không tin có Chúa. Thường tình làm sao có được những chuyện đó.
"Lạy Chúa
xin thêm đức tin cho chúng con". Có thể các tông đồ đã nhìn thấy những
điểm này và các ngài cảm thấy khó tin vào những lời Chúa dạy, nên các ngài đã
xin Chúa thêm đức tin cho. Để tin Chúa và tin những gì Chúa dạy bảo, Chúa không
đòi hỏi chúng ta một đức tin trọn vẹn ngay từ đầu, nhưng một đức tin có thể nói
một thiện chí nhỏ ngay từ đầu, dù nhỏ như hạt cải. Xét về chiều kích vật chất
thì hạt cải là nhỏ, nhưng về tinh thần và sức sống trong hạt cải thì điều đó
chắc chắn là không nhỏ. Sự sống đó đến từ Thiên Chúa, đến từ Đấng Tạo hóa. Chúa
chỉ cần chúng ta mở ra cho Ngài, và như vậy bước đầu tiên là cần một chút thiện
chí cố gắng nơi mỗi người chúng ta để tin vào Ngài, để rồi từ đó Ngài sẽ khai
triển đức tin chúng ta trở nên mạnh mẽ hơn, vững mạnh hơn.
Lời cầu nguyện
của các tông đồ: "Lậy Thày, xin thêm đức tin cho chúng con". Chúng
con đang sống giữa cảnh đời với nhiều thách thức, làm cho chúng con có thể bị
lung lay; lung lay trong đức tin hay lạc mất đức tin.
Bài Phúc âm hôm
nay nơi phần hai gợi lại cho chúng ta một bí quyết thêm nữa, đó là để phát
triển đức tin cần phải có sự khiêm tốn. Khiêm tốn trước nhan Chúa, kể mình như
không có công trạng gì để khoe với Chúa hay để đòi buộc Ngài phải làm điều này
điều nọ cho chúng ta. Nhưng như là người đầy tớ trung tín khiêm nhượng, chu
toàn những bổn phận Chúa trao phó cho chúng ta và nhìn nhận rằng, tất cả trong
đời sống chúng ta đều là ân sủng của Chúa. Chúng ta khiêm tốn đón nhận, dù với
những khuyết điểm. Chúng ta có đón nhận mọi hồng ân Chúa ban cho chúng ta, để
rồi từ đó nhờ ơn Chúa chúng ta phát triển đức tin thêm lên mãi.
Lạy Chúa, xin
thêm đức tin cho chúng con. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được vững mạnh
hơn trong đức tin mà giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
14. Đức tin và
khiêm nhường
Có một vị ẩn tu
nổi tiếng bên Ai Cập trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, ngài là một con
người luôn lấy sự khiêm nhượng làm nền tảng cho tòa nhà tu đức. Một hôm, ngài
và một số đệ tử cùng đi dạo trong sa mạc, thình lình có một con rắn lớn xuất
hiện như muốn cản đường họ. Với phản ứng tự nhiên, tất cả mọi người kể cả vị
thánh đều bỏ chạy.
Vài năm sau, vị
ẩn tu đang hấp hối trên giường bệnh, các đệ tử hỏi ngài như sau:
- Thưa cha, hẳn
cha còn nhớ ngày nọ khi chúng ta gặp một con rắn rất lớn, tất cả mọi người đều
sợ hãi và bỏ chạy. Chúng con không hiểu tại sao cha cũng bỏ chạy. Phải chăng
cha cũng run sợ như chúng con.
Con người thánh
thiện ấy trả lời như sau:
- Không! Cha
không hề sợ hãi trước con vật ấy. Thế tại sao cha cũng bỏ chạy như chúng con.
Vị ẩn tu đang
hấp hối giải thích như sau:
- Lúc ấy cha
nghĩ rằng, thà bỏ chạy còn hơn là dung dưỡng cho tính kiêu ngạo sẽ chồi lên
trong cha sau này.
Kitô giáo đề cao
sự khiêm nhượng như một trong những nhân đức nền tảng mà người tín hữu Kitô
phải luôn trang bị cho mình. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn các
môn đệ đề cao cảnh giác trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật
sĩ. Họ quan niệm Thiên Chúa như một chủ chăn hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy
theo công đức của mỗi người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức
như ăn chay, cầu nguyện, hãm mình, bố thí... là những việc lành mà Thiên Chúa
ân thưởng bội hậu cho họ.
Sự giàu có và
địa vị cao trọng của họ trong xã hội được họ xem như là một thứ ân thưởng rất
công bình và hợp lý mà Thiên Chúa dành cho họ. Đánh giá như thế về công nghiệp
của mình nên những người biệt phái và giàu có sẽ nhìn những người nghèo khổ bần
cùng trong xã hội như những người tội lỗi bị bàn tay công thẳng của Thiên Chúa
đang đè nặng trên họ.
Đối lại với
những tính toán khôn lường và khôn ngoan ấy của những người biệt phái và giàu
có, Chúa Giêsu đề ra lòng tin tưởng vô điều kiện mà con người phải có đối với
Thiên Chúa. Qua hình ảnh của người đầy tớ sau khi đã vất vả nhọc nhằn suốt ngày
ở đồng áng, để rồi khi về nhà còn phải hầu hạ phục vụ ông chủ, Chúa Giêsu có ý
nói rằng, tương quan giữa con người và Thiên Chúa là một tương quan chủ tớ.
Thiên Chúa mà
Chúa Giêsu muốn bày tỏ cho chúng ta là một người Cha yêu thương, nhân từ. Một
Thiên Chúa là Cha yêu thương chỉ muốn con người luôn đặt tin tưởng phó thác nơi
Ngài mà thôi. Sau khi đã làm hết phận sự của mình, người đầy tớ chỉ có thể thốt
lên: "Tôi chỉ là một đầy tớ vô dụng".
Hình ảnh của
người đầy tớ tự cho mình là người vô dụng mà Chúa Giêsu sử dụng trong mạch văn
này có ý nói rằng, con người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp nào của
mình để buộc Thiên Chúa ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một
cách nhưng không, và để đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên
lòng tri ân và phó thác mà thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì
mình làm được, con người chỉ có thể và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và
phó thác.
Lời Chúa hôm nay
mời gọi chúng ta điều chỉnh lại quan niệm về Thiên Chúa mà chúng ta đang có,
cũng như cách diễn tả niềm tin của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không tính
toán so đo với Chúa trên cách sống đạo của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã
không giơ tay cầu nguyện, xin lễ, ăn chay, hãm mình, còn làm bao nhiêu những
việc lành phúc đức khác để cốt Thiên Chúa trả công và chúc lành cho những công
việc làm ăn và cuộc sống của chúng ta. Phải chăng có những lúc chúng ta tự phụ
rằng, những thành công và may mắn chúng ta đang có là một ân thưởng mà Thiên
Chúa đã ban tặng vì công nghiệp và hy sinh của chúng ta.
Chúa Giêsu mời
gọi chúng ta đi vào mối tương quan yêu thương với Thiên Chúa. Tình yêu đích
thực không bao giờ so đo tính toán hơn thiệt. Tình yêu đích thực luôn mời gọi
niềm tin tưởng và phó thác. Qua đó, con người mới thể hiện được chính lòng
khiêm nhượng đích thực của Kitô giáo. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy luôn
tâm niệm: "Nếu phải vênh vang thì tôi chỉ vênh vang về những yếu hèn của
tôi mà thôi, nhưng nhờ đó mà quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện".
15. Chú giải của
Noel Quesson
Các Tông Đồ thưa
với Chúa Giêsu rằng
Thánh Luca vẫn
luôn tả lại "cuộc hành trình cao cả và sau cùng" lên Giêrusalem của
Đức Giêsu. Ơ đây, Luca dùng một công thức trịnh trọng để dẫn nhập vào câu
chuyện sắp kể.
Sau khi đã nói
với những người Pharisêu (Lc 16,1-31) kế đó với các môn đệ (Lc 17,14), Đức
Giêsu nói với các "Tông đồ". Trong các Tin Mừng khác, danh hiệu này
chỉ dành cho nhóm Mười Hai và chỉ nói một lần. Còn Luca dùng sáu lần trong Tin
Mừng của ngài và hai mươi tám lần trong sách Công vụ Tông đồ. Dưới ngòi bút của
ngài, chỉ Nhóm Mười Hai mới có quyền có danh hiệu ấy: Họ là chứng nhân chính
thức của Tin Mừng của Đấng Phục sinh cho đến tận cùng trái đất.
"Apostoloi" trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là "những người được sai
đi".
Trong đời sống
hằng ngày, tông đồ là một vai trò nặng nề trách nhiệm: Không ai có thể tự ban
cho mình chức vụ đó. Trong Giáo Hội tiên khởi, người ta không thể không ý thức
về đặc quyền không thể chuyển giao và không thể tuyền lại được đặt trên Nhóm
Mười Hai: Tính chất chính thống của "sứ vụ" và của việc "sai
đi" do đích thân Đức Giêsu ban cho. Chính Người đã chọn họ và đã sai họ
đi. Họ là các "chứng nhân" của Người. Họ dã nghe lời Người giảng dạy.
Họ có thể nói lại: Những lời ấy đến trực tiếp từ Người. Họ có những cử chỉ của
Người. Họ có thể lặp lại những cử chỉ ấy. Vẫn luôn là những cử chỉ của Người.
Nhất là họ thấy Người sống động sau khi đã sống lại: Họ không thể không cao rao
điều đó cho đến tận cùng trời cuối đất.
Theo một ý nghĩa
loại suy, Giáo Hội ngày nay yêu cầu mọi Kitô hữu trở thành các "tông
đồ". Nhưng những yêu sách của tính chất chính thống còn mãi trong sự súc
tích của chúng: Tôi cũng thế, tôi được đích thân Đức Giêsu sai đi... để trở
thành chứng nhân của Người, của tư tưởng, lời nói, cử chỉ, sự cứu chuộc và tình
yêu của Người.
Các Tông Đồ thưa
với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con"
Danh xưng
"Chúa" chỉ xuất hiện một lần trong Matthêu và Maccô để chỉ Đức Giêsu
khi còn sống. Luca dùng danh xưng ấy mười chín lần trong Tin Mừng ngài. Nhưng
từ này không được sử dụng bởi tình cờ: Ngài luôn luôn muốn chỉ đến vinh quang
của Đấng Phục sinh.
Hơn nữa, lời cầu
xin của các tông đồ cũng không tầm thường. Đây là lần duy nhất mà người ta thấy
bạn hữu của Đức Giêsu nói với Người một lời "cầu xin", "như
thể" Người là Thiên Chúa. Bằng một sự tham dự trước, họ cầu xin Đức Kitô
trong vinh quang Tin Mừng, với Đấng mà sau này họ đã khám phá sự đồng nhất mầu
nhiệm với Đức Chúa. Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, sự kết
thúc đến gần.
"Lạy Chúa,
xin thêm lòng tin cho chúng con".
Trở thành tông
đồ, không đơn giản là một quyết định của con người.
Trở thành chứng
nhân của sự sống lại trước tiên không do bởi một sự hiển nhiên duy lý áp đặt
như khi người ta đơn giản thừa nhận một sự kiện lịch sử bắt buộc.
Chỉ có đức tin
mới mở ra cho những thực tại thánh thiêng ấy và do đó siêu nhiên, bên trên mọi
thứ duy lý của khoa học. Và đức tin là một "ơn của nhiên Chúa"
"Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho chúng con!"
Vậy thì ai, nếu
không phải là chính Thiên Chúa đã có thể biến đổi các tông đồ sau sự bỏ trốn và
chối bỏ thảm hại của họ?
Vậy thì ai nếu
không phải là Thiên Chúa, đã làm họ trở thành những "chứng nhân can
đảm" đến độ chịu tử đạo? Không, đức tin không phải là một điều hiển nhiên,
một điều chinh phục được, một sự căng thẳng của trí tuệ và ý chí con người. Đức
tin là sự đón nhận khiêm tốn một ân huệ, một ân sủng. Điều đó không có nghĩa
con người không làm gì cả: "đón nhận" là một hành động tích cực cao
độ của con người. Bạn không phải là ánh sáng. Nhưng nếu bạn khép cửa lại thì
mặt trời muốn vào nhà bạn để chiếu sáng sẽ không bao giờ có thể vào được. Đức
tin là một mặt trời. Một "ơn" luôn luôn được ban tặng cho tất cả mọi
người. Nhưng phải mở cõi lòng mình ra. "Ơn của Thiên Chúa", sáng kiến
không mất tiền và siêu nhiên nên đức tin phải được "cầu xin": Lời cầu
nguyện là cánh cửa sổ của đức tin; phải được mở ra để đón nhận ơn Thiên Chúa.
"Lạy Chúa, xin cho con đức tin. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng
con..."
Chúa đáp:
"Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu
này: 'Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc', nó cũng sẽ vâng lời anh em
Một hình ảnh khó
quên theo đúng kiểu mẫu Palestine, và rất đạt trong văn phong dùng nghịch lý
của Đức Giêsu. Hạt cải là loài "nhỏ nhất trong các loại hạt" (Mc
4,31). Còn cây dâu là cây rất khó bật rễ, theo các câu nói của những giáo
trưởng Do Thái. Dĩ nhiên, Đức Giêsu ở đây không khuyên người ta cầu xin những
phép lạ giật gân: Người không bao giờ dời cây dâu xuống biển; và nhiều lần,
Người đã từ chối các "dấu chỉ" kỳ diệu mà người ta yêu cầu Người.
Nhưng bằng hình ảnh này, Người mạnh mẽ nói với chúng ta rằng đức tin mở chúng
ta cho điều bất khả, cho Thiên Chúa.
Một đức tin nhỏ
nhất còn mạnh hơn mọi cộng việc của con Người bởi vì sự tham gia vào chính sức
mạnh của Thiên Chúa là một việc lớn lao. Thật vậy, sau khi Chúa sống lại, hiệu
quả đức tin của các Tông đồ không cân xứng với khả năng nghèo nàn của con người
họ. Vốn là những người không có ảnh hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính, tổ
chức, báo chí, truyền hình, tóm lại không gì cả... thế mà họ đã thay đổi dòng
lịch sử. Ngày nay, bởi sự kiện lịch sử này và bởi lời của Đức Giêsu, chúng ta
được mời gọi từ bỏ các phương tiện của quyền lực, không trông cậy vào các
phương pháp về phương tiện tông đồ tinh xảo nhất và được chương trình hóa tốt nhất...
để chỉ dựa vào đức tin và mở lòng ra với đức tin bằng lời cầu nguyện.
"Các bạn
hãy nhìn xem: Một trinh nữ sinh con, một người được sinh ra từ Thiên Chúa;
thiên đàng ở giữa chúng ta; chỉ còn một dân tộc... Chỉ cần một chút đức tin và
các bạn sẽ thấy cây mọc trong biển, những người ăn mày trở thành những ông vua,
những kẻ có quyền thế bị lật đổ, người ta chia sẻ các kho tàng... Các bạn hãy
nhìn: nước biến thành rượu và rươụ trở thành máu, bánh hóa ra nhiều và dân
chúng không còn đói nữa... chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc
trong biển, các sa mạc đầy hoa, người ta gặt lúa vào mùa đông và kho lẫm đầy
tràn...". Chỉ cần một chút đức tin, nhỏ như một hạt cải để thấy những
người chán nản lấy lại niềm hy vọng, những người tội lỗi đứng dậy, những con
đường không lối thoát được mở ra, chiến tranh chấm dứt, tình yêu được tái
sinh... vâng, cây mọc trong biển, núi dời chỗ. Những ngọn núi của sự sợ hãi,
ích kỷ và đê tiện. Thế giới đang khủng hoảng! Giáo Hội đang khủng hoảng? Chỉ
cần một chút Đức tin... Gia đình đang khủng hoảng! Học đường đang khủng hoảng.
Kinh tế đang khủng hoảng? Sự chết chiến thắng, thập giá trống rỗng và trần
trụi, nhưng mộ Người trống rỗng, mở ra và Người đứng đó, bên kia biển! Và
"cây cối nhảy múa vui mừng" (Thánh Vịnh 95).
Ai trong anh em
có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo
nó: 'Mau vào ăn cơm đi', chứ không bảo: 'Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu
bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau
Trước tiên chúng
ta cứ để cho mình công phẫn vì sự nghiêm khắc đó. Dĩ nhiên hoàn cảnh của nô lệ
ở Palestine vào thời Đức Giêsu ít khắc nghiệt hơn ở trong thế giới La Hy vào
thời của Thánh Luca nơi mà một hoàn cảnh lệ thuộc của những nô lệ thật bi đát
đến nỗi chúng ta khó mà tưởng tượng tình hình đó lại phổ biến như thế. Người nô
lệ là "vật sở hữu" của ông chủ mà ông chủ không phải trả lương, cũng
không biết ơn.
Cần phải nói
thêm rằng chúng ta không có quyền dựa vào những lời nào đó của Đức Giêsu để
biện minh cho những thái độ chống đối lại xã hội ngày hôm nay. Những đoạn Tin
Mừng biện hộ cho tình yêu thương, sự chia sẻ, sự tôn trọng người khác có quá
đủ.
Chẳng lẽ ông chủ
lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao?
Lạy Chúa, phải
đấy. Phải biết ơn. Chúa cũng biết vậy mà: Nhưng Chúa có ý đinh nói với chúng
con một chân lý rất quan trọng và để nói với chúng con điều ấy, Chúa dùng những
hình ảnh nghịch lý hầu như khó bênh vực được theo những chuẩn mực của con người
như chúng con.
Đối với anh em
cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm
Lạy Chúa, Chúa
muốn nói về điểm này. Vấn đề không phải là một bài học về các quan hệ xã hội!
mà là một bài học về các quan hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa: Đức Giêsu là con
người hướng về Thiên Chúa hoàn toàn và triệt để Người phá bỏ những thói tự phụ
nực cười của chúng ta. Người đặt mọi vật trở về vị trí chân thật của chúng ta.
Lừa phỉnh mình làm gì cho vô ích. Thiên Chúa là tất cả. Tôi không là gì cả
trước mặt Người.
Hơn bao giờ hết,
ngày hôm nay chúng ta phải lắng nghe sự thật hiển nhiên đó. Thiên Chúa là
"ông chủ"! Hình ảnh này khắc khổ nhưng chân chính và chúng ta không
nên đặt nó đối lập với nhiều hình ảnh khác qua đó Đức Giêsu nói về Thiên Chúa
như một "người cha", một "người chồng", kể cả một
"người phục vụ": "Chủ nhà sẽ làm gì? Thầy bảo thật anh em: chủ
sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn và đến bên từng người mà phục vụ " (Lc
12,37). Chúng ta phải chấp nhận những mâu thuẫn bên ngoài đó.
Vâng, lạy Chúa,
con chấp nhận đặt mình trước mặt Chúa như một người đầy tớ hoàn toàn nhỏ bé,
chăm lo thực hiện với lòng trung tín tất cả những gì mà Chúa đã truyền cho con.
Như Đức Maria, như biết bao vị thánh sẵn sàng để "phục vụ". Thánh nữ
Jeanne d'Arc đã nói: "Phải phục vụ Thiên Chúa trước tiên". Đức Maria
đã nói: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa".
Hãy nói: chúng tôi
là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi
Trước khi yêu
cầu chúng ta, Đức Giêsu đã sống điều đó: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà
không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng mặc
lấy thân nô lệ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết" (Pl. 2,6).
Những người
Pharisêu sau cùng đã tưởng rằng họ đáng hưởng thiên đàng bới những công phúc
của họ: Có qua có lại mà. Vả lại Thiên Chúa là Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng không
tính công để trả lại cho chúng ta, Đấng mà không một ai có thể sai khiến. Tự
phụ rằng mình có một quyền năng đủ là ma thuật hay không là ở trước mặt một
"thần tượng" chứ không phải trước mặt Thiên Chúa.
Thái độ chân
thật duy nhất trước Thiên Chúa là tuyệt đối không đòi tính công, là hoàn toàn
vô tư. Trở thành người đầy tớ theo cách của Đức Giêsu không phải là nhục nhã:
Phục vụ, chính là thống trị!
16. Lòng tin và
thái độ sẵn sàng phục vụ
(Suy niệm của Lm
FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn Lc
17,7-9 [10] thường được trích như là một "dụ ngôn". Kiểu gọi này được
biện minh vì dựa trên một lời hư cấu về một cuộc gặp gỡ tưởng tượng giữa một
ông chủ và những người đầy tớ làm việc ngoài đồng; lời này có tầm quan trọng
đối với thế giới tôn giáo. Trong khi câu chuyện của Đức Giêsu thì hư cấu, nó
lại phản ánh tương quan ông chủ-đầy tớ trong thế giới lúc ấy. Cử tọa rất hiểu
những chờ đợi của ông chủ đối với đầy tớ của ông.
Tác giả Lc đã
đặt dụ ngôn này ở cuối một vài lời nói không liên kết với nhau tại nguồn (cc.
1-6). Tuy nhiên, bài dụ ngôn của chúng ta bắt đầu với câu hỏi của Đức Giêsu ở
c. 7, hẳn là ít ra phải liên hệ với c. 6, bởi vì câu hỏi của Đức Giêsu đi theo
c. 6 mà không có chỗ nghỉ hoặc một lời dẫn nhập.
Những gì chúng
ta đọc được ở cc. 5-6 liên hệ đến đức tin. Các môn đệ xin đức tin, nhưng qua
câu hỏi, ta hiểu là họ đã có đức tin. Nhưng lời của Đức Giêsu dường như lại gợi
ý rằng họ có ít đức tin hơn họ tưởng; thậm chí họ không có đức tin lớn bằng hạt
cải, là thứ hạt giống nhỏ nhất. Lý do khiến các ông xin thêm đức tin là vì nội
dung lời rao giảng trước đó của Đức Giêsu (tha thứ cho người xin tha, bất kể số
lần) rất khó tuân theo. Có thêm đức tin, họ sẽ có thể vâng theo. Đức Giêsu
không phủ nhận giá trị của việc gia tăng đức tin, nhưng Người quả có nghi ngờ
là các ông không có đủ đức tin để vâng lời Thiên Chúa, là Chủ của họ và đối tác
ký giao ước với họ.
Lời than thở này
của Đức Giêsu về đức tin của các môn đệ gợi ý là có một dây liên kết với bài dụ
ngôn. Nhận ra rằng các môn đệ hiểu lầm là các ông đã có đức tin, mà thật ra các
ông không có một đức tin để luôn luôn vâng lời, Đức Giêsu tận dụng khái niệm
"vâng lời" mà đưa ra một dụ ngôn liên hệ trực tiếp đến tư cách môn
đệ: họ là những đầy tớ. Theo một nghĩa nào đó, đối với các đầy tớ, vâng theo
các lệnh của ông chủ thì không khó khăn gì. Nhưng phải nhìn xa đến việc vâng
lời chủ trong cả những hoàn cảnh khó khăn. Thực tại ông chủ-đầy tớ là một ví dụ
tốt cho việc sống đời sống tôn giáo: đầy tớ phải hành động như đầy tớ. Các môn
đệ đáng nhận lời Đức Giêsu chỉ trích về tình trạng thiếu đức tin, nhưng qua bài
dụ ngôn, họ được yêu cầu nhìn đến bản thân để thấy rõ sự thật của họ: họ là
những đầy tớ phải vâng lời Đức Chúa. Những giáo huấn của Đức Giêsu di trước cc.
5-6 rất khó nghe, nên đòi hỏi tin tưởng vào sự khôn ngoan của Đức Giêsu và qua
Người, vâng lời Thiên Chúa. Có ai nghĩ rằng mình có đức tin mà lại không vâng
theo các giáo huấn của Đức Giêsu? Đúng ra, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu
như là những đầy tớ, cho dù các khó khăn của các điều răn của Người có thế nào.
Hiểu như thế, dụ ngôn có một đường nối với những gì đi trước: giáo huấn thì
cứng rắn (không được làm bất cứ điều gì làm suy yếu đức tin của người thân cận
do không tha thứ), nhưng đây là ý muốn của Chúa, và chúng ta, những đầy tớ của
Người, chúng ta biết vai trò của mình và vâng phục.
2.- Bố cục
Bản văn có thể
chia thành hai phần:
1) Đức tin
(17,5-6);
2) Dụ ngôn Người
tôi tớ (17,7-10).
3.- Vài điểm chú
giải
- xin thêm lòng
tin (5): Câu này có thể hiểu là: xin thêm đức tin vào niềm tín thác mà chúng
con đã có, hoặc thêm tin tưởng vào những ân huệ khác mà chúng con đã lãnh nhận.
Dựa theo văn cảnh, có thể ưu tiên hiểu theo nghĩa đầu.
- Hạt cải (6):
Tiếng Hy Lạp là kokkos sinapeôs, tiếng Pháp là graine de moutarde, tiếng Anh là
mustard seed. Cây sinapi (ta tạm dịch là "cây cải") là một loại cây
thông dụng bên Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các
cành tỏa rộng. Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt, nhưng nhỏ
nhất trong các loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc và được
tục ngữ Do Thái dùng mà chỉ những gì nhỏ nhất.
- cây dâu (6):
Từ Hy Lạp sykaminos (1 V 10,27; 1 Sb 27,28 ... Bản LXX) để dịch từ Híp-ri
shiqmâh; thế mà shiqmâh là "cây sung" (HL sykomorea,
"sycamore"). Vậy hẳn sykaminos ở đây cũng là sykomorea ở Lc 19,4: tác
giả Lc dùng không phân biệt hai từ này. Dù sao, tác giả muốn nêu ra hình ảnh
một cây khá to.
- đầy tớ (7):
Tiếng Hy Lạp là doulos: người nô lệ hoàn toàn lệ thuộc người chủ và đón nhận
mọi sự từ người chủ như những ân huệ (x. Tv 123,2). Vào thế kỷ i, xã hội được
phân chia thành các giai cấp, chủ nhân và đầy tớ. Đa số các công nhân là đầy tớ
của một ông chủ thì sống trong một ngôi làng và ra đi làm việc cho ông chủ, rồi
lại trở về làng với một số tiền nhỏ là công lao động. Đôi khi những người này
chờ nơi quảng trướng để mong có ông chủ nào thuê họ, vào bất cứ lúc nào. Một
loại đầy tớ khác, đó là người sống trong nhà của chủ, nên không có tiền công
- lại bảo nó...?
(7): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là "không".
- Chẳng lẽ ông
chủ lại biết ơn...? (9): Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là "không".
- vô dụng (10):
Từ Hy Lạp là achreios có nghĩa chữ là "vô ích, vô dụng" (useless),
nhưng ở đây, nghĩa thích hợp hơn, đó là "không sinh lợi lộc"
(unprofitable), bởi vì chỉ làm đúng bổn phận. TOB dịch là quelconque (= bon à
rien), NAB dịch là unprofitable, New International Version dịch là unworthy.
Dịch là "vô dụng" dường như không đúng, vì ba lý do: 1) Người đầy tớ
trong dụ ngôn đã tỏ ra có ích vì làm việc trong cánh đồng suốt ngày; 2) Trong
việc chúng ta vâng lời Thiên Chúa, Người không bao giờ gọi chúng ta là "vô
dụng" cả; Kinh Thánh không có chỗ nào ghi nhận như thế cả; 3) Từ ngữ Hy
Lạp achreios này rất hiếm, nên trong văn chương Hy Lạp, không có ví dụ để giúp
xác định ý nghĩa đúng của nó. Dựa vào ngữ cảnh, co thế hiểu "vô dụng"
đây là người đầy tớ không có quyền gì mà yêu cầu được đối xử khác với những gì
tư cách anh cho anh được hưởng.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
* Đức tin (5-6)
Chúng ta không
biết động lực nào đã thúc đẩy các tông đồ xin Đức Giêsu thêm lòng tin cho các
ông. Rất có thể đó là những khó khăn trong cuộc sống của những người đi theo
Đức Giêsu, như ta hé thấy ở Lc 17,1-4. Đức Giêsu đã trả lời các tông đồ không
phải bằng cách cho một định nghĩa về đức tin mà bằng cách ca ngợi sức mạnh của
lòng tin, với những hình ảnh có vẻ phi lý; Người nhấn mạnh hơn nữa tầm quan
trọng của đức tin. Nếu người ta có một lòng tin tưởng chân chính và thực hữu
nơi Thiên Chúa, thì sẽ xảy ra điều không sao làm được theo các tiêu chuẩn loài
người. Để diễn tả điều này, Đức Giêsu dùng các hình ảnh là "chuyển núi dời
non" (x. Mt 17,20) hoặc "nhổ bật rễ cây dâu mà trồng xuống
biển". Người muốn nói rằng lòng tin, dù nhỏ bé, luôn luôn là hiệp thông
với Thiên Chúa, tức là thông dự vào quyền lực của Ngài, mà đối với quyền lực
Thiên Chúa thì không có gì là giới hạn cả. Cho dù Thiên Chúa có đặt người môn
đệ trước những nhiệm vụ và đòi hỏi nhìn bề ngoài thì thấy không thể làm được,
Ngài vẫn có thể giúp họ có khả năng thực hiện được. Cho dù Ngài hứa một điều
loài người thấy là không thể làm được, Ngài vẫn có thể làm được: trong dạng
triệt để nhất, điều này xảy ra với việc kẻ chết sống lại. Chính vì thế Đức
Giêsu đã nói với những kẻ được Người giúp đỡ: "Lòng tin của con đã cứu
con" (Lc 7,50; 8,48; 17,19; 18,42).
* Dụ ngôn Người
tôi tớ (7-10)
Với công thức
Người chọn để đưa vào bài dụ ngôn, Đức Giêsu lôi kéo cử tọa dấn thân ngay; họ
được mời gọi hãy phán đoán. Đây là kỹ thuật thường được Đức Giêsu vận dụng. Họ
đều đã trải qua kinh nghiệm Đức Giêsu mô tả, nên có thể trả lời câu hỏi. Tuy
nhiên, cũng có thể nói rằng câu chuyện, trong khi là một lời mời gọi trực tiếp
gửi đến các thính giả, cũng nhắm đưa tới câu trả lời chính Đức Giêsu cung cấp ở
c. 10.
Dụ ngôn được kể
trong các câu 7-10 có thể coi như một xác định lập trường đối lập lại với giáo
lý của người Pharisêu về việc ban thưởng cho các việc lành (x. Lc 18,18:
"tôi phải làm gì?"; Lc 18,11-12: người Pharisêu lên đền thờ cầu
nguyện). Nền tảng của tương quan của chúng ta với Thiên Chúa hệ tại sự kiện
Ngài là Chúa của chúng ta, nên chúng ta phải quan tâm đến và thi hành ý muốn
của Ngài. Chúng ta không phải là những chủ nhân tự do và độc lập, vì Thiên Chúa
luôn luôn có điều gì đó để nói với chúng ta. Tuy nhiên, trước khi yêu cầu chúng
ta điều gì, Ngài đã ban cho chúng ta rất nhiều ân huệ rồi: sự sống, các khả
năng... Chúng ta mắc nợ Thiên Chúa về cuộc sống, nên từ nơi Ngài, phát xuất các
bổn phận của chúng ta. Ngài xác định cho chúng ta đâu là con đường phải theo và
đâu là mục tiêu. Chúng ta chịu trách nhiệm trước nhan Ngài và chúng ta sẽ phải
trả lời với Ngài. Đồng thời, chúng ta cũng phải biết rằng Ngài không yêu cầu
chúng ta điều vì võ đoán và phi lý. Chúng ta phải tôn trọng Ngài và nhìn nhận
Ngài là
Đấng tạo hóa và
Chúa tể của chúng ta. Đối với người anh em, chúng ta phải kính trọng và gán cho
họ phẩm giá của chính chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ phải hành động như những
người quản lý trung thành, có trách nhiệm. Khi làm mọi việc, chúng ta phải ý
thức rằng mình chỉ làm các việc bổn phận mà thôi. Tuyệt đối không bao giờ được
tưởng rằng mình đã ban một ân huệ cho Thiên Chúa khi tuân giữ các giới răn của
Ngài và chu toàn các bổn phận của chúng ta.
Dụ ngôn này cũng
được các nhà chú giải hiểu là được ngỏ riêng với các thủ lãnh trong Hội Thánh:
Các ngài đừng dừng lại nghỉ ngơi vì cho rằng mình đã làm đủ rồi. Đức Giêsu gợi
lại hoàn cảnh xã hội thời đó, có chủ nhân và nô lệ với tương quan được xác định
rõ ràng. Nô lệ luôn luôn phải đưa mắt nhìn về phía chủ mà đón nhận mọi mệnh
lệnh. Khi thi hành các mệnh lệnh, nô lệ chỉ làm "việc bổn phận" mà
thôi. Tất cả thì giờ, tài nguyên, sức lực của con người phải được tận dụng mà
phục vụ Thiên Chúa. Rồi khi đã chu toàn công việc, con người không được khoe
khoang hoặc đòi hỏi những quyền lợi hoặc phần thưởng đặc biệt. Tác giả muốn
khẳng định rằng nơi người tín hữu, mọi sự đều là ơn Chúa, lòng tin cũng là một
ơn Chúa. Tất cả những gì con người nhận được đều không hề tỷ lệ với những gì họ
đã làm. Mọi sự đều là hồng ân phát xuất từ lòng nhân lành và từ bi của Thiên
Chúa, chứ không do một khoản hợp đồng giao kèo nào cả.
+ Kết luận
Đức tin là niềm tín
nhiệm không lay chuyển rằng Thiên Chúa có quyền năng vượt mọi múuc độ loài
người; Ngài đầy tình yêu, Ngài không quên chúng ta, Ngài hướng dẫn chúng ta đến
chỗ thành toàn. Với cái nhìn đức tin, chúng ta hiểu mình chỉ là những tôi tớ,
lại là tôi tớ "vô dụng" vì chỉ biết làm những việc phải làm. Hiểu như
thế chẳng hề làm chúng ta nản chí, bởi vì chúng ta biết rằng mọi sự là của
Thiên Chúa, là do Ngài. Người tin vào Đức Giêsu và Thiên Chúa được thúc bách
xác định bản than tùy theo tương quan của mình với Thiên Chúa: người ấy là đầy
tớ của Thiên Chúa và phải vâng phục Ngài, cho dù giáo huấn của Ngài có khó khăn
đến đâu. Người ấy không là gì khác ngoài thân phận đầy tớ, và chỉ được vinh
quang vì là đầy tớ. Người ấy không vô dụng, nhưng luôn luôn là đầy tớ, và không
là gì khác, trong tương quan với các điều răn của Thiên Chúa. Thật ra, được làm
việc cho Ngài đã là một vinh dự rồi, thì sao lại còn chờ đợi có phần thưởng? Và
như thế, cuộc sống mai sau cũng là một hồng ân.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Đứng trước
các trách nhiệm cũng như các khó khăn của cuộc đời, chúng ta noi gương các tông
đồ, không tránh né, không tìm cách giảm thiểu, nhưng xin Chúa Giêsu ban thêm
đức tin. Chúng ta xin Người giúp kết hợp sâu xa hơn với Thiên Chúa. Chỉ duy
Thiên Chúa mới có thế giúp đỡ chúng ta làm những việc mà người đời nghĩ rằng
sức con người không sao làm nổi.
2. Nhờ đức tin,
người tín hữu mở lòng ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức Giêsu và như thế họ được
chính quyền năng của Người đến hỗ trợ. Cho dù đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó
chỉ như một hạt cải, nếu nó thực sự là đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên
Chúa sẽ làm cho họ tiến tới. Điều cần thiết là họ không khép lòng lại với Ngài,
ít ra họ giơ bàn tay về phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ phải té ngã. Ngài
sẽ nắm chắc bàn tay của họ và dẫn đưa họ tới đích.
3. Không chỉ
khuyên chúng ta tin, Chúa Giêsu còn cầu nguyện cho niềm tin của chúng ta, như
Người đã từng nói với Phêrô: "Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất
lòng tin" (Lc 22,32). Bằng cách đó, Đức Giêsu đưa lời thỉnh cầu của các
môn đệ là được thêm lòng tin đến chỗ thành toàn viên mãn. Chính Người ngỏ lời
với Chúa Cha để gửi gắm các môn đệ. Chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho mình,
cho nhau, đồng thời chúng ta cậy dựa vào lời chuyển cầu của Chúa Giêsu.
4. Khi đọc Dụ
ngôn Người tôi tớ, chúng ta không nên đi lạc sang đề tài "chủ nô" của
triết học Tây phương, cũng đừng chạnh lòng về mặt luân lý mà cho rằng Thiên
Chúa chỉ coi chúng ta như những nô lệ! Trong Tin Mừng Luca, không thiếu những
đoạn văn nói về những tương quan và thái độ của Thiên Chúa đối với con người
với nội dung hoàn toàn khác (x. Lc 11,5; 15,3-7; 15,11-32; v.v.). Ở đây, tác
giả chỉ nhắc lại một hoàn cảnh quen thuộc với các thính giả để rút ra những bài
học thần học. Đó là: người tín hữu, người môn đệ hoặc người tông đồ phải có
thái độ khiêm tốn, mà không nô lệ, ở trước nhan Ngài, nhất là đối với những đề
nghị của Ngài.
5. Bởi vì Chúa
Giêsu nhấn mạnh rằng người môn đệ chỉ là một "tôi tớ" và là tôi tớ
"vô dụng", chúng ta hiểu rằng: chu toàn các nhiệm vụ được giao phó
không nhất thiết bảo đảm cho phần rỗi của mình; khi đã làm tất cả những việc
được giao rồi, người môn đệ vẫn ý thức rằng cuộc sống đang chờ mình ở bên kia
thế giới cũng là một ân huệ. Như thế, quả thật, không có chỗ nào dành cho sự
vênh vang, tự hào tự mãn cả.
6. Đôi khi chúng
ta có lối suy nghĩ y như thể nếu chúng ta cầu nguyện, nếu chúng ta ra sức bước
theo nẻo chính đường ngay, thì Thiên Chúa phải biết ơn chúng ta. Quả thật,
Thiên Chúa vui mừng về những cố gắng của chúng ta, nhưng không phải vì thế mà chúng
ta có thể tự hào rằng chúng ta đã làm cho Ngài vui thích. Thiên Chúa không hề
lệ thuộc vào bất cứ điều gì chúng ta làm cả. Ngài không cần lời cầu nguyện của
chúng ta, Ngài cũng không cần nỗ lực của chúng ta để sống với người khác. Chính
chúng ta mới cần sống cho tương hợp với ý nghĩa của đời sống chúng ta, để trở
thành những con người trung thực. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng Thiên Chúa
không bao giờ thua chúng ta về sự tốt lành và quảng đại. Là Đức Chúa, Ngài sẽ
cho các tôi tớ trung thành ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ (Lc 12,37).
Lễ ĐỨC MẸ MÂN
CÔI
1. Quà tặng
Kinh nghiệm sống
cho chúng ta thấy: Quà tặng thường làm dịu lại cõi lòng con người, là một thứ
nam châm hút tình cảm của kẻ khác, là một loại keo dính, là một thứ dây cột
chặt người khác lại với chúng ta. Và Kinh Thánh đã đưa ra những mẩu chuyện điển
hình: Giacop đã bảo con đem dâng hoa trái lên quan đại thần, để người con của
Simeon bị quan phạt được tha thứ. Abigail cũng đã đem nhiều lễ vật dâng cho
Đavit, để xin nhà vua xá tội cho Nabal.
Còn chúng ta thì
sao? Bước vào giữa tháng 10, nhưng chúng ta đã dâng lên cho Mẹ được những gì?
Chúng ta nên nhớ rằng: Dâng kính Mẹ thì không bao giờ chúng ta bị thua lỗ, bị
thiệt thòi. Cũng như cha mẹ ở đời phải hy sinh nhiều vì con cái, chứ mấy khi
ngược lại. Cha mẹ bao giờ cũng yêu thương con cái nhiều hơn là con cái yêu
thương cha mẹ.
Với niềm tin đó,
chúng ta hãy đến với Mẹ hôm nay vì không ai đến với Mẹ mà lại phải ra về tay
không. Hãy mang theo một thứ quà tặng đẹp lòng Mẹ nhất, đó là kinh Mân côi.
Như chúng ta đã
biết kinh Mân Côi xuất phát từ lời Chúa. Chẳng hạn kinh Lạy Cha là khuôn mẫu
cho mọi tâm tình cầu nguyện mà chính Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta. Còn
kinh Kính Mừng là lời chào kính của sứ thần Gabriel, của bà Isave hợp với lời
kêu xin của cộng đồng dân Chúa. Rồi những sự việc đều là những biến cố trong
cuộc đời của Chúa. Và chúng ta có thể nói: Kinh Mân côi chính là cuốn Tin Mừng
được rút gọn.
Ngoài ra kinh
Mân côi là một lời kinh bình dân, dễ nhớ, dễ đọc và dễ suy gẫm, nhờ đó mà cuộc đời
chúng ta được thấm nhuần tinh thần Phúc Âm, cũng như nhờ đó chúng ta tìm thấy
nguồn nghị lực và niềm hy vọng cho bản thân.
Hơn thế nữa,
trải qua dòng thời gian kinh Mân Côi đã đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho cá
nhân, cho xã hội, cho dân tộc cũng như cho toàn thể nhân loại. Đặc biệt là
trong phạm vi gia đình, bởi vì gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là vườn
ươm trồng cây đức tin cho con cái. Đức Thánh Cha Piô XII đã diễn tả: Không cảnh
nào êm đẹp cho bằng cảnh tượng gia đình, mỗi khi màn đêm buông xuống, cùng nhau
dâng lên những lời kinh ca tụng Nữ Vương trời đất, nhờ đó mà mọi người trong
gia đình sẽ xích lại gần nhau hơn, cũng như sẽ được gặp nhau trong tình thương
của Mẹ.
Từ những điều
vừa trình bày chúng ta có thể đi tới một kết luận: Yêu Mẹ là yêu kinh Mân côi.
Bởi vì chỉ trong tình yêu chúng ta mới thích lặp đi lặp lại một lời bất tận mà
không nhàm chán. Vậy chúng ta có lần hạt mân côi vì tình yêu mến Mẹ hay không?
Chúng ta đã thực hiện lời Mẹ truyền dạy hay chưa. Kinh mân côi phải trở nên như
lễ vật Abel chúng ta dâng tiến Mẹ mỗi khi chiều xuống. Mỗi lời kinh mân côi sẽ
là như một hạt ngọc chúng ta thu tích vào kho tàng thiêng liêng của chúng ta,
mỗi lời kinh mân côi sẽ là như một tấm ván đóng cho chúng ta con thuyền của
Noe, để với con thuyền này chúng ta sẽ vượt qua biển trần gian để tiến tới bờ
bến vĩnh cửu là quê trời.
Ước gì lời kinh
mân côi sẽ là lễ vật thường xuyên chúng ta dâng kính Mẹ, hôm nay cũng như mai
ngày, nhờ đó mà chúng ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến của chúng ta đối với
Mẹ.
2. Lễ Mẹ Mân Côi
(Trích dẫn từ
'Sống Tin Mừng')
"Hỡi Maria,
xin đừng sợ, vì Bà được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh
hạ một con trai và đặt tên trẻ ấy là Giêsu" (Lc 1,30-31).
Thời gian viên
mãn đã đến, người trinh Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực
hiện một cách sáng tỏ. Đó là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin
tưởng và niềm vui, cùng thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào:
"Kính Mừng Maria, Hãy Vui Lên".
Qua lời chào và
mời gọi của Thiên Chúa: "Hỡi Maria, hãy vui lên", vì thời giờ thực
hiện lời hứa đã đến. Như vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết
chính mình đã được chọn để thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa
bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy
chúng ta được tham gia vào niềm tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
"Mẹ là Đấng
Đầy Ơn Phước", vì chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc
về tôi tớ Giavê, như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: "Đây là tôi tớ
Ta, Đấng Ta tuyển chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng" (Is 42,1). Mẹ được đầy
ơn phúc vì Đấng sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là
người được đầy tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui
là Ngôi Lời Thiên Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ
Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên
Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung
thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: "Linh hồn
tôi ngợi khen Chúa, Ngài đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu
ông".
"Thiên Chúa
ở cùng Bà". Đó là lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo
trước về biến cố cứu rỗi sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà".
Giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng
là: "Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Mẹ vui mừng vì chính Đấng
được gọi là Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ.
Chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở
với nhân loại.
"Hỡi Maria
đừng sợ". Kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không
khỏi làm cho con người run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc
khải cho biết giờ đây lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không
bao giờ Mẹ dám nghĩ đến. Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của
Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm
run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống
đời Kitô của chúng ta cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: "Vui và
Sợ". Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin
tưởng hoàn toàn trong Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ,
được trở thành dấu chỉ thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa
trời đất, chúng con chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao
cả ấy cho kẻ khôn ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và
khiêm tốn. Cha đã chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ
lời cầu khẩn của Đức Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng
Thiên Chúa ở cùng chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và
tiếp rước Người đến ở với chúng con.
Lạy Mẹ Maria,
chúng con Kính Mừng Mẹ, Đấng "Đầy Ơn Phước", Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn
lành của Thiên Chúa để giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng
Mẹ để Thiên Chúa ở cùng với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như
Mẹ nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu
cho chúng con được luôn sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện
diện bên cạnh trong cuộc sống hằng ngày của chúng con. Amen.
3. Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
HÀNH TRÌNH ĐỨC
TIN CỦA ĐỨC MARIA
Khi nhìn ngắm
các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an
thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền
từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là
tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được
tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi
là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc
Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng
phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn
Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước
theo Chúa.
Cuộc thanh luyện
thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình
của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê
nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã
đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt
cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan
ngoãn thưa "Xin vâng". Lời thưa 'xin vâng' của Maria làm ta nhớ đến
tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai
bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong
nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất
ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện
thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng
Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất
là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa
rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời
ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên
Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết
cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai
là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không
giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc
vật.
Đau khổ thứ ba
là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản
phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi
cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại
mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với
những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc:
Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo,
nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện
thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người
mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính
mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà
Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ
chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất:
Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu
đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày
đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi
gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: "Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết
con phải lo việc cho Cha con ư?". Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền
không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi
Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu.
Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết
thống: "Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ
ta".
Những lời nói và
thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng
những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm
riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của
Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện
cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập
giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết
đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham.
Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy
nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn
hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi
người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá
đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu
trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả
những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người
nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu,
Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên
Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ
những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để
trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.
Ngày nay khi lần
chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách
gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân
Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân
Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những
thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria,
xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên
Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng
phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1) Hãy kể ra
những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.
2) Tại sao con
người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện
hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
4. Suy niệm của
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
MARIA, NGƯỜI NỮ
THÁNH THỂ
Bài Tin Mừng
tường thuật cuộc truyền tin kết thúc bằng hai tiếng "Xin Vâng" của
Đức Mẹ. Với hai tiếng "Xin Vâng", cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi.
Từ nay Mẹ không còn sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết
hiệp chặt chẽ với Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu
của lòng tôn sùng và thực hành bí tích Thánh Thể.
Thật vậy, với
hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể.
Khi đón nhận Ngôi Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của
bào thai Mẹ được diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ
khuyên dạy ta khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận
Thịt Máu của Chúa Giêsu.
Với hai tiếng
"Xin Vâng", tâm hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp,
cất giữ Chúa Giêsu Thánh Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung
lòng thanh khiết của Mẹ là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi
nhớ và suy niệm những điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu
trong lòng, biến Mẹ thành một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên
dạy ta hãy năng chầu Mình Thánh Chúa.
Sau khi thưa
"Xin Vâng", Mẹ vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây
chính là cuộc rước kiệu Thánh Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không
kèn trống, không đông đảo, nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi
ích phi thường: đem ơn cứu độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng
mẹ, làm cho mọi người tràn đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể
sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng.
Nhưng cũng với
hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong
bào thai cho đến khi sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi
hoạt động công khai. Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem
nói lên sự gắn bó mật thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống
nếu thiếu vắng Chúa. Với lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu
mến đến khao khát Chúa. Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.
Với hai tiếng
"Xin Vâng", không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy
mọi người biết vâng lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân:
"Người bảo gì các con hãy cứ làm theo" (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn
vâng phục đã được Chúa thưởng công bằng phép lạ "nước lã hóa thành rượu
ngon". Hôm nay Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: "Các con hãy
làm việc này mà nhớ đến Thày" (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng
năng tham dự thánh lễ, chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới
đời các con như biến nước lã thành rượu ngon.
Với hai tiếng
"Xin Vâng", Mẹ hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên
đường lên Núi Sọ và đứng dưới chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong
việc dâng hiến chính bản thân mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền
tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình
cho nhân loại. Như Chúa Giêsu, tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ
ra ban cho nhân loại sự sống mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu
mọi đau đớn, vất vả trong đời sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc
kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc
cho bản thân và cho tha nhân.
Và với hai tiếng
"Xin Vâng", một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm
con. Nhận thánh Gioan là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm
Thánh Thể khi hiệp nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia
đình mình, đón tiếp mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong
bữa tiệc Nước Trời. Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương
đoàn kết vì tất cả chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống
một chén với nhau. Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của
Chúa. Tuy năm Thánh Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là
việc sống bí tích Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta
yêu mến Đức Mẹ, ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu
gương yêu mến Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi
Mẹ là "Người Nữ Thánh Thể". Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi,
chắc chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả
các mầu nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng
đưa ta trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh
Thể. Vì như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm
nay, trước Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.
Lạy Mẹ Mân Côi,
xin dạy con biết yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên
tòa Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Lời "Xin
Vâng" của Đức Mẹ biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong
những lúc gặp thử thách để thưa "Xin Vâng" với Chúa trong đau khổ
không?.
2) Gia nhân đã
vâng lời Đức Mẹ "Người bảo gì các anh cứ việc làm theo" nên đã múc
nước lã mà không hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn
không hiểu?
3) Khi hiện ra ở
Fatima, Đức Mẹ đã mời gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng "Xin
Vâng" để thực hiện không?
5. Kinh Mân Côi:
Góp phần xây dựng nhân loại mới
(Suy niệm của Lm
Px Đào Trung Hiệu)
Nói đến kinh Mân
Côi, tôi nhớ đến mẹ tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà
quen dùng kinh mân côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách
bao xa, bà trả lời: "Đi được ba chuỗi năm chục". Nghĩa là phải đi bộ
độ 45 phút, tính nhẩm ra khoảng ba cây số. Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7
tháng 10, bắt nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ,
trước sức tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh
Lepante thời thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu
dành trọn tháng mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn
thế nữa, cổ võ chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là
một hình thức cầu nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua
nhiều thế kỷ. Đơn giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một
mình trong mọi tình huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung
mà ai ai cũng có thể tích cực tham gia. Nhưng kinh mân côi lại rất phong phú,
vì có bao nhiêu sách viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn
suy niệm dồi dào, dường như không bao giờ cạn. Kinh Mân Côi chính là nguồn gia
tăng sinh lực cho con người và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà
trí thức...
Mỗi người có thể
rút ra một bài học qua mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một
chàng thanh niên mặt mũi sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối
diện với anh là một cụ già, đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh. Chàng trai
thấy chướng mắt lên tiếng nói: "Bác ơi! thời buổi này mà bác còn đọc thứ
kinh của đàn bà trẻ con ấy nữa à!". Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời:
"Cám ơn cậu, cậu có vẻ thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe
đi".
Thế là chàng
trai có dịp khoe về mình: anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên
cụ già bỏ mấy thứ dị đoan lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế
giới mới chứ không phải những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai
hăng say thuyết cho cụ suốt nửa tiếng. Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi
sắp xuống xe, còn mời anh khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao
cho cậu một tờ danh thiếp. Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi
xuống, vì trên danh thiếp ghi tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục:
"Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm Pháp"
Êm đềm mà thấm
lâu...
Trong xã hội
thực dụng hôm nay, nhiều người đạo đức coi thường kinh mân côi. Họ nói: điều
quan trọng của kitô hữu là hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái
Phúc Âm. Không sai, nhưng chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh
êm đềm mà thấm lâu của những lời kinh đơn giản này.
Ta biết các vận
động viên và các cầu thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua...
đều không thể bỏ những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi
chính là thực hiện một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn
như Hồi giáo và Phật giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người
tín đồ có một khoảng thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng
tuyệt đối. Dù thiếu tập trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính
việc hội ngộ với Chúa cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của
họ, và đem lại cho mọi hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm
Mân côi, kitô hữu ngày càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính
trong công cuộc cứu độ. Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo
gương Đức Kitô nhập thể trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh
tại Belem, Đấng bôn ba ra giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên
Thập Giá và sống lại vinh quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như
một hứa hẹn cho tương lai của giáo hội và nhân loại.
Hơn thế nữa, phụng
vụ lễ Mân Côi qua đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một
truyền thống trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa
trong ngày lễ ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để
đón nhận Thánh Thần mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ
cùng với Mẹ Maria để cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ
vụ.
Hướng đến một
nhân loại mới
Lời kinh
"Kính Mừng" quen thuộc, chính là lời chào mừng "Ave: Mừng vui
lên" của thiên sứ Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong
Tin Mừng Luca hôm nay (1, 28).
Lời chào
"Ave" ấy không chỉ gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống
Giáo hội, lời chào "Đấng đầy ơn sủng", chính là một chứng nghiệm cho
Lời Giavê đã hứa trong vườn địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về
người nữ sẽ đạp dập đầu con rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy
tuy xuất thân từ Adam và Evà, nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ.
Người nữ ấy được tràn đầy ân sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so
sánh như Evà mới của một nhân loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu
của ân sủng Thiên Chúa hiện diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh
thần vụ kính Đức Mẹ:
"Chữ E-va
Mẹ đảo vần,
Thành A-ve gửi
bình an cho đời".
Lịch sử cứu độ
đã khởi sự từ lời hứa tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài
hứa ở cùng nhân loại. Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel "Thiên Chúa ở
cùng". Lời hứa ấy nay được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung
lòng Đức Trinh Nữ: "Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt
tên là Giêsu". Giêsu có nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong
lời kinh: "Và Giêsu Con lòng Bà đầy phúc lạ".
Đọc kinh
"Kính Mừng", ta có thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả
đang theo dõi các vận động viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục
mới "cao hơn, nhanh hơn, xa hơn". Khi chúc mừng một vận động viên
lãnh huy chương vàng, họ cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân
loại...
Cũng vậy, qua
những lời "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", chúng ta chiêm ngưỡng một
"kỷ lục tuyệt hảo" của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật
hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn thế nữa,
trong nhân loại mới đó, chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên.
Nên lời kinh "Kính Mừng" không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn
là lời chúc mừng một nhân loại mới đang được hình thành.
Và như thế, qua
kinh Mân Côi, chúng ta sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên
Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch
sử cứu độ và tìm được sức mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch
sử.
Nếu được như
vậy, chúng ta có thể đi đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.
6. Kinh Mân Côi
và Đời Sống Đức Tin
(Suy niệm của Lm
Đaminh Đinh Viết Tiên)
1. Kinh Mân Côi,
bài ca đi cùng năm tháng
Trong Giáo Hội
cũng có những bài ca, có thể gọi là "đi cùng năm tháng", những bài ca
luôn đồng hành với Giáo Hội qua thời gian, qua những thăng trầm, những sóng gió
của lịch sử. Bài ca đó có tên là "Chuỗi Mân Côi", là những Kinh Kính
Mừng. Bài ca này được vang lên mỗi ngày trong các nhà thờ hay chỗ riêng tư,
được lâm râm khẩn cầu nơi môi miệng của mọi người, kẻ trí thức hay người bình
dân, người thanh niên hay những người tuổi đời đã xế bóng.
Kinh Mân Côi quả
là "bài ca đi cùng năm tháng" đối với Giáo Hội, cũng như đối với mỗi
người chúng ta. Ở đây xin đan cử Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng luôn cổ vũ
mọi người đến với Mẹ qua Kinh Mân Côi.
Trong tông thư
"Kinh Mân Côi" Ngài chia sẻ như sau: "Từ thuở niên thiếu, lời
kinh này đã có một chỗ đứng quan trọng trong đời sống thiêng liêng của tôi
(...) Kinh Mân Côi đã đồng hành với tôi trong những lúc vui sướng cũng như
trong những giai đoạn khó khăn. Tôi đã giao phó cho lời kinh ấy biết bao lo âu;
nơi lời kinh ấy, tôi đã luôn tìm được sự nâng đỡ (...) Kinh Mân Côi là lời kinh
tôi ưa thích. Một lời kinh kỳ diệu. Kỳ diệu qua vẻ đơn sơ và chiều sâu của nó
(...). Con tim của chúng ta có thể gán vào chục kinh Kính Mừng mọi biến cố của
đời sống cá nhân, gia đình, quốc gia, Giáo Hội và toàn thể nhân loại.
Mối quan tâm của
riêng ta và của những người thân cận, đặc biệt những người thân thiết nhất của
ta. Vì thế, lời kinh Mân Côi đơn sơ ghi dấu ấn lên nhịp sống của con người. Anh
chị em thân mến, với những lời này, tôi đã đặt những năm đầu tiên của triều đại
Giáo Hoàng trong nhịp sống hằng ngày của Kinh Mân Côi. Hôm nay, khi bắt đầu năm
thứ 25 phục vụ trong tư cách người kế vị thánh Phêrô, tôi muốn làm lại cũng một
điều đó. Biết bao ơn lành tôi đã lãnh nhận được trong những năm tháng này từ
Đức Thánh Trinh Nữ qua Kinh Mân Côi".
2. Kinh Mân Côi,
lời kinh kết nối
a. Với Đức Maria
Kinh Kính Mừng
là sự nối kết giữa lời chào của Tổng Lãnh Thiên Thân Gabriel trong buổi truyền
tin, với lời mừng của bà Elisabet trong ngày thăm viếng, nên mỗi lần lặp lại đã
trở thành lời chào mừng chính thức cho sự nối kết giữa nhân loại với Đức Maria.
Trong cuộc hội
kiến lịch sử giữa Tổng Thiên Sứ và Đức Maria được khởi đầu bằng lời chào và kết
thúc bằng lời thưa xin vâng. Nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi
từ ơn phúc, nhưng còn ở trong tiềm ẩn cho đến khi có sự đáp trả bằng lời thưa:
Xin vâng.
Xin vâng không
chỉ bằng lời nói mà bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa
bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trong hành trình đức
tin, nhất là dưới chân Thánh Giá.
"Còn Đức
Maria thì ghi nhớ những sự việc đó và suy niệm trong lòng" (Lc 2, 19.51).
Khi đọc và suy niệm Kinh Mân Côi là ta cùng Mẹ suy niệm các mầu nhiệm trong
cuộc đời của Chúa và của Mẹ. Qua việc cùng Mẹ suy niệm, sẽ giúp ta cảm nhận
thật sâu sự đồng hành của Mẹ trong cuộc đời mỗi người.
b. Với Đức Giêsu
Trong Kinh Kính
Mừng chỉ có hai danh xưng: Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và
kết thúc bằng Giêsu. "Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng bà,
bà có phúc lạ hơn mọi người phụ nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ". Lời
kinh đã kết nối với Đức Mẹ, để rồi được nối kết với Con của Mẹ. Qua Mẹ Maria
đến với Chúa Giêsu.
Nơi trường học
của Đức Maria, chúng ta được học bài học cơ bản: "Ngài bảo gì, các anh hãy
làm như vậy" (Ga 2,5). Như vậy, nếu ta mời Mẹ cùng đồng hành thì từng bước
chúng ta sẽ được dẫn đến đích điểm là kết nối với Đức Giêsu. Lộ trình đức tin
cũng là giáo án mà Mẹ sẽ dạy chúng ta trong hành trình làm môn đệ: Sống đức tin
và can đảm bước theo Chúa. "Phúc cho em vì em đã tin rằng lời Chúa sẽ được
thực hiện trong cuộc đời em" (Lc 1,45) và cũng như Mẹ, chúng ta dám thưa
với Chúa trong mọi tình huống của cuộc đời.
c. Với mọi người
trong Chúa Kitô, nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria
Thực ra đây là
hệ lụỵ của hai mối kết nối trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông
với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau. Nhưng
chính từ đây mở ra một nhãn giới mới đầy lạc quan, tin tưởng, hy vọng cho tất
cả những ai đọc và suy niệm Kinh Mân Côi.
Thói quen của
các gia đình Việt Nam là việc đọc kinh tối gia đình, kết hiệp giữa việc đọc
Kinh Mân Côi và suy niệm Tin Mừng. Việc này đã có một âm hưởng rất tốt và có
sức biến cải tình trạng gia đình.
Mỗi tối khi màn
đêm xuống dần, sắp sửa kết thúc một ngày, không hình ảnh nào đẹp hơn khi mọi
người quây quần trước bàn thờ, cử hành kinh tối gia đình. Bao niềm vui, nỗi
buồn đều dâng lên Chúa, những thất bại đắng cay, cũng như những thành tựu phấn
khởi trong ngày đều được trình bày cho Chúa nghe... tự nhiên tâm hồn cảm thấy
ấm hơn và tình thân trong gia đình được nối kết thắm thiết, vì tất cả được dâng
lên Chúa và được sẻ chia cho nhau, cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện.
Nếu Chúng ta đọc
Kinh Mân Côi với tất cả tâm tình, chúng ta cảm thấy mình được biến đổi: lòng
tin mạnh mẽ, niềm cậy trông kiên vững, sống dễ thương hơn với mọi người.
3. Qua Kinh Mân
Côi, chúng ta cảm nghiệm: Mẹ vẫn ở bên ta
Tổng thống
George Washington, một trong những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường
được đề cao như một người con hiếu thảo đối với mẹ mình. Ông năng về thăm mẹ.
Một hôm, thấy con đã vất vả công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm
viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông: - Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ
như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?
Vị tổng thống vĩ
đại của nước Mỹ đã trả lời:- Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không
phải là một việc mất thời giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã
giúp con vui sống.
Mẹ của Tổng
thống George Washington đã không nói nhiều, nhưng sự hiện diện đầy thanh thản
và lòng nhân hậu của một người mẹ đã giúp ông tăng thêm sức mạnh để dấn thân
phụng sự tổ quốc, vui sống trong trách nhiệm nặng nề của một nguyên thủ quốc
gia.
Đối với người
Kitô hữu, Mẹ luôn hiện diện âm thầm nhưng rất gần gũi bên cạnh mỗi người chúng
ta.
- Sự hiện diện
của Mẹ trong gia đình Giacaria đã củng cố niềm tin của bà Elizabeth, đem lại
niềm hân hoan vô bờ cho trẻ Gioan Baotixita.
- Sự hiện diện
của Mẹ tại tiệc cưới Cana đã làm cho người chủ tiệc mát mặt và mọi thực khách
được uống rượu ngon làm hoan hỉ lòng người.
- Sự hiện diện
của Mẹ trên đường Thánh Giá đã tiếp bước cho Đấng Cứu Thế lên tới đỉnh đồi
Canvê.
- Sự hiện diện
của Mẹ dưới chân Thập Giá đã cho Chúa Giêsu an tâm về với Chúa Cha sau khi trối
Gioan, đại diện loài người lại cho Mẹ.
- Sự hiện diện
của Mẹ trong nhà tiệc ly đã giúp các tông đồ sốt sắng cầu nguyện để lãnh nhận
Chúa Thánh Thần.
Và chắc chắn sự
hiện diện của Mẹ trong cuộc đời người Kitô đã làm nảy sinh muôn ngàn phúc lộc.
Sự hiện diện hiền mẫu của Mẹ trong cuộc đời chúng ta đã mang lại biết bao niềm
vui, sự ủi an, lòng can đảm giúp chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành
đức tin.
Những lúc mệt
mỏi rã rời trong cuộc sống hiện tại, những lúc tối tăm bao phủ, những lúc nặng
trĩu u buồn của quá khứ, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào
ai, chúng ta hãy chạy đến với Mẹ, qua việc đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, ta sẽ
thấy tâm hồn thanh thản và bình an
Đọc và suy niệm
Kinh Mân Côi, là những giây phút êm ái, ngọt ngào, hạnh phúc bên cạnh Mẹ. Với
tấm lòng từ bi nhân hậu của Mẹ sẽ là nguồn ủi an, nâng đỡ và giúp sức chúng ta
trong mọi cảnh huống cuộc đời đầy thử thách chông gai này.
7. Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Lịch sử Cứu Độ đã
khởi đầu với việc Thiên Chúa tuyển chọn và kêu gọi Abraham, được tiếp nối và
thực hiện trong lịch sử Israel cho đến khi như lời thánh Phaolô viết "Khi
đến thời đến buổi, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn
bà, và lệ thuộc vào lề luật Do thái". Về Người Con ấy, Sứ Thần Gabriel đã
nói "Người sẽ nên cao cả, và Thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng Tối Cao.
Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì
nhà Giacóp đến muôn đời, và vương quyền của Người sẽ vô tận". Như thế lịch
sử Cứu Độ phải được đón nhận như là lịch sử vương quyền của Đức Kitô trong dân
Người: trước hết nơi Israel và bây giờ là nơi Giáo Hội của Người.
Qua cơ cấu diễn
biến của lịch sử cứu độ chúng ta thấy cốt lõi là một cuộc đối thoại không ngừng
giữa Thiên Chúa với con người. Cuộc đối thoại không nhằm cách ly con người khỏi
cuộc sống thường ngày với những lo âu và hy vọng của họ, nhưng ngược lại cuộc
đối thoại nhằm mở cánh cửa đời sống, cánh cửa gia đình, cánh cửa dân tộc và xã
hội để Thiên Chúa, và đích xác hơn là để Con của Người bước vào và đổ tràn
Thánh Thần Người, để mỗi cuộc sống, mỗi gia đình, mỗi dân tộc và toàn thể xã
hội tự thẳm sâu đáy lòng mình có thể thốt lên "Abba, Cha ơi" đối với
Thiên Chúa, và như thế, mỗi cuộc sống, mỗi gia đình, mỗi dân tộc và xã hội trở
nên "người thừa tự" gia sản của "Cha" trên trời.
Abraham đã dần
dần khám phá ra được chân lý ấy khi ông ra khỏi xứ Ur. Từ biến cố này qua biến
cố khác, cuối cùng ông được mời gọi tiến lên ngọn núi Thiên Chúa chỉ định, ở
đấy ông đã khẳng định được với tất cả tự do và yêu mến: chính Thiên Chúa sẽ lo
liệu mọi sự cho ông và con cái ông.
Ở bình minh của
Tân Ước, không phải nơi Đền Thánh Giêrusalem, mà ở trong chính mái nhà nhỏ bé
nghèo nàn của Mẹ, Đức Maria được mời gọi trở về với chính mình, với vấn đề
thiết thân nhất của Mẹ: "Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến
người nam!" Để rồi Mẹ được mời gọi để xác tín với tất cả sự tin yêu tự do
Thiên Chúa sẽ đến, sẽ đảm nhận lấy cuộc sống Mẹ cho nó trở nên cảnh vực Thần
Linh. Đó là điều thánh Phaolô cũng nói như thế trong mấy câu thư vắn tắt chúng
ta vừa nghe.
Vì thế, khi đón
nhận công việc thiết lập vương quyền của Đức Kitô như là sứ mạng riêng biệt của
mình, Giáo Hội Đức Kitô qua các tông đồ đã ý thức về trọng tâm thiết yếu của sứ
vụ là trở về "nơi các ông thường trú ngụ để "đồng tâm nhất trí, siêng
năng cầu nguyện". Cầu nguyện từ đó đã là hơi thở và sức sống của Giáo Hội,
của công cuộc loan báo tin mừng Cứu Độ.
Thật khác với
biết bao suy nghĩ và hành động của chúng ta ngày nay: chúng ta bị lôi kéo vào
sức hấp dẫn và tính hiệu quả của những tổ chức, cơ cấu và phương tiện, đã gạt
qua một bên nỗ lực "Đối Thoại với Thiên Chúa" "nỗ lực cầu nguyện
liên lỷ". Gia đình Kitô Giáo nơi chúng ta thường trú không còn là "nhà
cầu nguyện", thậm chí ngay cả "Nhà Cầu Nguyện" cũng trở thành
những trung tâm trình diễn, tiếp thị, kỹ thuật. hơn là nơi con người đối thoại
với Thiên Chúa!
Bài sách Công Vụ
Tông Đồ tuy thật vắn gọn, nhưng đã gợi nhớ một yếu tố nền tảng của cuộc đối
thoại cứu độ: Các Tông Đồ đã cầu nguyện với Đức Maria và cùng với anh em của
Đức Giêsu. Sở dĩ các ông đã cầu nguyện cùng với Đức Maria, là vì duy mình Đức
Maria mới có kinh nghiệm trọn vẹn về "đối thoại cứu độ" này. Với Đức
Maria đây là đối thoại do sáng kiến của Thiên Chúa, được "Thánh Thần bao
bọc chở che" và chính Thiên Chúa hoàn thành. Giáo Hội phải nhờ Mẹ để thực
hiện sự cầu nguyện.
Trong viễn ảnh
đó mà chúng ta hiểu được tại sao Giáo Hội khắp nơi, và cách riêng Giáo Hội Việt
Nam vô cùng yêu mến và trân trọng Kinh Mân Côi. Chính đây là lúc mỗi người như
được sống lại khung cảnh Nhà Tiệc Ly với các Tông Đồ, để bên gối Mẹ, Giáo Hội
và mỗi người được Mẹ dẫn dắt qua mọi biến cố đời sống, Mẹ khám phá ra sự mời
gọi của Thiên Chúa và bằng cách nào để Thiên Chúa đảm nhận lấy cuộc sống nhỏ bé
của mình, mà thực hiện nên những điều kỳ diệu. Trong cũng cái nhìn đức tin ấy,
chúng ta mới thấu hiểu được tại sao chỉ là những lời kinh thật đơn giản, không
đòi hỏi sự thông thái khôn ngoan, lời kinh chất phác của những tâm hồn thật quê
mùa, lời kinh phản ánh rất trung thực lời "Xin Vâng" của người con
gái Xion làng Nazaret xưa, lại có thể có quyền lực giải thoát con người trong
mọi tình huống khó khăn nhất, và đem lại có khi cho cả một dân tộc niềm hoan
lạc hạnh phúc. Chỉ vì lời kinh ấy là ân tình trao ban kinh nghiệm về Thánh Thần
của Mẹ.
Trong tháng Mân
Côi và trong đời sống, khi trở về với Kinh Mân Côi, người Kitô hữu phải cảm
nhận được niềm vui được trở về mái nhà Tiệc Ly xưa, để một lần nữa họ được Đức
Mẹ cho thấy Chúa Thánh Thần đã đến với Mẹ bằng ngõ ngách nào, và làm sao Ngài
đã hoàn thành sứ mạng của Ngài trong mỗi biến cố đời Mẹ: Sứ Mạng làm cho Chúa
Giêsu hình thành và lớn lên trong lòng dạ và cuộc sống Mẹ. Đây qủa thực là một
viễn cảnh bao la và kỳ diệu chờ đợi chúng ta trong Kinh Mân Côi. Ước gì những
suy nghĩ này giúp chúng ta có thêm nhiệt tình và sốt sắng lần chuỗi Mân Côi.
8. Phương thuốc
thần diệu – Lm Ignatio Trần Ngà
Mọi tội lỗi của
con người đều do một cội rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở
dĩ thủy tổ loài người là Ađam và Evà bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu
đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời sau... là vì hai
ông bà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Sự bất tuân
nầy cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật
đường rầy, cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực thẳm.
"Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn
người thành tội nhân..." (Rm 5, 19)
Vậy muốn cứu
loài người khỏi tội, khỏi đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải
diệt trừ tận gốc căn nguyên gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên
Chúa.
Tràng chuỗi mân
côi được xem là phương thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha
nầy vì chuỗi mân côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và
Chúa Giêsu.
* Gương vâng
phục của Mẹ Maria
Lắm khi chúng ta
muốn Thiên Chúa thi hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.
Khi đau bệnh,
chúng ta muốn Thiên Chúa chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn
Thiên Chúa lo liệu cho chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta muốn
Thiên Chúa giúp chúng ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp
chúng ta thành công; khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy
túi...
Nếu Thiên Chúa
không mau mắn nghe lời chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ
đạo, có khi chúng ta hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ...
Thế nhưng, dù Mẹ
Maria được Thiên Chúa đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì
Mẹ vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa điều gì
mà chỉ biết vâng theo lệnh Chúa truyền. "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin
Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ
Maria dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục
trong tinh thần khiêm tốn của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên
Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác
(gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ
năm thuộc năm sự mừng).
* Gương vâng
phục của Chúa Giêsu
Song song với
tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa
Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu,
dẫu phải "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi
xuống đất... (Lc 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng
làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị
đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương),
Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng và xin thưa với Cha: "Xin cho ý Cha thể
hiện".
Sau đó, quân dữ
bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau
khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn
bằng lòng chịu đựng và xin thưa với Cha: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo
ý Cha".
Dù đã đến lúc
sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Canvê
như một tên tử tội khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa
Giêsu vẫn xin vâng: "Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu
đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội,
chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng
vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)
Như thế, từ gẫm
thứ nhất cho đến thứ năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng
phục của Chúa Giêsu. Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh Phaolô khắc
hoạ lại trong bài ca gửi tín hữu Philíp:
"Đức Giêsu
Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang
hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự..." (Pl 2, 6-8)
Sự vâng phục đến
mức tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa
Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm
sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã
tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..."
(Pl 2, 9)
Thế là từ đây,
nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu
Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng
như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người
thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa,
muôn người cũng sẽ thành người công chính.(Rm 5, 19)
Như thế, chuỗi
mân côi chứa đựng bài học vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là
phương thuốc diệt trừ tận gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên
Chúa; vâng lời là phương thế giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa
nhân loại về cõi trời.
Phương thuốc
thần diệu đó đã được Mẹ Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua
tràng chuỗi Mân Côi. Ước gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để
diệt trừ tận căn mầm mống tội lỗi ngay trong lòng mình.
9. Bài học quan
trọng của kinh Mân Côi
(Trích dẫn từ
'Cùng Đọc Tin Mừng' của Lm. Ignatio Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của
loài người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay
từ khởi thuỷ, tổ tông loài người là Ađam và Evà đã không vâng lời Thiên Chúa,
không đi theo đường lối Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải
chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy
cũng giống như tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật
đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội
lỗi. "Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà
muôn người thành tội nhân... " (Rm 5, 19)
Vì thế, muốn cứu
chuộc loài người hư vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu
khác lôi kéo đoàn tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là
"đầu tàu" nầy: "Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã
không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy
nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người
công chính". (Rm 5, 19)
Tràng chuỗi Mân
Côi chính là một lời động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và
Mẹ Maria, đi theo con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến
vào nơi hạnh phúc muôn đời.
* Theo gương
vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã
nghe lời dụ dỗ của Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi
kéo dòng dõi của mình vào cõi chết.
Đức Maria là
E-và mới đã uốn nắn lại những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục
Thiên Chúa tuyệt đối nên Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó
là một nét lớn trong nội dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên
Chúa đưa lên địa vị làm mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình
là người nữ tỳ hèn mọn của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền.
Mẹ đã thưa với sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin rằng: "Tôi đây là nữ
tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học
vâng phục mà Mẹ dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong
tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã
tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư
thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ
năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương
vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với
tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa
Giêsu trong mầu nhiệm thương.
Trong Vườn Dầu,
dẫu phải "lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu
rơi xuống đất... (Luca 22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin
đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị
đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương),
Chúa Giêsu vẫn cắn răng chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha:
"Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau đó, quân dữ
bện vòng gai làm như một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay
nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu
vẫn bằng lòng uống cạn chén đắng Cha trao: "Xin đừng theo ý Con, mà làm
theo ý Cha".
Dù đã đến lúc
sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi
Can-vê như một tên tử tội khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều
lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định:
"Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu
đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội,
chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng
vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)
Sự vâng phục
tuyệt đối của Chúa Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa
Giêsu từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm
sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã
tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..."
(Pl 2, 9)
Thế là từ đây,
nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu
Ađam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng
như vì một người duy nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người
thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa,
muôn người cũng sẽ thành người công chính. (Rm 5, 19)
Như thế, chuỗi
Mân Côi là lời mời gọi chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và
Mẹ Maria. Vâng theo ý Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào
cõi trời vinh hiển và cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh
phúc đời đời như lời Chúa Giêsu dạy: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:
"Lạy Chúa! lạy Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi
hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt
7,21).
10. Mân Côi, bản
tóm lược Tin Mừng
(Trích trong
'Niềm Vui Chia Sẻ')
Trên một chuyến
xe lửa về Paris, một sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau
khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ
từ chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ
bực bội. Sau một hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới
lên tiếng:
- Thưa ông, nếu
tôi không lầm thì ông vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm
nhiên trả lời?
- Đúng thế, tôi
vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?
Người sinh viên
cười một cách ngạo mạn và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi
tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực
sự mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy
học hỏi những khám phá mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ
đều là mê tín dị đoan cả.
Cụ gì bình tĩnh
hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về
những khám phá mới của khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên
hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi
địa chỉ, tôi sẽ gởi đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới
của khoa học.
Cụ già từ từ rút
trong túi áo ra một thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp,
người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì
trên tấm danh thiếp ấy có ghi: "Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học
Paris".
Anh chị em thân
mến,
Louis Pasteur là
một nhà bác học thời danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên
cứu khoa học của ông gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi
mân côi. Ngược lại, con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay
chỉ đề cao tính thực dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời,
giải đáp những nhu cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu
nguyện, cho rằng cầu nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ
thấy mất thời giờ, nếu không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu
nguyện nói chung bị quên lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân
Côi lại càng khó khăn nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với
niềm tin tưởng có vẻ ma thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày
nay, nhất là giới trẻ. Họ chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và
hoàn toàn máy móc. Có người lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng
đó là việc đạo đức của các bà già và con nít!
Chính vì vậy,
cần phải đổi mới việc lần chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá
nội dung và giá trị Tin Mừng của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn
"Lòng sùng kính Đức Maria" (Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô
VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh
Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng. Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng
ấy không nơi nào được vang lên với tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời
kinh "Ave Maria" mà chúng ta đọc là "Kính Mừng Maria" thay
vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa là "Hãy vui lên, Maria!" khi thiên
sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy
vọng, giờ đây được thực hiện nơi người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria
đã được Thiên Chúa tuyển chọn để trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi
Ngài ơn cứu độ được hoàn thành. Vì thế, Maria được ban một tên mới: "Hãy
vui lên, Người đầy ơn phúc" là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh
"Kính mừng Maria" là reo lên niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng
ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ
đầy tin tưởng, cậy trông của Đức Maria.
Nội dung Tin
Mừng cứu độ là chính Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc
sống, lời rao giảng, cái chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là
bản tóm lược cuộc đời của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: "Từ
khi thụ thai và những mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của
biến cố Vượt Qua cuộc Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến
hồng ân tuôn đổ xuống trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ
trong ngày kết thúc cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê
hương thiên quốc" (MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản
tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân
mến,
Khi lần chuỗi
Mân Côi cùng với lời kinh Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc
vui, chúng ta được mời gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố
của cuộc đời của người Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu
thương, vâng phục, tín thác... Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải
quay về với Tin Mừng, phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi
đó, những kẻ nghèo khóc, hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết
xây dựng hòa bình... được công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm
lãnh Nước Trời. Chỉ khi đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới
nhận ra vẻ đẹp sáng ngời vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi
là cùng với Đức Maria và qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá
trị của Tin Mừng, những giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô
không thể không biết đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi
Mân Côi là Kinh Tin Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần
chuỗi Mân Côi cách máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản
và minh bạch là Tin Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói:
"Khi cầu nguyện thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ
nói nhiều thì sẽ được nhận lời" (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân
Côi với tinh thần của Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria:
"Người giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc
2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân
Côi là cùng với Đức Maria làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức
Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua
những biến cố đó, nhìn vào những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội
và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi
tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm
nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể,
trong những lựa chọn đầy can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu
nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào
mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực
khi chưa dấn mình cùng với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.
11. Nhờ Mẹ Đến
Với Chúa
(Trích trong
'Niềm Vui Chia Sẻ')
Sau khi phản bội
Chúa bằng một cái hôn, Giuđa cảm thấy chán nản thất vọng đến độ không còn tin
tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng bạc là giá bán
Chúa đi vào đền thờ và nám trả lại cho các Thượng tế và Kỳ lão. Sau đó ông đi
thắt cổ tự tử. Câu chuyện này đã đi vào lịch sử của dân làng Oberammergau ở
Đức. Cứ 10 năm một lần theo lời thề của cha ông để lại từ mấy trăm năm qua,
người dân làng diễn lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong cảnh Giuđa ra ngoài
ngồi than thở: "Tôi đã phản bội Thầy tôi. Tôi không biết chạy đến với ai
nữa!"
Khán giả ở dưới
im lặng theo dõi, một em bé ngồi bên cạnh mẹ, thông cảm cho số phận của kẻ chìm
đắm trong thất vọng, em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em quay
sang mẹ và nói lớn đến nỗi tất cả khán giả trong hội trường đều nghe thấy:
"Mẹ ơi, sao
ông ta không chịu chạy đến với Mẹ Maria?".
Thưa anh chị em,
Phải chi Giuđa
mà biết chạy đến với Mẹ Maria, hẳn là ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy nhờ Mẹ Maria
mà đến với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi người, và nhất
là Ngài cũng trải qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây
phút ngồi trên gối mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm nét trong ký
ức của Chúa Giêsu. Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên bài học mà
Ngài muốn nhắn gởi chúng ta: "Hãy chạy đến với Mẹ Maria".
Tràng chuỗi Mân
Côi là một phương thế giúp chúng ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X
đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: "Khi gia đình không được an vui hòa
thuận, hãy lần chuỗi Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương.
Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân
Côi, để xin Mẹ cảm hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân
Côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông...".
Đức Thánh Cha
Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất
cả các tín hữu hiện diện tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh Truyền Tin
rằng: "Chuỗi Mân Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời
kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng
ta lặp lại nhiều lần những lời Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người
chị họ Êlizabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh
ấy. Người ta có thể nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng
của Hiến Chế Tín Lý về Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II,
chương bàn đến sự hiện diện tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô diễn
ra trước mắt chúng ta. Những biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui,
Thương, Mừng và chúng ta hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng
thời, chúng ta có thể đưa kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống
hằng ngày của từng cá nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân
loại, những biến cố của chính bản thân của anh chị em chung quanh, nhất là với
người thân yêu sống gần gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ
rập theo nhịp sống của con người" (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).
Trong Tông Huấn
"Lòng sùng kính Đức Maria" (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI
đã nói: "Kinh Mân Côi là kinh Tin Mừng". Là kinh Tin Mừng không chỉ ở
chỗ lời kinh Lạy Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh,
nhưng nhất là vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng
là mầu nhiệm Chúa Giêsu.
Vì thế, đối
tượng cốt yếu của chuỗi Mân Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu
Chúa Giêsu, trải dài từ tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục
sinh, đến ân huệ Thánh Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của
Tin Mừng được xác quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ... những
giá trị "nên xác thịt" nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời gọi
được gởi tới cho tất cả mọi người.
Trên nẻo đường
Tin Mừng ấy, lại có sự hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và
cũng là người môn đệ ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ
trong suốt cuộc đời: từ khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá,
sống lại và lên trời. Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những
đoạn đường Chúa đã đi qua với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn đường
ấy.
Như thế, thưa
anh chị em,
* Lần chuỗi Mân
Côi là cùng với Mẹ Maria và qua Mẹ Maria, chúng ta thêm một lần xác tín và xác
tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân
Côi là cùng với Mẹ Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử
cứu độ và qua những biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến cố hôm nay của cá
nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân
Côi là cùng với Mẹ Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống
hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn
thân trong những lựa chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn
thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Chính như thế
đó, Thánh Đaminh đã biến chuỗi Mân Côi thành phương thế loan báo Tin Mừng. Nhờ
đó nhiều người đã thoát khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và đã trở về
với Giáo Hội.
Cũng chính như
thế đó, Đức Gioan XXIII đã lần chuỗi Mân Côi như phương thế nuôi dưỡng đời sống
mục tử của ngài.
Đối với chúng ta
cũng thế, không có lời cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con
người và cuộc đời chúng ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có
việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình -cùng với Mẹ Maria- vào nẻo
đường của Thiên Chúa. Hãy chạy đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với
Chúa Giêsu.
12. Kinh Mân Côi
– Lời kinh kết nối (Lc 1,26-38)
(Trích trong
'Nút Vòng Xoay' - ĐGM. Vũ duy Thống)
Chiều qua ghé
mừng bổn mạng Phanxicô Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một
vợ ba con. Đúng lúc gia đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái
út đã nhanh nhẩu chỉ cho tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe
rằng hôm nay nó là Việt kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó
đã liến thoắng đố tôi hôm nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một
vòng nhưng chẳng thấy có gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín
được câu đố của mình nên đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm
nay mỗi người mặc một màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người
Châu Á, chị hai màu đỏ người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả
gia đình là năm châu, là thế giới.
Thấy tôi vẫn
ngẩn người chưa hiểu, anh bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi,
má xấp nhỏ muốn làm một chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người
mỗi ngày đọc một chục, năm người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là
sáng kiến của Đức Giám Mục Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh
họa là sáng kiến của con út nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười
vui. Và khởi đi từ niềm vui ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh
kết nối.
1) Kết nối với
Đức Maria.
Bởi Kinh Kính
Mừng là nối kết lời thiên thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với
lời mừng của bà Êlisabet trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở
thành lời chào mừng chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là
kết nối với một cá nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận
mình là một tôi tớ, nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó
là một dung hòa tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác
là nỗ lực của con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi
đi từ ơn phúc Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự
đáp trả cộng tác bằng lời "xin vâng" thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng "xin
vâng" không chỉ bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực
thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên
hành trình đức tin bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là
một sự "nối mạng", nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong
vinh quang hiện tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả
bao giờ. Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm
tình hiệp thông gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về
về giữa Đức Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất
tự nhiên như tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những
khi kêu cầu.
2) Kết nối với
Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng
trực tiếp của Kinh Mân Côi là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu
nhiệm đời Mẹ, thì hành trình cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới
đích điểm là kết nối với Chúa Giêsu.
Có một điều ngạc
nhiên đến thú vị là nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời
khẳng định: Đức Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần
hạt với con cái mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với
Mẹ nhưng còn cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu
của Kinh Kính Mừng cũng muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai
danh xưng Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng
Giêsu: "Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc
lạ hơn mọi người nữ và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ", nghĩa là kết nối
với Mẹ để được nối kết với Con của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với
Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối
với Chúa Giêsu được thấy rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui,
Thương, Mừng như cách gọi truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu
xuống thế làm người sống cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu
chịu chết chuộc tội cho cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức
Giêsu bước vào vinh quang mở ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết
nối nền tảng và là đỉnh cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn
lỏng lẻo, chưa có nó kết nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với
mọi người trong Chúa Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là
hệ lụy tất nhiên của hai mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria
để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với
nhau, nhưng chính ở đây lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng
cho tất cả những ai lần hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân
Côi, tín hữu nhận biết người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc
cũng nhận ra người Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận
hơn nữa người Thượng gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình,
trên đường......? Tại sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí
thức đến nông dân, từ em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ
cập, chẳng những phù hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người.
Buồn hay vui người ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này,
còn đám tang thì lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi
có được xem là vũ khí thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn
hàn liên kết hiệp thông. Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp
Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm
1571 giữa Hồi Giáo và Công Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức
mạnh khi mọi người hiệp thông trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh
Mân Côi là lời kinh kết nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn
lặp lại ý muốn của Đức Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp
thông. Để với những ai đã quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi
giúp nối mạng tâm linh cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng.
Kinh Mân Côi còn là người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng
hiện diện mọi lúc, mọi nơi.
Một lần làm phép
xâu chuỗi cho bà cụ và cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi
chỉ vào túi mình và nói với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười
vui. Mong rằng không chỉ có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có
chuỗi kinh biết hiệp thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.
13. Mẹ Mân Côi –
Mẹ chiến thắng
(Trích trong
'Với Cả Tâm Tình' - ĐGM. Vũ duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân
Côi gợi nhớ về một trận chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo
trên phần đất nước Ý, Đức Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức
bảo vệ. Các vua chúa Công Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra
tiền tuyến. Hậu phương yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc
binh lửa ở vịnh Lépante, với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở
lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc
chiến mang màu tôn giáo ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng
còn. Nhưng vẫn còn đó danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là
mặc cảm để mà nhức nhối, hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình
tĩnh chiêm ngắm chân dung Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua
Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến
thắng trên chính phận mình.
"Kính mừng
Maria đầy ơn phúc". Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu
của Kinh Kính Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương
chuẩn bị Mẹ từ thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan
trọng và chính yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi
lại, là một thái độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý
Chúa. Phần chìm ấy là tiếng "Xin Vâng".
"Xin
Vâng" là tiếng nói của một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm
tiếng nói muôn thuở của Thiên Chúa. "Xin Vâng" là tiếng vắn gọn như
phản ứng xuất thần, mà thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản
thân mình để đánh đổi. "Xin Vâng" là tiếng một lần dâng lên sẽ không
bao giờ rút lại, một lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp
tiếng là sẽ cúi đầu chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh
hay là lưỡi gươm của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều
Tử Nạn. "Xin Vâng" là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám
nhận mình là tôi tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước
lên thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng
"Xin Vâng" đã thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó
là một chiến thắng: chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở
nên chiến thắng của Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay,
nếu đọc lên kinh "Kính mừng Maria đầy ơn phúc", thì hãy vui mừng thêm
nữa để nhận ra rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng
chỉ thực sự tỏ hiện qua tiếng "Xin Vâng", để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ
chiến thắng trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến
thắng trên mỗi phận người.
"Thánh
Maria, Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội". Phần sau của
Kinh Kính Mừng là lời cầu nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ
là một tâm tình duy nhất. Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng
trên chính phận mình để trở nên "Đức Mẹ Chúa Trời", thì phần sau là
lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương
trinh trong thánh đức. Do đó, danh hiệu "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời"
chính là lời kính mừng trang trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó
cũng là chiến thắng chung cuộc Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến
thắng vinh quang ấy chẳng những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời
dương thế, mà ngược lại, còn đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì
thế, không lạ gì khi kính mừng Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ
về đời mình, không phải để xót xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương
quan "Mẹ Thiên Chúa – Mẹ Giáo Hội" một cách chân tình với lòng trông
cậy.
Bên kia lời
"cầu cho chúng con là kẻ có tội" là cả một tình mẫu tử thiêng liêng.
Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ
Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu
nhận mình là kẻ có tội mà vẫn dám cầu xin "Thánh Maria", và nếu ngước
trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là
vì đã tín nhiệm và cậy trông vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến
thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách
khơi lên sự thánh thiện cho lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến
Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân
dung Đức Mẹ Chiến Thắng qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần
nào đó khơi lối đi vào ngày lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức
Maria trong mầu nhiệm Hội Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân
Côi trong đời sống mọi kẻ tin.
Mừng lễ Mẹ Mân
Côi không còn là mừng về một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến
thắng còn lớn lao và cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong
nỗi lòng của mỗi người con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi,
để gợi mở những chiến thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời
sống mọi người. Mừng lễ Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là
mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi
trước bước lên chiến thắng và vì thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che
chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng
của ơn cứu độ trên chính phận mình.
Và mừng lễ Mẹ
Mân Côi hôm nay chính là khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu
"Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến Thắng", để thấy được rằng muốn có chiến thắng
không thể xao lãng lần hạt Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày
bước vào chiến thắng. Kinh Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn
đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội
lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm
ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa
vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong
Kinh Mân Côi là hiện diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể
lâu lắm rồi: hai thôn đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào
cũng nhận là của mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu
sứt trán. Cuối cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm
của chung gọi là "đất Đức Bà", đồng thời cho dựng một tượng đài Đức
Mẹ ở đấy. Hết tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ.
Người ta gọi đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài
Đức Mẹ Chiến Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến
Thắng, xin cầu cho chúng con. Amen.
14. Kinh Mân Côi
– Lời kinh kỳ diệu
(Trích trong
'Từng Bước Một Thôi' - ĐGM. Vũ Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10
năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo
Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới
thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là "lời kinh diệu kỳ".
Sau hai mươi lăm
năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư "Kinh Mân
Côi", một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác
tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong
nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời
người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao
và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân
Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến
trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi
hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời
kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể
hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ
thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ
những ca khúc bắt đầu bằng chữ "Mẹ ơi" từ nốt bậc năm về nốt bậc một
không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng.
Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung
bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh
Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời
mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng
từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp
qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn
ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết
tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên
Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu "nải
chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một" là ca dao tình mẹ ngọt ngào
trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu
ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa
Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay
không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội "khi nay và trong giờ
lâm tử". Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi
nơi.
2) Kinh Mân Côi:
Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.
Thật vậy, hình
thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu
nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương
Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả
thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là
"cuốn Phúc Âm rút gọn", rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa,
để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình
máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến
hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình
sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.
Tất nhiên người
ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước
Thánh Thể, thương giúp người..., nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của
Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường
cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất
là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách
của Đức Mẹ là "lưu giữ và suy niệm trong lòng", tức là "khẩu
tụng" đều đều lời kinh Đức Mẹ và "tâm suy" dài dài cuộc đời Đấng
Cứu Thế.
"Ad Jesum
per Mariam" chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa
suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể
của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính
Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa
Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa
Giêsu.
3) Kinh Mân Côi
là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu
quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan
Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền
nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và
Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày
xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám
sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại
Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại
ba thù "ma quỷ, thế gian, xác thịt", và là sinh tố tăng cường ba việc
"nên thánh, mến Chúa, yêu người".
Nếu nhân đức là
việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên,
thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân
luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập
Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân
đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người
được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông
thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà
tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà
"tu hành" nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay
đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo
sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện "bỏ
túi" (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã
hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời
ta vào mạng sự sống thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh
Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời
kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên
đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu
cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm
học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn
được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
15. Đức Chúa ở
cùng Bà
(Trích dẫn từ
'Manna')
Suy Niệm
Con người hôm
nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống,
thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria
đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ
thần chào Mẹ lúc truyền tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc
vì được Thiên Chúa đặc biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc
chưa chào đời, và tình thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển
chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự
phần vào niềm vui và ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển
chọn, yêu thương được tẩy xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở
cùng Bà.
Trong Cựu Ước,
có bao người được Thiên Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa.
Nhưng Thiên Chúa ở cùng Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy
tràn Thánh Thần và cưu mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh,
nơi vinh quang Thiên Chúa hiện diện giữa con người.
Nhiều lần trong
mỗi Thánh Lễ, vị linh mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là
người có Đức Kitô ở cùng và được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ
hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà
Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1, 42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng
Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà
Êlisabét còn ca ngợi Mẹ có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với
Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông
đời mình trong tay Chúa và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều
được mời sống hành trình đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc:
"Phúc cho ai không thấy mà tin" (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức
Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa
là Đấng Thánh và là nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ
sự thánh thiện ấy cách tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên
Chúa, và vì chẳng ai thực thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng
được diễm phúc sinh ra Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của
Ngài: "Mẹ tôi và anh em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực
hành" (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời
Chúa trong cuộc sống, chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay. Ngài vẫn
cần những người mẹ để có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức
Maria được hưởng cách viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự
phần.
Xin Mẹ cầu cho
ta khi này và trong giờ lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào
lần chuỗi không? Bạn có biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách
cầu nguyện nhẹ nhàng và lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về
Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần
bạn trong cuộc sống đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà
Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền
thờ. Mẹ tìm con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài
đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để
đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người
hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy
Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con
đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng
con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù
phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng
con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con
người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa.
16. Tôi là nữ tỳ
của Chúa
(Trích dẫn từ
'Manna')
Suy Niệm
Nhân vật chủ yếu
mà thánh Luca muốn trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu.
Ngài là Con Đấng Tối Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con
Thiên Chúa (c.35). Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị
cho Con một người mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến
thương. Thiên thần gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng
(c.28), là người đẹp lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời
ngay từ trước khi làm mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô
Maria. Ngài cần sự ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria
chức vụ làm Mẹ Đấng Cứu Thế. "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền
năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên cô" (c.35). Maria hẳn đã phải suy nghĩ
trước khi chấp nhận làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào
của Thiên Chúa cũng gây xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư. Nếu Maria
đã khấn sống khiết tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Nếu
Maria đã muốn sống bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay
Thiên Chúa lại muốn cô có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa
cô với Giuse hẳn phải thay đổi.
Maria không hiểu
hết con đường mình sắp đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối. Nhưng cô tin
vào Thiên Chúa đang mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng
chẳng có gì Ngài không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác.
Tiếng xin vâng này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ
của Chúa.
Lắm khi chúng ta
thấy Đức Maria quá cao xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có. Chúng ta
quên rằng Mẹ cũng là một tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời.
Nói tiếng xin vâng khi mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin.
"Phúc cho em là kẻ đã tin..." (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng
khó khăn nhất của Mẹ Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên
thần nói ngày xưa có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra
với Mẹ tất cả những tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý
nghĩa.
Chúng ta có dám
liều xin vâng như Mẹ không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã
nói với Đức Maria qua vị thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời
bạn cộng tác không? Bạn có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một
người hay một biến cố trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần
phải tin. Để tin, cần phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người
đời để dựa vào Chúa không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria,
khi đọc Phúc Âm, lúc nào chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà
Isave, rồi đi Bêlem sinh Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền
thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài
đang rao giảng. Và cuối cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để
đáp lại một tiếng gọi âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người
hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy
Mẹ luôn đi với Đức Giêsu trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con
đường nào cũng là thảm hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng
con đừng sợ lên đường mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù
phải chấp nhận đoạn tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu
để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ
Thiên Chúa
17. Lá sầu riêng
– Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ
'Cùng Nhau Suy Niệm')
Ở đời tình mẹ là
thiêng liêng nhất, cao cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể
cảm nghiệm được thế nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan
tính ích kỷ nhỏ nhoi nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì
con. Ca dao đã nói rất nhiều về những hy sinh của mẹ như: "Nuôi con chẳng
quản chi thân, Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn". Và rồi khi trái gió trở
trời, lòng mẹ cũng quặn đau vì con: "Con ho lòng mẹ tan tành, Con sốt lòng
mẹ như bình nước sôi".
Có lẽ chúng ta
đều biết đến câu chuyện "Lá sầu riêng" của sân khấu cải lương đã từng
trình diễn. Đó là câu chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình
vì tương lai và hạnh phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo
nàn. Cuộc đời cơ cực với cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến
bà lo sợ cho tương lai của đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình
giầu có trong làng, và rồi bà tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư
cách là một vú nuôi. Năm tháng trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay
bà chăm sóc đã thành danh giữa đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự
thật về nguồn gốc của nó, và chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ
đã quên cả bản thân mình để lo cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước
mắt sung sướng của hai mẹ con nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay,
điều đó đã không xảy ra! Đứa con không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà.
Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp
nó ở đời. Thay cho những giọt nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi
nhục đắng cay. Bà đã thốt lên trong tiếng nấc nghẹn ngào: "Con ơi! Ngày
con còn bé, mẹ cho con một cục kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con
cả cuộc đời, sao con nỡ lòng xua đuổi mẹ hở con?".
Tình thương của
mẹ trần thế đôi khi cũng quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình
thương của người Mẹ thiên quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay
che chở của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn
nhận sự trợ giúp của Mẹ. Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính
thái độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi,
Giáo hội mời gọi chúng ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của
chúng ta. Xưa bên cây thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan,
Mẹ Maria đã nhận làm mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng
ta. Từ nay Mẹ sẽ bao bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay
Mẹ Maria sẽ chăm sóc chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay
Mẹ Maria sẽ đứng bên cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ
nay cái đau của chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết
mình vì con. Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng
chăm sóc đoàn con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: "Đêm mùa thu
mẹ ru con ngủ - Năm canh dài thức trọn năm canh".
Thế nhưng, Mẹ
Maria đã được gì khi làm mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không?
Nếu vui tại sao mỗi khi Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm
ngâm, đều lo lắng cho sự an nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội
tình. Mẹ đều khóc vì những đứa con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở
về. Phải chăng mẹ cũng đang đau khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng
ở đời, vì vinh hoa phú quý mà đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản "lá
sầu riêng" đang diễn tả nỗi lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng
đang bảo chúng ta: "Con ơi! Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian
mau qua mà con đã vội quên tình mẹ? Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế
mau qua mà con đã từ chối mẹ sao? Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để
mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con".
Xin cho mỗi
người chúng ta biết nhận ra tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi
lầm của mình. Xin giúp chúng ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước
gì chúng ta luôn trân trọng tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để
nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa.
Amen.
18. Mẹ đầy ơn
phước – Veritas
(Trích dẫn từ
'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Thời gian viên
mãn đã đến, người trinh nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây
được chỉ định rõ ràng cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria,
Đấng làm cho tâm hồn ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài.
Cùng với thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính mừng Maria,
hãy vui lên, Maria". Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria
hãy vui lên vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui
lên được, khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ
loan báo hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua
kinh Kính Mừng "Kính Mừng Maria đầy ơn phước" chúng ta tham dự vào
niềm vui và niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy
ơn phước, Đấng được Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ
của Đức Giavê như được loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1:
"Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn
phước vì Đấng sắp đến ngự nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa". Mẹ Maria
được đầy tràn niềm vui. Mẹ là người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm
vui vì Thiên Chúa nhập thể. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh
của Mẹ như là dấu chỉ niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của
Ngài cho Israel, và suốt đời Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của
Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Dacaria: "Linh hồn tôi ngợi
khen Chúa, Ngài là Đấng trung tín như lời đã hứa Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa
ở cùng Bà", Mẹ Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến
cố cứu rỗi sắp đến, nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một
ý nghĩa sâu xa. "Thiên Chúa ở cùng Bà", giây phút quan trọng nhất của
lịch sử đã đến, đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa
ở cùng chúng ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên
Chúa là Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của
Thiên Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên
Chúa.
"Hỡi Maria,
đừng sợ", kinh nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không
khỏi làm cho con người run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện
diện, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự
thật nơi Mẹ. Không bao giờ Mẹ Maria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc
khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui
mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô,
chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria
nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria
giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên
Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong
ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
"Lạy Cha là
Chúa tể trời đất, Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không
mạc khải cho những kẻ khôn ngoan, kiêu ngạo, nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm
tốn. Cha đã chọn Mẹ Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con.
Nhờ lời cầu khẩn
của Mẹ Maria, đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, và nhân danh Chúa Giêsu
Kitô, Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con". Xin cho chúng con nhận
ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và
lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi
phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến
ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng
con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được
luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính
chúng con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét