CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: Gn 3,1-5.10; 1Cr 7,29-31; Mc
1,14-20
MỤC LỤC
1. Từ bỏ
2. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ
3. Sám hối
4. "Biết mình để sống đúng"
5. Năm mới người mới cả trời đất mới
6. Theo Chúa từ bỏ tất cả – Cố Lm. Hồng
Phúc
7. Sám hối và tin vào Tin Mừng – Radio
Veritas Asia
8. Thấy - Gọi - Bỏ - Theo
9. Đức Giêsu đến
10. Đáp trả lời mời gọi
11. Cộng tác với ơn Chúa
12. Đổi mới cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
13. Đôi tay của Chúa
14. Hãy theo Tôi
15. Sám hối
16. Hãy theo Tôi
17. Trở nên môn đệ
18. Chúa Giêsu công khai rao giảng -
JKN
19. Tuyển quân – Lm. Phêrô Bùi Quang
Tuấn
20. Bỏ nghề chài lưới mà theo Chúa
Giêsu
21. Chúa cần
22. Cộng tác với ơn Chúa
23. Lời mời gọi
1. Từ bỏ
Sống là chọn lựa. Chọn lựa từng giây
phút trước những hành động cuộc đời chúng ta. Và chọn lựa trước hết là gì? Nếu
phải từ bỏ. Thực vậy, nếu muốn lên Saigon , thì
phải từ bỏ con đường xuống Rạch Giá. Nếu muốn học giỏi, thì phải từ bỏ những
tháng ngày lãng phí thời gian. Nếu muốn làm làm giàu, thì phải từ bỏ sự ươn
lười, nhàn rỗi. Nếu muốn được cha mẹ yêu thương, thì phải từ bỏ những gì làm
cho các ngài buồn lòng. Sống là chọn lựa và chọn lựa có nghĩa là từ bỏ.
Tiến vào đời sống siêu nhiên cũng thế.
Muốn theo Chúa, muốn đáp trả lời mời gọi của Chúa, chúng ta phải chọn lựa,
chúng ta cũng phải từ bỏ. Abraham ngày xưa đứng trước lệnh truyền của Chúa, ông
đã phải từ bỏ quê hương và sự nghiệp để dấn thân vào một cuộc phiêu lưu không
định hướng. Hơn thế nữa, ông còn sẵn sàng từ bỏ cả đứa con duy nhất, sẵn sàng sát
tế Isaác để làm lễ vật dâng kính Thiên Chúa. Các tông đồ ngày hôm nay cũng vậy.
Các ông đã bỏ cha già, bỏ gia đình, bỏ ghe thuyền, bỏ chài lưới nghĩa là các
ông đã từ bỏ tất cả để lên đường theo Chúa. Hay như Phanxicô Khó Khăn, đã từ bỏ
đến cả manh áo che thân trước sự ngăn cản của gia đình để được hoàn toàn tự do
bước theo Chúa.
Từ bỏ gia đình, từ bỏ tiền bạc, từ bỏ
thời giờ để theo Chúa đã là một chuyện khó, nhưng điều quan trọng hơn Chúa đòi
chúng ta phải từ bỏ, đó là từ bỏ chính bản thân mình. Những sợi dây níu kéo
chúng ta lại với mặt đất, những chướng ngại vật ngăn cản bước chân chúng ta
theo Chúa, đó là những thói hư tật xấu, những đam mê tiền bạc hay những khát
vọng không chính đáng. Để bước theo Chúa, việc đầu tiên mà chúng ta phải thực
hiện đó là dứt bỏ những níu kéo ấy, là khử trừ những khuynh hướng lệch lạc, là
từ bỏ những ước vọng trần tục. Từ bỏ tiền bạc, từ bỏ tiện nghi vật chất đã là
chuyện khó, nhưng chưa đến nỗi cam go vì tiền bạc và vật chất là những cái còn
ở bên ngoài chúng ta. Chứ từ bỏ những đam mê, những ước muốn xấu xa mới là
chuyện cam go vì đam mê, và ước muốn bén rễ sâu trong con tim chúng ta. Nó làm
thành chính bản tính, chính bộ mặt thực sự, chính cái phần sâu thẳm nhất nơi
mỗi người chúng ta. Và đó cũng chính là điều mà Chúa đòi buộc chúng ta phải từ
bỏ.
Nhưng tại sao chúng ta phải từ bỏ? Vì
Chúa Giêsu đã dạy: Con đường vào Nước Trời thì nhỏ hẹp. Con đường nhỏ hẹp ấy
chẳng phải là ngõ cụt, nhưng nó sẽ dẫn chúng ta đến hạnh phúc, đến biển cả của
tình yêu là chính Thiên Chúa. Đã là một con đường nhỏ hẹp thì chúng ta không
thể bước đi trên đó với những hành lý cồng kềnh. Và những hành lý cồng kềnh của
chúng ta là gì nếu không phải là tiền bạc, vật chất, đam mê, khát vọng và thói
hư tật xấu. Chúng ta phải từ bỏ thì mới có thể tiến bước. Như một người leo núi
chỉ mang theo những dụng cụ tối thiểu nhưng cần thiết, nếu không thì người ấy
mãi mãi chỉ ở dưới chân núi mà thôi. Hơn nữa Chúa Giêsu cũng đã nhắn nhủ: Nếu
ai muốn cứu mạng sống thì sẽ mất, nghĩa là nếu chúng ta cứ bấu víu vào những
thực tại trần thế, nếu chúng ta cứ nắm chặt lấy cuộc sống vật chất, thì chắc
chắn chúng ta sẽ đánh mất cuộc sống vĩnh cửu. Chúng ta phải từ bỏ thì mới có
thể được sống, như hạt lúa gieo trên ruộng đồng, phải mục nát thì mới đâm bông
kết trái.
Một khi đã dứt bỏ được những níu kéo
bên ngoài, một khi đã dứt khoát bỏ được những vấn vương bên trong. Một khi đã
từ bỏ được những quyến luyến trần thế, một khi đã từ bỏ được những khát vọng
bất chính, lúc bấy giờ chúng ta sẽ như một cánh chim bay bổng về với Chúa, lúc
bấy giờ chúng ta mới chính thức chọn lựa Chúa. Bấy giờ chọn lựa sẽ không chỉ
còn là một từ bỏ mà chọn lựa còn có nghĩa là nói chấp nhận.
Thực vậy, chúng ta chấp nhận Chúa,
chúng ta chấp nhận con đường nhỏ hẹp, chúng ta chấp nhận thập giá trong cuộc sống.
Muốn được như vậy thì chúng ta phải có một tình yêu, yêu mến Thiên Chúa, và với
hương vị của tình yêu, chúng ta sẽ thắng vượt được mọi khó khăn. Với Chúa đi
trong cuộc sống, chúng ta không còn bị thất bại. chúng ta sẽ thâu lượm những
kết quả tốt đẹp như mẻ lưới lạ lùng của các môn đệ.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, để
mỗi người biết dẹp bỏ những cản trở trong cuộc sống, và để từng giây phút chúng
ta chọn lựa, chúng ta chấp nhận và chúng ta bước theo Chúa.
2. Phẩm chất đầu tiên của người môn đệ
(Trích trong 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Khi bắt đầu thời kỳ công khai lên đường
thi hành sứ vụ, việc đầu tiên Chúa Giêsu làm là tuyển chọn một số môn đệ nòng
cốt để tiếp tay và nối gót Người rao giảng Tin Mừng và xây dựng Hội Thánh.
Đây là một nhiệm vụ vô cùng trọng đại
cao cả nhưng đồng thời cũng đầy gian truân và thách thức, thế nên cần phải
tuyển cho được những ứng viên phù hợp.
Trong các thành phần dân chúng thời đó,
chúng ta thấy nổi bật nhất là các tư tế ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Họ là những
người ngày đêm ứng trực trong đền thờ lo việc thờ phượng tế lễ Thiên Chúa. Xem
ra họ là những ứng viên sáng giá nhất cho công cuộc loan báo Tin Mừng và xây
dựng Hội Thánh. Thế nhưng Chúa Giêsu đã không chọn bất cứ ai trong số các vị ấy
làm tông đồ xây dựng Hội Thánh Người.
Kế đó, thành phần Luật sĩ, những người
học rộng và thông thạo thánh kinh. Có ai xứng đáng hơn họ trong việc giải thích
và loan truyền Lời Chúa? Có ai giàu kiến thức về đạo lý bằng họ? Thế mà Chúa
Giêsu cũng không chọn một ai trong số các vị nầy làm tông đồ của Người.
Thành phần thứ ba cũng rất sáng giá là
các người biệt phái. Họ giữ luật rất nhiệm nhặt, có đời sống đạo rất nghiêm
túc. Những người như thế cũng đáng làm đầu thiên hạ và lãnh đạo người ta. Thế
mà Chúa Giêsu cũng không chọn bất cứ người biệt phái nào làm tông đồ cho Người.
Chúa Giêsu cũng không chọn những người
có vai vế trong xã hội, những người giàu sang quyền quý làm môn đệ đầu tiên của
Người.
Tin Mừng hôm nay cho thấy sự chọn lựa
của Chúa Giêsu khiến chúng ta kinh ngạc:
"Người đang đi dọc theo biển hồ
Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng lưới xuống
biển, vì họ làm nghề đánh cá. Người bảo họ: "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ
làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." Lập tức hai ông bỏ
chài lưới mà đi theo Người.
Đi xa hơn một chút, Người thấy ông
Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gioan. Hai ông này đang vá lưới
ở trong thuyền. Người liền gọi các ông. Và các ông bỏ cha mình là ông Dê-bê-đê
ở lại trên thuyền với những người làm công, mà đi theo Người."
Chúa Giêsu đã chọn bốn ngư phủ là
Simon, An-rê, Gioan, Giacobê, làm môn đệ đầu tiên trong lúc họ đang quăng chài
kéo lưới hoặc đang vá lưới trong thuyền. Tại sao?
Các ngư phủ là những người dạn dày
sương gió. Họ quen chịu giá lạnh giữa biển khơi; từng trải qua những đêm tối
giữa sóng gió trùng khơi; không sợ đói, không sợ rét, không sợ bão tố cuồng
phong, không sợ cảnh chơi vơi giữa ba đào sóng gió. Nói chung, họ bất chấp mọi
khó khăn, gian khổ và nghịch cảnh để đạt cho bằng được nguyện vọng của mình.
Họ là những người đầu tiên được Chúa
Giêsu chiếu cố và mời gọi làm môn đệ loan Tin Mừng, làm những trụ cột nòng cốt
trong công trình xây dựng Hội Thánh.
Điều nầy cho thấy phẩm chất đầu tiên để
làm môn đệ Chúa Giêsu là không ngại gian truân, sẵn sàng hy sinh để thực hiện
mục tiêu mong muốn.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã kêu gọi chúng con làm tông đồ
cho Chúa trong xã hội hôm nay. Xin ban ơn giúp chúng con sẵn sàng vượt khó, dám
đương đầu với mọi thách thức và sóng gió như các môn đệ đầu tiên hầu có thể chu
toàn trọng trách mà Chúa và Hội Thánh trao phó cho chúng con.
3. Sám hối
Hãy sám hối và tin vào Phúc Âm.
Hẳn chúng ta còn nhớ câu chuyện về
thành Ninivê mà bài đọc thứ nhất hôm nay đã gợi lại. Bấy giờ Chúa phán với ông
Giona: Hãy chỗi dậy, đi đến Ninivê, kinh thành vĩ đại và công bố cho hay điều
Ta sẽ truyền cho ngươi. Ninivê là một thành phố rộng lớn, đi ngang qua phải mất
ba ngày đàng. Ông Giona mới đi rảo trong thành có một ngày và công bố: Còn 40
ngày nữa thì Ninivê sẽ bị tan phá. Dân chúng tin vào Thiên Chúa. Họ công bố
lệnh ăn chay và tất cả mọi người từ lớn chí bé đều mặc áo vải thô. Chúa thấy
việc họ làm, từ bỏ đường gian ác, thì đã tha thứ và không trừng phạt họ nữa. Đó
là câu chuyện xảy ra trong Cựu Ước. Dân thành Ninivê thực thi sứ điệp tiên tri
Giona truyền dạy, đó là ăn năn sám hối, từ bỏ con đường tội lỗi và đã được Chúa
thứ tha.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu
cũng đã kêu gọi chúng ta như thế: Nước Thiên Chúa đã đến gần, nên phải sám hối
và tin vào Phúc Âm. Chúa Giêsu rất nhiều lần đã cho chúng ta thấy: Là Đấng
thánh thiện Ngài ghét bỏ tội lỗi, nhưng lại tỏ ra khoan dung và nhân từ đối với
các tội nhân. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử lên đường tìm kiếm con
chiên bị lạc mất. Và khi tìm thấy, thì vui mừng vác nó trên vai, đem về nhà.
Ngài sánh ví mình như người đàn bà đốt đèn tìm kiếm đồng bạc bị đánh rơi và khi
tìm thấy thì mời chị em lối xóm đến chia vui với mình.
Thế nhưng để được Chúa tha thứ, Ngài
đòi hỏi chúng ta một điều kiện đó là hãy sám hối quay trở về với Ngài. Phúc Âm
đã kể lại câu chuyện chàng trai phung phá. Trong bước đường truân chuyên gian
khổ, chàng đã hối hận, quyết tâm lên đường trở về để rồi cuối cùng chàng đã
được người cha tha thứ.
Phúc Âm cũng đã cho chúng ta thấy sở dĩ
Phêrô đã được tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội vì ông đã biết đấm ngực ăn
năn về lầm lỗi của mình. Mađalena đã được tha thứ vì đã biết sám hối, khóc cho
quãng đời tội lỗi của mình. Tên trộm lành cũng đã được tha thứ vì anh đã biết
trở về với Chúa cho dù vào những giây phút cuối cùng.
Có một chàng trai, bất mãn với gia đình
đã bỏ nhà đi bụi đời. Sau đó chàng hối hận muốn quay trở về nhưng không biết
cha mẹ có sẵn sàng tha thứ cho hay không. Bởi đó chàng đã viết thư và nói nếu
thầy mẹ sẵn sàng tha thứ thì đến ngày ấy giờ ấy hãy treo một tấm áo nơi cửa sổ.
Nhận thấy tín hiệu ấy, chàng sẽ trở về. Vào ngày giờ đã quy định thầy mẹ chàng
không những chỉ treo một tấm áo, mà trong nhà có bao nhiêu quần áo, rồi chăn
mùng mền, tất cả đều được treo trên các khung cửa và chàng đã được đón nhận vào
trong tình thương của gia đình.
Từ những điều vừa chia sẻ cha muốn đi
tới một kết luận đó là hãy sám hối quay trở về cùng Chúa để được hưởng nhờ tình
thương của Chúa bởi vì những tâm tình ăn năn là như một thứ tiền để mua lấy ơn
tha thứ.
4. "Biết mình để sống đúng"
(Trích trong 'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm.
Giuse Tạ Duy Tuyền)
Có một lúc nào đó trong cuộc đời, chúng
ta vẫn thường tự hỏi: Tôi là ai? Tôi sinh ra trong cuộc đời này làm gì? Chết
rồi đi đâu? Đây là những câu hỏi quyết định hướng đi của một đời người, nó
quyết định phận số của một con người. Sống có ích cho xã hội hay trở thành gánh
nặng cho xã hội cũng tuỳ thuộc vào chọn lựa cơ bản này của từng người chúng ta.
Người ta kể rằng: thuở xưa khi con
người chưa biết soi gương trang điểm nên họ cũng chẳng biết mình là ai? Và
khuôn mặt mình thế nào? Một lần kia, anh chồng lên tỉnh thành, người vợ dặn
chồng nhớ mua cho mình một cái trâm cài đầu. Nhưng anh không biết cái trâm hình
thù như thế nào. Chị vợ liền nhìn trời thấy ánh trăng lưỡi liềm liền nói:
"Cái trâm nó giống như ánh trăng kia, nếu anh quên anh cứ nhìn lên ánh
trăng thì sẽ nhớ.
Người chồng lên đường mải miết xem bao
cảnh lạ ở tỉnh thành mãi mười ngày sau mới trở về quê nhà. Anh sực nhớ lời vợ
dặn, anh liền nhìn lên trời và thấy ánh trăng tròn trịa của đêm trăng rằm, anh
liền vào tiệm và mua một cái gương tròn trịa như ánh trăng theo lời vợ dặn.
Lòng vui rộn ràng khi vừa về tới nhà
vội trao cho vợ cái gương mà anh đã mua từ tỉnh thành. Tưởng rằng vợ sẽ vui
mừng với món quà anh đưa về, thế nhưng, khi vừa nhìn vào đồ vật, cô vợ đã tức
giận và quát tháo rằng: "Tôi dặn anh mua cái trâm cài đầu, tại sao anh lại
đem về một đứa con gái nào đây?". Anh chồng giật mình, dành lại cái gương
và nhìn xem chuyện gì xẩy ra. Anh nhìn vào gương lại thấy một người đàn ông
trông giống bố mình hồi còn trẻ, nên anh phân bua rằng: Không, đây là bố tôi
mà! Cô vợ dành lại và nói: bố ông bao giờ, con nào rõ ràng. Ông còn chối hả?
Đính chính chẳng được, nên anh chồng đành bỏ đi. Mẹ chồng thấy vậy đến an ủi
con dâu, và người con dâu đưa cho mẹ chồng coi bằng chứng rõ ràng thế mà anh
chồng còn chối quanh quẩn. Mẹ chồng xem qua rồi trịnh trọng nói: Thôi đừng ghen
nữa! Tao thấy con này không đáng ghen đâu. Tao thấy, nó cũng già lắm rồi!
Đó là câu chuyện vui nhưng cũng nói lên
một chân lý: nếu không biết mình thì sẽ làm khổ mình và khổ người khác. Chúa
Giê-su cũng từng nói: "Mù dắt mù thì cả hai đều rơi xuống hố". Đó
cũng là quang cảnh của xã hội chúng ta đang sống. Một xã hội đầy những bóng tối
của tội lỗi, của sa đoạ, cúa ích kỷ và hưởng thụ đã làm cho nhiều người mù
quáng để chạy theo những đam mê lầm lạc, lạc mất hướng đi của đời người, dìm
mình trong bóng tối của danh lợi thú. Nhiều người đã không còn ý thức giá trị
đạo đức con người nên họ sẵn sàng đánh mất phẩm giá của mình và chà đạp lên
phẩm giá của người khác. Họ không còn biết mình là ai? Sống để làm gì? Họ như
những người lạc hậu trong câu chuyện đã không biết mình, nên gây ra những mâu
thuẫn, hiểu lầm không đáng có. Thực vậy, nhiều người trong xã hội hôm nay, đã
không hiểu rõ ý nghĩa cuộc sống nên buông thả trong những đam mê tội lỗi. Họ
tưởng rằng, con người sinh ra, lớn lên, chết là hết nên chẳng cần sống theo lẽ
phải, hay sống theo luân thường đạo lý, dẫn đến tội lỗi ngập tràn, cuộc sống
đầy chiến tranh, loạn lạc.
Vì vậy, sứ điệp đầu tiên mà Chúa gửi
đến nhân loại chính là: "Hãy sám hối". Sám hối để bước ra khỏi bóng
đêm của tội lỗi, ganh tương, đố kỵ và chia rẽ để bước vào ánh sáng của yêu
thương và hiệp nhất. Chúa Ky -tô chính là ánh sáng cho thế gian. Từ nay
tin mừng cứu độ của Chúa sẽ soi sáng cho con người biết đâu là thiện, là ác, vì
chính Ngài là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Và ai theo Ngài sẽ không phải đi
trong tối tăm, nhưng bước đi trong tự do của con cái sự sáng.
Thế nhưng, nhân loại hôm nay vẫn thích
bóng tối hơn ánh sáng. Người ta sợ ánh sáng của tin mừng sẽ phơi bày bộ mặt
thật của mình nên che dấu bằng thủ đoạn, lừa đảo và giả hình, và dần dần đánh
mất ý thức về tội. Tội lỗi vẫn lan tràn. Con người tự làm khổ mình, làm khổ
nhau bởi chính tội lỗi mình gây ra.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết nhìn
lại mình để biết mình. Biết những giới hạn và bất toàn để sửa đổi. Biết những
khiếm khuyết để bổ túc và canh tân. Biết tội lỗi mình để sám hối. Xin Chúa giúp
chúng ta biết sám hối từng ngày để canh tân đổi mới cuộc đời trong chân lý và
tình yêu của Chúa. Amen.
5. Năm mới người mới cả trời đất mới
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh
Liêm)
Đức Yêsu rao giảng: "Đã đến thời.
Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng." Tết đã đến gần, đây cũng là dịp để mỗi
người chúng ta nhìn lại mình trong năm vừa qua, để với năm mới chúng ta trở
thành con người mới, bắt đầu một đời sống mới, một con người hạnh phúc với
chính mình, dễ thương và quảng đại đối với người khác.
1) Đức nhân thắng số
"Đức nhân thắng số" là không
chỉ là câu nói của đa số bình dân, nhưng cả của những người tin vào "tiền
định," tin vào "số mạng" nữa. Câu này có nghĩa: một người ăn ở
có đức có nhân, thì sẽ đổi được số mạng của mình. Với những người tin vào
"tiền định" hoặc "số mạng," câu nói này thực hữu ích.
Trong cuộc đối thoại giữa Abraham và
Thiên Chúa, người ta thấy chỉ cần mười người công chính có thể cứu được cả một
thành phố gian ác đáng bị tru diệt (St.18, 32). Người tốt không chỉ cứu được
mình, mà còn cứu được cả người khác nữa. Trong sách Giô-na hôm nay, dân thành
Ninive đã đổi được ý định của Thiên Chúa. Thiên Chúa truyền lệnh cho tiên tri
Giô-na báo cho dân thành Ninive biết ý định huỷ diệt thành phố của Thiên Chúa,
dân không chỉ tin vào lời tiên tri, nhưng còn tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa
nữa, nên họ đã sám hối và được cứu. Như vậy, thái độ sống của con người có thể
đổi được ý định của Thiên Chúa nữa. Cái "số" bị phạt của dân Sôđôma
và dân Ninive, là do hậu quả của những hành vi bất chính của họ. Chính thái độ
sống trong quá khứ của họ, mang lại "số phận" cho họ! Và cũng chính
thái độ sống "hiện tại" của họ, đổi được "vận số" của họ!
Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương nên Ngài chỉ muốn điều tốt cho con người; Ngài
chỉ muốn con người sống yêu thương và hạnh phúc. Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ tự
nhiên, và định cho nó có luật của nó, vật chất có luật vật lý; sinh vật sống
theo bản năng, đây cũng là một loại luật của sinh vật; với con người, Ngài ban
cho lý trí và ý muốn, để tự do và làm chủ tất cả. Yêu thương là hành vi vượt
qua mọi định luật, hành vi yêu thương cứu được chính mình và cứu được người
khác nữa. Chẳng hạn, hành vi yêu thương nuôi nấng dạy dỗ một em bé bị bỏ rõi,
đổi được đời em bé và còn đổi được đời cả người nuôi em bé đó nữa.
2) Thế giới này đang qua đi
Con người không chỉ bị chi phối bởi luật
vật lý tự nhiên, nhưng còn bị chi phối rất nhiều bởi những yếu tố tâm lý. Những
hành vi làm vì muốn chứng minh mình trổi trang hơn người khác, những hành vi
trả thù, v.v. là những hành vi "nô lệ." Hận thù không được tha thứ,
sẽ nối tiếp và chồng chất hận thù. Những người thực hiện những hành vi này bị
nô lệ hoặc bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn "hèn hạ" mà thường họ
không ý thức.
Thư của thánh Phao-lô hôm nay nhắc nhở
con người một chân lý: thế gian này đang qua đi. Con người được sinh ra, lớn
lên, già đi, và chết. Hiện tại, người ta biết mình; nhưng mười năm sau, còn ít
người biết mình; một trăm năm sau, e rằng chẳng ai biết mình nữa. Nếu tất cả
vật chất đang biến đổi, đang qua đi, thì tại sao người ta lại miệt mài, đam mê
đi tìm kiếm vật chất hoặc những thú vui mau qua, hoặc thoả mãn chính mình!
Khi nhắc nhở con người về thực trạng
"thế giới này đang qua đi," thánh Phaolô muốn giúp con người nhận ra
sự thật về chính mình, và nhắn nhủ con người hãy đi tìm cái gì cao quý và
trường tồn. Như vậy điều quý không hệ nơi vật chất đang qua đi, nhưng là chính
con người "vĩnh tồn" của mình. Những hành vi từng ngày làm nên chính
con người của mình. Những hành vi yêu thương làm mình trở nên tuyệt vời ngay
giữa trần thế đang qua đi này, và cũng làm mình tuyệt vời trong vĩnh cửu nữa.
3) Hãy sám hối và tin vào tình yêu
Thiên Chúa.
Đức Yêsu khởi đầu sứ vụ công khai bằng
lời rao giảng: "Thời giờ đã đến. Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng. Hành vi
sám hối đi liền với hành vi nhận ra sự thật "không đẹp" của chính con
người mình. Không thể có hành vi sám hối mà không có sự nhận thức đúng đắn về
con người mình. Lời mời gọi sám hối, hàm chứa lời mời gọi xét lại chính con
người của mình: tôi có thực sự là người tốt chưa, thành toàn chưa?
Tôi là người như thế nào đối với người
ta, đối với tôi, và đối với Thiên Chúa. Có những người đi tìm và cố gắng trở
thành "người tốt" theo đánh giá của người khác; những người này đang
nô lệ mà không biết. Cũng có người đặt ra cho mình một giá trị, và cố gắng để
thành người "thành toàn" theo ý họ; và khi họ không đạt được hoặc
không làm chủ được họ hoàn toàn, họ thất vọng và buồn chán. Điều đúng đắn nhất
là làm sao để mình đánh giá mình và mọi sự trong nhãn quan của Thiên Chúa Yêu
Thương.
"Đây là lúc thuận tiện, đây là
ngày cứu độ" (2Cor.6, 2). Mỗi người hãy nhìn lên Thiên Chúa là Đấng Yêu
Thương, là Đấng chỉ biết yêu thương và làm tất cả vì yêu thương. Mỗi người cũng
chỉ bị phán xét về duy một điều là mình có làm mọi sự vì yêu thương không thôi
(Mt.25, 31tt). Những lầm lỗi trong quá khứ tuy quan trọng nhưng không quan
trọng lắm. Điều rất quan trọng là tin vào Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương. Ngài
mời gọi mỗi người hãy sống yêu thương như Ngài. Chính hành vi yêu thương làm
mình triển nở, hạnh phúc, và cũng làm cho người khác triển nở và hạnh phúc. Những
hành vi không làm cho người khác triển nở và hạnh phúc, e rằng đó không phải là
hành vi yêu thương thật sự. Nếu tôi sống tốt lúc này, những người quanh tôi
sống bình an; nếu tôi không sống tốt, làm hại người khác, thì làm những người
đó khổ, và cả tôi cũng khổ, và những người thân yêu của tôi cũng không được
thoải mái và hạnh phúc vì tôi. Yêu thương, là hành vi làm con người thành tuyệt
vời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có tin vào số mạng không? Tin
vào số mạng có hợp với đức tin Kitô giáo không? Tại sao?
2. Bạn có tin tử vi, coi bói, coi chỉ
tay, tướng số không? Tại sao bạn tin và tại sao bạn không tin? Tin vào những
điều này có hợp với đức tin Kitô giáo không?
3. Để là một con người mới, điểm chính
yếu là gì?
6. Theo Chúa từ bỏ tất cả – Cố Lm. Hồng
Phúc
Tin Mừng hôm nay dạy chúng ta tiếp tục
suy tư về mầu nhiệm ơn gọi.
Trong ơn gọi của các môn đệ đầu tiên
của Chúa Giêsu, chúng ta thấy gì? Chúng ta thấy Chúa Giêsu đã đi bước trước.
Ngài đi qua, nhìn thấy và kêu gọi. Marcô nói: "Ngài đi lên núi và gọi những
kẻ người muốn lại gần..." (3,13). Ngài chọn những ai Ngài muốn và không
hẳn là những người xứng đáng nhất, vì không ai có thể tự cho là xứng đáng cả.
Sau này, Ngài sẽ nhắc lại cho họ: "Không phải chúng con đã chọn Thầy,
nhưng là Thầy đã chọn chúng con" (Gio. 15,16). Người kêu gọi họ tại chính
nơi họ ở, chỗ họ làm việc: Bốn vị đầu tiên trong khoang thuyền, ngoài bãi biển,
một vị khác ngay nơi bàn đổi bạc (2,14), và một vị khác đang đứng suy tư dưới
bóng cây vả (Ga. 1,50)... Mỗi ơn gọi là một cử chỉ tình thương, Ngài đến với
ta, đi tìm và tuyển chọn ta.
Và Người nói gì?
Một câu rất đơn sơ nhưng đầy ánh sáng:
"Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới
người." Tuy nhiên, đây không phải là một cuộc chọn bạn đi chơi, một thời
gian rồi tan hàng rã đám. Mà theo Ngài thì Ngài đòi hỏi rất nhiều. Đòi hỏi gì?
Ngài đòi hỏi tất cả: phải từ bỏ mọi sự, từ bỏ luôn mãi và từ bỏ cả mạng sống vì
Ngài nữa!
Hỏi rằng, ngoài Chúa ra, có ai có thể
đòi hỏi khắt khe như vậy? Có tình yêu nào ghen tị đến mức độ như vậy?
Văn hào Montalembert có một cô con gái
dâng mình làm nữ tu. Ông viết: "Người tình ấy là ai, chết treo trên cây
thập giá mà có thể lôi kéo như vậy? Người tình ấy là ai mà có một sức hấp dẫn
không cưỡng lại được, như một con chim mồi sà xuống và cuốn đi? Phải chăng đó
là một người? Không. Đó là Thiên Chúa. Đó là bí ẩn, đó là chìa khóa đưa vào cõi
thâm sâu. Chỉ có Thiên Chúa mới có thể thành công và đòi hỏi một cuộc hy sinh
như thế."
Bà Thánh Jeanne-Francoise Chantal
(1572-1641) là một bà mẹ đạo đức. Sau khi chồng qua đời, bà lo nuôi dưỡng, giáo
dục và tác thành cho bốn con, có nơi có chốn tự lập được. Bà nghe tiếng Chúa
gọi sống đời tận hiến, giúp đỡ người nghèo. Nhưng ngày bà quyết định ra đi thì
các con ngăn cản và nằm ngang chận cửa. Nước mắt tràn trụa, Bà nói: "Dầu
sao tôi cũng là một Bà Mẹ". Nhưng tình thương Chúa mạnh hơn tình mẫu tử,
Bà bước qua con và đi Annecy, lập nên Dòng Thăm Viếng, tháng 6 năm 1610.
Họ ra đi theo tiếng gọi của Chúa, nhưng
đối lại, Chúa hứa ban cho họ những gì? Thật lạ lùng! Ngài không hứa ban cho họ
một cuộc sống dễ dãi đầy tiện nghi vì chính Ngài cũng "Không có một hòn đá
gối đầu!" Ngài không hứa ban chức tước, đường hoạn lộ tiến thân, vì Ngài
truyền dạy phải chọn chỗ tốt nhất, không được tự gọi là Thầy, là Cha mà chỉ là
tôi tớ. Ngài không hứa ban cho một cuộc sống nhàn hạ, vì "ai đã ra tay cầm
cày, thì không được ngó lui." Vậy, Ngài hứa gì? Thưa: Một đời sống dấn
thân phục vụ các linh hồn, một đời sống vất vả đi "chài lưới người",
bắt từng cá nhân, từng tập thể. Có những lúc thức trắng đêm mà không bắt được
con cá nào, có những sáng tinh sương, chèo thuyền không về bế! "Thưa Thầy,
chúng con mệt nhọc suốt đêm mà chẳng được gì?" Nhưng Chúa phán: "Hãy
chèo ra khơi thả lưới". Phêrô, đại diện các bạn trả lời: "Vì lời
Thầy, con sẽ thả lưới" (Lc. 5,5). Nhất là một lời hứa quan trọng nhất mà
Ngài để lại cho các môn đệ ngày giã biệt ra đi vào chốn vinh quang: "Lạy
Cha, những kẻ Cha ban cho con thì con muốn rằng con ở đâu chúng cũng ở đấy với
con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho con..." (Gio.
17,24). Cũng như lời hứa mà Đức Mẹ khi hiện ra ở Lộ Đức đã nói với Bernadetta,
vị thụ khải của Mẹ: "Mẹ không hứa cho con hạnh phúc ở trần gian mà hạnh
phúc trên trời."
"Lạy Chúa, xin chỉ cho tôi đường
đi của Chúa,
Xin dạy bảo tôi về lối bước của Ngài.
Xin hướng dẫn tôi trong chân lý và dạy
bảo tôi,
Vì Chúa là Thiên Chúa cứu độ tôi"
(Tv. 24,4 – Đáp ca)
7. Sám hối và tin vào Tin Mừng – Radio
Veritas Asia
(Trích trong 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Trong sưu tập về các thánh ẩn tu trong sa
mạc, có kể giai thoại như sau: Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay
đền tội. Nguyên một năm ròng rã, mỗi người giam mình trong một túp lều riêng,
ngày đêm ăn chay, cầu nguyện và đánh tội. Ngày ngày các tu sĩ của cộng đoàn nọ
đem thức ăn đến tận căn lều riêng cho từng người. Sau đúng một năm thử thách,
các tu sĩ nhận thấy có sự khác biệt giữa hai người: một người thì vui vẻ, khỏe
mạnh; một người thì ốm o buồn phiền. Cả hai đến trình diện trước Bề Trên cộng
đoàn để chờ xem họ có xứng đáng được gia nhập cộng đoàn hay không. Khi được hỏi
suốt một năm qua, họ đã suy niệm về những gì.
Người ốm o buồn sầu cho biết:
- Trong năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại
những tội đã phạm, từng giây từng phút tôi nhớ đến những hình phạt sẽ gánh
chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.
Đến lượt mình, người vui vẻ khỏe mạnh
trả lời:
- Suốt một năm qua, từng giây từng
phút, tôi hằng cảm tạ Chúa vì đã tha thứ cho tôi: tôi luôn nghĩ tới tình yêu
của Ngài.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích
trước tâm tình của người vui tươi khỏe mạnh vì lòng sám hối của anh đã biến
thành lời ca cảm tạ tri ân tình yêu Chúa.
Sám hối là khởi đầu của sự nên thánh.
Dĩ nhiên, không phải tất cả những vị thánh đều bắt buộc phải là những tội nhân,
nhưng tất cả đều phải bắt đầu với ý thức về tội lỗi và sự yếu hèn của mình.
Càng ý thức về con người tội lỗi, bất toàn của mình, con người càng cảm nhận
được tình yêu của Chúa. Đó là cảm nhận của vua Đavít, của thánh Phêrô, của
thánh Augustinô và của tất cả các vị đại thánh trong lịch sử Giáo Hội.
Lời đầu tiên Chúa Giêsu dùng để khai
mạc sứ mệnh của Ngài chính là: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng".
Chúa Giêsu đã nối kết sám hối với Tin Mừng. Tin Mừng là gì, nếu không phải là
tình yêu Thiên Chúa được thể hiện qua con người Chúa Giêsu Kitô. Sám hối không
chỉ là ý thức và hồi tưởng về tội lỗi của mình; sám hối đích thực không dừng
lại ở buồn phiền, sợ hãi và thất vọng, mà là ngõ tất yếu dẫn đến Tin Mừng,
nghĩa là vui mừng, hoan lạc.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu mạc khải qua
cuộc sống và nhất là qua cái chết của Ngài, là một người Cha muốn được con cái
yêu mến hơn là sợ hãi. Đạo mà Chúa Giêsu thiết lập không phải là đạo của buồn
phiền, của khổ đau, nhưng là đạo của Tin Mừng, của tình yêu, của hân hoan và hy
vọng. Đành rằng Thập giá là biểu tượng của Kitô giáo, nhưng người Kitô hữu
không dừng lại ở chết chóc, khổ đau, buồn phiền; trái lại họ luôn được mời gọi
để nhìn thấy ánh sáng, hy vọng, tin yêu và sự sống bên kia Thập giá.
Ước gì Lời Chúa hôm nay ban sức sống để
chúng ta không bị đè bẹp dưới sức nặng của tội lỗi, của yếu hèn. Xin cho chúng
ta luôn tiến bước trong hân hoan và tin tưởng, vì biết rằng Thiên Chúa là Cha
yêu thương, không ngừng nâng đỡ và tha thứ cho chúng ta.
8. Thấy - Gọi - Bỏ - Theo
(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao
Siêu)
Suy niệm:
Sau khi chịu phép rửa của Gioan ở sông
Giođan
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải rời
bỏ gia đình ở Nadarét, phải chia tay với người mẹ thân yêu, phải từ giã nghề
nghiệp mà mình đã theo đuổi mấy chục năm trời.
Sau khi nhận Thánh Thần từ trên xuống,
Đức Giêsu biết đã đến lúc mình phải lên
đường
dấn thân cho sứ mạng do Cha ủy thác.
Vùng Galilê là vùng Ngài bắt đầu rao
giảng Tin Mừng về Nước Trời (c.14).
Ngài mời người ta sám hối và tin vào
Tin Mừng mà Ngài rao giảng.(c.15).
Nhưng Đức Giêsu không nghĩ rằng mình có
thể tự mình làm mọi sự.
Ngài cần người cộng tác, dù nước Ítraen
chỉ là một nước bé nhỏ.
Đức Giêsu đi tìm môn đệ, và Ngài bắt
gặp các anh đánh cá nơi hồ Galilê.
Có hai đôi anh em ruột đã lọt vào mắt
của Ngài.
Ngài THẤY Phêrô và Anrê đang quăng lưới
bắt cá.
"Hãy theo tôi. Tôi sẽ làm các anh
thành những kẻ lưới con người" (c. 17).
Đây là một mệnh lệnh nhưng cũng là một
lời mời thân thương.
Ngài GỌI họ đi theo Ngài, theo chính
con người của Ngài,
chứ không phải theo một lý tưởng hay
một chủ nghĩa nào đó, dù là cao đẹp.
Theo Ngài sẽ dẫn đến một thay đổi lớn
nơi họ: từ lưới cá đến lưới con người.
Bây giờ con người là mối bận tâm của
họ, không phải là cá như xưa nữa.
Đức Giêsu cũng thấy cặp anh em ruột thứ
hai là Giacôbê và Gioan.
Họ đang vá lưới trong khoang thuyền với
người cha.
Khung cảnh cha con thật êm đềm, tưởng
như chẳng gì có thể làm xáo trộn.
Tiếng gọi của Thầy Giêsu vang lên, gây
cuộc chia ly.
Bốn anh đánh cá đầu tiên này đã BỎ để
dáp lại tiếng gọi của Thầy Giêsu.
Họ đã bỏ chài lưới, bỏ nghề dánh cá, bỏ
những thú vui của sông nước.
Hơn nữa họ còn bỏ gia đình, bỏ vợ, bỏ
cha, để gắn bó với Thầy Giêsu.
Họ bỏ một giá trị để sống cho một Giá
Trị lớn hơn,
bỏ một tình yêu để sống cho một Tình
Yêu lớn hơn.
Đức Giêsu đã có kinh nghiệm về sự đau
đớn khi phải từ bỏ như vậy.
Nhưng bỏ chính là để THEO (cc. 18.20).
Theo một Đấng sống không chỗ tựa đầu,
và bước vào cuộc phiêu lưu bấp bênh.
Hôm nay Đức Giêsu vẫn cần những con
người dám sống cho người khác,
dám bỏ lại những điều rất quý giá và
thân thương,
dám bỏ lại cuộc sống ổn định và ấm êm,
tiện nghi và dễ chịu.
Xin cho chúng ta nghe được tiếng gọi
thì thầm của Ngài và vui sướng đáp lại.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn
Simon,
một người đánh cá ít học và đã lập gia
đình,
để làm vị Giáo Hoàng đầu tiên của Giáo
Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội
trên một tảng đá mong manh,
để ai nấy ngất ngây trước quyền năng
của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con
theo Chúa, sống cho Chúa,
đặt Chúa lên trên mọi sự:
gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối
viện cớ mình kém đức kém tài.
Chúa đưa chúng con đi xa hơn,
đến những nơi bất ngờ,
vì Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh
của Simon,
bỏ mái nhà êm ấm để lên đường,
hạnh phúc vì biết mình đang đi sau
Chúa. Amen.
9. Đức Giêsu đến
(Suy niệm của Peter Feldmeier - Lm. GB.
Văn Hào SDB chuyển ngữ)
Thời kỳ đã mãn (Mc 1,15)
Có một lần người ta đã công bố, vào
ngày 21 tháng 5 năm 2011, Đức Giêsu Kitô sẽ trở lại và phán xử vũ trụ. Lời
tuyên bố rất rõ ràng, rất khẳng quyết và đầy xác tín. Đó là câu tuyên bố của
ông Harold qua chương trình phát thanh về gia đình. Chương trình phát thanh đã
quảng bá rộng khắp nguồn tin trên, kèm theo những lời cảnh báo. Một ít người đã
tin, và đã phân phát tài sản của mình cho bạn bè, cho hàng xóm và cho cả những
người không quen biết. Chúng ta thử nghĩ xem, ví dụ bạn đang có một căn nhà
sang trọng, hay một chiếc xe hơi đắt tiền, bạn nghe lời cảnh báo, và sẵn sàng
từ khước mọi sự, không màng đến những thứ đó nữa. Vào ngày 23 tháng 5, chương
trình phát thanh này lại công bố một lần nữa và xác nhận là Harold đã nói đúng.
Đức Kitô thực sự đã đến, nhưng theo như họ nói, Ngài đến một cách linh thiêng.
Cuộc phán xử đã xảy ra, nhưng nó diễn ra trong âm thầm và bí mật.
Nhưng đây không phải là lần đầu tiên có
người tuyên bố về ngày tận thế. Vào thế kỷ 19, ông William Miller cũng quy tụ
một số thân hữu lại, và loan báo Chúa Kitô sẽ đến vào ngày 21 tháng 3 năm 1844.
Nhiều người tin ông ta, và nóng lòng chờ đợi. Rồi ngày đó cũng qua đi. Một tín
đồ của ông Miller sau đó lại khẳng quyết, ngày Chúa đến sẽ được hoãn lại cho
tới 21 tháng 10 năm đó, và điều này đã được nói tới trong sách ngôn sứ Habacuc.
Những người theo ông Miller, tức môn phái: "Chờ đợi ngày thứ bảy của
Chúa", vẫn kì vọng như thế và họ tin là việc Chúa đến đã được thực hiện.
Nhưng theo họ, Chúa thực thi cuộc phán xét vũ trụ một cách thầm lặng chứ không
theo cách thái thông thường như người ta vẫn nghĩ tưởng.
Tuy nhiên, chúng ta thấy tư tưởng của
Harold và Miller, qua những hạn từ biểu tỏ sự chờ đợi và vui mừng, khá giống
với tư tưởng của Thánh Phaolô, có lẽ hơn hẳn chúng ta. Thánh Phaolô cũng nghĩ
rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại một cách bất ngờ, và Đấng Cứu thế sẽ đến ngay trong
thời đại của Ngài (1Thes 4,17). Tư tưởng xác quyết này càng rõ nét hơn trong
thơ thứ nhất gửi giáo đoàn Côrinthô, đặc biệt qua bài đọc phụng vụ của Chủ nhật
hôm nay. Thánh Phaolô khởi đầu đoạn văn với lời khẳng quyết: "Thời gian
chẳng còn bao lâu nữa" (1Cr 7,29). Ngài còn phác vẽ một viễn cảnh với năm
lời khuyên dạy "Từ nay, ai có vợ hãy sống như không có, ai khóc lóc hãy
làm như không khóc, ai vui mừng hãy sống như chẳng mừng vui, ai mua sắm hãy làm
như không có gì cả, kẻ hưởng dùng của cải đời này hãy làm như chẳng
hưởng." Tóm kết những lời khuyên đó, Thánh Phaolô nhấn mạnh đến động cơ và
lý do phải hành xử như thế, chính là "Vì bộ mặt thế gian đang biến
đi" (1Cr 7,31).
Thánh Phaolô đưa ra sứ điệp cấp thiết
trên, quy chiếu vào lời hiệu triệu của Đức Giêsu khi Ngài khởi sự ngày đầu tiên
đi rao giảng công khai. Marcô trình thuật lại lời kêu gọi và cảnh báo của Đức
Giêsu, mà bài Tin mừng hôm nay nhắc tới "Thời kỳ đã mãn, và triều đại
Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng". Nơi
cả 2 bản văn của Thánh Phaolô và của Thánh sử Marcô, ý niệm nói về "thời
gian" hay "thời kỳ", được dịch từ hạn từ Kairos. Từ ngữ Chronos
cũng nói về thời gian, nhưng đơn giản ám chỉ về thời gian đang xảy ra trong
hiện tại. Còn hạn từ Kairos lại nói về một thời kì đặc biệt, một thời cơ đem
đến cho ta, hay một thời khắc quan trọng của cuộc sống, ví dụ lúc chúng ta đang
rơi vào một khủng hoảng trầm trọng. Vì vậy, hạn từ Kairos được dùng ở đây muốn
nêu lên một điều quan trọng, đang xảy ra tại chính thời điểm này. Đức Giêsu
công bố điều quan trọng đó, đó là thời kỳ Thiên Chúa thực hiện ơn cứu độ cho
con người. Vì thế, Ngài mời gọi chúng ta phải sám hối. Sám hối, Metanoia, không
phải chỉ là việc chúng ta từ bỏ tội lỗi. Nhưng trên hết, hành vi sám hối là một
tư thế nội tâm, một động thái toàn diện nơi con người chúng ta để trở về với
Chúa. Chúng ta phải quyết tâm định hướng lại, từ suy nghĩ, đến con tim và trọn
cả đời sống, để quy về Thiên Chúa, đặt Ngài vào vị trí tối thượng nơi cuộc đời
chúng ta. Nước Trời đã đến gần, và Nước Trời mà Chúa Giêsu gợi nhắc, mời gọi
chúng ta phải thực sự biến đổi.
Thánh Marcô diễn tả lời gọi mời của
Chúa Giêsu ngỏ trao cho bốn môn đệ đầu tiên, như là một sức mạnh đến từ Thiên
Chúa. Đó là một lời cầu ngỏ cách tự nguyện, nhưng cũng là một mệnh lệnh hiển
thị qua uy quyền được diễn bày, mà con người không thể cưỡng lại. Mệnh lệnh đó cũng
đòi hỏi chúng ta phải đáp trả, ngay hôm nay và ngay lúc này. Trên bờ biển
Galilê, Chúa Giêsu đã thấy Phêrô và Anrê. Ngài truyền lệnh " Hãy theo
tôi". Sau đó Ngài gặp Giacôbê và Gioan, và cũng gọi hai ông với cùng một
dạng thức truyền lệnh giống như thế. Marcô thuật lại, ngay lập tức cả bốn ông
bỏ thuyền và lưới để đi theo Ngài. Giacôbê và Gioan còn bỏ lại cả cha của mình
cùng những người làm công trên thuyền. Các ông bỏ lại tất cả để đến với Chúa.
Uy quyền Đức Giêsu đã hoàn toàn chinh phục các ông.
Harold và William Miller đã tiên đoán
sai. Thánh Phaolô thì không dám khẳng quyết ngày giờ chính xác Đức Kitô sẽ trở
lại, cho dầu vị tông đồ vẫn kì vọng Chúa sẽ đến ngay trong thời đại của Ngài.
Sự kỳ vọng đó hiển nhiên cũng sai. Tuy nhiên, ở khía cạnh khác, chúng ta thấy
lời khuyên dạy của Thánh Phaolô và của Chúa Giêsu vạch dẫn cho ta thấy rằng
" Tin mừng mà Chúa Giêsu đem đến sẽ kiến tạo một thời kỳ mới, một Kairos
mới nơi chính cuộc đời chúng ta. Tin mừng khuyến mời chúng ta, cũng giống như
một chỉ lệnh rất mạnh mẽ, là hãy hoán cải, hãy quy hướng trọn vẹn cuộc sống
chúng ta về với Chúa. Điều đó không phải vì " thời gian hiện tại , tức
chronos đang qua đi", nhưng Kairos " thời kỳ ân điển, thời cơ mà Chúa
gửi đến để giúp ta hoán cải", đang được ngỏ trao cho chúng ta, ngay bây
giờ.
Có bao giờ bạn nghĩ rằng, ngày hôm nay
với tất cả những gì chúng ta đang vui hưởng, những niềm vui, những nét đẹp,
những mơ ước chúng ta đang có.... được đồng hóa với thời điểm cùng tận vũ trụ
mà chúng ta đang phải đối diện hay không? Giao ước tình yêu của Đức Giêsu mới
thật sự là thời điểm sau cùng, là thực tại cánh chung, là giai đoạn cuối của
lịch sử cứu độ. Giai đoạn cùng tận và thời điểm cánh chung đó không phải là lúc
chúng ta phải buông xuôi tất cả, giã từ tất cả. Nhưng trên hết, đó là thời kỳ
ân điển được hiến trao, để chúng ta mạnh mẽ đi vào thế giới hôm nay, với sức
mạnh và lời gọi mời khẩn thiết của Đức Giêsu luôn vang vọng bên tai mỗi người:
Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng.
10. Đáp trả lời mời gọi
Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy các môn
đệ đã mau mắn và quảng đại đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu. Thực vậy, ngày
kia Chúa Giêsu đi dạo trên bờ hồ, Ngài nhìn thấy Simon và Andrê đang thả lưới
dưới biển. Ngài bèn lên tiếng gọi: Hãy theo Ta và Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành
những kẻ chài lưới người. Lập tức các ông đã bỏ ghe thuyền chài lưới mà đi theo
Chúa Giêsu.
Đi được một quãng, Ngài thấy Giacôbê và
Gioan đang vá lưới dưới thuyền với cha là Giêbêđê. Ngài cũng lên tiếng gọi: Hãy
theo ta. Lập tức các ông đứng dậy, bỏ cha già ở lại với những người làm công mà
đi theo Chúa Giêsu.
Lần khác, tại Capharnaum, Chúa Giêsu đi
ngang qua một bàn thu thuế, nhìn thấy Matthêu, Ngài liền phán: Hãy theo Ta. Lập
tức Matthêu đã bỏ mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu.
Từ những sự kiện cụ thể ấy, chúng ta
thấy, trước hết là Chúa Giêsu. Ngài đã không chọn lựa những con người giàu sang
và quyền thế, học rộng và biết nhiều. Trái lại Ngài đã chọn lựa những kẻ nghèo
túng và đơn sơ làm môn đệ của Ngài. Ngài biết các ông thiếu khả năng và bị hạn
hẹp rất nhiều. Nhưng đồng thời Ngài cũng thấy các ông là những người quảng đại
và hết sức nhiệt tình. Chính vì sự quảng đại và nhiệt tình này, Ngài đã bắt tay
vào công việc giáo dục các ông. Cắt nghĩa riêng cho các ông thấu hiểu giáo lý
Tin mừng. Trao ban quyền hành và sai các ông đi thực tập truyền giáo, để rồi
cuối cùng đã ủy thác cho các ông sứ mạng chèo lái con thuyền Giáo Hội. Trong
khi chọn lựa các môn đệ, có lẽ Chúa Giêsu đã nghĩ tới Giáo Hội, và nhất là có
lẽ Ngài đã nghĩ tới chúng ta, và muốn nói với mỗi người rằng: Hãy theo Ta, Ta
sẽ làm cho các con trở thành những kẻ chinh phục người khác...
Tiếp đến là các môn đệ. Lúc đầu có lẽ
các ông chưa hiểu được sứ mạng của Chúa Giêsu, cũng như con đường mà Ngài sẽ
dẫn dắt các ông. Tuy nhiên các ông xác tín rằng Chúa cần đến các ông và các ông
đã mau mắn quảng đại đáp trả tiếng Chúa gọi, bằng cách từ bỏ ghe thuyền và chài
lưới, cha già và nhà cửa, bàn giấy và nghề nghiệp để đi theo Chúa.
Với chúng ta ngày hôm nay cũng vậy.
Điều quan trọng và cần thiết đó là chúng ta phải nhận ra tiếng Chúa gọi, nhất
là phải mau mắn và quảng đại đáp trả tiếng gọi ấy. Chúa nói với chúng ta qua
những biến cố xảy ra, cũng như qua những người mà chúng ta có dịp tiếp xúc với.
Chúng ta có thể đáp trả bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, chúng ta có
thể đáp trả bằng những hành động bác ái và yêu thương. Thực vậy, Chúa cũng kêu
mời chúng ta phục vụ Ngài nơi những người anh em, thế nhưng chúng ta đã mau mắn
và quảng đại đáp trả hay chưa?
11. Cộng tác với ơn Chúa
Hãy sám hối và tin vào Phúc âm.
Sau khi nghe bài đọc thứ nhất, tôi tự
hỏi: Nhờ vào đâu mà dân thành Ninivê đã được Chúa tha thứ, được thoát khỏi hình
phạt nặng nề giáng xuống trên họ.
Tôi xin thưa: là nhờ vào tâm tình sám
hối.
Thực vậy, trước lời cảnh cáo của tiên
tri Giona, họ đã ăn năn và từ bỏ con đường tội lỗi, để rồi đã được hưởng nhờ
lòng khoan dung nhân hậu của Chúa. Chính vì thế, khi bắt đầu cuộc sống công
khai Chúa Giêsu đã kêu gọi:
- Hãy sám hối và tin vào Phúc âm.
Qua lời kêu gọi ngắn ngủi này, Ngài
muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Đúng thế, có lần
thánh Augustinô phát biểu:
- Để tạo dựng nên chúng ta, Chúa không
cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài cần chúng ta ưng thuận
và cộng tác với Ngài. Bởi vì Ngài sẽ không thể nào cứu chuộc chúng ta nếu như
chính bản thân chúng ta lại không muốn.
Sự cộng tác của chúng ta, mặc dù rất
nhỏ bé, nhưng lại là một yếu tố quan trọng và có tầm mức quyết định.
Cũng trong chiều hướng đó, chúng ta
thấy tâm tình sám hối ăn năn, chính là sự cộng tác của chúng ta vào với ơn
Chúa, chính là như một thứ tiền bạc thiêng liêng để chúng ta mua lấy ơn tha
thứ.
Chàng trai phung phá sở dĩ đã được
người cha đón nhận, là vì chàng đã có can đảm chỗi dậy, trở về nhà cha. Phêrô
sở dĩ đã được Chúa tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội, là vì ông đã biết đấm
ngực sau những lầm lỗi của mình. Mađalêna sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là vì
nàng đã biết khóc thương cho quãng đời nhơ nhuốc trong dĩ vãng. Anh trộm lành
trên thập giá, sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là bởi vì anh đã quyết tâm trở về
cùng Chúa, mặc dù chỉ trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Nếu như giòng nước rửa tội tẩy xóa mọi
dấu vết của tội nguyên tổ, thì những giọt nước mắt ăn năn sám hối, cũng chính
là một thứ nước có sức gột rửa những dấu vết của tội lỗi mà chúng ta đã trót
vấp phạm. Để nói lên sự cần thiết phải cộng tác với ơn Chúa, tôi xin kể lại một
mẩu chuyện sau đây:
Sau khi cuộc thế chiến lần thứ hai kết
thúc, có một toán lính đồng minh đi giúp những người dân xây dựng lại cuộc sống
trên đống gạch hoang tàn đổ vỡ. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong
làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay
của pho tượng đã bị bom đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt một ngày trong đám xà bần mà
cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Sau khi dựng bức tượng lên, viên sĩ
quan đã ghi lại một hàng chữ như sau:
- Dân làng sẽ thay Chúa làm những công
việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.
Một người đau khổ nghèo túng kêu cầu
Chúa, và cần đến chúng ta để an ủi và giúp đỡ họ. Chúa dùng bàn tay của chúng
ta để xoa dịu những nỗi bất hạnh của người khác.
Cuộc sống của chúng ta phải là một sự
nối tiếp công trình của Chúa, phải là một sự kéo dài cho sự hiện diện đầy tình
thương của Ngài cho đến tận cùng thời gian.
Chúa đã chết trên thập giá để lập nên
kho tàng cứu độ, thế nhưng, chúng ta phải biết giơ bàn tay lên để đón nhận ơn
cứu độ ấy cho bản thân và cho những người chung quanh của chúng ta.
12. Đổi mới cuộc đời – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
Nhiều lần đài phát thanh, truyền hình,
trong mục nói về giáo dục trẻ em, giới thiệu chương trình hoạt động của anh
Thảo Đàn ở thành phố Hồ chí Minh. Trước đây, Thảo Đàn là một trẻ của đường phố,
bỏ nhà đi lang thang bụi đời, tệ hơn nữa, vướng vào nghiện hút. Nhưng khi hiểu
được tác hại của ma tuý, anh quyết tâm cai nghiện. Với ý chí cương quyết, anh
đã hoàn toàn dứt bỏ được ma tuý. Chừa được ma tuý rồi, anh không chỉ hài lòng
với việc làm lại cuộc đời cho bản thân, nhưng còn muốn dùng kinh nghiệm của
mình để giúp đỡ các trẻ em đường phố. Với sự hỗ trợ của Nhà Nước và các tổ chức
từ thiện, anh mở ra một trung tâm qui tụ 200 trẻ em đường phố. Tại đây, anh
giáo dục cho các em hiểu biết những nguy hiểm đang rình rập các em, giúp các em
bảo vệ quyền lợi của mình và nhất là tìm cách đưa các em hội nhập vào đời sống
xã hội.
Điều mà Thảo Đàn đã làm cho bản thân
mình và đang muốn làm cho các trẻ em đường phố, đó là đổi mới đời sống. Không
biết anh có đạo hay không, nhưng anh đang thực hiện Lời Chúa trong các bài sách
thánh hôm nay. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Gio-na kêu gọi dân thành Ninivê
đổi mới đời sống để được tha thứ. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu kêu gọi dân Do
thái đổi mới đời sống để đón nhận Nước Chúa đang đến. Đáp lại lời Người, các
môn đệ bước theo Đức Giêsu trong một đời sống mới. Cuộc đổi mới được tiến hành
qua ba bước.
Bước thứ nhất: Nhận biết mình tội lỗi.
Tội lỗi như một cơn mê làm ta đắm đuối
không nhận biết tình trạng tâm hồn của mình. Muốn đổi mới, cần phải thức tỉnh,
nhìn rõ sự thực về mình, thấy rõ tình trạng tội lỗi, hiểu biết sự nguy hại của
tội. Thảo Đàn bừng tỉnh sau những lầm lỡ, nhận thức mình đang đứng bên bờ vực
thẳm, nên đã kịp dừng chân. Dân thành Ninivê, sau khi nghe tiên tri Giona rao
giảng, ý thức về tình trạng nguy ngập của thành, nên đã chấm dứt tình trạng tội
lỗi. Để biết rõ tình trạng tâm hồn, để nhận biết tội lỗi, cần phải siêng năng
xét mình. Xét mình giống như ngọn đèn pha soi vào tất cả những ngõ ngách trong
tâm hồn, phơi bày ra tất cả những gì còn ẩn giấu. Xét mình giống như cái cuốc
đào bới những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn để lộ ra những tội lỗi còn bị thời
gian, sự quên lãng và sự vô tình vùi lấp.
Bước thứ hai: Sám hối.
Khi đã nhận biết tội lỗi, tâm hồn phải
tiến tới một thái độ tích cực hơn, đó là sám hối. Nhận thức tội lỗi giống như
ta nhìn thấy một căn nhà rác rưới bẩn thỉu. Sám hối là bắt tay vào quét dọn
sạch sẽ. Sám hối như giòng nước gột rửa linh hồn. Sám hối như chiếc dao mổ của
bác sĩ cắt bỏ những ung nhọt gieo mầm mống bệnh tật. Sám hối càng mãnh liệt,
tội lỗi càng lùi xa. Sám hối càng sâu xa, linh hồn càng mau chóng hồi sinh. Nhờ
sám hối sâu xa, Thảo Đàn đã từ bỏ con đường nghiện ngập. Nhờ sám hối mãnh liệt,
dân thành Ninivê đã bảo nhau, từ người già đến em bé đều xức tro, ăn chay cầu
nguyện, quyết tâm từ bỏ con đường tội lỗi. Tâm hồn sám hối là tâm hồn được
chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận ơn Chúa.
Bước thứ ba: Đổi mới cuộc đời.
Sám hối chân thành bao giờ cũng đi đến
đổi mới cuộc đời. Vì sám hối là muốn đoạn tuyệt với con đường xưa cũ để bước
vào một con đường mới. Vì tâm hồn sám hối không những muốn sửa chữa lại những
lỗi lầm quá khứ mà còn quyết tâm xây dựng một tương lai tươi mới,trong sạch
hơn, tốt đẹp hơn, ích lợi hơn. Vì muốn hoàn toàn đổi mới, Thảo Đàn không chỉ
tránh xa nhưng còn dấn thân giúp người khác đâú tranh chống tệ nạn xã hội. Vì
muốn đổi mới cuộc đời, các tông đồ đã từ bỏ nếp sống cũ, từ giã những người
thân, bỏ hết tài sản để lên đường đi theo Chúa. Con đường mới là con đường theo
thánh ý Chúa, con đường dẫn ta đi trong tình yêu mến Chúa và yêu mến anh em.
Tình yêu mến sẽ làm cho đời sống ta có ý nghĩa và trở nên phong phú vì sẽ đem
lại những hoa quả thiêng liêng. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ đón nhận được
Nước Chúa đang đến. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ góp phần đem Nước Chúa
đến với anh em.
Đầu năm mới, ai cũng có ước mong mọi sự
mới mẻ. Không gì đẹp hơn một tâm hồn đổi mới. Để đổi mới tâm hồn, ta hãy nhận
biết tội lỗi và ăn năn sám hối. Với ơn Chúa giúp và với quyết tâm đổi mới, ta
sẽ nhìn thấy những việc cần phải làm. Với những việc làm do Chúa Thánh Thần
hướng dẫn, ta sẽ thực sự bước vào Năm Mới với cả tâm hồn đã được đổi mới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới
mọi sự trong ngoài của chúng con.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ:
"Quả thật, Đức Giê su là người bạn khó tính nhất. Người chỉ cho ta những
đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Người." Hiện nay, Đức
Giê su đang mời bạn chinh phục những đỉnh cao nào?
2) Để đổi mới cuộc đời, bạn phải từ bỏ
nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì
về cái tôi của bạn. Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái,
tự mãn.....).
3) Chừa bỏ tật xấu có dễ không? Ta nên
có thái độ nào đối với người nghiện hút, rượu chè?
13. Đôi tay của Chúa
(Trích trong: "Niềm Vui Chia
Sẻ")
Vào cuối thế chiến thứ hai, để thu phục
thiện cảm và sự tin tưởng của người dân trong làng vừa mới được giải phóng khỏi
tay quân đội Đức quốc xã, toán lính thuộc lực lượng đồng minh cố gắng lượm lại
từng mảnh vỡ của bức tượng Chúa Giêsu đã được dựng lên ở quảng trường trước
ngôi nhà thờ nhỏ, trung tâm sinh hoạt của làng quê miền cực nam nước Italia.
Sau nhiều ngày cố gắng, toán lính đã
gắn lại được gần như toàn bức tượng của Chúa. Nhưng chỉ có đôi tay bức tượng là
không thể nào hàn gắn lại được, vì các mảnh vỡ quá vụn nát. Sau nhiều giờ bàn
luận và gần như sắp quyết định bỏ dở công việc, thì một người trong toán lính
có sáng kiến tìm lấy hai khúc gỗ gắn vào nơi hai cánh tay bị bể nát của bức
tượng, rồi viết vào đó một hàng chữ bất hủ, không những đánh động được tâm hồn
của những người dân trong làng, mà còn thu hút nhiều khách du lịch đến vùng này
để đọc tận mắt hàng chữ đầy ý nghĩa. Anh chị em có đoán được hàng chữ này
không? Đó là: "Chính bạn là đôi tay của Chúa".
Thiên Chúa cần con người. Chúa Giêsu
cần chúng ta như đôi tay nối dài của Ngài. Chúa Giêsu muốn dùng chúng ta như
đôi tay để tiếp tục sứ mạng của Ngài. Trước khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng
Tin Mừng ở vùng Galilê, chắc Ngài đã nghĩ đến việc chiêu mộ các môn đệ để tiếp
tay với Ngài. Làm sao để mọi người biết rằng đã đến thời viên mãn, Nước Thiên
Chúa đã gần kề? Làm sao để mọi người sám hối và tin vào Tin Mừng? Chúa Giêsu
biết rõ giới hạn của mình. Ngài cần những người cộng tác để làm tròn sứ mạng
Chúa Con trao. Ngài cần đến từng người chúng ta, một viên gạch nhỏ nhưng cần
thiết cho cả tòa nhà. Chẳng có ai là thừa, chẳng có ai là vô dụng.
"Anh em hãy làm cho muôn dân trở
thành môn đệ Thầy", đó là mệnh lệnh của Chúa Phục Sinh. Ngài vẫn cần đến
chúng ta ngày nào thế giới này còn một người chưa thành môn đệ của Ngài. Chính
vì thế, Chúa Giêsu hôm nay vẫn ngỏ lời với từng người chúng ta. Ngài muốn tôi
trở thành sự hiện diện của Ngài cho anh em tôi ở đây, hôm nay.
Ngày xưa, lúc đang đi dọc theo bờ biển
hồ Galilê, Chúa Giêsu đã thấy bóng dáng các anh đánh cá quen thuộc. Họ có đôi
lần tiếp xúc với Ngài và chắc có lần đã được nghe Ngài giảng và chứng kiến các
phép lạ Ngài làm, kể từ sau lần được Gioan Tẩy Giả giới thiệu. Chúa Giêsu thấy
họ đang làm việc hoặc quăng chài dưới biển để đánh cá hoặc đang ngồi trong
thuyền với cha để vá lưới. Chúa Giêsu chắc đã đứng lâu nhìn những cảnh tượng
đầy tình người này với cặp mắt yêu thương. Đẹp biết bao hình ảnh con người làm
chung với nhau một việc. Họ có tinh thần tập thể và sau này họ sẽ còn làm việc
chung với nhau trên chiếc thuyền lớn là Giáo Hội.
Chúa Giêsu đã thấy Simon và Anrê,
Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu hôm nay cũng thấy chúng ta. Trước khi kêu gọi
chúng ta, Ngài đã ngắm nhìn chúng ta rất lâu. Hạnh phúc cho người nào được thấy
Thiên Chúa, nhưng cũng phải nói thêm, hạnh phúc cho người nào được Thiên Chúa
thấy, được lọt vào ánh mắt của Ngài. Chúa Giêsu hôm nay đang thấy chúng ta.
Chúng ta thế nào, Ngài thấy chúng ta thế ấy. Cái nhìn của Ngài không làm chúng
ta bị tê liệt, vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người chúng ta, cả cái yếu đuối
và tội lỗi của chúng ta nữa. Chúng ta không cần phải son phấn, phải ăn mặc đúng
một thời trang để gợi sự chú ý của Ngài. Chính cái thô thiển mộc mạc của ta đã
thu hút Ngài.
Chúa Giêsu hôm nay bắt gặp chúng ta lúc
chúng ta đang làm một việc gì đó, đang mải mê với một dự tính tốt đẹp. Ngài gặp
chúng ta không phải chỉ trong lúc đọc kinh, dự lễ, những ngay giữa chợ đời xô
bồ, giữa cái lam lũ vất vả của đời thường, giữa cái bon chen vật lộn của cuộc
sống. Cuộc gặp gỡ thật bất ngờ. Có thể điều chúng ta phải dứt bỏ đầu tiên là
công việc ta ưa thích và đang làm, là bầu khí gia đình ấm áp mà ta đang tận
hưởng.
Ở đất nước chúng ta, ơn gọi thường được
hiểu là ơn sống đời tu sĩ hay linh mục. Thật ra ơn gọi làm vợ, làm chồng, ơn
gọi làm cha, làm mẹ. Ơn gọi ấy thật là cao quý và nhiều khó khăn không kém ơn
gọi tu sĩ, linh mục. Tin Mừng hôm nay dành cho mọi Kitô hữu, dù sống ở bậc nào
đi nữa. Tất cả chúng ta đều được gọi làm môn đệ của Chúa Giêsu "Các anh
hãy theo Tôi". Đây là lời mời gọi. Ơn gọi khởi xướng từ một tiếng gọi của
Thầy Giêsu. Chúa Giêsu mời gọi Kitô hữu đi theo Ngài. Không phải chỉ là đi theo
một lý tưởng hay theo một mục đích cao đẹp, mà là đi theo chính con người của
Ngài. Ơn gọi Kitô hữu là gắn bó với Chúa Giêsu, nhận Ngài là trung tâm và chóp
đỉnh của đời mình.
"Tôi sẽ làm cho anh em trở thành
những kẻ lưới người như lưới cá". Một cuộc biến đổi thực sự, từ lưới cá
đến lưới người, từ ngư phủ thành Tông đồ. Chỉ Chúa Giêsu mới làm được cuộc biến
đổi đó. Khi được mời gọi gắn bó với Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi gắn bó
với con người. Bởi, con người là mối bận tâm chủ yếu của Chúa Giêsu. Theo Ngài
là cùng chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại và đồng bào, đồng lao cộng
khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ.
"Chính bạn là đôi tay của
Chúa". Chính chúng ta phải là những cánh tay nối dài của Chúa Giêsu. Sứ
mạng cứu độ của Chúa là một sứ mạng thiêng liêng, nhưng sứ mạng ấy cần phải
được thể hiện bằng lời nói, bằng hành động. Vì thế, không có gì đáng ngạc nhiên
khi giao phó sứ mạng đó cho Giáo Hội, qua các Tông đồ, qua hàng giáo phẩm, giáo
sĩ và mỗi Kitô hữu chúng ta. Nhờ những hoạt động bằng đôi tay cụ thể của chúng
ta, Chúa Giêsu tiếp tục loan truyền Tin Mừng Nước Trời, trao ban sự sống và dẫn
đưa nhân loại về hạnh phúc vĩnh cửu.
Là chi thể của Giáo Hội, Thân Mình Mầu
Nhiệm của Chúa Kitô, một Kitô hữu cũng là đôi tay rộng mở của Chúa Kitô, nhờ
đó, Ngài không ngừng giải tỏa ánh sáng, trao tặng tình thương, ơn cứu độ và
hạnh phúc cho mọi người.
14. Hãy theo Tôi
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Bốn anh thanh niên có gia đình, có nghề
nghiệp lại được Đức Giêsu mời gọi theo Ngài, bỏ lại tất cả. Chắc chắn họ không
phải là những người nhẹ dạ. Họ đã từng quen biết Thầy Giêsu và kính nể Ngài.
Đến lúc nào đó, khi được Ngài hoàn toàn chinh phục, họ đã sẵn sàng ra đi, nhẹ
tênh.
Nhiều người nghĩ rằng đoạn Tin Mừng này
nói về ơn gọi đi tu của các linh mục tu sĩ. Thật ra đây là đoạn Tin Mừng nói về
ơn gọi của từng Kitô hữu chúng ta.
Chúa Giêsu vẫn đi ngang qua đời ta mỗi
ngày như xưa Ngài đã dọc theo biển hồ Ga-li-lê. Ngài thấy ta như Ngài đã thấy
bốn môn đệ. Ngài thấy ta trước khi ta thấy Ngài. Cái nhìn của Ngài không làm ta
bị tê liệt vì Ngài chấp nhận trọn vẹn con người của ta. Cả những yếu đuối và
tội lỗi cũng được Ngài đón nhận. Hạnh phúc cho ai được thấy Thiên Chúa. Nhưng
hơn nữa, hạnh phúc cho ai được Thiên Chúa thấy.
Lúc Ngài thấy ta thì ta vẫn không hay
biết. Ta vẫn mải mê quăng chài hay vá lưới. Ta vẫn tất bật với những lo toan
đời thường, hay đang miệt mài theo đuổi một ước mơ. Chính lúc đó, chính lúc ta
tưởng mình quá ư ổn định, và đời mình đã được định hướng quá rõ ràng, thì tiếng
gọi của Ngài vang lên, mạnh mẽ, dứt khoát.
Hãy theo tôi!
Mọi người Kitô hữu đều được mời gọi đi
theo Chúa Giêsu. Ngài không mời ta đi theo một lý tưởng, một ý thức hệ. Ngài
mời ta theo chính con người Ngài, gắn bó với Ngài, nhận Ngài là nền tảng và
chóp đỉnh của cuộc sống.
Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ
lưới con người.
Con người là điều ta phải quan tâm, vì
đó là mối quan tâm lớn nhất của Chúa Giêsu.
Theo Ngài là chia sẻ với Ngài cùng một
sứ mạng, là thao thức và đồng cam cộng khổ với Ngài trong công việc cứu độ toàn
thế giới.
Chúa Giêsu mời ta dấn thân vào cuộc đổi
đời, mời ta định lại hướng đi theo những giá trị mới. Như thế là chấp nhận đổ
vỡ, đoạn tuyệt.
Bốn môn đệ đã bỏ lại biển cả và những
người thân yêu. Vợ con của Simon và cha của Giacôbê sẽ sống thế nào? Mái nhà
nay vắng bóng những người đàn ông cột trụ!
Hôm nay Chúa Giêsu vẫn cần bạn, vì bạn
là Kitô hữu. Ngài vẫn thấy bạn, và mời gọi bạn đáp lại mỗi ngày.
Cần trầm lắng mới nghe được tiếng thì
thầm của Chúa. Bạn có thể sống như một giáo dân bình thường. lo xây dựng gia
đình, sự nghiệp, tương lai. Nhưng bạn phải sẵn sàng từ bỏ khi cần, nghĩa là
chọn Chúa, đặt Chúa lên trên mọi giá trị đó.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ:
"Quả thật, Đức Giêsu là người bạn khó tính. Ngài chỉ cho ta những đỉnh cao
và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Ngài, bằng cách trao phó cho Ngài trọn
cuộc sống." Hiện nay, Ngài đang mời bạn chinh phục đỉnh cao nào trong cuộc
sống?
Để theo Đức Giêsu, cần phải từ bỏ nhiều
điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh nghiệm gì về cái
tôi của bạn? Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh, khép kín, tự ái, tự
mãn...)?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa,
Chúng con không hiểu tại sao Chúa chọn
Simon, một người đánh cá ít học và đã lập gia đình, để làm vị Giáo Hoàng đầu
tiên của Giáo Hội.
Chúa xây dựng Giáo Hội trên một tảng đá
mong manh, để ai nấy ngất ngây trước quyền năng của Chúa.
Hôm nay Chúa cũng gọi chúng con theo
Chúa, sống cho Chúa, đặt Chúa lên trên mọi sự: gia đình, sự nghiệp, người yêu.
Chúng con chẳng thể nào từ chối viện cớ
mình kém đức kém tài. Chúa đưa chúng con đi xa hơn, đến những nơi bất ngờ, vì
Chúa cần chúng con ở đó.
Xin cho chúng con một chút liều lĩnh
của Simon, bỏ mái nhà êm ấm để lên đường, hạnh phúc vì biết mình đang đi sau
Chúa. Amen.
15. Sám hối
"Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng".
Tin Mừng là gì? Có gì quan trọng mà người ta phải sám hối và đặt lòng tin vào
đó? Sám hối và lòng tin đi đôi với nhau như hai con mắt cùng nhìn vào một đối
vật, sám hối sửa soạn cho lòng tin, lòng tin khởi đầu bằng sự sám hối. Sám hối
gồm hai khía cạnh: khía cạnh tiêu cực là nhận về quá khứ, nhìn lại dĩ vãng, để
thấy đường mình đã đi, cuộc đời mình đã sống như thế nào, đúng hay sai, tốt hay
xấu. Khía cạnh tích cực là hướng tới tương lai để sống đúng hơn và tốt hơn.
Người sám hối trở nên khiêm tốn, bé nhỏ, từ bỏ mình, để đặt tất cả niềm tin vào
sự công chính của Nước Trời, vào ơn cứu độ do Tin Mừng đem đến, còn tin là trao
hiến, tin ai và tin điều gì? Chúng ta hãy tìm hiểu nội dung của Tin Mừng gồm
những vấn đề gì mà chúng ta phải sám hối và đặt lòng tin vào đó. Chúng ta có
thể tóm lược nội dung của Tin Mừng vào hai phạm vi luân lý và giáo lý.
Về phạm vi luân lý: chúng ta thấy Tin
Mừng đã đề cập tới những vấn đề quan trọng sau: Thứ nhất, về hôn nhân, Chúa
Giêsu đã lập luận hôn nhân bất khả phân ly và nhất phu nhất phụ: mỗi người chỉ
được một vợ một chồng và phải trung thành chung thủy với nhau cho đến chết. Thứ
hai, Chúa Giêsu đã đề cao tinh thần nghèo khó: người nghèo khó được Chúa chúc
phúc, Chúa kêu gọi hãy nghèo của nhưng không nghèo lòng, ngược lại, người giàu
của mà không giàu lòng thì khó vào nước trời như con lạc đà trước lỗ kim. Thứ
ba, về luật lao động và tinh thần hợp tác, Chúa dạy: mọi người phải siêng năng
làm việc để tự lực mưu sinh, lười biếng sẽ bị phạt, rồi phải biết cộng tác với
nhau để cùng nhau thăng tiến. Thứ tư, vấn đề tiền của: tiền của nay còn mai
mất, Chúa dạy: phải biết dùng tiền của làm phương tiện đi vào nước trời, mỗi
người đừng quá đòi hỏi mà chỉ mong sao hằng ngày dùng đủ, rồi tin tưởng vào
Thiên Chúa quan phòng, các tài nguyên thiên nhiên, hãy dùng chúng để kiến tạo
hòa bình và biến gươm giáo thành cày cuốc. Thứ năm, để đảm bảo luật luân lý,
Chúa dạy: mọi người phải coi nhau như anh em, phải yêu thương nhau, yêu thương
cả kẻ thù nghịch với mình, cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình, mọi người phải tha
thứ cho nhau. Thứ sáu, về vấn đề giáo dục trẻ em, Chúa dạy: phải yêu mến chúng,
phải hướng dẫn chúng và không được làm gương mù gương xấu cho chúng, nước trời
thuộc về những ai có tâm hồn đơn sơ như trẻ em. Thứ bảy, các nhân đức luân lý
được đề cao: khôn ngoan, công bằng, vâng lời, tiết độ, kiên nhẫn, can đảm chịu
đựng những đau khổ, khiêm nhường, hiền lành, trong sạch, phục vụ, tránh xa dịp
tội và đứng làm gương mù. Tóm lại, mọi người là anh em, là con cái Thiên Chúa,
mỗi người là chi thể trong một nhiệm thể, cho nên, phải dùng tình thương mà đối
xử với nhau và yêu nhau như Chúa yêu chúng ta.
Về phạm vi giáo lý: Tin Mừng đã mạc
khải cho chúng ta biết bốn điều quan trọng: Thứ nhất, một Thiên Chúa có Ba
Ngôi, chúng ta chỉ tôn thờ một Thiên Chúa mà thôi, Thiên Chúa có Ba Ngôi: ngôi
thứ nhất là Cha, là Đấng tạo dựng vũ trụ trời đất muôn loài, ngôi thứ hai là
Con, là Chúa Giêsu Kitô, Đấng xuống thế làm người để cứu chuộc mọi người, ngôi
thứ ba là Thánh Thần, Đấng thánh hóa, an ủi và giúp đỡ mọi người. Cả ba Ngôi
chỉ là một Thiên Chúa, bằng nhau mọi đàng. Thứ hai, Chúa Giêsu là Thiên Chúa và
là Thiên Chúa nhập thể, Ngài là một người như mọi người, có cha có mẹ, có quê
hương tổ quốc, có sinh có tử, có sống và chết như mọi người, Ngài giống chúng
ta mọi đàng chỉ trừ tội lỗi, nhưng Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với
Chúa Cha, Ngài đến trần gian để dạy dỗ và cứu chuộc loài người, Ngài là đường,
là sự thật và là sự sống, ai tin theo Ngài sẽ được sự sống đời đời. Thứ ba, về
Nước Thiên Chúa, Nước Trời, đây là nước hằng sống, vĩnh cửu, là thiên đàng,
muốn vào Nước Thiên Chúa phải tin và thực hành đức tin chứ không thể chỉ nói
"Lạy Chúa" mà vào được, nước Chúa có giá trị vô song, người ta phải
hy sinh mọi sự, kể cả mạng sống để chiếm hữu nó. Thứ tư, Tin Mừng cho biết về
Giáo Hội qua những dụ ngôn người gieo giống, hạt giống tự mọc, hạt cải, tấm
men, kho báu, viên ngọc quý, mẻ cá, bầy chiên... Giáo Hội có phẩm trật: Phêrô
là đầu, tức Đức Giáo Hoàng sau này, các tông đồ, là các giám mục sau này, những
vị lãnh đạo Giáo Hội được Chúa trao quyền cầm buộc và cởi mở, ai muốn đến với
Chúa phải đến với Giáo Hội.
Có cuốn sách nào được người ta ham mộ,
kính trọng như sách Tin Mừng không? Có sách nào tồn tại suốt 20 thế kỷ và bán
chạy như sách Tin Mừng không? Sách Tin Mừng toàn bộ đã được dịch ra 236 thứ
tiếng, và còn cả 100 thứ tiếng nữa đang sửa soạn để dịch Tin Mừng, có sách nào
khích lệ, đổi mới con người bằng sách Tin Mừng không? Cho nên, vấn đề đặt ra
cho chúng ta là chúng ta có đọc Tin Mừng hay không? Nếu chúng ta không chịu đọc
thì sách có hay mấy cũng là không hay, cũng như đã gọi là thuốc hay mà chúng ta
không dùng thuốc thì làm sao khỏi bệnh được? Chúng ta hãy nhớ: sách Tin Mừng là
lời Thiên Chúa hằng sống, chúng ta có đọc, có sống Tin Mừng thì chúng ta mới
thấy được sự sống ấy dồi dào ra sao, nơi đâu có ánh sáng Tin Mừng nơi ấy tràn
đầy hy vọng cho hiện tại và tương lai. Ước mong mỗi gia đình đều có sách Tin
Mừng, chúng ta có đủ thứ sách mà lại thiếu sách Tin Mừng thì thật đáng tiếc.
Nhưng có sách mà không dùng, không đọc cũng như không có. Ước mong chúng ta hãy
đọc và sống theo những điều chúng ta đọc, bảo đảm bản thân chúng ta và gia đình
chúng ta sẽ tốt đẹp.
16. Hãy theo Tôi
Đoạn Tin Mừng kể lại việc Chúa Giêsu
kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên là Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Chúa kêu gọi các
ông: "Các anh hãy đi theo tôi". Lời kêu gọi đó Chúa cũng nói với mỗi
người chúng ta hôm nay.
Tin Mừng cho biết cả bốn môn đệ, bốn
tông đồ đầu tiên ấy đều là những người chài lưới, và họ đang hành nghề trên
biển hồ Galilê. Cho tới lúc đó, chưa bao giờ các ông đưa mắt nhìn xa quá tầm
mắt quen thuộc với những công việc sinh nhai hằng ngày. Bây giờ Chúa Giêsu mời
gọi các ông nhìn lên cao hơn và xa hơn. Ngài chỉ cho các ông thấy thế giới như
biển cả mênh mông, phải vượt khắp đó đây để đánh lưới "sinh linh". Sứ
mệnh của các ông là đem các linh hồn về cho Chúa.
Nghe tiếng Chúa kêu gọi, các ông đáp
lại ngay và sẵn sàng từ bỏ mọi sự, kể cả những gì thiết thân nhất trong đời
sống như nghề nghiệp và phương tiện sinh sống cùng với những mối liên hệ ruột
thịt tự nhiên. Từ nay các ông sẽ có những bận tâm khác với những lo lắng trước
đây. Các ông rời bỏ quê hương làng xóm, nơi chôn nhau cắt rốn, để đi đến những
nơi Thầy sẽ sai đến. Quê hương các ông bây giờ là thế giới. Các ông từ bỏ gia
đình ruột thịt quen thuộc, Thiên Chúa sẽ ban cho các ông một gia đình khác, gia
đình các linh hồn mà các ông sắp cứu vớt. Các ông thoát ly hoàn toàn và dứt
khoát.
Thực vậy, các tông đồ đầu tiên thoát ly
mọi sự trước kia đã ràng buộc các ông là để gắn bó với Chúa Giêsu. Các ông đi
theo Ngài một cách tin tưởng mà không hỏi xem Ngài sẽ dẫn các ông đi đâu và
tương lai sẽ thế nào. Các ông đi theo Ngài để chia sẻ vui sướng, nhưng đồng
thời cũng để đồng lao cộng khổ với Ngài. Các ông đi theo Ngài để lãnh nhận lời
giáo huấn, lấy đó làm mẫu mực cho đời sống mình trước hết, để rồi sau đó tuyên
xưng giáo thuyết của Ngài và truyền bá giáo thuyết đó cho mọi người.
Tóm lại, bốn tông đồ đầu tiên nói riêng
và tất cả các tông đồ nói chung, đã thực thi mệnh lệnh "Hãy đi theo
tôi" của Chúa Giêsu một cách trọn vẹn. Các ông đã đi theo Chúa, sống bên
Chúa, chứng kiến mọi việc Chúa làm, ghi nhớ những lời Chúa giảng dạy. Và khi
Chúa về trời, các ông hăng say rao giảng về Chúa và giáo huấn của Chúa cho đến
chết. Đó là đường lối mà các tông đồ đầu tiên và các tông đồ kế tiếp nhau đã
làm đổi thay bộ mặt cũng như toàn bộ thế giới cho tới chúng ta ngày nay.
Nếu Chúa Giêsu đã quan tâm kêu gọi
những người cộng sự trong sứ mạng rao giảng Tin Mừng, thì điều đó có nghĩa là
Ngài không muốn làm việc một mình mà muốn nước trời là một công trình có sự
đóng góp của mọi người, nhất là qua ơn gọi thừa tác. Lời kêu gọi "Hãy đi
theo tôi" hôm qua vang lên tai các tông đồ thì hôm nay vẫn còn vang lên
trong nhịp sống Giáo hội và gửi đến chúng ta hằng ngày. Vấn đề là chúng ta có
quan tâm lắng nghe và đáp ứng không?
Qua Bí tích Rửa tội, chúng ta đã được
Chúa mời gọi theo Chúa, chúng ta đã thực sự là Kitô hữu rồi. Nhưng đời sống
Kitô hữu không phải chỉ là tin những điều Giáo hội dạy, giữ những điều răn Chúa
và Giáo hội truyền, và giữ như thế để được rỗi linh hồn. Cũng như các tông đồ
xưa kia được kêu gọi không phải chỉ là để được "rỗi linh hồn", nhưng
còn là để cộng tác với Ngài. Người Kitô hữu cũng thế, được kêu gọi theo Chúa,
không phải chúng ta chỉ lo cứu linh hồn mình, nghĩa là không phải chỉ là người
giữ đạo, đọc kinh, đi lễ, nhưng phải là những tông đồ cho Chúa nữa. Dù ở bậc
sống nào, dù không vào đoàn thể nào, dù ở bất cứ chỗ nào, chúng ta cũng phải là
những tông đồ của Chúa. Làm tông đồ trước tiên là bằng chính đời sống tốt đẹp
của chúng ta.
Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể
thay đổi được nếp sống của những người chung quanh. Đời sống tốt đẹp của chúng
ta có thể thay đổi được vận mệnh của người khác, từ không biết Chúa đến nhận
biết Chúa, tôn thờ, yêu mến Chúa. Đời sống tốt đẹp của chúng ta có thể làm cho
mọi người từ tị hiềm ghen ghét đến yêu thương, xây dựng, đùm bọc, nâng đỡ nhau.
Về điều này chính chúng ta đã kinh
nghiệm hay chúng ta biết được qua kinh nghiệm của người khác. Câu truyện sau đây
là một điển hình: Một hôm, thánh Cờ-lê-men-tê lững thững đi vào một quán ăn.
Ngài giơ tay ra và nói: "Xin quí ông rộng lượng bố thí cho các em cô nhi
một miếng ăn". Tức thì các thực khách cười rộ lên. Một người tên là
Uyn-déc (Wilszek) ngổ ngáo nói: "Một miếng ăn cho các em hả, được
lắm". Nói xong, anh ta nâng cốc bia lên uống, rồi phùng miệng phun thật
mạnh vào mặt cha Cờ-lê-men-tê. Ngài điềm tĩnh lấy khăn mùi xoa ra lau mặt, rồi
lại giơ hai tay ra và nói: "Thưa các ông, đó là phần của tôi. Còn phần của
các em cô nhi đâu chưa thấy". Uyn-déc như bị đấm một quả thôi sơn, té nhào
xuống đất, anh ấp úng nói.
"Tôi...tôi...sẽ...gởi...tặng các
em một món quà". Quả thực, sau đó anh tự động đi lạc quyên giữa các bạn bè
xa gần và đến trao cho thánh Cờ-lê-men-tê một món tiền lớn; và anh còn làm
nhiều lần như thế.
Gương sáng, đời sống tốt đẹp có sức
mạnh như thế đó. Xin Chúa cho chúng ta biết sống tốt đẹp, nêu gương sáng cho
mọi người, trước tiên cho những người thân yêu trong gia đình bằng đời sống hòa
thuận yêu thương nhau, hạnh phúc trong tình yêu mến Chúa và yêu mến nhau, rồi
từ đó lan tỏa cho những người chung quanh.
17. Trở nên môn đệ
Thánh Marcô tạo ra cảm giác là lời kêu
gọi các môn đệ đầu tiên là một sự kiện mang tính cách rất lễ nghi, và người
được kêu gọi hoàn toàn bất ngờ, không được biết trước, hoặc có quan hệ gì với
Đức Giêsu. Nhưng thánh Gioan cho thấy rằng không phải là trường hợp đó. Ngài
giải thích rõ ràng rằng mối tương quan của các môn đệ với Đức Giêsu trải qua
một giai đoạn lớn lên và phát triển. Người ta không đi theo một người hoàn toàn
xa lạ. Nếu như vậy, thì họ là những kẻ điên rồ.
Rõ ràng là cả bốn môn đệ (Simon, Anrê,
Giacôbê và Gioan) đã có quan hệ từ trước với Đức Giêsu. Chắc hẳn là họ bắt đầu
bằng cách đứng trong đám đông, lắng nghe Người nói. Điều này đưa đến kết quả là
họ thán phục Người, làm cho họ muốn được quen biết với Người một cách cá nhân.
Một khi đã được gặp gỡ Người, và cảm thấy được sức thu hút nơi nhân cách của
Người, thì họ đều bị lôi cuốn về phía Người. Từ đó, có thể họ quyết định đi
theo Người.
Điều này giải thích nguyên nhân tại
sao, khi cuối cùng Người kêu gọi họ, thì họ liền hưởng ứng ngay tức khắc và một
cách trọn vẹn đến như vậy. Họ bỏ lại tất cả mọi sự – cách sinh nhai, tài sản,
sự an toàn, những liên hệ gia đình – và tự hiến thân riêng biệt cho việc đi
theo Đức Giêsu. Qua bao thời đại, nhiều kẻ tin đã thực hiện cũng lời cam kết
này đối với Đức Kitô. Mặc dù lời kêu gọi "Hãy theo Thầy" của Người
nghe giống như một lệnh truyền, nhưng tất nhiên, đó không phải là một lệnh truyền,
mà là một lời mời gọi.
Những người đó là ai vậy? Họ là những
người đánh cá, mà đánh cá là một công việc quan trọng. Nhưng Đức Giêsu mời gọi
họ đến với một công việc thậm chí còn quan trọng hơn. Người đem đến cho họ
không chỉ một công việc mới mẻ, nhưng còn là một nguyên cớ để rồi từ đó, họ
hiến trọn cuộc đời mình. Họ biết rằng Người không kêu gọi họ đến với một cuộc
sống dễ dãi. Trái lại là đàng khác. Nhưng vốn là những người đánh cá, họ đã
từng quen thuộc với cảnh khó nhọc rồi.
Họ cũng hiểu rằng lời mời gọi của Đức
Giêsu chính là lời mời gọi phục vụ người khác: "Thầy sẽ làm cho anh em trở
thành những kẻ lưới người". Khi những người lãnh đạo các giáo phái kêu gọi
người ta đi theo họ, họ biến những kẻ đó thành nô lệ cho họ. Đức Giêsu kêu gọi
các tông đồ, không phải để phục vụ bản thân Người, nhưng là để phục vụ những
người khác.
Lời mời gọi của Người mang ý nghĩa hy
sinh những kế hoạch riêng, những tham vọng, sự an toàn v.v... Đây là một cuộc
phiêu lưu đầy nguy hiểm, bởi vì họ đang chuyển từ công việc mà họ biết, để đến
với một công việc mà họ không hề biết. Nhưng họ cũng biết rằng lời mời gọi của
Người đem đến cho họ một cơ hội được sống một cuộc sống trọn vẹn hơn và xứng
đáng hơn. Cho đến nay, họ đã có một nghề nghiệp. Bây giờ, họ có được một ơn
gọi.
Một nghề nghiệp và một ơn gọi khác hẳn
nhau, mặc dù không hề loại trừ lẫn nhau. Chúng ta vẫn có thể sống theo một ơn
gọi, thông qua một nghề nghiệp cụ thể, chẳng hạn như làm giáo viên, y tá, bác
sĩ... Nhưng không bao giờ một ơn gọi có thể đưa đến những hoạt động này. Ơn gọi
mang nét gì đó sâu xa hơn, đòi hỏi một tầm nhìn, một động cơ, một sự tận tụy.
Một nghề nghiệp thường mang ý nghĩa đưa con người đi xa hơn. Nhưng một ơn gọi
có nghĩa là phục vụ những người khác.
Sự kiện các môn đệ chấp nhận thử thách
này một cách hết lòng đến thế, nói lên cho chúng ta biết rất nhiều về tính cách
con người của họ, mặc dù họ không phải là những siêu nhân, mà chỉ là những con
người bình thường. Không ai có thể tin tưởng vào những con người bình thường,
giống như Đức Giêsu đã tin. Để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, người ta không
cần phải trở thành một con người đặc biệt.
Ngày nay, Chúa vẫn còn kêu gọi con
người, và nhu cầu hiện nay rất lớn. Vẫn có những người đáp trả lại lời mời gọi
của Người. Một số người (giống như bốn môn đệ trên) được kêu gọi hoàn toàn hiến
thân, và sống theo một cách thức "chuyên nghiệp" đi theo Đức Kitô.
Nhưng không phải tất cả mọi Kitô hữu đều được mời gọi đi theo Đức Kitô bằng
cách này.
Ý tưởng về lời mời gọi trái ngược với
nền văn hóa phổ biến hiện nay. Ngày nay, chúng ta nghĩ rằng mình vẫn có thể
sống một cuộc sống không hề được kêu gọi – không cậy nhờ vào bất cứ mục đích
nào bên ngoài bản thân mình. Thật không dễ dàng khi cho phép mình được chọn
lựa. Khi để mặc một mình, chúng ta có khuynh hướng đi theo lối sống nào ít bị
kháng cự nhất. Do đó, chúng ta cần có người nào đó thách đố chúng ta, người đó
biết rõ những điều mà chúng ta ưa thích nhất, và sẽ không để cho chúng ta sắp
xếp bất cứ thứ gì, mà khả năng của chúng ta chưa đạt tới.
Việc đi theo Đức Kitô có ý nghĩa gì đối
với người bình thường? Điều đó có nghĩa là hãy là người Kitô hữu ngay tại nơi
bạn đang sống, và theo nghề nghiệp mà bạn đã chọn lựa. Có nhiều cách thức phục
vụ Đức Kitô và Tin Mừng của Người. Lời kêu gọi này ngay từ đầu không phải là trở
nên người tông đồ, mà là trở nên môn đệ của Đức Kitô.
18. Chúa Giêsu công khai rao giảng -
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu đến để xây dựng Nước Thiên
Chúa. Bạn quan niệm Nước Thiên Chúa là gì? ở ngay trần gian này hay ở đời sau?
Bản chất của nó là gì?
2. Bản chất của Nước Thiên Chúa chính
là Tình Thương. Trong đời sống Kitô hữu, việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí
tích rất quan trọng, nhưng so với việc thực hiện tình yêu thương thì việc nào
quan trọng hơn? Cái nào là mục đích, cái nào là phương tiện? Cần phải quan
trọng hóa hay làm nổi bật cái nào?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giêsu đến để xây dựng triều đại
Thiên Chúa
Khi bắt đầu xuất hiện công khai để loan
báo Tin Mừng, Đức Giêsu tuyên bố với mọi người: «Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại
Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng». Ngài nói vậy
nghĩa là gì? - «Thời kỳ đã mãn» nghĩa là đã hết một thời kỳ, và đã đến lúc bắt
đầu một thời kỳ mới. Thời cũ là thời của Cựu Ước, với những tinh thần và luật
lệ của Cựu Ước. Thời của Cựu Ước là thời chuẩn bị cho thời của Tân Ước. Và Đức
Giêsu đến để khai mở thời kỳ Tân Ước, với những tinh thần và luật lệ mới của
Tân Ước. Thời Tân Ước là thời xây dựng triều đại Thiên Chúa do Đức Giêsu chủ
xướng và thiết lập. Ngài nói: «Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần». «Đã đến gần»
có nghĩa là còn đang đến chứ chưa thành hiện thực. Triều đại ấy có thành hiện
thực hay không còn tùy thuộc vào Đức Giêsu và những người cộng tác với Ngài.
2. Triều đại Thiên Chúa hay Nước Thiên
Chúa là gì?
Triều đại Thiên Chúa mà Đức Giêsu muốn
thiết lập là một kỷ nguyên mới, trong đó nhân loại được sống trong an bình hạnh
phúc, nhờ biết yêu thương nhau, hy sinh cho nhau, sống cho nhau. Ngài đã đưa ra
một «điều răn mới» cho kỷ nguyên mới này: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới
là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em» (Ga 13,34; x. 15,12.17). Và yêu thương phải trở thành dấu hiệu
đặc trưng của những ai theo Ngài, đặc trưng đến nỗi chỉ việc nhìn vào tình
thương họ dành cho nhau, mà mọi người nhận ra họ là người theo Ngài: «Mọi người
sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương
nhau» (Ga 13,35). Ngài đã thiết lập Giáo Hội như một cộng đoàn đặc biệt của
Ngài nhằm thực hiện Nước Thiên Chúa, trong đó, tình thương thống trị trong lòng
mọi người, khiến mọi người trong cộng đoàn đó yêu thương và hy sinh cho nhau,
coi nhau như anh chị em, nhờ đó họ luôn luôn đầy đủ và hạnh phúc. Và nhờ sự hấp
dẫn luôn luôn có của tình thương, Giáo Hội ấy ngày càng mở rộng, và lan tràn
khắp thế giới. Lúc ấy, thế giới sẽ trở thành Nước Thiên Chúa, ngay tại trần
gian này. Ngài đã ban cho Giáo Hội những phương tiện rất hữu hiệu là các bí
tích để thông ban sức mạnh thiêng liêng để con người thực hiện điều ấy.
3. Một lý do khiến Giáo Hội chưa thực
hiện được Nước Thiên Chúa
Thế nhưng cho đến nay, nhìn vào Giáo
Hội và thế giới, người ta không khỏi nghi ngờ: liệu việc xây dựng «Triều đại
Thiên Chúa» hay «Nước Trời» của Đức Giêsu có thành tựu được không? Xem ra lý
tưởng của Đức Giêsu vẫn còn xa vời lắm, mặc dù Giáo Hội đã nỗ lực thực hiện lý
tưởng ấy suốt 2000 năm nay. Có thể một trong những lý do khiến chúng ta không
thành công là chúng ta chưa quan tâm đủ đến sứ điệp trọng tâm của Đức Giêsu là
tinh thần yêu thương, mà quá quan tâm đến những phương tiện - là việc cầu
nguyện, các bí tích - để đạt được tinh thần ấy.
Quả thật, những phương tiện mà Đức
Giêsu đặt ra rất cần thiết và hữu ích, nhưng dù thế nào chăng nữa, chúng vẫn
chỉ là những phương tiện. Biến những phương tiện ấy thành mục đích hay cứu cánh
là vô hiệu hóa chúng, thậm chí làm chúng biến chất, làm chúng trở nên có hại
thay vì có lợi. Nếu «đồng tiền là một đầy tớ rất tốt, nhưng lại là một ông chủ
rất xấu», thì tương tự như vậy: các phương tiện Đức Giêsu lập ra như các bí
tích, việc cầu nguyện, v.v... là những phương tiện rất tốt, nhưng lại là những
mục đích rất xấu. Nghĩa là nếu chúng ta nhắm mục đích rõ ràng là sống yêu
thương nhau, và quyết tâm thực hiện sự yêu thương ấy, thì việc cầu nguyện và
các bí tích sẽ là những phương tiện hết sức hữu hiệu để đạt được mục đích ấy.
Còn nếu chúng ta coi chúng là mục đích, thì chúng sẽ trở thành những yếu tố phá
hoại sự yêu thương ấy, cũng là phá hoại tôn giáo.
Khốn thay rất nhiều Kitô hữu không hề ý
thức sứ điệp căn bản của Đức Giêsu là tình yêu thương, nên không mấy quan tâm
tới điều chính yếu ấy. Họ chỉ chủ yếu quan tâm tới việc thực hành những phương
tiện mà Đức Giêsu lập ra để đạt mục đích ấy, và coi việc thực hành những phương
tiện ấy chính là bản chất việc sống đạo Kitô giáo. Họ đã biến phương tiện thành
mục đích, vì thế, những phương tiện ấy chẳng những chẳng đạt được mục đích mà
Đức Giêsu muốn chúng đạt được, mà chúng lại trở thành một thế lực ngăn cản con
người đạt đến mục đích ấy. Thật vậy, biết bao Kitô hữu cảm thấy mình đạo đức
chỉ vì đã đi lễ hằng ngày, rất siêng năng lãnh nhận các bí tích, rất chuyên cần
đọc kinh cầu nguyện... đang khi họ đối xử với tha nhân, thậm chí với cả những
người trong gia đình mình, chẳng mấy tốt đẹp. Như thế họ đã quan niệm sai lầm
về việc sống đạo, nhất là về bản chất của Kitô giáo. Điều này thiết tưởng những
người có nhiệm vụ rao giảng, dạy dỗ trong Giáo Hội phải chịu trách nhiệm phần
nào!
4. Để xây dựng Nước Thiên Chúa, Đức
Giêsu cần những người cộng tác
Ngay khi bắt đầu sứ mạng loan báo và
xây dựng Nước Thiên Chúa, việc đầu tiên Đức Giêsu phải làm là tìm những người
có tâm huyết cộng tác với Ngài. Chắc hẳn những người được Ngài mời gọi theo
Ngài làm tông đồ, Ngài đã nhận ra nhiệt huyết của họ trong những lần Ngài nói
chuyện với dân chúng về Nước Trời trước đó. Vì thế, khi Ngài mời gọi họ, họ lập
tức bỏ mọi sự để lên đường theo Ngài ngay. Và với 12 môn đệ - tức 12 người cộng
tác đắc lực - được Ngài tuyển chọn, Ngài đã lập nên cả một Giáo Hội phát triển
rộng lớn như ngày nay. Sau 20 thế kỷ khởi công xây dựng Nước Thiên Chúa, người
theo Đức Giêsu hiện nay trên thế giới tuy rất đông nhưng dẫu sao vẫn còn rất ít
ỏi so với số lượng đáng lẽ phải đạt được. Vì hiện nay số người Kitô hữu mới chỉ
chiếm 1/3 dân số thế giới. Đó là nói về số lượng, còn chất lượng người Kitô hữu
thì sao? Bao nhiêu phần trăm Kitô hữu thật sự sống tinh thần yêu thương của Đức
Giêsu đúng như Ngài đã truyền: «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu
thương anh em» (Ga 13,34)? Đối với thế giới, Kitô giáo có phải là một biểu
tượng hay gương mẫu của tình thương, của sự khoan dung, hay chỉ là biểu tượng
của lễ nghi, của sự khắt khe, không khoan nhượng?
Thời nào Đức Giêsu cũng cần những người
có tâm huyết cộng tác với Ngài. Và chắc chắn thời nào cũng không thiếu những
con người nhiệt tình sẵn sàng hy sinh cho công cuộc của Ngài. Nhưng nhiệt huyết
xuông, không đủ, chúng ta cần phải đi đúng đường lối của Ngài. Nếu không, nỗ
lực của Giáo Hội chúng ta sẽ chỉ là những nỗ lực kiểu «dã tràng xe cát biển
đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì». Thiết tưởng chúng ta cần phải nắm
vững cái nào là cái chính yếu, cái nào là cái phụ thuộc; cái nào là mục đích,
cái nào là phương tiện; cái nào là bản chất, cái nào là hiện tượng. Nhờ phân
biệt rõ ràng như thế, chúng ta mới biết hy sinh cái phụ thuộc cho cái chính
yếu, coi nhẹ phương tiện hơn mục đích, coi trọng bản chất hơn hiện tượng.
Cứ thử xét cách dùng danh từ của nhà
đạo chúng ta thì biết chúng ta đã quan trọng hóa cái gì: cái chính yếu hay cái
phụ thuộc? Chúng ta gọi những việc cầu nguyện hay bí tích là những «việc đạo
đức». Điều đó khiến nhiều Kitô hữu lầm tưởng rằng cứ cầu nguyện hay lãnh nhận
các bí tích cho nhiều là trở thành người đạo đức. Nhưng thật ra rất nhiều người
làm được như vậy một cách rất gương mẫu, nhưng chẳng ai mến phục chỉ vì họ sống
thiếu tình thương. Thực ra đạo đức được thể hiện trong chính cuộc sống thường
ngày: trong cách cư xử, cách làm việc, cách nói năng... Một người có đạo đức
khác với những người không đạo đức chủ yếu ở trong chính cách cư xử, làm việc,
nói năng... chứ không phải trong việc cầu nguyện và lãnh nhận các bí tích. Vì
thế, thiết tưởng khi chúng ta làm những bổn phận hằng ngày như làm ăn buôn bán,
quét nhà nấu ăn giặt giũ, tiếp xúc nói chuyện cư xử với mọi người...nếu chúng
ta làm với tinh thần yêu thương vị tha, thì chính khi làm như vậy là ta thực
hiện những việc đạo đức. Việc cầu nguyện và các bí tích giúp ta có ơn Chúa, có
sức mạnh để làm những việc ấy với tinh thần yêu thương của Chúa, chứ chúng
không thay thế tinh thần yêu thương ấy.
Cầu nguyện hay lãnh nhận các bí tích mà
không thể hiện tình yêu thương trong cách cư xử, làm việc, ăn nói, suy nghĩ,
thì giống như một người đi làm quần quật suốt ngày để có tiền, nhưng chẳng dùng
số tiền ấy vào việc gì, cứ cất vào một chỗ để dành. Như thế tiền bạc ấy trở nên
vô ích. Tiền bạc chỉ trở nên ích lợi và đem lại hạnh phúc khi được chi tiêu để
thỏa mãn những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, cầu nguyện hay lãnh
nhận bí tích chỉ có ích lợi và đem lại ơn cứu rỗi khi chúng nhắm thực hiện mục
đích mà Chúa muốn là thể hiện tình yêu thương cách hữu hiệu.
Cầu nguyện
Lạy Cha, bản chất của Cha là Tình Yêu,
và bản chất của Nước Trời do Đức Giêsu thiết lập cũng là Tình Yêu. Do đó, tình
yêu chính là mục đích và bản chất của Kitô giáo. Việc cầu nguyện, các bí tích
chính là những phương tiện hữu hiệu để thực hiện mục đích hay bản chất ấy. Xin
Cha đừng để người Kitô hữu chúng con lầm lẫn mục đích với phương tiện, điều
chính yếu với điều phụ thuộc. Có như vậy, Nước Trời mới thật sự hình thành tại
trần gian này. Xin cho chính bản thân con ý thức điều đó.
19. Tuyển quân – Lm. Phêrô Bùi Quang
Tuấn
"Đức Giêsu nói với họ: 'Hãy theo
Ta', và họ đã bỏ cả chài lưới mà theo Ngài" (Mc 1,17).
Cuối năm 1999, trước tình trạng thiếu
hụt binh lính trong các đơn vị, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ đã đưa ra một quảng cáo
rất hấp dẫn nhằm chiêu mộ thêm thanh niên nam nữ tòng quân giúp nước.
Ngũ Giác đài đã tặng một món tiền
thưởng lên đến 6.000 đô la cho những ai tình nguyện gia nhập lục quân trong
khoảng thời gian từ cuối tháng Tám cho đến 30 tháng 9. Tuy nhiên kể từ khi tung
ra món tiền "câu người" cộng với những giao kèo cho đi học tại các
ngành nghề thực dụng và cao cấp, rất bảo đảm cho cuộc sống tương lai sau khi
giải ngũ, kết quả tuyển quân vẫn rất khiêm nhường: chưa tới 1,000 người. Trong
khi đó, chỉ tiêu do Bộ quốc phòng đề ra là 6.000.
Người ta cho biết nguyên nhân của sự
thiếu hụt binh lính, cũng như tình trạng đáp ứng không mấy sốt sắng, dù rằng
quảng cáo rất hấp dẫn, là vì tình trạng kinh tế quá khả quan. Cuộc sống còn dễ
thở, công việc không khó kiếm, nên đi lính làm gì. Với lại, cuộc đời quân kỷ
ngày nay khá là gắt gao nên chẳng mấy ai hăng hái tham gia.
Mẫu tin thời sự, tình cờ xem thấy sau
khi đọc qua bài Phúc âm Chúa Giêsu kêu gọi các môn đệ tiên khởi, đã gợi lên
trong tôi đôi chút suy tư: có lẽ chưa lúc nào việc đi lính được ưu đãi như lúc
này: vừa được tiền lại vừa được nhiều lợi lộc khác, sự chết chóc đổ máu không
dễ gì sảy ra. Ấy thế mà chẳng mấy ai hưởng ứng. Lý do là vì sống đời dân sự vẫn
tìm được nhiều tiền hơn. Thế mới hay cái gì lợi vẫn được người ta ưu tiên chọn
lựa.
Riêng việc đi theo Chúa, khách quan mà
nhận xét thì không thấy được đồng nào, thậm chí còn phải từ bỏ rất nhiều: bỏ
thân bằng quyến thuộc, tài sản vật chất, dự tính riêng tư, có khi còn phải đối
diện với khó khăn hiểm nguy, nhưng không hiểu sao theo tổng kết của Toà thánh
thì chiều hướng gia tăng ơn gọi hiện nay rất lạc quan, nhất là tại các vùng Á
châu.
Thử hỏi theo Chúa được lợi gì?
Ngày xưa, khi đáp lại lời mời gọi của
Chúa Giêsu, các tông đồ Phêrô, Anrê, Gioan, Giacôbê đã phải bỏ lại cha mẹ và
những người làm công quen biết. Họ phải giã từ luôn cả chiếc thuyền, tấm lưới,
biển khơi, để theo một con người chỗ gối đầu không có, tài sản nổi chìm gì cũng
không. Đã vậy, tình trạng no đói cũng thất thường, đến nỗi có hôm phải tuốt gié
lúa mà ăn cho đầy bụng. Tương lai về tài chánh, kinh tế, an sinh không có gì
hứa hẹn. Ấy thế mà còn phải đi theo Con Người đó suốt đời.
Đi lính hay tham gia phục vụ trong một
tổ chức hành chánh nào thì cũng có những hạn kỳ nhất định. Ít là 2 hay 3 năm,
nhiều là 40, 50 năm. Sau đó có thể giải ngũ để thực hiện những dự phóng của
mình khi xưa. Còn bước theo Đức Giêsu là phải bước theo suốt cả cuộc đời. Không
có tình trạng vài ba hôm rồi nghỉ, hay 5, 6 năm rồi thôi.
Ấy thế mà tại sao vẫn có không ít người
đã "từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài"? Thử hỏi người ta muốn tìm điều chi
bên kia sự từ bỏ? Trong mọi hành động hay bước đi của con người luôn luôn có
đích tới, vậy đích tới của người theo Chúa Giêsu là gì?
Cuộc đời của con người hay được đan dệt
bởi hai câu hỏi "sống để làm gì?" và "làm gì để sống?" Sự
sống đây tất nhiên không chỉ thuần tuý sự sống của phần xác, được duy trì bằng
ăn uống, hoạt động, ngủ nghỉ, nhưng còn là sự sống tâm linh-một sự sống chỉ
được thăng hoa khi tìm ra ý nghĩa và giá trị của cuộc đời. Song, ý nghĩa cùng giá
trị cao đẹp của cuộc đời con người lại không nằm nơi tiền tài, vật chất, dục
tình, danh vọng, nghề nghiệp, nhưng là con người.
"Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi
làm ngư phủ bắt người" (Mc 1,17). Phục vụ "con người" mới là lý
tưởng và mục tiêu tiến tới. Trải dài trong lịch sử cứu độ, khi Thiên Chúa cất
tiếng gọi hay chọn ai- dù là Abraham, Môisen, Samuen, Đức Maria, hay các tông
đồ Phêrô, Gioan-không bao giờ chỉ để họ được hưởng phúc vinh, nhưng là để cộng
tác trong tiến trình đưa mọi người vào chung hưởng Tin Mừng Thiên Chúa yêu
thương con người.
Để có thể thành công trên bước đường
đem niềm hy vọng yêu thương đến cho mọi người và đưa mọi người về với cội nguồn
yêu thương là Thiên Chúa, kẻ được gọi trước hết cần phải hướng đến, đón nhận,
và bước theo một con người: Đức Giêsu. Đây chính là đích điểm của mọi đích
điểm, giá trị trên mọi giá trị, và chính lộ của muôn vạn nẻo đường. Do đó trước
khi có thể "chài lưới người" là phải "theo Ta". Không thể
nào tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời hay nhận rõ được giá trị của con người để mà
đi "lưới" về, nếu không tin phục Đức Kitô.
Chỉ có Đức Kitô mới có thể làm cho một
ngư phủ lưới cá thành một ngư phủ lưới người. Thế giới vạn vật có gì sánh được
với giá trị siêu việt của con người. Thiên Chúa không đến thế gian để đánh bắt
tôm cá hay cứu vớt một sinh vật nào khác ngoài con người. Cho nên đáp trả lời
mời gọi cộng tác trao ban tình thương của Thiên Chúa cho con người là ta đang
làm cho cuộc sống đời mình nên tốt đẹp, ý nghĩa.
Một lần kia, trên một bài báo, nhà tỉ
phú George Soros đã than thở: "Tôi không biết mình đang giàu hay đang
nghèo; tôi đang làm chủ số phận hay là nô lệ cho thành công? Bởi vì để thành
công tôi phải làm việc như một con chó; để giàu có tôi phải chịu căng thẳng
trường kỳ; và để duy trì phú quí tôi phải chịu cảnh bất an liên tục, một sự bất
an mà thiết tưởng kẻ nghèo khổ nhất hiện nay cũng chưa phải gánh chịu."
Thế rồi một hôm kia, một tiếng gọi vang
lên từ nơi thẳm sâu của tâm hồn George Soros. Trong âm thầm ông đã hành động.
Ông chi viện hàng năm 300 triệu đô la cho người nghèo bên phương Đông, trợ giúp
50 triệu cho người Macedoine đang bị các nước chung quanh cô lập; ông chi 50
triệu cho thành phố Sarajevo trong việc tái thiết hệ thống cung cấp nước cho
người di tản; ông còn trả tiền cho gần 30 ngàn khoa học gia thuộc khối cộng sản
sau khi sụp đổ, để họ không cộng tác với những quốc gia khủng bố, chế tạo bom
đạn nguyên tử, gây tang thương cho thế giới. Sau những công tác cứu trợ nhiều
quốc gia và dân tộc, Soros tâm sự: "Chỉ từ khi biết yêu thương và chia sẻ,
đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự."
Đúng vậy, chỉ khi biết yêu thương và
phục vụ con người trong đường lối của Thiên Chúa, chúng ta mới cảm nếm được giá
trị và ý nghĩa của đời mình.
20. Bỏ nghề chài lưới mà theo Chúa
Giêsu
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng
Lợi)
Jean-Christopher phó tế đã viết:
"... Bốn người trên bờ hồ hôm đó cũng như chúng ta bây giờ, luôn tất bật
sửa sang lại chài lưới, đến nỗi hầu như chúng ta biến thành những tên tù sai
tình nguyện. Chúa Giêsu đến và giải thoát bốn người khỏi những chài lưới của
họ. Tóm lại, chỉ bằng một lời, Người mời họ nhắm vào điều cốt yếu: Nước Trời
đang đến gần". Mở đầu sứ vụ công khai, Chúa Giêsu đã rao giảng: "Hãy
sám hối và tin vào Tin Mừng". Đây là lời kêu gọi khẩn thiết và quan trọng
của Chúa Giêsu đối với mọi người. Bởi vì, sám hối và lòng tin đi đôi với nhau.
Người sám hối trở nên bé nhỏ, khiêm tốn, để đặt tất cả niềm tin của mình vào
bàn tay nhân từ của Thiên Chúa, vào sự thánh thiện của Ngài, vào hạnh phúc nước
trời, vào sự cứu rỗi do Tin Mừng mang đến. Do đó, Chúa Giêsu mời gọi con người
sám hối và tin vào Tin mừng Ngài mang đến.Liền sau lời kêu gọi sám hối và tin
vào Tin Mừng, Chúa Giêsu kêu gọi bốn môn đệ đầu tiên: Phêrô và Anrê,Giacôbê và
Gioan.
Để mở đầu cho sứ vụ công khai rao giảng
nước Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã xin Gioan Tẩy Giả làm phép rửa cho mình trong
dòng sông Giođan. Ngài làm thế để nêu gương khiêm nhượng cho mọi người. Ngài
rao giảng: "Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng". Bước đầu để có lòng tin
thực phải sám hối. Lòng tin khởi đầu bằng sự sám hối. Sám hối và lòng tin như
cặp song sinh. Sám hối là điều kiện cần thiết để trở nên tốt hơn. Như thế, sám
hối có hai khía cạnh tiêu cực và tích cực. Khía cạnh tiêu cực, sám hối là quay
trở về con đường xưa mình đã đi, quay về với chính lòng mình để xem thử những
điều gì là đúng, những điều gì là sai, những điều gì là không phù hợp. Khía
cạnh tích cực là hướng tới tương lai, quyết tâm đổi mới, sống tốt hơn, đẹp hơn,
hoàn thiện hơn, chính vì thế, người sám hối trở nên khiêm tốn: "Người nâng
cao những người phận nhỏ và để những người giàu có trở về tay không" (Lc
1, 52-53). Người sám hối khi đó sẽ đặt hết lòng tin tưởng phó thác vào Chúa,
vào hạnh phúc nước trời, vào sự công chính, vào ơn cứu độ Tin Mừng Chúa mang
đến. Nên, khi tin vào Thiên Chúa, tin vào ơn cứu độ của Ngài, người ta sẵn sàng
sám hối và như thế lòng tin càng được nâng cao, niềm tin trở nên vững mạnh hơn.
Chúa mời gọi con người, loài người sám hối và tin vào Tin Mừng Ngài mang đến
cho nhân loại, mang đến cho mỗi người.
Cái lạ lùng vẫn là Chúa kêu gọi các môn
đệ đi theo Ngài. Chúa kêu gọi sám hối và tin vào Tin Mừng. Chương trình cứu
chuộc của Chúa không chỉ nguyên Chúa là đủ, nhưng Ngài còn nhờ vào bàn tay nối
dài của nhiều người, nhiều môn đệ, nhiều tông đồ. Do đó, nỗi ưu tư hàng đầu của
Ngài là tuyển chọn các môn đệ: "Hãy theo Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi trở
thành những kẻ chài lưới người" (Mc 1, 17). Chúa gọi bốn môn đệ trong khi
các người này đang bận rộn với công việc thường ngày là đánh bắt cá ở biển.
Công việc của các ông lúc đó là kiếm được nhiều cá để bán lấy tiền nuôi sống
bản thân, nuôi sống cha mẹ, gia đình của mình. Nhưng từ đây theo Chúa: Phêrô và
Anrê, Giacôbê và Gioan và sau này các môn đệ khác sẽ chuyển đổi nghề: từ việc
đang làm là đánh bắt cá dưới biển, các ông sẽ trở thành những ngư phủ đánh cá
người khắp thế giới. Nghe tiếng Chúa gọi, Tin Mừng nói rõ, các ông bỏ mọi sự mà
theo Chúa Giêsu. Cuộc đời của các môn đệ từ đây là vâng nghe lời Chúa dạy, các
ông đã hăng say đi khắp mọi nơi rao giảng Tin Mừng, đưa nhiều người về với Chúa
và về với Giáo Hội. Sở dĩ các ông đã làm được công việc đó, vì các ông đã sống
và chia sẻ niềm tin cho những người khác. Tuy nhiên kết quả thế nào, điều đó,
do Chúa quyết định: "Lạy Thầy, chúng con vất vả suốt đêm mà chẳng được con
cá nào, nhưng vâng lời Thầy, con xi thả lưới" (Lc 5, 5). Và rồi kết quả
thế nào, mọi người đều biết: cũng chiếc lưới đó, cũng ngư phủ đó, nhưng lại kéo
lên một mẻ cá ngoài sức tưởng tượng của các ông.
Cái huyền diệu và hết sức ấn tượng, lạ
lùng vẫn là có nhiều tâm hồn quảng đại dấn thân rao giảng nước Thiên Chúa. Ngay
từ thời các tông đồ, Chúa gọi họ, nghe tiếng Chúa, họ sẵn sàng bỏ mọi sự, bỏ cả
cái nghề hái ra tiền để theo Chúa Giêsu. Phải chẳng Đức Giêsu có một lực hấp
dẫn đến nỗi làm cho các môn đệ say mê, bỏ mọi sự mà theo Ngài? Đúng là Đức
Giêsu đã cho các môn đệ thấy Tin Mừng là Ngài đang ở giữa họ. Do đó, họ không
bám víu những gì sẵn có, đang có, nên bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu. Họ đã sống
niềm tin: "Ngài phải lớn lên còn tôi phải nhỏ lại". Họ đã thực hiện
như Gioan Tẩy Giả đã làm: họ trở nên chứng nhân hữu hiệu cho nước Thiên Chúa.
Ngày nay, người môn đệ Chúa phải sống cái cốt lõi của Tin Mừng là yêu thương,
chia sẻ. Do đó, người môn đệ Chúa, tin và sống Tin Mừng hằng ngày và phải chia
sẻ, thực hiện Tin Mừng nơi đời sống của mình bởi vì: "Đức tin không việc
làm là đức tin chết". Jean-Christoper viết tiếp: "Đã từ lâu rồi,
chúng ta nghe Tin mừng? Chúng ta đã làm gì với những chài lưới của chúng ta?
Chúng ta đã lấy những cớ nào để trói chân chúng ta vào đó? Bốn người môn đệ đầu
tiên đã biết đứng dậy và đi theo Chúa Giêsu, họ đã dám bỏ lại những gì đã xiềng
xích họ. Họ đã không sợ. Họ cũng không suy nghĩ gì, họ để Chúa làm. Và nếu
chúng ta cũng để Chúa làm nơi chúng ta thì sao? Và nếu chúng ta đặt lại những
gì chúng ta cho là ưu tiên, và để Chúa đúng vào vị trí của Chúa, vị trí hàng
đầu! Mà không quên rằng, để phục vụ Chúa, để gặp được Người, chính là phải phục
vụ tha nhân... Chúa Giêsu đang ở trên đường chúng ta đi, Người sáp nhập chúng
ta vào công việc của Người: Trở nên những kẻ lưới người".
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ:
1. Ai đã giới thiệu Chúa Giêsu cho hai
môn đệ của Gioan Tẩy Giả?
2. Vai trò của Gioan Tẩy Giả?
3. Ai đã giới thiệu Simon cho Chúa
Giêsu?
4. Chúa Giêsu đã kêu gọi mấy môn đệ đầu
tiên đi theo Ngài?
21. Chúa cần
Hôm đó, Chúa Giêsu đang đi dạo trên bờ
biển, Ngài thấy bóng dáng quen thuộc của những người đánh cá... Có đôi lần họ
đã tiếp xúc với Ngài, cũng như đã nghe Ngài giảng dạy.
Lúc này kẻ thì đang quăng chài, người
thì đang vá lưới. Chúa Giêsu đã nhìn họ với cặp mắt yêu thương và rồi đã lên
tiếng kêu gọi:
- Các con hãy theo Ta.
Và như thế, ơn gọi khởi đi từ một lời
kêu mời của Chúa.
Nơi người Do thái, cũng như nơi các dân
tộc khác, người ta thường tìm thày học đạo. Còn ở đây, chính Chúa Giêsu đi tìm
các môn đệ như lời Ngài đã xác quyết:
- Không phải các con chọn Thày, nhưng
chính Thày đã chọn các con...
Sở dĩ như vậy là vì Ngài biết rõ những
giới hạn của mình trong thời gian và không gian. Ngài cần đến những người cộng
tác với Ngài để làm tròn sứ mạng Chúa Cha đã trao phó.
Với chúng ta cũng thế. Rất có thể lúc
này Ngài cũng đang nhìn chúng ta bằng cặp mắt trìu mến. Không phải chỉ hạnh
phúc cho người nào được thấy Chúa, mà còn phải nói thêm hạnh phúc cho người nào
được Chúa nhìn thấy, được lọt vào ánh mắt yêu thương của Ngài. Chúa Giêsu đang
nhìn chúng ta, chúng ta thế nào thì Ngài thấy chúng ta thế ấy. Cái nhìn của
Ngài không làm cho chúng ta bị tê liệt, bởi vì Ngài chấp nhận thân phận bất
toàn và yếu đuối của chúng ta. Cho nên, chúng ta không cần phải tô son điểm
phấn, chính cái đơn sơ và chân thành của chúng ta mới thu hút Ngài. Ngài nhìn
chúng ta, đồng thời qua cái nhìn ấy, Ngài cũng muốn kêu mời chúng ta trở thành
những môn đệ, những cộng tác viên của Ngài.
Ngày xưa các môn đệ đã từ bỏ cha già,
ghe thuyền, chài lưới cùng với những vui buồn của kiếp sống trên sông nước mà
đi theo Chúa. Còn chúng ta, liệu chúng ta có dám từ bỏ để đi theo Chúa hay
không?
Bởi vì sự từ bỏ luôn là một điều kiện
gắn liền với ơn gọi của người môn đệ:
- Ai muốn theo Ta phải từ bỏ mình, vác
thập giá mình hàng ngày mà theo Ta.
Dĩ nhiên Ngài không đòi hỏi mọi người
phải từ bỏ gia đình, phải từ bỏ nghề nghiệp để đi theo Ngài trong nếp sống tu
trì, nhưng Ngài đòi hỏi mọi người phải từ bỏ mình với sự ích kỷ của bản thân,
với sự chai đá của tâm hồn, với sự xơ cứng của con tim, với những thành kiến
của trí khôn.
Sự từ bỏ nào cũng để lại những đớn đau,
nhưng nhờ đó chúng ta sẽ được lớn lên và trở thành những môn đệ, những cộng tác
viên của Chúa, như hạt lúa phải mục nát thì mới sinh nhiều bông hạt.
Trong khi thu dọn ngôi nhà thờ bị đổ
nát do chiến tranh gây nên. Từ những mảnh vụn, người ta đã dựng lại tượng chịu
nạn. Thế nhưng tượng này lại thiếu mất hai bàn tay. Người ta tìm mãi tìm hoài
trong đống gạch vụn mà cũng chẳng thấy. Cuối cùng người ta đành chịu vậy. Thế
nhưng, một viên sĩ quan đã ghi lại hàng chữ dưới chân tượng như sau:
- Vì đôi tay của Chúa không còn nữa,
nên dân làng hãy thay Chúa làm những công việc mà lẽ ra đôi bàn tay Chúa vốn
thường làm.
Lúc này Chúa đang nhìn chúng ta, Ngài
lên tiếng kêu mời chúng ta bước theo Ngài để trở thành những môn đệ, những cộng
tác viên, những cánh tay nối dài của Ngài trong chương trình cứu độ.
Con người chúng ta thật là cao cả, bởi
vì được Thiên Chúa cần đến. Phải, Ngài cần đến từng người chúng ta như một viên
gạch nhỏ cần thiết cho tòa nhà và chẳng có ai là thừa thãi và vô dụng cả.
22. Cộng tác với ơn Chúa
"Hãy sám hối và tin vào Tin
Mừng"
Sau khi nghe bài đọc thứ nhất, tôi tự
hỏi: Nhờ vào đâu mà dân thành Ninivê đã được Chúa tha thứ, được thoát khỏi hình
phạt nặng nề giáng xuống trên họ.
Tôi xin thưa: là nhờ vào tâm tình sám
hối.
Thực vậy, trước lời cảnh cáo của tiên
tri Giona, họ đã ăn năn và từ bỏ con đường tội lỗi, để rồi đã được hưởng nhờ
lòng khoan dung nhân hậu của Chúa. Chính vì thế, khi bắt đầu cuộc sống công
khai Chúa Giêsu đã kêu gọi:
- Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Qua lời kêu gọi ngắn ngủi này, Ngài
muốn chúng ta cộng tác với Ngài trong chương trình cứu độ. Đúng thế, có lần
thánh Augustinô phát biểu:
- Để tạo dựng nên chúng ta, Chúa không
cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu độ chúng ta Ngài cần chúng ta ưng thuận
và cộng tác với Ngài. Bởi vì Ngài sẽ không thể nào cứu chuộc chúng ta nếu như
chính bản thân chúng ta lại không muốn.
Sự cộng tác của chúng ta, mặc dù rất
nhỏ bé, nhưng lại là một yếu tố quan trọng và có tầm mức quyết định.
Cũng trong chiều hướng đó, chúng ta
thấy tâm tình sám hối ăn năn, chính là sự cộng tác của chúng ta vào với ơn
Chúa, chính là như một thứ tiền bạc thiêng liêng để chúng ta mua lấy ơn tha
thứ.
Chàng trai phung phá sở dĩ đã được
người cha đón nhận, là vì chàng đã có can đảm chỗi dậy, trở về nhà cha. Phêrô
sở dĩ đã được Chúa tha thứ và được đặt làm đầu Giáo Hội, là vì ông đã biết đấm
ngực sau những lầm lỗi của mình. Mađalêna sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là vì
nàng đã biết khóc thương cho quãng đời nhơ nhuốc trong dĩ vãng. Anh trộm lành
trên thập giá, sở dĩ đã được Chúa tha thứ, là bởi vì anh đã quyết tâm trở về
cùng Chúa, mặc dù chỉ trong những giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Nếu như giòng nước rửa tội tẩy xóa mọi
dấu vết của tội nguyên tổ, thì những giọt nước mắt ăn năn sám hối, cũng chính
là một thứ nước có sức gột rửa những dấu vết của tội lỗi mà chúng ta đã trót
vấp phạm. Để nói lên sự cần thiết phải cộng tác với ơn Chúa, tôi xin kể lại một
mẩu chuyện sau đây:
Sau khi cuộc thế chiến lần thứ hai kết
thúc, có một toán lính đồng minh đi giúp những người dân xây dựng lại cuộc sống
trên đống gạch hoang tàn đổ vỡ. Họ làm lại nhà cửa, sửa chữa ngôi nhà thờ trong
làng. Nhưng đến khi dựng tượng Chúa thì toán lính không tìm đâu ra hai bàn tay
của pho tượng đã bị bom đạn cắt cụt. Tìm kiếm suốt một ngày trong đám xà bần mà
cũng chẳng thấy. Toán lính bèn chịu thua. Sau khi dựng bức tượng lên, viên sĩ
quan đã ghi lại một hàng chữ như sau:
- Dân làng sẽ thay Chúa làm những công
việc mà đáng lẽ hai bàn tay Chúa sẽ làm.
Một người đau khổ nghèo túng kêu cầu
Chúa, và cần đến chúng ta để an ủi và giúp đỡ họ. Chúa dùng bàn tay của chúng
ta để xoa dịu những nỗi bất hạnh của người khác.
Cuộc sống của chúng ta phải là một sự
nối tiếp công trình của Chúa, phải là một sự kéo dài cho sự hiện diện đầy tình
thương của Ngài cho đến tận cùng thời gian.
Chúa đã chết trên thập giá để lập nên
kho tàng cứu độ, thế nhưng, chúng ta phải biết giơ bàn tay lên để đón nhận ơn
cứu độ ấy cho bản thân và cho những người chung quanh của chúng ta.
23. Lời mời gọi
Chủ đề về sự thống hối là một trong
những chủ đề chính của các bài đọc hôm nay. Chúng ta nhận thấy cách thế ngôn sứ
Giô-Na rao giảng về sự thống hối cho thành phố ngoại đạo của Ninivê, và đã gặp
được một sự đáp ứng ngay tức khắc và hết mình. Đức Giêsu cũng bắt đầu sứ vụ
công khai của Người bằng lời rao giảng: "Hãy sám hối và tin vào Tin
Mừng". Nhưng thật không may, Người đã không hề gặp được một cách đáp ứng
tương tự.
Nhiều người nhận thấy rằng ý tưởng
thống hối là một ý tưởng gây rắc rối. Thống hối có nghĩa là thay đổi tầm nhìn
của người đó về cuộc sống, và điều chỉnh những hành động của mình một cách phù
hợp. Điều đó có nghĩa là thay đổi tâm hồn và thay đổi lối sống, có lẽ là hoàn toàn
thay đổi cuộc sống của mình, theo chiều ngược lại. Như thế, sự thống hối nối
kết với cảm giác đau đớn. Đó là lý do tại sao người ta chậm đi theo sự thống
hối, và chỉ muốn được yên thân.
Có một câu chuyện từ những ngày mà đạo
Công giáo vừa mới đến Rôma. Câu chuyện này liên quan đến một người lính Rôma,
tên là Livinius, đã yêu một thiếu nữ Công giáo. Tuy nhiên, nàng không đồng ý
yêu người lính đó, bởi vì anh ta không phải là người Công giáo. Một đêm kia,
anh ta đi theo nàng đến một nơi gặp gỡ bí mật của một nhóm Kitô hữu nhỏ, tại
đó, không để cho bất cứ ai nhận ra mình, anh ta lắng nghe phụng vụ.
Khi được nghe đến lời rao giảng của
thánh Phêrô, có một điều gì đó xảy ra nơi tâm hồn của anh. Một tầm nhìn mới về
cuộc sống mở ra trước mặt anh. Nhưng anh biết ngay rằng nếu anh đi theo lời
giảng dạy này, thì anh sẽ phải bỏ đi những tư tưởng, thói quen, mục đích và
tính cách cũ của mình. Thế rồi anh ta sẽ phải sống theo một lối sống hoàn toàn
khác hẳn. Chúng ta không biết rằng anh ta có đủ yêu người thiếu nữ đó, đến nỗi
chịu thay đổi lối sống của anh ta đến thế không.
Đó là một ví dụ về sự thống hối – quay
lưng lại với những điều rõ ràng là xấu xa, chẳng hạn như nghiện ngập, bất
lương, loạn luân. Nhưng đây chỉ là một loại thống hối mà thôi. Cũng có một sự
thống hối được chuyển thành lòng tốt. Ở đây, sự thay đổi không nhất thiết phải
mạnh mẽ, quyết liệt. Sự thay đổi có thể xuất phát từ một lối sống hoàn toàn ích
kỷ, đến một lối sống yêu thương và quan tâm hơn. Loại thay đổi này cũng gây ra
sự đau xót. Ai muốn giũ khỏi lối sống theo nhục dục, tìm kiếm tiện nghi, và
nuông chiều bản thân?
Sự thống hối là điều gì đó chủ yếu là
tích cực. Thật vậy, thống hối là thừa nhận rằng tất cả mọi sự nơi bản thân mình
đều chưa tốt đẹp. Nhưng cũng là khám phá rằng con người mình có một điều gì đó
tuyệt vời, nghĩa là có những tiềm năng, mà mình chưa biết là mình có. Điều này
có nghĩa là người đó đang đạt được một tầm nhìn mới, đang đi theo một đường
hướng mới, tự mình theo đuổi những mục đích xứng đáng hơn, sống theo những giá
trị tốt đẹp hơn. Nói tóm lại, điều này mở ra một lối sống mới.
Không ai có thể đạt được lối sống mới
một cách nhanh chóng và không hề đau xót gì cả, nếu không, tất cả mọi người đều
sẽ chọn lựa lối sống đó. Nói đúng hơn, điều này đưa đến một cuộc hành trình và
đấu tranh, mà trong đó không ai hoàn toàn đạt được chiến thắng.
Không giống như sự ân hận, thống hối mở
ra con đường tái sinh. Khi thấu hiểu được điều này, thì thống hối lại là một
công việc đầy phấn khởi, và luôn luôn đưa đến niềm vui. Điều này có nghĩa là
chúng ta biết lắng nghe và sống theo Tin Mừng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét