GX GÒ MÂY ĐÊM GIÁNG SINH & GX TÂN THÁI SƠN 60 NĂM THÀNH
LẬP
LỄ HIỂN LINH – Năm B
Lời Chúa: Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt
2,1-12
MỤC
LỤC
1. Ngôi Sao Giáng Sinh
2. Gặp gỡ Chúa
3. Thiên Chúa tỏ mình
4. Ánh sao đạo đức - ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
5. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời
6. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
7. Cuộc hành trình đức tin
8. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
9. Tìm gặp Chúa
10. Tỏ mình
11. Thông điệp
12. Lễ Hiển Linh
13. Lễ Giáng Sinh của muôn dân
14. Ánh sao lạ
15. Một ngôi sao để đi theo
16. Gặp được Chúa Cứu Thế - Radio
Veritas Asia
17. Gặp Chúa – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
18. Thiên Chúa của các dân tộc
19. Ba vua
20. Ra đi
21. Ngôi sao dừng lại
22. Ngôi sao dẫn đường
23. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
24. Thành tâm thiện chí sẽ gặp Chúa
25. Gọi tên ngày lễ - ĐGM Giuse Vũ Duy
Thống
26. Niềm tin: một chuyến đi
27. Những con mắt hiển linh
28. Từ bỏ
29. Đến thờ lạy
30. Những đạo sĩ hôm nay
31. Suy Niệm của JKN
32. Suy niệm của JKN
33. Lễ vật
34. Tỏ mình
35. Ngôi sao hy vọng
36. Món quà
37. Dân ngoại đứng trước Đức Vua của
người Do thái
38. Chú giải của Noel Quesson
1. Ngôi Sao Giáng Sinh
Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, có một
chi tiết làm cho tôi suy nghĩ đó là ngôi sao bỗng biến mất khi các nhà đạo sĩ
tới Giêrusalem, và rồi lại hiện ra, khi họ rời bỏ thành thánh để đi Bêlem. Tại
sao lại như thế?
Như chúng ta đã biết Giêrusalem được
coi là thành thánh, bởi vì ở đó có di tích, nơi mà xưa kia tổ phụ Abraham đã
đem con mình là Isaác để sát tế cho Thiên Chúa. Chính nơi đây, vua Salomon đã
xây dựng một đền thờ nguy nga bằng gỗ quý từ Libăng đem về. Vào thời Đức Kitô,
ngôi đền thờ ấy đã được xây dựng lại. Một công trình vĩ đại, phải mất 46 năm
trời người ta mới hoàn tất. Vì là thành thánh và là nơi có đền thờ, nên không
lạ gì khi các nhà đạo sĩ, đi tìm vua dân Do Thái mới sinh, lại không dừng chân,
tưởng đó là chặng đường chót. Nhưng oái oăm thay, ngôi sao lạ đã biến mất, còn
trong thành cũng chẳng thấy ai bàn tán xôn xao về tin tức một vị tân vương mới
ra đời. Ba nhà đạo sĩ chỉ là những người khách lạ, nhưng đã đem đến một tin làm
chấn động cả dân thành, khiến từ vua chúa quan quyền cho đến bậc thứ dân đều
sửng sốt hoang mang.
Nhà vua liền triệu tập các học giả vốn
được coi là những người đoán biết được mệnh trời. Các vị ấy liền tìm ra ngay
nơi Chúa sinh ra, đó là Bêlem. Nhưng đáng ngạc nhiên thay, nhà vua cùng các bậc
học giả uyên thâm đó, chẳng một ai nghĩ là chính mình cần phải đi tìm vị tân
vương. Họ chỉ hướng cho ba nhà đạo sĩ đi Bêlem, nhưng rốt cuộc chính ngôi sao
lạ đã hướng dẫn ba vị khách phương xa tìm ra Đức Kitô. Vậy tại sao ngôi sao lại
biến mất trên nền trời thủ đô Giêrusalem?
Ở mọi nơi và trong mọi lúc, chúng ta
đều nhận thấy: Tôn giáo nào cũng có những nơi được dành riêng cho việc thờ
phượng, nào là nhà thờ, nào là chùa chiền, nào là thánh thất. Điều đó thật tốt,
nhưng đối với chúng ta ngày hôm nay thì không đủ, bởi vì Thiên Chúa đã làm
người và ở giữa chúng ta.
Tin Mừng đã khởi đầu từ trong căn nhà
nhỏ bé ở Nadarét với biến cố truyền tin, rồi được công bố cho những kẻ chăn
chiên trên cánh đồng Bêlem. Tin Mừng ấy đã được diễn tả cụ thể trong cuộc sống
và hành động của Đức Kitô tại Nadarét và trên khắp các nẻo đường Palestine . Tin Mừng ấy đã
được hoàn thành trong cái chết của Ngài ở ngoài đền thờ, ngoài thành thánh, và
trong sự phục sinh của Ngài, để rồi từ đó được loan truyền đi khắp thế gian.
Điều đó muốn nói lên rằng thờ phượng Thiên Chúa nơi thánh đường mà thôi chưa
đủ, chúng ta còn phải nhập cuộc, còn phải hoà mình đối với mọi người, nhất là
những kẻ đau yếu, bậnh tật khổ đau.
Ngày nay ngôi sao Giáng sinh hình như
cũng đang biến dần và những người tìm Chúa lại phải ra khỏi thành thánh, hướng
về những Bêlem mới, đó là những kẻ bất hạnh đang bị bóc lột, và khinh bỉ như
các người chăn chiên thuở trước. Thế nhưng liệu chúng ta có dám tìm Chúa theo
sự hướng dẫn của ngôi sao lạ như thế, hay là chúng ta lại ngại ngùng không dám
bước theo, để rồi cuối cùng trong tay chỉ còn là một cánh sao bằng giấy.
2. Gặp gỡ Chúa
Những hạng người nào đã được diễm phúc
gặp gỡ Hài Nhi Giêsu nơi máng cỏ Bêlem? Trước hết là các mục đồng, những người
canh giữ đoàn vật. Họ là những người nghèo và hơn thế nữa, họ còn là những
người bị khinh dể bị coi thường. Các luật sĩ và Biệt phái thường gọi họ là bọn
dân đen. Cái đám người không biết đến lề luật, họ là những kẻ bị chúc dữ. Thế
nhưng, chính đám người bị chúc dữ ấy, chính đám người không biết đến lề luật ấy
lại là những người đầu tiên được đón nhận Hài Nhi Giêsu.
Tiếp đến là những nhà bác học xa lạ.
Đường không quen, nẻo không thuộc. Họ từ xa mà đến, dám chấp nhận mọi hy sinh
gian khổ. Cái nghèo của những người này chính là thái độ sẵn sàng của họ. Các
Luật sĩ và Biệt phái coi họ là dân ngoại. Thế nhưng, cái đám dân ngoại này lại
được diễm phúc gặp được Hài Nhi Giêsu.
Từ những sự kiện trên chúng ta rút ra
được hai nhận định. Nhận định thứ nhất đó là sự gặp gỡ giữa người giàu và kẻ
nghèo nơi Hài nhi Giêsu. Đúng thế, từ xưa cho đến nay vẫn có một hố ngăn cách
giữa giàu và nghèo. Sự ngăn cách này được tạo nên bởi những nghi ngờ và thù
oán. Mỗi bên đều có cái lý của mình. Tuy nhiên trong lịch sử đã có một khoảnh khắc
trong đó giàu và nghèo không còn đố kỵ nhau, đó là khoảng khắc Chúa Giêsu sinh
ra. Bởi vì có những người giàu, giàu về tiền bạc cũng như giàu về kiến thức đã
đến viếng thăm một Hài nhi nghèo nàn, sinh ra không cửa không nhà.Thế nhưng,
cái nghèo của Hài Nhi Giêsu mà ba nhà đạo sĩ khám phá ra đã không đẩy lùi họ,
trái lại còn hấp dẫn họ, không làm cho họ hổ thẹn, trái lại còn làm họ cảm thấy
được tôn vinh. Vì vậy, không ngỡ ngàng, không nghi vấn, họ tự dâng của lễ cho
một Hài Nhi của người nghèo, như triều cống cho một hoàng tử của đế vương.
Nhận định thứ hai đó là các mục đồng và
dân ngoại là những người ít được chuẩn bị nhất lại nhận ra Chúa. Trong khi đó
các Luật sĩ, Biệt phái và tư tế, là những người đã được chuẩn bị nhiều nhất, đã
được thông tin hoàn toàn nhất, bởi vì chính họ đã cho các đạo sĩ biết rõ nơi
gặp gỡ đích thực của vị Vua mới sinh ra, thế nhưng cuối cùng họ đã không nhận
ra Ngài. Họ có dư khả năng để biết nhưng lại không có khả năng để hiểu. Đúng
thế, họ biết được bằng trí tuệ, bằng những phương tiện thông tin đầy đủ có
trong tầm tay, nhưng muốn hiểu thì còn cần đến tấm lòng, cần đến con tim nữa.
Các mục đồng là những kẻ thiếu học, còn
các nhà đạo sĩ là những người thiếu thông tin. Họ không có khả năng để biết,
nhưng lại có khả năng để hiểu. Không phải chỉ sáng trí, có học là đủ để đi vào
những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Trái lại, cần phải có thiện chí, cần phải có
tấm lòng, dám chấp nhận những hy sinh, dám từ bỏ cái tự cao tự đại của mình,
thì mới có thể đến gần và gặp gỡ Chúa.
Bởi đó, là những người có đức tin, thế
nhưng chúng ta đã gặp gỡ Chúa như các mục đồng và như ba nhà đạo sĩ phương đông
hay chưa?
3. Thiên Chúa tỏ mình
Ngày hôm nay Thiên Chúa tỏ mình ra cho
ba nhà đạo sĩ đến từ phương Đông, nghĩa là những người ở ngoài dân Chúa và bị người
Do Thái xếp vào hàng dân ngoại. Chính vì thế lễ Hiển Linh có thể được coi như
là lễ Giáng sinh của người ngoại. Tuy nhiên, qua phụng vụ chúng ta thấy được
tính cách bi đát của chương trình cứu độ như thánh Gioan đã diễn tả: Ngài đã
đến nơi nhà Ngài mà các người thân đã không tiếp nhận Ngài.
Thực vậy, Isaia đã đưa ra những lời
tiên đoán đầy phấn khởi về Giêrusalem vào ngày Đấng cứu thế xuất hiện. Ngày ấy,
Giêrusalem sẽ trở thành trung tâm ánh sáng và mọi người từ bốn phương trời sẽ
tiến về đó với muôn vàn lễ vật. Nhưng trớ trêu thay, vào ngày Con Thiên Chúa
giáng sinh làm người, theo như lời tiên tri Isaia loan báo, ánh sáng đã chiếu
trên Giêrusalem, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới nhận ra ánh sáng ấy,
còn dân trong thành thì vẫn tiếp tục sống trong u tối. Giêrusalem đã có thể chỉ
rõ nơi vua dân Do Thái mới sinh ra, nhưng lại chỉ có những người ở ngoài mới
tới thờ lạy Ngài.
Một ngôi sao xuất hiện trên bầu trời
thì có chi đáng quan tâm. Nhưng tất cả cuộc hành trình kỳ diệu lại khởi đầu từ
đó. Đêm hôm ấy, hẳn cũng đã có nhiều người nhìn lên trời, ngắm những vì sao
nhưng lại không thấy được vì sao của Ngài. Cũng thế, những biến cố, những sự
kiện diễn ra hằng ngày trên đường phố, trong xã hội. Chúng ta cũng có thể đọc
được những sự kiện, những biến cố ấy trên cùng một trang báo, qua cùng một
chương trình thời sự, nhưng có mấy khi chúng ta thấy được trong một biến cố,
trong một sự kiện dấu chỉ về một đòi hỏi của Chúa?
Tuy nhiên, các nhà đạo sĩ đã không chỉ
bằng lòng với việc thấy được vì sao của Ngài. Các ông còn chuẩn bị lễ vật và
hăm hở lên đường với một cuộc hành trình mang tính cách phiêu lưu, tiến tới một
nơi vô định mặc dầu có ánh sao dẫn lối. Tin Mừng cho thấy là cũng đã có lúc
không còn ánh sao nữa và các ông đã phải hỏi thăm về nơi các ông phải tới với
những người không quen biết. Và không phải là không có những cạm bẫy. Hêrôđê có
đó với tấm lòng nham hiểm đằng sau những lời nói đầy vẻ ân cần. Vượt không biết
bao nhiêu dặm đường để rồi cuối cùng đứng trước một hài nhi yếu ớt, nhưng các
ông cũng đã sấp mình thờ lạy, và dâng lễ vật với lòng hân hoan toại nguyện.
Phải chăng đó chính là thái độ của một lòng tin đích thật. Các thượng tế và
luật sĩ, mặc dù thông hiểu Kinh Thánh, nhưng vẫn ngồi yên tại chỗ. Sự hiểu biết
của họ như đã không đủ sức để lay chuyển họ. Là những người ở trong, họ đã tự
đặt mình thành những kẻ ở ngoài. Trong khi đó, những người vẫn bị xếp vào hạng
ở ngoài, vì đã đi theo tiếng gọi của Chúa, mà đã trở thành những người ở trong.
Những điều chúng ta thấy và hiểu biết về Tin Mừng, về Đức Kitô, về Nước Trời,
về ơn cứu độ, có đủ sức lay chuyển chúng ta đi theo tiếng gọi của Chúa hay
không?
4. Ánh sao đạo đức - ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
Hôm nay, Ba Vua trên đường tìm đến thờ
lạy Chúa Cứu Thế Giáng Sinh. Ba Vua là những người phương xa, không có đạo. Các
Ngài tìm đến Chúa theo ánh sáng của ngôi sao lạ. Theo ngôi sao, các Ngài đến
được Giêrusalem và được nghe giải nghĩa Thánh Kinh. Theo ngôi sao đưa đường dẫn
lối các Ngài đã gặp được Chúa. Ánh sao đã chiếu sáng bầu trời đen tối, giúp các
Ngài nhận định được hướng đi. Lời Thánh Kinh là một ánh sao chiếu soi tâm hồn
giúp họ sáng lên niềm tin. Nhưng chính Đức Giêsu mới là ngôi sao mai dẫn họ đi
vào một con đường mới, con đường chói ngời ngọn lửa đức mến.
Ngày nay có nhiều người đang tìm kiếm
Chúa. Nhiều người muốn biết Chúa để theo Chúa. Nhưng họ không biết đường biết
hướng. Cũng như Ba Vua, họ cần có những ánh sao soi đường dẫn lối.
Tìm đâu ra ngôi sao xưa đã soi đường
cho Ba Vua? Ngày nay, Chúa không dùng ngôi sao xuất hiện trên trời, nhưng muốn
mỗi người chúng ta trở thành một vì sao soi dẫn mọi người đến với Chúa.
Là ngôi sao có nghĩa là phải có ánh
sáng. Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi chính bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu
chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của họ mang ánh sáng, phản chiếu ánh sáng
nhận tự nơi Thiên Chúa.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh
sáng hy vọng. Niềm hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa giúp ta vừng bước trên đường
lý tưởng. Niềm hy vọng vào một trời mới đất mới cho ta thêm sức mạnh góp phần
xây dựng xã hội tốt đẹp. Niềm hy vọng vào hạnh phúc thiên đàng giúp ta đánh gía
đúng mức của cải vật chất đời này. Hy vọng là ánh sáng làm tươi đẹp con người
và cuộc đời.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh
sáng tin yêu. Tin yêu Chúa và tin yêu người. Tin yêu để xây dựng một cuộc sống
chan hoà tình người. Tin yêu đẻ tha thứ hoà giải. Tin yêu để vượt qua mọi bóng
tối thù hận, chia rẽ, bất hoà. Tin yêu là làn ánh sáng ấm áp làm cho thế giới
trở nên gần gũi, con người trở nên thân thiện, cuộc đời trở thành đáng yêu đáng
mến.
Người Kitô hữu phải chiếu lên làn ánh
sáng công bình, bác ái. Niềm hy vọng, niềm tin yêu được chứng minh bằng đời
sống công bình, bác ái. Tin Chúa được biểu lộ qua sự công bình trong đời sống.
Yêu Chúa được thể hiện qua tình bác ái với tha nhân.
Tất cả những làn ánh sáng nói trên góp
lại thành ánh sáng đạo đức. Đắm chìm vào vật chất sẽ khiến con người rơi vào
bóng tối tuyệt vọng, không lối thoát. Nghi ngờ con người sẽ khiến cuộc đời chìm
vào bóng tối cô đơn. Thiếu công bình bác ái sẽ phủ lên thế giới mới một bóng
tối phi nhân, tàn nhẫn. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới đủ sức phá tan những bóng
tối ấy. Chỉ có ánh sáng đạo đức mới làm cho thế giới thành vui tươi hạnh phúc.
Thế giới đang mong chờ ánh sao dẫn
đường. Chúa đang mời gọi chúng ta trở thành một ngôi sao chiếu lên làn ánh sáng
đạo đức. Chính qua làn ánh sáng ấy, mọi người sẽ nhận biết và yêu mến Chúa.
Lạy Chúa, xin giúp con sống xứng đáng
là người con của Chúa sự sáng. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Bạn nghĩ gì về cuộc tìm kiếm của Ba
Vua? Bạn có kiên trì tìm Chúa như Ba Vua không?
2. Bạn nghĩ gì về bổn phận làm chứng
cho Chúa? Bạn có mong ước trở thành ngôi sao dẫn đưa mọi người đến với Chúa
không?
3. Đâu là những ánh sáng người Kitô hữu
phải có để dẫn người khác tới Chúa? Trong năm mới này, bạn sẽ làm gì để làm chứng
cho Chúa?
5. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Chính những Lời Chúa dạy là ánh sao
sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở
ngay trong gia đình, trong làng xóm chúng ta.
Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà
chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ
rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc,
nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện
vua Hêrôđê và hỏi: "Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã
thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy
Người," thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2, 2)
Bấy giờ "nhà vua liền triệu tập
tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải
sinh ra ở đâu. Họ trả lời: "Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn
sứ, có chép rằng: "Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải
là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân
Ta sẽ ra đời." (Mt 2, 4-6)
Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh
ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng
Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.
Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi
sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được
nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục
đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Người, tại một nơi nghèo nàn tầm
thường mà ba vị không ngờ trước được.
Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất
hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một
ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa,
như lời Thánh Vịnh: "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng
chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119, câu 105)
Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho
chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? - Ở nơi mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong
nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ !
Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ
ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện Hêrôđê, không ngờ Lời
Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo
lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.
Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ
tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh
Thể, chỉ ngự trong các thánh đường... Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính
gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong
tâm thư gửi các gia đình đã viết: "Thiên Chúa đồng hoá với con người, với
những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người
bạn trăm năm, người con cái trong gia đình."
Qua dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét
cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những
người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn.
Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã
cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú
ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà... Nói như thế, Chúa
Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng
được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người. (xem Mt 25, 31-46)
Khi chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên
Chúa, Phaolô ra tay bách hại các môn đệ của Người dữ dội. Vì thế, ông đã bị
quật ngã trên đường Đamát và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không:
"Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?" Phaolô hết sức kinh hoàng:
"Thưa Ngài, Ngài là ai?" Có tiếng từ trời đáp: "Ta là Giêsu mà
ngươi đang bắt bớ". (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó, Sao-lô (tức thánh
Phaolô tông đồ) mới nhận ra các tín hữu cũng chính là Chúa Giêsu nên người thường
nhắc nhở mọi người ghi tâm khắc cốt lời nầy: "Nào anh em chẳng biết rằng
thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?" (I Cr 6, 15).
Chính những Lời Chúa dạy trên đây là
ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa
đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ
phục vụ và dâng lễ vật cho Người.
Lễ vật của chúng ta không phải là vàng,
nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách
vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ
chung quanh chúng ta. Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha
chờ đợi. Ước gì chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Người.
6. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình
Nhi
Lễ Chúa Hiển Linh là cao điểm của mùa
Giáng Sinh. Ta đã có dịp suy niệm Lời Chúa về ý nghĩa của biến cố Ngôi Hai làm
người sinh xuống và ở giữa nhân loại. Sự hiện diện của Chúa Giêsu trong thế
giới luôn luôn là một dấu chỉ, một ngôn ngữ để Thiên Chúa nói với loài người.
Vậy qua biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa muốn tỏ mình ra, muốn "lộ
diện" với nhân loại, để nhân loại thấy được Thiên Chúa vô hình và kế hoạch
ân sủng của Người (xem Ga 1,18).
1. Vinh quang của Thiên Chúa chiếu tỏa
trên nhân loại (bài đọc Cựu Ước – Is 60,1-6)
Qua cái nhìn của ngôn sứ I-sai-a,
Giêrusalem không còn là thủ đô của dân tộc nhỏ bé Ít-ra-en nữa, nhưng nó đã trở
nên "đô thành của Thiên Chúa" và trung tâm cứu độ của toàn thể thế
giới rồi. Từ bao lâu nay, thế giới nằm dưới ách thống trị của bóng tối và mây
mù tội lỗi. Tình trạng của Giêrusalem cũng không hơn gì thế giới, vì cũng ở
trong tối tăm và chẳng dân tộc nào nhận ra nó. Nhưng khi Giêrusalem được mặt
trời công chính ngự đến thì chỗ đứng của nó hoàn toàn thay đổi. Giêrusalem đã
được chọn làm nơi "vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu tỏa".
Vì thế ngôn sứ kêu gọi Giêrusalem hãy đứng cao lên để toàn thế giới nhận được
ánh bình minh của Đức Chúa. Giêrusalem sẽ chứng kiến tầm quan trọng của nó vì
nó trở nên nguồn sáng lôi cuốn và hướng dẫn toàn nhân loại đến một vương quốc
mới.
Ngôn sứ I-sai-a sử dụng hình ảnh giàu
có phong phú của một quốc gia trần thế để diễn tả một thực tại thiêng liêng là
vương quốc ân sủng của Thiên Chúa. Theo quan niệm Do-thái, một quốc gia hùng
mạnh là quốc gia đông dân cư và giàu sang, với của cải vàng bạc từ các nước
thiên hạ đổ về qua đường biển, hoặc qua đường bộ và chở đầy trên lưng đàn lạc
đà không sao đếm xuể. Hình ảnh ấy tượng trưng cho sự sung mãn ân sủng Thiên
Chúa ban cho nhân loại khi Con Một xuống thế làm người tại Giêrusalem mới. Muôn
dân nước "đều tập hợp, kéo đến" để nhìn nhận "vinh quang của
Thiên Chúa".
Nhưng vinh quang của Thiên Chúa phải
chăng là quyền năng cao cả của Người? Đúng vậy. Tuy nhiên hơn thế nữa, quyền
năng cao cả ấy được biểu hiện qua việc làm yêu thương của Thiên Chúa khi Người
ban cho ta Con Một. "Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ
như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà
chúng ta được sống" (l Ga 4,9). Thiên Chúa có cả một kế hoạch để chiếu tỏa
vinh quang của Người trên Giêrusalem mới, tức là kế hoạch ân sủng được thực
hiện một cách lạ lùng qua Đức Giêsu Kitô và thánh Phaolô Tông đồ gọi đó là Mầu
nhiệm Đức Kitô.
2. Mầu nhiệm Đức Kitô được mặc khải cho
cả Ít-ra-en lẫn dân ngoại (bài đọc Tân Ước – Ep 3,2-3a.5-6)
Thần học gia Phaolô cho ta một cái nhìn
thật rõ ràng về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kế hoạch cứu độ, những từ này
nói lên công việc Thiên Chúa làm và sự rỗi của ta là đối tượng của công việc
ấy. Những từ này nhấn mạnh về phía Thiên Chúa chủ động. Nhưng đối với thánh
Phaolô, việc cứu rỗi không phải là việc làm của mình Thiên Chúa, mà còn phải có
sự đáp trả của ta. Thiên Chúa ban ân sủng cứu độ, nhưng ta là kẻ được lãnh nhận
cần phải cộng tác tích cực, sử dụng ân sủng đó để sống như con cái Thiên Chúa
hầu đạt tới mức sung mãn trong Đức Kitô. Do đó, thánh Phaolô gọi kế hoạch đó là
"kế hoạch ân sủng", vì Đấng ban ân sủng cũng như những kẻ lãnh nhận
ân sủng sẽ cùng cộng tác với nhau mà đến với nhau và làm cho quan hệ đôi bên
được vững bền muôn đời. Ta không thể tưởng tượng nổi tại sao Thiên Chúa lại
chọn cách thế như vậy để đến với nhân loại và cứu độ con người. Quả thực là một
mầu nhiệm! Trong tiếng La-tinh, mầu nhiệm cứu độ thường được gọi là "kế
hoạch cứu độ" (economia salutis). Mầu nhiệm này được Thiên Chúa tỏ ra và
thực hiện qua Đức Kitô nên thánh Phaolô gọi là "Mầu nhiệm Đức Kitô".
Thánh Phaolô cho ta một định nghĩa đầy
đủ về mầu nhiệm này. "Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin
Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm
thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa" (Ep 3,6).
Vậy Thiên Chúa muốn tỏ cho ta biết
những gì qua "Mầu nhiệm Đức Kitô"? Có ba điểm cốt yếu trong chân lý
mầu nhiệm này. Trước hết Thiên Chúa muốn mọi người không trừ ai, Do-thái cũng
như dân ngoại, đều được cùng hưởng phần phúc gia nghiệp của Người, tức là lời
hứa được cứu độ. Mầu nhiệm Đức Kitô khẳng định tính cách phổ cập của ơn cứu độ.
Dù thuộc bất cứ dân tộc nào, nền văn hóa nào, hoặc giai cấp nào trong xã hội
mọi người đều được mời gọi đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa, vì đây là kế
hoạch ân sủng dành cho tất cả nhân loại. Nhờ chia sẻ cùng một bản thể nhân loại
với Đức Kitô nên ta được mời gọi lãnh ân sủng Thiên Chúa ban cho ta trong Đức
Kitô.
Điểm thứ hai mầu nhiệm Đức Kitô cho ta
thấy vai trò quan trọng của Đấng thực hiện kế hoạch ân sủng là Đức Kitô Giêsu.
Thiên Chúa không đặt kho tàng ân sủng cứu độ ấy ở trên trời hay một địa điểm
đặc biệt nào đó dưới thế gian, vì như thế làm sao con người có thể tìm kiếm
được. Nhưng Người đặt nguồn ơn cứu độ ấy "trong Đức Kitô Giêsu", Đấng
được Chúa Cha sai đến "làm người để chuộc tội cho thiên hạ" (Rm 8,3).
Đức Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm, cho nên khi Đức Kitô thực hiện kế
hoạch ân sủng cứu độ qua bản thể nhân loại và bản thể Thiên Chúa của Người, thì
tất cả những lời giảng, việc làm, cái chết và sự phục sinh của Người đều có giá
trị của Thiên Chúa và có khả năng cứu độ mọi người. Người chịu cuộc Thương Khó,
chết và sống lại, để được Thiên Chúa tôn vinh và đặt làm anh cả của một đoàn em
đông đúc, tức là nhân loại mới (Rm 8,29).
Điểm thứ ba nói lên phương thức giúp
mọi người nhận biết và tin vào Đấng Cứu Độ. Đó là "nhờ Tin Mừng". Tin
Mừng cứu độ này "những người thuộc các thế hệ trước", tức là các vị
ngôn sứ thời Cựu Ước, không có diễm phúc biết tới. Chỉ có các thánh Tông đồ mới
là những người được biết và được Thiên Chúa trao phó cho nhiệm vụ rao giảng Tin
Mừng ấy. Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phaolô nói về sứ vụ rao giảng Tin
Mừng như sau: "Thế nhưng làm sao người ta kêu cầu Đấng họ không tin? Làm
sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng?
Làm sao mà rao giảng, nếu không được sai đi?... Nhưng không phải mọi người đều
đã vâng theo Tin Mừng; chính ngôn sứ I-sai-a đã nói: Lạy Đức Chúa, ai đã tin
khi nghe chúng con giảng? Ấy vậy, có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng
là nghe công bố lời Đức Kitô" (Rm 10,14-17).
3. "Từ phương Đông chúng tôi đến
bái lạy Người" (bài Tin Mừng – Mt 2,1-12)
"Nhưng không phải mọi người đều đã
vâng theo Tin Mừng", thánh Phaolô đã phải cay đắng nói lên sự thật phũ
phàng ấy. Thánh Gio-an Tông đồ cũng đồng quan điểm khi ngài khẳng định ngay
trong lời tựa sách Tin Mừng: "Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng
chịu đón nhận" (Ga 1,11). Câu truyện các nhà chiêm tinh phương Đông đến
bái lạy Hài Nhi Giêsu trong khi vua Hê-rô-đê bối rối và dân thành Giêrusalem
xôn xao đã chứng thực điều các thánh Tông đồ khẳng định là một sự thật. Chúa
Giêsu Kitô được sai đến để cứu độ mọi người và mọi người được mời gọi đón nhận
Người, đó là một tin mừng. Nhưng người ta từ chối không tin nhận Người là Đấng
Cứu Độ. Như thế Tin Mừng đã trở thành tin buồn đối với họ rồi.
Rõ ràng có hai lớp người khác nhau theo
câu truyện trong bài Tin Mừng. Các nhà chiêm tinh đại diện cho những người tin
vào Đức Kitô, còn vua Hê-rô-đê và dân Giêrusalem thay mặt cho những kẻ chối bỏ
Đức Kitô. Gặp được Đức Kitô, các nhà chiêm tinh đã thay đổi cuộc đời mình. Hình
ảnh các ông "đi lối khác mà về xứ mình" thật có ý nghĩa. "Lối
khác" đây chính là con đường Đức Kitô dạy trong Tin Mừng của Người. Còn
"xứ mình" không phải là phương Đông nữa, mà là quê hương đích thực
của họ, tức nhà Cha trên trời.
Bài Tin Mừng là một kết luận của Phụng
vụ Lời Chúa hôm nay, đặt ta trong tư thế phải trả lời dứt khoát: tin Đức Kitô
và đón nhận ân sủng cứu độ, hay là chối bỏ Người và hư mất đời đời.
4. Sống Lời Chúa
Thiên Chúa yêu thương ta và muốn tỏ cho
ta biết Người yêu thương ta đến ngần nào. Qua biến cố Giáng Sinh của Chúa
Giêsu, Thiên Chúa cho ta biết Người là ai và muốn làm gì để ta được làm con cái
Người và được cứu độ. Điều đáng mừng nhất, đó là ơn cứu độ đã được ban cho mọi
người không trừ ai. Dĩ nhiên ta không phải là người Do-thái, nhưng cũng không
bị loại bỏ, trái lại được quyền đến chia sẻ cùng một gia nghiệp của Thiên Chúa.
Nhưng điều quan trọng là ta có thực lòng và hăng hái đón nhận Đức Kitô như các
nhà chiêm tinh phương Đông hay không.
Suy nghĩ: Các nhà chiêm tinh "đã
đi lối khác mà về xứ mình". Các vị ấy đã từ bỏ lối sống cũ để đi theo lối
sống của Đức Kitô. Vậy lối sống cũ của tôi là lối sống nào? Ngôi sao tức là Ánh
Sáng Tin Mừng đã soi lối cho tôi bước đi. Vậy tôi có đi theo Ánh sao ấy không
hay vẫn "đường xưa lối cũ" từ bao năm nay?
Cầu nguyện: Lạy Chúa, hôm nay Chúa đã
khiến ngôi sao chỉ đường mà mặc khải cho muôn dân nhận biết Con Một Chúa. Phần
chúng con đã nhận biết Chúa nhờ đức tin dẫn lối đưa đường, xin dủ lòng thương
đưa chúng con về chiêm ngưỡng Thánh Nhan vinh hiển. Chúng con cầu xin nhờ Đức
Kitô, Chúa chúng con. Amen. (Lời Nguyện Nhập Lễ, Lễ Chúa Hiển Linh).
7. Cuộc hành trình đức tin
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn
Tiếng)
TỪ MỘT VÌ SAO LẠ...
Có ba thái độ khác nhau khi con người
phát hiện ra một vì sao lạ:
Thái độ Thành Tâm Thiện Chí của các nhà
chiêm tinh. (thường gọi Ba Vua)
Khi phát hiện ra một vì sao lạ, các nhà
chiêm tinh từ phương Đông đã đến Giêrusalem để tìm "Đức Vua dân Do
Thái".
"Vào thời đó mọi người đều tin vào
khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ
cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người
ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định,
chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất
hiện, nếu trật tự của từng trời bị dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì
dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một
sự việc nào đó." (William Barclay).
Lịch sử cho thấy, vào thời điểm Chúa
Giêsu giáng sinh, trong thế giới lúc ấy cũng có sự chờ mong một vị vua sẽ đến.
Như ở Roma, sử gia Suetonius đã viết: "Khắp phương Đông có một niềm tin là
vào thời đó, nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế giới",
(Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng đã viết: "Có một
xác tín rằng trong chính thời gian này, phương Đông trở nên hùng mạnh và những
người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu" (Tacitus, Biên
niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: "Vào khoảng thời gian đó, một người
trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất" (Josephus, Những
cuộc chiến tranh của người Do Thái 6,5)...
"Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian
đang thiết tha trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao
khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể tạo được thời đại
hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang
khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất
đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu
chinh phục thế giới." (William Barclay).
"Đức Vua dân Do-thái mới sinh,
hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên
chúng tôi đến bái lạy Người." (Mt.2,2).
Họ bái lạy với trọn vẹn lòng thành sau
cuộc hành trình xa xôi vất vả. Niềm tin vào "Đức Vua dân Do Thái mới sinh
ra" là hoàn toàn chân thật và họ đã dâng lên Hài Đồng Giêsu những lễ vật
tượng trưng sự cao trọng và ý nghĩa nhất dành cho Đấng Cứu Thế.
"Vàng là để tặng vua, nhũ hương
tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của
các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý
nghĩa Ngài là vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết, Ngài là Đấng Cứu
Thế cao cả của loài người" (William Barclay).
Thái độ Ganh Ghét và Thù Địch của vua
Hêrôđê.
"Con vua thì được làm vua. Con sãi
ở Chùa thì quét lá đa".
Vua nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của
mình, và cho con cháu sau này. Nên khi nghe nói có một hài nhi sinh ra sẽ là
vua thì tất nhiên vua nào cũng lo lắng. Nhưng, đối với con người của Hêrôdê,
thì sự lo lắng càng dữ dội hơn nữa, vì cá tính đầy tham vọng của ông.
Lịch sử cho biết ông là một người đa
nghi. Về điểm này, ông rất giống Tào Tháo. Sẵn sàng giết chết bất cứ ai mà ông
nghi làm tổn hại đến quyền hành của ông. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ
nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander,
Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus cay đắng nói rằng:
"Làm con heo của Hêrôdê còn an toàn hơn làm con trai ông ta".
Một con người đầy tham vọng như vậy làm
sao có thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua Tình Thương.
Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi
Giêsu.
Thái độ Dửng Dưng như không hay biết gì
của các thượng tế và kinh sư.
"Nhà vua liền triệu tập tất cả các
thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở
đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng:
Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của
Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời."
(Mt. 2,4-6).
Các thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần
Kinh Thánh, nhưng rõ ràng thái độ của họ xem những gì nói đến trong Kinh Thánh
như những chuyện huyền thoại xa xưa không dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi,
có hay không có Giêsu cũng không thành vấn đề gì đối với họ.
Họ đang no đầy những lợi lộc và cả
quyền lực. Họ không thể thay đổi con đường của họ đang đi. Họ bằng lòng với
những gì đang có, cuộc sống của người khác mặc họ. Một Đấng Cứu Tinh không như
ý họ thì cần gì phải quan tâm đến.
... ĐẾN VÌ SAO THÁNH GIÁ
Ở quê tôi, tôi quen biết một anh công
giáo rất tốt. Anh thường xuyên đi lễ ngày thường, và giúp nhiều việc nhà thờ.
Nhưng sau 1975, anh không đến nhà thờ nữa. Một ngày kia, sau khi nhận một chức
vụ lớn ở xã, anh dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh đang để nơi trang trọng nhất
giữa nhà. Bước vào nhà anh, không còn dấu vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn
năm làm việc, rồi anh cũng đã quay về, dựng lại bàn thờ xưa. Đường công danh
thấy cũng không đến đâu.
Ở quê tôi, có một anh cũng có một chức
vụ quan trọng. Anh này không chỉ xoá dấu vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng
định mình đã đoạn tuyệt với Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh
ta đã kích Đạo dữ lắm. Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và
ngồi cùng bàn với anh ta, và được một người giới thiệu danh tánh và chức vụ của
anh. Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh mì và nói: "Này là mình
ta...", rồi anh cầm lấy ly rượu, nói tiếp: "Này là máu ta...".
Vị linh mục và tôi bước ra khỏi bàn ...Sau này, anh mất chức. Nghe nói có một
người có chức vụ lớn đã nói về anh ta: "Là một người Công Giáo được dạy dỗ
từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có thể tin anh sẽ là người
trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một tổ chức nào đó
không?".
Đã hơn hai ngàn năm qua,
Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta vẫn mời gọi con người đến với Ngài sau
khi Ngài đi bước trước là "đã đến với nhân loại". Tình yêu không thể
đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con người cần có thành tâm thiện chí để
đến với Ngài.
Thành tâm thiện chí như các đạo sĩ
phương đông. Không ngừng tìm hiểu dấu chỉ của Thiên Chúa (khám phá ra vì sao
lạ). Hành trình Đức Tin (tìm đến với Thiên Chúa). Vượt qua mọi thử thách (khi
vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy Chúa hết lòng (dâng lễ vật) và luôn biết khôn
ngoan để bảo vệ niềm tin (đi con đường khác trở vể quê hương).
Xem đó, chúng ta thấy cần có một con
tim yêu thương mãnh liệt để đáp lại tình yêu vô bờ bến mà Thiên Chúa đã dành
cho con người.
Nếu không, tiền, tình, danh vọng; tham,
sân, si, sẽ là những chướng ngại vật, những rào cản tách con người xa lìa Thiên
Chúa, chống lại Thiên Chúa, hờ hững với Thiên Chúa.
Chúng ta có thể tìm thấy trong thế giới
hôm nay hình ảnh những Hêrôđê, những thượng tế và biệt phái thời đại, và có
khi, chúng ta cũng tìm thấy những hình ảnh ấy ở trong chính ta.
Tôi nhớ ngày xưa có lần tôi xem một câu
truyện cổ tích.
Câu chuyện kể về một mối tình thật đẹp
của một đôi nam nữ. Nhưng một bà phù thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên
ương ấy, bà hô lên lời nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê
rợn và chỉ trở lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn
thẳng vào đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy để
giải lời nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài thú hoang
dã, không còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm lánh xa cô gái. Cô
gái không hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu bổng dưng bỏ cô đi
đâu biền biệt.
Một bà tiên hiền lành đã thương tình
muốn cứu chàng trai và trả lại tình yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và
trao cho cô một "viên ngọc dẫn đường" để cô đi tìm người yêu. Cô đặt
viên ngọc trước mặt, nó lăn đi qua muôn nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái
đáng thương cứ bám theo viên ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc
hành trình không có điểm hẹn, không có giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô
bỏ cuộc. Có lúc tưởng như cô không còn đủ sức đứng lên.
Cuối cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp
một dòng suối, cô cố gắng cúi xuống uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động
bên bờ suối. Tiếng muôn thú trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội
nghiệp không hay biết gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.
Cô tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót
líu lo hòa vang khúc nhạc ngày mới. Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những
sợi tơ vàng óng ánh quanh cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng
nỗi sầu trong lòng cô vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô
không biết phải đi đâu nữa.
Chợt cô nghe tiếng vỡ gẫy của những
nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn lại, phía sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một
bóng hình đen đúa như ma quái. Một con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô
không còn sức nữa, cô ngã xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định
chạy nữa, rồi lại té xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy
sợ hãi. Con vật vẫn còn đó. Nó đứng im.
Cuối cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn về
con quái vật. Lúc này, cô thấy rõ đó là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có vẻ
gì hung dữ. Nó không có vẻ gì đang muốn hãm hại cô.
Con dã nhân tiến lại gần cô. Những ngày
tháng đi theo "viên ngọc dẫn đường", cùng với những giây phút sự sợ
hãi hôm nay đã làm cô kiệt sức. Cô đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã
nhân đang tiến lại mỗi lúc một gần cô hơn. Gần hơn... rất gần. Mắt cô nhìn
thẳng và đôi mắt nó.
Trong khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô
ngỡ ngàng nhận ra một ánh mắt thật quen không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào
khác. Cũng trong khoảnh khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang
đứng trước mặt.
Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe
sáng lên và biến mất.
Nếu Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao
lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến Hang Đá thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay,
vì sao Thánh Giá dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ
Thiên Chúa và xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ.
Cuộc hành trình này còn đầy gian nan
thử thách. Còn đòi hỏi nhiều hy sinh. Không có tình yêu thánh giá, con người
không thể nào đi đến bến bờ đoàn tụ yêu thương.
Lạy Chúa,
Xin cho mọi người nhận ra một vì sao
lạ:
-"Vì sao Thánh Giá"
tỏa sáng muôn nơi,
khắp mọi phương trời,
dẫn đưa con người,
về miền đất hứa:
-"Thế giới đệ huynh
anh em một nhà,
Thiên Chúa là Cha." Amen.
8. Ánh sáng và bóng tối – Thiên Phúc
Nhà đại thiên văn Kepler khám phá ra
rằng vào năm Chúa Giáng Sinh, có một hiện tượng bất bình thường xảy ra giữa các
vì sao. Ông nói về hai ngôi sao Jupiter và Saturn rằng, bình thường chúng vẫn
quay cách đều nhau, năm đó chúng sáp lại gần nhau đến độ ánh sáng của ngôi sao
này cộng hưởng với ánh sáng của ngôi sao kia, tạo ra một luồng sáng khác thường
và kéo dài đến cả mấy tháng.
Phải chăng đó chính là ngôi sao lạ đã
dẫn đường cho Ba Vua tìm ra Chúa Hài Nhi?
"Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện bên phương Đông" (Mt 2,2). Người xưa cho rằng ngày ra đời
của các vĩ nhân thường được báo hiệu bằng sự xuất hiện của các ngôi sao lớn.
Các chiêm tinh gia thường nghiên cứu chuyển động của các vì tinh tú để đoán
biết định mệnh con người. Vì thế, khi nhìn thấy ngôi sao lạ, các đạo sĩ đã nhận
ra sự sinh hạ của Đấng Cứu Thế, Vua dân Do thái.
Quả thật, người Do thái đã trông đợi
Đấng Cứu Tinh từ bao thế kỷ, Đấng ấy được ví như một vì sao từ Giacóp, như có
lời trong Kinh Thánh: "một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp, một vương trượng
trỗi dậy từ Ít-ra-en" (Ds 24,17). Tiên tri Mikha cũng đã tiên báo:
"Hỡi Bêlem Épratha, ngươi nhỏ bé nhất trong các thị tộc Giuđa, từ nơi
ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một vị có sứ mạng thống lãnh Ítraen" (Mk 5,1)
Nếu Thiên Chúa đã dùng cột mây cột lửa
để hướng dẫn dân Do thái đi trong hoang địa về đất hứa, thì Người cũng có thể
dùng ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ đến Bêlem để gặp Đấng Cứu Tinh.
Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu:
là khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Do thái lại thờ ơ lãnh
đạm, các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh
Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai
vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng
hái lên đường, hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và
khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không
uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái
kiến và dâng lễ vật quý giá với tất cả tấm lòng thành.
Sau này, Chúa Giêsu đã phải thốt lên:
"Từ phương đông phương tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời. Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ
bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài" (Mt 8,11-12)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân
ngoại, nhắc chúng ta đến việc truyền giáo.
Nhờ ngôi sao lạ mà các đạo sĩ đã tìm ra
Đấng Cứu Thế; chúng ta cũng hãy là những ánh sao sáng thu hút những tâm hồn
đang khao khát tìm kiếm Chúa.
Nếu con người đang đi trong bóng tối
của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và
yêu thương.
Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng
tối của buồn phiền, thất vọng; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an
bình và hy vọng.
Nếu Chúa đã gọi: "Chúng con là ánh
sáng thế gian" (Mt 5,14), thì đó là một vinh dự vô cùng lớn lao, nhưng
cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Chúng ta đừng chỉ lo nguyền rủa bóng
tối, nhưng hãy dấn thân thắp lên những ngọn nến sáng: Nến sáng của tin yêu và
hy vọng, của bác ái và vị tha, để cả trái đất này tràn ngập ánh sáng tình yêu
Chúa.
9. Tìm gặp Chúa
Với lễ Giáng sinh, chúng ta nhận thấy
Thiên Chúa đã làm người và ở giữa chúng ta để chúng ta có thể gặp gỡ Ngài. Gặp
gỡ Ngài không phải chỉ ở trong đền thờ nguy nga, mà còn gặp gỡ Ngài nơi những
con người bình thường. Ngài đó, một Hài nhi bé nhỏ, nằm trong máng cỏ ngoài
đồng vắng Bêlem. Đồng thời, không phải chỉ có một hạng người nào đó mới có
quyền được gặp gỡ Ngài, mà ngay cả những kẻ tầm thường như những trẻ mục đồng
cũng có thể gặp gỡ Ngài.
Để niềm vui của Chúa Giêsu được trọn
vẹn, lễ Hiển Linh hôm nay đã gợi lên cho chúng ta một xác tín mới: Thiên Chúa
không phải chỉ đến với dân Do Thái, mà còn đến với cả những người từ phương
Đông, nghĩa là những người không thuộc về dân riêng của Chúa, những người vẫn
bị liệt vào hàng dân ngoại.
Xác tín này đã được thánh Phaolô diễn
tả một cách rõ ràng trong bức thư gởi tín hữu Ephêsô: Nhờ Tin Mừng, các dân
ngoại được nên đồng thừa tự, cùng một thân thể và cùng thông phần với lời hứa
của Ngài trong Đức Giêsu Kitô.
Với lễ Hiển Liên, Thiên Chúa đã đến với
tất cả mọi người, Ngài phá đổ những hàng rào tạo nên sự kỳ thị: Kỳ thị tôn
giáo, kỳ thị giai cấp, kỳ thị màu da, kỳ thị tiếng nói. Thực sự thì đó chỉ là
những hàng rào do chính con người dựng lên để bảo vệ những quyền lợi cho riêng
mình.
Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa của tất
cả, và điều Ngài ước mơ vẫn là tập hợp muôn dân nước dưới ánh sáng của Ngài.
Ngài đã đến với chúng ta, nhưng điều quan trọng đó là chúng ta có tiến tới để
gặp gỡ Ngài hay không? Bàn tay Ngài đã giơ ra, nhưng điều quan trọng đó là
chúng ta có nắm lấy để được cứu vớt hay không, bởi vì như lời thánh Augustinô
đã nói:
- Khi tạo dựng nên chúng ta Chúa không
cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài đòi chúng ta phải ưng
thuận và cộng tác với Ngài.
Sự thực đã cho chúng ta thấy: Ánh sáng
đã chiếu trong u tối, nhưng u tối lại không tiếp nhận ánh sáng. Ngài đã đến nhà
Ngài, nhưng những người thân thuộc đã không tiếp nhận Ngài.
Thực vậy, Ngài đã đến nhưng không phải
tất cả mọi người đều tới gặp gỡ Ngài. Một Hêrôđê cũng đã ngỏ ý muốn đến triều
bái Ngài nhưng với một âm mưu thâm độc, ông muốn giết hại Ngài để được ngồi mãi
mãi trên chiếc ngai vàng của ông. Các luật sĩ và tư tế thì lại thoả mãn với
những hiểu biết của mình, để rồi chẳng biết lên đường tìm gặp Ngài? Còn dân
thành Giêrusalem thì lại ngại đổi thay và chuyển biến.
Để đến với Chúa, chúng ta cần phải lên
đường như ba nhà đạo sĩ phương Đông, không phải trong tối tăm mò mẫm, bởi vì
chúng ta luôn có ánh sao lạ, đó là Tin Mừng, thập giá và sự phục sinh của Ngài
soi đường dẫn lối.
Lễ Giáng sinh và lễ Hiển Linh chính là
một cuộc gặp gỡ. Thiên Chúa đến với con người và con người nhận biết Ngài nơi
hài nhi Giêsu.
Như các nhà đạo sĩ phương Đông, mỗi
người chúng ta cũng được mời gọi lên đường đến với hài nhi Giêsu. Lên đường ở
đây có nghĩa là từ bỏ những bảo đảm để tiến tới phía trước. Ngài đến trong
những cái bất ngờ của những sự kiện diễn ra trong cuộc sống thường ngày. Tuy
nhiên chúng ta có sẵn sàng lên đường, đi theo ánh sao là Tin Mừng của Chúa hay
không?
10. Tỏ mình
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay đều
qui về một điểm chính là: "Thiên Chúa mạc khải chính Ngài cho tất cả mọi
người", không phân biệt ai, cho dù người Do thái hay kẻ ở ngoài Kitô giáo,
như các đạo sĩ từ Phương đông đến. Nhưng đáp lại, không phải tất cả mọi người
đều đáp lại ơn Chúa mà chấp nhận từ bỏ cuộc sống của mình, từ bỏ cuộc sống theo
tính hư nết xấu của mình để đến gặp và sấp mình khiêm tốn thờ lạy Chúa. Thiên
Chúa mạc khải cho con người, cho tất cả mọi người bằng nhiều cách khác nhau.
Các bài đọc trong thánh lễ hôm nay,
nhất là bài Phúc âm trình bày cho chúng ta thấy hai con đường, hai thái độ đáp
trả lời mời gọi của Thiên Chúa. Con đường thứ nhất là con đường mạc khải chính
thức trong lịch sử cứu độ do Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của dân Chúa.
Con đường thứ hai có thể nói là con đường tự nhiên qua các biến cố xảy ra trong
thiên nhiên, trong vũ trụ, trong sinh hoạt hàng ngày của con người. Và chúng ta
cũng nhìn thấy hai thái độ chấp nhận của các đạo sĩ từ phương xa và thái độ từ
chối lơ là không màng chi đến việc đón nhận Chúa như vua Hêrôđê và các thầy thượng
tế tại Giêrusalem.
Kinh Thánh đã chỉ cho họ biết, và họ
thuộc lòng Kinh Thánh để biết rằng: Con Thiên Chúa sẽ Giáng sinh tại Belem,
nhưng họ lơ là hoặc quá say mê hưởng thụ những lợi lộc vật chất mà không chấp
nhận từ bỏ, không chấp nhận ra đi đến nơi Thiên Chúa chờ sẵn để gặp họ, để gặp
Con Người. Tệ hơn nữa, vua Hêrôđê lại sợ rằng Chúa đến để chiếm lấy quyền của
ông, làm cho ông mất danh vọng, mất quyền hành, mất địa vị. Chính vì thế mà ông
đã ngấm ngầm muốn hại Chúa, nên ông đã cho triệu tập riêng các đạo sĩ lại để
hỏi cặn kẽ về ngày giờ, để rồi như chúng ta đã biết là sau đó, khi vua Hêrôđê
đã thấy các đạo sĩ không trở lại với mình nữa, thì nhà vua đã tức giận và ra
lệnh giết tất cả các hài nhi trong vùng, trong khoảng từ hai tuổi trở xuống.
Ông hy vọng rằng trong số các hài nhi bị giết chết đó có Con Thiên Chúa, có
Đấng mà người ta gọi là Đấng Thiên sai, Đấng đến để hướng dẫn dân tộc Do thái,
để cứu rỗi nhân loại.
Mừng lễ ba vua hôm nay hay nói được là
lễ Hiển linh, lễ Chúa tỏ mình ra cho các dân tộc, cho tất cả mọi người. Lễ này
chúng ta có thể nói là bổ túc cho lễ Giáng sinh mà chúng ta đã mừng trước đây.
Lễ Giáng sinh nhìn trên một phương diện
nào đó chúng ta có thể nói đó là lễ Chúa mạc khải chính mình Chúa, Chúa đến với
dân tộc của Ngài là dân tộc Do thái, và lễ Hiển Linh là Chúa đến với dân tộc
ngoài Do thái, với tất cả mọi người và cách thức Chúa đến với họ khác với điều
họ mong ước. Chúa đến với họ bằng một đứa trẻ mới sinh nghèo hèn, không ai chấp
nhận. Chúa đến với họ trong nghèo hèn, trong khiêm tốn, trong âm thầm ngoài
tưởng tượng của những người đáng lẽ ra phải nhận biết Chúa như vua Hêrôđê, các
đạo trưởng, luật sĩ trong dân Do thái thời đó.
Thiên Chúa dùng mọi phương thế, mọi con
đường, để đến với mọi người ở trong cũng như ở ngoài Giáo Hội Chúa. Con đường
của mạc khải Lời Chúa qua lời giảng dạy của Giáo Hội cũng như con đường của các
biến cố trong thiên nhiên, trong cuộc sống hằng ngày để nhắc chúng ta rằng,
Ngài đang đợi ở nơi đó, Ngài đã hẹn trước với chúng ta để mong gặp chúng ta. Nhưng
chúng ta có đáp lại lời mời gọi của Chúa hay không? Ta có đủ can đảm như các
nhà đạo sĩ thực hiện một cuộc phiêu lưu từ bỏ nếp sống hưởng thụ vật chất, từ
bỏ ngôi nhà vinh quang để đi gặp Chúa hay không?
Trở về cách đây hơn 2000 năm thì chúng
ta thấy rằng, phương tiện di chuyển thời đó đường xa và không có nơi cư ngụ
tiện nghi như ngày nay. Và để đi đường xa như vậy, từ một vùng đất xa lạ đến
một xa lạ khác, và đi tìm một con người mà không ai trong ba nhà đạo sĩ này có
thể biết trước là ở đâu, thì các vị đạo sĩ này hẳn đã phải cố gắng thật nhiều,
và có lòng can đảm khác thường để liều lĩnh chấp nhận những cuộc hành trình và
đích điểm còn mơ hồ chưa xác định được. Các ngài đã chứng tỏ cho chúng ta thấy
là ơn Chúa đã chiến thắng nơi các ngài. Để lên đường đi tìm Chúa, các ngài đã
can đảm chấp nhận những hy sinh, những liều lĩnh, cốt sao là tìm được trẻ thơ
như trong giấc chiêm bao.
Nhìn về mỗi người chúng ta, chúng ta
cũng có thể nói: mỗi người chúng ta đã được Thiên Chúa dựng nên để hướng về
Ngài, tâm hồn luôn khao khát hướng về Thiên Chúa và khi Thiên Chúa cho ta biết
Ngài đến gặp gỡ chúng ta, muốn gặp ta qua những biến cố trong cuộc sống hàng
ngày, thì liệu chúng ta có đủ can đảm chấp nhận hy sinh như các nhà đạo sĩ để
ra đi để gặp gỡ Chúa hay không? Chúa đến với chúng ta, Chúa tìm chúng ta trước
với những ơn lành của Ngài, những ơn soi sáng trực tiếp cũng như dấu chỉ mời
gọi xảy ra trong cuộc sống, trong lịch sử của chính chúng ta cũng như lịch sử
của dân tộc, của quốc gia và cả trong những biến cố lịch sử thế giới.
Thiên Chúa đi tìm con người để đưa con
người trở về với Ngài. Nhưng mỗi người chúng ta có thành tâm thiện chí, có can
đảm đủ để nhìn ra những dấu chỉ, những lời mời gọi của Chúa hay không? Hay
chúng ta nuôi dưỡng những thiện chí đó trong suốt cuộc hành trình giữa những
khó khăn mà chúng ta gặp phải hoặc chúng ta bỏ dở nửa chừng vì những khó khăn
đủ loại cản bước chúng ta tìm Chúa. Hay chúng ta sợ Chúa đến tách mất khỏi
chúng ta những lợi lộc vật chất, những vinh quang, những uy quyền mà chúng ta
đang hưởng như vua Hêrôđê.
11. Thông điệp
Thông thường mỗi sự kiện quan trọng
trong đời sống đều nói đến một thông điệp nào đó. Chẳng hạn, như lụt lội hoành
hành là sự trả thù của thiên nhiên đối với sự phá phách môi trường của con
người. Tình trạng bạo hành hiện nay trên thế giới là kết quả của một lối sống
buông thả, chọn tự do và quá đề cao bản ngã cá nhân. Vấn đề quan trọng là phải
đọc được nội dung của thông điệp đó. Nội dung này đôi khi ẩn dấu rất khó khám
phá, nhưng không vì thế mà không có những dấu chỉ để khi xem thì người ta thấy
chứ không phải xem để mà xem.
Do đó, xem một sự kiện và thấy ý nghĩa
của nó chính là một yêu cầu của mỗi người chúng ta khi nhìn xem những dấu chỉ
thời đại. Những điều này cũng đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm trên đất nước
Palestin vào thời Đức Giêsu sinh ra và các đạo sĩ đã thấy được nội dung thông
điệp khi nhìn xem ngôi sao lạ tại phương đông.
Các đạo sĩ đã xem thấy ánh sáng.
Các đạo sĩ đông phương những bậc thông
thái về bói toán, y học, chiêm tinh và giải mộng. Họ không phải là người Do
thái nhưng là dân ngoại. Họ đã lên đường tìm đến Giêrusalem để "bái lạy
Người". Họ đã thấy gì? Họ đã thấy "vì sao của Người xuất hiện bên
phương đông". Điều mà họ thấy là Hài Nhi mới sinh chính là Vị Cứu Tinh (Đấng
Mêssia) mà dân Do thái từ lâu mong đợi. Hơn nữa, họ cũng thấy một vương quyền
toàn cầu từ nơi Hài Nhi này. Tức là điều mà họ thấy là Thiên Chúa cứu độ đã tỏ
mình ra, đã hiển linh cho thế giới, Người là Đấng đến cứu người tội lỗi, Người
là ánh sáng huy hoàng bừng lên cho đoàn người đi trong đêm tối. Người là Đấng
Mêssia được xức dầu để loan báo Tin Mừng. Những điều này có lẽ Hêrôđê và dân
thành Giêrusalem không biết.
Ánh sáng Chúa Kitô không làm cho người
ta ngạc nhiên, nhưng để người ta thấy sứ mệnh của Ngài: Ánh sáng đó là để chiếu
soi muôn dân.
Ánh sáng chiếu soi muôn dân.
Chính Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe nói
lên cho chúng ta rằng có một sự biểu lộ đồng thời về sự phổ quát của ơn cứu độ
và sự tập hợp mọi người trong ánh sáng Chúa Kitô, vì không ai bị loại bỏ khỏi
Vương quốc của Người.
Chúa Giêsu không phải của dân Do thái.
Người cũng không phải của riêng ai. Chúa Giêsu là của mọi người. Người là ánh
sáng chiếu soi muôn dân. Vì thế, cụ già Simêon đã chào mừng Đức Giêsu như
"Ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israen dân
Ngài". Người chính là Lời của Thiên Chúa, là sự sống và là ánh sáng cho
con người, là ánh sáng đích thực chiếu soi mọi người khi Người đến trong thế
gian. Ánh sáng đã đến thế gian và đẩy lùi bóng đêm của sự dữ và tội lỗi. Các
đạo sĩ đã nhận ra ánh sáng chỉ Đấng Cứu Tinh, họ đã theo ánh sáng và đã gặp
được Đức Giêsu. Ánh sáng này còn biểu trưng cho ân sủng, tác động của Thiên
Chúa trong tâm trí mọi người, và hướng dẫn mọi người đến với Đức Kitô. Vâng,
Thiên Chúa đã âu yếm nhìn các nhà đạo sĩ ngoại giáo đang tiến về Đức Giêsu.
Trong cuộc đời của mỗi người chúng ta, cũng có ân sủng đang hướng dẫn chúng ta
tìm kiếm Đức Giêsu. Mỗi người chúng ta có can đảm đi theo ân sủng đó hay không?
Hãy bước theo ánh sáng.
Vậy đâu là dấu chỉ ngày nay để chúng ta
nhận ra ánh sáng, ân sủng, và sự can thiệp của Chúa trong cuộc đời? Điều gì cho
phép chúng ta và cũng làm cho chúng ta bắt đầu một cuộc mạo hiểm thiêng liêng
như các đạo sĩ năm xưa?
Quả thật, đây là vấn đề ám ảnh mọi
người lo âu tìm kiếm chân lý. Các đạo sĩ đã được ngôi sao hướng dẫn đến
Giêrusalem, như những đại diện của các quốc gia được thu hút bởi ánh sáng vinh
quang của Đấng Toàn năng mà ngôn sứ Isaia đã nhắc tới. Một cách tương tự, 2000
năm sau, những dấu chỉ mà chúng ta cảm nhận hướng dẫn chúng ta đến với Lời Chúa
được gìn giữ bởi Giáo Hội và được mạc khải bởi sự chăm sóc mọi thời.
Các đạo sĩ đã biểu lộ sự khao khát tìm
kiếm chân lý với thái độ đầy ý nghĩa. Nhìn thấy ngôi sao, họ biết được dấu chỉ
chất chứa nội dung thông điệp. Họ sẵn sàng bỏ lại quá khứ và lên đường tìm
kiếm. Nhờ vào Lời Chúa với những cố gắng vượt qua những thử thách, họ đã tiếp
cận với chân lý tại Bêlem. Nếu các bạn dám mạo hiểm, liều mình theo Lời Chúa,
thì các bạn sẽ gặp được niềm vui như các đạo sĩ năm xưa. Sau khi vượt qua dấu chỉ
đầu tiên đến sứ điệp phổ quát, một hòa điệu sẽ được khám phá giữa thông điệp
ánh sáng của Chúa và kinh nghiệm của đời sống thường nhật. Có như thế, chúng ta
mới có thể nhận biết Đấng hiện diện ngay trong chính đời sống của chúng ta.
Như thế, qua việc đọc Lời Chúa chúng ta
sẽ thấy, sẽ khám phá, sẽ hiểu được dấu chỉ. Dấu chỉ đó có thể là một hài nhi
đang nằm trong máng cỏ hay là một con người bị thất bại đau thương trên thập
giá; đó cũng có thể là một người lang thang không nhà ở, đang gặp đau khổ cần
sự giúp đỡ. Nhưng đó chính là chân lý, là nguồn hạnh phúc của chúng ta, vì đó
là dấu chỉ sự hiện diện và thông điệp của ánh sáng.
Ánh sáng dịu êm! Xin hướng dẫn chúng
con từng bước, từng bước một thôi để đến với Ngài. Và một khi đến và gặp gỡ
Ngài xin cho cuộc đời chúng con cũng được biến đổi và trở thành ánh sáng để soi
dẫn người khác đến với Ngài – Đấng là đường, là sự thật và là sự sống.
12. Lễ Hiển Linh
Khi ngôi sao chiếu sáng trên bầu trời
Bêlem, là lúc tình trạng dân Israel
như thầy tư tế già Dacaria phát biểu "ngồi trong nơi tối tăm và trong bóng
tử thần" (Lc 1,79). Tuyển dân của Chúa mà còn như thế huống nữa là dân
ngoại. Thánh Phaolô phác hoạ tình trạng thuộc linh của dân ngoại: "Thuở ấy
anh em không có Đức Kitô, không được hưởng đặc quyền của Israel, xa lạ với các
Giao Ước dựa trên lời hứa của Thiên Chúa, không có niềm hy vọng, không có Thiên
Chúa ở trần gian này" (Ep 2,12). Tóm lại, lúc Đấng Kitô giáng thế là lúc
thế gian suy đồi cùng cực, đang đứng trên bờ vực thẳm, thì ngay khi ấy ngôi sao
xuất hiện ở Đông Phuơng đem theo lời hứa vĩ đại Tin Mừng.
1. Ngôi sao của hy vọng.
Trong quan niệm của người Đông Phương,
sự xuất hiện của một vì sao trên trời có quan hệ tới một nhân vật dưới trần,
nhất là các vị đế vương, người ta vẫn gọi đó là ngôi sao chiếu mạng. Các nhà
chiêm tinh Đông Phương đều tin như vậy, vì thế nảy sinh hẳn một môn học chiêm
tinh với các khoa tử vi. Lịch sử Trung quốc ghi lại truyện hoàng đế Quang Vũ
đời Đông Hán rất kính trọng ông Nghiêm Tử Lăng, sai sứ đi nhiều lần mới mời
được ông vào triều, nhà vua tiếp đón ông rất mực kính trọng và thân thiết, giữ
ông lại trong cung đến đêm và nằm chung một giường. Nửa đêm, Tử Lăng gác một
chân lên bụng nhà vua, nhà vua không nỡ làm ông thức giấc, cứ để yên cho ông
làm như vậy. Sáng hôm sau liền có quan thái sử tâu lên vua rằng hồi hôm xem
điềm trời, thấy sao của khách xâm phạm sao nhà vua rất gấp, xin hoàng thượng
nên để ý. Vua Quang Vũ cả cười nói rằng: "Ta biết rồi, việc này xảy ra chỉ
vì ta và Tử Lăng cùng nằm chung một giường, và chân của Tử Lăng gác lên bụng ta
mà thôi, các khanh chớ lo!". Đối với các nhà bác học Đông Phương, sự xuất
hiện của một ngôi sao như thế là thực hiện một mong ước từ lâu, vì khi nghiên
cứu các tinh tú, họ nhận thức rằng ngôi sao là đại biểu cho "ý muốn vĩnh
cửu". Quan niệm của họ cũng tương hợp với lời tiên tri của Kinh Thánh:
"Một vì sao hiện ra từ Giacóp, một vương trượng trỗi dậy từ Israel "
(Ds 24,17). Vì vậy khi họ thấy ngôi sao xuất hiện, liền biết thời giờ đã đến,
nên chẳng ngần ngại lặn lội đường xa rủ nhau đi tìm cho thấy "vì sao xuất
hiện từ Gia cóp" hầu tìm ra con đường sáng cho mình trong một thế giới u
minh.
2. Ngôi sao thần bí
Khi nghe được tin này Hêrôđê hết hồn,
với tầm óc hiểm độc và quỷ quyệt nhà vua coi đây là một điều rất dữ. Sự xuất
hiện của ngôi sao cũng như sự xuất hiện những chữ viết trên bức tường của cung
điện vua Benxatxa ngày xưa, dự báo sự diệt vong của nhà vua. Điều đó có nghĩa
là sẽ có một vua Giuđa thay cho mình ngồi trên ngai vàng. Do đó nhà vua phải sử
dụng đến mọi thủ đoạn ác độc để diệt trừ hậu hoạ khi còn trong trứng nước.
Nhưng mưu độc của loài người làm sao phá hỏng được kế hoạch của Thiên Chúa. Con
Trẻ mà Hêrôđê tìm giết lại là Con Trẻ thoát khỏi tai hoạ.
Một điều lạ kỳ ấy là ngôi sao một đàng
là hy vọng, là niềm vui lớn cho mọi người thiện tâm, lại nên điềm dữ báo nguy
cho hạng người tàn ác. Ý nghĩa cao đẹp của nó được những tấm lòng ích kỷ tham
lam nhận ra. Sự xuất hiện của ngôi sao báo hiệu ngày tàn của họ đã tới!
3. Ngôi sao dẫn đường.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem đã dẫn các
đạo sĩ Đông Phương trải qua cuộc lữ hành xa lạ, đầy khó khăn nguy hiểm đã đem
các ông tới nơi Con Trẻ mà các ông muốn kiếm tìm. Chính ngôi sao đã bảo tồn cho
họ niềm hy vọng, ước nguyện, đức tin mà Thiên Chúa đã mặc khải cho. Cũng chính
ngôi sao đã cho họ thấy Con Trẻ cũng là vua của họ để họ chuẩn bị lễ vật triều
kính Ngài.
Ngôi sao trên bầu trời Bêlem vẫn luôn
là ngọn đuốc soi đường cho tất cả những ai cần tìm chân lý, muốn được cứu rỗi
linh hồn, và mong nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên Chúa.
4. Ngôi sao của vui mừng.
"Khi thấy ngôi sao dừng lại chỗ
Con Trẻ, các hiền sĩ hết sức vui mừng". Vì đối tượng mà họ khổ công tìm
kiếm nay đã thấy rồi, lòng khao khát chân lý với nếp sống quang minh chính trực
nay đã được hoàn toàn thoả mãn. Niềm vui của họ là điềm báo ân phúc lớn lao sau
này Chúa dành cho các môn đệ: "Thầy nói điều đó với anh em để niềm vui của
Thầy ở cùng anh em và niềm vui của anh em nên trọn vẹn" (Ga 15,11).
Trong những năm sau khi Chúa Giêsu
giáng thế, sự vui mừng mà các hiền sĩ Đông Phương đã được hưởng, thì bao nhiêu
người khác cũng được huởng nhờ ngôi sao chỉ đường dẫn lối. Lòng khao khát chân
lý của họ cũng được đền đáp vì họ nhận được lòng yêu thương vĩ đại của Thiên
Chúa dành cho mọi người thiện tâm.
Và nếu ngôi sao trên bầu trời Bêlem này
như ngọn đuốc soi đường dẫn các hiền sĩ tới mục tiêu, thì cái thế giới mà chúng
ta đang sống đây mới tìm ra được ý nghĩa mới, vui mừng và hy vọng mới thay vì
tuyệt vọng và sầu thảm của những ngày cũ.
13. Lễ Giáng Sinh của muôn dân
Henry van Dyke có thuật lại câu chuyện
nhan đề: "Còn một nhà đạo sĩ khác nữa" (The Other Wise Man), kể về
một nhà đạo sĩ thứ tư là người đáng lẽ đã cùng ba nhà đạo sĩ kia đi tìm vị Vua
vừa sinh ra ở Bêlem. Nhà đạo sĩ này tên là Artaban. Trong lúc chuẩn bị lên
đường, Artaban đã chọn ba viên ngọc quý nhất trong kho tàng của ông để dâng
tặng Hài Nhi Giêsu. Thế nhưng trên đường đến gặp ba nhà đạo sĩ kia để cùng đi,
gặp bất cứ ai xin, ông cũng đem ra tặng hết. Người thứ nhất mà ông đã gặp được
là một bà cụ già rét run vì lạnh. Động lòng trắc ẩn, ông đã tặng cho cụ già
viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường nữa, ông gặp một toán lính toan làm
nhục cô gái. Ông đành đem viên ngọc thứ hai ra thương lượng với chúng để chuộc
lại cô gái. Cuối cùng khi tiến vào địa hạt Bêlem, ông gặp một người lình do vua
Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi trong một ngôi làng lân cận. Ông đành phải
rút ra viên ngọc cuối cùng để tặng cho người lính và thuyết phục anh từ bỏ ý
định gian ác.
Tìm được Hài Nhi Giêsu, nhà đạo sĩ thứ
tư này chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Ông bối rối và kể lại cuộc hành trình của
mình. Nghe xong câu chuyện, Hài Nhi Giêsu mỉm cười đưa bàn tay bé nhỏ ra nhận
quà của ông. Nó không phải là vàng bạc châu báu, nhưng là tấm lòng vàng được
dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân, nhất là những người túng thiếu, đói
khổ, những người cần giúp đỡ. Chính nhờ những nghĩa cử này mà Thiên Chúa mới
được tỏ mình ra cho mọi người.
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình
ra cho mọi người. Thiên Chúa không chỉ tỏ mình ra cho riêng Dân của Ngài mà còn
cho muôn dân. Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa để
làm bừng sáng lên ánh sáng đã xuất hiện từ Phương Đông. Chúng ta phải là ánh
sao dẫn đường cho mọi người đến với Chúa. Tiên tri Isaia trong bài đọc thứ nhất
hôm nay đã mở ra cả một viễn tuợng lớn lao: đó là ngày và thời vinh quang của
Thiên Chúa chiếu trên Dân Chúa và biến Dân Chúa thành điểm thu phục muôn dân.
Mọi người từ mọi phương hướng sẽ cùng quy về một mối trong tiếng ngợi ca Thiên
Chúa.
Nội dung của lòng tin tưởng này đã được
Thánh Matthêu diễn tả một cách sống động qua câu chuyện về Ba Vua, đúng hơn là
ba nhà đạo sĩ đi tìm gặp Chúa Giêsu mới sinh tại Bêlem. Xưa chúng ta quen gọi
đây là Ba Vua, do đó Lễ Hiển Linh này cũng gọi là lễ Ba Vua. Nhưng điều mà đoạn
Tin Mừng ở đây muốn nhấn mạnh đến là: các đạo sĩ, có thể là các nhà bác học hay
thiên văn học, đã từ Phương Đông mà tới (Phương Đông vẫn thường được coi là
phương trời của những dân ngoại), họ là những người ở ngoài Dân riêng của Chúa,
không thuộc dân Do Thái nhưng họ đã tìm đến và được lãnh nhận ơn cứu độ. Có thể
nói, đoạn Tin Mừng này đã diễn tả tất cả tấn bi kịch của công cuộc cứu chuộc
đối với Dân riêng của Chúa và đồng thời cũng nói lên tấm lòng đại độ của Thiên
Chúa: Hêrôđê tượng trưng cho quyền lực, một thứ quyền lực xảo quyệt chỉ biết
khư khư giữ lấy ngai vàng của mình như một lẽ sống. Còn dân thành Giêrusalem
đáng lý ra phải vui mừng khi hay tin "Vua người Do Thái mới sinh",
Đấng họ trông chờ như Vị Cứu Tinh, thì trái lại, họ đã hoảng hốt cùng với
Hêrôđê người cai trị trên họ. Dường như họ ngại phải dấn mình vào một sự đổi
thay, dù họ tin rằng sự đổi thay đó đem lại sự giải thoát cho họ. Còn những Tư
Tế và những nhà thông luật, biết rõ nơi Vị Cứu Tinh ra đời, nhưng chẳng ai màng
đến với Ngài. Để rồi cuối cùng, chỉ có những người bị liệt vào hàng "dân
ngoại" lại hăm hở đến với "Vua người Do Thái", cũng là Vị Cứu
Tinh của nhân loại.
Thưa anh chị em,
Lễ Hiển Linh là lễ Thiên Chúa tỏ mình
ra. Chúng ta biết được qua bài Tin Mừng, Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho muôn dân.
Thánh Gioan viết: "Thiên Chúa nào có ai thấy Ngài bao giờ, và làm sao thấy
Ngài được? Nhưng người Con duy nhất của Ngài đã làm người, và cho ta thấy được
Thiên Chúa mang bản tính con người, làm người như chúng ta và ở giữa chúng
ta". Từ khi Ngôi Lời nhập thể, ai tin nhận Đức Kitô là tin nhận Thiên
Chúa, ai từ khước Đức Kitô là từ khước Thiên Chúa.
Vấn đề được nêu lên hôm nay, là ai làm
cho người ta biết Đức Kitô, nếu không phải là mỗi người chúng ta? Tuy nhiên,
hãy tự vấn rằng bản thân chúng ta đã biết Đức Kitô đến mức độ nào? Nhất định
chúng ta chỉ biết Ngài với một mức độ thật giới hạn. Xét về việc giảng giải
bằng lời nói, chúng ta có thể bập bẹ đưa ra một số chi tiết về con người của
Đức Kitô, về giáo thuyết, về thân thế và sự nghiệp của Đức Kitô; những điều mà
người thiện chí không thể không nhìn thấy. Còn nếu chứng minh bằng chính đời
sống, để nói được với bất cứ ai, như Thánh Phaolô đã nói: "Xin ông bà, anh
chị, hãy bắt chước tôi, như tôi đã sống noi gương Đức Kitô", thì lắm kẻ
không dám nói, và không được phép nói. Bởi vì cuộc sống hiện tại của họ, mọi
người đều biết nó như thế nào rồi! Nói cách khác, bản thân tôi chưa gặp được
Thiên Chúa, mặc dù miệng tôi luôn nói: Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Thiên Chúa ở
trong tôi, Thiên Chúa ở trong mọi người. Nhưng thực sự, tôi không thấy Thiên
Chúa nơi ai cả, ít là trong những cử chỉ tôi đối với những người chung quanh đã
nói lên rõ rệt như vậy. Và cũng thế, chưa ai thấy Thiên Chúa ở nơi tôi cả vì
chình cuộc sống của tôi đã nói lên rõ ràng như vậy.
Thật vậy, còn có biết bao người đang
sống trong tăm tối thiêng liêng; họ đang lầm lũi bước đi trong lầm lạc; họ đang
khao khát chân lý; họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta: "Đức Vua Dân Do
Thái sinh ra ở đâu?" hoặc: "Đức Giêsu là ai vậy?. Vậy thì, hỡi các
Kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi: "Đức Kitô là ai?". Nhưng xin đừng mở
cuốn Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái. Chắc chắn họ không xin chúng ta
một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là một Đức Kitô sống động qua con
người của chúng ta. Không có con đường nào khác đưa người ta trở về hoặc khám
phá ra Chúa Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã vạch, đó là con đường yêu thương.
Thật vậy, chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại mãnh liệt nhất để
đưa con người đến với nguồn chân lý.
Khi người Kitô hữu chỉ đóng khung đời
sống đạo của mình trong nhà thờ, giữa những nghi lễ, mà không nhận ra những nhu
cầu, những đòi hỏi của xã hội chung quanh; khi một cộng đoàn Kitô hữu quá bám
víu vào những thứ gọi là quyền lợi tôn giáo của mình mà làm ngơ trước những đau
khổ, bất hạnh của kẻ khác thì chính họ đang làm dập tắt những ánh sáng dẫn
đường tới Chúa Kitô.
May mắn là vào thời đại chúng ta, có Mẹ
Têrêsa Calcutta .
Qua chính cuộc sống đầy hy sinh vì mọi người, Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người
thấy Thiên Chúa. Thật kỳ diệu: ngay Cuba rồi Liên Xô cũng mời Mẹ Têrêsa đến
thăm và cho phép lập Dòng các chị em Thừa Sai Bác Ái với quyền thu nhận tập
sinh, đang khi các Dòng khác đã có mặt từ lâu, vẫn chưa được phép này. Tại sao?
Cuộc đời hy sinh của Mẹ Têrêsa, từ khi là nữ tu trẻ, từ năm 1918, đã dám mạo
hiểm, mạo hiểm trong khiêm tốn nhưng lòng đầy tình yêu Thiên Chúa và con người.
Sống trong tập thể tu viện với đầy đủ tiện nghi của một Dòng chuyên dạy con gái
nhà giàu, được bảo đảm hơn là cô đơn giữa xóm ổ chuột. Thế mà, trong thời gian
dài, nữ tu Têrêsa là con người lang thang trên các nẻo đường ở Calcutta, vì
Têrêsa thấy rõ Chúa Giêsu đang sống trong những người nghèo bên các vỉa hè của
những người dư giả, giả vờ quên rằng có Lazarô đang nằm chết đói ngoài cửa nhà
mình, đang chờ một phần ăn rất nhỏ, vất đi từ một bàn tiệc linh đình sang
trọng. Tình yêu, yêu Thiên Chúa, yêu Chúa trong mọi người, đã biến đổi sự yếu
hèn của nữ tu Têrêsa nên sức mạnh vô địch. Không bao lâu, căn nhà nhỏ của Mẹ
Têrêsa phải nới rộng, nới rộng đến nhiều quốc gia trên thế giới, cả đến nước
Liên Xô. Đoàn Thừa Sai Bác Ái chưa đầy 40 năm đã chóng lớn như phép lạ, và Mẹ
Têrêsa được trao tặng cả vinh dự lớn nhất của người đời: "giải thưởng
Nobel Hoà Bình". Mẹ Têrêsa đã làm cho mọi người thấy thế nào là Thiên
Chúa.
Thiên Chúa của những năm cuối thế kỷ 20
là như thế đó. Thiên Chúa trong viễn tưởng năm 2000 phải như thế đó. Thiên Chúa
của những cá nhân ích kỷ, của những tập thể ích kỷ, Thiên Chúa của người
"tôi" ích kỷ đã chết, và phải chết đi với cái người "tôi"
ích kỷ. Như thế sẽ chiếu tỏ một Thiên Chúa, thực sự là Thiên Chúa tình thương,
hy sinh Con Một cho nhân loại phản bội. Thiên Chúa là Đức Kitô dám chết cho kẻ
mình yêu tuy chúng ta không đáng yêu.
May mắn là trong xã hội chúng ta, ngay
giữa chúng ta, trong những giờ này, có những mẫu người hy sinh, quên mình, lo
cho người đau khổ, nghèo đói, bệnh tật, trong các bệnh viện, đặc biệt ở những
trại cùi. Những con người Kitô hữu đó được công khai bầu lên là người mẫu của
tình yêu vị tha, những nhân chứng đích thực của Chúa Kitô.
Có những người, giờ này, đang âm thầm
vào các bệnh viện, tìm thăm những bệnh nhân bại liệt tại giường, không gia đình
thăm viếng, chăm sóc; anh chị em đó đã đến, hỏi thăm sức khoẻ, chạy dùm một số
việc, giặt giũ, vệ sinh cá nhân... Xin Chúa ban cho có nhiều tông đồ, nhân
chứng của tình yêu Chúa với những việc làm cụ thể như thế để tạo được sự Hiển
Linh, làm cho đồng bào được thấy Thiên Chúa, và ước gì những chứng nhân ấy lại
là chính chúng ta. Ước gì được như vậy!
14. Ánh sao lạ
Hôm nay chúng ta mừng lễ Hiển Linh,
ngày Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Câu chuyện đã xảy ra như sau:
Bấy giờ một ngôi sao lạ xuất hiện trên
bầu trời và ba nhà đạo sĩ phương Đông, là những người nghiên cứu về những hiện
tượng thiên nhiên, đã hiểu được ý nghĩa của ngôi sao lạ.Họ đã lên đường, bước
đi dưới sự soi dẫn của ánh sao và cuối cùng đã gặp được Hài Nhi Giêsu nơi máng
cỏ Bêlem, mà họ tin rằng Ngài chính là vua dân Do Thái. Trước khi trở về quê
cũ, họ đã thờ lạy và dâng lên Hài Nhi lễ vật của địa phương mình, đó là vàng,
nhũ hương và mộc dược.
Từ câu chuyện trên, tôi muốn rút ra một
kết luận: Ngoài ánh sao lạ đã soi đường cho ba nhà đạo sĩ tới máng cỏ Bêlem,
thì mỗi người chúng ta cũng phải trở nên một ánh sao, dẫn lối cho những người
chung quanh, nhất là những người thân yêu cùng sống trong một mái ấm gia đình
tìm gặp được Thiên Chúa.
Thực vậy, như chúng ta thường xác
quyết:
- Gia đình là mái trường đầu tiên dạy
cho chúng ta những bài học làm người.
Dưới mái nhà thân yêu này, trước hết
chính cha mẹ phải là một ánh sao dẫn đưa con cái đến cùng Chúa, bởi vì tại đây,
ngoài cái nền giáo dục nhân bản, tức là đào luyện cho con cái trở nên những
người biết sống tự lập và biết sống với người khác, hầu đem lại lợi ích cho
quốc gia, cho xã hội, là người tín hữu, chúng ta còn phải cho con cái một nền
giáo dục Kitô giáo, tức là uốn nắn chúng để chúng trở nên những người con cái
Chúa.
Vì thế, ngay từ hồi còn tấm bé, cha mẹ
đã dạy cho chúng qua đôi tay vụng dại lên làm dấu thánh giá, còn môi chúng bập
bẹ những lời kinh đơn sơ.
Hơn thế nữa, đời sống gương mẫu của cha
mẹ sẽ có được một sức lôi cuốn hấp dẫn con cái đến cùng Chúa, vì lời nói như
gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi kéo.
Augustinô là một chàng trai chơi bời
trác táng, thế nhưng nhờ lời cầu nguyện và gương sáng của bà mẹ là thánh nữ
Monica, cuối cùng Augustinô đã trở lại cùng Chúa và trở nên một vị giám mục
thánh thiện và khôn ngoan,
Tiếp đến vợ chồng cũng phải trở nên một
thứ ánh sao cho nhau, có nghĩa là vợ chồng phải biết giúp nhau tìm đến cùng
Chúa bằng lời nói và việc làm của mình. Tôi xin đưa ra một thí dụ: Người chồng
là một tân tòng, nếu không được gương sáng của người vợ thúc đẩy, thì đức tin
vừa mới nảy mầm, chẳng bao lâu cũng sẽ bị thui chột.
Có một ông bố rượu chè cờ bạc, thường
bỏ nhà để đàn đúm ăn nhậu với bè bạn. Ngày kia, khi ông trở về thì trời đã
khuya, nhìn vào nhà ông thấy vẫn còn ánh đèn, lại có cả những tiếng thì thầm.
Tiếng thì thầm ấy chính là tiếng người vợ đang dạy cho đứa con cầu nguyện cho
ông. Như được một luồng ánh sáng chiếu soi, ông bừng tỉnh, từ bỏ con đường tội
lỗi để trở về cùng Chúa.
Một khi mọi người trong mái ấm thân yêu
có được một đời sống gương mẫu, thì chắc chắn gia đình của chúng ta sẽ trở nên
như một ánh sao lạ, qua đó người khác sẽ nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương
của Thiên Chúa.
15. Một ngôi sao để đi theo
(Suy niệm của Jean-Yves Garneau)
Một ngày lễ đầy màu sắc.
Có lễ nào mang nhiều màu sắc hơn lễ
Hiển linh? Có những nhân vật (người ta nói là ba nhưng Tin Mừng không khẳng
định điều này) không biết chính xác đến từ đâu (thánh Matthêu viết rằng từ
phương Đông; nhưng phương Đông lớn lắm!). Người ta không biết tên của họ (dù họ
mang tên Mechior, Balthasar và Gaspar, theo một truyền thống rất cổ xưa mãi từ
thế kỷ thứ 5, nhưng đó không phải là một điều chắc chắn mang tính khoa học). Và
có ngôi sao! Ngôi sao mà người ta đã nói và viết nhiều về nó. Nó hướng dẫn các
vị hiền sĩ của chúng ta (có lẽ là những nhà chiêm tinh và chúng ta đã gọi họ là
vua) và nó đã dừng đúng chỗ, đúng lúc: Trên ngôi nhà có Đức Maria và Hài Nhi
Giêsu! Lại có vàng, nhũ hương và mộc dược nữa...
Hai sứ điệp.
Lễ Hiển linh thật là hấp dẫn, tuy nhiên
chúng ta đừng để mình quá bị chi phối bởi những chi tiết dù có quan trọng đi
nữa. Ta hãy quan tâm tới điều chính yếu: hãy chú ý đến sứ điệp, sứ điệp này gồm
hai điều:
Một là, lễ hiển linh nói với chúng ta
rằng Chúa Giêsu không đến trong thế gian vì một số người mà thôi (những người
thân cận với Ngài), rằng Ngài không nhập thế duy chỉ vì một dân tộc (dân tộc Do
Thái), nhưng vì tất cả các dân tộc trên trần thế và vì tất cả mọi người sống
trên quả đất này. Thậm chí quốc gia bé nhỏ nhất cũng không thể bị quên lãng.
Không ai, thực sự không người nào bị loại trừ khỏi những bận tâm của Chúa
Giêsu. Ngài sinh ra cho hết thảy mọi người. Tất cả mọi người, đàn ông đàn bà,
lớn bé, giàu nghèo ở khắp mọi nơi chốn và mọi thời đại đều được mời gọi đến
lãnh ơn cứu độ. Chúa Giêsu đến để soi sáng và cứu vớt toàn thể nhân loại. Những
bản văn Thánh Kinh được công bố hôm nay khẳng định rõ ràng điều đó (x. Ep 3,6:
"Mầu nhiệm này là những kẻ ngoại giáo được thông phần cùng một di sản,
cùng một thân thể..." Is 60,3-4: "Chư
dân sẽ bước đi hướng về ánh sáng của Ngài... hết thảy họ đều tụ họp
lại...").
Điều thứ hai của sứ điệp dạy chúng ta
rằng Chúa Giêsu đã bị những kẻ thuộc về Ngài không biết đến, thậm chí còn ruồng
bỏ, nhưng lại được những kẻ xa lạ, các hiền sĩ, tìm kiếm, khám phá, đón nhận và
tôn thờ. Không có chỗ cho Ngài nơi những kẻ thuộc chủng tộc Ngài, nơi quán trọ,
ngày Ngài chào đời! Không có những người trong làng tìm đến máng cỏ đến Giáng Sinh,
chỉ có các mục đồng thôi! Còn Hêrôđê, ông vua thời đó, người ta biết rằng ông
muốn giết Đấng đến để cứu ông!
Hai áp dụng cụ thể.
Ta có thể rút ra từ sứ điệp trên đây
hai áp dụng cụ thể.
Trước hết, ta phải tự nhủ rằng bao giờ
cũng có thể sống bên cạnh Chúa Kitô mà không quan tâm đến Ngài, và cũng có thể
biết tên của Ngài mà không thực sự biết chính Ngài. Lúc đó ta có thể mang nhãn
hiệu Kitô nhưng kỳ thực ta không phải là Kitô hữu. Về mặt lý thuyết, ta khẳng
định Chúa Kitô hiện diện trên thế giới, nhưng ta không rút ra được từ đó một
kết luận thực tiễn nào cả cho những ứng xử của cá nhân mình và cho cách điều
khiển xã hội.
Sau đó ta phải tự nhủ –đây là áp dụng
cụ thể thứ hai- rằng ta luôn luôn phải để cho một ngôi sao hướng dẫn mình, phải
luôn luôn lên đường tìm kiếm Chúa Kitô, luôn luôn cố gắng hiểu rõ Ngài hơn...
vì nơi chúng ta bao giờ cũng còn lại một cái gì ngoại giáo! Ở đây tôi nghĩ đến
tất cả những ngẫu tượng mà ít nhiều chúng ta còn tôn thờ hoặc để cho mình bị
chúng thôi miên mà không hay biết. Những ngẫu tượng này là; tham tiền bạc, cá
nhân chủ nghĩa thúc đẩy chúng ta quên đi số phận của kẻ khác. Ta cũng có thể
gọi là ngẫu tượng óc tiêu thụ quá đáng rất thường điều khiển chúng ta và nhất
là cái nhìn hoàn toàn duy vật của chúng ta về cuộc sống.
Tìm ngôi sao dẫn đến nơi có Chúa Giêsu
và Mẹ Ngài, từ bỏ xứ sở, đi đến một nơi xa lạ, dám sống một cuộc mạo hiểm
thiêng liêng trong đó ta dấn thân hoàn toàn và vì đó ta cho đi cái tốt nhất nơi
mình, đấy là những gì các hiền sĩ đã làm. Còn chúng ta, quá thường sống như
người ngoại đạo trong một đất nước còn mang tên Kitô, chúng ta có can đảm lên
đường tìm kiếm Chúa Kitô không? Chúng ta có biết đi theo ngôi sao của các hiền
sĩ còn đang chiếu sáng cho những kẻ đói khát Thiên Chúa không?
16. Gặp được Chúa Cứu Thế - Radio
Veritas Asia
(Trích trong 'Suy Niệm Phúc Âm Hằng
Ngày')
Hôm nay chúng ta mừng lễ ba Vua, tức lễ
Hiển Linh. Dựa vào Thánh Kinh và Thánh Truyền kể lại việc tìm kiếm Chúa của Ba
Vua từ Phương Đông miền đất Palestina, theo sự hướng dẫn của một vì sao lạ. Các
ngài đã khám phá ra dấu lạ, rủ nhau lần mò dò dẫm tìm đến Bethlem, và cuối cùng
sau cuộc lộ trình đường xa nhiều gian khổ và nguy nan, các ngài đã gặp được
Chúa Cứu Thế.
Như ngày lễ Giáng Sinh, lễ Hiển Linh
biểu lộ một niềm vui, đó là những hình ảnh, những gói quà, lạc đà, Ba Vua, ngôi
sao, nhưng còn vui hơn vì ý nghĩa quan trọng chứa đựng trong ngày lễ này, đó là
việc Chúa tỏ mình ra cho các dân, các nước. Ngài là Vua các vua và mọi dân tộc
khắp bờ cõi trái đất đều phải tôn thờ Ngài.
Nơi bài đọc I, Giáo hội dùng bài ca trở
về của dân Do Thái nơi sách tiên tri Isaia để diễn tả niềm vui của người được
cứu thoát khi vinh quang của Chúa bừng dậy. Một số những người nô lệ ở Babylon
thuộc dân Do Thái nghĩ mình đang sống trong đêm tối, họ mất hết niềm vui, không
còn hứng thú gì để đàn ca xướng hát. Họ đặt những nhạc khí, họ treo những cây
đàn nơi gốc cây, nơi cành cây dọc bên bờ sông Babylon, và nơi bờ sông họ ngồi
khóc nhớ Sion, nhớ về Thành Thánh Jérusalem.
Nhưng vui mừng biết bao ngày cứu thoát
đến, ngày trở về quê hương, ngày được gặp lại Jérusalem, được lên đền thờ dâng
lễ tạ ơn Chúa. Và điều đặc biệt là ánh sáng bừng lên ở Jérusalem. Đây không
phải là ánh sáng của trần gian mà là ánh sáng của chính Thiên Chúa. Thiên Chúa
là ánh sáng và khi Chúa là ánh sáng thì Ngài không phải chỉ là ánh sáng của Israel mà thôi
nhưng Ngài còn là ánh sáng của muôn dân, muôn nước. Từ đó những kho tàng bể
khơi tuốn đến Jérusalem, nguồn phú túc của chư dân sẽ tới Jérusalem. Tất cả
muôn người lũ lượt từ các nơi tuôn đến Jérusalem. miệng cao rao những lời ngợi
khen Thiên Chúa.
Nếu bài đọc I trình bày một hình ảnh
vui tươi của Jérusalem ngày đại lễ, ngày muôn dân tiến đến trong huy hoàng rực
rỡ sang trọng, thì nơi bài đọc II thánh Phaolô đưa hình ảnh ấy lên hàng siêu
nhiên. Nơi bài I sự giàu sang phú quí từ các nơi được đưa về để tung hô Chúa,
thì nơi bài đọc II đáp lại ân sủng Chúa ban phát dư tràn cho mọi người qua các
tông đồ, các tiên tri, nhờ Chúa Thánh Thần thánh hóa. Nhờ lòng thương xót bao
la ấy của Thiên Chúa, tất cả dân tộc trên mặt đất đều trở nên người thừa tự,
trở nên người cùng một thân thể và thông phần với lời hứa của Thiên Chúa trong
Chúa Giêsu Kitô.
Nhìn chung cả hai bài đọc đều diễn tả
tình yêu thương hài hòa giữa Thiên Chúa và con người với nhau. Con người một lòng
một dạ nhìn nhận Thiên Chúa là Vua. Chúa ban ơn cho con người, nhất là ơn được
làm nghĩa tử trong Đức Giêsu Kitô, không phân biệt ai cả.
Bài Phúc Âm diễn tả rõ ràng hơn, cụ thể
hơn và sinh động hơn trước mắt ta cuộc tìm kiếm Chúa, rồi được Chúa giúp đỡ ban
ơn hướng dẫn. Con người không ngại gian lao cực nhọc và cuối cùng gặp được
Chúa. Con người quì gối sụp lạy và dâng lễ vật cho Ngài. Xong trở nên con người
mới, đi con đường khác, trở nên với đời sống hằng ngày của mình.
Dựa vào đoạn Phúc Âm duy nhất của thánh
Matthêu diễn tả cuộc viếng thăm kỳ diệu này, người ta hay trưng bày vao hang đá
trong ngày lễ Hiển Linh ba vị vua. Thật ra, không có chỗ nào nói đó là các vị
vua, cũng không có chỗ nào cho biết con số của họ là bao nhiêu. Nhưng truyền
thống gọi là ba, vì dựa vào ba lễ vật thánh Matthêu kể ra: vàng, nhũ hương và
mộc dược.
Về tên của ba vua là: Kalbar, Manthior
và Bankasa, nhưng đến thế kỷ IX người ta mới đề cập đến. Thật ra, tất cả những
chi tiết nhỏ này không có nền tảng trong Kinh Thánh và ngôi sao lạ hiện vẫn còn
là đối tượng của những giải thích khác nhau. Dầu vậy những điểm chính đã dễ cho
chúng ta suy niệm đó là những con người đến từ những xứ xa xôi để tìm vị Vua Do
Thái mới sinh ra và khi gặp được Ngài, họ quì gối xuống sụp lạy Ngài.
Hình ảnh ấy cho chúng ta thấy mãi mãi
bao lâu Phúc Âm còn rao giảng đều luôn luôn có những đạo sĩ, đó là những người
tìm kiếm Chúa bằng cách này hay bằng cách khác. Và khi đã gặp được Chúa, thì
thành tâm thực lòng thờ lạy Chúa, nhìn nhận Người là Vua, là Chúa của mình, của
đời sống mình, của gia đình mình và cuối cùng là của toàn thể nhân loại.
Cùng với Ba Vua bên máng cỏ, chúng ta
hãy tôn thờ uy quyền tối cao của Hài Nhi Giêsu và xin cho chúng ta luôn nhạy
cảm đối với những cảm hứng khích lệ của quyền năng Chúa trong tâm hồn mình.
Để có việc làm cụ thể, trong tuần này
tôi hình dung ra những tác động của Ba Vua trên con đường tìm Chúa. Đó là để
tâm, để ý tìm hiểu sự kiện. Dám chấp nhận dấn thân quyết chí tìm gặp cho được
Chúa. Khi gặp được Người thì phủ phục tôn thờ và dâng lễ vật. Rồi sau cùng, từ
bỏ con đường cũ, đi theo con đường mới, con đường của tin yêu và hy vọng, con
đường của sự sống bất diệt trên thiên quốc.
17. Gặp Chúa – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền.
Một cậu bé lần nọ quyết định sẽ đi gặp
bằng được Thiên Chúa. Cậu biết rằng chuyến đi sẽ dài và vất vả lắm nên xếp vào
túi xách bánh và thức uống.
Khi đã đi qua ba dãy phố, cậu bé gặp
một bà lão. Bà ngồi trong công viên, đôi mắt dừng lại ở những chú chim bồ câu.
Cậu bé đến ngồi cạnh bà và mở túi xách của mình. Hình như bà lão đang đói, cậu
bé nhận ra điều này và mời bà một chiếc bánh. Bà lão cười với cậu. Nụ cười dịu
dàng đến nỗi cậu bé muốn nhìn thấy nó hiện ra một lần nữa. Cậu lại mời bà thức
uống. Nụ cười lại hiện ra trên khuôn mặt phúc hậu của bà làm cậu cảm nhận được
sự ấm áp. Họ ngồi suốt buổi chiều ăn uống và không nói một lời.
Mãi đến khi trời sụp tối cậu bé mới rời
chổ. Rồi bất ngờ cậu quay lại, chạy đến chỗ bà lão và ôm lấy bà từ biệt. Món
quà mà bà lão đã tặng cho cậu là nụ cười đẹp và rộng mở nhất của mình.
Khi cậu bé mở cửa vào nhà, người mẹ vô
cùng ngạc nhiên vì nét rạng rỡ còn ngập tràn trong ánh mắt cậu: - Điều gì hôm
nay đã làm con hạnh phúc vậy?
Cậu bé đáp:
- Con đã ăn trưa với Chúa. Mẹ biết
không, Chúa có nụ cười tuyệt đẹp trên đời!.
Trong khi đó bà lão cũng bừng tỉnh với
niềm vui và trở về nhà. Đứa con trai nhận ra vẻ thanh thản trên gương mặt mẹ và
hỏi:
- Điều gì hôm nay đã làm mẹ hạnh phúc?
Bà lão đáp:
- Mẹ đã ăn bánh cùng với Chúa bên cạnh
những chú chim bồ câu. Con biết không, Chúa trẻ trung hơn chúng ta ngỡ rất
nhiều.
Khi làm người, Con Thiên Chúa đã sinh
ra trong thân phận người nghèo. Ngài đã chọn chốn hang bò lừa làm nơi để sinh.
Ngài đã chọn gia đình nghèo làm gia đình của mình. Ngài đã hoà mình như bao
người lao động nghèo làng quê Nagiaret. Ngài đã sống một cuộc đời nghèo khó đến
độ không có nơi gối đầu. Ngài còn tự đồng hoá mình với những mảnh đời bất hạnh
lầm than. Ngài còn hứa ban hạnh phúc Nước Trời cho những ai đón nhận Ngài qua
những người đói, rách, tù đầy...
Cậu bé trong câu chuyện đã tìm gặp Chúa
nơi bà lão nghèo ngoài công viên. Và bà lão cũng tìm gặp được Chúa qua tình yêu
của cậu bé dành cho bà. Có thể nói tình yêu đã nối kết họ nên một trong tình
yêu Chúa. Tình yêu đã giúp họ nhận ra Chúa nơi người mình đang tiếp xúc. Ước mơ
của cậu bé là mong được nhìn thấy Chúa đã thành hiện thực khi cậu trao ban
miếng bánh thơm ngon cho bà lão. Cậu cũng đâu ngờ rằng tình yêu của cậu làm cho
bà lão nhận ra Chúa đang hiện diện nơi tấm lòng nhân ái của cậu.
Năm xưa, ba nhà đạo sĩ đã tìm gặp Chúa không
phải nơi cung điện nguy nga, nhưng lại là nơi đồng hoang mông quạnh. Họ đã gặp
vị quân vương vừa mới hạ sinh nơi máng cỏ hôi tanh của đám bò lừa. Họ đã bái
quỳ trước một hài nhi bé nhỏ con của một gia đình nghèo khó. Họ đã dâng cho hài
nhi những lễ vật quý giá là vàng, nhũ hương và mộc dược, tượng trưng cho quyền
bính của vị quân vương.
Hôm nay, Chúa vẫn đang hiện diện giữa
chúng ta qua tha nhân là hình ảnh của Chúa. Chúa còn hiện diện cách đặc biệt
qua những người nghèo khó, những người già neo đơn, những người đau yếu đang
sống trong cô đơn tuyệt vọng. Chúa vẫn đang mời gọi chúng ta dâng cho Chúa tình
yêu hiến thân phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Chúa vẫn đang mời gọi chúng
ta hãy nhận ra Chúa nơi anh em đang sống bên cạnh chúng ta. Chúa vẫn mời gọi
chúng ta hãy dâng tặng cho Chúa món quà quý hoá nhất chính là tấm lòng biết yêu
thương.
Ước gì mỗi người chúng ta biết dâng
tặng cho Chúa món quà của yêu thương để mang lại niềm vui và hạnh phúc cho tha
nhân. Amen.
18. Thiên Chúa của các dân tộc
(Trích trong "Niềm Vui Chia
Sẻ")
Một linh mục thừa sai Pháp tên là
Henri, đi truyền giáo ở Gabon ,
Phi Châu. Nhân dịp lễ Giáng sinh, cha Henri về nghỉ ở nhà người chị ruột thuộc
gia đình Delvart. Ngài đem theo một đứa bé da đen mồ côi được ngài nuôi từ nhỏ
và rửa tội với tên thánh là Giacôbê. Trong gia đình chị của ngài cũng có đứa
con trai tên là Giacôbê, đồng trang lứa với cậu bé Giacôbê da đen. Hai đứa trẻ
quen nhau dễ dàng và người lớn chỉ còn phân biệt chúng qua hai màu da: Giacôbê
đen và Giacôbê trắng. Đứng bên hang đá, Giacôbê trắng cố gắng giải thích cho
bạn Giacôbê đen của mình hiểu được vẻ đẹp của mầu nhiệm Giáng sinh, từ Bêlem
cho đến chuồng bò, máng cỏ chiên lừa, đến cả giấc mộng của Thánh Giuse, rồi kết
thúc với hình ảnh Mẹ Maria, Mẹ của hết mọi người.
Giacôbê đen nghe Giacôbê trắng một cách
chăm chỉ. Nhưng cậu bé da màu sầm mặt xuống, thoáng lộ vẻ buồn. Cậu hỏi như
than thở với bạn:
- Bạn trắng ơi! Bạn thật may mắn.
- Sao vậy?
- Bạn có Chúa Giêsu da trắng, có một
người mẹ ở nhà đây rồi lại có thêm một người mẹ ở trên Thiên đàng nữa.
- Nhưng ăn thua gì, bạn trắng đáp lại.
Chúa Giêsu là Chúa của hết mọi người và Mẹ Maria cũng là Mẹ của hết mọi người
kia mà. Nhất là Mẹ của những đứa con thơ ấu côi cút như bạn.
Nhưng Giacôbê đen không yên tâm. Cậu bé
vừa đưa tay chỉ tượng Đức Mẹ vừa buồn rầu nói: Đức Mẹ trắng tinh, còn mình thì
đen thui!
- Bạn trắng nói: Có hề gì, Đức Mẹ đâu
có căn cứ vào màu da.
- Chứ còn gì nữa, bạn đen cãi lại.
Người mẹ trắng thì làm sao có đứa con đen.
Thế rồi sáng ngày 24 tháng 12 người ta
thấy Giacôbê trắng một mình từ dưới kho đi lên, tay cầm một cái lon nhỏ và một
cây cọ, tiến về phía nhà thờ. Cậu bước ngay tới máng cỏ, tại đây với lon sơn
đen, cậu biến tượng Chúa Hài Đồng da trắng thành một Chúa Hài Đồng da đen, y
như màu da của bạn Giacôbê đen vậy.
Giáng Sinh năm ấy, cả họ đạo vừa ngạc
nhiên thích thú, vừa vui vẻ sốt sắng đón mừng Chúa Giáng Sinh có sắc da màu.
Còn Giacôbê đen không ngớt nở nụ cười để lộ hai hàm răng trắng toát. Em sung
sướng nghĩ rằng: với Chúa Hài Đồng da màu, em cũng có được một bà mẹ da màu
trên Thiên đàng.
Một câu chuyện giữa hai trẻ nhỏ nhưng
lại mang một ý nghĩa cho người lớn chúng ta trong ngày lễ Hiển Linh hôm nay:
Chúa Giêsu giáng trần không riêng cho một ai, một dân tộc nào, nhưng là cho hết
mọi người, mọi dân tộc: da trắng, da đen, da đỏ, da vàng. Ngay trong ba đạo sĩ
tìm đến hang đá Bêlem người ta cũng thấy có một vị da màu. Có thể nói, lễ Hiển
Linh là Lễ Thiên Chúa đến với mọi người. Với biến cố Thiên Chúa Giáng Sinh làm
người trong hang đá Bêlem, Thiên Chúa như phá đổ mọi hàng rào ngăn cách mà con
người đã xây dựng nên: hàng rào kỳ thị, kỳ thị chủng tộc, màu da, tôn giáo,
giai cấp... Bởi đó, mọi người trong chúng ta phải cộng tác với Thiên Chúa làm
bừng sáng lên mầu nhiệm này. Chúng ta phải là ánh sao dẫn đường cho người ta
đến với Chúa.
Thời đại chúng ta, Chúa không dùng lời
ca của các thiên thần hoặc ánh sao của ngôi sao lạ để giới thiệu Chúa Giêsu cho
thế giới. Chính mỗi người chúng ta được mời gọi đóng vai "nhà đạo sĩ"
để chiêm ngắm khuôn mặt Chúa Giêsu rồi loan truyền về Ngài cho anh em khác.
Phương thức tốt nhất để làm điều đó là nói và hành động như Đức Giêsu. Cha mẹ
là "nhà đạo sĩ" thích hợp nhất để trình bày khuôn mặt Chúa Giêsu cho
con cái mình. Các thầy, cô giáo là những người cộng tác với "các nhà đạo
sĩ". Các nhà truyền giáo: giáo dân, tu sĩ, linh mục, là những "nhà
đạo sĩ" đi đây đó để giới thiệu Chúa Giêsu cho những người khác.
Mới đây, cuộc triển lãm mỹ thuật với
chủ đề: "Đức Giêsu Kitô trong hội họa" tại Tòa Giám Mục thành phố Hồ
Chí Minh từ đầu Mùa Vọng vừa bế mạc, quả là một cuộc giới thiệu Chúa Giêsu cho
mọi người. Đã có hàng vạn lượt người đến xem, kể cả người ngoài Công Giáo và
các tôn giáo bạn, đặc biệt là các bạn trẻ. Nhiều bạn đã ghi lại những dòng cảm
tưởng chất chứa nhiều cảm xúc, chẳng hạn: "Tôi là một con chiên lạc của
Chúa. Trong chiều nay sau một cơn mưa, tôi đã được tĩnh lặng để ngắm nhìn những
tác phẩm hội họa về Đức Giêsu với những cảm xúc lắng đọng nhất. Tôi yêu con
người Giêsu và Đức Chúa Giêsu" (Tường Tường, 5.12.96, trang 45). Một bạn
sinh viên khác đã viết: "Con không biết gọi Người là gì, không biết Người
là ai vì con không phải là đạo Thiên Chúa. Nhưng hôm nay con tin là có Người,
có Người từng hiện hữu trong thế giới này, và có Người trong tâm hồn con ngày
hôm nay và mãi về sau. Con xin cám ơn tất cả những điều con được biết ngày hôm
nay, cám ơn tất cả, con cám ơn Người cho con lòng tin". (Hồ Thị Phương
Nga, SV năm 3 ĐH. kiến trúc TPHCM. 10.12.96 trang 87) v.v... Cuộc triển lãm đã
đem lại nhiều kết quả thầm kín bất ngờ.
Một khi khám phá ra gương mặt đích thực
của Đức Giêsu, chúng ta hãy đem Chúa ra giới thiệu cho mọi người. Còn có biết
bao người đang sống trong tăm tối thiêng liêng, họ đang lầm lũi bước đi trong
lầm lạc. Họ đang khao khát chân lý. Họ không ngớt đặt vấn nạn với chúng ta:
"Đức Vua dân Do Thái sinh ra ở đâu?" Cũng chính là câu hỏi: "Đức
Giêsu là ai?" vậy thì, hỡi các kitô hữu, hãy trả lời cho họ đi, Đức Giêsu
Kitô là ai? Nhưng xin đừng mở sách Kinh Thánh ra nói như một nhà thông thái.
Chắc chắn họ không xin chúng ta một Đức Kitô đóng khung trong sách vở, nhưng là
một Đức Kitô sống động qua con người của chúng ta. Không có con đường nào khác
đưa người ta trở về hoặc khám phá ra Đức Giêsu Kitô ngoài con đường Tin Mừng đã
vạch: con đường yêu thương. Chính tình yêu là sức mạnh khiêm tốn nhất nhưng lại
mãnh liệt nhất để đưa con người đến với nguồn chân lý, nguồn tình yêu và sự
sống.
Như ánh sao dẫn đường ba đạo sĩ lên
đường đến với Chúa Giáng Sinh, chúng ta hãy từ bỏ những lời nói trống rỗng,
những công thức, những khuôn mẫu có sẵn và tìm Chúa trong mọi biến cố cuộc đời,
để từ đó chúng ta giới thiệu Chúa cho anh em đồng bào bằng chính cuộc sống của
chúng ta.
19. Ba vua
Lễ Hiển Linh, đó là ngày Thiên Chúa tỏ
mình ra cho dân ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ phương đông, để thực hiện
lời tiên tri Isaia đã loan báo:
- Dân ngồi trong tăm tối sẽ được nhìn
thấy ánh sáng chói lòa.
Đồng thời đây cũng là ngày trọng đại
cho mỗi người chúng ta, vì ơn cứu độ đã được thực hiện cho muôn dân.
Chúng ta hãy nhìn vào cung cách của ba
nhà đạo sĩ để rồi từ đó cùng nhau tự vấn lương tâm và kiểm thảo đời sống của
mình.
Điểm thứ nhất, đó là ba nhà đạo sĩ đã
nhìn thấy ánh sao lạ và trong thinh lặng các ngài đã suy nghĩ để tìm ra sứ điệp
mà Chúa muốn gửi đến. Trong khi đó những người khác cũng đã nhìn mà chẳng thấy
và chẳng hiểu.
Có lẽ chúng ta cũng vậy, chúng ta đã
đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước lời mời gọi của Chúa. Chúng ta để cho tâm trí
bận rộn và quay cuồng trước đam mê dục vọng, tiền bạc và lạc thú. Rồi từ đó,
ánh sao cuộc đời và tiếng nói của Chúa cứ mờ dần, cứ tắt dần trong cõi lòng
chúng ta.
Điểm thứ hai, đó là sau khi nhận ra sứ
điệp của Chúa, các ngài đã lên đường mặc cho những khó khăn chờ đón. Các ngài
có thể đưa ra 1001 lý do để ở lại nhà, từ chối dấn thân vào một cuộc phiêu lưu
mạo hiểm bấp bênh. Tuy nhiên, các ngài đã dứt khoát lên đường, không chần chừ
do dự, và đã trung thành với quyết định của mình cho đến cùng. Mặc cho người
đời cười chê, các ngài vẫn chỉ nuôi một ước vọng: Tìm gặp và thờ lạy vua dân Do
Thái.
Thái độ của các ngài hoàn toàn khác xa
với thái độ của dân Do Thái, đã được thánh Augustinô diễn tả như sau:
"Các ngài đến chiêm ngắm Đấng Cứu
thế trên quê hương của dân Do Thái, nhưng còn họ, họ lại không biết đến. Các
ngài đã tìm thấy Chúa Giêsu dưới hình dáng một hài nhi nằm yên trong máng cỏ.
Còn họ, họ đã chối bỏ Chúa Giêsu ngay cả khi Ngài rao giảng công khai, ngay cả
khi Ngài làm các phép lạ. Các ngài từ xa mà đến, và đã gặp được Chúa. Còn họ,
họ ở rất gần mà cũng chẳng thấy".
Có lẽ chúng ta cũng không hơn gì những
người Do Thái. Chúng ta ở cách nhà thờ đôi ba trăm thước mà chúng ta cũng rất
ít khi đến tìm gặp Ngài. Chúa còn hiện diện nơi những kẻ cùng khốn bên cạnh
chúng ta, thế nhưng chúng ta cũng rất ít khi nhận ra và giúp đỡ.
Điểm thứ ba, đó là sau khi đã khám phá
ra và thờ lạy Hài nhi Giêsu, các ngài đã dâng cho Chúa lễ vật, đó là vàng, nhũ
hương và mộc dược, tượng trưng cho tấm lòng quảng đại của mình.
Còn chúng ta, chúng ta sẽ dâng gì cho
Chúa trong Mùa Giáng sinh này, cũng như ở chặng cuối cùng của cuộc đời chúng
ta? Hay là chúng ta đến gặp Chúa với đôi bàn tay trống trơn, không một chút
công nghiệp, và với một tâm hồn nhàu nát vì tội lỗi.
Sau cùng, các ngài định trở lại
Giêrusalem để tường trình cho Hêrôđê, nhưng được thiên thần báo mộng, các ngài
đã tuân theo, đi một con đường khác mà trở về quê hương xứ sở của mình.
Qua đó chúng ta thấy, mặc dù là những
người có thế giá, các ngài vẫn luôn luôn tuân phục lệnh truyền của Chúa một
cách tuyệt đối, không bàn cãi.
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng cuộc
đời của chúng ta là một thảm trạng, trong đó, chúng ta luôn luôn chống lại lệnh
truyền của Chúa, bằng những vấp ngã, bằng những phản bội.
Hãy noi gương ba nhà đạo sĩ phương
đông, hãy lên đường tìm kiếm và thờ lạy Chúa. Hãy bảo toàn đức tin của mình, dù
có phải hy sinh, dù có bị thiệt thòi.
20. Ra đi
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Thiên Chúa không chỉ tỏ mình cho dân Israel . Ngài
còn tỏ mình cho các dân tộc khác, vì Ngài muốn cứu độ mọi người chẳng trừ ai.
Các nhà chiêm tinh vùng Babylon là đại diện cho
dân ngoại.
Đối với họ, bầu trời là một cuốn sách,
các vì sao nói về những biến cố trên địa cầu. Có thể Thiên Chúa đã muốn dùng sự
xuất hiện của một vì sao để báo hiệu Con Ngài chào đời.
Thiên Chúa chấp nhận dùng thứ ngôn ngữ
đầy khiếm khuyết đó để mời họ lên đường đi gặp Đấng Cứu Độ.
Hôm nay, Ngài vẫn ngỏ lời với những ai
chưa biết Ngài bằng muôn vàn cách thức khác nhau, khiến họ hiểu được.
Thiên Chúa vẫn làm sáng lên muôn ánh
sao, không ở trên trời cao, nhưng ở trong lòng người.
Ánh sao có thể là một lý tưởng, một
khát vọng mãnh liệt: khát vọng sự thật, tự do, ấm no, hạnh phúc?
Ánh sao đưa con người lên đường tìm
kiếm, và Ngài không ngừng ban niềm vui trong suốt cuộc hành trình.
Các nhà chiêm tinh đã phải ra khỏi nhà,
ra khỏi mình, ra khỏi những định kiến, để đón tiếp cái bất ngờ.
Họ chỉ mong được bái lạy vị Vua mới
sinh. Nhưng vị Vua này chẳng ở Giêrusalem cao sang, mà lại ở vùng Bêlem bé nhỏ.
Vị lãnh tụ dân Israel chỉ là
một hài nhi bình thường, sống trong một căn nhà bình thường.
Hêrôđê bối rối lo sợ khi nghe tin sinh
hạ Vua Do thái.
Các thượng tế và kinh sư tuy biết rõ
nơi Ngài sinh, nhưng họ không muốn lên đường tìm kiếm.
Các nhà chiêm tinh chỉ có một cái biết
mơ hồ, nhưng họ đã can đảm ra đi, tích cực tìm kiếm, tin tưởng sấp mình bái lạy
và cung kính dâng lễ vật.
Vẫn có đám đông những người không phải
là Kitô hữu đang miệt mài nghiên cứu trong mọi lãnh vực, khoa học, kỹ thuật,
nghệ thuật, tư tưởng..., đang gắng công tu tập trong các tôn giáo, hay đang tận
tụy làm cho trái đất được tốt đẹp hơn. Có ánh sáng nào soi chiếu nẻo đường họ
đi. Họ đã chấp nhận bao hy sinh từ bỏ, để nhẹ nhàng, thanh tịnh mà tiến bước.
Các nhà chiêm tinh ngày xưa đã gặp được
Đấng họ tìm.
Hôm nay, còn bao người vẫn trên đường
dong ruổi. Thiên Chúa đồng hành với họ mà họ chẳng hay. Họ đã ở gần Chúa ngay
khi chưa gặp Ngài.
Lễ Chúa Hiển Linh mời ta nhận ra và
trân trọng hoạt động của Thiên Chúa nơi anh chị em ngoài Kitô giáo.
Có khi chúng ta giống các thượng tế và
kinh sư tự mãn với cái biết lý thuyết của mình về Thiên Chúa, nên chẳng muốn
lên đường gặp mặt Ngài.
Ước gì chúng ta không coi mình như
người đã tìm thấy, nhưng khiêm tốn học hỏi nơi những người đang tìm kiếm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có nhìn thấy Thiên Chúa đang hoạt
động nơi những anh chị em ngoài Kitô giáo không? Bạn có quen ai làm bạn cảm
phục không?
Thiên Chúa đến với bạn qua những đại lộ
(là Thánh Lễ, các Bí Tích...) Nhưng Ngài cũng đến với bạn qua các ngõ hẻm (một
biến cố, một bài báo, một câu nói bâng quơ...). Đâu là những ngõ hẻm Chúa
thường đến với bạn?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con trở nên đơn
sơ bé nhỏ, nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói, dễ thấy Chúa hiện diện và
hoạt động trong đời con.
Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và
đe dọa, xin cho con đừng trở nên cứng cỏi, khép kín và nghi ngờ. Xin dạy con sự
hiền hậu để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân. Xin dạy con sự khiêm
nhu để con dám buông đời con cho Chúa. Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu
thẳm, vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài, hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu
khổ đau. Amen.
21. Ngôi sao dừng lại
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Người Do Thái đợi chờ Đấng Mêsia từ bao
thế kỷ. Đấng Mêsia được ví như một vì sao từ nhà Giacóp (x.Ds 24,17).
Nói một cách thi vị, chờ đợi Đấng Mêsia
là chờ đợi một vì sao xuất hiện.
Hình ảnh vì sao gợi lên trong lòng người
Do Thái niềm nôn nao đợi chờ Đấng Cứu Độ cho dân tộc mình và cho cả thế giới
(x. Ds 24,7).
Nhưng không phải chỉ người Do Thái mới
biết đợi chờ. Theo các sử gia đáng tin cậy ở thế kỷ đầu, cả dân ngoại cũng tin
rằng Đấng cai trị thế giới sẽ được sinh ra từ xứ Giuđê.
Phải chăng đó là lý do khiến các nhà
chiêm tinh từ vùng Ba tư, Ả rập xa xôi đã lặn lội đến Giêrusalem để bái yết tân
vương, khi họ thấy trên bầu trời xuất hiện vì sao lạ?
Tuy nhiên, trong thực tế có nhiều phản
ứng khác nhau trước sự hạ sinh của Vua dân Do Thái.
Hêrôđê thì sợ hãi vì thấy ngai vàng bị
lung lay. Ông dò hỏi về nơi sinh và ngày sinh của vị Vua mới để âm mưu loại trừ
một đối thủ.
Các thượng tế và kinh sư ở Giêrusalem
lại có thái độ dửng dưng thụ động. Họ rành rẽ Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh
của Vua Mêsia, nhưng họ chẳng buồn cất bước tới Bêlem.
Còn các nhà chiêm tinh là đại diện cho
dân ngoại, đã hăm hở lên đường, lao vào cuộc phiêu lưu tìm kiếm. Họ làm tất cả
miễn sao gặp được Đấng quân vương. Dù Đấng ấy chẳng uy nghi ngự trong lầu vàng
điện ngọc, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận với cả lòng thành.
Lễ Hiển Linh nhắc chúng ta về việc
truyền giáo.
Các nhà chiêm tinh đã đến gặp Chúa nhờ
ánh sao. Con người hôm nay nhờ ánh sáng nào mà gặp được Chúa?
Mỗi môi trường cần một thứ ánh sáng
riêng. Mỗi con người nhạy cảm với một loại ánh sáng. Chúng ta phải tìm hiểu xem
đâu là thứ ánh sáng thu hút được lòng con người.
Ánh sáng của sự chân thành, của phục vụ
yêu thương;
Ánh sáng của niềm vui an bình, của can
trường bất khuất.
Một nụ cười, một ánh mắt, một lời khích
lệ cũng bừng sáng rực rỡ chẳng kém một vì sao.
"Giữa một thế hệ sa đọa, anh em
hãy tỏa sáng như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15).
Chúng ta chỉ là những vì sao sáng khi
chúng ta để mọc lên trong lòng chúng ta (x. 2Pr 1,19) ngôi sao mai là chính Đức
Kitô (x.Kh 2,28).
Ước gì mỗi Kitô hữu trở thành một ánh
sao: ánh sao nói được điều gì đó với người đang chờ đợi, ánh sao đồng hành với
nhân loại trên mọi nẻo đường, ánh sao ngừng lại trước nhà của Con Thiên Chúa để
Con Thiên Chúa và thế giới hôm nay gặp nhau.
Gợi Ý Chia Sẻ
Những người dân ngoại ở xa có thể gặp
Chúa, còn những kinh sư thông thạo Kinh Thánh ở sát Bêlem lại không gặp được
Ngài. Theo bạn, để gặp được Chúa, cần có thái độ nào, điều kiện nào?
Ở môi trường bạn đang sống và làm việc,
người ta cần thứ ánh sáng nào? Bạn có thứ ánh sáng đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Tạ ơn Chúa đã cho chúng con ánh sáng
mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là
ánh sáng.
Đó là vinh dự và cũng là một trách
nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui
bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng. Xin cho chúng
con biết giữ gìn ngọn lửa mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết
vâng theo những soi sáng của Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu,
cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối
vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con.
Ước gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa
bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh
sáng Chúa.
22. Ngôi sao dẫn đường
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng trên nói về các nhà chiêm
tinh dân ngoại theo ánh sao mà tìm đến bái yết Hài Nhi
Một loạt câu hỏi thường được đặt ra hôm
nay. Làm sao một ngôi sao có thể dẫn đường cho họ đi? Nếu đó là một ngôi sao
sáng lạ lùng thì tại sao thành Giêrusalem lại không nhận biết? Bởi đâu ngôi sao
lại không đi thẳng tới Bêlem? Có tin được chuyện ngôi sao ngừng lại trước cửa
nhà không? Các câu hỏi trên đều xoay quanh ngôi sao lạ. Một ngôi sao như thế có
thật không hay đây chỉ là một truyền thuyết?
Thánh Mátthêu đã viết đoạn Tin Mừng này
theo một thể văn đặc biệt của người Do Thái. Chúng ta không nên hiểu mọi chi
tiết theo nghĩa đen. Điều quan trọng không phải là có một ngôi sao lạ, một ngôi
sao thông minh biết dẫn lối chỉ đường. Điều quan trọng là điều Mátthêu muốn nói
với ta: Đức Giêsu không phải chỉ là Mêsia cho dân Do Thái, Ngài còn là Đấng Cứu
Độ cho cả nhân loại.
Các nhà chiêm tinh là dân ngoại. Họ đại
diện cho mọi dân tộc, cho chính chúng ta. Họ khao khát tìm ơn cứu độ. Qua những
dấu chỉ kỳ diệu hay đơn sơ trong vũ trụ, họ nghe thấy lời mời gọi lên đường.
Chấp nhận lên đường là chấp nhận bỏ lại tất cả và bước đi trong đêm tối. Các
nhà chiêm tinh không dựa vào điều gì khác ngoài ánh sao khi tỏ khi mờ. Cần có
đức tin cứng cáp mới dám dựa vào một dấu chỉ mong manh như thế. Cũng cần có đức
tin mạnh mẽ mới dám tin rằng vị vua mới sinh đang khiêm tốn sống trong một ngôi
nhà ở Bêlem, chứ không uy nghi ngự giữa hoàng cung lộng lẫy. Cần có một đức tin
khiêm tốn biết chừng nào mới có thái độ sấp mình bái lạy trước Hài Nhi, và tiến
dâng lễ vật quý giá.
Thiên Chúa vẫn không ngừng lôi kéo cả
nhân loại đến với Con Một của Ngài là Đức Giêsu Kitô. Ngài vẫn không ngừng cho
những ánh sao dẫn đường. Không phải là ánh sao trên trời cao, mà là ánh sáng
Ngài gieo vào lòng người. Mỗi người chúng ta phải trung thành với ánh sáng đó,
và bước vào cuộc hành trình đức tin đầy mạo hiểm, như các nhà chiêm tinh ngày
xưa.
Đôi khi chúng ta có nét giống Hêrôđê,
sợ hãi bối rối trước sự xuất hiện của Đấng Cứu Độ. Hãy để Chúa làm lung lay
ngai vàng của bạn, đưa bạn vào sự bấp bênh, mong manh, để rồi cuối cùng bạn gặp
được sự vững vàng trong Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Sống đời Kitô hữu là bước vào một cuộc
hành trình đức tin. Trong cuộc hành trình đầy cam go ấy, vẫn thường có những
ánh sao. Có khi nào bạn gặp được một ánh sao lạ hướng dẫn bạn không?
Thiên Chúa đi tìm con người và con
người đi tìm Thiên Chúa. Bạn có thấy đó là hai yếu tố quan trọng trong đời sống
người Kitô hữu không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng
con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên
mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là
ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui
bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết giữ gìn ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của
Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh
sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước
gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn
lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
23. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt
CHÚA TỎ MÌNH RA CHO NHỮNG TÂM HỒN THIỆN
CHÍ
Bài Tin Mừng hôm nay đưa ra những chi
tiết tương phản lạ thường.
Tương phản giữa Giêrusalem và Bêlem:
Giêrusalem, thủ đô hoa lệ, trung tâm văn hoá chính trị của nước Do thái, nhưng
đã khước từ, không đón tiếp Đấng Cứu thế. Trong khi đó, Bêlem, một thị trấn bé
nhỏ, nghèo nàn lại là nơi đón tiếp Đấng Cứu thế hạ sinh.
Tương phản giữa những người có đạo và
những người ngoại đạo: Các bậc chức sắc thông thạo Kinh thánh, nhưng chỉ ngồi
im tại kinh thành, không chịu lên đường, nên không gặp được Đấng Cứu thế. Trái
lại, ba nhà đạo sĩ mà ta quen gọi là Ba Vua, là những người ngoại đạo, không am
tường Kinh thánh, nhưng đã biết tìm tòi học hỏi, dấn thân lên đường, nên đã gặp
được Chúa.
Tương phản giữa Vua giả và Vua thật:
Hêrôđê được gọi là Vua, nhưng lại cứ nơm nớp lo âu, sợ mất ngai vàng, nên tìm
cách tiêu diệt người khác. Trong khi đó, Đức Giêsu Kitô, Vua Trời lại thản
nhiên bình an trong cảnh khó nghèo, mở rộng vòng tay đón tiếp mọi người xa gần.
Tất cả những tương phản ấy đáng cho ta
suy nghĩ. Đấng Cứu thế không đến theo cơ chế, nhưng rất bất ngờ. Người không
đến trong những cung điện sang trọng nhưng đến trong một chuồng bò tăm tối, hôi
tanh. Người không đến trong quyền lực nhưng trong sự yếu đuối, khiêm nhường.
Tất cả những tương phản ấy khiến ta
phải lo sợ. Không phải cứ có đạo là gặp đựơc Chúa. Không phải cứ giỏi giáo lý
là biết Chúa. Muốn gặp được Chúa phải có thiện chí đi tìm. Muốn biết Chúa, phải
dấn thân lên đường.
Ba Vua là những người ngoại đạo đến từ
rất xa, nhưng đã trở nên gương mẫu cho ta trong việc đi tìm và hiểu biết Chúa.
Các Ngài là những tâm hồn thiện chí.
Là những tâm hồn thiện chí, luôn luôn
khao khát điều lành, nên các Ngài luôn để tâm tìm kiếm. Đêm đêm ngước mắt lên
trời cố dò tìm dấu vết thần linh. Chắc chắn không phải chỉ trong phút chốc mà
các Ngài phát giác ra ngôi sao lạ, nhưng phải trải qua nhiều năm tháng kiên trì
chiêm ngắm bầu trời, cặn kẽ theo dõi đường chuyển dịch của các vì tinh tú, các
Ngài mới có thể nhận biết ngôi sao lạ khi nó xuất hiện.
Việc đi theo ngôi sao lạ cũng không
giản đơn. Trước hết việc lên đường đòi phải ra khỏi nhà, giã từ những tiện nghi
dễ chịu, từ bỏ những sinh hoạt quen thuộc, chấp nhận những thiếu thốn, những
nguy hiểm, những bất tiện trên đường đi. Thiện chí của các Ngài rất cao, nên
khi ngôi sao biến mất, các Ngài vẫn không nản lòng bỏ cuộc, nhưng tìm mọi cách
vượt qua khó khăn, tìm mọi cách để đến gặp được Chúa. Chúa đã chúc lành cho
thiện chí của các Ngài, nên đã cho các Ngài được gặp Chúa.
Đời sống chúng ta là một cuộc đi tìm
Chúa. Trong cuộc đi tìm, ta phải có thiện chí như Ba Vua, biết dấn thân lên
đường, biết phấn đấu chấp nhận hy sinh gian khổ, biết kiên trì không nản lòng
bỏ cuộc khi gặp thử thách.
Ba Vua không thể đến với Chúa nếu không
có ngôi sao dẫn đường. Hôm nay, Chúa muốn mỗi người chúng ta là một ngôi sao
lạ, loan báo tình thương của Chúa, đưa dẫn những tâm hồn thiện chí đến với
Chúa. Hãy là ngôi sao sáng trong đời sống công bình. Hãy chiếu sáng đức thương
yêu của Chúa. Hãy toả ánh sáng ấm áp tình người. Qua những làn ánh sáng ấy, mọi
người sẽ nhận biết và tìm về với Thiên chúa là ánh sáng chân thật.
Để kết thúc, tôi xin kể một câu chuyện
có thật. Một buổi chiều, một người lái xe con đi trên con đường miền núi vắng
vẻ. ở một khúc quanh, người ấy phát hiện một gia đình bị hỏng xe. Đường vắng,
trời tối, họ lo âu sợ hãi vì đó là đoạn đường thường xảy ra cướp bóc. Biết sửa
chữa xe, nên người ấy đỗ xe, xuống giúp sửa chữa. Xe hỏng nặng. Người ấy phải
chui vào gầm xe, tháo ra từng bộ phận. Tối mịt xe mới nổ máy. Cả gia đình mừng
rỡ, muốn trả công cho người ấy. Nhưng người ấy không lấy công. Cả gia đình cám
ơn rối rít và xin địa chỉ hẹn ngày lên thăm. Khi lên thăm, gia đình mới biết đó
là một vị giám mục. Gia đình đem lòng cảm phục và xin theo đạo cả nhà. Vị Giám
mục ấy chính là một Đức Cha ở cao nguyên Trung phần vào những năm 60.
Nhân dịp đầu năm mới, tôi xin cầu chúc
tất cả anh chị em có một đời sống đạo trong sáng như ngôi sao sáng để đưa dẫn
nhiều tâm hồn về với Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Ba Vua thiện chí ở những điểm nào?
2. Bạn có gặp thử thách trong đời sống
đạo không? Khi gặp thử thách, bạn đã ứng xử thế nào?
3. Theo bạn, cách nào hữu hiệu nhất để
làm chứng cho Chúa: giảng giáo lý, tranh luận, sống bác ái?
4- Tuần này, bạn quyết tâm làm gì để
thực hành Lời Chúa?
24. Thành tâm thiện chí sẽ gặp Chúa.
(Suy niệm của ĐTGM Giuse Ngô Quang
Kiệt)
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình ra.
Việc Chúa sinh ra được loan báo cho mọi người biết dưới nhiều hình thức khác
nhau như: lời các ngôn sứ loan báo từ nhiều thế kỷ trước, đạo binh thiên thần
ca hát, ngôi sao lạ xuất hiện... Tuy nhiên không phải ai cũng gặp được Chúa.
Có những người không gặp Chúa, dù biết
rõ những chỉ dẫn về Người.
Đó là những kinh sư, biệt phái. Họ hiểu
biết Thánh Kinh. Khi ba nhà đạo sĩ đến hỏi thăm, họ đã đọc vanh vách lời ngôn
sứ loan báo Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem. Nhưng họ không gặp được Chúa, vì họ
hiểu biết lý thuyết mà không thực hành. Ngồi một chỗ mà không chịu lên đường.
Chỉ chú ý tới chữ nghĩa sách vở mà không chú ý tới cuộc sống con người. Chỉ tìm
trong sách vở mà không tìm những dấu chỉ trong đời thường.
Đó là Hêrôđê. Bạo vương này muốn tìm
Chúa nhưng không gặp Chúa, dù ông có binh hùng tướng mạnh trong tay. Ông không
gặp Chúa vì ông tìm Chúa không phải vì Chúa mà vì quyền lợi của ông. Ông tìm
Chúa không phải để thờ lạy nhưng để giết chết. Ông tìm Chúa không phải để tôn
vinh Chúa nhưng để tôn vinh bản thân. Ông tìm Chúa không phải để làm theo ý
Chúa nhưng để bắt Chúa phải theo ý ông. Vì thế Chúa đã vượt thoát khỏi tầm tay
của ông. Vĩnh viễn ông không gặp được Chúa.
Những người xem ra gần gũi nhất, hiểu
biết nhất, có phương tiện nhất đã không gặp được Chúa. Trái lại, những người có
vẻ nghèo hèn, thiếu thốn phương tiện, xa xôi cách trở lại gặp được Chúa. Đó là
các mục đồng và đặc biệt ba nhà đạo sĩ mà ta nhớ đến trong thánh lễ hôm nay.
Họ đã gặp Chúa vì họ đã lên đường. Dù
không biết lời tiên tri loan báo, không biết lời hứa, không thuộc Thánh Kinh,
nhưng khi thấy ngôi sao lạ, họ đã lên đường ngay tức khắc. Lên đường nói lên
thái độ ngoan ngoãn tuân theo ơn Chúa soi sáng. Lên đường nói lên thái độ dấn
thân. Lên đường nói lên lòng cương quyết đi tìm. Lên đường là chấp nhận gian
khổ để đạt được điều mơ ước.
Họ lên đường và đã gặp Chúa vì lòng họ
khao khát. Khao khát chân lý nên đêm đêm họ không ngừng quan sát bầu trời tìm
kiếm ánh sao, vì thế cả một bầu trời bao la, chỉ một ánh sao lạ xuất hiện, họ
đã nhận biết. Khao khát chân lý nên khi Chúa vừa tỏ mình qua dấu hiệu ngôi sao,
họ đã vội vã theo sát dấu ánh sao đi tìm. Khao khát gặp Chúa nên khi ánh sao
vụt biến mất, họ đã không nản lòng, quyết tâm dò hỏi cho ra.
Họ đã gặp Chúa vì tâm hồn họ đơn sơ
thành thực. Đi tìm Chúa chứ không tìm bản thân. Đi tìm Chúa để thỏa lòng khao
khát chân lý chứ không để thỏa mãn những tham vọng đen tối. Đi tìm Chúa để thờ
lạy Chúa chứ không vì lợi lộc cá nhân. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận ra ý
Chúa, dù ý Chúa chỉ nhẹ nhàng qua một ánh sao. Với tâm hồn đơn sơ, họ đã nhận
ra chính Chúa, dù Chúa có ẩn thân dưới hình dáng một em bé yếu ớt nghèo nàn,
trong khung cảnh rất tồi tàn của chuồng bò hôi hám.
Đời sống đạo của tôi cũng là một cuộc
đi tìm Chúa. Tôi sẽ chỉ gặp được Chúa nếu tôi noi gương ba vua, có tâm hồn đơn
sơ thành thực, có lòng khao khát Chúa vì chính Chúa, và dám dấn thân thực hành
những điều Chúa truyền dạy, đặc biệt là giới răn bác ái, phục vụ Chúa trong
những anh em nghèo khổ.
Lạy Chúa, xin chỉ cho con đường lối của
Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Tại sao những kinh sư, biệt phái và
Hêrôđê không gặp được Chúa?
2) Có những người ngoại đạo thành tâm
thiện chí như ba vua. Bạn đã gặp ai như thế chưa? Bạn nghĩ gì về họ?
3) Muốn gặp Chúa, bạn phải làm gì?
4) Ba vua nhờ ngôi sao dẫn đến gặp
Chúa. Bạn phải làm gì để trở thành ngôi sao đưa người khác đến với Chúa?
25. Gọi tên ngày lễ - ĐGM Giuse Vũ Duy
Thống.
(Trích trong 'VỚI CẢ TÂM TÌNH' – Trg.
31)
Trong dịp tĩnh tâm Mùa Vọng ở một giáo
xứ, có người bạn trẻ đã nêu lên câu hỏi liên quan đến Thánh Lễ hôm nay:
"Tại sao ngày nay Phụng Vụ không sử dụng tên gọi lễ Ba Vua nữa? Phải chăng
rốt cuộc chẳng có ông vua nào đến viếng Hang đá cả?".
Câu hỏi ấy trực tiếp về mặt kiến thức,
không khó trả lời; nhưng gián tiếp về mặt tâm linh, lại hé mở cho thấy đức tin
hôm nay xem ra đang có nhu cầu tìm hiểu. Đã đành, hiểu chưa phải là tin hay
chưa hẳn đã tin, nhưng một phần nào cũng góp phần dẫn tới đức tin cho người
chưa tin, đào sâu đức tin cho người đã biết, và cũng quan trọng không kém là
củng cố sức mạnh cho những niềm tin đang ở trong tình trạng nhạt nhòa.
Niềm tin là một công trình còn phải
dựng xây và là một hành trình còn phải tiếp tục. Trên cơ sở ấy, xin đi vào
Thánh Lễ hôm nay.
1) Từ tên gọi "lễ Ba Vua"...
Đây là tên gọi quen dùng đối với tín
hữu Việt Nam, để chỉ về việc các Đạo sĩ Đông Phương tìm đến Hang đá viếng Chúa
Hài Đồng. Gọi là vua vì họ là những bậc quyền quý đến từ phương Đông theo nhãn
giới của bài đọc thứ nhất; và xác định con số ba vì có ba sắc dân được nói đến
trong Isaia 60, mà cũng vì lễ vật tiến dâng được liệt kê ba món rành rành là
vàng, nhũ hương và mộc dược, như chuyện kể của Phúc Âm. Để rồi cứ thế theo
truyền thống, Ba Vua đã trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là lo
xác định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay có thể có nhiều hơn
nữa, mà chính là hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong
đời đã có một lòng khát khao chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những
thiện hảo tốt lành, để rồi với sự trợ giúp của ơn thánh, tới lúc Chúa muốn và
bằng muôn ngàn cách thế linh động theo sáng kiến của Ngài, họ sẽ được dẫn tới
gặp gỡ Đấng họ nỗ lực tìm kiếm.
Dưới cái tên gọi "lễ Ba Vua",
chính là một thiện chí tìm kiếm đức tin. Nhưng cũng dưới tên gọi ấy, trong bối
cảnh của trang Tin Mừng, người ta lại còn thấy cả một đối chứng đau lòng. Trong
khi dân ngoại từ xa, dẫu chẳng hề biết đến lời hứa để mà hy vọng, chẳng hề có
được giao ước để mà tin tưởng, và cũng chẳng hề được dẫn đường bởi lề luật,
nhưng lại chân thành tìm kiếm và sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ
để mà tìm gặp; thì ngược lại, dân Do Thái ở gần, dẫu có tất cả thuận lợi của
một truyền thống dài lâu chờ mong Đấng Cứu Thế, lại không mảy may kiếm tìm, và
tệ hại hơn nữa, còn xôn xao về chính việc Chúa đến, không phải vì hối hận về
việc mình không sẵn sàng, mà vì lo ngại rằng Chúa đến sẽ đặt dấu chấm hết cho
cả một cơ chế họ đã bao đời gầy dựng. Không lạ gì nếu cơ chế ấy đã sản sinh ra
những khuôn mặt như Hêrôđê!
Hóa ra, Ba Vua tìm Chúa với lễ vật lòng
thành, khi về đã thấy mình là những kẻ tin; còn Hêrôđê tìm Chúa với ác tâm tận
diệt, mãi mãi sẽ thấy mình chỉ là một bạo chúa.
2) ... Đến tên gọi "lễ Hiển
Linh"...
Mặc dù tên gọi "lễ Ba Vua"
vẫn giữ nguyên giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ thích sử dụng tên gọi
"lễ Hiển Linh" hơn, chẳng phải vì tên gọi đó nghe kêu hơn hoặc hiểm
hóc hơn, cũng chẳng phải để tránh né những câu hỏi không cần thiết về những chi
tiết nhiều khi chỉ làm cho ngày lễ thêm rườm rà; mà thật ra là để làm nổi bật
lên ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh. Đó là:
Ngài muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở
đâu, miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài.
Nếu "Ba Vua" là tên gọi nói
lên thiện chí của con người, thì "Hiển Linh" là danh xưng khẳng định
hồng ân của Thiên Chúa. Thiện chí thôi, dẫu rất lớn, vẫn chỉ là khởi điểm; nhưng
chính hồng ân Hiển Linh mới là kết điểm mở ra những mùa gặp gỡ. Và tới phiên
mình, mỗi lần gặp gỡ tại kết điểm hành trình, lại là một khởi điểm mới cho hành
trình tìm kiếm mới, với những thiện chí mới nhằm vươn lên những đỉnh cao mới.
Và gặp gỡ như thế là một cuộc đổi đời.
Vì thiện chí luôn tìm kiếm hồng ân, mà cũng vì hồng ân luôn đợi chờ một thiện
chí biến đổi cuộc đời. Ba Vua gặp Chúa với cả tâm tình được thể hiện qua những
lễ vật tiến dâng, họ đã được soi sáng để theo đường khác mà về nhà. Và ở đó sẽ
là những cuộc Hiển Linh mới trong đời sống thường ngày.
Gặp ai thì cũng có thể gỡ ra được,
nhưng thiện chí con người một khi đã gặp được Thiên Chúa vốn từ bao giờ đã sẵn
tỏ mình ra, thì sẽ không thể gỡ ra được nữa. Người ta thành người nhà của Thiên
Chúa, và trong mắt nhìn của Phaolô, người ta dẫu xa cũng hóa gần, dẫu lạ cũng
nên quen, dẫu gốc gác thế nào đi nữa "cũng cùng được thừa hưởng gia nghiệp
với người Do Thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa
hứa" (bài đọc thứ hai). Hiển Linh chính là tên gọi khác của mầu nhiệm Nhập
Thể, của danh xưng Emmanuel và của bốn mùa gặp gỡ.
3) ... Để dẫn tới sứ điệp đời sống.
"Lễ Ba Vua" hay "Lễ Hiển
Linh", mỗi tên gọi có những bước nhấn riêng, nhưng rốt cuộc cũng chỉ là
một mầu nhiệm gặp gỡ mà Thiên Chúa từ bao thuở đã mở ra cho những kẻ biết kiếm
tìm. Thế nên đây không chỉ là một biến cố của ngày đã qua, mà còn là một sứ
điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới. Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề
là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Hôm qua đã có một nghịch lý là những kẻ
đến gặp Chúa đều là những kẻ thành tâm như các mục đồng tại Bêlem, như cụ già
Simêon tại Đền Thánh, như những Đạo sĩ hôm nay từ xa đến; còn toàn thể xã hội
tôn giáo Do Thái lại hầu như vắng bóng, hay nếu có thì chỉ như một lực cản đáng
buồn. Thế đấy! điều tưởng như thuận lợi lại là một cạm bẫy dẫn tới sự thảm bại,
còn điều tưởng chừng như bất lợi lại trở nên lợi thế cho việc gặp Chúa. Liệu
nghịch lý ấy hôm nay còn có mặt trong đời sống đức tin của cộng đoàn cũng như của
mỗi cá nhân?
Trả lời câu hỏi ấy với quyết tâm khởi
hành trên con đường mới, thiết tưởng sẽ là một điều tích cực trong Mùa Giáng
Sinh. Nhưng điều tích cực hơn của ngày lễ hôm nay không chỉ là sứ điệp hoán
cải, mà chính là lời mời gọi mở rộng tấm lòng, mà trân trọng tất cả những người
không cùng chia sẻ một niềm tin với mình, bởi lẽ họ cũng có chỗ đứng trong tấm
lòng hiển linh của Chúa. Ơn cứu độ là phổ quát. Và nếu nét đặc trưng của lễ
Hiển Linh là ánh sao dẫn đường, thì trách nhiệm của những kẻ đã được gặp gỡ
Thiên Chúa sẽ không chỉ thu hẹp trong đời sống cá nhân tu thân tích đức, mà còn
hướng tới sứ vụ đối với những kẻ lân cận mình. Những chứng tá đức tin cậy mến,
những gương sáng đời sống gia đình, những nỗ lực thực thi các giá trị Phúc Âm
chính là những ánh sao cụ thể soi đường truyền giáo.
Nếu mỗi kẻ tin là ánh sao, con đường
gặp gỡ biết bao sáng ngời, và lời tiên báo của tiên tri Isaia sẽ nên hiện thực
hiển linh cho đời.
Tóm lại, khởi đi từ cách hiểu về tên
gọi của ngày lễ để dẫn tới đời sống đức tin, đó là chủ đích của những điều chia
sẻ trên đây. Nhưng từ hiểu biết đến đức tin, khoảng cách vẫn không nhỏ. Chính
Phúc Âm hôm nay là một kinh nghiệm. Xin đừng để kinh nghiệm ấy mãi còn là một
nghịch lý không thể vượt qua. Nhưng hãy để kinh nghiệm ấy biến thành những kinh
nguyện quyết tâm mở sang cuộc sống mới. Và đó chính là cách gọi tên cụ thể một
ngày lễ.
26. Niềm tin: một chuyến đi
(Trích trong 'LÀM NỤ HOA TRẮNG' – ĐGM
Giuse Vũ Duy Thống)
Phúc Âm hôm nay rất sống động. Cứ như
cuốn phim mô tả cuộc hành trình đầy kịch tính của những khách lạ phương xa: từ
ngạc nhiên khám phá ngôi sao lạ, qua xáo động tại Giêrusalem, tới Bêlem nghiêng
mình thờ kính, rồi dắt díu nhau lặng lẽ tìm đường khác về nhà. Cứ như xô đẩy
nhau xuất hiện trên màn ảnh những cuộc đối đầu càng lúc càng thêm căng thẳng:
giữa chính diện và phản diện, giữa lo sợ của bên này và thanh thản của bên kia,
giữa tìm gặp hướng tới và lạc mất nẻo đi. Cứ như í ới cơ man nào là tiếng nhỏ
to bàn bạc chen lẫn tiếng ồn ào bàn tán của những kẻ bị xem là xa nhưng lại
biết bàn vào và của những người được coi là gần nhưng chỉ biết bàn ra.
Nhưng giữa những chi tiết tưởng như bất
ngờ trên hành trình rất dài và rất xa ấy, người ta thấy lấp lánh hình ảnh của
niềm tin như một chuyến đi với những đặc tính tiêu biểu:
1) Niềm tin: một chuyến đi biết tiếp
nhận hồng ân Thiên Chúa.
Những vai chính trong cuộc hành trình
tìm tới Bêlem "triều bái Vua dân Do Thái mới sinh" được truyền thống
giới thiệu bằng nhiều kiểu nói khác nhau, lúc thì gọi là Vua, lúc khác là Đạo
sĩ hoặc Chiêm tinh gia. Gọi sao cũng được: Vua vì những của lễ tiến dâng, Đạo
sĩ vì hành trình tìm kiếm, Chiêm tinh gia vì nhìn thấy ngôi sao và dựa vào ánh
sao mà xác định lối đường. Chỉ biết họ là những người thiện chí kiếm tìm chân
lý và vận dụng tốt những phương tiện đang có để tìm gặp chân lý bằng cách lên
đường không mỏi mệt.
Khởi điểm cuộc hành trình là một ánh
sao lạ xuất hiện phía trời Đông, tượng trưng cho ơn thánh dẫn khởi từ Thiên
Chúa, để ai biết tiếp nhận, sẽ trở nên ánh sáng soi đường. Nhìn thấy ánh sao
hằng hà sa số trên bầu trời đêm là một điều bình thường ai cũng có thể làm
được, nhưng nhận thấy giữa muôn vàn lấp lánh ấy chỉ một ánh sao lạ thôi lại là
chuyện chẳng bình thường chút nào, nếu không muốn nói là do tổng hợp giữa kiếm
tìm và gặp gỡ, hay đúng ra giữa ơn Trời ban và lòng người biết mở ra tiếp nhận.
Tương tự, niềm tin trước hết là hồng ân
đến từ tình thương Thiên Chúa dành cho hết mọi người, nhưng chỉ những ai biết
tiếp nhận với tâm thành chí thiện, họ mới có thể có được niềm tin vào Chúa để sẵn
sàng khăn gói lên đường khởi sự chuyến đi. Ra khỏi nếp nghĩ thường ngày để tiếp
nhận ý Chúa, ra khỏi thói quen khô cứng lâu đời do cha ông truyền lại để mạo
hiểm một phen bước theo ánh sáng trời cao, ra khỏi những tiện nghi đủ đầy dậm
chân tại chỗ để cơm mắm cơm muối gieo bước lữ hành.
2) Niềm tin: một chuyến đi biết chấp
nhận những thử thách
Là hồng ân Chúa ban, nhưng đức tin cũng
còn là nỗ lực đóng góp không ngơi nghỉ của con người, để vượt qua những thử
thách và kinh qua những thử luyện được xem là những thách đố trong chiều dài
cuộc sống. Đây không chỉ là chuyện "thức lâu mới biết đêm dài" để con
người chứng minh sức bền tin tưởng tháng năm, mà còn là chuyện "lửa thử
vàng gian nan thử đức" trong những lúc Thiên Chúa xem ra ẩn mặt và hồng ân
xem ra vắng bóng, như lúc "ba Vua toan mất hướng, ánh sao bỗng vụt
lặn". Đấy là chưa kể đến những lúc phải đối diện với âm mưu chủ ý của
những người đồng đạo, cũng tin Chúa nhưng không thành tâm, thậm chí còn gài bẫy
ngọt ngào giả nhân giả nghĩa như Hêrôđê; hay cũng biết cách quy chiếu Thánh
Kinh nhưng không để tìm ra lối sống ngay chính, trái lại, chỉ lợi dụng để toa
rập lừa gạt phỉnh phờ người khác như một số thượng tế và kinh sư trong dân.
Đêm Noel Chúa sinh ra đem xuống niềm
vui, nhưng thành phố nào đó của Iran
chẳng những không có niềm vui mà còn phải chịu động đất làm chết nửa thành phố.
Chúa như vắng mặt. Thử thách. Đêm Noel thiên thần hát khúc bình an mà tại Bêlem
chính nơi Chúa sinh ra hôm nay vẫn còn chiến tranh, chết chóc. Chúa như vắng
mặt. Se lòng.
Thử thách đối với đức tin như gió đối
với lửa: gió thổi tắt lửa yếu, nhưng làm bừng lên lửa sáng. Vấn đề là cần biết
can đảm và bền chí. Những thử thách trong cuộc sống niềm tin không phải là dấu
hiệu Thiên Chúa bỏ rơi con người, mà là những cơ hội để con người chứng minh
phẩm chất niềm tin. Niềm tin không thử thách: niềm tin dễ dàng; niềm tin thất
bại trước thử thách: niềm tin dễ dãi; niềm tin chấp nhận thử thách mới là niềm
tin đích thực cho dẫu nhiều khi chẳng dễ chịu chút nào.
3) Niềm tin: chuyến đi biết đón nhận
đồng hành
Không phải vô tình mà lễ Hiển Linh vẫn
được truyền thống gọi là lễ Ba Vua, có nơi kể tên các vị đến hàng chục (theo
kiểu đồng bằng sông Cửu Long thì còn có cả chục 12, chục 16 cơ đấy), nhưng
chừng như hữu ý cho thấy niềm tin không phải là cuộc đơn hành mà là một chuyến
đi biết đón nhận đồng hành, không chỉ vì lý do "càng đông càng vui"
mà vì giới luật yêu thương là biểu hiện rõ nhất của đức tin cũng là cách cụ thể
sống động nhất để diễn đạt đức tin. Con người thời nào cũng thế, không thích bị
chinh phục bởi giáo điều nhưng lại tự nguyện buông mình chịu khuất phục vì
gương sáng đức tin. Nhớ lại ở Thăng Long thuở hạt giống Tin Mừng mới được gieo
vào thửa đất Việt Nam ,
tín hữu thương nhau quá trời đến nỗi người ngoài đời đã gọi tín hữu là những người
theo "Đạo yêu nhau", tức là những người cùng đi với nhau trên nẻo
sáng yêu thương.
"Ngựa chạy có bầy, chim bay có
bạn", tín hữu đồng hành bên nhau còn để nâng đỡ nhau, nhất là trong cơn
nguy biến như Ba Vua gặp Chúa tại Hang đá rồi, phải dìu nhau lên con đường khác
để tránh âm mưu đen tối của Hêrôđê. Ngoài miệng thì bảo là đi triều bái, còn
trong hành động lại làm điều trái, tàn sát thê lương, "giết tất cả các con
trẻ ở Bêlem và vùng phụ cận, từ hai tuổi trở xuống, tính theo ngày tháng ông đã
hỏi cặn kẽ các nhà chiêm tinh". Con đường khác ấy sẽ mới hơn, lạ hơn và
cũng có thể sẽ gặp rủi ro nhiều hơn, nhưng đã có bạn bè thân quen bên cạnh đồng
hành, nên cứ an lòng nương tựa vào nhau mà dấn bước.
Giống như Kinh Tin Kính, dẫu tín hữu
tuyên xưng mang tính bản thân cá nhân "Tôi tin", nhưng không là đơn
độc một mình giữa nhà thờ trống vắng mà là giữa cộng đoàn Phụng Vụ một ngày lễ
trọng, nên bỗng lấp lánh như thể đồng thanh tuyên tín "Chúng tôi
tin". Tôi và chúng ta chỉ là những cách biểu lộ khác nhau của cùng một
niềm tin đón nhận đồng hành.
Tóm lại, dựa vào hành trình của những
vai chính ngày lễ Hiển Linh để phác vẽ niềm tin như một chuyến đi biết tiếp
nhận hồng ân Thiên Chúa, biết chấp nhận thử thách và biết đón nhận đồng hành là
cùng lúc tích cực hòa mình vào biến cố Chúa tỏ mình ra cho muôn dân. Nếu Chúa
luôn có cách tỏ mình của Ngài thì tín hữu cũng cần lên đường đúng cách Chúa tỏ
ra cho mình biết. Như thế niềm tin mới là chuyến đi đẹp lên ý nghĩa kiếm tìm và
gặp gỡ. Và đó cũng là những hình ảnh sinh động mang tính hiển linh của kẻ tin
trước mắt người đồng thời, giống như hình ảnh của những vai chính trong chuyến
đi hôm nay: ở bước truy tìm họ được mệnh danh là Chiêm tinh gia, khi đã bước
lên đường họ được gọi là Đạo sĩ và khi tới đích với lễ dâng thành kính họ được
xưng tụng là Ba Vua.
27. Những con mắt hiển linh
Trong bài Phúc Âm của lễ Hiển Linh có
một từ đáng cho chúng ta suy niệm: thấy. Có mắt để phát hiện những điều bí ẩn,
những con mắt hiển linh như các nhà đạo sĩ: "Họ thấy Con Trẻ và Mẹ Ngài và
họ liền sấp mình thờ lạy Ngài".
Họ thấy gì? Họ tưởng tượng điều gì? Từ
bậc quyền cao chức trọng nào họ phải xuống để thích ứng ngay với thực tế rất
khiêm hạ này: một cặp vợ chồng và đứa con của họ? Các đạo sĩ đã
"thấy".
Lời mời gọi đầu tiên của lễ Hiển Linh là:
thấy Con Trẻ. Thấy tất cả những gì có nơi Đấng Tuyệt Đối duy nhất này, thầm bảo
rằng qua Ngài chúng ta có thể thấy Thiên Chúa, như phụng vụ Acmêni diễn tả rất
hay: Hôm nay, Đấng vô hình hiển linh. Đấng mà con người không thấy nay tỏ hiện
để chúng ta được thấy.
Làm sao không nghĩ đến câu nói nổi
tiếng của thánh Irênê mà luôn luôn phải trích dẫn nguyên vẹn: "Vinh quang
của Thiên Chúa chính là sự sống của con người, và sống đối với con người chính
là thấy Thiên Chúa".
Thấy Chúa. Thánh Gioan nói trong đoạn mở
đầu Phúc Âm của mình: "Không ai thấy Thiên Chúa; chính Con duy nhất ngự
trong lòng Chúa Cha mới tỏ bày Ngài cho chúng ta".
Ước gì chúng ta có mắt để thấy những
điều này! Con mắt đức tin, con mắt xưa kia, ở Palestine , biết mở ra để nhìn vào mầu nhiệm
của Chúa Giêsu, và cái nhìn nội tâm giờ đây làm chúng ta phải sấp mình trước
mặt Ngài. Thánh nữ Têrêsa thành Avila
đã viết: "Cái gì ngăn cản chúng ta dùng con mắt của tâm hồn để nhìn về
Chúa? Ngài chỉ chờ đợi cái nhìn của chúng ta mà thôi".
Cái nhìn nội tâm này, sức mạnh của con
mắt đức tin này không được đóng kín chúng ta trong một tháp ngà nhỏ: "Anh
và tôi!" hoặc trong một tháp ngà lớn hơn: "Chúng ta, những người theo
Kitô giáo". Đây là lời kêu gọi thứ hai của lễ Hiển Linh: nhận rõ ràng Con
Trẻ xuất hiện vì tất cả chúng ta. Đàng sau các đạo sĩ, ta thấy được những đám
đông mà các vị là biểu tượng, những đám đông mà Isaia phát hiện bằng con mắt
hiển linh: "Hãy nhìn xem, hỡi Giêrusalem! Bóng tối bao trùm muôn dân nhưng
Chúa sẽ xuất hiện trên ngươi, các dân tộc hướng về ánh sáng của ngươi. Hãy nhìn
xem! Họ đang quy tụ lại".
Người ta nói rằng định mệnh hạn chế cái
nhìn của chúng ta. Chúng ta được tạo dựng cho những gì là to lớn của một thế
giới đang chờ đợi Chúa và chúng ta cúi xuống nhìn vào cuộc sống của chúng ta và
nhìn vào giáo xứ của chúng ta. Thỉnh thoảng, những đám đông hoan hô Đức Thánh
Cha làm cho chúng ta cảm nhận làn sóng Công Giáo, nhìn thấy muôn dân họp lại
đời đời. Nhưng chúng ta nhanh chóng trở về với chúng ta, những nhóm nhỏ đang
hành đạo.
Chúng ta có quá dễ dàng chấp nhận làn
sóng những người không tin đang gia tăng hay không? Quen sống trong những khu
vực theo Kitô giáo, ở giữa những môi trường mà hai tiếng Thiên Chúa không còn ý
nghĩa gì nữa có phải là điều bình thường hay không?
Lạy Chúa, xin khơi dậy nơi chúng con
lòng nhiệt thành của những người theo Kitô giáo đầu tiên mà đối với họ lời của
Chúa Giêsu vẫn còn sống động: "Các con hãy đi dạy dỗ muôn dân" (Mt
28,19). Ước chi Giáo Hội của Ngài, Giáo Hội vào thời đại có nhiều người không
tin này, không ngừng chọn lựa làm những người thừa sai, ước chi trong số mười
linh mục người ta không chọn chín vị để nâng niu chiều chuộng các tín hữu và
một vị để xông pha những chỗ mà Chúa không còn ở đó nữa.
Trong khi cầu nguyện như thế con cảm
thấy con cũng thiếu tinh thần truyền giáo. Hay có lẽ con sợ hãi. Con sống ở
giữa những anh chị em không thấy Chúa và con làm như thể con cũng là một người
không thấy Chúa. Nhưng làm sao để nói với những người ở ngoài đường, ở trong
các cửa hàng và trong nhà máy về Chúa? Và thậm chí đơn giản hơn là nói với anh
A chị B mà con thường gặp từ bao nhiêu năm nay nhưng không nói gì với họ về
Chúa? Tôn trọng ý kiến, lương tâm của họ chăng? Phải tôn trọng rồi. Con coi
thường khi người ta nói về những chứng nhân của Giêhôva nhưng con, con làm gì
để truyền giáo?
Con làm chứng nhân như thế nào đây?
Thật đơn giản khi nhắc lại rằng người ta làm chứng bằng cuộc sống của mình, con
biết rõ rằng đôi khi việc loan báo Tin Mừng cần đến lời nói, thế mà con im
lặng. Thậm chí sau cùng thì con không còn thấy những người có lẽ đang chờ đợi
chứng tá của con nữa. Xin Chúa cho con có những cặp mắt của người tông đồ,
những con mắt hiển linh.
28. Từ bỏ
Hôm nay, chúng ta mừng lễ Hiển linh,
ngày Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, ba nhà bác
học phương đông.
Câu hỏi thứ nhất: các ngài là ai?
Phúc âm đã dùng danh từ
"magi" để nói về các ngài. Magi có nghĩa là các vị tư tế, ngoài việc
tôn giáo, họ còn chuyên môn về khoa học, nhất là thiên văn, vì thế họ thường
được triều đình tôn làm cố vấn. Ngoài ra, magi còn có nghĩa là các nhà đạo sĩ,
dùng phép thuật của mình như một kế sinh nhai. Phúc âm không xác định rõ các
ngài thuộc vào hạng người nào.
Tuy nhiên, chúng ta có thể tin chắc
chắn các ngài là những người học rộng biết nhiều và thông thạo về thiên văn.
Bởi đó, gọi các ngài là những nhà bác học, thiết tưởng cũng không sai cho lắm.
Ngoài ra, dựa vào những lễ vật dâng
tiến, cũng như dựa vào thánh vịnh 71:
- Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm,
Hàng vương giả sẽ về triều cống.
Cả những vua Ả-rập, Xơ-va,
Cũng đều tới tiến dâng lễ vật.
Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng,
Muôn dân nước thảy đều phụng sự.
Tertulianô đi tới kết luận: các người
là những bậc vương đế. Vì thế, từ xa xưa người ta thường gọi lễ này là lê Ba
Vua. Tuy nhiên, lập luân trên không được xác thực cho lắm.
Câu hỏi thứ hai: các ngài có bao nhiêu
người?
Những bức bích họa dưới các hoang toại
đạo vào những thế kỷ đầu, có bức vẽ hai vị, có bức vẽ ba vị, có bức vẽ bốn vị,
thậm chí có bức vẽ tới...mười hai vị. Ngày nay, chúng ta thường nói tới ba vị,
vì dựa vào ba thứ lễ vật các ngài dâng tiến.
Câu hỏi thứ ba: các ngài từ đâu mà tới?
Magi là hạng người xuất hiện đầu tiên
tại Ba Tư. Các họa sĩ cổ xưa thường vẽ các ngài với y phục Ba Tư, nên nhiều
người đã xác quyết các ngài từ Ba Tư mà đến. Tuy nhiên, lý luận này cũng không
được ổn cho lắm. Phúc âm chỉ nói các ngài từ phương đông mà tời. Và phương đông
là tên người Do Thái thường dùng để gọi xứ Ả Rập. Hơn nữa, những lễ vật như
vàng, nhủ hương và mộc dược, là thổ sản của xứ này. Như vậy, các ngài từ Ả Rập
mà đến thì có lẽ đúng hơn.
Sau cùng, câu hỏi thứ bốn: đâu là bài
học chúng ta cần ghi nhận?
Bài học chúng ta ghi nhận hôm nay, đó
là sự tử bỏ. Thực vậy, các ngài là những người giàu sang, có một địa vị lớn
trong xã hội thời bấy giờ, thế nhưng một khi đã nhận biết ý Chúa qua ánh sao
lạ, các ngài đã can đảm, dám liều, dám từ bỏ tất cả để lên đường tìm đến với vị
vua mới sinh ra.
Đúng thế, các ngài đã để lại sau lưng
nào vợ đẹp con khôn, nào tiền bạc giàu sang, nào địa vị chức auyền, để dấn thân
vào một cuộc phiêu lưu vô định, dưới sự soi dẫn của một ánh sao. Các ngài đã
phải vượt qua biết bao nhiêu khó khăn, đã phải chấp nhận biết bao nhiêu nguy
hiểm: nào là những nụ cười mỉa mai của bà con bè bạn, nào là những vất vả cực
nhọc suốt khoảng đường dài...Thế nhưng, các ngài vẫn cất bước tiến lên với một
lòng tin tưởng vững chắc.
Nếu suy nghĩ chúng ta sẽ thấy bất kỳ ơn
gọi nào cũng đều đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ, phải hy sinh, như lời Chúa đã
phán:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác
thập giá mình mà theo Ta.
Tôi xin đưa ra hai trường hợp tiêu
biểu. Trước hết, đó là trường hợp của Abraham. Ông đang sống yên ổn với gia
đình trong cảnh giàu sang, thế nhưng Thiên Chúa đã hiện ra bảo ông phải lên
đường tới một vùng đất nào đó mà Ngài sẽ trao ban làm sản nghiệp. Abraham liền
cúi đầu vâng nghe. Rồi khi tới tuổi già và có được một mụn con trai để nối dõi
tông đường, thế mà Thiên Chúa lại truyền phải sát tế mà dâng kính Ngài. Abraham
cũng đã cúi đầu vâng nghe.
Tiếp đến, đó là là trường hợp của các
tông đồ. Các ông đang sống yên ổn bằng nghề chài lưới, thế rồi một hôm Chúa
Giêsu đi ngang qua và lên tiếng gọi:
- Hãy theo ta.
Lập tức các ông từ bỏ ghe thuyền, chài
lưới và những người thân yêu để bước theo Chúa.
Với Mathêu cũng vậy, đang làm giàu với
nghề thu thế, nhưng sau khi nghe tiếng gọi của Chúa, ông cũng đã từ bỏ tất cả
để đi theo Ngài.
Từ mẫu gương của ba nhà ba nhà bác học
phương đông, của Abraham và của các tông đồ, chúng ta đi tới một kết luận: Muốn
theo Chúa, muốn chu toàn thánh ý của Ngài, chúng ta cũng phải dám liều, dám từ
bỏ mọi sự, dám hy sinh tất cả, dám dấn thân vào một cuộc phiêu lưu đầy bấp
bênh. Thế nhưng liệu chúng ta có đủ quảng đại để đáp trả tiếng gọi của Chúa và
có đủ can đảm để thực hiện những điều ấy không?
29. Đến thờ lạy.
Xưa kia có một tu sĩ thánh thiện sống ở
Ai Cập. Một ngày nọ có chàng thanh niên đến thăm và muốn xin ngài dạy bảo. Anh
thỉnh cầu với tu sĩ: "Thầy là người thánh thiện, xin thầy chỉ cho con biết
làm thế nào tìm thấy Thiên Chúa". Tu sĩ là người khỏe mạnh và lực lưỡng.
Ngài hỏi chàng thanh niên: "Anh có thực sự muốn đi tìm Thiên Chúa
không?" Chàng thanh niên trả lời: "Đúng vậy, thưa ngài, con thực sự
ước ao muốn tìm kiếm Thiên Chúa".
Sau đó tu sĩ dẫn chàng thanh niên xuống
bờ sông. Thình lình, ngài túm lấy cổ anh rồi nhấn đầu xuống nước. Thoạt tiên
chàng thanh niên nghĩ rằng tu sĩ ban cho anh nghi thức thanh tẩy đặc biệt giống
như Phép Rửa tội của thánh Gioan Tẩy giả ở bờ sông Giođan. Nhưng sau gần hai
phút tu sĩ vẫn không buông ra, anh bắt đầu vùng vẫy. Dù vậy tu sĩ vẫn dìm anh
dưới nước. Bị ngộp thở, chàng thanh niên đã phải vùng vẫy mãnh liệt hơn nữa.
Sau vài phút, tu sĩ lôi cổ anh lên khỏi mặt nước và nói: "Khi nào anh ước
muốn tìm Thiên Chúa mạnh mẽ như anh ước ao có không khí để thở, lúc ấy anh sẽ
tìm thấy Thiên Chúa".
Hôm nay thánh Matthêu nói với chúng ta
về những người có một ước muốn mãnh liệt đi tìm kiếm Đấng Cứu Chuộc nhân loại.
Đó là các nhà đạo sĩ.
Một số người Kitô hữu gốc Do Thái trong
cộng đoàn của Matthêu thắc mắc rằng theo Đức Giêsu có phản bội lại đức tin của
tổ tiên không. Họ hỏi: "Thưa ngài Matthêu tại sao nhiều người không phải
là Do Thái đang đi theo Chúa Giêsu, trong khi đa số những người đồng hương Do
Thái lại từ chối Ngài?" Matthêu đã trả lời rằng vì những người không phải
Do Thái, những người ngoại trở lại đã có một lòng ước muốn mãnh liệt tìm kiếm
Đấng Cứu Thế. Trái lại, những vị lãnh đạo Do Thái nghĩ rằng họ đã có Thiên Chúa
rồi, họ nhận thấy không có lý do gì phải đi tìm kiếm Đấng họ đã có. Đối với họ,
có Đấng Cứu Thế thì cũng tốt, nhưng không phải là vấn đề cấp thiết như sự sống
và sự chết. Do đó, họ đã không có một lòng ước ao mãnh liệt để tìm kiếm Ngài.
Các nhà đạo sĩ chính là những nhà thiên
văn đã kiên trì nghiên cứu trong Thánh Kinh, sách của người Do Thái, nói về
những dấu hiệu xuất hiện trên trời, những dấu hiệu của Đấng Cứu Thế đang đến.
Họ theo dõi hằng đêm, cho đến khi khám phá thấy một vì sao. Vì lòng ao ước tìm
kiếm chân lý mãnh liệt họ đã từ bỏ xứ sở của mình và lên đường. Đây là cuộc
hành trình rất vất vả, khổ cực và đầy nguy hiểm trong sa mạc với đoạn đường dài
800 dặm, khoảng 1280 km, từ Babylon tới Giêrusalem. Còn chúng ta, chúng ta có
khao khát muốn tìm gặp Chúa hay không?
30. Những đạo sĩ hôm nay
Suy nghĩ về lễ Hiển Linh, ngày Thiên
Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại, tôi có một nhận xét nho nhỏ, xin được chia sẻ.
Nhận xét ấy như thế này:
Các nhà đạo sĩ phương đông là những
người ít được chuẩn bị, ít được hiểu biết về Kinh Thánh, nhưng lại có một tấm
lòng quảng đại, sẵn sàng đáp trả tiếng gọi của Thiên Chúa. Các ông đã lên đường,
dấn thân vào một cuộc phiêu lưu hoàn toàn bấp bênh, để rồi cuối cùng các ông đã
có được diễm phúc gặp gỡ Chúa nơi máng cỏ Bêlem dưới vóc dáng của một hài nhi
nhỏ bé, nghèo túng và tầm thường.
Các ông là những người tuy xa mà lại
gần.
Trong khi đó, các luật sĩ, tư tế và
biệt phái sống tại Giêrusalem. Họ là những người đã được chuẩn bị rất kỹ lưỡng.
Họ thông thuộc Kinh thánh. Bằng cớ là họ đã trả lời vanh vách nơi Đức Kitô sinh
ra, thế nhưng họ đã không dám lên đường tìm gặp Ngài. Và hơn thế nữa, họ còn tiếp
tay với Hêrôđê để sát hại Ngài.
Sở dĩ như vậy vì họ muốn Đấng Cứu Thế
của họ phải được sinh ra trong lầu đài cung điện, để rồi một mai khi lớn lên,
Đấng ấy sẽ là một ông vua hùng mạnh như Đavít, khôn ngoan như Salomon, sẽ giải
thoát họ khỏi ách thống trị của đế quốc La Mã và dẫn đưa dân tộc họ tới một
thời đại hoàng kim, khiến cho mọi dân nước phải quy phục và triều cống. Họ
không muốn chấp nhận Ngài dưới vócdáng của một hài nhi nhỏ bé, nghèo túng và
tầm thường. Và họ đã không lên đường tìm gặp Ngài.
Họ là những người tuy gần mà lại xa.
Cũng trong chiều hướng ấy, tôi nghĩ
rằng những người dám hy sinh, dám dấn thân, dám lên đường tìm gặp Chúa nơi
những kẻ nghèo túng và bất hạnh, để yêu thương và giúp đỡ, họ chính là những
nhà đạo sĩ của thời buổi hôm nay.
Đúng thế, ngày hôm nay vẫn có những nhà
đạo sĩ tìm gặp Chúa nơi những người anh em khổ đau và cùng khốn.
Có những người như Mẹ Têrêxa thành
Calcutta, vừa mới được phong lên hàng chân phước, hằng ngày không ngần ngại đi
lượm từng hình hài sắp chết, từng con trẻ bị bỏ rơi... rồi mang về chăm sóc.
Có những người như Cha Prado bên Pháp,
đã sang tận Ấn độ để đem lại sức sống mới cho một cộng đoàn nghèo, hết lẽ sống
và cũng hết muốn sống.
Có những người như những tu sĩ đã biến
nhà mình thành nơi cư trú cho những trẻ em bị bại liệt, hay những thanh thiếu
niên bụi đời, lang thang nơi đầu đường xó chợ.
Có những người như Đức Cha Casaldaliga,
đã lập tòa giám mục của mình trên một chiếc thuyền độc mộc để ngày ngày, tay
chèo tay chống, đi đấu tranh với các công ti tư bản cũng như với quân độ
Brasil, vì quyền lợi của đám dân da đỏ mà Chúa đã trao ban như là những con
chiên của Ngài.
Gần chúng ta và bên cạnh chúng ta, cũng
không thiếu gì những mẫu gương sống động như thế.
Họ là những nữ tu trong bệnh viện. Họ
là những thày cô công giáo trong các trường học. Họ là những công nhân có đạo
trong các xưởng thợ. Họ là những y tá, những bác sĩ kitô hữu đã dành thời giờ
mình được quyền nghỉ ngơi cho những người phong cùi, cũng như cho những bệnh
nhân ở những vùng xa xôi hẻo lánh, thiếu thốn những tiện nghi vật chất.
Họ không phải chỉ làm những công việc
này vì lòng đạo đức và tình bác ái, mà hơn thế nữa, vì họ đã nhận ra nơi những
kẻ nghèo túng va bất hạnh mà họ đang phục vụ khuôn mặt đích thực của Đức Kitô.
Đúng như lời Đức Giám mục Bossuet đã
nói:
- Người nghèo ở đâu thì Nước Trời ở đó.
Người nghèo chính là một bí tích, một dấu chỉ của Đức Kitô.
Thế nhưng, liệu chúng ta có dám lên
đường tìm gặp Chúa nơi những người anh em bất hạnh và khổ đau hay không?
31. Suy Niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Theo bài Tin Mừng, những kẻ gặp được
Đức Giêsu là người có đạo hay ngoại đạo? Tại sao? Bạn có rút ra được kết luận
gì không?
2. Có Kinh Thánh, giáo huấn của Chúa và
Giáo Hội trong tay, điều đó đã đủ để ta gặp Chúa chưa? Còn thiếu điều gì nữa?
3. Trong thời đại này, ta có thể tìm
gặp Chúa ở đâu? trong nhà thờ? trong phụng vụ? trong các bí tích? hay nơi những
người anh em chung quanh ta? Theo tinh thần của Tin Mừng, thì Chúa muốn ta gặp
Ngài ở đâu hơn?
Suy niệm
1. Người ngoại cũng được vào Nước Trời
Ngày xưa, những người theo đạo Do Thái
quan niệm chỉ có những người theo đạo Do Thái, nghĩa là có chịu phép cắt bì mới
được cứu rỗi. Sách Công Vụ Tông đồ cho thấy quan niệm ấy của họ: «Có những
người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng: "Nếu anh em không chịu phép cắt
bì theo tục lệ Mô-sê, thì anh em không thể được cứu độ"» (Cv 15,1). Ngày
nay, nhiều người Kitô hữu cũng có quan niệm tương tự như thế. Nhưng tinh thần
của bài Tin Mừng hôm nay mạc khải một sự thật hoàn toàn ngược lại quan niệm ấy.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy chính những
người Do Thái – mặc dù biết Đấng Cứu Thế sinh ra tại đâu – lại không thèm tìm
kiếm Đức Giêsu mới sinh ra. Những người tìm kiếm Ngài và đã thấy Ngài, thờ lạy
Ngài và dâng tặng vật cho Ngài lại là dân ngoại từ tận đâu đâu đến. Kinh Thánh
còn cho ta biết người Do Thái chẳng những không tìm kiếm Đức Giêsu, mà còn bách
hại Ngài nữa. Vì thế, Nước Trời vốn ưu tiên cho người Do Thái, nhưng vì họ từ
chối bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối, nên đã được đem đến cho dân
ngoại: «Phao-lô và Ba-na-ba mạnh dạn lên tiếng: "Anh em phải là những
người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời
ấy, và tự coi mình không xứng đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi
quay về phía dân ngoại» (Cv 13,46). Và lịch sử cho thấy dân ngoại vô số người
đã vào Nước Trời – mà dấu chỉ là Giáo Hội – đang khi người Do Thái lại đứng ở
ngoài. Thật đúng với câu Đức Giêsu nói: «Từ phương đông phương tây, nhiều người
sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp trong Nước Trời.
Nhưng con cái Nước Trời thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta
sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 8,11-12). Đức Giêsu cũng đã dùng nhiều dụ
ngôn để nói lên sự thật này: xem Mt 21,28-32 (Hai người con kẻ nói vâng người
nói không), Mt 21,33-46 (Những thợ vườn nho sát nhân), Mt 22,1-14 (Tiệc cưới).
2. Bài học cho người Kitô hữu hôm nay
a) Có Kinh Thánh và giáo lý trong
tay... không đủ!
Điều trớ trêu trong bài Tin Mừng hôm
nay là người Do Thái – đặc biệt những tư tế và luật sĩ – có Kinh Thánh trong
tay, nên họ biết Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra ở đâu, và lúc nào họ cũng tỏ ra mong
chờ Đấng ấy đến. Thế nhưng những người gặp được đấng Cứu Thế – các đạo sĩ và
mục đồng – lại là những kẻ chẳng biết gì về Kinh Thánh. Điều ấy chẳng làm cho
chúng ta suy nghĩ sao?
Người Kitô hữu hôm nay có đủ mọi phương
tiện để được cứu rỗi: Kinh Thánh (Cựu và Tân Ước), giáo lý, giáo huấn Giáo Hội
(các văn kiện Tòa Thánh), các sách thần học, tu đức, luân lý, rồi các bí tích,
các giờ phụng vụ... Nhưng hãy coi chừng kẻo lịch sử lại lập lại «y trang» như
cách đây hơn 2000 năm. Vì bài Tin Mừng cho thấy: để gặp được Đấng Cứu Thế, có
Kinh Thánh trong tay không đủ, mà còn phải nhạy bén để biết thời điềm, đồng
thời thật sự lên đường tìm kiếm Ngài. Người Do Thái – cụ thể là các tư tế và
luật sĩ – có nhiều điều kiện để gặp Ngài hơn các đạo sĩ (có Kinh Thánh, ở gần
nơi Ngài sinh ra, được các đạo sĩ báo về ngôi sao của Ngài), nhưng đã không lên
đường tìm kiếm Ngài. Họ muốn yên thân với những tập tục đạo đức của họ, với
cách giữ đạo cổ truyền của họ, và họ nghĩ rằng Đấng Cứu Thế sẽ chủ động đến để
gặp họ, đem sự giải phóng đến cho họ. Nhưng sự thật đã xảy ra không phải như
vậy.
b) Điều cốt yếu là tình yêu đích thực
đối với Thiên Chúa và tha nhân
Bài Tin Mừng hôm nay mời gọi người Kitô
hữu xét lại xem: cách sống đạo của chúng ta có giúp chúng ta đến gặp Chúa hay
không, nghĩa là có thể đem lại ơn cứu độ cho chúng ta hay không. Chúng ta đừng
an tâm tưởng rằng cứ giữ những tập tục đạo đức truyền thống cho tốt là bảo đảm
vào được Nước Trời. Như thế không đủ! Điều cốt yếu để vào được Nước Trời không
chỉ là tin vào Đức Giêsu mà còn phải thể hiện niềm tin ấy bằng việc sống theo
lời Ngài: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau;
anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13: 34). Nghĩa là
chúng ta phải chứng tỏ được tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa và tha
nhân. Mà tình yêu đối với Thiên Chúa lại được thể hiện qua tình yêu đối với tha
nhân: «Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình,
người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy,
thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20).
c) Tình yêu phải được thể hiện thành
hành động thật sự
Giấy thông hành để vào Nước Trời chính
là tình yêu, mà phải là tình yêu đích thực. Không ai thiếu tình yêu mà vào Nước
Trời được, vì Nước Trời là Nước của Tình Yêu. Tình yêu đích thực tự bản chất là
phải được thể hiện thành hành động. Nếu «đức tin không có hành động thì là đức
tin chết» (Gc 2,17), thì cũng vậy, tình yêu không có hành động là tình yêu giả
hiệu. Với tình yêu giả hiệu, chúng ta không thể vào Nước Trời được.
Nhưng làm sao ta dám nói là ta có tình
yêu đích thực đối với anh em mình khi họ lâm nạn mà ta lại khoanh tay đứng
nhìn? Làm sao tình yêu của ta là đích thực được khi ta thấy rõ ràng anh em mình
đang chịu bất công mà ta lại không chịu lên tiếng hay can thiệp, nhất là khi
tiếng nói của ta có thể rất hữu hiệu? Nếu ta thấy anh em mình chịu bất công tỏ
tường mà vì muốn yên thân ta lại làm chứng với mọi người rằng đó không phải là
bất công, thì tình yêu của ta là chân thực sao được? Nếu cách hành động của ta
là như thế, thì dù ta có tuân thủ giữ những tập tục truyền thống trong tôn giáo
một cách hoàn hảo, không chê vào đâu được, chúng ta vẫn luôn luôn ở ngoài Nước
Trời.
d) Cần cảnh giác với thứ đạo đức hương
nguyện, thiếu việc làm
Tệ hơn nữa, là khi chính chúng ta đã
không chịu thể hiện tình yêu, mà lại cổ võ một thứ đạo đức không việc làm, luôn
luôn đề cao việc đọc kinh cầu nguyện, dâng thánh lễ... mà không hề nhấn mạnh
bổn phận phải dấn thân cho anh em, phải quan tâm mưu cầu hạnh phúc cho những
người chung quanh, biến cải xã hội nên công bằng và tốt đẹp hơn, thì phải chăng
chúng ta đang tiếp tay cho kẻ ác ru ngủ quần chúng, làm tê liệt sức đấu tranh
cho công bằng xã hội của họ? Phải chăng chúng ta đang biến tôn giáo của chúng
ta thành «thuốc phiện» thật sự? Chúng ta quên rằng «điều quan trọng nhất trong
Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23). Và có thể chúng
ta miệng thì nói về Nước Trời, nhưng thật sự ta lại dẫn quần chúng đến một nơi
khác vì những giáo huấn của ta khác hẳn với tinh thần Tin Mừng? Đức Giêsu nói:
«Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo; nhưng
khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các
người» (Mt 23,15), liệu câu này có đúng với ta chăng? Vì nhiều khi cứ để họ
ngoại đạo, họ lại quan tâm đến việc thể hiện tình yêu với tha nhân hơn khi họ
vào đạo? Đến khi vào đạo, họ lại nghe lời ta chỉ biết quan tâm tới những tập
tục đạo đức cổ truyền?
Trái lại, những người không có Kinh
Thánh trong tay, không có giáo lý hay giáo huấn của Giáo Hội, không có bí tích,
nhưng họ lại có tình yêu đích thực, tức có giấy thông hành để vào Nước Trời.
Rất có thể họ lại vào Nước Trời trước chúng ta, là đối tượng ưu tiên của Nước
Trời, là những kẻ lúc nào cũng nói về Nước Trời mà không hành động cho Nước
Trời! Thánh Phao-lô nói: «Người ta được Thiên Chúa coi là công chính, không
phải vì nghe biết Lề Luật, nhưng là vì tuân giữ Lề Luật» (Rm 2,13), và «nếu
người không được cắt bì mà giữ những điều Luật dạy, thì tuy họ không được cắt
bì, Thiên Chúa chẳng coi họ như đã được cắt bì sao» (Rm 2,26). Bài Tin Mừng hôm
nay và nhiều dụ ngôn của Đức Giêsu cho chúng ta thấy viễn cảnh ấy! Và đó cũng
là một lời cảnh cáo chúng ta!
Cầu nguyện
Lạy Cha, nhiều khi chúng con làm chuyện
hết sức khờ dại. Chúng con luôn luôn đề cao đạo của mình trước mặt mọi người,
nhưng chính chúng con lại chẳng sống tinh thần đạo ấy. Đang khi có nhiều kẻ
ngoại giáo lại thật sự sống được tinh thần ấy. Việc đề cao tôn giáo của chúng
con, tự nó là một điều rất tốt, nhưng nhiều khi lại xuất phát từ một khuynh
hướng kiêu ngạo tập thể chứ không phải là tình yêu. Vì nếu nó xuất phát từ tình
yêu đích thực, thì chúng con đã phải thể hiện tình yêu ấy bằng sự dấn thân đích
thực cho những anh em đang chịu khốn khổ của mình. Sự im lặng trước bất công,
sự thụ động trước cảnh khốn cùng của đồng loại chứng tỏ chúng con chưa có tình
yêu đích thực. Vì thế, việc đề cao tôn giáo của chúng con chỉ là một hình thức
kiêu căng tập thể, là điều Cha rất ghét. Xin cho chúng con biết sống đích thực
tinh thần đạo của mình trước khi đề cao nó, để sự đề cao ấy có giá trị đích
thực làm sáng danh Cha. Amen.
32. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Các thượng tế và kinh sư Do Thái
biết rõ Đấng Cứu Thế sinh ra ở đâu lại không đến gặp Ngài, còn các nhà chiêm
tinh ở mãi tận đâu đâu, phải nhờ các thượng tế và kinh sư Do Thái chỉ cho, thì
lại gặp được Ngài. Tại sao lại có chuyện mỉa mai và nghịch lý như vậy?
2. Rút kinh nghiệm từ bài Tin Mừng thì
để gặp được Thiên Chúa, điều quan trọng nhất là gì? Cần phải có tôn giáo chân
chính, hay phải có thiện chí và quyết tâm đi tìm Ngài? Cái nào là yếu tố quyết
định để gặp được Ngài?
3. Động lực gì khiến vua Hêrôđê muốn giết
hài nhi Giêsu, cho dù biết hài nhi ấy là người của Thiên Chúa? Tuy Kinh Thánh
không đề cập đến, nhưng ta thử đoán xem các thượng tế và kinh sư Do Thái – với
bản chất của họ như ta đã thấy trong các Tin Mừng – đã có thái độ nào trước tội
ác của Hêrôđê: can đảm ngăn cản nhà vua hay mặc kệ Đấng Cứu Thế mà họ mong chờ
ra sao thì ra? Suy tư gợi ý: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ba hạng người khác
nhau với ba thái độ khác nhau đối với Đức Giêsu mới sinh ra. Trước hết là các
nhà chiêm tinh đến từ phương Đông, sau là các thượng tế và kinh sư tại
Giê-ru-sa-lem, và cuối cùng là vua Hêrôđê.
Suy Niệm
1. Thái độ của các nhà chiêm tinh đông
phương
Các nhà chiêm tinh được nói đến như
những người thuộc dân ngoại, không phải là người Do Thái giáo. Họ đại diện cho
các dân tộc, các quốc gia trên thế giới đến thờ lạy Đức Giêsu, Đấng trong tương
lai và vĩnh cửu sẽ là vua của toàn thể thế giới và vũ trụ. Thái độ của các nhà
chiêm tinh là thái độ của những người tìm kiếm, khắc khoải đối với Thiên Chúa,
với tha nhân, với chân lý, công lý và tình thương. Và chính vì họ quyết tâm lên
đường và ra công tìm kiếm nên họ đã gặp, đúng như Đức Giêsu nói: «Ai xin thì sẽ
được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho» (Mt 7,8). Khi ngôi sao
biến mất, việc tìm kiếm bị thử thách, họ không nản chí bỏ cuộc, vẫn tiếp tục
tìm kiếm, vì họ đã quyết tâm và hết lòng tìm kiếm: «Các ngươi tìm Ta thì các
ngươi sẽ thấy, bởi vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta» (Gr 29,13); «Kẻ yêu Ta sẽ
được Ta yêu lại, người tìm Ta ắt sẽ gặp Ta» (Cn 8,17).
2. Thái độ của các thượng tế và kinh sư
tại Giê-ru-sa-lem
Các thượng tế và kinh sư Do Thái là
những bậc thông thái, hiểu biết Kinh Thánh, thông thạo các lẽ đạo của tôn giáo
chân chính do chính Thiên Chúa thiết lập. Vì thế, họ đại diện cho những người
có chính đạo. Họ là những người có Kinh Thánh trong tay, nắm vững những kiến
thức thần học, họ rao giảng và bảo vệ chân lý của Thiên Chúa. Nhưng khi Đức
Giêsu đến, những hiểu biết rộng rãi và sâu xa của họ chẳng giúp ích gì cho họ
trong việc tìm gặp Ngài. Họ biết rất rõ Đấng Cứu Thế sinh ra tại Bêlem, vì Kinh
Thánh cho biết như thế. Nhưng họ biết để mà biết, để mà dạy người khác, để mà
tự hào rằng mình hiểu biết, chứ không phải biết để áp dụng vào đời sống, để đem
ra thực hành. Vì thế, cái biết của họ trở nên vô ích cho họ.
Cũng vậy, rất nhiều Kitô hữu hiểu biết
rất sâu xa về Thiên Chúa, về chân lý, nhưng họ biết chỉ để biết, để khoe, để
dạy người khác, để rao giảng, chứ không phải để áp dụng sự hiểu biết ấy vào đời
sống thực tế. Vì thế, sự hiểu biết ấy không đem lại sự cứu rỗi cho họ. Đức
Giêsu nói: «Ai nghe những lời Thầy nói đây mà đem ra thực hành, thì ví được như
người khôn xây nhà trên đá... Còn ai nghe những lời Thầy nói đây, mà chẳng đem
ra thực hành, thì ví được như người ngu dại xây nhà trên cát» (Mt 7,24.26). «Mẹ
tôi và anh em tôi chính là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành»
(Lc 8,21); «Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc
cho anh em» (Ga 13,17); «Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa» (Lc
11,28). Dụ ngôn người gieo giống (Lc 8,11-15) cho thấy những người nhận được
Lời Chúa mà không đem áp dụng vào đời sống thực tế cũng giống như những mảnh
đất «vệ đường», đầy «đá sỏi», đầy «bụi gai», khiến Lời Chúa không phát triển
được. Còn những ai đem Lời Chúa ra thực hành, giống như mảnh đất mầu mỡ khiến
Lời Chúa sinh hoa kết trái.
3. Bài học cho những ai đang theo chính
đạo
Câu chuyện về hai mẫu người trên cho
chúng ta bài học quí giá. Những người tưởng rằng mình đang nắm được Thiên Chúa
cùng với chân lý, công lý và tình thương trong tay, đồng thời ngủ say và an tâm
trong sự lầm tưởng ấy, họ sẽ chẳng bao giờ gặp được Ngài và thực thi được những
giá trị kia. Vì Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương là những thực tại
sống động, không phải thứ đồ vật tĩnh lặng có thể nắm được trong tay, nên chỉ
có thể tìm kiếm và gặp được trong từng thời điểm, chứ không thể nắm bắt một lần
cho mãi mãi. Cho nên muốn gặp Thiên Chúa, muốn sống trong chân lý, công lý và
tình thương, ta phải không ngừng lên đường tìm kiếm, ra sức thực hiện trong
từng thời điểm. Ngừng tìm kiếm, ngừng nỗ lực, thì những thực tại cần thiết ấy
sẽ vuột khỏi ta ngay, và sự ngừng nghỉ ấy sẽ tạo cho ta một ảo tưởng rằng mình
đang nắm được Thiên Chúa, chân lý, công lý và tình thương ở trong tay. Trong
khi ấy, thực tế là ta đang xa rời Thiên Chúa và thường hành động ngược lại với
chân lý, công lý và tình thương. Thật vậy, những ai dù đang theo chính đạo, tự
hào tự mãn về chính đạo của mình, tưởng mình đang nắm được chân lý trong tay,
nhưng trong thực tế lại không sống đạo của mình, lại còn khinh chê người khác,
họ sẽ trở thành những kẻ tự lừa dối chính mình: «Anh em hãy đem Lời ấy ra thực
hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình» (Gc 1,22). Những ai chỉ biết
rao giảng Lời Chúa cho người khác, còn chính bản thân mình lại không thèm áp
dụng, hãy lo ngại cho số phận mình như thánh Phao-lô: «Tôi phải bắt thân thể
tôi chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại
bị loại bỏ» (1Cr 9,27).
Chuyện các nhà chiêm tinh – mà truyền
thống Giáo Hội coi là đại diện cho người ngoại và các dân tộc – cho thấy: dù là
người ngoại giáo hay không có tôn giáo chân chính, nhưng nếu người ta thật sự
nỗ lực tìm kiếm Thiên Chúa thì họ sẽ gặp được Ngài, nếu thật sự muốn thực thi
chân lý, công lý và tình thương thì họ sẽ thực hiện được. Còn những người có
tôn giáo chân chính, nhưng lại thờ ơ với việc tìm kiếm Thiên Chúa, với việc
thực thi chân lý, công lý và tình thương, người ấy sẽ chẳng gặp được Ngài, và
trong người ấy không có chân lý, công lý và tình thương. Tôn giáo chân chính
được ví như một chiếc xe hơi tốt, có thể giúp ta đi đến nơi cần đến một cách an
toàn, nhanh chóng và bảo đảm. Còn các tôn giáo khác như những loại xe kém hơn.
Nhưng có đi đến nơi hay không, không tùy thuộc vào loại xe cho bằng ý chí quyết
tâm muốn đi đến nơi. Người không có xe, phải đi bộ mà quyết tâm đi thì chắc
chắn sẽ tới nơi, còn có xe tốt và bảo đảm đến đâu, nhưng chính bản thân lại
không quyết tâm đi, thì không thể đến nơi cần đến được. Thiên Chúa vẫn luôn
luôn tôn trọng đồng thời đòi hỏi sự tự do và quyết định của con người.
4. Thái độ của vua Hêrôđê, nhà cầm
quyền
Nói tới Hêrôđê, ta thấy ông có một nỗi
sợ hãi khi nghe các nhà chiêm tinh cho biết: «Đức Vua dân Do-thái mới sinh».
Ông sợ hài nhi mới sinh ấy sẽ lật đổ vương quyền của ông. Và dù biết hài nhi ấy
đến từ Thiên Chúa, ông vẫn quyết tâm trừ khử. Như thế, tính tham quyền cố vị –
ngoài xã hội cũng như trong Giáo Hội – có thể làm người ta mất hết lương tri,
sẵn sàng gây nên tội ác, hay ít ra là im lặng để mặc sự ác phát triển. Hêrôđê quyết
tâm tìm giết con trẻ Giêsu bằng cách «sai người đi giết tất cả các con trẻ ở
Bêlem và toàn vùng lân cận từ hai tuổi trở xuống» (Mt 2,16). Tin Mừng không nói
đến thái độ của các thượng tế và kinh sư trước tội ác của nhà cầm quyền. Như đã
nói trên, sự hiểu biết của họ về việc sinh ra của Đấng Cứu Thế chỉ là thứ hiểu
biết để mà hiểu biết, để mà rao giảng, chứ không hề làm cho họ trở nên lo lắng
cho số phận của Đấng Cứu Thế hài nhi. Đối với họ, sinh mạng của Đấng Cứu Thế
chẳng là gì cả, chuyện quan trọng đối với họ là sự an toàn bản thân và giữ cho
vững những «chiếc ghế» của họ trong tôn giáo Do Thái. Theo họ, lên tiếng để làm
gì cho liên lụy đến bản thân, cho mất quan hệ tốt đẹp với nhà cầm quyền? Im
lặng cho mọi sự qua đi, bất chấp tốt xấu, đó không phải là thái độ của những
ngôn sứ hay mục tử đích thật. Nếu họ sẵn sàng «bỏ chiên mà chạy khi thấy sói
đến» (Ga 10,12) thì họ cũng sẵn sàng im lặng bỏ mặc Đấng Cứu Thế mà họ rao
giảng ra sao thì ra, dẫu có nguy hiểm đến tính mạng.
Cầu nguyện
Lạy Cha, con tưởng cứ theo chính đạo do
Cha sáng lập là bảo đảm được cứu rỗi. Nhưng bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, kẻ
ngoại giáo quyết tâm tìm kiếm Cha – là chân lý, công lý và tình thương – thì
lại bảo đảm gặp được Cha hơn là người có chính đạo mà lãnh đạm với Cha. Xin Cha
đừng để con say ngủ trong chính đạo mà thờ ơ với những gì là chân lý, công lý
và tình thương. Amen.
33. Lễ vật
Các nhà bác học đã dâng tiến cho Chúa
Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng để chỉ Hài Nhi Giêsu là vua, nhũ
hương để chỉ Hài Nhi Giêsu là Chúa và mộc dược để chỉ đến cái chết đau khổ của
Hài Nhi Giêsu sau này... Thế nhưng những lễ vật này có ý nghĩa gì đối với chúng
ta.
Trước hết là vàng. Vàng nói lên lòng
yêu mến của chúng ta, một lòng yêu mến tinh ròng, cao cả và mãnh liệt như lời
Ngài đã xác định:
- Hãy kính mến Thiên Chúa hết tâm hồn,
hết trí khôn và hết sức lực ngươi.
Đồng thời thánh Phaolô còn nhấn mạnh:
- Ai có thể phân rẽ tôi ra khỏi lòng
yêu mến đối với Đức Kitô, dù bắt bớ, dù tù đày, dù đòn vọt, dù đói khát cũng
không thể nào được.
Vàng còn làm lên sự trung kiên của
chúng ta, không vì một lý do, một hoàn cảnh nào mà bị chao đảo, mà bị lung lay
để rồi đi đến chỗ phản bội. Hãy trung thành với Chúa cho đến chết, vì không ai
yêu hơn người hiến mạng sống mình vì bạn hữu.
Sau hết, vàng còn nói nói lên sự chân
thật của chúng ta. Thực vậy, chúng ta có thể lừa dối kẽ khác chứ chẳng thể nào
lừa dối được Thiên Chúa. Con người thời nay thường thích hóa trang, thường
thích đeo mặt nạ. Nhưng người Kitô hữu phải luôn biểu lộ con người và bộ mặt
thật của mình. Phải là một thứ vàng ròng chứ không phải là một thứ vàng dổm.
Tiếp đến là nhũ hương. Nhũ hương nói
lên tâm tình thờ lạy của chúng ta đối với Đức Kitô. Thực vậy, trong những nghi
thức phụng vụ, nhũ hương thường được dùng khi đọc Phúc âm, khi dâng Mình Thánh,
khi chầu Thánh Thể.
Qua hình ảnh nhũ hương chúng ta tìm
thấy một niềm tin tưởng mãnh liệt vào bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô. Đây
không phải là một niềm tin tưởng có tính cách giáo điều hay lý thuyết mà là một
niềm tin tưởng sống động và mãnh liệt, vì Đức Kitô là Thiên Chúa đang ở giữa
chúng ta và trở nên lương thực nuôi sống linh hồn chúng ta qua Bí tích Thánh
Thể, cũng như đang giảng dạy chúng ta qua lời Ngài trong Phúc âm.
Nhũ hương còn là tượng trưng cho tâm
tình kinh nguyện, như thánh vịnh đã viết:
- Lạy Chúa, xin cho lời con nguyện cầu
tựa hương thơm bay lên tôn nhan Chúa.
Sự cầu nguyện là một việc làm riêng tư,
một sự kết hợp giữa tâm hồn chúng ta với Thiên Chúa, nó xuất phát tự cõi lòng,
tự con tim chúng ta. Đồng thời sự cầu nguyện còn mang tính cách cộng đồng vì
lời nguyện đẹp lòng Chúa hơn cả là lời nguyện của Giáo Hội và với Giáo Hội, vì
qua lời nguyện của Giáo Hội chúng ta tìm thấy lời nguyện của Đức Kitô, là đầu
của nhiệm thể.
Sau cùng là mộc dược. Mộc dược là niềm
tin tưởng vào Đức Kitô bị đóng đinh, mà bây giờ được tái diễn qua lễ dâng trên
bàn thờ:
- Mỗi khi anh em ăn bánh này, anh em
loan truyền việc Chúa chịu chết cho tới khi Ngài trở lại.
Chính vì thế, thánh Phaolô khuyên nhủ
chúng ta:
- Anh em hãy mang lấy dấu tích của Đức
Kitô nơi thân xác anh em.
Vì thế, mộc dược có ý nói tới việc hy
sinh hãm mình, như lời Chúa đã phán:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình vác
thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.
Tiếp đến, mộc dược còn nói lên những hy
sinh trong cuộc sống. Hãy chấp nhận những khổ đau vì lòng yêu mến Chúa và hãy
dâng tiến Chúa như một lễ vật nhỏ mọn, bấy giờ những đau khổ của chúng ta sẽ
trở nên là một góp phần vào những đau khổ của Đức Kitô, là những giọt máu tử
đạo chúng ta có thể đổ ra từng giây từng phút để làm chứng cho Chúa.
Mỗi người chúng ta hãy suy nghĩ và tự
hỏi: Chúng ta đã dâng gì để làm lễ vật cho Chúa Hài Nhi hay chưa?
34. Tỏ mình
Trước đây chúng ta gọi ngày lễ hôm nay
là lễ Ba Vua, đây là cách gọi quen thuộc đối với giáo dân Việt Nam, để nói về
việc các nhà chiêm tinh phương Đông tìm đến Bêlem viếng Chúa Hài Đồng. Gọi là
vua vì họ mặc phẩm phục như các vị đế vương, và xác định là ba người, vì có ba
sắc dân được nói đến trong sách ngôn sứ Isaia, mà cũng vì lễ vật tiến dâng có
ba thứ rõ ràng là vàng, nhũ hương và mộc dược như Tin Mừng thuật lại. Cứ thế,
theo truyền thống, Ba Vua trở nên tên gọi cho ngày lễ.
Nhưng điều quan trọng không phải là xác
định họ là vua hay không phải là vua, họ có ba vị hay bao nhiêu vị, mà chính là
hãy nhìn họ như hình ảnh sống động của tất cả những ai trong đời đã có một lòng
khao khát chân thành tìm kiếm Thiên Chúa khởi đi từ những thiện hảo tốt lành,
nghĩa là họ là dân ngoại từ xa, không biết Kinh Thánh, nhưng lại chân thành và
sẵn sàng vượt qua những chặng đường gian khổ để tìm gặp Chúa, trong khi đó dân
Do Thái ở gần, hiểu biết Kinh Thánh, lại không mảy may kiếm tìm.
Mặc dầu tên gọi ba vua vẫn giữ nguyên
giá trị cổ kính, nhưng ngày nay Phụng Vụ sử dụng tên gọi Hiển Linh để làm nổi
bật ý định mầu nhiệm chung nhất của Thiên Chúa trong Mùa Giáng Sinh, đó là Ngài
muốn tỏ mình ra cho tất cả mọi người, mọi thời, bất luận họ là ai và ở đâu,
miễn là họ biết chân thành kiếm tìm Ngài. Vì thế, đây không chỉ là một biến cố
của ngày đã qua mà còn là một sứ điệp của ngày hôm nay và cho những ngày sẽ tới,
Chúa vẫn tỏ mình, nhưng vấn đề là người ta có thiện chí đến gặp Ngài không.
Trong một tập truyện ngụ ngôn xuất bản
gần đây, một linh mục đã tưởng tượng ra một câu chuyện như sau: Có một người
đạo đức kia ước ao được xem thấy Chúa trước khi chết, ngày ngày bà ăn chay, cầu
nguyện để ước nguyện này được Chúa nhận lời. Thế là một đêm nọ trong một giấc
mơ, bà được Chúa cho biết sẽ đến thăm bà, suốt ngày hôm sau, bà quét dọn và
trang hoàng nhà cửa để đón rước Chúa, thế nhưng bà chờ mãi mà không thấy Chúa
đến.
Trong đêm kế tiếp, có tiếng Chúa hỏi:
Tại sao bà không tiếp đón Ngài? Người đàn bà trả lời bà đã chờ đợi Chúa ở trước
cửa. Chúa cho bà biết Chúa đã chờ đợi ở cửa sau. Ngày hôm sau, người đàn bà lại
chờ đợi Chúa ở cửa sau, nhưng bà vẫn không thấy bóng dáng Chúa. Đêm đến lại có
tiếng Chúa hỏi tại sao bà không đón tiếp Chúa, bởi vì Ngài đến qua các cửa sổ.
Suốt ngày hôm sau, người đàn bà hết ra cửa trước lại về cửa sau và nhìn qua các
cửa sổ, nhưng bà cũng không hề thấy tăm hơi của Chúa. Đêm đến, bà lại nghe có tiếng
nói của Chúa, và lần này Chúa bảo bà hãy tìm Ngài bên giếng sau nhà. Cũng thế,
người đàn bà đã chạy ra bờ giếng, nhưng cũng không thấy Chúa đâu. Không còn đủ
kiên nhẫn nữa, bà đã trách Chúa tại sao lại chơi trò cút bắt với bà. Bấy giờ
Chúa mới nói: "Nếu con định đón rước Ta ở một nơi nào đó thì mãi mãi sẽ
không bao giờ thấy Ta ở đâu cả, thay vì tìm kiếm khắp nơi, con hãy mở mắt tâm
hồn và con sẽ thấy Ta".
Đêm đó, người đàn bà không còn nghe
thấy tiếng Chúa nữa, nhưng chung quanh mình, bà chỉ thấy bóng đêm dầy đặc,
nhưng chính lúc đó, khi con mắt tâm hồn bà đã được mở rộng, bà đã nhìn thấy
Chúa ở khắp mọi nơi. Đúng vậy, chúng ta chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt tâm
hồn mà thôi, nếu tâm hồn chúng ta rộng mở, nếu tâm hồn chúng ta trong sạch,
nghĩa là không bị ngăn chặn bởi bất cứ bức tường nào của dục vọng, của đam mê,
ích kỷ, tiền bạc... thì chúng ta có thể thấy Chúa ngay cả trong mỗi người chúng
ta gặp gỡ.
Xưa kia Thiên Chúa đã tỏ mình ra cho ba
nhà chiêm tinh bằng ánh sao lạ, chính nhờ ánh sao này, các ông đã đi tìm và đã
gặp được Chúa Giêsu giáng sinh để thờ lạy. Từ đó Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ
mình ra cho nhân loại để con người nhận biết sự thật và đón nhận sự sống. Cũng
như ngày xưa Thiên Chúa đã mời gọi các ngôn sứ cộng tác, ngày nay Ngài cũng mời
gọi chúng ta cộng tác vào công cuộc cao cả ấy, vẫn cần có những ánh sao để chỉ
đường dẫn lối cho những người khác gặp thấy Chúa. Người Kitô hữu được mời gọi
trở thành ánh sao cho những người chung quanh ngay trong cuộc sống bình thường
hằng ngày của mình, để trong sinh hoạt bình thường ấy, người ta có thể gặp được
những tín hiệu dẫn đưa đến Thiên Chúa, đó là ánh sao của cho đi, của quên mình,
của bác ái, của phục vụ... những ánh sao đó có sức tỏa sáng, giúp người ta nhận
ra Thiên Chúa, nhận ra tình thương của Ngài.
35. Ngôi sao hy vọng
Tại nước Camơrun ở Phi Châu, có một
vùng đất tên là Fontem, dân số khoảng 20 ngàn người, là một bộ lạc bị đe dọa
tuyệt chủng vì nhiều thứ bệnh, nhất là bệnh ngủ và bệnh giun chỉ.
Tộc trưởng của bộ lạc Fontem đã đi cầu
cứu nhiều nước và nhiều tôn giáo nhưng không kết quả. Cuối cùng, ông đã đến với
Đức cha Peters thuộc giáo phận Buca ở Camơrun, đặt vào tay ngài một số tiền và
nói: "Bộ lạc chúng tôi chẳng tốt lành gì để đáng được Chúa thương nhận
lời, vậy chúng tôi xin Đức cha và các tín hữu của ngài cầu cùng Chúa cho chúng
tôi. Hy vọng Chúa sẽ nhận lời".
Đức Cha Peeters và giáo dân của người
không chỉ cầu nguyện mà còn hành động. Họ chung tay góp sức làm cho bộ lạc
Fontem ngày càng tốt đẹp hơn. Khởi đầu là 2 bác sĩ, 1 bác sĩ thú y, cùng với 3
phụ nữ thuộc phong trào Giáo dân Hoạt động cho thế giới được Hiệp nhất trong
Yêu thương.
Ngày nay, bộ lạc Fontem đã hoàn toàn
đổi mới. Xưa kia là rừng thiêng nước độc thì nay là phố xá đô hội. Điều bất ngờ
là chính thành phố này lại là chiếc nôi của một phong trào Giáo dân Thiện
nguyện tới phục vụ ở rất nhiều nước tại Phi Châu. Số người xin học đạo và gia
nhập Giáo hội nhiều vô kể.
"Chúng tôi đã thấy vì sao của
Người xuất hiện". Các nhà đạo sĩ đã nhìn thấy ánh sao lạ, và đã mau mắn
lên đường trong niềm hy vọng tràn đầy. Vâng, chính trong niềm hy vọng tràn đầy
mà tộc trưởng Fontem đã hăng hái đến với Đức cha Peeters như ánh sao hy vọng.
Ong hy vọng bộ lạc của ông sẽ thoát cảnh bệnh tật và nghèo đói, ông hy vọng dân
tộc mình sẽ bước theo kịp văn minh tiến bộ của nhân loại. Cuối cùng, hoa hy
vọng đã khai mùa mở cánh. Bộ lạc của ông đã được ngôi sao hy vọng tỏa sáng để
họ không chỉ đến với nền văn minh khoa học mà còn tiến bước vào nền văn minh
tình thương.
Ngôn sứ Isaia đã nói: "Dân đang
lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng
bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi".
Ánh sáng bừng lên chiếu rọi, chính là
Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy Vọng của muôn dân. Kể từ khi nguyên tổ phạm tội,
ánh hào quang của địa đàng vụt tắt, nhân loại mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi,
mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian.
Ngôi Sao Hy Vọng đã xuất hiện ở trời
Đông, và sẽ không bao giờ lặn đi.
Lễ Hiển Linh là lễ Chúa tỏ mình cho dân
ngoại, mà đại diện là ba nhà đạo sĩ, trong đó có tất cả chúng ta.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã chiếu
rọi vào cuộc đời tăm tối của chúng ta, thì Người cũng muốn chúng ta sẽ là những
ánh sao, luôn chiếu tỏa niềm tin yêu và hy vọng nơi con người.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không
bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người thất trung phản bội, thì chúng
ta cũng đừng bao giờ thất vọng về chính mình.
Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không
hề để ai phải thất vọng khi trông cậy nơi Người, thì chúng ta cũng đừng bao giờ
để một nỗi thất vọng nào chạm được đến anh em.
Tuy Ngôi Sao Hy Vọng xuất hiện ở Phương
Đông đã 2000 năm qua, nhưng tại Á Châu này tỷ lệ những người được Ngôi Sao
chiếu rọi mới chỉ có 10,4o/o. Đó là nỗi thao thức của Giáo hội và cũng là trách
nhiệm của mỗi người chúng ta. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bày tỏ trong Tông
Huấn "Giáo hội tại Á Châu" như sau: "Những kẻ tin vào Chúa Kitô
vẫn là một thiểu số bé nhỏ trong lục địa mênh mông và đông dân nhất này. Nhưng
không phải là một thiểu số nhút nhát, họ sống đức tin cách sống động đầy hy
vọng và ban sức sống, mà chỉ có duy nhất tình yêu, mới có thể mang lại".
"Tham vọng duy nhất của Giáo hội
là tiếp tục sứ mạng phục vụ và yêu thương của mình, để tất cả dân Á Châu
"có sự sống và sống dồi dào".
36. Món quà
Nhìn vào các hang đá, ngoài những nhân
vật quen thuộc như Chúa Giêsu Hài đồng, Đức Maria, thánh Giuse, mấy mục đồng...
Chúng ta còn thấy ba người mặc phẩm phục như những ông vua, tay mang lễ vật,
đang khúm núm rất trịnh trọng trước hài nhi mới sinh. Họ là ai? Họ từ đâu đến?
Họ thuộc nước nào? Tại sao họ có mặt ở đây?
Theo mẫu đối thoại thánh Matthêu kể lại
trong Tin Mừng, người ta truyền tụng nhau và gọi họ là ba vua. Nhưng thực sự
Tin Mừng không nói thế mà chỉ gọi họ là các nhà chiêm tinh, tức là các ông lớn,
những nhà thông thái, chuyên nghiên cứu thiên văn, nghiên cứu các ngôi sao để
cố vấn cho nhà vua trong vấn đề chính trị.
Có nhiều người lại đặt ra vấn đề: các
ông này có thật không hay chỉ là một huyền thoại? Cho đến nay, ngoài phạm vi
tôn giáo, chưa có một nguồn tài liệu nào khẳng định rõ ràng dứt khoát. Ở vùng
Trung Đông có rất nhiều nước kể chuyện này và được coi như một chuyện cổ tích.
Nhưng đối với chúng ta, dựa vào Tin Mừng, thì sự hiện diện của ba vị này ở hang
đá Bêlem là chuyện có thực. Nhưng các ông từ đâu đến thì chúng ta không thể căn
cứ vào đâu mà xác quyết. Có một điều chắc chắn là cũng chỉ ở trong vùng Trung
Đông thôi. Tuy nhiên, những chi tiết đó không quan trọng, điều quan trọng nhất
là bài học mà các vị này để lại cho chúng ta.
Trước hết, cuộc hành trình của các nhà
chiêm tinh được xem là hình ảnh cuộc hành trình đức tin của chúng ta. Với một
dấu hiệu không chắc chắn, không rõ rệt là một ngôi sao, các ông đã lên đường
tìm kiếm sự thật. Với tấm lòng yêu chuộng sự thật, các ông đã miệt mài tìm kiếm
cho đến khi biết được sự thật và gặp được Chúa Giêsu. Cuộc đời của chúng ta
cũng phải luôn đi tìm Chúa. Dù chúng ta đã có đức tin, nhưng lòng tin của chúng
ta có những lúc bị chao đảo, bị thử thách vì những khó khăn, đau khổ của cuộc
sống. Nhưng dù hoàn cảnh thế nào, chúng ta vẫn kiên quyết giữ đức tin và sống
đức tin.
Chúng ta phải sống bằng đức tin chứ
không thể sống bằng tình cảm. Trong tình cảm có vui có buồn. Nhưng vui buồn lúc
có lúc không. Nếu chúng ta chỉ dựa vào niềm vui và khi vui mới khiến chúng ta
tin. Vậy khi hết niềm vui thì sao? Lòng tin của chúng ta sẽ bị suy giảm. Hay
khi gặp những chuyện buồn thì sao? Chúng ta còn tin không? Vì thế, chúng ta
phải sống bằng niềm tin vững chắc, không lệ thuộc vào ai, cũng không lệ thuộc
vào hoàn cảnh.
Hơn nữa, đức tin của chúng ta phải được
thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Thánh Giacôbê đã nói: "Đức tin không
có việc làm là một đức tin chết". Chúng ta tin vào tình yêu Chúa Kitô.
Niềm tin ấy không chỉ là một hạt giống gieo trong lòng chúng ta rồi nằm yên đấy.
Một niềm tin như thế có lẽ chẳng ích lợi gì cho chính mình hay cho bất cứ ai.
Đức tin của chúng ta cần phải trổ sinh hoa trái bằng việc làm để mọi người có
thể hiểu được thế nào là tình yêu mà chúng ta tin và có thể nhận ra khuôn mặt
của Đấng mà chúng ta suy phục, tôn thờ.
Thứ hai, các vị này đã dâng cho Chúa
Hài đồng vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba loại lễ vật đặc biệt và quí giá
nhất của Đông phương. Nhưng những lễ vật vô tri kia chỉ là dấu hiệu biểu lộ tâm
hồn của họ, chứng tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn kính và yêu mến của họ đối với Chúa
Hài đồng.
Văn sĩ Dô-ơ-den-sen (Joergensen), người
Đan Mạch đã nghĩ ra một câu chuyện minh họa cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ông
đã tưởng tượng ra một vị chiêm tinh thứ tư. Vị này đến gặp Chúa Giêsu hài đồng
sau ba vị kia. Gặp Chúa, nhưng ông rất buồn vì không còn gì để dâng tặng cho
Ngài. Trước khi lên đường, ông đem theo ba viên ngọc quí giá. Dọc đường, ông
gặp một cụ già đói nghèo, ông tặng viên ngọc thứ nhất. Đi thêm một đoạn đường,
ông gặp một toán lính đang làm nhục một cô gái. Ông lấy viên ngọc thứ hai
thương lượng với chúng để chuộc cô gái. Cuối cùng, khi đến Bêlem, ông gặp một
người lính do vua Hêrôđê sai đi để tàn sát các hài nhi, ông lấy viên ngọc thứ
ba cho anh ta và thuyết phục anh ta từ bỏ hành động gian ác. Đến khi gặp được
Chúa Hài đồng, ông chỉ còn hai bàn tay trắng. Ông bối rối kể lại cuộc hành
trình của mình. Nhưng thật lạ lùng, Chúa Giêsu đưa hai tay ra và mỉm cười nói
với ông: "Con đã dâng cho Ta món quà quí giá nhất. Nó không phải là vàng
bạc châu báu, nhưng được dệt bằng những nghĩa cử đối với tha nhân".
Chúa Giêsu đã nói: "Bất cứ điều gì
các con làm cho người khác là làm cho chính Ta". Chúng ta vẫn luôn gặp
Chúa trong cuộc sống hằng ngày qua những anh chị em sống với chúng ta, và tất
cả những gì chúng ta làm cho họ là chúng ta làm cho chính Chúa. Như vậy, lễ vật
làm hài lòng Chúa nhất chính là những gì chúng ta trao tặng cho tha nhân.
37. Dân ngoại đứng trước Đức Vua của
người Do thái
(Suy niệm của Lm. FX Vũ Phan Long)
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra
có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền
của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con
người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống
mình bị đặt thành vấn đề.
1.- Ngữ cảnh
Chương 2 của Tin Mừng Mátthêu là một
bài tường thuật đầy đủ, hoàn toàn dễ hiểu dù không có chương 1. Chính điểm này
cho thấy có nhiều tài liệu có trước Mt được ráp nối với nhau. Đề tài "sự
hoàn tất các sấm ngôn" cũng được nhắc tới đều đặn (x. 2,6.15.18.23). Có
bốn truyện kết cấu chặt chẽ với nhau tạo nên diễn tiến của chương này, nhưng
dường như các biến cố ấy đã được chọn cho phù hợp với các bản văn ngôn sứ mà
truyện được xây dựng xoay quanh. Các sấm ngôn này đều có một đăc điểm chung là
nhấn mạnh trên một hoàn cảnh địa dư. Trong chương này, chúng ta lại có thể phân
biệt ra hai khối, nhưng khối thứ nhất được liên kết với khối thứ hai bằng nhiều
từ móc, và nếu không có khối thứ nhất, thì không thể hiểu được khối thứ hai:
- 2,1-12: Truyện kể nhiều chi tiết;
những nhân vật chính là các nhà chiêm tinh; ngôi sao là phương tiện Thiên Chúa
dùng để hướng dẫn các vị này.
- 2,13-23: Ít chi tiết kể truyện, và
chỉ nhắm cho thấy các bản văn ngôn sứ được hoàn tất; nhân vật chính là Giuse
(không hề được nhắc tới trong phân đoạn trước); Giuse được thiên thần Chúa ban
lệnh trong mộng (y như trong 1,18-25).
Về phương diện truyện kể, vua Hêrôđê là
sợi dây liên kết hai phân đoạn.
Chương 2 đưa vào một đề tài quan trọng
của TM Mt: người Do Thái khước từ ơn cứu độ Đức Kitô ban tặng, còn Lương dân
thì đón nhận. Vua Hêrôđê, hoàng tử Áckhêlao và dân chúng Giêrusalem tượng trưng
cho người Do Thái; các nhà chiêm tinh tượng trưng cho Dân ngoại. Dân ngoại sẽ
chiếm chỗ mà người Do Thái bỏ trống trong lòng dân Thiên Chúa, khi họ không
chịu tin. Dân ngoại sẽ là dân Israel
chân chính của thời đại cuối cùng, được kêu gọi chia sẻ hạnh phúc của cuộc sống
tương lai. Hai chuyển động tương phản này chạy xuyên suốt cả chương 2 cũng như
xuyên suốt cả Tin Mừng cho đến cuộc Khổ nạn (x. 27,39-44.54). Nhìn như thế, có
thể nói truyện các nhà chiêm tinh tóm tắt toàn thể Tin Mừng Matthêu.
Về việc các nhà chiêm tinh đến Bêlem,
chúng ta có thể đặt ra nhiều câu hỏi không dễ trả lời: Các ngài từ đâu đến? Các
ngài đã thấy xuất hiện ngôi sao gì? Làm thế nào mà các ngài nhận ra đó là ngôi
sao của Đấng Mêsia? Tại sao vua Hêrôđê không xử sự theo cách hợp lý hơn?
Cũng như trong nhiều đoạn khác của Tin
Mừng, thay vì đặt ra những câu hỏi về những chuyện không được nói tới, chúng ta
nên để ý đến những gì đã được nói ra. Sau khi bảng gia phả đã cho thấy Đức
Giêsu cắm rễ trong lịch sử dân Israel, và bản văn về nguồn gốc đích thực của
Người đã chỉ nói đến những người có liên can trực tiếp, ở đây tác giả giúp
chúng ta nhìn xem cách tiếp đón Đức Giêsu của những người mà vì họ Đức Giêsu đã
đến. Tác giả không nêu ra một hành động nào của Hài Nhi, Đức Maria và Giuse.
Những nhân vật hành động là Thiên Chúa và người ta, và đều nhắm tới Hài Nhi.
Trong quan hệ với Hài Nhi, ta phân biệt ra ba nhóm người: các nhà chiêm tinh, các
kinh sư và vua Hêrôđê. Hoạt động công khai của Đức Giêsu và lời loan báo hậu
Phục Sinh về Đấng chịu đóng đinh và phục sinh cũng được vây quanh bởi những
hạng người như thế. Nhận biết trong niềm vui, lãnh đạm không quan tâm và bách
hại liên tục, ba yếu tố này đi theo mọi giai đoạn của cuộc đời Đức Giêsu.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể được chia ra làm hai
phần, với một đoạn Mở:
1) Mở (cc. 1-2): Giới thiệu các nhân
vật và hoàn cảnh, với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh.
2) Phần 1 (cc. 3-9a): Gặp gỡ Hêrôđê, vị
vua "giả hiệu" của người Do Thái. Cốt lõi là sấm ngôn về Đấng Mêsia.
3) Phần 2 (cc. 9b-12): Gặp gỡ Ấu Vương
"chân chính" tại Bêlem. Cốt lõi là hành vi tôn thờ Đấng Mêsia.
3.- Vài điểm chú giải
- Bêlem (Bêthlehem) miền Giuđê (1):
Bêlem (Bêthlehem) có nghĩa là "nhà bánh mì", hoặc cũng có thể là
"nhà của thần Lah(a)mu" (thần của dân Akkad ).
Thành này cách Giêrusalem 7 cây số về phía nam, là quê hương của Bôát, của Isai
(Giêsê), và nhất là của vua Đavít (x.1 Sm 16; 20,6). Xem Lc 2,4.11; Ga 7,42.
Tác giả nói rằng Bêlem thuộc miền Giuđê không chỉ là vì trong Cựu Ước, có một
Bêlem thuộc Dơvulun (x. Gs 19,15), nhưng là vì ngài còn lặp lại (c. 5; x. c. 6)
nhằm nêu bật chủ đề của ngài: Đức Giêsu, vua người Do Thái, xuất thân từ miền
Giuđê, và cũng tại Giuđê mà Người sẽ bị giết.
- Vua Hêrôđê (Cả): Vua này cai trị miền
Giuđê (năm 37-4 tCN). Bởi vì ông xuất thân từ miền Iđumê, ở về phía nam xứ
Giuđê, và ủng hộ nền văn hóa Hy Lạp, nên ông bị người Do Thái ghét bỏ, cho dù
ông đã cho sửa lại Đền Thờ thật huy hoàng. Đến cuối đời, ông thường rơi vào
trạng thái kinh hoàng, nên chỉ một chút nghi ngờ, là có thể hạ lệnh tàn sát, dù
là tàn sát cả gia đình ông. Khi ông qua đời, nhiều tai ương đổ xuống trên xứ,
đặc biệt là một cuộc suy sụp về kinh tế. Do đó, đất nước đầy những nhóm người
bất mãn và nổi loạn.
- Đức Giêsu ra đời: Cộng đoàn tín hữu
tiên khởi lúc đầu không có thứ lịch như ngày nay đang được sử dụng hầu như khắp
nơi: chia thành hai phần trước và sau cuộc chào đời của Đức Giêsu. Thời ấy,
người ta tính năm dựa theo các Đại hội thế vận Hy Lạp (Đại hội đầu tiên được tổ
chức năm 776 tCN), hoặc dựa theo năm thành lập thành Rôma (ngày 21-4-753 tCN),
hoặc dựa theo những hoàng đế cai trị ở Rôma. Sau một thời gian, các Kitô hữu có
thói quen tính thời gian khởi đi từ hoàng đế Điôclêtianô (284-305 CN), ông này
đã bách hại họ tàn khốc, và họ gọi thời này là kỷ nguyên các thánh tử đạo. Kiểu
lịch chúng ta đang sử dụng hiện nay là do văn sĩ Denys le Petit xác định, ông
này sống tại Rôma vào tiền bán thế kỷ vi (mất trước năm 555). Để cho những năm
cứu độ không phải gọi bằng tên của bạo chúa bách hại, Denys thay thế kỷ nguyên
các thánh tử đạo bằng kỷ nguyên Đức Kitô. Ông là người đầu tiên cho kỷ nguyên
Kitô giáo khởi đầu với cuộc chào đời của Đức Kitô, mà theo các tính toán của
ông, ngày ấy là ngày 25 tháng 12 năm 753 sau khi Rôma được thành lập. Theo TM
Mt, "Đức Giêsu ra đời tại Bêlem, miền Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì"
(2,1), mà chúng ta biết rằng vua Hêrôđê qua đời vào năm 750 của thành Rôma. Như
vậy, cuộc chào đời của Đức Giêsu phải được đẩy lùi lại 6 hoặc 7 năm: hẳn là Đức
Giêsu đã ra đời vào thời gian giữa năm 8 và 6 tCN.
- mấy nhà chiêm tinh (HL. magos): Đây
là những vị hiền giả Đông phương, thông thạo chiêm tinh. Rất có thể họ là những
nhà chiêm tinh Babylon ,
đã được tiếp xúc với trào lưu chờ đợi Đấng Mêsia nơi dân Do Thái. Có thể họ
sống bên kia bờ sông Giođan, nên có cơ hội tiếp xúc thường xuyên với thế giới
Do Thái. Dưới ảnh hưởng của Tv 72,10; Is 49,7; 60,10, truyền thống sau này đã
nghĩ rằng họ là những vị vua. Bởi vì có ba loại lễ vật, người ta cho rằng họ là
ba vị (thế kỷ v), và còn gán cho các vị ấy tên Gaspar, Balthasar và Melchior
(thế kỷ viii). Sang thế kỷ xiv, ông Gaspar được coi là một người da đen...
- chúng tôi đã thấy vì sao (2): Vào
thời thượng cổ, người ta thường cho rằng cuọc chào đời của các nhân vật quan
trọng được loan báo bởi các ngôi sao mới. Các nhà chiêm tinh cho rằng họ có thể
đoán được vận mệnh của người ta nhờ quan sát chuyển động của các tinh tú. Do
Thái giáo cũng nối kết niềm hy vọng thiên sai vào ngôi sao được nói tới ở sách
Dân số (24,17). Có thể nói, vào thời Đức Giêsu và các Tin Mừng, ngôi sao là
hình ảnh ưu tiên để tượng trưng Đấng Mêsia, đặc biệt Đấng Mêsia vương giả, xuất
thân từ nhà Đavít.
- xuất hiện (2): Người ta đã tìm cách
xác định ngôi sao ấy là một hiện tượng thiên văn hay là một ngôi sao chổi. Thật
ra nỗ lực này cũng không đưa đến đâu, bởi vì hoặc tác giả Mtmuốn kể lại một
hiện tượng lạ lùng duy nhất trong lịch sử, hoặc chi tiết này chỉ là một đặc
điểm văn chương, được gợi hứng bởi Kinh Thánh, nhưng không có hiện tượng tương
ứng thế giới vật lý, nên cố gắng tìm ra một giải thích tự nhiên đều là chuyện
vô ích.
- Cả thành Giêrusalem (3): Đây là một
kiểu nói phóng đại, như để báo trước việc toàn dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu
(x. 21,10). Một sự tương phản đáng kinh ngạc: những người ngoại giáo, được
hướng dẫn bởi những kiến thức hời hợt, pha trộn mê tín dị đoan, đã đáp trả
tiếng gọi của Thiên Chúa, thực hiện một hành trình và điều tra kỹ lưỡng, để có
thể bái kiến vị tân vương; ngược lại, các nhà lãnh đạo Do Thái có ánh sáng Kinh
Thánh, lại chỉ phản ứng bằng sự sợ hãi và vô tâm (cc. 4-6).
- Các thượng tế (archiereis, 4):
Archiereis đây là các thành viên của các gia đình mà vào lúc quy định nào đó,
vua Hêrôđê có thể chọn ra người mà bổ nhiệm làm thượng tế.
- kinh sư trong dân (4): dịch sát
grammateis tou laou là "các kinh sư của dân chúng": một kiểu nói
phóng đại.
- Phần ngươi, ngươi đâu phải (6): Câu
trích này là một tổng hợp Mk 5,1-3 với 2 Sm 5,2 theo cách rất độc đáo, không
tương ứng với bản văn Cựu Ước Híp-ri lẫn Hy Lạp. Tác giả đã đưa những thay đổi
đó vào với mục tiêu huấn giáo. Đặc biệt, với trạng từ oudamôs(Pháp: pas du
tout; Anh: by no means) thêm vào bản văn Mikha, ngài cho thấy ngài chú tâm đọc
Cựu Ước dưới ánh sáng của đức tin Kitô giáo của ngài: sau khi Đức Giêsu đã chào
đời, Bêlem không còn có thể là một thành không đáng kể nữa. Nghịch lý lạ lùng:
các kinh sư loan báo nơi Đấng Mêsia chào đời cho những người ngoại giáo (dù
sao, họ cũng vẫn là những cái máng chính thức truyền đạt mạc khải mà!), thế mà
họ lại không thể nhận ra được Người!
- mừng rỡ vô cùng (10): Niềm vui của
các nhà chiêm tinh được nhấn mạnh (so với Lc 2,10). Trong TM Mt, đây là niềm
vui của những quốc gia ngoại giáo đã khám phá ra nơi Đức Giêsu ơn cứu độ họ vẫn
trông chờ cách mơ hồ. Đối lại với niềm vui này là sự bối rối hoang mang của vua
Hêrôđê và thành Giêrusalem, cũng như sau đó là cơn giận dữ điên cuồng của nhà
vua (c. 16). Cũng có thể so sánh niềm vui lớn lao của các phụ nữ vào sáng ngày
Phục Sinh (28,8) với cơn kinh hoàng của đám lính canh khiến họ ra như chết
(28,4).
- Họ vào nhà (11): Tác giả nối kết chặt
chẽ niềm vui của những người ngoại giáo và việc họ đi vào "nhà", là
hình ảnh báo trước Giáo Hội, nơi người ta gặp được Đức Kitô và bái thờ Người.
- hài nhi và thân mẫu: Công thức này
được nhắc lại ở các câu 13, 14, 20 và 21, là do tác giả cố tình chọn để nhắc
lại cuộc sinh hạ do mẹ đồng trinh (1,18-25).
- sấp mình thờ lạy (= bái lạy: cc.
2.8.11): "Bái lạy" hay "sấp mình thờ lạy" (proskyneô) được
tác giả Mt dùng động từ này 13 lần (toàn Tân Ước: 57 lần). Đây là hành vi sấp
mình trên nền nhà để tôn thờ thần thánh hoặc những người có địa vị cao, chẳng
hạn các vua. Tác giả Mt hầu như chỉ dùng động từ này để diễn tả lòng tôn kính
đối với Đức Giêsu bởi những người khẩn cầu (8,2; 9,18; 15,25; x. 20,20) và bởi
các môn đệ (14,33: liên kết với việc tuyên xưng niềm tin vào Con Thiên Chúa),
đặc biệt dành cho Đấng Phục Sinh (28,9.17).
- lấy vàng, nhũ hương, mộc dược mà dâng
tiến: Sau khi bái lạy một vị vua, thường có việc dâng lễ vật (x. St 43,26; 1 Sm
10,27; 1 V 10,2; Tv 72,10). Ba thứ lễ vật này đều xứng đáng với một vị vua: x.
Tv 72,15 (vàng); Is 60,6 (vàng và nhũ hương); Tv 45,8 (xức mộc dược cho vua);
Dc 3,6 (nhũ hương và mộc dược). Truyền thống các Giáo Phụ coi các lễ vật này là
những biểu tượng về vương quyền (vàng), thần tính (nhũ hương) và việc mai táng
(mộc dược) của Đức Giêsu.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu các nhân vật và hoàn cảnh,
với câu hỏi mở đầu của các nhà chiêm tinh (1-2)
Chỉ trong một câu duy nhất, tác giả đã
giới thiệu được khung cảnh địa lý, hoàn cảnh chính trị, và các nhân vật sẽ được
đề cập đến trong bản văn. Chủ đề của chương 2, "vương quyền của Đấng
Mêsia", đã được gián tiếp gợi lên qua tước hiệu "vua" gán cho
Hêrôđê, một danh từ liên tục được nhắc lại suốt bài này.
Chủ đề lại được nêu lên trong câu hỏi
của các nhà chiêm tinh (c. 2). Các vị này là những nhà chiêm tinh văn, chứ
không phải là "vua". Đặc biệt trong môi trường Mêsôpôtamia, hai ngành
thiên văn và chiêm tinh đã có từ lâu đời và rất được trọng dụng. Các biến cố
xảy ra trên bầu trời và trong thế giới loài người được coi là có liên hệ chặt
chẽ với nhau. Người ta xác tín rằng ai hiểu các hiện tượng của bầu trời thì
cũng hiểu lịch sử loài người và có thể ban các lời khuyên và những định hướng
về lịch sử này. Các nhà chiêm tinh này có khả năng giải thích các giấc mộng và
thấy trước tương lai bằng cách nhìn xem các vì tinh tú và quan sát cánh chim
bay. Các vị cũng có khả năng biện phân ra ý muốn của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, làm thế nào mà các nhà chiêm
tinh vừa ngoại quốc vừa ngoại giáo lại có thể đi tìm vua dân Do Thái như thế,
trên đất Paléttina? Vào thời cổ, có một niềm tin nói rằng cuộc chào đời của một
nhân vật quan trọng sẽ được báo cho biết bởi một ngôi sao trên trời. Trong lãnh
vực nghiên cứu của họ, các nhà chiêm tinh nhận được một thông tin cho biết Đấng
Mêsia đã chào đời và họ được thúc đẩy lên đường. Các nhà chiêm tinh đã thấy
ngôi sao được Kinh Thánh nhắc tới, chứ không phải là một ngôi sao chổi hay một
ngôi sao nào trong bầu trời vật lý. Các vị biết rằng, một đàng, Ds 24,17 khẳng
định về Đấng Mêsia xuất thân từ nhà Giacóp, đàng khác, có một truyền thống song
song, dựa trên Ds 24,7 (bản dịch Hy Lạp LXX), khẳng định rằng Đấng Mêsia sẽ trị
vì trên nhiều dân tộc. Các vị biết rằng dân Do Thái đang chờ đợi Đấng Mêsia. Từ
thời Lưu đày Babylon ,
đã có nhiều người Do Thái sống trên đất Mêsôpôtamia; nhờ họ, người ta biết tôn
giáo và các niềm chờ mong Do Thái.
Khi kể câu truyện Các nhà chiêm tinh,
tác giả Mátthêu không quan tâm đến cuộc hành trình của các vị ấy; ngài chỉ chú
ý đến cuộc đối đầu của các vị ấy với vua Hêrôđê. Ngài cũng muốn nói với chúng
ta rằng cuối cùng Đấng giải phóng nhà Giacóp đã tới. Các nhà chiêm tinh nhận ra
Người và thờ lạy Người. Đức Giêsu chính là ngôi sao ấy. Chúng ta đọc diễn tiến
câu truyện.
Đến Giêrusalem, các vị ấy tưởng là đã
đạt mục tiêu, nhưng lại được gửi đi đến một nơi khác. Nhưng bây giờ các vị ấy
đã biết mục tiêu cách chính xác hơn. Các kinh sư là những chuyên viên Kinh
Thánh (x. 23,2t), đã có thể suy ra là Đấng Mêsia chào đời tại Bêlem xứ Giuđê.
Trong Mk 5,1-3, Đấng Mêsia được giới thiệu như là Thủ Lãnh và Mục tử của
dânIsrael. Người sẽ chỉ cho dân Người biết con đường ngay thẳng và sẽ lo lắng
chăm sóc họ, như một mục tử săn sóc các chiên mình. Chúng ta lưu ý là các nhà chiêm
tinh hỏi nơi sinh của "vua dân Do Thái", chứ không phải là "vua Israel ".
Các kinh sư của dân (Mt 2,4) được Đấng Mêsia đến chiếu cố, đã ở lại Giêrusalem;
trong khi đó, các nhà chiêm tinh, là những người ngoại giáo, đã kiên trì theo
đuổi mục tiêu, họ tiếp tục cuộc hành trình.
Hai phần sau đây tương ứng với hai
"chương trình xung đột" (cũng có trong cc. 13-23) tác giả muốn tường
thuật: sự đối lập giữa hai nơi, Bêlem/Nadarét và Giêrusalem; một bên là chiến
lược của vua Hêrôđê tại Giêrusalem, bên kia là chiến lược của Thiên Chúa; vua
Hêrôđê không những đối lập với Đức Giêsu, mà cũng đối lập với các nhà chiêm
tinh nữa. Sự đối lập giữa hai vị vua được nêu bật bởi ngôi sao: ngôi sao không
được nhắc đến ở Giêrusalem, nhưng dẫn đường cho các nhà chiêm tinh sau khi họ
rời Giêsusalem.
* Gặp gỡ Hêrôđê, vị vua "giả
hiệu" của người Do Thái (3-9a)
Sự việc xảy ra ở đền vua Hêrôđê gián
tiếp giới thiệu Đấng Mêsia vương giả bằng câu sấmMk 5,1-3 kết hợp với 2 Sm 5,2.
Bây giờ vua Hêrôđê và "cả thành Giêrusalem" được đặt trong thế đối
lập với các nhà chiêm tinh. Phản ứng bối rối dao động của họ là một bằng chứng
cho thấy họ hiểu tính nghiêm trọng của hoàn cảnh. Vua Hêrôđê và toàn dân
Giêrusalem thuộc nhóm loại trừ vị tân ấu vương.
Một vài điểm không thật (vua Hêrôđê và
dân Giêrusalem không ưa gì nhau nên hẳn là dân chúng hẳn phải vui mừng khi biết
Đấng Mêsia vừa chào đời thì mới hợp lý – Nhà vua phải hỏi về nơi Đấng Mêsia
sinh ra, mà nơi này thì mọi người đều biết, vậy mà không một ai tò mò đi với
các nhà chiêm tinh đến Bêlem cả – Vua Hêrôđê triệu tập toàn thể Thượng Hội Đồng
Do Thái chỉ để xin một thông tin – Ngôi sao chỉ đúng nhà của Đức Giêsu – Dân cư
Giêrusalem "xôn xao"...) khiến nhiều tác giả cho rằng đây chỉ là một
sáng tác văn chương mà thôi. Nhưng dù được tưởng tượng hay không, câu chuyện
này minh họa thật rõ việc dân Do Thái loại trừ Đức Giêsu và Dân ngoại đón tiếp
Người. Đối với tác giả Mt, Giêrusalem là thành sẽ xảy ra cuộc đóng đinh; dân
Giêrusalem là những người sẽ nói về cuối quyển Tin Mừng, "Máu hắn cứ đổ xuống
đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi" (27,25). Sự bối rối của vua Hêrôđê và
dân Giêrusalem ở đây báo trước thái độ thù nghịch trong cuộc Thương Khó (x.
27,11.29.37.42). Ở đây, vua Hêrôđê, các thượng tế và kinh sư đã hiểu "Vua
dân Do Thái" chính là "Đấng Kitô [Mêsia]".
Câu trả lời về "Đức Vua dân Do
Thái" là câu trích Mk 5,1, nhưng tác giả đặt trên môi các kinh sư, chứ
không dùng công thức về hoàn tất Lời Chúa. Câu này cung cấp một nền móng Cựu
Ước cho khởi đầu cuộc đời của Đức Giêsu về mặt lịch sử và tiểu sử. Nhưng đây
không phải là điều ngài quan tâm đầu tiên. Điều ngài chú ý hơn, đó là dùng hai
lần từ "Giuđa" và thêm 2 Sm 5,2 (x. 1 Sbn 11,2) vào với từ móc laos
("dân chúng") để khẳng định quan điểm chống Do Thái của ngài: các
kinh sư Do Thái nhìn nhận rằng đây là vấn đề về vị mục tử thiên sai vẫn từng
mong đợi của dân Thiên Chúa là Israel, nhưng họ không rút ra các hệ luận; vì
vậy họ gián tiếp trở thành đồng lõa của vua Hêrôđê.
Thế là vua Hêrôđê "hỏi cặn kẽ về
ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện". Câu 7 này đưa chúng ta đến với câu 16
được viết tương tự. Độc giả có linh cảm một chuyện chẳng lành sắp xảy ra, khi
thấy nhà vua hỏi chi tiết về nơi Hài Nhi ở. Câu trả lời chính là sự tàn bạo bí
hiểm của nhà vua được chứng tỏ sau đó. Câu 8 lại cho độc giả nhận ra nhà vua là
một kẻ đạo đức giả. Đồng thời, nền tảng của c. 12 được cung cấp: vua Hêrôđê
muốn kéo các nhà chiêm tinh vào trò chơi của ông; nhưng ý định xấu xa của ông
sẽ bị Thiên Chúa can thiệp tiêu hủy.
* Gặp gỡ Ấu Vương "chân
chính" tại Bêlem (9-12)
Các nhà chiêm tinh ra đi ngay ban đêm,
không phải vì đó là thói tục của Đông phương, nhưng để tác giả lại có cơ hội
nói về ngôi sao. Tại đây, độc giả lại nhận ra Thiên Chúa ra tay hướng dẫn toàn
thể biến cố, và được mời gọi chia sẻ niềm vui chan hòa các nhà chiêm tinh đang
trải nghiệm.
Chủ đề của bài Tin Mừng được trình bày
rõ ràng qua việc các nhà chiêm tinh bái lạy Hài Nhi Giêsu và dâng các lễ vật
(c. 11). Đây mới là vị vua chân chính mà muôn dân vẫn trông đợi, dù tước
"vua" không hề được dùng mà gọi Người. Nhưng chủ đề "vị vua
thật" chạy xuyên suốt bản văn do các từ ngữ ("Vua dân Do Thái":
c. 2; "vì sao của Người": cc. 2.7.9.10; "vua Hêrôđê: c. 3;
"Hêrôđê": cc. 7.12; "bái lạy": c. 8; "nhà vua":
c. 9) và các cụm từ ("vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ
ra đời": c. 6; "sấp mình thờ lạy": c. 11; "lấy vàng, nhũ
hương, mộc dược mà dâng tiến": c. 11)[1] liên hệ.
Các nhà chiêm tinh, là những người khôn
ngoan và giàu kinh nghiệm, đã phủ phục (proskyneô) trước Hài Nhi, một trẻ sơ
sinh không hề tỏ ra có chút uy hùng hay quyền lực gì. Đây là cách người Đông
phương nhìn nhận Đấng có quyền trên mình, mình lệ thuộc phần nào hay hoàn toàn
vào đấng ấy (là vua chúa hay thần linh). Nhưng chúng ta nhớ Đức Giêsu đã được
giới thiệu là "con cháu vua Đavít" (1,1), "Con Thiên Chúa"
(x. 1,21; 2,15) và Emmanuel (1,23). Hài Nhi không nói gì với các vị ấy và cũng
chẳng cho các vị ấy món gì cả. Các vị không thấy vẻ huy hoàng chúa tể của
Người, cũng chẳng trải nghiệm về quyền lực của Người, nhưng các vị nhận biết
Người nhờ lòng tin. Tác giả bỏ qua ông Giuse để nêu bật địa vị đặc biệt của bà
Maria theo chiều hướng của Mt 1,18-25. Các lễ vật quý giá (vàng, nhũ hương và
mộc dược) các vị dâng là một dấu chỉ khác chứng tỏ các vị nhìn nhận Hài Nhi là
Chúa tể.
Chủ đề được khóa lại với tên "Hêrôđê",
vị vua đương trị, được nhắc lại lần nữa và với việc các nhà chiêm tinh từ biệt
Hài Nhi. Vua Hêrôđê đã muốn nối kết các nhà chiêm tinh vào các kế hoạch của
ông, và các kế hoạch này là thế nào thì cuộc sát hại các hài nhi Bêlem sẽ cho
biết; và hẳn là các nhà chiêm tinh sẽ chịu cùng một số phận như các hài nhi.
Tuy nhiên, Thiên Chúa đã can thiệp, để đưa các nhà chiêm tinh về quê theo đường
khác.
+ Kết luận
Đọc bài Tin Mừng này, chúng ta nhận ra
có sự đối đầu của hai vương quyền, vương quyền của Thiên Chúa và vương quyền
của loài người. Bản văn cũng nêu bật hai nỗi lo lắng: nỗi lo của những con
người đói khát ơn cứu độ, đang ra sức đi tìm; nỗi lo của con người sợ cuộc sống
mình bị đặt thành vấn đề. Hai bên đều tiến đi, để rồi đến cuối con đường, một
bên được hưởng niềm vui cứu độ, một bên co quắp lại trong thái độ thù nghịch.
Chỉ khi vương quyền của con người biết nhìn nhận mình phát xuất từ vương quyền
của Thiên Chúa, khi đó mới có sự "bình an dưới thế cho loài người Chúa
thương".
5.- Gợi ý suy niệm
1. Truyện này gây ra hai ấn tượng. Một
bên, chúng ta muốn coi toàn bộ như một huyền thoại: cuộc hành trình dài ngày
của các nhà chiêm tinh, ngôi sao dẫn đường, nỗi bối rối của nhà vua và toàn thể
dân thành Giêrusalem, mưu mô của vua Hêrôđê, cuối cùng lệnh của Thiên Chúa ban
cho các nhà chiêm tinh trong mộng, tất cả những nét này khiến chúng ta có ấn
tượng là truyện không thật. Nhưng ngược lại, nếu so sánh truyện này với những
gì ta biết về vua Hêrôđê và xứ Paléttina thời ấy, chúng ta lại phải nhìn nhận
truyện có màu sắc lịch sử: sự lưu tâm của các nhà chiêm tinh phương Đông về một
vị vua cứu thế và những cơn điên khùng bệnh tật của vua Hêrôđê hoàn toàn phù
hợp với truyện. Nhưng "đúng" không nhất thiết là "thật" về
lịch sử. Cho dù các biến cố đã xảy ra thật, các truyện trong chương 2 Mt cũng
không mang tính lịch sử theo nghĩa hẹp. Dường như tác giả đã sử dụng thể văn
midrash haggada để giải thích các sự kiện có thật hầu rút ra một áp dụng Kinh
Thánh, để đi tới việc ca tụng Thiên Chúa, khám phá ra một mạc khải về những
chương trình của Thiên Chúa trong quá khứ và cho tương lai, nhằm xây dựng cọng
đoàn.
2. Có những điểm "khôi hài"
trong bài: Sự khôn ngoan của Dân ngoại mà người Do Thái vẫn loại trừ hoặc khinh
bỉ cũng có thể đưa người ta đến với Đức Kitô. Đấy là khi các nhà chiêm tinh đến
đền vua Hêrôđê và hỏi về nơi trú ngụ của "Đức Vua mới sinh". Đàng
khác, chính một vị vua gian ác ngoại quốc (vì Hêrôđê thuộc gốc dân Iđumê) cũng
có thể trở thành trung gian cung cấp cho người ta những thông tin chính xác. Đấy
là khi vua Hêrôđê triệu tập các thượng tế và kinh sư lại để hỏi cho biết Đấng
Kitô sinh ra ở đâu.
3. Có hai chuyển động ngược chiều trong
bài: Vua Hêrôđê càng ngày càng co quắp lại trong thái độ cứng tin và từ khước,
và cùng với nhà vua là Thượng Hội Đồng Do Thái và dân Giêrusalem, còn các nhà
chiêm tinh thì đã từ những bước mò mẫm mơ hồ đi đến chỗ bày tỏ tất cả lòng tin
kính đối với Đấng Mêsia. Vì thế sau đó, các vị "đã đi lối khác mà về xứ
mình" (c. 12). Cũng nên dừng lại suy nghĩ về lối ứng xử của các kinh sư:
họ đã có thể trích và giải thích đúng Kinh Thánh, nhưng họ không hề lên đường.
Thánh Âutinh bảo rằng họ là "những cột cây số"; họ chỉ đúng đường,
nhưng họ không di chuyển!
4. Các nhà chiêm tinh đã nhận được sự
thúc đẩy đầu tiên khi nghiên cứu thiên văn. Đến Giêrusalem, các vị lại nhận
được một thông tin chính xác hơn rút từ Kinh Thánh. Các vị đã can đảm lấy quyết
định lên đường và cứ dò dẫm từng bước, và Thiên Chúa đã dẫn dắt các vị đạt tới
mục tiêu bằng "ngôi sao" dẫn đường. Bởi vì các vị không kháng cự lại
và không quản ngại mệt nhọc, trái lại đã chấp nhận được hướng dẫn, các vị đã
vui sướng đạt tới mục tiêu. Thiên Chúa luôn đáp ứng những ai tha thiết tìm ơn
cứu độ, dù đôi khi người trong cuộc cảm thấy đường đi không rõ và mục tiêu mịt
mù.
5. Các nhà chiêm tinh không thấy vinh
quang hay uy quyền của Hài Nhi Giêsu, nhưng các vị đã bái lạy mà nhìn nhận
Người là Chúa tể, là Đức Vua và vị Mục Tử của Dân ngoại, vì các vị tin. Đức tin
cần thiết cho từng bước đi tới chỗ nhận biết Đức Chúa, ở đây được các nhà chiêm
tinh diễn tả ra trong tình trạng tinh trong. Dựa vào ba lễ vật, qua các thời
đại, người ta đã tưởng tượng là có ba nhà chiêm tinh, có tên rõ ràng, một vị
trẻ tuổi, một vị đứng tuổi và một vị đã già; một vị là người châu Á, một vị là
người châu Âu và một vị châu Phi. Cách làm này không tương ứng với chữ viết của
bản văn nhưng phù hợp với tinh thần của Tin Mừng. Tất cả các lứa tuổi và con
người của mọi châu lục đều đạt tới mục tiêu khi gặp Hài Nhi này, nhất là khi
nhìn nhận Người là Đức Vua và Đức Chúa của họ. Người đã đến cho mọi người, cho
người trẻ cũng như cho người già, cho người thông thái cũng như người chất phác
ít học, cho mọi màu da và mọi lối sống, để giúp họ nhận biết Thiên Chúa là Cha
và đưa vào cuộc đời họ một ánh sáng chói chan. Như các nhà chiêm tinh, loài
người không được để mình đi trệch đường về với Đức Giêsu, mà phải để cho Thiên
Chúa hướng dẫn, cho đến khi tới đích.
6. Phải chăng nên gỡ bỏ các ngôi sao
tại các máng cỏ? Không cần! Chúng ta cứ việc ngắm nhìn ngôi sao ấy, cứ chỉ cho
con em thấy, nhưng bảo các em rằng ngôi sao đích thật là Đức Giêsu. Người chính
là ánh sáng soi chiếu mọi dân tộc. Cũng giải thích cho chúng biết rằng các nhà
chiêm tinh là đại diện cho các dân tộc trên thế giới đang để cho sứ điệp hòa
bình và tình yêu của Đức Giêsu hướng dẫn. Họ chính là hình ảnh của Hội Thánh,
được tạo nên do các dân tộc thuộc mọi giống nòi và mọi ngôn ngữ. Trở nên một
thành viên của Hội Thánh không có nghĩa là đánh mất hoặc bỏ đi chân tính của
mình, không có nghĩa là phải quy phục một thứ "đồng nhất" giả tạo và
bất công. Các dân tộc cần phải duy trì nền văn hóa của họ và làm giàu cho Hội
Thánh bằng nền văn hóa riêng này.
38. Chú giải của Noel Quesson
Khi Đức Giêsu ra đời lại Bêlem, miền
Giuđê, thời vua Hêrôđê trị vì.
Đó chỉ là những từ duy nhất, rất ngắn
ngủi mà Matthêu dùng để nói về lễ Giáng sinh. Ít thật! Thực sự, Matthêu có vẻ
chú ý quá ít đến biến cố đơn thuần, khác với Luca. Trái lại, một cách rõ rệt,
Matthêu chủ ý trình bày với các độc giả của mình ý nghĩa của sự sinh ra. Và ông
cho họ hiểu ý nghĩa trong câu truyện này về các nhà chiêm tinh... chính câu
truyện được triển khai tối đa, và được trình bày, nếu chúng ta lưu ý, như một
thứ dẫn nhập cho toàn bộ Tin Mừng theo Thánh Matthêu.
Thời vua Hêrôđê trị vì, có mấy nhà
chiêm tinh từ Phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi: "Đức Vua dân Do Thái mới
sinh, hiện ở đâu?"
Matthêu so sánh, như hai chất nổ, hai
danh hiệu:Vua Hêrôđê... vua dân Do Thái. Câu hỏi này mà những người nước ngoài
sắp nhắc lại trên các phố phường chật hẹp ở Giêrusalem, đã vang đến tai những
người Do Thái như một sự mỉa mai cay độc. Người ta hiểu rằng nó cũng làm cho
Hêrôđê vốn đa nghi phải giao động. Qua lịch sử, người ta biết rằng cả đời ông
bị ám ảnh vì sợ mất quyền bính, và ông thấy chỗ nào cũng có âm mưu, nên chỉ
luôn luôn sống trong các thành lũy, và cho giết chết ba người con trai, bà mẹ
vợ và thậm chí chính người vợ riêng của mình.
Đấy là về chuyện lịch sử. Nhưng ý nghĩa
mà Matthêu dành cho danh hiệu "Vua dân Do Thái" này lại sâu xa hơn
nhiều; Nước Trời sẽ là một trong những đề tài ông ưa thích. Matthêu, ngay từ
đầu loan báo về Đức Vua của Vương quốc này. Ngay trang đầu trong sách Tin Mừng
của ông, có một vương miện đang tranh chấp: ai thực sự là "vua" dân
Do Thái? Hêrôđê, một nhà vua chuyên chế, hiếu sát và tàn bạo? Hay là Giêsu,
người bé nhỏ, yếu hèn, không có vũ khí sẽ chết như nạn nhân vô tội? Chính ở
trang cuối cùng sách Tin Mừng của mình, theo một phương thức viết hàm ý quen
dùng trong văn chương Sê-mít, mà Matthêu đã đặt lại cho Đức Giêsu "Vua dân
Do Thái" này. Những binh lính sẽ nói "Ngự tâu, Vua dân Do Thái"
(Mt 27,29). Philatô sẽ cho ghi "Này là Vua dân Do Thái" ở trên đầu
Đức Giêsu chịu khổ hình thập giá, để chỉ rõ cái "lý do khiến người bị kết
án" (Mt 27,37). Tất cả các kinh sư và đại giáo trưởng sẽ cười nhạo
"Nếu y là Vua dân Do Thái, thì y cứ xuống khỏi thập giá đi" (Mt
27,37).
Từ khi sinh ra, Thánh Matthêu gợi ý,
Đức Giêsu chỉ là một vua khiêm tốn, hình ảnh của "Người đầy tớ chịu đau
khổ" của Isaia vị vua này sẽ chỉ cưỡi trên lưng lừa (Mt 21,5) trong cuộc
khải hoàn chóng qua với những tàu lá, vị vua đến không Phải để được phục vụ,
nhưng để phục vụ (Mt 20,28), và sẽ yêu cầu các bạn hữu của mình "đừng
thống trị, mà hãy làm cho mình trở thành những đầy tớ" (Mt 20,25-26).
Vương quyền của vị vua này không thuộc về thế gian này, nó không hề giống vương
quyền của Hêrôđê: nó chỉ được tiết lộ một cách nghịch lý trong ngày Người thụ
nạn, chúng ta sẽ hàm ý gì dưới những từ lặp lại trong lời kinh của chúng ta:
"Xin cho Nước Cha trị đến!"...Người trị đến với Chúa Cha và Chúa
Thánh Linh đến muôn muôn thế kỷ".
Chúng tôi đã trông thấy vì sao của
Người xuất hiện.
Ngày nay, Giáo Hội so sánh câu truyện
Hiển Linh này với bản văn của Isaia được chọn lựa giữa vô số bản văn Kinh Thánh
loan báo Đấng Mêsia đến như một ánh sáng. "Hãy đứng lên hỡi Giêrusalem,
ánh sáng của người đã đến và vinh quang của Đức Chúa xuất hiện trên ngươi. Hãy
nhìn xem: bóng tối lại bao trùm mặt đất, nhưng Đức Chúa xuất hiện trên ngươi,
và vinh quang của Người chiếu tỏ trên ngươi. Các dân nước sẽ tiến về phía ánh
sáng của ngươi, và các vua, về phía luống sáng bình minh ngươi (Is 60,1-6)
Người ta nhớ lại ánh sáng của Đấng Cứu Độ được hát vào Mùa Vọng và trong lễ đêm
Giáng sinh: Người đi trong bóng tối đã trông thấy xuất hiện một ánh sáng lớn
lao, bởi vì một Hài Nhi đãsinh ra cho chúng ta" (Is 9,1-5).
Trong chủ đề về ngôi sao, có cả một ý
nghĩa mà Thánh Phêrô chỉ rõ khi người nói về đức tin như "sao Mai xuất
hiện trong lòng chúng ta" (2Pr 1,19). Ngôi sao tượng trưng cho ánh sáng
của Chúa, ân sủng của Chúa, tác động của Chúa trong tâm trí của mọi người, và
dẫn dắt mọi người hướng về Đức Kitô. Vâng, Thiên Chúa nhìn ngắm với tình yêu
những nhà chiêm tinh ngoại giáo tiến về Đức Giêsu. Trong đời tôi, cũng có một
ơn hướng dẫn tôi khám phá ra Đức Giêsu. Tôi có can đảm đi theo ơn đó cho đến
nơi mà ơn huệ hướng dẫn tôi không? Xin hãy dẫn dắt con trong ánh sáng này một
bước, một bước, chỉ một bước hướng tới Chúa!
Và chúng tôi đến bái lạy Người.
"Bái lạy". Động từ này được
Matthêu sử dụng ba lần trên trang này chỉ thái độ sâu xa của các nhà chiêm tinh
ngoại giáo này. Họ đến để thờ lạy. Còn tôi? Đôi khi tôi có bái lạy không? Trước
cái gì? Trước ai? Tôi gán cho một ý nghĩa gì về việc bái lạy của tôi lúc dâng
Thánh Thể trong thánh lễ không? Nhiều bạn trẻ ngày nay, tìm lại được cái cử chỉ
bái lạy lớn lao, ở đó có người nhận biết sự bé mọn của mình, đã hoàn toàn phục
dài trên mặt đất trong lòng tôn thờ của tất cả vạn vật.
Nghe tin ấy vua Hêrôđê bối rối, và cả
thành Giêrusalem cũng xôn xao. Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và
kinh sư trong dân Israel
lại.
Giữa câu truyện Hiển Linh, Matthêu đưa
ra hai thái độ mà cháng ta luôn luôn thấy lại trong sách Tin Mừng cha ông:
"Một đàng là sự khước từ của các lãnh tụ chính trị và tôn giáo Do Thái.
Đáng lẽ họ phải là những người đầu tiên nhận ra Đấng Mêsia Thế mà, họ làm gì?
họ sợ hãi, họ lo âu. Họ không động tĩnh. Ngay từ đầu họ tìm giết Đức Giêsu.
Người ta tưởng đã nghe thấy tiếng kêu buồn rầu to lớn Đức Giêsu thốt ra về
Giêrusalem: "Khốn thay! Các kinh sư và các Pharisêu... Hỡi Giêrusalem!
Giêrusalem! Ngạo giết chết những người ta sai đến với ngươi bao nhiêu lần ta đã
muốn tập hợp các con cái ta! Và các người đã không muốn" (Mt 23,27-37).
Đàng khác, trái lại, sự "đón
tiếp" của những nhà chiêm tinh ngoại giáo. Dù không được chuẩn bị bao
nhiêu để nhận biết Đấng Mêsia, chính họ lại đi tìm kiếm Người, họ năng động, và
không chút lo âu, họ cảm thấy "một nỗi vui mừng lớn lao Người ta tưởng
chừng nghe thấy câu kết luận của sách Tin Mừng Matthêu: Các ông hãy đi và hãy
làm cho tất cả các dân nước trở thành môn đệ (Mt 28,19).
Thực ra, trang Tin Mừng này, trong
những thế kỷ đầu tiên, được dành để cố giải thích cho các Kitô hữu gốc Do Thái
(Matthêu muốn nói trực tiếp cho chính họ) hiểu tại sao Giáo Hội gồm có đa số là
những Kitô hữu gốc ngoại giáo khi mà Thiên Chúa lại gắn bó quá mạnh mẽ với Do
Thái. Mátthêu, chứng minh, nơi Giêsu. một Đấng Cứu Độ được mong đợi. Người đến
vì tất cả mọi người: và nước Do Thái mới gồm có những người Do Thái hay ngoại
giáo, bái lạy trước Đức Giêsu. Điều đó được tất cả những lại phát ngôn "có
tính chất phổ độ" loan báo trước: Giêrusalem phải trở nên kinh đô của tất
cả các dân tộc. "Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Mađian và Êpha: tất
cả những người từ Saba kéo đến, đều mang theo
vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa" (Is 60,1-6).
Người ta nhớ đến, bên Israel .
nữ hoàng Saba , đến từ xa, bà đã lên Giêrusalem
để gặp gỡ Salômôn. Thánh Vịnh 71, được hát ngày lễ Hiển Linh, lặp lại cùng một
chủ đề của phần mở đầu: "Các vua xứ Tacsi và các hải đảo sẽ mang các tặng
phẩm đến". Và cũng chính Matthêu sẽ nói lại trong sách Tin Mừng của ông
rằng các dân tộc "sẽ đến từ Phương Đông và Phương Tây, an phần vào bữa
tiệc với Abraham" (Mt 8,11). Một lần nũa, người ta thấy sách Tin Mừng này
được cấu tạo như thế nào. Vâng, các "nhà chiêm tinh" tượng trưng cho
tất cả những người ngoại giáo (và những người không tin) ở mọi thời đại Và
trong những từ này, chúng ta không đưa vào đó một ý nghĩa xấu nào cả. trái
lại!trong số các bạn bè của chúng ta, có đông người như thế, tất cả những người
này hoàn toàn chân thành trong các xác tín của họ, họ có một cuộc sống ngay
thẳng, có một ý thức về công lý, và về việc phục vụ tha nhân, họ có một đời
sống gia đình gương mẫu, và làm trọn một cách hoàn hảo những nghĩa vụ nghề
nghiệp của họ. Dẫu vậy, họ không biết Đức Giêsu Kitô theo nghĩa mạnh.
Lễ Hiển Linh là lễ của tất cả những
người không biết Đức Giêsu, của tất cả những người có niềm tin khác với chúng
ta. Và Thiên Chúa yêu mến họ, soi sáng cho họ, Thiên Chúa dùng ân điển vô hình
để lôi kéo họ đến với Người. Nhưng, chúng ta, chúng ta phê phán họ như thế nào?
Và đây là điều ngôn sứ đã viết:
"Phần ngươi, hỡi Bêlem. miến đất Giu-đa,... vì ngươi là nơi vị lãnh tụ
chăn dắt Israel
dân Ta sẽ ra đời".
Tại sao, hãy nói cho tôi hay, ngôi sao
lại không trực tiếp dẫn lối những nhà chiêm tinh, nếu phải làm, đến Bêlem, gần
Đức Giêsu? Tại sao có đường vòng qua Giêrusalem, qua các "kinh sư và
thượng tế" Bởi vì Thiên Chúa trung thành với những lời Người hứa, và vì,
nếu ơn cứu độ được đưa đến cho tất cả mọi người, thì ơn đó đến qua trung gian
những người Do Thái (Rm 9, 10-11).
Họ mở bảo tráp, lấy tặng vật mà dâng
tiến.. Họ đi lối khác mà về xứ mình...
Việc thờ phường là một trong những chức
năng chính yếu của Giáo Hội: sự thờ phượng thật, chính là dâng tiến lên Thiên
Chúa kết quả lao động của con người và của đất. Như vậy cuối cùng tất cả mọi
giá trị mà nhờ đó các nền văn minh sinh tồn được. Cuộc gặp gỡ Đức Kitô biến đổi
cuộc đời: một con đường mới mở ra... Tin Mừng vui biết bao, lạy Chúa!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét