https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjRaSuMlgsTW4SyEEZoRemc40uJxGXzCmMQP1KwAipusQRo1kMSrviSgM_JevbijIkS4Wfgjo6paVIinglcMu57eD40ZMOFlph7pVEmyM1DKTRdwT7xCMir9yQ3EQl_QsZQenhjfhUaG1DB/s1600/GS09.jpg
LỄ THÁNH GIA – Năm B
Lời Chúa: Hc 3,3-7.14-17a hay St
15,1-6; 21, 1-3; Cl 3,12-21 hay Dt 11, 8.11-12, 17-19 Lc 2, 22-40 hay 2, 22.
39-40
MỤC LỤC
1. Những nhân vật
2. Gia đình nhân loại
3. Giáo Hội cỡ nhỏ
4. Gia đình Kitô hữu cũng là thánh gia
5. Gia đình là trường thực tập yêu
thương – JNK
6. Gia Đình - Con Đường
7. Gia Đình Thánh
8. Bài giảng lễ Thánh Gia Thất
9. Gia đình của tôi ơi!
10. Đức Kitô tiếp tục lớn lên
11. Gia đình, cộng đoàn yêu thương
12. Mái nhà lý tưởng
13. Dâng Chúa trong đền thờ - R. Gutzwiller
14. Gương mẫu Thánh Gia
15. Gia đình Giuse - Maria - Hài Nhi
Giêsu
16. Hạnh phúc gia đình - JKN
17. Tiến dâng cho Chúa
18. Tình yêu và lòng kính trọng trong
gia đình
19. Tầm quan trọng của đời sống gia
đình
20. Dung mạo
21. Giáo hội nhỏ
22. Vai trò của gia đình
23. Thánh Gia Thất- Lm. Munachi Ezeogu
24. Thánh Gia
25. Lớn lên
26. Chú giải của Noel Quesson
1. Những nhân vật
Giờ đây chúng ta cùng nhau dừng lại để
tìm hiểu về những nhân vật qua đoạn Tin Mừng vừa nghe.
Trước hết là Chúa Giêsu
Từ thuở thơ ấu, ngay cả khi chưa nói
được, Chúa Giêsu đã hoàn tất các lời Thánh Kinh. Hôm nay Ngài thực hiện lời hứa
đã được ban cho Đaniel, Malakia và nhiều tiên tri khác. Hôm nay trong con người
hài nhi Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại cung thánh đã bị bỏ phế của Ngài.
Dù tội của Israel
có thế nào chăng nữa, Thiên Chúa vẫn trung thành với lời mình đã hứa. Sự bất
trung của Israel
chỉ làm trì hoãn việc thực hiện các lời hứa ấy chứ không thể huỷ bỏ chúng được.
Trong cuộc đời chúng ta cũng thế. Ngày
chúng ta được rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm nghĩa tử. Mặc dù chúng
ta có lắm bất trung, Ngài vẫn không khi nào ruồng rẫy. Mặc dù chúng ta có xua
đuổi Ngài ra khỏi cung lòng chúng ta, Ngài vẫn tìm mọi cách giúp đỡ chúng ta ăn
năn sám hối. Hôm nay, chúng ta hãy mở rộng cung thánh tâm hồn chúng ta cho
Ngài, hãy mời Ngài đến ở mãi trong cuộc đời chúng ta, để rồi chúng ta sẽ trở
nên ánh sáng chiếu soi cho những người chúng ta gặp gỡ trên vạn nẻo đường đời.
Tiếp đến là Maria và Giuse
Các Ngài đã chấp nhận chu toàn mọi lề
luật. Các Ngài vâng phục đến độ còn thi hành thói quen đạo đức là trình dâng
con trai đầu lòng tại đền thánh, một điều luật không đòi hỏi. Sở dĩ các Ngài đã
đi quá lề luật như thế là vì các Ngài đã tuân phục với tình yêu chứ không vì sợ
hãi. Riêng Mẹ Maria là thụ tạo tinh tuyền nhất của nhân loại, đã khiêm tốn chấp
hành nghi thức thanh tẩy. Phần chúng ta là những kẻ bị tội lỗi làm cho trở nên
xấu xa, chúng ta hãy khiêm tốn lãnh nhận bí tích Cáo giải để tâm hồn được thanh
tẩy.
Sau khi nghe ông già Simêon nói về hài
nhi Giêsu, hai ông bà đã ngạc nhiên. Sở dĩ như vậy vì các ngài chưa hoàn toàn
thấu triệt mầu nhiệm sâu xa che phủ trên Con mình. Dù được sống thân mật với
Chúa Giêsu, các ngài vẫn phải tiến tới trong đức tin. Nhưng đức tin các ngài
luôn được đào sâu, vì các ngài suy gẫm trong lòng. Đối với chúng ta, cũng chẳng
có gì lạ, nếu chúng ta không hiểu hết được những mầu nhiệm của Thiên Chúa. Dù
qua hai mươi thế kỷ, Giáo Hội vẫn luôn tiếp tục đào sâu mầu nhiệm Đức Kitô. Nơi
Đức Kitô, đức tin của chúng ta cũng phải triển nở và lớn lên trong sức mạnh và
ơn sủng. Đức tin của chúng ta chính là sự tăng trưởng liên tục của Đức Kitô
trong tâm hồn chúng ta.
Sau hết là ông Simêon và bà Anna
Chúa Thánh Thần đã ở trên ông Simêon,
mạc khải cho ông biết Đấng Messia trước khi qua đời, thúc đẩy ông vào đền thờ
chờ đón Hài Nhi Giêsu đến. Đối với chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sống dưới
sự hoạt động của Chúa Thánh Thần cách thường xuyên, nếu chúng ta ở trong ơn
nghĩa và biết chăm chỉ tuân theo những thúc đẩy bên trong của Ngài. Chúa Thánh
Thần cũng có thể trở nên trong chúng ta một nguồn ánh sáng giúp chúng ta hiểu
rõ hơn đức tin và bổn phận của chúng ta. Ngài đem đến một nguồn sức mạnh thiêng
liêng giúp chúng ta can đảm sống đời sống chứng nhân cho Thiên Chúa.
Simêon và Anna đã suốt đời chờ mong Đức
Kitô. Với chúng ta họ là những tấm gương hy vọng và trung tín. Lòng trung tín
của họ đã được ân thưởng. Họ đã được niềm vui bồng ẵm trên tay ánh sáng dân
ngoại, vinh quang Israel ,
là chính Chúa Giêsu. Trong mùa Giáng sinh này, chúng ta cũng hãy chuẩn bị và
đón nhận hồng ân Thiên Chúa trong sự trung tín đợi chờ và đón nhận nó với tất
cả tâm tình biết ơn ơn Simêon và Anna ngày xưa.
2. Gia đình nhân loại
Giáo Hội đặc biệt quan tâm tới việc xây
dựng gia đình Kitô hữu thành một cái nôi của tình thương, thành một mái trường
dạy cho chúng ta những bài học làm người. Trong chiều hướng đó, Thánh Gia với
Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse vốn được coi là những mẫu gương sáng chói
của gia đình công giáo.
Thế nhưng, Chúa Giêsu đã không muốn
đóng khung nhãn giới của chúng ta trong khuôn khổ một gia đình theo huyết
thống. Bài học lớn nhất Ngài để lại cho chúng ta đó là bài học làm người trong
xã hội. Ngài không vun xới cho gia đình riêng của mình, nhưng Ngài lại xây dựng
đại gia đình nhân loại được cứu chuộc.
Tin Mừng cho thấy Chúa Giêsu ngay từ
lúc lọt lòng mẹ đã phải trải qua một cuộc bôn ba, đã là một con người bị ruồng
bắt bởi quyền lực thế gian. Con đường trốn qua Ai Cập cũng chính là con đường
dân riêng của Chúa đã đi qua thuở xưa, con đường dẫn tới cuộc sống nô lệ trong
suốt 400 năm. Nhưng rồi Ngài cũng được đưa về lại Galilê tượng trưng cho cuộc
xuất hành của dân riêng khỏi đất nô lệ Ai Cập. Như thế Phúc Âm đã tóm gọn cuộc
đời Chúa Giêsu và đặt cuộc đời ấy trong lịch sự của dân Chúa.
Qua Ai Cập và từ Ai Cập trở về, Chúa
Giêsu đã không chỉ đi với cha mẹ Ngài mà còn đi với dân của Ngài. Qua cái chết
và sống lại của Ngài, một dân mới được thiết lập và các môn đệ của Ngài được
sai đi đến tận cùng trái đất để mọi người, không phân biệt màu da, tiếng nói, ý
thức được mình là con Thiên Chúa và là anh em với nhau.
Việc xây dựng đại gia đình nhân loại
nhiều khi vượt lên trên quyền lợi của gia đình ruột thịt hay dòng họ. Chúa
Giêsu đã khẳng định điều đó một cách thật rõ ràng. Ngài đã từng cho người ta
hiểu rằng Ngài đến không phải để đem hoà bình mà là gươm giáo, đến để chia rẽ
con cái khỏi cha mẹ, nàng dâu khỏi mẹ chồng và làm coh những người trong gia
đình trở thành kẻ thù của nhau. Những lời lẽ quả là lạ lùng, khó nghe. Dĩ nhiên
chúng ta không thể coi Ngài như một kẻ chủ trương phá hoại gia đình hay coi nhẹ
giá trị gia đình. Nhưng Ngài muốn cho người ta hiểu rằng: Còn một gia đình khác
lớn hơn phải được xây dựng. Cái mối quan hệ lớn lao, cao quý mà người ta cần
phải quan tâm thiết lập và vun xới, không phải là mối quan hệ cha con, anh em
theo máu huyết. Mà là mối quan hệ cha con, anh em theo việc thực thi ý định của
Chúa: Ai là mẹ Ta và ai là anh em Ta. Đó là người nghe và thực hành lời Chúa.
Nếu mọi thành phần trong gia đình cùng
nhìn về một phía, cùng theo đuổi một lý tưởng phục vụ hạnh phúc của con người
trong xã hội. Đó chính là gia đình gương mẫu, thánh thiện theo cái nhìn của Tin
Mừng. Để đạt tới lý tưởng ấy, mỗi người trong gia đình cần phải tìm hiểu và đào
sâu những đòi hỏi của Tin Mừng, thấy rõ trách nhiệm làm người và làm môn đệ của
Chúa trong xã hội và trong thế giới hiện tại, đồng thời cố gắng giúp nhau chu
toàn trách nhiệm ấy.
3. Giáo Hội cỡ nhỏ
Gia đình là tế bào sống động của quốc
gia, của nhân loại, cũng như của Hội Thánh. Tế bào căn bản này có khỏe mạnh và
phát triển, thì toàn thể thân xác mới khỏe mạnh và phát triển. Sức khỏe và sự
ổn định của gia đình ảnh hưởng tới sức khỏe và sự ổn định của quốc gia và Giáo
Hội. Chính vì thế chúng ta phải đem vào trong gia đình một tinh thần Kitô giáo
đích thực.
Thế nhưng ngày nay, vì chiến tranh, vì
những trào lưu duy vật và chối bỏ đức tin, gia đình đã bị khủng hoảng và suy
sụp, tế bào nền tảng này đã bị nhiễm độc. Vậy chúng ta phải làm gì để cứu vãn
tình thế?
Điều tôi nhấn mạnh giờ đây, đó là tinh
thần cộng đoàn. Thực vậy, mỗi người chúng ta phải biết từ bỏ tính ích kỷ để
tiến đến một sự hòa hợp và yêu thương, như hình ảnh về thân thể mầu nhiệm của
Đức Kitô mà thánh Phaolô đã đề cập tới. Gia đình là một Giáo Hội cỡ nhỏ, là một
nhiệm thể được thu hẹp. Đây không phải chỉ là một hình ảnh tượng trưng, mà còn
là một thực thể sống động.
Người cha là đầu thân thể như Đức Kitô
là đầu Giáo Hội. Người mẹ là thân thể như vai trò của Giáo Hội, và con cái là
những phần tử như những tín hữu là chi thể của Đức Kitô.
Một gia đình đích thực phải hiệp nhất
và trở nên một: Một tư tưởng, một ước muốn, một cõi lòng, một con tim. Người
cha tìm kiếm cơm áo, người mẹ phân phát cơm áo và con cái thì lãnh nhận máu
huyết và sự sống nơi cha mẹ. Người cha thì giống với Đức Kitô là đầu nhiệm thể.
Người mẹ thì giống với Giáo Hội, còn con cái thì giống những chi thể trong
nhiệm thể ấy.
Bởi đó hãy đón nhận và thực thi tinh
thần hợp nhất. Là con cái, hãy nhìn thấy Đức Kitô nơi người cha, hãy yêu mến và
trọng kính Đức Kitô nơi người cha của mình. Trgkhi đó, những người cha hãy sống
như Đức Kitô và điều hành gia đình của mình trong tinh thần yêu thương.
Còn người mẹ, hãy lấy Giáo Hội làm lý
tưởng cho mình, để có sự trung thành và hiền dịu. Con cái chính là những tế
bào, trong đó Đức Kitô phải lớn lên, phải trưởng thành. Muốn thấm nhuần tinh
thần ấy, chúng ta phải cần đến một bầu khí đạo đức. Bầu khí đạo đức này được
tạo nên do thánh lễ, do phụng vụ, do các bí tích và đặc biệt do những giờ kinh
chung trong gia đình.
Đây là những giây phút linh thiêng, cha
mẹ, vợ chồng, con cái cùng quây quần bên nhau và cùng nhau quây quần bên Chúa,
để dâng lên Ngài của lễ chung là những hy sinh gian khổ trong cuộc sống. Đây
cũng là một liều thuốc thần diệu hàn gắn những đổ vỡ, vì trong những phút giây
ấy chúng ta thực sự trở nên một.
Hãy xây dựng gia đình mình trong tinh
thần hợp nhất như các chi thể hợp nhất với nhau và nhất là như Đức Kitô hợp
nhất với Giáo Hội của Ngài.
4. Gia đình Kitô hữu cũng là thánh gia
(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Vào ngày thành hôn của anh chị Trung và
Hiếu, một người bạn của đôi vợ chồng nầy tặng cho đôi tân hôn bức tranh thánh
gia thất Nadarét. Cuối bức ảnh có ghi dòng chữ: "Mến tặng thánh gia
Trung-Hiếu. Cầu chúc thánh gia của Anh Chị nên giống thánh gia thất của Chúa
Giêsu".
Sau khi bức tranh nầy được treo lên
tường, có người lên tiếng phê bình:
Tại sao lại viết là "thánh gia
Trung-Hiếu"? Chỉ có một thánh gia thất duy nhất là thánh gia của Chúa
Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse, chứ làm gì có cái gọi là "thánh gia
Trung-Hiếu". Viết như thế chẳng phải là làm giảm giá trị của thánh gia
Nadarét sao?
Thế là từ lúc đó, nổ ra một cuộc tranh
luận giữa hai nhóm có ý kiến đối lập ngay giữa tiệc cưới. Cuộc tranh luận rất
sôi nổi và khá ồn ào vì hai phe đều tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho quan điểm
của mình. Để tiết kiệm thời gian, tôi xin gom lại những lý lẽ chính của đôi
bên.
Nhóm bài bác cho rằng gia đình kitô hữu
không thể gọi là thánh gia vì:
Thứ nhất, gọi như vậy là làm giảm giá
trị của thánh gia thất Chúa Giêsu. Xưa nay, Giáo Hội chỉ dùng hai từ thánh gia
để chỉ thánh gia Nadarét của Chúa Giêsu mà thôi.
Thứ hai, không ai chối cãi Chúa Giêsu,
Mẹ Maria, thánh cả Giuse thật sự là ba đấng thánh. Gia đình nầy gồm có ba đấng
thánh nên mới được gọi là thánh gia. Còn gia đình các kitô hữu gồm những người
phàm, làm sao gọi là thánh gia được?
Nhóm ủng hộ bảo rằng: Gia đình các kitô
hữu cũng là thánh gia vì các lý do sau đây:
Thứ nhất, bất cứ ai đã lãnh nhận bí
tích thánh tẩy đều đã được thánh hiến, được trở nên thánh. Họ là thánh vì bí
tích thánh tẩy làm cho họ trở nên chi thể của Đấng rất thánh là Chúa Giêsu.
Thánh Phao-lô ngày xưa chẳng gọi các kitô hữu tại Cô-rinh-tô, Rô-ma, Ga-lát...
là thánh đó sao?
Thứ hai, Chúa Giêsu đã lập bí tích hôn
phối để thánh hiến đời sống gia đình, nâng gia đình kitô hữu lên một tầm cao
mới.
Thứ ba, Công Đồng Vatican II gọi gia
đình là Hội Thánh thu nhỏ (Hội Thánh tại gia) (xem LG 11, giáo lý công giáo
1656) và Đức Giáo Hoàng Gioan Phao-lô II cũng thường gọi gia đình là Hội Thánh
tại gia. Gọi như thế có khác gì gọi gia đình kitô hữu là thánh gia?
Thứ tư, theo giáo lý công giáo số 1657,
gia đình "là nơi thể hiện đặc biệt chức tư tế cộng đồng của người cha,
người mẹ, con cái và mọi phần tử trong gia đình", "là cộng đồng ân
sủng và cầu nguyện, là trường học phát triển các đức tính tự nhiên và đức mến
Kitô giáo" (Glcg số 1666)
Ngoài ra, xét theo khía cạnh mục vụ,
một khi các kitô hữu ý thức rằng gia đình mình đúng thật là thánh gia, họ sẽ cố
công xây dựng gia đình sao cho xứng đáng với danh hiệu đó. Thế là những tệ nạn
thường xảy ra trong đời sống gia đình có nhiều cơ may được xoá bỏ và những phẩm
chất xứng hợp với một thánh gia sẽ được phát huy.
* * *
Khi xây dựng một ngôi nhà, chúng ta cần
một bản thiết kế thật hoàn chỉnh hay ít ra cần dựa vào một ngôi nhà đẹp mà
chúng ta ưa thích để dựa theo đó mà xây ngôi nhà của mình.
Hôm nay, nhân lễ kính thánh gia thất
của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh cả Giuse, Thiên Chúa muốn chúng ta nhìn ngắm
lại một kiệt tác gia thất của Người, do chính Người xây dựng với sự hợp tác của
thánh Giuse và Mẹ Maria và mời gọi chúng ta hãy xây dựng gia đình mình theo mô
hình lý tưởng đó.
Xây dựng gia đình mình theo mô hình
thánh gia Nadarét là mọi người trong gia đình phải cư xử với nhau như ba Đấng
trong thánh gia nầy. Cụ thể là người chồng phải yêu thương và phục vụ vợ con
như thánh Giuse đã yêu mến và phục vụ Mẹ Maria; người vợ phải yêu thương và săn
sóc chồng như Mẹ Maria đã yêu mến và phục vụ thánh Giuse; cha mẹ phải yêu mến
và chăm lo cho con cái như thánh Giuse và Mẹ Maria chăm lo phục vụ Chúa Giêsu;
con cái trong gia đình phải hiếu kính mẹ cha, biết thờ cha kính mẹ, phụng dưỡng
cha mẹ như Chúa Giêsu đã làm đối với Đức Mẹ và thánh Giuse.
Có như thế, gia đình tín hữu mới xứng
đáng với danh hiệu là thánh gia, xứng đáng với hồng ân đã nhận ngày lãnh bí
tích hôn phối, làm cho gia đình trở nên tổ ấm yêu thương hạnh phúc và thánh
thiện.
5. TÌNH YÊU TRONG GIA ĐÌNH
1. GIA ĐÌNH LÀ HÌNH ẢNH CỦA BA NGÔI
THIÊN CHÚA
Nếu con người là hình ảnh của Thiên
Chúa, thì có thể nói rằng gia đình là hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên
Chúa của chúng ta không phải là một Thiên Chúa sống đơn độc, mà là một Thiên
Chúa mang tính gia đình, trong đó Ba Ngôi khác biệt nhau nhưng yêu thương nhau,
sống chung, làm việc chung, và kết hợp với nhau thắm thiết như trong một gia
đình, tới mức độ tuy là Ba Ngôi nhưng chỉ là một Thiên Chúa duy nhất. Nếu Thiên
Chúa là tình yêu, thì "Tập Thể Ba Ngôi" là một môi trường để Ba Ngôi
Thiên Chúa thể hiện tình yêu của mình với nhau. Vì Ba Ngôi yêu thương nhau vô cùng,
nên sự hiệp nhất của Ba Ngôi đạt được mức độ tối đa là trở thành một Thiên Chúa
duy nhất. Tình yêu và sự hiệp nhất ấy tạo nên thiên đàng hay hạnh phúc của Ba
Ngôi.
Cũng vậy, nếu gia đình là hình ảnh của
Ba Ngôi, thì mọi thành viên trong đó phải yêu thương nhau, hòa hợp với nhau đến
mức hiệp nhất với nhau. Nhờ đó gia đình trở thành một thiên đàng tại thế. Như
vậy, mọi thành viên của gia đình đã được hưởng nếm trước phần nào hạnh phúc của
thiên đàng mai sau. Hạnh phúc trong những gia đình yêu thương nhau - được biểu
lộ và hình thành cụ thể bằng việc quan tâm, lo lắng và hy sinh cho nhau - chính
là hình ảnh trung thực của thiên đàng vĩnh cửu. Trái lại, nếu các thành viên
trong gia đình không yêu thương nhau, không sẵn sàng hy sinh cho nhau, thì họ
sẽ biến gia đình thành hỏa ngục tại thế, là hình ảnh của hỏa ngục vĩnh cửu.
Trong 8 cái khổ mà Đức Phật kể ra, có cái khổ gọi là "oán tắng hội
khổ", nghĩa là khổ vì không ưa nhau, ghét nhau mà lại phải sống chung với
nhau.
2. TÍNH ÍCH KỶ, NGUỒN GỐC BẤT HẠNH CỦA
MỌI GIA ĐÌNH
Nhìn vào bất cứ một gia đình bất hạnh
nào - nghĩa là một gia đình không hạnh phúc - ta luôn luôn thấy bóng dáng tính
ích kỷ của một thành viên nào đó trong gia đình. Chính tính ích kỷ của thành
viên này là nguồn gây nên đau khổ trong gia đình. Nếu thành viên ích kỷ ấy là
người cha hay người mẹ, thì đau khổ trong nhà sẽ hết sức lớn lao. Gia đình nào
càng có nhiều người ích kỷ, gia đình ấy càng bất hạnh. Gia đình mà càng có
nhiều người sống vị tha, biết hy sinh cho người khác, gia đình ấy càng ít bất
hạnh. Một gia đình mà mọi thành viên đều vị tha, đều quan tâm, chăm sóc và hy
sinh cho nhau, đều sẵn sàng thông cảm và tha thứ cho nhau, gia đình ấy chắc
chắn hạnh phúc.
Câu chuyện minh họa về thiên đàng và
hỏa ngục sau đây thật phù hợp với thiên đàng và hỏa ngục của gia đình. Cả thiên
đàng và hỏa ngục đều dùng bữa với những thức ăn y như nhau, trong khung cảnh
giống y hệt nhau, trong đó mỗi người đều phải dùng một đôi đũa dài cả thước để
ăn. Thiên đàng và hỏa ngục chỉ khác nhau ở chỗ này: trên thiên đàng, mọi người
không ai tự gắp thức ăn cho mình, mà gắp cho người khác ăn, vì thế, ai cũng
được ăn no. Còn trong hỏa ngục, mọi người chỉ biết nghĩ đến mình, chỉ biết gắp
thức ăn cho mình, nhưng vì đũa quá dài, chẳng ai gắp cho mình được gì cả, thế
rồi chẳng ai được no, hết giờ ăn mà đói vẫn hoàn đói, từ đó họ trở nên căm thù
nhau.
Cũng vậy, trong gia đình, không ai tự
tạo hạnh phúc cho mình được mà không cần đến người khác, nên nếu ai cũng chỉ
biết lo cho hạnh phúc của mình, thì chẳng ai hạnh phúc cả, và rồi sẽ phát sinh
đủ thứ đau khổ. Tuy nhiên trong gia đình, người ta có thể tạo hạnh phúc cho
người khác, vì thế, nếu mọi người trong nhà đều biết lo cho nhau, tạo hạnh phúc
cho nhau, thì ai nấy đều hạnh phúc.
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa,
mà Thiên Chúa là tình thương, nên bản chất của con người cũng là tình thương.
Vì thế, chỉ khi con người sống phù hợp với bản tính của mình là yêu thương, và
thể hiện cụ thể tình yêu thương ấy với những người chung quanh, thì con người
mới hạnh phúc. Nếu con người sống ích kỷ, tức ngược lại bản chất yêu thương của
mình, con người sẽ đau khổ và làm cho những người chung quanh đau khổ.
3. LÀM SAO ĐỂ CÓ TÌNH YÊU THƯƠNG?
Nhưng làm sao người ta có thể yêu
thương nếu không có một động lực, một nguồn yêu thương ngay từ trong lòng mình
phát xuất ra? Làm sao có được nguồn yêu thương ấy? - Vì "tình yêu bắt
nguồn từ Thiên Chúa" (1 Ga 4, 7), nên chính "Thiên Chúa là nguồn yêu
thương" (2 Cr 13, 11). Vì thế, muốn yêu thương, muốn loại trừ tính vị kỷ,
con người phải kết hợp làm một với Thiên Chúa, nguồn tình thương. Kết hợp với
Thiên Chúa là luôn luôn ý thức rằng mình "là hình ảnh của Thiên Chúa"
(St 1, 27; 9, 6; Ep 4, 24), được tạo dựng giống như Thiên Chúa (x. St 1, 26; 5,
1), và "được thông phần bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1, 4), một
Thiên Chúa mà bản chất là yêu thương (x.1 Ga 4, 8.16).
Nếu bản chất của Thiên Chúa là yêu
thương, mà ta giống Ngài, là hình ảnh của Ngài, được thông phần bản tính Ngài,
tất nhiên bản chất của ta cũng là yêu thương. Ta không yêu thương hay không yêu
thương đủ, là ta sống không đúng với bản chất của ta. Nhờ thường xuyên ý thức
như thế, tình yêu và sức mạnh của tình yêu ngày càng lớn mạnh trong ta, khiến
ta ngày càng yêu thương mọi người cách dễ dàng, và sẵn sàng làm tất cả để mọi
người được hạnh phúc. Sống đúng với bản chất của mình là yêu thương, là hình
ảnh Thiên Chúa, chính là sống thánh thiện.
5. Gia đình là trường thực tập yêu
thương – JNK
Để giúp con người có một môi trường
thuận lợi để phát triển và thực tập tình yêu thương, Thiên Chúa đã tạo dựng và
đặt con người sống trong gia đình. Khi vừa sinh ra, mọi người đều nhận được một
tình thương dồi dào, vô điều kiện và vô vị lợi của cha mẹ - một tình yêu thuộc
loại tốt đẹp nhất trên thế gian - đồng thời được mời gọi đáp lại tình yêu
thương ấy. Đó là một bài tập hết sức dễ dàng về yêu thương mà mỗi người đều có
thể thực tập ngay từ thuở nhỏ. Không gì dễ dàng bằng yêu thương người đã hết
lòng yêu thương mình và hy sinh cho mình. Tình yêu đáp trả này tự phát sinh do
mình nhận được từ cha mẹ mình quá nhiều. Đây là thứ tình yêu nhận nhiều hơn
cho.
Lớn lên một chút, mỗi người khám phá
ra, ngoài cha mẹ mình, thì các anh chị em mình cũng yêu thương mình bằng một
tình yêu tương đối vô vị lợi. Với tình yêu này, con người phải tập cho nhiều
hơn và nhận ít hơn so với tình yêu đối với cha mẹ. Ngoài gia đình, mỗi người
còn có bạn bè do chính mình chủ động chọn lựa và yêu thương.
Đến khi trưởng thành, con người có tình
yêu hôn nhân. Tình yêu này là một tình yêu do mình chọn lựa và tương đối có
điều kiện: mình yêu và đòi hỏi người kia phải yêu lại, nếu đơn phương thì tình
yêu sẽ khó tồn tại. Con người chủ động hiến thân và hy sinh cho người mình yêu
với một ý chí tương đối tự do.
Đến khi có con cái, con người tự nhiên
yêu thương con bằng một tình yêu vô vị lợi, vô điều kiện, không lựa chọn. Đó là
tình yêu cao cả nhất và phản ảnh trung thực nhất tình yêu của Thiên Chúa mà con
người kinh nghiệm được trong đời sống gia đình.
Như vậy con người thực tập yêu thương -
từ dễ đến khó - trong môi trường gia đình. Trong gia đình, con người kinh nghiệm
tình yêu một cách tự nhiên và sâu xa: con người được yêu và chủ động yêu, nhận
hy sinh từ người khác và chính mình cũng hy sinh cho người khác.
Thế nhưng con người còn được mời gọi
yêu một cách rộng rãi hơn, vượt khỏi phạm vi gia đình, để đến với những người
ngoài, không ruột thịt máu mủ. Các tín đồ trong các tôn giáo, đặc biệt người
Ki-tô hữu, còn được mời gọi yêu thương cả những người không hề quen biết, thậm
chí cả kẻ thù. Yêu như thế khó hơn rất nhiều, nhưng nhờ áp dụng những kinh
nghiệm về yêu thương đã có trong gia đình, việc yêu thương người ngoài gia
đình, thậm chí kẻ thù, trở nên khả thi hơn.
Như vậy, vai trò của gia đình trong
việc đào luyện tình yêu cho con người thật hết sức quan trọng, không gì thay
thế được.
Nếu những người trong gia đình - là
những người cùng máu mủ ruột thịt, những người tự nhiên yêu thương ta nhất và
ta dễ yêu thương nhất - mà ta không yêu thương được, thì làm sao ta có thể yêu
những người xa lạ, những người khó có cảm tình, nhất là những người thường gây
bất lợi cho ta?
Kinh nghiệm cho tôi thấy, những ai đối
xử đã không tốt với chính cha mẹ, với vợ, với chồng, với con cái, với anh em
mình, thì khi họ đối xử tốt với những người khác, sự tốt ấy thật đáng nghi ngờ
! Rất có thể chỉ là giả tạo để đạt một mục đích nào đó, chứ không thể là thực
tình được ! Vậy, các bậc cha mẹ hãy cho con cái mình những kinh nghiệm về yêu
thương tốt đẹp nhất có thể. Đó là những gì tốt đẹp nhất mà họ có thể làm cho
con cái họ!
Lạy Mẹ Maria, Mẹ và Thánh Giuse đã làm
cho gia đình của mình trở thành một gia đình gương mẫu vì mọi trong đó đều yêu
thương nhau. Xin cho mọi người trong gia đình con thực tập từ bỏ tính ích kỷ để
biết yêu thương nhiều hơn, hy sinh cho nhau nhiều hơn, để nên thánh thiện hơn.
6. Gia Đình - Con Đường
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt)
Tục ngữ Việt nam có câu: "Con nhà
tông không giống lông cũng giống cánh". Đứa con nào cũng ít nhiều mang khí
huyết của cha, mang thịt máu của mẹ.
Nếu trong sinh học, yếu tố di truyền là
tất yếu thì trong đời sống luân lý, nề nếp gia phong cũng ảnh hưởng sâu xa đến
con người. Trẻ thơ vốn dễ bắt chước. Đứa trẻ lớn lên trong gia đình sẽ nói ngôn
ngữ của cha mẹ, học lề thói cư xử của anh chị, tiếp thu những quy ước, hít thở
thấm tẩm bầu khí gia đình. Gia đình là vườn ươm. Vườn ươm cung cấp những tố
chất đầu tiên cho cây giống. Những tố chất tốt sẽ giúp cây lớn mạnh, sinh hoa
kết quả tốt đẹp. Gia đình là con đường. Con đường thẳng sẽ dẫn trẻ đạt ước mơ,
lý tưởng.
Qua bài Tin Mừng, ta thấy Thánh Gia
thật là một vườn ươm tốt đẹp đã ấp ủ hạt mầm Giêsu, một con đường thẳng tắp đưa
Đức Giêsu tiến trên con đường vâng phục Thánh Ý Chúa Cha.
Thánh Giuse và Đức Maria đưa Hài Nhi
Giêsu lên Giê-ru-sa-lem để dâng cho Thiên Chúa. Thực ra luật Mô-sê không buộc
phải đưa con lên Đền Thờ, chỉ buộc nộp một số tiền nếu đó là con đầu lòng (Xh
13,13; 34, 20). Việc dâng Đức Giêsu trong Đền Thờ cho thấy Thánh Gia nhiệt
thành chu toàn lề luật và tha thiết gắn bó với Đền Thờ.
Sự nhiệt thành đối với lề luật và tha
thiết với Đền Thờ còn được tỏ lộ qua việc hằng năm các ngài hành hương lên
Giê-ru-sa-lem. Đức Giêsu bắt đầu được tham dự cuộc hành hương khi lên 12 tuổi.
Như những người Do-thái thuần thành,
hằng tuần các ngài vào hội đường Na-da-rét để đọc và nghe Sách Thánh. Việc đến
hội đường vào ngày Sa-bát đã trở thành thói quen của gia đình và sau này Đức
Giêsu vẫn duy trì. Tất cả những nề nếp đó in sâu vào Đức Giêsu.
Đức Giêsu tha thiết với Đền Thờ nên
không những giữ trọn luật hành hương mà Người còn ra công tẩy uế (x. Ga 2,
13-17). Đức Giêsu yêu mến Đền Thờ đến nhỏ lệ thương cho Đền Thờ sẽ bị tàn phá
cùng với Thành Thánh Giê-ru-sa-lem (x. Lc 19, 41; 21, 5-6). Đức Giêsu yêu mến
lề luật nên không huỷ bỏ dù là một chấm, một phẩy, mà chỉ kiện toàn cho luật
nên hoàn hảo (x. Mt 5, 17). Đức Giêsu vẫn thường xuyên vào Hội Đường, nên khi
trở về thăm làng quê Na-da-rét, "Người vào hội đường như Người vẫn quen
làm trong ngày sa-bát và đứng lên đọc Sách Thánh" (Lc 4, 16).
Xem thế đủ biết nề nếp đạo đức gia đình
đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cuộc đời Đức Giêsu như thế nào. Chắc chắn Đức Giêsu
không chỉ thừa hưởng từ nơi Thánh Giuse và Đức Maria lòng yêu mến lề luật, gắn
bó với Đền Thờ, thói quen siêng năng nghe và đọc Lời Chúa, mà còn thừa hưởng
nơi các ngài sự mau mắn vâng phục Thánh Ý Chúa, thái độ hiền lành khiêm nhường,
tinh thần phục vụ quên mình, sự chuyên chăm làm việc, sự ân cần âu yếm với con
cái... mà ta thấy bàng bạc trong những lời Người giảng dạy và nhất là trong đời
sống của Người. Chính trong bầu khí gia đình nề nếp ấy, Đức Giêsu đã phát triển
về mọi mặt, "càng lớn lên, thêm vững mạnh, đầy khôn ngoan, và hằng được ân
nghĩa cùng Thiên Chúa".
Gia đình thật quan trọng. Chính gia
đình quyết định tương lai trẻ thơ. Gia đình là vườn ươm. Hạt mầm trẻ thơ có lớn
mạnh được là nhờ vườn ươm có đầy đủ nước, phân bón và đất tốt. Gia đình là bầu
khí quyển. Bầu khí có trong lành bổ dưỡng thì trẻ thơ mới phát triển được về
mọi mặt. Gia đình là con đường. Đường có ngay thẳng, có định hướng thì tương
lai trẻ thơ mới tươi sáng không đi vào ngõ cụt.
Lạy Thánh Gia, xin nâng đỡ gia đình
chúng con.
7. Gia Đình Thánh
Quý ông bà anh chị em thân mến!
Nên thánh, làm thánh là mơ ước của mọi
người Kitô hữu. Ai cũng muốn làm thánh. Ai cũng muốn được vào Nước Trời. Nhưng
con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải biết từ bó ý riêng để ý Chúa được
thực hiện trong cuộc đời chúng ta. Con đường nên thánh đòi hỏi chúng ta phải
vào cửa hẹp và tránh tìm sự dễ dãi bản thân. Vì đường thênh thang thì nuông
chiều bản thân và tính xác thịt. Đường thênh thang chỉ dẫn tới diệt vong. Còn
đường hy sinh, đường từ bỏ mới giúp cho chúng ta chiến thắng sự yếu duối bản
thân để nên thánh từng ngày trong cuộc sống.
Nhìn vào gia đình thánh gia, chúng ta
thấy các ngài luôn đi vào con đường hẹp. Các ngài luôn sống công chính trước
mặt Chúa. Sự công chính hệ tại ở việc để thánh ý Chúa được nên trọn trong cuộc
đời các ngài. Chúa Giêsu hằng luôn tìm kiếm ý Chúa Cha và thực thi. Thánh Giuse
đã đón nhận ý Chúa khi nhận Maria về nhà làm vợ. Mẹ Maria đã bỏ ý riêng để sống
cho ý Chúa qua lời thưa xin vâng. Nếu Chúa Giêsu không đón nhận ý Chúa Cha thì
chén đắng cứu độ sẽ không thể thực hiện. Nếu Mẹ Maria không từ bỏ ý riêng để
sống cho ý Chúa thì mùa xuân của ơn cứu độ vẫn chưa thực hiện. Nếu thánh Giuse
không bằng lòng đón nhận Mẹ Maria vì ý Chúa thì sự nguy hiểm thật ghê sợ có thể
xảy đến với Mẹ. Thế nhưng, ý Chúa các ngài đã thực thi. Chương trình của Chúa
Cha đã hoàn tất nhờ sự vâng phục của các ngài. Cũng nhờ sự chung lòng chung ý
mà gia đình thánh gia luôn gìn giữ được sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống
hằng ngày.
Thực vậy, nếu trong gia đình mà mỗi
người một ý, gia đình ấy sẽ tan nát, chẳng ai nghe ai. Trong gia đình mà ai
cũng đề cao ý riêng của mình, thì gia đình ấy sẽ là một hỏa ngục, vì lúc nào
cũng xảy ra tranh cãi tương tàn. Nhưng nếu mỗi người biết bỏ ý riêng để ý Chúa
được thực hiện, thì gia đình ấy sẽ có những giây phút bình an hạnh phúc. Chính
khi biết từ bỏ ý riêng, con người mới khiêm tốn đón nhận nhau, yêu thương nhau
hầu tránh được những bất hòa đổ vỡ. Nhất là biết đón nhận nhau vì Chúa, thì
chắc chắn sẽ xây dựng được một gia đình thánh, một thiên đường hạnh phúc ngay ở
cuộc đời này.
Thực thi ý Chúa không phải là lời mời
gọi mà là luật buộc chúng ta, vì không phải những ai kêu lạy Chúa, lạy Chúa là
được vào Nước Trời đâu mà là những ai thực thi lời Chúa mới được vào Nước Trời.
Có một câu chuyện kể rằng: Một nông dân
nghèo được vào thiên đàng, ông nhìn thấy người ta mang những vật rất kỳ lạ vào
trong nhà bếp. Ông thắc mắc và lên tiếng hỏi: Cái gì thế? Có phải để nấu súp
không?
Không phải. Đó là những cái tai của con
người. Khi sống ở trần gian, tai giúp họ nghe những điều tốt lành, nhưng họ
không làm điều tốt lành đó. Khi chết, chỉ có tai của họ được vào thiên đàng
thôi, những phần khác của cơ thể thì không được vào.
Một lát sau, người nông dân lại nhìn
thấy người ta mang vào nhà bếp những vật kỳ lạ khác. Ông cũng lên tiếng hỏi:
Cái gì thế? Có phải để nấu súp không?
Không phải. Đó là những cái lưỡi của
con người. Khi sống trên đời, lưỡi khuyên bảo người khác làm điều tốt và sống
tốt, nhưng chính họ lại không sống; không làm những điều tốt lành đó. Khi chết,
chỉ có lưỡi của họ được vào thiên đàng thôi, những phần khác của cơ thể thì
không được vào.
Gia đình nào cũng muốn được hạnh phúc.
Gia đình nào cũng muốn thuận vợ thuận chồng để gia đình thăng tiến. Điều tiên
quyết là mỗi người hãy để cho ý Chúa dẫn dắt. Hãy trở thành một khí cụ để thực
hiện chương trình của Chúa. Hãy là những người không dừng lại ở lời nói lạy
Chúa, lạy Chúa mà là những người luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.
Ước gì, mỗi gia đình trong giáo xứ
chúng ta đều là những gia đình thánh. Ước gì từng người luôn là thánh khi biết
chết đi cái tôi của mình để sống cho gia đình và nhất là cho ý Chúa được thể
hiện. Amen.
8. Bài giảng lễ Thánh Gia Thất
(Trích website 'Giáo Phận Thái Bình')
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình
Thánh Gia, chúng ta thường thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu
vá, Thánh Giuse đang làm mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ
nhìn vẻ bề ngoài như vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh
Gia quả là một đời sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách
hoàn toàn phẳng lặng. Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp
phải những khó khăn, những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Gia đình là nền tảng của Xã hội và Giáo
Hội. Thế nhưng một thực tế là, ở nhiều nơi, "cái nôi" đó đang bị đe
dọa, đang bị lung lay tới tận gốc rễ. Gia đình đang mất dần vai trò là "tổ
ấm" của mình do tình trạng lục đục trong hôn nhân của các cặp vợ chồng.
Hậu quả của những đổ vỡ đó dẫn đến việc nhiều đứa trẻ phải sống trong cảnh
thiếu tình cha, vắng tình mẹ; dần dà trở thành những nạn nhân của những tệ đoan
xã hội.
Nhận thấy tầm quan trọng của gia đình
trong việc Giáo dục con cái, Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tông huấn
về gia đình "Familiaris Consorto" đã khuyến cáo các bậc phụ huynh:
"Cha mẹ phải nhìn nhận rằng, chính họ là những nhà giáo dục đầu tiên và
trên tất cả đối với con cái. Vai trò giáo dục của họ quyết liệt đến nỗi thật
khó tìm được bất cứ điều gì có thể đền bù vào sự thất bại của họ. Cha mẹ phải
nhận trách nhiệm tạo bầu khí gia đình đầy linh hoạt trong tình yêu và tôn kính
Thiên Chúa và mọi người, để sự phát triển hoàn mỹ về cá tính và xã hội được nẩy
nở trong con người. Vì vậy, gia đình là trường học đầu tiên cho tất cả những
đức tính Giáo hội và xã hội mà bất cứ xã hội nào cũng cần phải có". Muốn
được như vậy, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy cùng nhìn ngắm vào mẫu
gương gia đình Nazarét.
Từ mẫu gương Gia đình Nazarét
Khi chiêm ngắm những tấm ảnh gia đình
Thánh Gia, chúng ta thường thấy một cảnh sống thật thanh bình: Đức Mẹ ngồi khâu
vá, Thánh Giuse đang làm mộc, còn Chúa Giêsu đang quan sát cha làm việc. Nếu cứ
nhìn vẻ bề ngoài như vậy, bất cứ ai cũng đều nghĩ rằng, đời sống gia đình Thánh
Gia quả là một đời sống lý tưởng, bởi nhịp sống mỗi ngày cứ trôi đi một cách
hoàn toàn phẳng lặng. Thế nhưng, trong thực tế, gia đình Thánh Gia cũng gặp
phải những khó khăn, những sóng gió như bất cứ một gia đình nhân loại nào khác.
Còn thử thách nào lớn hơn cảnh nghèo.
Vì nghèo mà biết bao gia đình sinh ra bất hoà, ấy thế mà Thánh Gia đã phải trải
qua những kinh nghiệm của kiếp nghèo. Ngay khi Chúa Giêsu chuẩn bị ra đời, gia
đình Thánh Gia đã bị người ta xua đuổi, bị hất hủi đến nỗi phải trú ngụ trong
chuồng bò lừa. Thê thảm hơn nữa, phải sinh con giữa bầy súc vật, không giường
chiếu chăn màn.
Còn gì buồn hơn là bị thù ghét, bị săn
đuổi? Thánh Gia sống hiền lành khiêm nhường, thế mà phải chịu đựng sự thù ghét
của Hêrôđê. Vừa sinh ra, còn trẻ còn non nớt mà cha mẹ đã phải bồng bế con chạy
trốn, xa quê hương đất nước, sống nơi đất khách quê người.
Còn cảnh nào bi đát bằng cảnh vợ chồng
hiểu lầm nhau? Thế mà Thánh Giuse đã hiểu lầm Đức Mẹ khi Đức Mẹ thụ thai bởi
quyền phép Đức Chúa Thánh Thần. Ai đã trải qua cảnh nghi ngờ bị phản bội sẽ
hiểu Thánh Giuse đã bị giày vò đau đớn đến mức nào.
Còn gì khiến cha mẹ buồn hơn khi thấy
con cái không ngoan ngoãn vâng lời, bỏ nhà ra đi? Vậy mà Thánh Giuse và Đức Mẹ
đã phải chứng kiến cảnh đứa con ngoan ngoãn của mình tự động ở lại Đền Thờ mà
không xin phép cha mẹ. Các ngài vất vả lo âu tìm kiếm thì ít, nhưng buồn phiền
đau khổ thì nhiều. Làm sao các ngài tránh khỏi buồn phiền khi nghĩ rằng người
con mà các ngài rất mực yêu quý đã không vâng lời cha mẹ?
Những sóng gió mà Thánh Gia đã phải
đương đầu như thế có lẽ nhiều và nặng nề hơn những gia đình bình thường. Thế
nhưng các ngài vẫn giữ được hạnh phúc gia đình. Vậy nhờ bí quyết nào các ngài
đã vượt qua được biết bao cơn sóng gió như thế?
Trước hết các ngài luôn tìm thánh ý
Chúa. Mỗi khi gặp gian nan thử thách, các ngài không tìm ý riêng mình, cũng
không tìm ý thích của người đời, nhưng luôn đi tìm ý Thiên Chúa. Tìm ý Chúa mạc
khải trong Kinh Thánh, qua các biến cố xảy đến. Tâm sự với Chúa trong giờ cầu
nguyện. Hỏi ý kiến Chúa nơi các vị đại diện.
Khi biết được thánh ý Chúa, các ngài
lập tức mau mắn vâng lời. Đức Mẹ muốn giữ mình đồng trinh, nhưng khi biết ý
Chúa muốn cho Người làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Mẹ liền thưa: "Này tôi là nữ
tỳ của Chúa, tôi xin vâng lời thiên sứ truyền". Thánh Giuse đang muốn bỏ đi,
nhưng khi biết ý Chúa muốn cho Người ở lại, Người đã vâng lời ngay không ngần
ngại.
Sau cùng, các ngài luôn quên mình vì
hạnh phúc của mọi người trong gia đình. Thánh Giuse tuy là gia trưởng, nhưng đã
hết tình phục vụ Đức Mẹ và Đức Giêsu. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, nhưng lại xưng
mình là tôi tớ của Thiên Chúa. Còn Đức Giêsu là Thiên Chúa, nhưng lại trở thành
người con bé nhỏ nhất trong gia đình.
Đến Gia đình chúng ta
Ngày nay, nhiều gia đình gặp khủng
hoảng, lâm vào cảnh cơm chẳng lành canh chẳng ngọt, vì đã không biết áp dụng
những bí quyết của Thánh Gia. Mỗi khi gặp khó khăn, thay vì cầu nguyện, đọc
Phúc Âm để tìm ý Chúa thì lại đi tìm ý kiến ở những nơi mê tín dị đoan. Thay vì
vâng lời Chúa qua các vị bề trên thì lại chỉ tìm ý riêng mình. Thay vì khiêm nhường
quên mình thì lại kiêu ngạo tự ái, bắt người khác phải phục vụ mình.
Vậy đâu là phương thế giúp chúng ta có
thể trở nên những gia đình mẫu mực như lòng Chúa ước mong? Lời Chúa trong thứ
của Thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Côlôxê (Cl 3,12-21) đã cho chúng ta biết:
"Anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại.
Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải
trách móc người kia". Người Việt Nam có câu: "Một sự nhịn, chín
sự lành". Trong đời sống gia đình, làm sao có thể tránh khỏi những lúc xô
xát, cãi cọ... nhưng nếu, vợ chồng biết nhường nhịn nhau thì cửa nhà sẽ êm ấm.
"Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn" là vậy. Ở đây, lý do mà
Thánh Phaolô đưa ra khiến ta phải tha thứ cho nhau là vì: Chúa đã tha thứ những
lỗi lầm cho chúng ta (x. Cl 3, 13).
Tiếp đến, để giữ được mối thuận hảo
trong gia đình, thì: "Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái:
đó là mối dây liên kết tuyệt hảo" (Cl 3,14). Lòng bác ái ở đây phải phát
xuất từ con tim chân thành, không kiêu căng, không tự ái, như trong "Bài
ca đức ái" mà thánh Phaolô đã dạy: Bác ái là tha thứ, là tin tưởng cậy
trông tất cả. Là thông cảm và luôn thứ tha.
Sau cùng, thánh Phaolô khuyên chúng ta:
"Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giê-su và
nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha" (Cl 3,17). Mỗi khi hành xử, chúng ta
hãy đặt câu hỏi rằng: tôi làm điều này, nói điều kia có nhân danh Chúa hay
không?
***
Đức Gioan Phaolô II đã viết: "Hôn
nhân và gia đình là một trong những tài sản quí báu nhất của nhân loại"
(Tông thư Familiaris consortio, số 1). Đã là tài sản quý, thì ai cũng phải có
bổn phận giữ gìn, nâng niu và trân trọng. Mừng lễ Thánh Gia thất hôm nay, Giáo
Hội ước muốn mỗi gia đình chúng ta hãy nhìn lên tấm gương của gia đình Nazarét
để học biết cách gìn giữ hạnh phúc gia đình mình. Nguyện chúc cho tất cả các
gia đình luôn sống trong sự bao bọc chở che của tình yêu Chúa, để mai ngày, mọi
thành viên trong gia đình chúng ta sẽ được cùng hân hoan vui mừng đoàn tụ với
nhau trên thiên quốc để ca tụng tình yêu Chúa muôn đời. Amen.
9. Gia đình của tôi ơi!
(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
Chúng ta cùng cả Giáo Hội Việt Nam dành
năm 2014 cho việc nhìn lại đời sống gia đình để cùng nhau làm cho Tin Mừng trở
nên mới mẻ và thành động lực sống cho gia đình. Lý do Giáo Hội Việt Nam và Giáo
phận chúng ta chọn năm nay cho việc Sống và loan báo Tin Mừng là vì trong những
năm vừa qua nhìn lại lại đời sống của các gia đình, nó đã mất đi nhiều vẻ đẹp
và sự tươi sáng của một mái ấm, mà thay vào đó, gia đình đang chịu sức ép và sự
công phá nặng nề bới các khuynh hướng của xã hội đưa đến sự đổ vỡ, bất hạnh và
nạn nhân đầu tiên của các cuộc chiến trong gia đình chính là con cái.
Ai cũng biết rằng gia đình là tế bào
đầu tiên của xã hội, là Hội Thánh tại gia, thế nhưng nhiều gia đình đã bỏ quên
đời sống cầu nguyện, đã không còn phải là một tổ ấm hiệp nhất yêu thương, đã
không còn là nơi an toàn cho con cái và sự sống, và mất đi nhiệt tâm sống đạo
và giới thiệu về Chúa Kitô cho người bên cạnh.
Nhìn vào những bản thống kê gần đây
thực sự đã gây lo ngại cho tương lai của các gia đình, các cuộc hôn nhân không
tình yêu, hôn nhân vì kinh tế với người ngoại kiều gia tăng. Tình trạng hôn
nhân tan vỡ đã lên đến mức báo động khoảng 40%, trong đó người Công Giáo khoảng
15%. Tình trạng bỏ quê lên thành phố hoặc vào Nam làm ăn khiến cho hàng chục
triệu người phải ly tán xa gia đình vì công ăn việc làm. Con số ca nạo phá thai
ở một số các bệnh viện lớn khoảng 300.000 ca trong một năm... và bao nhiêu vấn
đề về kinh tế, lối sống khác nữa đang ảnh hưởng đến gia đình.
Trong bối cảnh ấy chúng ta mừng lễ
Thánh Gia Chúa Giêsu Đức Mẹ và Thánh Giuse, đồng thời mừng các gia đình kỷ niệm
giáp năm ngày thành hôn, đây là dịp tốt nhất để chúng ta nhìn vào mẫu gương gia
đình của Chúa để soi rọi và điều chỉnh gia đình của mình.
Không phải chỉ ngày nay mới có nhiều
khó khăn cho gia đình, nhưng có thể nói thời nào cũng có những khó khăn riêng
của nó, và vì thế Giuse Maria cũng có những khó khăn riêng trong gia đình của
các Ngài, nhưng các Ngài vẫn giữ gìn được sự bình an và làm cho gia đình mình
trở thành một gia đình tuy nghèo nàn đơn sơ, nhưng rất ấm cúng, hạnh phúc và
thánh thiện. Các Ngài đã làm cách nào?
Các Ngài đã biến gia đình mình trở
thành một gia đình cầu nguyện. Nói như thế không có nghĩa là lúc nào họ cũng
đọc kinh, mà là gia đình của các ngài luôn sống trong bầu khí cầu nguyện, luôn
có tâm tình cầu nguyện. Vì Giuse Maria rất ý thức về sự hiện diện của Chúa
trong gia đình của mình, Đức Giêsu vừa là con, song lại vừa là Thiên Chúa đang
ở trong gia đình, nên mọi công việc, mọi lo toan trong gia đình, hai ông bà đã
làm vì Chúa và làm mọi việc để cho Chúa được lớn lên trong gia đình. Chính vì
thế họ dễ dàng nhận ra tiếng nói của Thiên Chúa qua lời mộng báo đem trẻ Giêsu
và Mẹ Người trốn qua Ai Cập để tránh nguy hiểm cho Giêsu.
Chắc chắn nhìn vào khung cảnh của hang
đá giáng sinh chúng ta đã có thể thấy được bầu khí đạo đức thánh thiện và yêu
thương toát lên từ gia đình này. Gia đình này đã nêu gương cho tình tình yêu
chung thủy. Có những lúc Giuse bị "cám dỗ" giải quyết vấn đề theo
thói thường của xã hội, tức là chấp nhận một cuộc ly hôn, bỏ trốn một mình. Thế
nhưng trong hoàn cảnh ấy, Giuse vẫn dằn vặt để mong tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa
trong thử thách đầu đời cuộc sống gia đình của mình. Vì trăn trở và lo lắng cho
Maria, nên Giuse đã không tố cáo Maria, mà lại đón nhận Maria về nhà theo lời
của Sứ thần mộng báo. Điều đó chứng tỏ Giuse đã chọn để trung tín trong cuộc
sống hôn nhân mà Chúa đã muốn, là đón nhận và yêu thương Maria như là vợ của
mình.
Kế đến Gia đình Thánh Gia nêu gương bảo
vệ sự sống. Sự sống là quà tặng của Thiên Chúa, thuộc chủ quyền của Thiên Chúa,
con người không bao giờ được phép định đoạt cho đứa con này được sống, được
sinh ra, đứa kia phải chết. Giuse và Maria ý thức rất rõ mầm sống trong lòng
của Maria là chính Thiên Chúa nữa. Vì thế mà Giuse và Maria đã hết lòng để bênh
vực và bảo vệ sư sống này. Khi vua Herode ra lệnh tiêu diệt tất cả các hài nhi
trong vùng, thì Giuse đã dựa vào giải pháp của Thiên Chúa, đó là đem Hài nhi và
Mẹ Người trốn qua Ai Cập. Một cuộc tẩu thoát như thế quả thật là nhiều nguy
hiểm gian nan, nhưng bằng mọi giá, Giuse đã đem Maria và Hài nhi ra đi ngay lúc
nửa đêm để tránh bàn tay độc ác của Herôđe và bảo vệ sự an toàn cho hài nhi.
Rồi khi được lệnh trở về, Giuse cũng đã khôn ngoan để chọn vùng Nazaret là một
làng quê bình yên để cư ngụ giúp cho sự an toàn của hài nhi và cả gia đình.
Sau cùng, Gia đình Thánh gia đã nêu
gương cho chúng ta trong việc sống và loan báo Tin Mừng. Nếu hiểu Tin Mừng là
tin vui cứu độ, tin giải thoát cho nhân loại và chính con người của Chúa Giêsu
là Tin Mừng, Ngài đến từ Thiên Chúa để ở với con người, thì Giuse Maria quả
thật đã trở thành tấm gương sống và loan báo Tin Mừng này. Giuse Maria đã sống
Tin Mừng bằng cách mở rộng tâm hồn để cho Thiên Chúa, Đấng cứu thế bước vào tâm
hồn và chi phối cuộc đời của mình. Cả Giuse và Maria không thể hiểu hết những
lời giải thích của sứ thần về việc đầu thai của Hài nhi, của việc đón nhận Hài
nhi và đặt tên là Giêsu, song ông bà đã xin vâng không hề nghi nan. Trong khung
cảnh Giáng sinh thì chính Giuse và Maria đã giới thiệu Hài nhi mới sinh bọc
trong khăn và đặt nằm nơi máng cỏ cho các mục đồng, cho các nhà đạo sĩ và chắc
chắn các mục đồng các đạo sĩ không chỉ thờ lạy Hải nhi mà còn được ẵm bế hài
nhi và tin rằng Ngài là tin vui cho toàn dân.
Thưa quý OBACE, với trách nhiệm làm cha
mẹ, có khi nào chúng ta tự đặt vấn đề với nhau hoặc với chính mình để tìm
nguyên nhân tại sao gia đình mình không hạnh phúc? Tại sao gia đình mình hay
lục đục cãi vã...? Đừng tránh né sự thật hãy đặt vấn đề với chính lương tâm của
mình chúng ta sẽ tìm được câu trả lời.
Nhiều gia đình hôm nay đã để cho cái ti
vi và các chương trình trên đó thống lĩnh suốt ngày trong gia đình và khiến họ
không còn giờ cho việc đọc kinh mỗi tối, không còn giờ để nói chuyện với nhau,
và thậm chí bữa cơm gia đình mọi người cũng dán mắt vào cái tivi và không còn
cười đùa được với nhau nữa. Vì không nói chuyện được với nhau, khiến họ cũng
không thể hiểu nhau và không còn thông cảm yêu thương nhau được nữa.
Nhiều cha mẹ vì ích kỷ hẹp hòi, vì
thiếu lòng quảng đại mà họ biến gia đình mình trở thành lò sát sinh, giết chết
nhiều đứa con của mình. Một gia đình như thế sẽ không thể có bằng an trong tâm
hồn và vì thế sẽ không thể nào có bình an trong gia đình, ngược lai chỉ có sự
dằn vặt và cắu gắt mà thôi. Nhiều gia đình khác đã không biết phải dạy dỗ con
cái thế nào, đã để cho công việc, ăn uống say sưa, cờ bạc, cá độ và bạn bè
chiếm hết thời giờ của con cái, khiến cho con cái cảm thấy lạc lõng ngay trong
gia đình.
Hãy tạ ơn Chúa vì hồng ân gia đình Chúa
ban cho mỗi người, và tạ ơn Chúa vì món quà là vợ, là chồng, là con cái Chúa đã
ban tặng cho gia đình. Hãy đón nhận nhau như là quà tặng của Thiên Chúa để biết
trân trọng đối với nhau và nhất là trân trọng với Đấng đã trao tặng mình. Hãy
nhìn vào gia đình Thánh gia để học ở nơi đó tấm gương của người chồng, người vợ
thánh này, mà biết vun đắp cho gia đình mình trở nên một gia đình thánh thiện,
ấm cúng, thuận hòa.
Điều chúng ta cần quan tâm không chỉ là
gia đình chúng ta ăn cái gì, mua sắm cái gì, điều mà mọi người cần phải đầu tư
nhiều hơn đó là gia đình chúng ta sống như thế nào, có hạnh phúc hay không. Đó
mới là điều đáng hãnh diện và mơ ước. Khi vun đắp cho gia đình mình mỗi ngày
như thế, thì chúng ta sẽ là gia đình sống và làm chứng về Chúa cho người chung
quanh. Amen.
10. Đức Kitô tiếp tục lớn lên
Đoạn Phúc âm được đề nghị với chúng ta
hôm nay thuật lại những sự kiện khá đơn giản, xét về bản chất chúng ta. Nếu coi
đó như một đoạn văn, không hơn không kém thì có thể đặt một vài câu hỏi, về chi
tiết thôi, chẳng hạn: sau khi dâng Con trẻ Giêsu trong Đền thờ, ông Giuse và bà
Maria có thể trở về Nazaret ngay không? Vụ lánh nạn sang Ai Cập xảy ra lúc nào?
Chúng ta đừng tìm kiếm trong Phúc âm một thứ tự rõ ràng, chắc chắn, cho ngày
tháng và sự kiện. Điều chắc là thời kỳ Con trẻ Giêsu hết là 'bé thơ', giờ là
một 'nhi đồng', đang lớn lên về phạm vi thiêng liêng – hai ông bà đã trở lại
Nazarét rồi. Nghiên cứu đoạn văn người ta có thể dừng lại ở hai nhận vật Simêon
và Anna, để suy niệm về sự kiện tâm trông đợi Đấng Cứu Thế và cầu nguyện của
hai vị về lời tiên tri Simêon, khiến cho Maria lo sợ một kết cục đau khổ (cuộc
thương khó của Đức Giêsu). Tốt hơn, chúng ta hãy chọn một đề tài cao hơn, đó là
một tư tưởng lớn nằm trong hạ tầng toàn bộ Phúc âm và được thánh Luca diễn tả
như sau: Con trẻ lớn lên, thân thể phát triển và được ơn khôn ngoan sung mãn. Ý
niệm lớn đó là ý niệm tăng trưởng.
1) Chúng ta gặp thấy sự tăng trưởng
thiêng liêng trước hết ở bà Maria và ông Giuse. Maria được gọi là người có phúc
lớn, vì đã tin, trong biến cố Truyền tin. Rõ ràng là ở giây phút ấy nàng tin
vào đề nghị của Thiên Chúa yêu cầu nàng ưng thuận một sự kiện xảy ra lúc đó.
Đức tin của nàng không cho nàng xem thấy trước phối cảnh tương lai của toàn thể
lịch sử Đức Giêsu, lúc đó mới sinh ra trong lòng nàng. Do một sự ưng thuận mỗi
ngày, liên tục, nàng tiến dần vào mầu nhiệm định mệnh đời mình. Niềm tin Maria
là 1 niềm tin luôn luôn tăng trưởng. Lời tiên tri của Simêông cho nàng biết
trước 1 đường đời đau khổ, nhưng không cho rõ chi tiết. Do sự ưng thuận ngày
một đổi mới, nhắc đi nhắc lại, Trinh nữ Maria hiểu rõ thêm Thiên Chúa đòi hòi
gì ở nàng, biết rõ thêm Con Trẻ Giêsu là ai. Đối với Giuse cũng vậy. Đây là một
điều quan trọng đối với chúng ta. Dường như mầu nhiệm tăng trưởng nhân tính của
Đức Giêsu có mục đích là nhờ đức tin đưa chúng ta tiến vào mầu nhiệm tăng
trưởng thần tính của chúng ta. Sự tăng trưởng thần tính đó, Maria và Giuse là
những người đầu tiên được hưởng. Thật là một điều tốt lành khi nghĩ rằng hai
ông bà rất gần với chúng ta trong điểm đó. Vì đã trải qua nên biết rõ, hai ông
bà cầu bầu cho niềm tin của chúng ta tăng trưởng tốt.
2) Con trẻ lớn lên... Điều ghi nhận này
liên hệ trực tiếp đến sự tăng trưởng thể chất của Đức Giêsu. Đó là một sự kiện
trong phần lịch sử đã qua, thật sự qua rồi. Tuy nhiên có một sự kiện khác thuộc
lĩnh vực mầu nhiệm, được hoàn tất trong lịch sử của chúng ta, ngày nay Đức Kitô
tiếp tục lớn lên. Thật vậy, Người không những là Giêsu, một người như những
người khác, đã sống ở Palextin từ năm nào đến năm nào đó. Người còn là Con
Thiên Chúa đã xuống thế để thần hoá nhân loại. Người tiếp tục lớn lên trong
nhân loại. Thánh Phaolô nói đên sự xây dựng thân thể mầu nhiệm Đức Kitô cho đến
khi chúng ta hết thảy đạt thấu sự duy nhất trong kính tin và am tường về Con
Thiên Chúa, mà nên người thành toàn, đạt đến tầm vóc xứng với sự viên mãn của
Đức Kitô (Eph.4,13). Như vậy, Đức Kitô lớn lên trong tâm khảm sâu thẳm của mỗi
người chúng ta. Dịp lễ Thánh Gia Thất, Giáo Hội dùng một đoạn Phúc âm gợi lên
một trong những mối quan tâm chủ yếu của mọi gia đình, đó là sự lớn lên của đứa
con. Chúng ta có thể từ đó suy niệm về sự lớn lên của Đức Kitô trong đại gia
đình loài người, nghĩa là trong tâm hồn mỗi chúng ta.
11. Gia đình, cộng đoàn yêu thương
Khi gợi lại kỷ niệm đáng ghi nhớ về gia
đình của mình, Đức cố Hồng Y Marty, nguyên Tổng Giám Mục Giáo phận Paris, đã
nói: "Tôi đã bập bẹ những tiếng đầu tiên về Thiên Chúa, khi nhìn mẹ tôi và
cha tôi đọc kinh cầu nguyện. Tôi đã học biết sự sống, học biết sự chết, tôi đã
học biết thế nào là yêu thương trong cuộc sống hằng ngày, khi tôi giao tiếp với
thân nhân và những người quen thuộc. Tôi yêu mến Thiên Chúa, yêu mến Giáo Hội
như đã yêu mến mẹ tôi. Tôi không học mà cũng biết người phụ nữ đó đã cho tôi sự
sống và mạc khải cho tôi tình yêu". Gương sáng của cha mẹ đã giáo dục cho
con cái nhiều điều tốt.
Chúa Giêsu đã sinh ra trong một gia
đình, mà lại là một gia đình nghèo. Ngài cũng có cha mẹ như bao trẻ thơ khác,
như mỗi người chúng ta. Và cha mẹ Ngài cũng là những người lao động, phải sống
bằng mồ hôi nước mắt như hầu hết các gia đình khác. Là Thiên Chúa, Ngài đã đến
với loài người như một con trẻ, bé bỏng, cần đến sự đùm bọc, che chở của những
người thân. Cũng như bao trẻ em khác, Ngài cũng bị những biến cố lớn nhỏ của
gia đình và xã hội chi phối, đưa đẩy, ảnh hưởng.
Rồi những năm thơ ấu, những thời kỳ thơ
ấu và thành niên, Chúa Giêsu đã sống bên cạnh Đức Maria, Mẹ Ngài và Thánh
Giuse, cha nuôi Ngài. Ngài cũng đã phải tập đi, tập nói, tập đọc, tập viết.
Ngài cũng đã phải học Thánh Kinh, Lề Luật. Ngài cũng đã phải tập lao động với
những dụng cụ như cưa, bào, đục... trên những khúc cây, tấm ván. Ba mươi năm
tại Nagiarét là một chuỗi ngày bình dị, như hàng trăm gia đình cùng thôn làng,
như hàng triệu cuộc sống của con người qua các thời đại.
Đó là thời kỳ ẩn dật, vì Chúa Giêsu
không để lộ chân tính đích thực của mình ra cho những người chung quanh biết.
Đó cũng là thời gian chuẩn bị cho quãng đời công khai của Ngài, theo nghĩa là
Ngài tích lũy cho mình những kiến thức và kinh nghiệm cần thiết cho việc rao
giảng Nước Thiên Chúa sau này.
Dưới một khía cạnh khác, chúng ta có
thể nói, đó là những năm tháng trao đổi, cho và nhận giữa Con Thiên Chúa và gia
đình nhân loại, được đại diện nơi Thánh Giuse và Đức Maria. Nếu chỉ là Thiên
Chúa, Đấng Cứu Thế không cần phải nhận ở nhân loại một thứ gì cả. Nhưng vì Ngài
là Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta, nên Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều
của những người thân, nhất là của Mẹ Maria: cưu mang, sinh đẻ, nuôi dưỡng, giáo
dục. Ngài cũng đã nhận rất nhiều từ cộng đoàn Nagiarét, từ Hội đường Do Thái,
từ cuộc sống của những người chung quanh, nhất là những người nghèo khổ, bệnh
tật, lao động. Chúng ta khó hình dung được những điều đó, vì chúng ta có khuynh
hướng đặt Thiên Chúa ở chốn cao xa mà quên điều hệ trọng là Thiên Chúa đã làm
người, đã nhập thể và nhập thế.
Chúa Giêsu đã nhận rất nhiều từ gia
đình nhân loại, nhưng thực ra Ngài còn cho nhiều hơn, vì Ngài đã cống hiến tất
cả cho chúng ta, cả bản thể Thiên Chúa, cả năm tháng, cuộc sống và cái chết của
Ngài, một cách âm thầm, khiêm tốn vô vị lợi.
Trong cuộc sống bình dị nhưng chất chứa
bao tình thương ấy, Chúa Giêsu đã sống thân mật với Cha Ngài, đã sống hiếu thảo
với cha mẹ trần thế của Ngài, đã sống chan hòa bác ái với những người chung
quanh. Rồi cha mẹ Ngài là những người kính sợ Thiên Chúa cũng đã sống hết mình
với Thiên Chúa, tận tụy và thương yêu con cưng của mình. Giữa Đức Maria và
Thánh Giuse thì thật là một mối liên hệ có một không hai trong lịch sử loài
người, chắc chắn tình yêu thương đậm đà và lòng tôn kính là những nét đặc thù
nhất, khiến Thánh Giuse được gọi là người công chính, còn Maria là người có
phúc hơn mọi người phụ nữ.
Sách Huấn ca hôm nay đã nhấn mạnh đến
lòng hiếu thảo của người con đối với cha mẹ trong gia đình, khiến chúng ta dễ
hình dung ra cách sống của Con Thiên Chúa làm người dưới mái nhà Nagiarét. Thư
thánh Phaolô gởi tín hữu Côlôsê đề cập đến mối quan hệ giữa những người được
Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn sống thành gia đình, gia đình của Thiên Chúa:
đó là lòng từ bi, nhân hậu, là khiêm cung, ôn hòa, là nhẫn nại chịu đựng, chấp
nhận nhau và tha thứ cho nhau. Gia đình của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và Thánh Giuse
là một gia đình đã sống trọn vẹn hơn ai hết tinh thần ấy, vì các thành viên
trong gia đình thánh này đều là những tôi tớ của Thiên Chúa, trong ý nghĩa là
mỗi vị và cộng đoàn ba vị đều lãnh nhận từ Thiên Chúa một sứ mạng đặc biệt. Gia
đình Nagiarét là gương mẫu, là lời mời gọi đối với mỗi người chúng ta, đối với
mỗi gia đình Công giáo ngày nay.
Ngày nay, hơn bao giờ hết, với sự tiến
bộ của ngành khoa học nhân văn và xã hội, con người càng khám phá ra chiều kích
xã hội của mình và tầm quan trọng của cộng đoàn gia đình trong đời sống xã hội.
Gia đình là cái nôi đầu tiên đón tiếp con người và cung cấp cho con người những
điều kiện cần thiết của cuộc sống và hạnh phúc. Đối với các kitô hữu, gia đình
còn mang một ý nghĩa khác nữa: đó là một cộng đoàn yêu thương phản ảnh cộng
đoàn của Thiên Chúa, theo gương gia đình Nagiarét. Trách nhiệm thật lớn lao của
các bậc làm cha làm mẹ. Chức năng nhiệm vụ ấy cha mẹ chỉ có thể hoàn thành được
nếu biết yêu thương và tha thứ như chính Chúa Kitô đã yêu thương và tha thứ cho
chúng ta. Đó là quy luật trọng yếu trong mối quan hệ giữa vợ chồng, giữa con
cái và cha mẹ. Vì trong cuộc sống gia đình, con người có thể biến cuộc sống ấy
thành thiên đàng hay hỏa ngục trần gian. Cuộc sống gia đình tạo cho cha mẹ
những cơ hội quý báu để thực hiện tinh thần yêu thương quên mình, mưu tìm hạnh
phúc cho người khác. Cuộc sống gia đình luôn luôn đòi hỏi cha mẹ phải dẹp bỏ ý
riêng mình, quan điểm riêng của mình, để tôn trọng và giúp đỡ con cái phát
triển về mọi mặt.
Do sự khác biệt về tính tình, môi
trường giáo dục, tuổi tác và sở thích, nên chuyện xung đột, căng thẳng, là
chuyện đương nhiên không thể tránh được giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và con cái.
Nhất là trong một vài hoàn cảnh khó khăn về kinh tế tài chính. Muốn vượt qua
những cảnh xung đột, những giờ phút căng thẳng ấy, mỗi người, dù là vợ hay
chồng, cha mẹ hay con cái, đều phải thấm nhuần tinh thần của Chúa Kitô:
"Tôi đến để phục vụ chứ không để được phục vụ". "Ai muốn làm đầu
thì hãy làm tôi tớ phục vụ mọi người" (x. Mt 20,26-28). Ở đây, cha mẹ có
trọng trách nêu gương cho con cái, vợ chồng có trách nhiệm làm chứng cho nhau
tình yêu quảng đại và vô vị lợi của Thiên Chúa. Lời căn dặn của Thánh Phaolô
phải là phương châm cho các bậc cha mẹ cũng như con cái trong gia đình:
"Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Đức Giêsu Kitô,
và nhờ Ngài mà cảm tạ Chúa Cha"(Cl 3,17).
Như thế, gia đình kitô hữu, theo gương
đời sống gia đình của Thánh Gia Thất, với tình yêu thương và tha thứ, với tinh
thần phục vụ quảng đại và vô vị lợi, sẽ là ngọn đèn tỏa sáng, sẽ là cái nôi
hạnh phúc và đem lại hạnh phúc cho anh em đồng bào trong xã hội chúng ta hôm
nay.
12. Mái nhà lý tưởng
Những biến cố chung quanh việc thụ thai
và sự ra đời của Đức Giêsu đánh dấu rằng Người là một con trẻ đặc biệt, với một
vận mệnh duy nhất. Thông qua Người, lời hứa đối với ông Apbraham sẽ được nên
trọn. Người sẽ trở thành niềm hy vọng và an ủi của dân Israen, và là ánh sáng
cho các dân tộc. Nhưng Tin Mừng cũng nói về sự khước từ Đức Giêsu, một sự khước
từ sẽ gây ra một lưỡi gươm đâm thấu qua trái tim của Đức Maria. Cha mẹ chia sẻ
niềm vui và nỗi đau khổ của con cái họ, và ngược lại.
Không có lý do gì để tin rằng Đức Maria
và thánh Giuse hiểu biết rõ ràng trọn vẹn hoặc về vận mệnh vĩ đại của Con Trẻ
Giêsu. Tuy nhiên, khi đón nhận Người vào trong cuộc đời của mình, và nuôi dưỡng
Người trong lòng tin và tình yêu thương, các ngài đã góp phần trong việc giúp
đỡ Người nhận ra vận mệnh của mình. Tin Mừng cho thấy rằng tại nhà Nagiarét,
các ngài đã tạo ra một bầu khí mà trong đó, Đức Giêsu có thể phát triển đến khi
trưởng thành.
Mỗi đứa con đều là một quà tặng của
Thiên Chúa. Và mỗi đứa con đều có một vận mệnh duy nhất. Nhưng vận mệnh đó còn
ẩn giấu đối với cha mẹ. Họ thắc mắc không biết con cái họ sẽ trở thành gì. Một
cách tự nhiên, họ mong muốn điều tốt đẹp nhất cho chúng. Nhưng tất cả điều mà
họ có thể làm được, đó là khai mở cho chúng trên con đường đời của chúng. Vượt
lên trên tất cả, họ phải cẩn thận để không ngăn cản kế hoạch của Thiên Chúa đối
với con cái.
Cha mẹ nên cầu xin Thiên Chúa hướng dẫn
con cái của mình theo những chọn lựa mà chúng thực hiện. Nếu chúng ta phải hoàn
tất điều mà Thiên Chúa muốn chúng ta hoàn tất, thì tất cả chúng ta đều cần sự
hướng dẫn của Người.
Nói một cách lý tưởng, gia đình phải là
một cộng đoàn yêu thương nhỏ bé. Bầu khí trong gia đình là yếu tố quan trọng
nhất. Bầu khí đó được xác định do phẩm chất của các mối tương quan. Cha mẹ và
con cái đều đóng góp vào việc tạo ra bầu khí đó.
Cuộc sống gia đình mang rất nhiều thử
thách. Gia đình không chỉ biết tiếp nhận; mà còn phải biết cống hiến nữa. Những
mối dây liên kết trong gia đình làm cho chúng ta được phong phú, nhưng cũng
ràng buộc chúng ta. Chúng lôi kéo theo những ràng buộc của trách nhiệm và tình
yêu thương.
13. Dâng Chúa trong đền thờ - R.
Gutzwiller
Thánh Luca không nói gì cho chúng ta về
thời niên thiếu của vị tiền hô, tất cả thời tuổi trẻ của vị này đều chìm trong
im lặng và cô đơn. Trái lại, thời niên thiếu của Chúa Giêsu được kể lại trong
ba trường hợp. Trường hợp thứ nhất là lễ cắt bì, chỉ được kể lại trong có một
câu. Sự cốt yếu của lễ này là đặt tên Giêsu, tên đã được Thiên thần nói trước,
tên này nêu rõ bản tính của Hài nhi trong những ngày sắp tới. Chính do danh
hiệu đó mà Giáo Hội mừng kính bằng một lễ đặc biệt, cũng chính danh hiệu đó mà
biết bao người không ngớt chiêm niệm và đã là nguồn hân hoan vui sướng cho các
nhà Thần bí: danh hiệu mà theo kiểu nói của Thánh Phaolô, mọi gối phải quỳ lạy
ở trên trời, lẫn dưới thế và cả dưới hoả ngục.
Đang khi đó thì Thánh Luca lại viết lại
cho chúng ta về lễ dâng Chúa trong đền thờ với nhiều chi tiết hơn và khiến ta
phải lưu ý tới hai điều sau:
1. Những biến cố.
Nhìn bên ngoài, chẳng thấy có gì đáng
lưu tâm. Hàng năm có cả trăm đôi cha mẹ trẻ bước lên Đền thờ tiến vào cửa trước
dành cho các phụ nữ để được thanh tẩy theo nghi lễ và chuộc lại đứa con mới
sinh. Luật buộc thanh tẩy vì sự thụ thai và sinh con đã liên kết chặt chẽ với
tội lỗi và với đam mê hỗn độn. Theo chương trình của Thiên Chúa, cả hai việc
đó, phải là cái gì mang tính chất bí tích vì đã chuyển đời sống siêu nhiên đồng
thời với đời sống tự nhiên. Nhưng tội đã làm nào loạn nguồn mạch và như vậy,
tội lẫn vào việc lành, 'nhân loại đầy trần tục' với thần thiêng. Lễ tế được đặt
ra đối với người mẹ là bà cần phải thanh tẩy để có thể bước vào đền thờ. Đức
Maria không có tiền để mua một con chiên làm lễ tế và phải đành lòng như bao
người mẹ nghèo nàn khác, dâng một ccặp chim câu để làm lễ vật. Việc chuộc lại
đứa trẻ trai được đặt ra vì tất cả những của đầu mùa, nơi ruộng nương, nơi đoàn
vật và nhất là nơi con người đều đặc biệt thuộc về Giavê. Như vậy cậu con trai
phải chuộc lại để có thể sống đời sống của mình. Tất cả những điểm đó chẳng có
chi đặc biệt và đáng lưu tâm.
Tuy nhiên, nội dung của sự việc mới có
khác biệt. Đức Maria rõ ràng là người Mẹ chẳng có dính bén chút gì để phải
thanh tẩy. Mẹ đâu thụ thai bởi phàm nhân, mà do phép Chúa Thánh Thần. Mẹ cũng
chẳng có một ước muốn xấu xa gì, vì Mẹ 'không biết đến người nam'. Vì thế, việc
chuộc lại Hài nhi chỉ mang hình thức bên ngoài. Chúa Giêsu xét là con đầu lòng
của Chúa Cha, thì thuộc quyền sở hữu của Người. Nhưng Ngài sẽ chuộc lại những
người khác và giá Ngài phải trả là giá máu của tim Ngài, chứ không phải bằng
tiền bạc.
Như Đức Kitô tuân phục Lề luật Môisen
hay sắc lệnh của Xêsarê, người Kitô hữu cũng phải phục tùng các quyền hành bên
ngoài điều khiển nhân loại bằng ý muốn hay với phép của Thiên Chúa và tuân hành
các quy luật như những người khác trong lãnh vực luật pháp. Bên ngoài chẳng có
gì lạ kỳ đánh dấu sự hiện hữu và đời sống của người Kitô hữu. Vì không nhất
thiết là sự biến đổi nội tâm trước nhan Chúa phải kéo theo sự cách mạng môi
trường mình sống.
2. Những lời nói
Những biến cố này có thể qua đi mà ít
được biết tới nếu không có một người đến gặp đôi vợ chồng trẻ để chào thăm Hài
nhi với những ngôn từ lạ lùng. Ông này không phải là tư tế, mà chỉ là một người
dân thường, một người thực công chính, đang chờ đợi 'niềm an ủi của Israel',
chờ đợi Đấng Messia. Đầy Thần linh Thiên Chúa và nhờ ơn soi sáng, ông đã nhận
ra Đấng Messia nơi Hài nhi do người Mẹ khiêm hạ này bồng trên tay.
Lời đầu tiên của ông là lời thân thưa
với Thiên Chúa. 'Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này
được an bình ra đi'. Thiên Chúa là Chủ Tể, ai muốn phục vụ Ngài, là tôi tờ của
Ngài. Đời sống của cụ già Simêon là một sự hiện hữu và là một công việc phục vụ
Thiên Chúa, được kể như một cuộc phục dịch, nhưng bây giờ đã tới lúc nghỉ ngơi
sau chuỗi ngày dài lao động. Sự chết là một cuộc nghỉ việc, một sự giải phóng
trong an bình và về với an bình.
Hy vọng và ơn cứu độ là phần thưởng lúc
trời chiều ngả bóng, đã nâng đỡ ông suốt thời gian thi hành nhiệm vụ khó khăn.
Đấng Cứu độ đã đến, công việc đã có được ý nghĩa và đời sống dấn thân trên con
đường cứu độ lời kinh 'muôn lạy Chúa' (Nunc dimittis) là lời kinh tối của Giáo
Hội.
'Mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ'. Cụ
Simêon, con người ưu tư, suy nghĩ, hẳn phải đau khổ vì những cảnh vô đạo chung
quanh. Chính đôi mắt này đã từng chứng kiến những cảnh tội lỗi và phản giáo,
nay thấy Đấng mang lại ơn cứu độ và sự thánh thiện. Đức Kitô là thày thuốc sẽ
chữa trị tất cả và là Đấng Thánh sẽ thánh hoá tất cả.
'Chúa dọn ra trước mặt người trần'.
Những chướng ngại hạn hẹp của Israel
đã bị phá đổ, chiều kích của Giáo Hội phổ quát tỏ hiện. Israel ra đi mở rộng chân trời của
Simêon và làm cho người ta nghĩ đến những khuôn khổ mới mẻ của tinh thần và con
tim.
'Ánh sáng rạng soi dân ngoại'. Những
lời tiên tri của Isaia (đoạn 42 và 29) đã được nhắc lại ở đây. Dân ngoại không
còn là người bị khinh khi, xua đuổi; không còn bị cái nhìn trịch thượng của
những người đã được chọn ném xuống. Vì ánh sáng của Đức Kitô sẽ đâm thấu đêm
đen, đuổi đi tất cả những bóng tối và đem đến một ngày mới không có chiều tà.
'Còn Israel dân Chúa được vinh quang'.
Nhờ Chúa Giêsu, cái cây của dân này sẽ triển nở sinh hoa kết quả. Israel
xấu sẽ trở nên đối tượng của vấp phạm và tên nó sẽ bị nhiều người nhạo báng và
ghét bỏ. Còn Israel
chân thật sẽ là cánh đồng nơi các hoa mầu quý giá mọc lên, sẽ là núi đá vọt ra
những dòng suối, sẽ là nền trời nơi mặt trời toả sáng; nên các tín hữu sẽ nhắc
đến tên nó với lòng kính trọng và biết ơn.
Theo lời của Simêon , Israel
đặt sự cao cả đã nhận được từ nơi Chúa, dưới chân Chúa nhập thể. Bài tang ca
của Israel là một bài thánh
thi cho Đức Kitô; Israel đã
tàn lụi trong những tia sáng của luồng ánh sáng rạng rỡ hơn; Israel chết đi để được đưa vào một
đời sống mới nhờ Đức Giêsu Đấng Thiên Sai.
Lời thứ hai của Simêon là lời nói với
Đức Maria: 'Hài nhi con bà sẽ được đặt lên để nhiều người trong Israel phải sụp
đổ hay chỗi dậy và làm dấu gợi lên chống đối'. Kitô giáo không cưỡng chế và
cũng chẳng dùng sức mạnh để bắt buộc ai, trái lại chỉ là lời mời mọc và kêu
gọi. Con người phải quyết định. Họ có thể nói nhận hay không. Nhờ lời 'nhận' họ
sẽ đứng thẳng lên như người bị tê liệt được chữa khỏi, vì họ sẽ bước đi trên
con đường của Thiên Chúa. Với tiếng 'không' họ tự mình chỗi dậy và tin rằng
mình đã hoàn hảo: sự suy sụp của họ đã đến. Tất sẽ kết thúc bằng đổ vỡ và đồi
bại.
Giữ một chỗ đối với Đức Kitô là quyết
định số phận con người và nhân loại trước nhan Thiên Chúa. Đức Kitô đưa ra hai
nẻo đường lớn dẫn tới cứu độ và sa ngã, dòng nước đôi ngả, sự nhận thức giữa
chân và giả. Đối với Mẹ Ngài, việc biết được Đức Kitô, Đức Kitô đích thực, sẽ
gặp chống đối và phản kháng hẳn phải là nỗi đau đớn ghê gớm trong đời Mẹ: 'Một
lưỡi gươm sẽ đâm thấu tim chị'. Vì tiếng 'nhận' và 'không' sẽ làm lộ nhiều tâm
hồn trong Israel .
Cái bị che dấu sẽ đưa ra ánh sáng. Cứng lòng, ý tưởng bất chính, ích kỷ cá
nhân, kiêu ngạo và ghen tương... tất cả những gì là xấu xa, kẻ thù của Thiên
Chúa, đều tỏ lộ ra. Tất cả những gì là bỉ ổi, suy đồi và hôi thối đều bị thấy
rõ. Nhìn thấy các tư tưởng con người hệ ở chỗ vạch trần những giả dối và mở
toang những nấm mồ quét vôi trắng. Nhưng trên hết phải là sự dửng dưng không
tiếp nhận tình yêu Nhập thể, đó mới chính là mũi gươm đâm sâu vào trái tim
người mẹ giầu tình thương này. Như vậy, ngay từ đầu đời Chúa Giêsu, người ta đã
nhìn thấy ' Bà mẹ đau khổ' là chính Người đứng dưới chân thánh giá, vào những
giây phút cuối cùng với con bị đâm thấu tim, hoàn tất lễ hiến tế mạnh mẽ hơn
lòng ghét ghen của nhân loại.
Khi Tin mừng nói rằng, 'Cha và Mẹ Ngài
ngạc nhiên về những gì nói về Ngài' đã chứng tỏ cho ta thấy chính các vị cũng
phải lần bước trong ánh sáng đức tin, đang khi luôn nhận thức và xác quyết
những chân lý mới.
Hợp với ông già Simêon, có bà già khả
kính Anna, đại diện cho cả dân tộc, nam cũng như nữ, ca tụng Thiên Chúa và mang
tới một sứ điệp 'cho những người đang trông đợi phúc cứu chuộc Israel'.
Người ta không thấy nhắc gì tới cái
chết của ông già bà cả này. Các cụ đã làm tròn sứ mạng của mình và đã sang thế
giới bên kia với tâm hồn bình an và vui sướng trong cũng một cảm nghĩ rằng Israel
chân chính mới mẻ là người luôn cởi mở trong Đấng Messia.
14. Gương mẫu Thánh Gia
"Theo luật Môsê... cha mẹ dâng con
cho Chúa".
Một ông vua muốn thử tài phán đoán của
các con, ông đưa ra hai viên ngọc quý, một viên thật, một viên giả, viên ngọc
thật ông gói trong giấy báo cũ, còn viên giả ông để trong một hộp thật đẹp. Ông
gọi người con đầu tới và bảo anh chọn lấy một viên. Anh bỏ qua gói giấy xấu,
lựa lấy viên trong hộp đẹp. Thế là anh đã chọn viên ngọc giả. Đến lượt người
con thứ, vua cha cũng bảo như thế, anh này vốn là đứa con hiếu thảo, anh nói:
"Thưa cha, con xin cha lựa giùm con". Dĩ nhiên vua cha lựa cho anh
viên ngọc thật.
Chúa Cứu Thế đến trần gian cũng ví được
như một ngọc quý nhưng được che phủ trong dáng vẻ bình dị, tầm thường, ít người
nhận ra. Muốn nhận ra Chúa Cứu Thế phải có ơn đặc biệt, phải chuẩn bị tâm hồn
xứng hợp.
Chúa Giáng Sinh chẳng những như một em
bé bình thường, mà còn kém các em bé bình thường nữa. Chúa cũng tuân giữ luật
lệ như mọi người, dù em bé Giêsu là Thiên Chúa, dù Đức Maria vô cùng tinh sạch,
Mẹ cũng bồng Chúa lên đền thờ làm nghi thức thanh tẩy và dâng lễ vật chuộc Chúa
về. Một cặp chim, đó là lễ vật của nhà nghèo. Gia đình Chúa lên đền thờ như một
gia đình nghèo khó thi hành luật định. Chúa như là viên ngọc dấu kín, thế nhưng
đã có ông Simêon và bà Anna nhận ra Người.
Trong đền thánh có bao nhiêu người giỏi
giang, thông thái như các tư tế, các luật sĩ. Họ am tường Kinh Thánh, hiểu rõ
các lời ngôn sứ tiên báo về Chúa Cứu Thế, nhưng họ không nhận ra Chúa, vì Chúa
quá nghèo khó bình dị. Trong khi ông chỉ là một ông lão nghèo. Bà Anna chỉ là
một quả phụ, bần cùng yếu đuối, không quyền hành trong xã hội. Nhưng họ vốn là
những người con hiếu thảo của Thiên Chúa: khiêm tốn, đạo hạnh, biết thờ Chúa
với tất cả tấm lòng tin yêu phó thác vào quyền năng và tình thương của Thiên
Chúa. Họ giống như người con thứ của vua trong câu chuyện kể trên. Họ đã được Chúa
Thánh Thần soi sáng để nhận ra Chúa Cứu Thế qua dáng vẻ tầm thường của một hài
nhi. Họ đã được đón nhận Chúa Cứu Thế, như những người nghèo hèn bé nhỏ được
Chúa chúc phúc vậy.
Simêon và Anna nghèo khó đã hân hạnh
được bồng ẵm Chúa Cứu Thế, được thay mặt nhân loại nói lời đầu tiên tung hô
Chúa đến.
Simêon cũng đã tiên báo Chúa Cứu Thế sẽ
là một báu vật được giấu kín giữa lòng thế nhân. Vì vậy có người nhận ra nhưng
đa số vẫn từ chối Ngài, thậm chí còn chống đối Ngài. Do đó Ngài sẽ là duyên cớ
cho nhiều người vấp ngã. Và thái độ họ sẽ như một lưỡi gươm đâm thấu trái tim
Đức Maria, sẽ làm Mẹ tan nát cõi lòng như ta thấy về sau.
Xin Chúa giúp chúng con theo gương Chúa
sống trung hiếu với Cha trên trời, thảo kính ông bà cha mẹ ở trần gian và sống
tình huynh đệ với mọi người. Biết vâng giữ luật Chúa, luật Hội Thánh và các
luật lệ chính đáng trong xã hội.
15. Gia đình Giuse - Maria - Hài Nhi
Giêsu
Đề tài "gia đình" là một đề
tài xưa như trái đất, mà cũng rất thời sự như "tình yêu", "tình
yêu và tuổi trẻ", "dự bị hôn nhân", "thăng tiến hôn
nhân", vân vân và vân vân...
Ai cũng biết rằng tất cả các tạo vật -
giống nào theo giống đó - có một mối tương quan rất chặt chẽ, một sự hỗ tương
tác dụng để "sinh sôi nẩy nở" (Kn 1,22) và lan tràn khắp mặt đất, bầu
trời lẫn biển khơi. Riêng loài người thì được Đấng Tạo Hóa ban cho quyền năng
"sinh sôi nẩy nở và nên đầy dẫy trên mặt đất, và làm bá chủ muôn
loài" (Kn 1,28-31). Đó là "tính xã hội" của muôn loài nói chung,
của loài người nói riêng = xã hội loài người thành hình.
Quả thật "không ai là một hòn
đảo" (Thomas Merton), mặc dầu dưới một góc độ nào đó, "mỗi người là
một hòn đảo" (Carl Rogers). Tựu trung, có lẽ ngoại trừ ông Adong và bà Eva
[và cả hài nhi Giêsu? - ai muốn kiểm chứng thì hỏi hài nhi Giêsu đi!] còn hết
thảy chúng ta, ai cũng có lổ rốn. Phải chăng lổ rốn là dấu chứng rõ nét nhất
của mối tương quan giữa các tạo vật, giống nào theo giống đó, đặc biệt là giống
người? = nhân tố của xã hội loài người: gia đình.
Trong chiều hướng đó, Ngôi Lời mặc xác
phàm đến ở-với-chúng-ta trong một gia đình - một gia đình rất đặc biệt, có thể
nói rằng gia đình duy nhất ở trần gian biểu hiện nếp sống hoàn toàn phù hợp với
ý định của Đấng Tạo Hóa khi tạo dựng loài người, và là mẫu mực cho tất cả mọi
gia đình của nhân loại trong tiến trình đón nhận ơn cứu độ, ơn canh tân đổi mới
để đạt đến sự viên mãn của "Bình An dưới thế cho người Chúa thương".
Chúng ta đã suy niệm và hân hoan ca
hát: "Vinh Danh Thiên Chúa trên trời - Bình An dưới thế cho người Chúa
thương". Và chúng ta cũng biết rằng Đêm Giáng Sinh chỉ là khởi điểm của
chương trình "tạo dựng mới" mà Thiên Chúa đã hứa ban cho loài người
ngay sau khi tổ tông phạm tội.
Tiến trình canh tân đổi mới này phải có
"hợp đồng hai chiều" giữa Thiên Chúa và loài người, như thánh
Augustinô đã nói: "Thiên Chúa tạo dựng chúng ta mà không hỏi ý kiến chúng
ta, nhưng Thiên Chúa sẽ không cứu độ chúng ta nếu không có sự đồng tình của
chúng ta". - Ai không muốn kiểu "hợp đồng hai chiều" này thì
"thương lượng lại" với Đấng Tạo Hóa đi!!!
Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa đầy quyền
năng, là Cha rất nhân từ hằng yêu thương hết mọi người (đọc lại Matthêu, 5-7) -
Người không để chúng ta thiệt thòi trong "hợp đồng hai chiều" này
đâu! Trái lại, như một nhà giáo dục tuyệt vời, Người còn mách lối chỉ đường cho
chúng ta, không chỉ bằng Lời giảng dạy, mà nhất là bằng gương mẫu nếp sống cụ
thể của chính Ngôi Lời ở-với-chúng-ta trong một gia đình bằng xương bằng thịt
như chúng ta: gia đình Giuse-Maria-Giêsu.
Trước khi vào nếp sống gia đình, cô
nàng thùy mị Maria đã phải đương đầu với một cuộc thương lượng gay go: hợp đồng
với Thiên Chúa để bắt đầu thực hiện chương trình canh tân đổi mới tạo vật bất
chấp mọi dư luận thế gian trần tục? [chưa cưới mà mang thai!]
Trước khi vào nếp sống gia đình, anh
chàng Giuse đã phải ký kết hợp đồng với Thiên Chúa, một hợp đồng mà xét theo
con mắt trần tục, phần thua thiệt chua cay đau khổ thì Giuse hoàn toàn lãnh đủ!
Vừa bước vào "nếp sống gia
đình" (nếp sống gia đình trong dấu ngoặc kép), cả hai Giuse và Maria đều
vỡ mộng: lời hứa hẹn của thiên sứ, nào là "Người sẽ làm vua", nào là
"Người sẽ cứu dân độ thế"... hóa ra là lời hứa cuội. Tìm chỗ trú ẩn
tầm thường để Maria sinh ra "vua cả trời đất" mà cũng chẳng ai thèm
cho!
Ngày "vua cả trời đất" sinh
ra, họa chăng có vài mục tử nghèo hèn đến viếng thăm. Rồi nghe đâu có ba (3)
nhà hiền sĩ từ phương Đông tò mò đến như thể để kiểm chứng sự khám phá
"ngôi sao lạ" vừa xuất hiện trên bầu trời.
"Hoàng Nhi" vừa thôi nôi mã
đã có người tìm giết cho bằng được. Giuse lại phải đương đầu với hợp đồng ông
đã ký kết với Thiên Chúa: dẫn "hiền thê" và "Con đầu lòng"
đi trốn sang Ai-Cập, nơi mà hơn 1000 năm trước, các tổ phụ của Giuse đã bị bắt
làm nô lệ...
Thời đó chắc chưa có chính sách tị nạn,
nghĩa là chưa có "green card" hoặc "thi nhập quốc tịch",
Giuse lại phải tiếp tục chấp hành đúng theo điều cam kết trong hợp đồng với
Thiên Chúa: đem "hiền thê" và "Hoàng Nhi" về quê cũ.
Ôi! con đường Thiên Chúa dẫn dắt gia
đình Giuse-Maria-Giêsu đến sự "Bình An dưới thế cho người Chúa
thương" thật kỳ lạ, vượt xa mọi tư tưởng và cảm nhận của người trần thế!
Đấng Tạo Hóa "khôn" lắm!
Người biết thế nào chúng ta cũng so đo phàn nàn về "hợp đồng hai
chiều" mà phần thua thiệt - dưới con mắt trần tục của chúng ta - bảo đảm
chúng ta phải lãnh đủ, nên gần 500 năm trước khi Ngôi Lời mặc xác phàm đến
ở-với-chúng-ta, Người đã dùng miệng ngôn sứ Isaia báo trước: "Quả thế, ý
nghĩ của Ta không phải là ý nghĩ của các ngươi, và đường lối của Ta không phải
là đường lối của các ngươi... Vì trời cao hơn đất (bao nhiêu), cũng vậy, đường
lối của Ta vượt hơn đường lối của các ngươi, và ý nghĩ của Ta vượt hơn ý nghĩ
của các ngươi." (Is. 55:8-9)
Trong suốt 30 năm Ngôi Lời mặc xác phàm
ở-với-chúng-ta, gia đình Giuse-Maria-Giêsu hầu như im hơi lặng tiếng - chỉ một
lần lúc Giêsu lên 12 tuổi (tuổi "có trí khôn" theo quan niệm thời bấy
giờ?), Thiên Chúa hé mở cho chúng ta thấy thế nào là nếp sống gia đình gương
mẫu, một nếp sống trông rất bình thường nhưng vượt trên mọi sự bình thường:
+ Giuse thì luôn luôn LẮNG NGHE và THI
HÀNH tiếng nói của lương tri, của Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn trong mọi biến
cố của cuộc đời;
+ Maria thì luôn luôn "suy niệm
trong lòng", nhận ra Thánh Ý Thiên Chúa qua mọi biến cố và XIN VÂNG;
+ Giêsu thì luôn luôn "ở nơi nhà
Cha" (Luca 2:49), tùng phục cha mẹ, và "lớn lên [bình thường như mọi
người] càng thêm tuổi, càng thêm khôn ngoan và ân sủng trước mặt Thiên Chúa và
trước mặt người ta" (Luca 2:51).
Quả là một cuộc thách đố Đấng Tạo Hóa
"trêu" con người!
Nhưng "vui mừng và hy vọng"
thay! Chương trình tái tạo muôn loài nhờ Ngôi Lời mặc xác phàm ở-với-chúng-ta
đã thành tựu = gia đình Giuse-Maria-Giêsu làm chứng điều đó, và trải qua gần
2000 năm nay, biết bao nhiêu gia đình - cộng đoàn tu sĩ nam nữ cũng là những
gia đình trong ý nghĩa trọn vẹn của gia đình - đã noi theo gương Thánh Gia làm
chứng điều đó.
Phần chúng ta hôm nay, bây giờ, gia
đình chúng ta có muốn theo gương các vị tiền nhân, ký kết "hợp đồng hai
chiều" với Thiên Chúa để mỗi một chúng ta: cha mẹ, con cái, anh chị em
chúng ta đạt đến sự viên mãn của "Bình An dưới thế cho người Chúa
thương" không? - Nhờ ơn Chúa hợp với tâm tình LẮNG NGHE và THI HÀNH tiếng
nói của Thần Khí Thiên Chúa của chúng ta, chắc chắn chúng ta sẽ thu lợi trong
"hợp đồng" này.
16. Hạnh phúc gia đình - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Qua bài Tin Mừng, bạn thấy Giuse có
những nỗi khó khăn nào? Và ông đã có thái độ nào khi giải quyết những khó khăn
ấy?
2. Hạnh phúc gia đình tùy thuộc vào ai
nhiều nhất? Tại sao?
3. Để gia đình được hạnh phúc, mọi
người trong gia đình cần có tinh thần nào?
Suy tư gợi ý:
1. Giuse, người chủ gia đình gương mẫu
Bài Tin Mừng hôm nay chủ yếu nói về
thánh Giuse với tư cách chủ của gia đình Nagiarét. Ngài đã phải hết sức cực
nhọc vất vả vì gia đình của mình, nhất là vì con trẻ Giêsu, kể từ khi thấy Đức
Maria mang thai, một cái thai không phải là của mình, nhưng trước mắt mọi người
thì lại chính thức là của mình. Thử đặt mình vào địa vị Giuse, ta sẽ thấy vai
trò của ngài không phải dễ dàng.
Đối với con trẻ Giêsu, cho đến lúc lìa
đời, thánh nhân luôn luôn phải dùng con mắt đức tin, tin vào lời sứ thần hiện
ra trong giấc mơ, để khỏi nghĩ rằng mình đang phải nuôi đứa con của người đàn
ông khác. Cuộc đời đâu phải lúc nào cũng phẳng lặng để Giuse có thể yên ổn với
niềm tin ấy. «Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ», đức tin của Giuse chắc chắn bị thử
thách nhiều phen, nhất là những lúc phải vượt thắng những khó khăn vượt quá sức
mình như tình huống của bài Tin Mừng hôm nay.
Từ khi nhận Maria về nhà mình đến giờ,
khó khăn cứ dồn dập xảy tới. Chưa yên thân với Maria tại nhà mình, thì có lệnh
phải đưa Maria – đang mang thai đã đến thời sinh nở – từ miền Bắc vào miền Nam,
từ Nagiarét xứ Galilê đến Bê-lem xứ Giuđê theo lệnh kiểm tra dân số của Hoàng
Đế Augústô (x. Lc 2,1-6). Cuộc hành trình mà theo đường chim bay đã dài tới
120km, và đương nhiên phải đi bằng một phương tiện rất thô sơ của những người
nghèo thời đó, có thể chỉ là một con ngựa hay con la. Người nghèo đi tới đâu
cũng gặp khó khăn, chẳng mấy ai giúp đỡ. Và Maria đã bị buộc phải sinh hạ con
trẻ Giêsu – mà Giuse tin là đấng Thiên Sai – trong một chuồng bò lừa. Là chủ
gia đình, chắc chắn Giuse không tránh khỏi đau lòng và nhục nhã trước sự nghèo
nàn và bất lực của mình! Nhưng nào đã hết! Con trẻ mới sinh chưa được bao lâu,
đang chuẩn bị đưa hai mẹ con hồi hương, thì lại có lệnh của thiên thần – cũng
lại trong giấc mơ – buộc phải đưa cả hai mẹ con trốn sang Ai-Cập. Chỉ thẳng
đường chim bay từ Bê-lem tới biên giới Ai Cập thôi đã phải là 100km. Hành trình
lần này chắc chắn vất vả hơn lần trước, vì có thêm con trẻ Giêsu hết sức yếu
đuối, dễ nhiễm bệnh. Ở nơi đất khách quê người, Giuse phải tìm cho ra chỗ ở,
việc làm tạm thời để nuôi sống cả gia đình, chắc hẳn điều ấy không luôn luôn dễ
dàng. Rồi cuối cùng lại phải đưa cả gia đình về Nagiarét. Tại đây Giuse phải
bao bọc, che chở và nuôi sống gia đình, đồng thời giáo dục con trẻ Giêsu nên
người. Đối với Đức Giêsu, câu «công Cha như núi Thái Sơn» chắc chắn cũng rất
đúng khi áp dụng cho cha nuôi của mình.
Tất cả những khó nhọc vất vả ấy đòi hỏi
Giuse phải có rất nhiều tình yêu và nhiều đức tính mới có thể vượt qua một cách
tốt đẹp. Nếu Giuse và Maria sống đời vợ chồng bình thường, thì những khó nhọc
của Giuse sẽ được bù đắp bởi những giây phút hạnh phúc thân mật bên Maria.
Nhưng theo niềm tin Công giáo, Giuse bảo vệ cho Maria sống đồng trinh trọn đời,
nên tình yêu đầy tính thiên thần và hết sức cao thượng của Giuse đối với Maria
phải hết sức lớn lao. Ngài thật là một người đàn ông cao cả, và là một người
chủ gia đình hết sức gương mẫu. Thiết tưởng bất kỳ người chủ gia đình nào bắt
chước Giuse cũng sẽ làm cho gia đình mình yên vui hạnh phúc.
2. Hạnh phúc gia đình tùy thuộc người
chồng rất nhiều
Hạnh phúc gia đình có hay không, và đến
mức nào, tùy thuộc vào tất cả mọi thành viên trong gia đình, nhất là vào cách
đối xử của hai vợ chồng đối với nhau. Muốn gia đình hạnh phúc, mọi thành viên
phải thực hiện những điều Thánh Phaolô đề nghị trong bài đọc 2: «Người làm vợ
hãy phục tùng chồng, như thế mới xứng đáng là người thuộc về Chúa. Người làm
chồng hãy yêu thương chứ đừng cay nghiệt với vợ. Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ
trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa. Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho
con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng».
Nhưng nếu so sánh giữa hai vợ chồng,
thì theo sự thường, nghĩa là trong đa số các trường hợp, hạnh phúc và sự êm ấm
trong gia đình tùy thuộc vào người chồng nhiều hơn. Câu nói trên của thánh
Phao-lô hàm ẩn những điều kiện trong đó. Muốn vợ phục tùng chồng, thì người
trước đó người chồng cần phải tỏ ra yêu thương vợ một cách cụ thể, qua việc đối
xử độ lượng, không cay nghiệt với vợ, biết thông cảm, hy sinh, thường xuyên
giúp đỡ vợ trong mọi việc, nỗ lực bao bọc che chở vợ mình trong mọi hoàn cảnh.
Người vợ có cảm thấy được chồng yêu thương, có cảm phục chồng vì tính quảng
đại, cao thượng, bỏ qua mọi lầm lỗi nhỏ nhặt, thì mới dễ dàng phục tùng chồng.
Nói chung, tâm lý của mọi người là chỉ tự nguyện phục tùng những ai mình nể
phục và yêu mến mà thôi. Người vợ không thoát ra ngoài tâm lý chung ấy. Người
chồng không nên lấy quyền làm chồng, hoặc dùng bạo lực hay áp lực kinh tế để ép
buộc vợ phải phục tùng mình. Làm như thế thì có khác gì mình đang thực hiện một
chế độ độc tài nho nhỏ trong gia đình. Người vợ cảm thấy mình bị áp bức một
cách bất công, tất nhiên – như một định luật – là sẽ có ngày nổi loạn, nhất là
khi người chồng trở nên yếu thế, không còn khả năng về kinh tế hay thể chất
nữa. Lúc đó người chồng không thể chỉ biết trách vợ, mà trước tiên hãy nhận ra
lầm lỗi của mình.
Ngược lại, muốn được chồng yêu thương,
người vợ cũng cần phải tỏ ra mình là một người dễ thương, nghĩa là nói năng dịu
dàng, ngọt ngào, biết chiều ý chồng, biết hy sinh tận tụy phục vụ gia đình, làm
tròn mọi bổn phận của mình trong gia đình, nhất là biết tỏ ra nể phục chồng.
Mình không dễ thương thì dù là chồng mình cũng chẳng thể thương mình được.
Tâm lý chung của mọi người đàn ông là
dễ đem lòng yêu thương những phụ nữ tỏ ra nể phục mình, và tâm lý chung của mọi
phụ nữ là dễ yêu thương những người mà mình nể phục. Nhưng làm sao người phụ nữ
có thể yêu thương một người mà mình khinh thường vì thấy không có gì đáng nể
phục? Và làm sao người đàn ông có thể yêu thương được người vợ không kính nể
mình? Do đó, để gia đình hạnh phúc, yếu tố rất quan trọng là người chủ gia đình
phải có một điều gì đấy, một đức tính nào đấy khiến người vợ cũng như con cái
trong nhà nể phục. Có thể chỉ cần một đức tính nào đó thật nổi bật, không cần
nhiều. Nhưng càng nhiều thì càng tốt! Nhưng đức tính không thể thiếu được là
lòng độ lượng, bao dung, và sự hy sinh quả cảm.
Gia đình thánh gia rất dễ có hạnh phúc,
một phần rất lớn là vì Giuse, người chủ gia đình, có rất nhiều đức tính đáng để
Maria kính phục. Có thể nói bản lĩnh, cách hành xử cao thượng, và sự quảng đại
trong yêu thương của người đàn ông là nền tảng và là yếu tố đầu tiên cần thiết
cho hạnh phúc của cả gia đình. Thiếu nó, gia đình khó có hạnh phúc.
3. Quên mình để yêu thương hữu hiệu, là
bí quyết gây hạnh phúc gia đình
Một trong những trở ngại lớn nhất của
hạnh phúc gia đình là cái tôi và ý riêng của mỗi thành viên. Nói chung, ai cũng
coi cái tôi và ý riêng của mình là quan trọng, và tỏ ra rất bực mình khó chịu
khi thấy cái tôi và ý muốn của mình bị coi thường, hoặc không được ai để ý tới.
Ai cũng bị cái tôi và ý riêng của mình thu hút đến độ quên đi cái tôi và ý muốn
của người khác vốn cũng thu hút hết tâm trí của họ. Ai cũng muốn cái tôi và ý
kiến của mình được mọi người quan tâm chú ý, nhưng chẳng ai muốn quan tâm đến
cái tôi và ý kiến của kẻ khác. Chính vì thế, chẳng ai được thỏa mãn, cuộc sống
chung do đó chẳng hạnh phúc, thậm chí biến thành hỏa ngục. Muốn làm cho người
khác hạnh phúc, nghĩa là làm cho họ được thỏa mãn vì cảm thấy cái tôi và ý kiến
của họ được tôn trọng, thì chính tôi phải quên cái tôi và ý riêng của mình đi
để đặt nặng cái tôi và ý kiến của họ lên. Như thế họ cảm thấy hạnh phúc khi ở
bên cạnh tôi. Nếu người ấy cũng biết làm như thế đối với tôi, thì tôi cũng cảm
thấy hạnh phúc, và thế là cả hai đều hạnh phúc. Nhưng cách tốt nhất và bảo đảm
nhất để được hạnh phúc là tôi lấy hạnh phúc của người tôi thương làm hạnh phúc
của mình. Như thế tôi sẽ hạnh phúc khi làm cho họ được hạnh phúc.
Hạnh phúc gia đình luôn luôn đòi hỏi
phải có một ai đó trong nhà biết quên mình, biết quên cái tôi của mình đi, để
quan trọng hóa cái tôi của người khác lên. Thái độ ấy như một cái ngòi khởi động,
làm cho những người khác trong nhà cũng hành động như vậy, và nhờ đó, hạnh phúc
gia đình mới bùng lên. Thái độ khởi động ấy phải được lập lại hàng ngày hàng
giờ trong đời sống gia đình. Ai sẽ khởi sự thái độ quan trọng ấy nếu không phải
là chính bạn, là người ý thức được bí quyết hạnh phúc đó, bất kể bạn là vợ hay
chồng? Thật vô phúc cho gia đình nào không có ai tự nguyện làm cái ngòi khởi
động tình yêu thương ấy hàng ngày trong cuộc sống!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Cha đã chọn thánh Giuse là
người đứng đầu gia đình Nagiarét với những đức tính rất cần thiết của một người
làm chủ gia đình để gia đình ấy được hạnh phúc. Xin cho tất cả những người làm
chủ trong các gia đình Ki-tô hữu biết noi gương bắt chước Ngài, biết coi nhẹ
cái tôi của mình để thường xuyên quan tâm đến hạnh phúc của mọi thành viên khác
trong gia đình. Xin cho những người làm vợ và làm mẹ noi gương Đức Maria biết
luôn tỏ ra dễ thương, dịu dàng, và biết hy sinh ý riêng của mình cho hạnh phúc
gia đình. Và xin cho mọi con cái trong gia đình Ki-tô hữu biết noi gương Đức
Giêsu luôn kính trọng và vâng phục cha mẹ mình. Amen
17. Tiến dâng cho Chúa
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Chấp nhận làm người là chấp nhận thuộc
về một gia đình. Ngôi Lời làm người chấp nhận có mẹ, có cha. Tuy thánh Giuse và
Đức Maria không có tương giao vợ chồng, nhưng tình yêu chẳng bao giờ thiếu ở
Nagiarét.
Chúng ta không biết nhiều về đời sống
của Thánh Gia, nhưng chúng ta thấy Hai Đấng luôn ở bên nhau, đi chung với nhau
trên những con đường, chia sẻ với nhau mọi nỗi buồn vui, trong thời gian Đức
Giêsu còn thơ ấu.
Thánh Giuse đã đưa Đức Maria đi Bêlem.
Đoạn đường cam go đối với người gần ngày sinh nở. Thánh Giuse cũng đã đưa Hài
Nhi và Mẹ Ngài trốn sang Ai Cập, rồi lại đưa về làng cũ. Có lần cả hai phải vất
vả mấy ngày tìm con trong âu lo và nước mắt.
Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cả gia
đình thánh lên Đền Thờ lần đầu tiên. Một đôi vợ chồng nghèo với đứa con còn
nhỏ.
Đây là một gia đình gắn bó với luật
Chúa. Luật dạy người mẹ phải tẩy uế sau khi sinh con. Đức Maria vui lòng giữ
luật ấy, dù Mẹ biết Đấng được Mẹ sinh ra là Đấng Thánh. Luật dạy phải chuộc lại
đứa con trai đầu lòng vì nó thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa. Đức Giêsu chẳng
những đã được chuộc lại, mà còn được cha mẹ Ngài tiến dâng cho Chúa.
Con Thiên Chúa đã lớn lên trong bầu khí
gia đình. Ngài đã tập làm người. Mái nhà là trường học đầu tiên. Thầy cô đầu
tiên là cha mẹ. Đức Giêsu lớn dần về mọi mặt thật hài hòa. Bé Giêsu, anh Giêsu,
chú Giêsu, Ông Giêsu...
Ngài lớn lên trong dòng thời gian. Thời
gian là ánh mặt trời làm cho trái chín. Nhờ lao động với Cha nuôi mà Ngài trở
nên vững vàng và đủ sức khỏe để đảm nhận sứ vụ. Nhờ chuyên cần học tập mà Ngài
thêm khôn ngoan. Dù Ngài là sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn học
hỏi nơi bạn bè, kinh sư, nơi kinh nghiệm rút ra từ cuộc sống.
Nhờ được dạy cầu nguyện mà Ngài có tình
thân với Cha. Những lời kinh đầu tiên được bập bẹ trên gối mẹ. Nagiarét đã
thành trường huấn luyện Đức Giêsu trở nên người biết sống cho người khác, và
nên vị tông đồ tuyệt vời cho Cha và nhân loại.
Có bao bài học sống động ở dưới mái ấm
này. Bài học yêu thương, cảm thông, tha thứ, bài học phục vụ, quên mình, khiêm
hạ xin vâng...
Ước gì mọi gia đình Kitô hữu đều là một
Thánh Gia, để mỗi người con đều trở nên một Giêsu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Xã hội suy sụp vì gia đình đổ vỡ. Đâu
là những mối đe dọa mà gia đình hôm nay đang gặp phải? Một gia đình Kitô hữu
dựa vào đâu để vượt qua những khó khăn đó?
Để có một gia đình hạnh phúc, cần có
những người vợ, người chồng "đủ tiêu chuẩn". Theo ý bạn, đâu là những
tiêu chuẩn mà một bạn trẻ cần có trước khi lập gia đình?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sau hơn 30 năm sống
dưới mái nhà ở Nagiarét, Chúa đã thành một người chính chắn và trưởng thành,
sẵn sàng lãnh nhận sứ mạng Cha giao.
Bầu khí yêu thương đã góp phần không
nhỏ trong việc hình thành nhân cách của Chúa.
Chúa đã học nơi thánh Giuse sự lao động
miệt mài, sự mau mắn thi hành Thánh ý Thiên Chúa, sự âm thầm chu toàn trách
nhiệm đối với gia đình.
Chúa đã học nơi Mẹ Maria sự tế nhị và
phục vụ, sự buông mình sống trong lòng tin phó thác và nhất là một đời sống cầu
nguyện thâm trầm.
Xin nhìn đến gia đình chúng con, xin
biến nó thành nơi sản sinh những con người tốt, biết yêu thương tha thứ, biết
cầu nguyện và phục vụ.
Ước gì xã hội chúng con lành mạnh hơn,
Giáo hội chúng con thánh thiện hơn, nhờ có những con người khỏe mạnh, khôn
ngoan và tràn đầy ơn Chúa.
18. Tình yêu và lòng kính trọng trong
gia đình
Hơn hết tất cả, lễ Giáng sinh thật sự
là một lễ dành cho gia đình. Và trong khi tâm trí chúng ta còn đang hướng về
Bêlem và Thánh gia, thì các bài đọc Phụng vụ hôm nay lại nhắc đến nhiều khía
cạnh khác nhau trong đời sống gia đình. Nói đến Thánh Gia, có lẽ là nói đến một
cái gì xa vời chăng, vì gia đình chúng ta đây có lẽ còn quá cách xa gia đình lý
tưởng này.
Chúng ta đừng quên rằng Maria và Giuse,
cũng như các bậc cha mẹ khác, đều phải đương đầu đối diện với biết bao vấn đề
khó khăn. Bóng đen của thập giá đã phủ xuống chiếc nôi ở Bêlem, đã tràn vào
trái tim Mẹ Maria khi nghe lời tiên tri lạnh lùng của Simêon, nào là Con trẻ sẽ
nên cớ vấp phạm của nhiều người trong Israel , nào là trái tim của Mẹ sẽ
bị lưỡi gươm sắc đâm thâu qua. Ngày từ đầu con trẻ mà Maria và Giuse hết lòng
yêu thương trìu mến lại là một huyền nhiệm to lớn, và khi con trẻ trưởng thành
dưới sự bao bọc của mình, Maria và Giuse chỉ biết hết lòng phó thác tín nhiệm
vào Thiên Chúa mà thôi. Chúng ta cũng phải làm như thế thôi. Gia đình là một
định chế lâu đời nhất của nhân loại, và gia đình đã tồn tại đến ngày nay là vì
nó được xây dựng trên nền tảng tình yêu. Chúng ta có thể không có khả năng làm
xoay chuyển thế giới nhưng ảnh hưởng của chúng ta vẫn có thể vươn ra bao bọc
lấy gia đình tổ ấm chúng ta.
Cũng giống như bất cứ kế hoạch đáng giá
nào khác, cuộc sống gia đình muốn thành công mỹ mãn phải cần đầu tư nhiều thời
giờ và sức mạnh. Gia đình hạnh phúc không tự dưng mà đến. Tình yêu, hoà điệu,
kính trọng lẫn nhau, vốn là những yếu tố cơ bản của một gia đình hạnh phúc,
phải được chứng minh bằng hành động cụ thể. Câu Latinh "Lời nói bay qua,
gương bày lôi kéo" (Verba volant, exampla trahunt). Gương sáng là những
lời giảng dạy hùng hồn nhất. Những thái độ yêu thương ân cần chăm sóc, vốn rất
cần trong những buổi ban đầu, cũng có nhiều ảnh hưởng sâu đậm và dài lâu. Trong
cuộs sống sau này, con cái sẽ trở nên những gì mà chúng được nhào nặn, uốn nắn,
được hấp thụ, và mội khi chúng học được cách cho đi và nhận lãnh, thì đồng thời
chúng cũng sẽ phát triển được sự hiểu biết tha nhân một cách trưởng thành hơn.
Đây là cơ hội tốt cho những người mới
trưởng thành suy nghĩ lại về tình yêu và lòng kính trọng mà họ cần biểu lộ với
cha mẹ mình, vì đối xử tử tế với cha mẹ là một việc quí giá trước nhan Thiên
Chúa. Buồn thay, về phương diện này, giới trẻ thường không sống phù hợp với
tinh thần phúc âm cho lắm.
Cha mẹ ngày nay thường hay bị hoang mang
bối rối không biết cái gì đang xẩy ra, khi thấy con cái đang trưởng thành lại
hay diễn tả những giá trị cũng như niềm tin khác với thế hệ trước. Cũng cần
phải tỏ lòng tôn kính đặc biệt với ông bà nội ngoại trong quãng đời về chiều,
và đừng để các ngài kết thúc cuộc đời trong nỗi cô đơn dày vò. Hơn bất cứ gì
khác, điều đáng nói nhất là cần sống bình an trong vòng tay êm ấm của gia đình.
Đã đành một gia đình được chu cấp đầy đủ, và một mức sống tươm tất là điều quan
trọng nhưng chúng ta cũng cần nhớ rằng nếu như gia đình không duy trì cầu
nguyện hướng về cuộc sống thiêng liêng, thì mọi chuyện khác cũng nhất định sẽ
trục trặc mà thôi.
Đời sống gia đình không bao giờ trôi
chảy êm ả mãi, ngày nay còn có biết bao khó khăn phải nỗ lực phấn đấu hơn xưa
nhiều lắm. Nhưng đó là những nguyên liệu chúng ta sử dụng để hình thành nên đời
sống thánh thiện của chính mình. Nhân dịp Lễ Thánh Gia, chúng ta cầu xin Mẹ
Maria và Thánh Cả Giuse giúp gia đình chúng ta biết sống đẹp lòng Chúa hầu đem
lại một tinh thần mới cho đơn vị cơ bản nầy của xã hội loài người.
19. Tầm quan trọng của đời sống gia
đình
Giáo hội thiết lập Lễ Thánh gia để chỉ
cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống gia đình, và cái gương mẫu của gia
đình thánh. Chính Chúa Giêsu đã chỉ cho ta thấy cái tầm quan trọng của đời sống
gia đình qua cuộc đời của Người tại thế. Chúa chỉ dành có ba mươi năm - nhiều
hơn 10 lần - sống trong trong bầu khí gia đình, có Mẹ có Cha, để thu thân luyện
đức. Theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa, trinh nữ Maria được chọn làm
mẹ Đấng cứu thế. Còn thánh Giuse được chọn làm cha nuôi để săn sóc cho gia đình
thánh. Chúa Giêsu bắt đầu sống trong gia đình theo nhân tính của Người như mỗi
người để giúp ta dễ liên kết với Người.
Gia đình đời nay lớn hay nhỏ là đá tảng
của đời sống quốc gia. Trong quá khứ, nhiều quốc gia đã muốn tiêu diệt đơn vị
gia đình, nhưng thất bại. Sống và lớn lên không có gia đình, người ta có thể
mất đi cái thăng bằng về đời sống tâm linh và tình cảm. Khi gia đình đổ vỡ,
những căn tính về phái tính về gia đình của con cái sẽ bị thuyên giảm. Nói theo
phương diện đạo đức thì gia đình là một đơn vị tôn giáo đầu tiên. Chính trong
bầu khí an toàn và cái khung cảnh ấm cúng của gia đình mà những giá trị nhân
bản, luân lý và đạo giáo được truyền đạt xuống cho con cháu và con cháu học
được những việc làm đạo hạnh của ông bà cha mẹ.
Thiên Chúa biết rõ trước khi Người tạo
dựng A-đam và Ê-va. Sách Sáng Thế Sử ghi lại: Thiên Chúa tác thành con người
theo hình ảnh Thiên Chúa (St 1,26). Thiên Chúa hài lòng với công việc Người tạo
dựng, chúc lành cho người nam và người nữ, và phán: Hãy sinh sản cho đầy mặt
đất, và khắc phục đất đai (St 1,28). Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ
để làm thành gia đình, có cha có mẹ và con cái để yêu thương săn sóc lẫn nhau.
Sợi dây ràng buộc gia đình lại với nhau là tình yêu. Chính tình yêu đã khiến
Chúa Giêsu mặc lấy thân xác loài người và sinh ra giữa nhân loại. Chính tình
yêu đã khiến trinh nữ Maria chấp nhận địa vị làm mẹ Đấng cứu thế. Chính tình
yêu đã khiến thánh Giuse đưa Hài nhi và mẹ Người trốn sang Ai-cập (Mt 1,25)..
Và cũng chính tình yêu đã đưa gia đình thánh trở về Na-za-rét. Ở đó thánh Giuse
cung phụng cho gia đình thánh như có thể bằng cách làm nghề thợ mộc. Giáo hội
thánh hoá đời sống gia đình qua Bí tích hôn phối. Giáo hội coi Bí tích hôn phối
là thánh thiện vì đời sống nhân loại mong được thánh thiện nếu muốn được phản
ảnh Gia đình thánh. Gia đình thánh nêu ra tấm gương mà mỗi gia đình tốt phải
noi theo. Gia đình Na-gia-rét được gọi là thánh, không phải chỉ tại Chúa Giêsu
là thánh, mà còn tại Gia đình thánh đã đem ra thực hành những lời khuyên dạy
khôn ngoan mà người Do thái đã tích lũy cho đời sống gia đình hạnh phúc. Đó là
điều mà bài sách Huấn ca hôm nay dạy ta: Ai vâng lệnh Chúa, sẽ làm cho mẹ an
lòng (Hc 3,6). Điều đó có nghĩa là người mẹ sẽ được hạnh phúc khi con mình vâng
lệnh Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan.
Giáo hội trình bày Gia đình Na-gia-rét
là Gia đình lý tưởng cũng ý thức được những khiếm khuyết mà có thể làm ly tán
bất cứ đời sống gia đình nhân loại nào. Đó là lý do tại sao trong thư gửi tín
hữu Co-lo-sê thánh Phaolô khuyên họ làm sao sống tinh thần Ki-tô giáo. Thánh
nhân khuyên họ hãy mặc lấy những tâm tình từ bi, nhân hậu, khiêm cung, ôn hoà,
nhẫn nại, chịu đựng lẫn nhau và hãy tha thứ cho nhau (Cl 3,12-13). Trong gia
đình, các phần tử được kêu gọi mang trách nhiệm cho nhau. Thành phần tàn tật,
thành phần đổ vỡ trong gia đình phải được coi là thành phần trong gia đình. Và
thành phần quá cố trong gia đình cũng phải nằm trong lời cầu nguyện của gia
đình.
Gia đình thánh mà Giáo hội mừng lễ hôm
nay phải là mẫu mực cho mọi gia đình noi theo. Mỗi phần tử trong gia đình có
thể bắt chước được những gì nơi Chúa Hài nhi, nơi mẹ Mara, nơi thánh Giuse? Và
ta cũng cầu nguyện cho sự thành đạt và hạnh phúc cho đời sống gia đình.
20. Dung mạo
Hoàng đế của một vương quốc hùng cường
và thịnh vượng, một ngày kia đã triệu tập các nghệ nhân từ khắp các nước đến dự
một cuộc tranh tài. Cuộc thi mô tả dung mạo hoàng đế.
Các nghệ nhân An Độ đến với đầy đủ dụng
cụ và các loại đá hoa cương quí hiếm. Các nghệ nhân Acmêni mang theo một loại
đất sét đặc biệt. Các nghệ nhân Ai Cập mang đủ loại đồ nghề và khối cẩm thạch
hảo hạng. Sau cùng, người ta hết sức ngạc nhiên vì phái đoàn nghệ nhân Hy Lạp
chỉ mang đến vỏn vẹn một gói thuốc đánh bóng. Mỗi phái đoàn thi thố tài năng
của mình trong một phòng riêng. Khi thời gian ấn định đã hết, hoàng đế đến từng
gian phòng để thưởng thức các tác phẩm. Vua hết lời khen ngợi bức chân dung của
mình do các họa sĩ An Độ vẽ. Ông càng thán phục hơn khi nhìn ngắm các pho tượng
của chính ông mà các người Ai Cập và Acmêni điêu khắc. Sau cùng, đến phòng
trưng bày của người Hy Lạp, hoàng đế không nhìn thấy gì cả, duy chỉ có bức
tường của căn phòng được đánh bóng đến độ khi nhìn vào ông thấy chân dung mình
hiện ra từng nét. Dĩ nhiên, giải nhất thuộc về các nghệ nhân Hy Lạp. Bởi vì họ
đã hiểu rằng chỉ có hoàng đế mới họa được dung mạo của chính mình.
Muốn họa lại dung mạo Đức Kitô, chúng
ta cần phải đánh bóng lòng mình cho sạch mọi vết nhơ, mọi tì ố của tâm hồn. Một
khi đã nên sáng bóng như gương, chúng ta sẽ tiếp nhận được khuôn mặt rạng ngời
của Chúa.
Khi Đức Maria và thánh Giuse dâng Chúa
Hài nhi trong đền thánh, có biết bao tư tế và luật sĩ thông thái, giỏi giang,
am tường Kinh Thánh, và hiểu rõ các lời tiên tri loan báo về Đấng Cứu thế,
nhưng họ đã không nhận ra Chúa. Duy chỉ có ông Simêon, và bà Anna đã nhận ra
được dung mạo của Người. Simêon và Anna đã dâng hiến trọn vẹn con người và cuộc
đời, đã mài bóng đời mình bằng đạo hạnh và khiêm tốn, đã tôn thờ Chúa trong tin
yêu và phó thác. Vì thế, dung mạo của Đấng Cứu thế đã tỏ hiện sáng ngời trước
mặt các ngài. Simêon và Anna đã đón nhận Đấng Cứu thế như những người nghèo hèn
bé nhỏ. Các ngài đã được bồng ẵm Chúa, được thay mặt cho cả nhân loại nói lời
đầu tiên tôn vinh Chúa đến cứu độ con người.
Lễ Thánh Gia mời gọi chúng ta nhìn vào
các gia đình. Truyền thống gia đình ngày càng sút giảm. Ly thân, ly dị, trẻ em
lang thang, thanh niên nổi loạn, phá thai, mại dâm, ma túy ngày càng gia tăng.
Gia đình là nền tảng của xã hội. Nếu không có những gia đình lành mạnh thì
không thể có một xã hội tốt đẹp. Cuộc sống của gia đình phải tỏa hương thơm của
thiên đàng.
Hơn bao giờ hết, các gia đình chúng ta
phải nhìn lên Thánh Gia thất: một gia đình lý tưởng, đạo đức, yêu thương và
chăm lo cho nhau. Thánh Luca đã ghi lại hình ảnh rất đẹp của Thánh Gia như sau:
"Đức Giêsu đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nagiarét và hằng vâng phục các
ngài. Riêng Mẹ Người hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng. Còn Đức
Giêsu ngày càng khôn lớn, và được Thiên Chúa cũng như mọi người thương
mến".
Xã hội chúng ta không thiếu các mẫu
gương đạo hạnh: Louis Pasteur, nhà bác học thời danh, đã tâm sự khi đặt tấm bia
kỷ niệm tại gia đình ông: "Kính thưa cha mẹ thân yêu của con đã khuất
bóng, các ngài đã khiêm tốn sống trong nếp nhà bé nhỏ này. Con mắc nợ công ơn
cha mẹ về hết mọi điều...".
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội
nổi tiếng của Giáo Hội Pháp cũng tâm sự: "Những lời khuyên nhủ dịu dàng
của mẹ tôi, gương đạo đức, lòng nhiệt thành hâm nóng linh hồn nguội lạnh của
tôi, khuyến khích nâng đỡ tăng sức mạnh cho tôi. Chính nhờ giáo huấn của người
mà tôi có đức tin".Có lẽ thế giới biết nhiều đến thủ tướng Thái Lan, nhưng
ít ai biết được cậu Chuam Leekpai còn là một người con giàu cảm xúc, hiếu thảo,
và luôn nghĩ đến bậc sinh thành. Ông nói với mẹ: "Giờ đây, con đã là một
chính trị gia và con không còn thời gian về thăm mẹ thường xuyên nữa. Điều này
làm con cứ áy náy mãi. Tuổi mẹ càng cao thì nỗi lo của con càng nhiều. Do đó
con cố gắng tìm mọi cơ hội về thăm mẹ".
Đức Pio XI trong thông điệp về Giáo dục
Kitô giáo có viết: "Nền giáo dục hữu hiệu nhất và bền bỉ nhất là nền giáo
dục được nhận lãnh từ một gia đình Kitô giáo có qui củ và khuôn phép. Những
gương lành của cha mẹ và của những người trong gia đình càng chiếu tỏa và bền
bỉ, thì kết quả của giáo dục càng lớn lao".
21. Giáo hội nhỏ
Hôm nay Giáo Hội muốn chúng ta chiêm
ngưỡng Thánh Gia: Chúa Giêsu, Đức Maria và thánh Giuse, một gia đình kiểu mẫu
cho mọi gia đình. Vậy theo gương Thánh Gia, mỗi gia đình Công giáo phải thế
nào?
Tình yêu không phải là một xa xỉ phẩm,
nó là một thứ tối cần để nâng đỡ và xây dựng cuộc sống. Tình yêu làm nên hạnh
phúc. Vì thế, đi tìm và đón nhận tình yêu không phải là việc không quan trọng.
Nhưng trước khi đi tìm tình yêu ở nơi khác, hãy tìm và hun đúc tình yêu nơi
chính gia đình mình.
Tình yêu gia đình là tình yêu tự nhiên
nhất, sớm sủa nhất và lành mạnh nhất. Gia đình phải là một tổ ấm tình yêu, để
rồi lại trở thành nền tảng cho mọi thứ tình yêu khác. Tuy nhiên, tình yêu nào
mà lại chẳng có hy sinh. Tình yêu thiếu hy sinh là tình yêu dỏm. Hy sinh thiếu
tình yêu là hy sinh thừa. Tình yêu trong tổ ấm gia đình không phải là một luật
trừ, cho dù gia đình gồm toàn những người rất thánh, cũng khó tránh khỏi những
chuyện làm buồn lòng nhau. Vì thế, điều quan trọng không phải là tránh được hết
mọi chuyện không vui, nhưng là biết lợi dụng tất cả những vui buồn để dắt nhau
về cõi phúc. Nếu biết hiểu như thế, nhất là nếu biết thực hiện như thế, thì gia
đình sẽ vừa là tổ ấm tình yêu, vừa là nơi đặt nền cho mọi tình thương, và cũng
là lò luyện hy sinh.
Mỗi gia đình là một Giáo Hội, một Giáo
Hội rút gọn. Đã là một Giáo Hội rút gọn thì mỗi gia đình phải lập lại hình ảnh
Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi hiệp nhất, yêu dấu
và chia sẻ mọi sự với nhau thế nào, thì mỗi gia đình cũng phải đoàn kết trong
tình yêu thương lẫn nhau giữa vợ chồng, cha mẹ và con cái như vậy. Mỗi người
không còn ích kỷ, tìm lợi riêng cho mình, nhưng quên mình để làm sao cho những
người khác trong gia đình được nâng đỡ, được hạnh phúc vui tươi trong bầu khí
yêu thương đó.
Nếu mọi người trong gia đình biết sống
như thế thì gia đình thật là một Giáo Hội nhỏ, sống trong tình thương, và dâng
lên Thiên Chúa những của lễ thiêng liêng là những hoạt động hằng ngày của gia
đình. Như thế, dù chúng ta ở đâu, gần nhà thờ hay xa nhà thờ, gia đình chúng ta
vẫn là một đền thờ tốt đẹp quí báu.
Một gia đình sống theo những điều trên
đây sẽ là một trường rất tốt để dạy đức tin cho con cái. Có nhiều người trong
gia đình chỉ lo làm ăn và nuôi dưỡng phần tự nhiên cho con cái. Điều đó tốt
thôi, nhưng nếu xao lãng không quan tâm một chút nào đến việc dạy dỗ đức tin
cho con cái thì là một thiếu sót lớn. Đàng khác, có nhiều gia đình cũng quan
tâm đến việc ấy nhưng lại ỷ vào người khác như các cha, các tu sĩ, các giáo lý
viên, các hội đoàn. Như vậy cũng không được. Đã đến lúc những người làm cha mẹ
phải ý thức: công việc đó trước tiên là công việc của mình và chính mình phải
chịu trách nhiệm về đức tin của con cái trước mặt Thiên Chúa sau này, như trong
Hiến Chế về Giáo Hội, Công Đồng Vaticanô II đã nói: "Những người đầu tiên
phải lấy lời nói và gương sáng mà dạy dỗ đức tin cho con cái chính là cha
mẹ".
Thực vậy, gia đình là trường dạy đức
tin cho con cái tốt nhất, vì không phải chỉ dạy một tuần một hai giờ mà dạy
hằng ngày, luôn luôn. Ước chi các bậc cha mẹ đều bắt chước thánh Giuse và Đức
Mẹ như Tin Mừng nói: "Các ngài luôn vâng giữ lời Chúa và siêng năng dự các
lễ nghi như luật dạy". Nếu các người làm cha mẹ có lòng tin vững chắc,
biết truyền lại cho con cái niềm tin của mình, bằng lời dạy dỗ, bằng gương sáng
trong cách ăn ở hằng ngày, thì con cái chắc chắn sẽ theo đường lối ấy. Ước chi
mỗi gia đình Công giáo đều hiểu và sống như vậy.
22. Vai trò của gia đình
Nếu chúng ta trồng cây nơi đất trống,
thì cây đó sẽ rất dễ bị lay động, vì đành phải phó mặc cho cơn gió thổi. Nếu
còn sống sót, nó sẽ bị cong queo, trơ trụi, có thể trở thành một mẫu vật nghèo
nàn. Nếu muốn trồng một cây để nó được phát triển với đầy đủ tiềm năng của nó,
thì bạn phải trồng nó ở một nơi mà nó có thể được che chở nhiều hơn. Bạn đừng
trồng cây đó ở riêng một chỗ, mà phải trồng nó cùng với một số cây khác.
Điều quan trọng sống còn là cần phải có
một khoảng cách thích hợp giữa các cây. Chúng phải gần nhau đủ, để có khả năng
cung cấp chỗ trú ẩn và bảo vệ cho nhau. Tuy nhiên, chúng không được quá gần gũi
nhau, đến nỗi có thể hiếp đáp nhau. Chúng phải được trồng xa nhau vừa đủ, đảm
bảo sao cho mỗi cây đều có một khoảng cách thích hợp, để phát triển với đầy đủ
tiềm năng của nó.
Trồng cây một mình một chỗ là không
tốt. Cũng vậy, nếu chúng ta ở một mình thì cũng không tốt. Vì tính cách toàn
diện, và vì sức khỏe tinh thần của mình, chúng ta cần ràng buộc tình yêu và
tình bạn với người khác. Thiên Chúa không dựng nên chúng ta để ở một mình,
nhưng là để sống cộng đồng. Bản thân con người chúng ta không đủ để đáp ứng cho
chính mình. Chúng ta cần có người khác nữa, để trở nên những gì Thiên Chúa chờ
đợi nơi chúng ta.
Đây cũng là trường hợp được ứng dụng
cho các gia đình. Cây cối được trồng trong cái hố nhỏ là hình ảnh tốt về gia
đình. Trong một gia đình lý tưởng, phải có sự gần gũi, đồng thời cũng phải có
một khoảng cách nhất định. Cần có sự gần gũi để các phần tử có thể giúp đỡ
nhau. Cần có khoảng cách để đảm bảo rằng họ không xâm phạm vào sự riêng tư của
mỗi người. Mỗi phần tử cần có một giới hạn, một sự thân mật và ấm cúng mà mỗi
người cần có. Tuy nhiên, cũng cần phải có một khoảng không gian, để mỗi người
phát triển đúng tiềm năng của mình. Đây là một thách đố lớn: Đó là phải làm thế
nào để đạt được sự gần gũi, mà không xâm phạm hoặc thống trị nhau.
Trong gia đình, chúng ta học hỏi để
hình thành những mối tương quan với những người khác, một điều gì đó là quan
trọng sống động đối với chúng ta. Khi không có khả năng quan hệ, đó là sự cản
trở và buồn phiền lớn. Nếu không có quan hệ gần gũi, chúng ta đành phải phó mặc
cho cơn gió lạnh của nỗi buồn phiền và cô đơn.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình,
chúng ta học hỏi để liên đới với người khác. Ở đây, chúng ta tạo ra một căn
phòng cho người khác trong đời sống của chúng ta. Ở đây, chúng ta học hỏi cách
thức chia sẻ và sống có trách nhiệm với người khác.
Trong xã hội, gia đình bị đặt dưới
nhiều sức ép. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta không coi trọng giá trị của
gia đình. Đó là vì chúng ta không được chuẩn bị các nguyên tắc để giữ được bầu
khí êm thấm trong gia đình. Gia đình được xây dựng dựa trên những cam kết của
lời hứa, sự trung thành và tự hiến. Bằng cách sống trong cộng đồng nhỏ bé của
tình yêu với Đức Mẹ, thánh Giuse ở Nagiarét, Đức Giêsu có thể lớn lên trong sự
khôn ngoan và nhân đức, trong lòng yêu mến của Thiên Chúa và loài người.
Trong cộng đồng nhỏ bé của gia đình,
chúng ta có một nơi chốn, chúng ta có những ràng buộc, chúng ta có một căn
tính, chúng ta có gốc rễ. Mặc dù gia đình nào cũng đều có khó khăn, nhưng đây
không hẳn là điều xấu. Khó khăn có thể là một ân huệ. Những cây nào bị trồng
trong đất xấu, thì cần phải có một bộ rễ vững chắc. Vì vậy, cần phải co sự đoàn
kết với nhau hơn, để chống trả lại với những bão táp không thể tránh khỏi của
cuộc đời.
23. Thánh Gia Thất- Lm. Munachi Ezeogu
Một cậu bé đón cha mình đi làm về và
hỏi: "Bố ơi! bố đi làm được bao nhiêu tiền một giờ?". Ông bố rất ngạc
nhiên và bảo: "Này con, ngay cả mẹ của con cũng chẳng biết, đừng quấy rầy
bố vì bố đang mệt." Cậu bé lại hỏi: "Bố cứ cho con biết, lương của bố
mỗi giờ được bao nhiêu tiền?" Cuối cùng thì ông bố bảo rằng: "Mỗi giờ
bố được hai mươi đồng". Cậu bé liền hỏi: "Vậy bố cho con mượn mười
đồng". Ông bố tỏ vẻ giận và mắng con: "Thì ra đấy là lý do con muốn
biết tiền lương của bố? Bây giờ đi ngủ đi và đừng quấy rầy bố nữa".
Đêm hôm ấy, ông bố nghĩ lại những điều
đã nói với con mình và cảm thấy hối hận. Ông cho rằng có thể con mình đang cần
tiền để mua món gì mà nó đang cần. Ông sang phòng của con mình và hỏi:
"Con đã ngủ chưa?" Con ông đáp: "Con chưa ngủ". Ông bố đưa
tiền và bảo: "Đây là tiền con hỏi xin lúc nãy" Nó vui vẻ cám ơn bố,
rồi lấy thêm tiền trong gối ra và nói: " Con đã có đủ rồi! hai mươi đồng.
Bây giờ bố bán cho con một giờ của bố."
Bài phúc âm hôm nay nhắn nhủ ông bố kể
trên và tất cả chúng ta là hãy dành cho gia đình mình nhiều thì giờ hơn nữa.
Thánh Luca đã cho chúng ta thấy Đức
Giêsu ở tuổi mười hai, lứa tuổi được xem là trưởng thành và mọi thiếu niên Do
Thái ở tuổi ấy phải tuân giữ luật Do Thái. Đây cũng là lúc thiếu niên Do Thái
được chúc mừng để trở thành người lớn. Kể từ đấy, họ phải tuân giữ luật lệ và
phải tham dự hành hương hằng năm tại đền thánh Giêrusalem. Thời ấy, có những
thanh niên thì đánh dấu ngày này bằng cách đi chơi hoặc làm những điều không
đúng với điều mà luật Do Thái đòi hỏi. Chúng ta thường cảm thấy con của mình đã
lớn, khi chúng đi chơi với bạn bè mà không xin phép. Như chúng ta đã biết, Đức
Giêsu cũng vậy. Để đánh dấu ngày đến tuổi trưởng thành theo luật Do Thái, Ngài
đã tham dự lớp học kinh thánh tại đền thờ mà không báo cho cha mẹ mình biết.
Khi cha mẹ tìm được Người sau hai ngày tìm kiếm khắp nơi, Người chỉ trả lời
rằng "Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà
của Cha con sao?" (Luca 2:49). Ngay cả thánh gia đôi khi cũng có những lúc
căng thẳng và những hiểu lầm.
Điều làm cho chúng ta thắc mắc là trong
đoạn cuối cuả phúc âm hôm nay "Sau đó, Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở
về Nazaret và hằng vâng phục các ngài." (Luca 2:51). Thiếu niên Giêsu mười
hai tuổi, đã biết rằng sứ mạng của mình là ở trong nhà của Cha mình và thực thi
những sứ mạng ấy. Trong thời gian ngắn ngủi tại Giêrusalem, Người đã chứng tỏ
khả năng và sự hiểu biết của Người, vì "Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về
trí thông minh và những lời đối đáp của cậu" (Luca 2:47). 1 Điều làm cho
chúng ta phải suy nghĩ là: Nếu Đức Giêsu đã được mười hai tuổi, đã sẵn sàng và
bằng chứng là có khả năng để bắt đầu sứ vụ giảng dạy công khai. Vậy tại sao
Người lại đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Nazaret và sống ẩn dật mười tám năm
trong căn nhà nghèo nàn của người thợ mộc, và chỉ bắt đầu sứ vụ giảng dạy công
khai ở tuổi ba mươi? Vậy mười tám năm ấy là vô vị và không có ích lợi gì chăng?
Chắc chắn làcó lợi ích! Điều chúng ta nên tìm hiểu là cuộc sống ẩn dật cuả Đức
Giêsu tại Nazaret là một phần trong sứ vụ của cuộc sống công khai của Người.
Phúc âm nhắc chúng ta rằng: "Còn Đức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan, thêm
cao lớn và thêm ân nghĩa đối với Thiên Chúa và người ta" (Luca 2:52). Khi
chúng ta suy niệm về điểm này, thì cứ một năm Người giảng đạo thì mười năm
Người ở với gia đình. Từ đấy chúng ta sẽ hiểu tầm quan trọng và sự ưu tiên
Người đã dành cho đời sống gia đình như thế nào.
Đời sống của chúng ta được chia thành
hai phần: gia đình và công việc. Hai phần này thông thường thì phải hài hòa
nhưng đôi khi lại đối chọi nhau và gây ra căng thẳng. Đức Giêsu đã hóa giải sự
căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho đời sống gia đình. Còn chúng ta thì
thường hay cố gắng giải quyết mối căng thẳng ấy bằng cách dành sự ưu tiên cho
công việc của mình, và để cho đời sống gia đình chịu tổn thương. Bà Rose Sands
viết về người đàn ông bất hạnh, người mà chỉ nghĩ rằng mình có thể chứng minh
tình thương của mình đối gia đình là phải làm việc hết sức mình "Để chứng
tỏ tình yêu đối với vợ mình, ông ta bơi qua khúc sông sâu nhất, vượt vùng
sa-mạc rộng nhất và leo ngọn núi cao nhất. Vợ của ông đã lìa bỏ ông, vì ông ta
chẳng bao giờ có mặt ở nhà".
Hôm nay, nhân dịp chúng ta mừng kính lễ
Thánh Gia của thánh Giuse, Đức Maria và Chúa Giêsu, chúng ta hãy ôn lại và nhắc
nhở chính chúng ta rằng: hãy đặt giá trị của đời sống gia đình lên trên công
việc của mình, kể cả những việc quan trọng như việc bảo tồn thế giới này.
24. Thánh Gia
Có người cho rằng Thánh gia là một gia
đình thánh. Còn chúng ta là người phàm, yếu đuối, làm sao bắt chước cho được.
Hơn nữa, các Ngài sống trong bầu khí bình lặng, êm đềm, ít phải cạnh tranh và
chụp dựt, ít bị những ảnh hưởng xấu như thời buổi hiện đại. Quả thật, Thánh gia
là một gia đình thánh, nhưng sự thánh thiện ấy không miễn chuẩn cho các Ngài
những khó khăn vất vả, những cố gắng bươm chải. Cứ đọc lại Tin Mừng thời thơ ấu
của Chúa Giêsu là chúng ta sẽ thấy: Có những thức thách khi Giuse thấy Mẹ Maria
bỗng dưng có thai mà ngài không biết. Có những vất vả của hành trình từ
Nagiarét lên Giêrusalem để kiểm tra dân số đang lúc Mẹ Maria sắp nở nhuỵ khai
hoa. Có những buồn tủi khi không còn chỗ cho Mẹ Maria trong quán trọ, khiến Con
Thiên Chúa phải sinh ra nơi máng cỏ khó nghèo. Và chắc hẳn Thánh gia đã thấu
hiểu thế nào là thân phận lưu lạc nơi đất khách quê người bên Ai Cập để trốn
thoát âm mưu hãm hại của bạo vương Hêrôđê. Trước những thử thách ấy, Thánh gia
có hai phương thức để giải quyết.
Trước hết là tình yêu. Thực vậy, ngày nay
hơn bao giờ hết, người ta càng khám phá ra tầm quan trọng của gia đình trong
đời sống xã hội: gia đình là cái nôi của con người, vì chính ở đó con người
được sinh ra. Là mái trường đầu tiên của con người, gia đình giữ một vai trò
đặc biệt trong sự hình thành cá tính và nhân phẩm của con người. Nhưng cũng
chính ngày nay, người ta phải chua chát thừa nhận rằng đang có những khủng
hoảng trầm trọng làm lung lay tận nền tảng gia đình. Chính trong bối cảnh ảm
đạm đó, hình ảnh Thánh gia vụt sáng lên như ánh sao chỉ đường. Vâng. Thánh gia
mời gọi các gia đình hãy biết yêu thương và sống cho nhau. Nước chảy không
ngược dòng, cây không sống cho chính mình nhưng sống cho quả. Cũng vậy, cha mẹ
sống cho con cái. Thánh Giuse với tư cách là gia trưởng đã miệt mài làm việc để
nuôi sống gia đình, ngài ghi dấu ấn lao động trên cuộc đời của người con, khiến
sau này Chúa Giêsu khi rao giảng Tin Mừng, người ta đã phải tự hỏi: Ông ấy
không phải là con bác thợ mộc và Maria sao? Còn Mẹ Maria với tư cách nội trợ,
Mẹ đã tập cho Chúa Giêsu cầu nguyện, giúp cho con biết quan sát thế giới chung
quanh. Phải chăng những lời dạy dỗ của Mẹ Maria vẫn tiềm ẩn trong cung cách rao
giảng của Chúa Giêsu sau này khi Ngài nói: Nước trời giống như men, như muối...
Và cậu bé Giêsu dưới mái nhà Nagiarét đã chia sẻ mọi cảnh ngộ của gia đình, đã
sống đạo làm con đối với cha mẹ trong tinh thần yêu thương và vâng phục. Như
thế, mẫu gương yêu thương và sống cho nhau đã được mọi thành viên trong Thánh
gia thực hiện. Cha mẹ không chỉ nuôi con bằng cơm bánh vật chất, nhưng còn dạy
dỗ, làm gương sáng cho con, còn người con đáp trả bằng tình hiếu thảo và vâng
phục. Phải chăng chính sự yêu thương và ân cần dưỡng dục của cha mẹ đã ghi dấu
ấn sâu xa trong tâm hồn Đức Giáo Hoàng Gioan 23, nên trong ngày sinh nhật thứ
50 của mình, ngài đã viết thư cho cha mẹ như sau: Thưa ba má, hôm nay con được
50 tuổi. Chúa thương ban cho con nhiều chức vụ trong Hội Thánh. Con đã đi nhiều
nơi, đã học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con như
hồi con được ngồi bên ba má.
Tiếp đến, phương thức thứ hai đó là ý
Chúa. Thực vậy, yêu thương và sống cho nhau vẫn chưa đủ, đối với người Kitô
hữu, tình yêu thương còn phải được định hướng bằng thánh ý Chúa. Thiếu sự định
hướng này, lắm khi tình thương chỉ còn là tiếng loa dội lại của lòng ích kỷ,
hoặc biến thành một thứ tình cảm mù quáng sai lầm. Không ít bậc cha mẹ, theo
như kinh nghiệm cho thấy, đã giết chết tuổi thanh xuân của con cái qua sự cưng
chiều quá đáng của mình. Cho nên cha mẹ thương con mà phải nhận ra rằng yêu
thương không có nghĩa là chiếm đoạt, giữ rịt cho riêng mình. Mẹ Maria sẵn lòng
trao Hài nhi Giêsu cho ông cụ Simêon, cũng như sau này, Mẹ dâng con trên đỉnh
cao thập giá.Và Mẹ ý Chúa là trên hết. Mẹ Maria và thánh Giuse đã vâng theo ý
Thiên Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc. Một khi đã lấy ý Chúa làm ngọn đèn hải
đăng hướng dẫn thuyền đời, thì mái ấm của chúng ta chắc chắn sẽ vượt qua được
những sóng gió của đại dương cuộc đời.
25. Lớn lên
Ở Chicago ,
khi trời vừa lập đông, từng đàn ngỗng lũ lượt kéo nhau bay hàng ngàn dặm về
phương Nam
đi tìm nắng ấm. Chúng kêu gọi nhau xôn xao. Có những con lạc bầy vừa bay vừa
kêu: "Quéc! Quéc! Quéc!" Khiến kẻ tha phương cũng phải chạnh lòng
buồn theo vì nhớ mái ấm gia đình! Các nhà khoa học nghiên cứu cuộc di cư hằng năm
đi tìm nắng ấm của loài ngỗng đã đưa ra sáu điểm nhận xét giúp ta suy nghĩ về
đời sống gia đình nhân dịp lễ Thánh Gia Thất hôm nay:
1. Chúng bay với nhau theo hình chữ vê
ngược. Mỗi con đều vỗ cánh rất nhịp nhàng, êm ái. Một hàng chữ vê ngược bay
chung với nhau như vậy sẽ tạo thêm được 17 phần trăm sức mạnh hơn là từng con
bay riêng rẽ.
Đúng là "Hợp quần gây sức
mạnh". Tất cả mọi người trong một gia đình hay cộng đoàn hợp tác với nhau
làm việc sẽ nhanh hơn và dễ hơn, vì họ cùng thúc đẩy và nâng nhau lên.
"Niềm vui góp lại, niềm vui lớn. Nỗi lo chia sẻ, nỗi lo vơi!"
2. Khi có con nào bị rơi ra khỏi hàng
ngũ, nó phải tìm cách mau chóng trở về hàng ngay để có sức mạnh nâng đỡ của cả
bầy. Nếu không nó phải bay cô đơn một mình!
Bước ra khỏi gia đình hay cộng đoàn, ta
sẽ cảm thấy bơ vơ lạc lõng, mất đi một điểm tựa nâng đỡ lớn lao. Khi phải một
thân một mình chống chọi giữa đời, ta mới cảm thấy sự quý giá của mái ấm gia
đình. Khi mồ côi ta mới thấy giá trị của tình phụ mẫu.
3. Khi con ngỗng dẫn đàn ở chính giữa mệt
mỏi, nó sẽ trở xuống hàng phía dưới, con khác sẽ thay phiên lên dẫn đầu.
Thật là bất công khi trong gia đình hay
cộng đoàn, có những người phải làm việc quá sức đang khi đa số những người khác
lại nhàn hạ. Có nhiều gia đình cha mẹ phải làm việc đầu tắt mặt tối, trong khi
con cái chơi bời lêu lổng suốt ngày. Theo thống kê, chỉ có 20/o số người đứng
ra làm việc, nhưng phải đảm đương tới 80/o công việc của một tập thể, hay cộng
đoàn!
4. Những con ngỗng vừa bay vừa kêu
"Quéc! Quéc!" Am thanh vang dội trong bầu trời. Cuộc hành trình dài
muôn ngàn dặm. Cứ thẳng cánh mà bay. Những con bay phía sau kêu lên để khích lệ
những con phía trước phải cố gắng giữ cho đúng tốc độ.
Trong gia đình hay cộng đoàn thường có
sự ghen tương, dèm pha lẫn nhau hơn là khích lệ, cổ võ, và khen ngợi những ưu
điểm của nhau! Trong cuốn "Người Trung Quốc Xấu Xí" của Bá Dương, bản
dịch của Nguyễn Hồi Thủ, tác giả đả kích tính ích kỷ, ghen tương, đấu đá lẫn
nhau của người Trung Hoa bằng một kinh nghiệm như sau: "Ví dụ tôi đến thăm
anh, thấy anh nhà cao cửa rộng, học vấn uyên bác, trong lòng tôi kính phục, hâm
mộ anh. Trên đường về đáng lẽ tôi nghĩ phải cố gắng phấn đấu, làm việc, học
hành để có thể được như anh. Đằng này lúc ra khỏi nhà anh tôi lại bảo: Ở nhà
đẹp thế! Không biết ăn cắp hay ăn cướp ở đâu ra lắm tiền! Cầu trời cho ngày mai
có đám cháy thiêu rụi cái nhà nó đi cho rồi!" Tác giả dẫn chứng sự mất
đoàn kết của người Trung Hoa bằng câu nói mỉa mai: "Một Hoà Thượng gánh
nước uống. Hai Hoà Thượng khiêng nước uống. Ba Hoà thượng không có nước
uống!"
5. Khi nào dừng cánh nghỉ ngơi, kiếm ăn
trên đồng cỏ, không bao giờ tất cả mọi con ngỗng đều cúi đầu xuống ăn cùng một
lượt! Luôn luôn có 4 hay 5 con canh chừng trong khi những con khác ăn. Chờ đợi
cho những con khác ngẩng đầu lên, lúc đó chúng mới cúi xuống.
Trong gia đình hay cộng đoàn, chúng ta
phải biết tỉnh thức, canh chừng và bảo vệ nhau tránh khỏi những nguy hiểm của
ma thù. Đừng vì say mê hưởng thụ vật chất mà quên đi những kẻ thù tinh thần
rình rập trên hành trình tiến về quê trời.
6. Khi một con ngỗng bị bệnh hay bị bắn
thương tích rơi xuống đất, sẽ có 2 con khác bay theo xuống đất để giúp đỡ và
bảo vệ. Chúng ở lại cho đến khi con bị thương có thể bay được, hay phải chết,
chúng mới bay đi nhập vào một hàng khác để bắt kịp bầy cũ của mình.
Tình nghĩa gắn bó, liên kết mọi người
sống chết với nhau trong gia đình. Thường thường trước khi nhắm mắt xuôi tay,
cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, đều muốn có nhau trong giờ phút cuối. Ai cũng
muốn ra đi trong tình thương mến của gia đình. Không ai muốn chết trong cô đơn
buồn tủi.
26. Chú giải của Noel Quesson
Khi đã đến ngày phải làm lễ tẩy uế theo
luật Môsê... tiến dâng như Luật Chúa quy định... để chu toàn nghi thức theo
Luật Chúa truyền...theo như những gì đã ghi trong luật... khi họ chu toàn nghi
lễ, như thiên hạ thường làm theo luật.
Chắc chắn, đây không phải là ngẫu nhiên
mà Luca nhấn mạnh tới 5 lần (các câu 22, 23, 24, 27, 39) về việc chu toàn lề
luật. Dù là "Con Thiên Chúa" Đức Giêsu đã tuân theo lề luật của con
người. Đó là nét thâm sâu và sự thật về mầu nhiệm nhập thể. Ngài không tự coi
mình như "có đặc quyền". Người hành xử "như mọi người"
không có gì phân biệt Người với kẻ khác. Tôi dùng thời giờ để suy niệm lâu hơn
về sự khiêm hạ phi thường này, rnà Thánh Phaolô gọi là: một "cuộc làm cho mình
hóa ra không", một "kénose" (Pl 2,7). Đừng tự đặt mình vào số
ngoại lệ. Không nên đòi hỏi những đặc quyền. Nên thực tế chấp nhận những nghịch
chướng thường có trong cuộc sống, những dịch vụ không vinh dự của thân phận
chúng ta.
Cha mẹ Đức Giêsu đem Người lên
Giêrusalem... vào Đền thờ.
Cuộc lên đường này mang đầy ý nghĩa. Đó
là đỉnh cao của "hai chương" Luca dành cho tuổi thơ của Gioan Tẩy Giả
và của Đức Giêsu. Nhưng Luca hữu ý tạo cho bước đường của Đức Giêsu sự ngược
với Gioan. Việc báo tin cho Dacaria diễn ra trong khung cảnh trang trọng và
huyền diệu của buổi lễ tế tự nơi Đền Thánh (Lc 1,0) nhưng Gioan con trai của
ông lại ẩn mình "trong hoang địa" (Lc l,80). Còn việc truyền tin cho
Maria xảy ra tại làng Nagiarét nhỏ bé tầm thường (Ga l,46), nhưng Giêsu con
trai của bà lại được nhận biết như Đấng "Mêsia" trong thành thánh
Giêrusalem; tại Đền thờ, giữa trung tâm thành phố, nơi hiện diện kỳ diệu của
Thiên Chúa (Lc 2,27; 2,37). Như thế là chúng ta dang dừng lại trước "
trang cuối cùng"... kết thúc Cựu ước! Những người Do Thái, đôi vợ chồng
trẻ, đang "chu toàn lề luật Môsê". Một cách tượng trưng, lề luật được
chấm dứt với cử chỉ này sẻ không cần tới Đền thờ nữa: người ta cũng sẽ phá hủy
Đền. thờ, đó là "cuộc trở lại đầy Vinh quang của Thiên Chúa giữa Dân Người"
như vị ngôn sứ loan báo (Ml 3, 1-4). Nhưng Thiên Chúa đến cách đột xuất, bất
ngờ biết bao "! Không khi nào Người đến như người ta chờ đợi.
Có một người tên là Simêon. Ông là
người công chính và sùng đạo... Lại cũng có một bà ngôn sứ tên là Anna.. Bà ở
góa, đến nay đã 84 tuổi, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa trong Đền thờ".
Không phải ngẫu nhiên mà ta thích thú
nhận ra rằng, theo Luca, không phải giới có thẩm quyền như các thầy tư tế các
kinh sư nhận biết Đức Giêsu.. mà là những con người tầm xoàng, nhưng kẻ nghèo
khó? Qua hai người tiêu biểu cho những kẻ "bé mọn" trên đây, thì toàn
thể dân chúng thuộc "nhóm người nghèo Thiên Chúa yêu thương" đã đến
gặp gỡ Đấng Cứu độ của họ. Đằng khác, điều đó cũng đã được các ngôn sứ loan
báo: "Ta sẽ chừa lại giữa ngươi một dân khiêm nhu hèn mọn..:" một số
nhỏ "còn sót lại (Xp 3,12; Is 16.14 + 30, 17,37.4; Gr 6,9; Ge 3,5) Simêon
và Anna tiêu biểu cho những người nghèo. Họ đều đã già cả; thuộc hạng người mà
toàn thể xã hội muốn quên bỏ không mấy trân trọng "(Kn 3,13). Hơn nữa,
Anna lại là cụ già "góa bụa", nghĩa là theo ngôn ngữ Kinh thánh, là
cái nghèo hiện thân, vì cụ đã mất đi tất cả những gì đảm bảo cho mình chỗ đứng
trong một xã hội mà chỉ người chồng mới có quyền pháp lý. Lạy Chúa, xin biến
trái tim chúng con trở nên những tâm hồn của người nghèo, để chúng con biết
nhận ra Chúa, trong những dạng bề ngoài khó nghèo mà Chúa thường ẩn dấu...
Simêon ẵm lấy hài nhi trên tay... Đấng
Mêsia của Chúa... ơn cứu độ dành sẵn cho muôn dân... ánh sáng soi đường cho dân
ngoại... vinh quang của Israel ...
Thiên Chúa ưa đột xuất, dễ gây ngỡ
ngàng! Người ta mong chờ "vinh quang", "quyền lực"! Thì
Ngài lại xuất hiện trong thân phận một "trẻ nhỏ", một bé thơ thật sự
khóc oe oe, chưa biết đứng thẳng, phải bồng ẵm trên tay! Chỉ có cụ già đó, tự
để cho Đức tin và Thánh Thần mở mắt mình! Ba lần gọi tên trong bản văn, mới có
thể nhận thấy được sự khám phá ra được điều đó, cần phải trở nên khó nghèo, Đức
tin là một thứ nghèo khó: người ta nhìn mà không nhận biết (Ga 20,29). ấy thế
mà dưới lớp vẻ bề ngoài nghịch thường bé bỏng của em nhỏ (ta nghĩ đến
"hình dạng bề ngoài" của bánh mà ta lãnh nhận...), lại chính là lễ
tấn phong cách công khai của Đức Giêsu "trong Đền thờ của Người":
Những tước hiệu mà hai người nghèo khó trên đây tặng cho Người, thật là ngời
sáng! Đức Giêsu – gói thịt đáng thương này (và Ngôi lời đã mặc xác phàm) lại
chính là Đấng Mêsia của Thiên Chúa... "ơn cứu độ của muôn người "...
"ánh sáng"... "Vinh quang"... "Sự giải thoát"
Giêrusalem... Lạy Chúa, xin ban cho chúng con đức tin.
Những lời ông Simêon nói về Hài nhi làm
cho cha mẹ Người ngạc nhiêm bỡ ngỡ.
Như thế, đây cũng là lời xác nhận rằng,
"đức tin của cha mẹ" cũng cần phải tiến triển! Không biết lòng tin
của họ ra sao, nhưng Maria và Giuse đều rất đỗi ngạc nhiên và bỡ ngỡ trước
những "tước hiệu" mà ngời ta gán cho con mình. Biến cố này gợi lên
lòng tin của ông bà. Mười hai năm sau, tại Đền thờ này, ông bà cũng sẽ không
hiểu gì (Lc 2,48-50) và vẫn còn ngạc nhiên. Lạy Chúa, chúng con cầu xin Chúa
giúp chúng con luôn được ngạc nhiên bỡ ngỡ như thế.
Ông bà đem con lên Giêrusalem để tiến
dâng cho Chúa... và dâng của lễ theo luật định.
Đó là hai kiểu nói Luca đã sử dụng để
trình bày "nghi thức" mà đôi vợ chồng trẻ trên đây đã thi hành. Động
từ Hy-lạp được dùng ở đây là ("parastènai": "dâng hiến"),
cũng chính là từ mà Phaolô sẽ dùng để nói lên thái độ căn bản của Kitô hữu.
Đừng quên rằng, Luca là thư ký của Phaolô, và các bức thư đều được viết trước
các Tin Mừng. Thế nên, Luca đã chủ ý dùng một ít mang ý nghĩa. "Anh em đừng
hiến thân xác anh em phục vụ tội lỗi nữa, nhưng anh em hãy hiến toàn thân để
phục vụ Thiên Chúa" (Rm 6,13). "Anh em hãy hiến thi thể anh em để
phục vụ sự công chính, để trở nên thánh thiện" (Rm 6,19). "Thưa anh
em, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh
thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thực xứng hợp để anh em thờ phượng
Người" (Rm 12,1.).
Như vậy, Maria và Giuse đến thi hành
trước, điều mà sau này chính Đức Giêsu sẽ thực hiện trong bữa tiệc ly và trên
thập giá... và mọi Kitô hữu được mời gọi thể hiện trong mọi thánh lễ: hiến dâng
mạng sống của mình! "Đây là mình Thầy sẽ bị nộp vì các con". Lạy
Chúa, khi thông hiệp với Chúa, chớ gì con biết hiến mạng sống mình vì yêu. Để
làm nổi bật hai sự việc trên chỉ là một ("tiến dâng con" và
"hiến dâng của lễ"), Luca trích dẫn hai đoạn văn Kinh Thánh, khi cần
vẫn có thể tăng cường chiều kích "vượt qua" của trình thuật này:
"Tất cả các con trai đầu lòng đều được thánh hiến dành cho Thiên
Chúa" (Xh 13,2.12.15). Chúng ta hãy nhớ lại nguồn gốc của nghi thức này.
Dân tộc Israel
làm nô lệ bên Ai Cập. Để chấp nhận việc giải phóng vượt qua, vua Pharaô đã phải
chứng kiến mọi con trai đầu lòng thuộc xứ sở mình đều chết hết. Một của lễ
chiên vượt qua ghi dấu máu nơi cửa nhà Do Thái. Và để "ghi nhớ" ngày
cứu độ giải phóng này, mọi con trai đầu lòng người Israel đều thuộc về Thiên Chúa!
Muốn dẫn chúng trở lại gia đình, cần phải "chuộc lại". Đó là biểu
tượng lạ thường. Một vật thuộc về Thiên Chúa? Muốn dân chúng trở lại gia đình,
cần phải "chuộc lại". Đó là biểu tượng lạ thường. Một vật thuộc về
Thiên Chúa: là một vật được hiến thánh!
Chính Đức Giêsu cũng được "hiến
thánh" cách trọn vẹn! Và việc đó được diễn ra vào "ngày thứ bốn
mươi", thời gian tròn đầy.. và sau này còn có một "ngày thứ bốn
mươi" nữa, để kết thúc mùa phục sinh dẫn tới biến cố lên trời làm cho sự
hiện diện hữu hình của Đấng phục sinh biến khỏi. Đúng vậy, toàn bộ Tin Mừng
đang nằm ở trang này. Và một cảnh vượt qua khác cũng sẽ diễn ra "ở
Giêrusalem" (Lc 24, 47-52).
Phép rửa đã thánh hiến tôi cho Chúa.
Biến cố đó có ý nghĩa gì đối với tôi không?
Của lễ là một đôi chim gáy, hay một cặp
bồ câu non...
Thật là cảm động, phải không? Nhưng coi
chừng, ta có thể biến toàn thể trình thuật trên đây của Luca thành giai thoại
mất thôi! Một lần nữa, ta cần ghi nhận rằng, Luca đã không thêm bớt gì. Rõ ràng
ông chỉ dựa vào những thực hành tôn giáo Do Thái hiển nhiên. Nhưng ta cũng có
thể nhìn ra, tại sao Đức Giêsu lại không được miễn chước khỏi việc tuân giữ
những tập tục đó. Mà thôi, đối với Luca, điều quan trọng thực sự đó là
"nội dung" thần học, là "ý nghĩa" thâm sâu của các sự kiện
lịch sử. Vậy ta cứ chấp nhận quan điểm của người thuật chuyện. Nào ta sẽ đọc
toàn bộ bản văn mà Luca đã trích dẫn một đoạn nơi sách Lêvi (12,8): "Nếu
người mẹ không đủ khả năng kiếm đủ tiền mua con vật, thì có thể dùng đôi phim
gáy hay một cặp bồ câu. Đó! đúng là lễ vật của người nghèo. Maria đã không thể
làm gì hơn được. Bà không thể trả tiền cao hơn! Đó là điều mà Luca nhằm gợi lên
cho ta, nếu ta biết đoán ra ý người viết, và ta biết rằng toàn bộ Tin Mừng của
ông sẽ là "tin vui cho người nghèo (Lc 4,18). Phải, toàn bộ Tin Mừng đã
nằm ở trang này, bề ngoài xem ra đầy hình ảnh dân gian. Phúc thay những người
nghèo, vì nước trời là của họ.
Được "thánh hiến" cho Thiên
Chúa... điều đó không đòi hỏi những dấu hiệu huy hoàng. Mọi người nghèo trên
thế giới với áo quần rách rưới, lại "xứng đáng" với Thiên Chúa và
được thánh hiến... Những người nghèo được "thánh hiến"! Tôi có kính
trọng họ không?
Cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều
người Israel
phải hư vong hay được ơn cứu độ, cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng.
Đức Giêsu cũng là một "dấu
hiệu", một "dấu hiệu bị chống báng", một "dấu hiệu mà người
ta có thể phủ nhận". Thiên Chúa không muốn áp đặt. Người đã trao ban tự
do. Người chấp nhận " dấu chỉ tình yêu của Người có thể bị người đời chối
bỏ! Péguy sẽ nói: "Những khúm núm lụy phục của kẻ nô lệ không nói lên cho
Người điều gì cả". Như thế mỗi người phải tự quyết định trước trường hợp
"Giêsu" Ta có thể từ chối Ngài, nghĩa là phải hy vọng, phải quỳ
xuống... ta có thể đón nhận Người, nghĩa là được ơn cứu độ được nâng lên...
Ngay tại trang này, ta đã có Đấng
"Thẩm phán vũ trụ", Đấng phân chia loài người ra làm hai trong Ngày
cánh chung (Mt 25-31). Lạy Chúa xin nâng con lên. Xin giúp con biết chọn Chúa.
Khi hai ông bà đã làm xong mọi việc như
luật Chúa truyền, thì trở về nơi cư ngụ là thành Nagiarét, miền Galilê, còn hài
nhi ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh... tiến triển...
Cuộc hành trình lên thủ đô đã kết thúc.
Đôi vợ chồng trẻ lại trở về miền quê tăm tối của mình. Nhưng giờ đây, chính
Thiên Chúa luôn ở cùng. Người sắp sống tại xưởng thợ nơi gia đình. Dần dần,
Người sẽ tập sống làm người. Người sẽ học đời, học đi (ban đầu có thể lao đao,
rồi té xuống). Người sẽ học đọc tại trường, học nghề thợ mộc... ôi thôi! kéo
cưa của cậu mới 'tập sự' chưa giúp được việc gì. Những, Người cứ tập tành...
Người sẽ tiến bộ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét