CHÚA NHẬT 2 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: 1Sm 3,3b-10.19; 1Cr
6,13c-15a.17-20; Ga 1,35-42
MỤC LỤC
1. Gặp gỡ Tin Mừng
2. Tôi đã gặp
3. Hãy đến mà xem – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
4. "Hãy quên đi cái tôi..." –
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
5. Bước theo Đức Kitô trong cuộc sống hôm
nay
6. Ơn gọi – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
7. Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế
8. Đáp lời Chúa gọi – Lm. Đam Trần Đình
Nhi
9. Lắng nghe tiếng Chúa
10. Họ đến và ở lại với Người
11. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn
Nam
12. Thi hành sứ vụ nhân danh Ngài.
13. Gặp gỡ Đức Kitô.
14. Thầy ở đâu - Hãy đến mà xem
15. Hành trình ơn gọi – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
16. Lựa chọn theo Chúa
17. Giới thiệu
18. Giới thiệu
19. Cuộc gặp gỡ
20. Các môn đệ đầu tiên - JKN
21. Đến và ở lại – Anmai
22. Chú giải của Noel Quesson
23. Các môn đệ đầu tiên – Lm. FX. Vũ
Phan Long
1. Gặp gỡ Tin Mừng
Tin Mừng là để được loan báo, và chia
sẻ cho người khác.
Thực vậy, trong đêm giáng sinh, các
thiên thần đã loan báo cho các mục đồng: Này tôi báo cho anh em một Tin Mừng
trọng đại, cũng là Tin Mừng cho toàn dân: Hôm nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho
anh em trong thành của vua Đavít. Còn đối với các đạo sĩ Phương Đông, con đường
dẫn đến Tin Mừng lại là một ngôi sao lạ xuất hiện trên bầu trời.
Thực vậy, có muôn ngàn cách thế và nẻo
đường khác nhau để Thiên Chúa hướng dẫn con người nhận ra Tin Mừng, Lời Chúa
hôm nay cũng muốn gợi lên cho chúng ta ý tưởng đó.
Gioan Tiền Hô đã gặp Chúa Giêsu và giới
thiệu Ngài cho các môn đệ: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian. Và
các môn đệ đã từ giã Gioan là thầy mình, để đi theo Chúa Giêsu và ở lại với
Ngài suốt ngày hôm đó. Rồi đến lượt Andrê đã trở về và dẫn anh mình là Simon
đến gặp Chúa Giêsu và đã được Ngài đổi tiên cho ông là Kêpha.
Những cuộc gặp gỡ trong Tin Mừng luôn
có những diễn tiến như vậy. Một người nào đó gặp Chúa, họ trở về và loan báo
cho người khác. Như các mục đồng chăn chiên, như ba nhà đạo sĩ phương Đông, như
Andrê với Simon, như Philipphê với Nathanael...
Hoặc nếu không qua trung gian, thì
chính Chúa Giêsu lại gặp gỡ con người trong chính cuộc sống của họ: Người thì
đang giặt lưới dưới thuyền, kẻ thì đang trầm tư suy nghĩ dưới gốc cây vả, kẻ
khác thì đang ngồi ở bàn thu thuế hay đang ở trên cây cao như ông Giakêu...
Thiên Chúa luôn đến với chúng ta qua
một trung gian: Trung gian của một người đã gặp Chúa, trung gian của một cuộc
sống hay của một biến cố nào đó. Có thể nói: Bao nhiêu cuộc gặp gỡ và biến cố
trong cuộc sống là bấy nhiêu dịp để nhận ra Tin Mừng, là bấy nhiêu dấu chỉ mời
gọi để gặp gỡ Chúa.
Thánh Phanxicô Xaviê đã nhận ra con
đường Chúa muốn ngài đi qua lời nhắc bảo của thánh Ignatio: Được lời lãi cả thế
gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi. Thi sĩ Paul Claudel đã nhận ra tiếng
Chúa trong tiếng hát của lời kinh Magnificat vào buổi chiều ngày lễ Giáng sinh.
Văn sĩ Andrê Frossard cảm nhận được sự hiện hữu của Thiên Chúa qua ánh nến lung
linh trên bàn thờ. Đức Hồng Y Lustiger vào năm 14 tuổi, đã nhận ra Đấng Cứu Thế
trong một buổi chiều thứ sáu Tuần Thánh. Còn chúng ta thì sao?
Chúng ta có nhận ra tiếng Chúa mời gọi
qua những biến cố, qua những sự việc của đời thường hay không? Và hơn thế nữa,
liệu bản thân và cuộc đời chúng ta có trở nên là một dấu chỉ cho sự hiện diện
và tình thương của Chúa hay không?
2. Tôi đã gặp
Là người đạo gốc, chúng ta vốn thường
xuyên đọc kinh xem lễ, nhưng rồi một ngày nào đó chúng ta băn khoăn tự hỏi:
Liệu chúng ta đã thực sự gặp gở Chúa hay chưa? Vậy thế nào là gặp gỡ Chúa? Kinh
Thánh đã kể lại biết bao nhiêu sự gặp gỡ.
Trong Cựu ước, qua bài đọc một, chúng
ta thấy Samuel đã gặp gỡ Chúa ngay từ buổi thiếu thời và đã bước theo tiếng gọi
của Ngài trong suốt cuộc đời.
Trong Tân ước, trước tiên là các môn
đệ. Các ông đã đi theo Chúa, nhất là khi đã cảm nghiệm được mầu nhiệm Phục
Sinh, các ông đã mạnh dạn rao giảng Tin Mừng mặc bao gian truân nguy hiểm trên
con đường thực hiện sứ vụ.
Tiếp đến là những người phụ nữ. Chẳng
hạn như người đàn bà ngoại tình đã được Chúa che chở bình an trước những kẻ cực
đoan định ném đá chị. Hay như Madalena, ngay từ buổi gặp gỡ Chúa đã đoạn tuyệt
với cuộc đời tội lỗi để sống xứng đáng với ơn tha thứ chị đã nhận lãnh.
Đặc biệt nhất là thánh Phaolô. Kể từ
khi bị ngã ngựa trên đường đi Đamas, ông đã bừng tỉnh. Từ một kẻ say sưa bắt bớ
các tín hũu, ông đã trở thành một tông đồ nhiệt thành và xác tín: Đức Kitô sống
trong tôi... và không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. Ông đã
cảm nhận mình là chi thể của Đức Kitô, là đền thờ của Thiên Chúa, và trong suốt
cuộc đời còn lại ông đã trung thành với ơn gọi của mình, là đem Tin Mừng đến
cho dân ngoại.
Trong lịch sử Giáo Hội, sự gặp gỡ làm
thay đổi cuộc đời đã được thể hiện qua hình ảnh của thánh Augustinô, thánh
Ignatiô và nhiều vị thánh khác. Từ một cuộc sống sa ngã trác táng, họ đã trở
nên những con người thánh thiện, nhiệt thành với sự nghiệp Nước Chúa.
Một câu nói của Chúa: Được lời lãi cả
thế gian mà mất linh hồn thì có ích lợi chi, đã làm chuyển hướng cả cuộc đời
của Phanxicô. Một câu trong Phúc âm: Hãy bán tất cả, làm phúc cho kẻ nghèo rồi
đến mà theo Ta, đã thay đổi hẳn con người của Antôn.
Và gần đây, Mẹ Têrêxa thành Calcutta , mẹ đã gặp Chúa
nơi những người nghèo khổ mà mẹ đã đem cả cuộc đời mình để phục vụ. Cha Lelotte
trong cuốn "Những người trở lại trong thế kỷ 20" ghi lại hơn ba mươi
khuôn mặt từ giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân và cả những người ngoài Kitô
giáo, cha trình bày kinh nghiệm gặp gỡ Chúa một cách độc đáo, riêng biệt của
từng người. Và từ ngày ấy cuộc đời của họ đã biến đổi một cách sâu sắc. Nhưng
dẫu bởi cách thức nào đi chăng nữa, thì qua lần gặp gỡ đầu tiên ấy, tất cả đều
cảm nhận được Chúa một cách rất cụ thể, Ngài thực sự hiện diện mà họ có thể
nhìn thấy, có thể trao đổi. Đồng thời cũng họ cảm nhận được tình thương cao cả
của Ngài đối với con người qua hình ảnh của Chúa Giêsu, Đấng đã xuống thế, chia
sẻ thân phận của con người, chịu mọi khổ nhục và cuối cùng chịu chết trên thập
giá để làm chứng cho tình yêu.
Qua sự gặp gỡ yêu thương ấy, con người
chỉ có một cách đáp trả duy nhất là thực hiện lời dạy của Ngài: Các con hãy yêu
thương nhau như Thày đã yêu thương các con.
Đó là một ơn huệ lớn lao và cũng là một
đòi hỏi triệt để của Chúa đối với con người. Dấu chứng của sự gặp gỡ Chúa là
một cuộc sống biến đổi tích cực được thể hiện qua sự an bình và tình yêu
thương. Và như thế, chúng ta đã thực sự gặp Chúa hay chưa?
3. Hãy đến mà xem – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
Vào khoảng năm 1965 về trước, thời bấy
giờ chưa có vô tuyến truyền hình, nên mỗi lần có trận giao đấu bóng đá giữa hai
đội mạnh, thính giả toàn quốc chỉ được nghe tường thuật về trận đấu qua làn
sóng của đài phát thanh.
Thật khó hình dung nổi diễn tiến trận
đấu với những pha đi bóng gay cấn, những cú sút ngoạn mục khi chỉ được nghe
bằng tai.
Hiện nay, chuyện theo dõi trận đấu qua
đài phát thanh đã thuộc về quá khứ vì ưu thế vượt trội của kỹ thuật truyền
hình. Nhờ đủ dạng sóng truyền hình hiện đại bao trùm trái đất, người hâm mộ
bóng đá từ phần nửa bên nầy địa cầu có thể chứng kiến, như thể tận mắt, từng
chi tiết, từng pha đi bóng của những cầu thủ trong những trận đấu diễn ra ở nửa
bên kia trái đất.
Thế là từ khi có truyền hình, không ai
mê bóng đá lại theo dõi trận đấu qua đài phát thanh nữa. Từ kỹ thuật truyền
thanh chuyển qua truyền hình là cả một bước tiến vượt bậc.
* * *
Tiến trình mặc khải cũng trải qua hai
chặng đường như thế.
Khởi đầu, Thiên Chúa không trực tiếp tỏ
mình cho loài người nhưng chỉ phán dạy qua các ngôn sứ, - như thể qua xướng
ngôn viên trên các đài phát thanh - nên chân dung của Thiên Chúa còn rất mờ mịt
đối với loài người.
"Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách,
Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ" (Dt 1,1a).
Tiến sang giai đoạn hai, Thiên Chúa
không còn mặc khải Người bằng lời qua trung gian các ngôn sứ nữa, nhưng đã bày
tỏ chính Mình qua Con chí ái là Đức Giêsu Kitô.
"Nhưng vào thời sau hết nầy, Thiên
Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử." (Dt 1,1b)
Thế là từ đây, Lời của Thiên Chúa - tức
Ngôi Lời - không còn là tiếng nói từ cõi xa xăm vọng lại, nhưng đã mặc lấy một
hình hài, một thân xác để cho mọi người không những được nghe tiếng mà còn có
thể nhìn ngắm, đụng chạm, tiếp xúc với Ngôi Lời.
"Ngôi Lời đã trở nên người phàm và
cư ngụ giữa chúng ta." (Ga 1,14)
"Người là hình ảnh trung thực của
Thiên Chúa" (Dt 1,3)
Thế là chương trình mặc khải của Thiên
Chúa đã chuyển sang một khúc quanh mới: giai đoạn mặc khải qua hình ảnh, qua
chân dung - như kỹ thuật vô tuyến truyền hình hiện nay - đã khai mở. Nhờ đó,
nhân loại không những có thể "nghe", mà còn "thấy tận mắt, được
chiêm ngưỡng và được chạm đến Lời" của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. (thư
IGa 1,1)
* * *
Hãy đến mà xem
Trăm nghe không bằng một thấy. Nghe
tường thuật về một trận bóng sao bằng tận mắt xem trận đó, ít nữa qua chiếc TV.
Chính vì thế nên khi Anrê và một môn đệ
khác của Gioan Tẩy Giả được giới thiệu cho biết Đức Giêsu là chiên Thiên Chúa,
hai ông liền tìm gặp Chúa Giêsu để tìm hiểu Người.
Chúa Giêsu quay lại hỏi: "Các anh
tìm ai?". Họ thưa Ngài: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?". Chúa Giêsu
đáp: "Hãy đến mà xem".
Hai anh em nầy đến với Chúa Giêsu, ở
lại với Người, rồi mới sống gắn bó và trở thành môn đệ của Người.
* * *
Chúa Giêsu mời gọi "hãy đến mà
xem", nhưng chúng ta có thể nhìn xem Chúa ở đâu?
Trước hết là trong Kinh Thánh. Thánh
Giêrônimô dạy: "Không biết kinh thánh là không biết Chúa Giêsu". Từng
trang, từng dòng trong kinh thánh đều hoạ lại chân dung Chúa Giêsu và âm vang
lên sứ điệp của Người. Biết bao nhiêu người nhờ thường xuyên nhìn ngắm cuộc đời
và lắng nghe lời dạy của Chúa Giêsu trong Tân Ước, dưới sự soi sáng của Chúa
Thánh Thần, đã được diễm phúc cảm nghiệm được Chúa là Đấng tuyệt vời khôn tả.
Dostoievski, đại văn hào trứ danh người
Nga ở thế kỷ 19, cũng là ngôi sao sáng trong trong làng văn học thế giới, từng
viết nhiều tác phẩm đồ sộ có giá trị vượt thời gian và không gian, thường chiêm
ngưỡng Chúa Giêsu trong Tin Mừng nên mới cảm nhận được nét đẹp cao quý tuyệt
vời của Chúa Giêsu và đã tuyên xưng Người qua bức thư gửi cho bà Von Vizine.
Bức thư nầy thường được gọi là kinh tin kính của Dostoievski: "Đối với
tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô,
và hơn thế nữa, nếu ai chứng minh với tôi rằng Đức Giêsu ở ngoài chân lý, thì
tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý".
Ước gì chúng ta thường xuyên "đến
mà xem" Chúa Giêsu trong kinh thánh, "ở lại với Người" nơi bí
tích thánh thể, để rồi say mê Người như Dostoievski và trở thành môn đệ Người
như Anrê và người bạn của ông.
4. "Hãy quên đi cái tôi..." –
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Có một bài hát sinh hoạt quen thuộc vẫn
mời gọi chúng ta: "Hãy quên đi cái tôi để mang Chúa đi vào đời". Xem
ra để mang Chúa vào đời phải quên đi cái tôi của riêng mình để sống cho Thiên
Chúa. Xem ra để mang Chúa vào đời phải từ bỏ tham vọng của cái tôi ích kỷ để
Chúa được lớn lên trong đời sống chứng nhân của chúng ta. Vì ở đời ai cũng
thích danh vọng. Ai cũng mong cho mình được nổi tiếng, được trở thành ân nhân
của xã hội. Xem ra từ thích danh vọng đến hám danh hám lợi thật gần, gần đến
nỗi nhiều người đã trơ trẽn nhận phần vinh quang về mình, cho dù vinh quang đó
không do công của mình.
Ngày nay ai cũng sợ bệnh thành tích. Vì
nó là nguyên nhân dẫn đến ham danh hão huyền. Vì nó là nguyên nhân dẫn đến biết
bao tiêu cực bởi sự gian dối, lường gạt. Những con người ham danh thường là
sống giả dối, thiếu chân thật. Những con người ham danh thường tìm vinh quang
về mình. Thích được tán thưởng. Thích được biết ơn. Nhưng đôi khi họ chỉ là một
loại Lý Thông cướp công Thạch Sanh như trong truyện dân gian Việt Nam .
Có một nhà truyền giáo tâm sự rằng:
ngài đã từng truyền giáo tại Đông Timor . Đó là
một đất nước nghèo nàn và lạc hậu. Người dân còn thiếu rất nhiều phương tiện
tối thiểu của cuộc sống. Ngài đã vận động rất nhiều các cá nhân và tổ chức từ
thiện ở mọi nơi để giúp đỡ cho người dân Đông Timor .
Nhiều nơi hưởng ứng và nhờ đó ngài đã có rất nhiều tặng phẩm để tặng cho người
nghèo. Tự nhiên ngài được người dân kính nể, yêu mến và biết ơn. Thế nhưng,
ngài lại mắc cở khi được người đời ca tụng. Vì ngài biết rất rõ, ngài chỉ là kẻ
phân phát, là trung gian chứ không phải là chủ nhân. Ngài chẳng có chỉ ngoài
đôi tay để đón nhận và trao ban. Ngài không có quyền nhận cái không phải của mình.
Vì tiền bạc, của cải là của những nhà hảo tâm trao cho ngài để ngài trao đến
cho anh em nghèo khó. Từ đó, ngài đã rút ra kinh nghiệm rằng: cái khó của người
làm công tác từ thiện là làm sao đửng nhận mình là người ban phát, đừng tưởng
rằng những tặng phẩm đó là của mình cho người nghèo. Hãy khiêm tốn đừng nhận
phần đó về mình là những lời khen, những lới tán dương... Hãy biết cho đi cả
danh dự của mình, vinh quang của mình. Hãy tự biết mình chỉ là tôi tớ hèn mọn
được Chúa sử dụng mang lại niềm vui cho những anh em nghèo khó.
Đó cũng là cung cách của thánh Gioan
Baotixita. Ngài luôn sống khiêm tốn trước mặt mọi người. Ngài đã từng không dám
nhận phần vinh dự về mình, khi ngài nói: "Có Đấng đến sau tôi. Ngài cao
trọng hơn tôi. Tôi không đáng cởi dây giầy cho Người". Ngài đã từng mong
ước cho đời sống chứng nhân của ngài luôn "nhỏ bé để Chúa được lớn
lên". Ngài chỉ muốn những việc ngài làm sẽ dẫn người khác đến với Chúa.
Ngài muốn dùng cuộc đời chứng nhân của mình để tôn vinh Thiên Chúa.
Hôm nay, ngài cũng sẵn sàng để các môn
đệ của mình đến với Chúa. Ngài không dám giữ các môn đệ cho riêng mình. Ngài đã
giới thiệu cho các môn đệ về danh tính của Đấng Messia. Đây mới chính là Chiên
Thiên Chúa. Đây mới xứng đáng là Thầy mà các ngươi cần đi theo. Ngài sẵn lòng để
các môn đệ ra đi. Ngài biết phận mình chỉ là kẻ dọn đường cho Đấng Cứu Tinh
nhân trần.
Ước gì ở đời có nhiều tâm hồn quảng đại
sẵn lòng dấn thân làm chứng cho tin mừng của Chúa nhưng vẫn luôn khiêm tốn và
ẩn mình đi. Dấn thân một cách vô vị lợi. Dấn thân một cách quên mình. Dấn thân
để tôn vinh Thiên Chúa, chứ không tôn vinh mình. Dấn thân để làm vinh quang
Thiên Chúa, chứ không nhằm rạng danh mình. Dấn thân để mang anh em đến với
Chúa, để tạ ơn và chúc tụng Thiên Chúa, chứ không phải đến với mình để tâng bốc
tán dương. Ước gì mỗi người chúng ta luôn có lòng quảng đại để cho đi cái riêng
của mình để làm giầu có cho Thiên Chúa, như Gioan đã cho các môn đệ đến với
Thầy Giêsu, như Anre đã mang em mình là Simon đến với Chúa. Ước gì chúng ta
luôn nhỏ bé, khiêm tốn, đừng đề cao mình quá đáng, đừng tìm cách tán dương mình
mù quáng. Hãy để những công việc mình làm cho danh Chúa được cả sáng.
Lạy Chúa, ở đời ai cũng thích được tán
dương, được khen thưởng, được đề cao giữa mọi người. Người đời thường đua nhau
danh vọng. Chính vì vậy mà cuộc đời không thiếu những thị phi, những bất
công... Xin cho chúng con luôn khiêm tốn, bé nhỏ để Chúa được lớn lên trong
cuộc đời chúng con. Amen.
5. Bước theo Đức Kitô trong cuộc sống
hôm nay
(Suy niệm của JB. Nguyễn Quốc Tuấn)
Cuộc sống hôm nay đang đặt ra cho người
Kitô hữu rất nhiều chọn lựa: chọn lựa giữa niềm tin vĩnh cửu với sự hấp dẫn kỳ
thú của những thành tựu vĩ đại do nền khoa học kỹ thuật tiên tiến mang lại,
giữa hành vi buông thả, tự do quá trớn với thái độ đúng mực theo nền tảng luân
lý truyền thống, nhất là sự cân nhắc chọn lựa giữa các "thần tượng"
trần thế với lời mời gọi lý tưởng đến từ thập giá Đức Kitô... Dưới ánh sáng Lời
Chúa, chúng ta bắt gặp được câu trả lời thỏa đáng cho những chọn lựa ấy. Tin
mừng Ga 1, 35 – 42 đã gợi lên cho chúng ta kinh nghiệm đáp trả đích thực của
người môn đệ Chúa trước lời mời gọi của Đức Kitô.
1. Tiếng gọi từ thập giá
Gioan Tiền hô đã không giới thiệu Đức
Giêsu "với hai người trong nhóm môn đệ" như là vị vua hùng dũng sẽ
đem vinh quang cho toàn cõi Israel ở phương diện trần thế, nhưng "là Chiên
Thiên Chúa" (Ga 1, 36b). Khi nghe biết tước hiệu của Đấng đang "đi
ngang qua" là "Chiên Thiên Chúa", chắc hẳn hai môn đệ của Gioan
(Anrê và một môn đệ khác) không khỏi sững sờ và kinh ngạc về vai trò và vị thế
của Đức Giêsu trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Lời giới thiệu của
Gioan mở ra bước ngoặt trọng đại có liên quan đến sứ vụ của các ông và toàn
nhân loại. Cũng chính trong thời điểm ấy, hai môn đệ của Gioan đã lắng nghe
"tiếng gọi từ phía bên trong", nhắc bảo các ông hãy bước theo Đấng
cứu độ đích thật, là "Đấng Thiên Chúa tuyển chọn", "Đấng làm
phép rửa trong Thánh Thần" (Ga 1, 33b). Nghiệm thấu điều này, hai môn đệ
"liền đi theo Đức Giêsu" với tất cả niềm tín thác và hy vọng về giá
máu cứu độ của "Chiên Thiên Chúa". Hành trình sứ vụ trước mắt các ông
là chặng đường đau khổ để minh chứng cho sự chọn lựa đúng đắn của mình vào thập
giá Đức Kitô. Với tất cả tình yêu tận hiến, hai môn đệ của Gioan đã trở thành
những môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu.
Tiếng gọi từ thập giá vẫn vang vọng
trong tâm thức của người Kitô hữu hôm nay và với hết thảy những ai đang hướng
chiều về Đấng là "Chiên Thiên Chúa" đang "đi ngang qua" đời
họ với bao nỗi niềm buồn vui, khổ đau, hạnh phúc... Có khi, dường như ta đã tỏ
ra e sợ trước những khổ đau đến từ thập giá. Có lúc, người mang danh kitô hữu
lại nhát đảm, thậm chí khước từ, chạy xa khỏi mối dây thông hiệp với cuộc khổ
nạn, phục sinh của "Chiên Thiên Chúa" trước những đắng cay, nghiệt
ngã của cuộc lữ lành đức tin. Giữa bộn bề, ngổn ngang của bao định hướng, lựa
chọn và những áp lực, cám dỗ của lối sống hình thức, tiếng gọi từ thập giá
nhiều khi bị chìm lắng và có nguy cơ tan biến trong tâm khảm chúng ta...Hệ quả
là, ta phải đứng giữa trăm chiều do dự, lần mò giữa mục tiêu tối hậu với những
phương tiện tạm thời, làm cản lối về vinh quang đích thực chỉ có thể tìm thấy
nơi thập giá Đức Kitô.
Thái độ đáp trả của hai môn đệ mời gọi
ta hãy dứt khoát, can đảm bước ra khỏi lối mờ tối của những lựa chọn và hướng
thắng về phía thập giá, ở đó, "Chiên Thiên Chúa" là mẫu hình lý tưởng
nhất cho đời ta. Vì chỉ nơi "Chiên Thiên Chúa", ta mới được biến đổi
trong tiến trình hoán cải nội tâm thực sự, nhờ hiệu quả "từ nguồn sung mãn
của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận từ ơn này đến ơn khác" (Ga 1, 16).
2. Sống với Đức Kitô
Bước theo Đức Kitô, cũng có nghĩa là
chúng ta biết đáp trả cách nhiệt thành và kiên trung trước tiếng gọi từ thập
giá. Như hai môn đệ của Gioan, sau khi đã nghe Gioan giới thiệu Đấng "là
Chiên Thiên Chúa", hai ông đã không hề do dự nhưng đã hoàn toàn dứt bỏ lối
cũ và nhất mực bước đi theo Người, để sống với Người. Câu hỏi của các ông,
"Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" (Ga 1, 38b), hàm ẩn niềm khát khao kiếm tìm
tận căn thân thế và hành động yêu thương của "Chiên Thiên Chúa" khi
Người cứu độ nhân loại. Được tình yêu cứu độ thúc bách, các ông đã "đến
xem chỗ Người ở, và ở lại với Người" (Ga 1, 39b). Để từ đây, "hai
người trong nhóm môn đệ" của Gioan có thể thông dự vào đời sống thần nhiệm
sâu xa và sung mãn của Đức Kitô, nhờ lòng tin và tình yêu tận hiến cho vinh
quang thập giá.
Đời sống của người kitô hữu là một tiến
trình bền bỉ, liên tục kết hiệp mật thiết và sinh động với sự sống của Đức
Kitô. Dấu chứng cho sự kết hiệp này được biểu tỏ qua thái độ hy sinh trao hiến
của chúng ta như hệ quả do bởi giá máu cứu chuộc của Con Chiên Thiên Chúa. Dù
phải đối diện với những chọn lựa đầy khó khăn, người tông đồ của Đức Kitô hôm
nay cũng được mời gọi đáp trả tiếng Chúa qua hành động kiếm tìm và "ở
lại" trong tình yêu của Người.
Sống với Đức Kitô là cảm thông, sớt
chia và làm triển nở tình yêu cứu độ của Người. Hôm nay, ta không thể "đến
xem chỗ Người ở" cách thể lý, nhưng mỗi người chúng ta là thành viên chính
thức, được hạnh phúc thông dự vào "Ngôi Nhà" Giáo hội do Đức Kitô
thiết lập nên, là chính Nhiệm Thể của Người. Do đó, khi ta chu toàn sứ vụ của
một chi thể ngay giữa lòng Giáo hội thì ta cũng đồng thời được kết hiệp với sự
sống trọn hảo của Đức Kitô.
Sống với Đức Kitô, là tháp hiệp vào
trong từng hơi thở, trong ánh mắt yêu thương, trong mỗi cử chỉ, hành vi trao
hiến của Người. Tình yêu của Đấng "là Chiên Thiên Chúa" sẽ hiển trị
khi ta biết mở rộng cõi lòng để đón nhận và đỡ nâng biết bao phận người đang bị
vùi dập giữa những khổ đau của kiếp nhân sinh. Như Đức Kitô, ta hãy dõi ánh mắt
yêu thương về phía hận thù và hãy nói lời thứ tha được khởi phát từ con tim dạt
dào Đức ái trong ta. Như Đức Kitô, ta hãy cúi xuống và vực dậy nhân loại hôm
nay đang cố rời xa những chuẩn mực nền tảng của Tin Mừng.
Ta hãy "ở lại" với Đức Kitô
trong nhiệm tích Thánh Thể, để được thông truyền sự sống và tình yêu tuyệt hảo,
nhờ đó, ta có được sức mạnh thần linh để sống chứng nhân cho Người trong cuộc
sống hôm nay.
3. Chứng nhân cho Đức Kitô
Theo lời mời gọi của Đức Giêsu, Anrê và
người môn đệ ẩn danh không chỉ "đến xem" và "ở lại với Người
ngày hôm ấy" (Ga 1, 39b), nhưng các ông đã báo tin vui cho Si-mon và những
người khác: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (Ga 1, 41b). Như vậy,
được sống với Đức Giêsu dù chỉ trong khoảng khắc ngắn ngủi của buổi đầu gặp gỡ,
các môn đệ đầu tiên đã thấu cảm gương mặt đích thực của "Chiên Thiên
Chúa" như lời giới thiệu của Gioan. Các ngài đã được biến đổi thành những
tông đồ thực thụ nhờ được "ở lại" trong tình yêu của Đức Kitô. Tình
yêu ấy thúc bách các ngài tiến xa hơn trên hành trình sứ vụ giới thiệu
"Chiên Thiên Chúa" cho muôn người, dẫu phải trả giá bằng chính mạng
sống của mình.
Bước theo Đức Kitô trong cuộc sống hôm
nay, chúng ta cũng được mời gọi trở nên chứng nhân trung thành của Người trước
một nhân loại đang tỏ ra lãnh đạm với chân lý và mục tiêu tối hậu. Trong bối
cảnh ấy, tiếng gọi từ thập giá vẫn không ngừng âm vọng trong cõi sâu thẳm của
con người, kêu mời sự dấn thân quả cảm của những tâm hồn thiện chí cho sự sống
và tình yêu của Đức Kitô được trở nên dũng khí linh nhiệm nhằm cảm hóa và biến
đổi thế giới này.
Các môn đệ đầu tiên chỉ có thể giới
thiệu Đức Kitô cho những người khác sau khi các ông đã "đi theo", đã
"đến xem" và "ở lại" với Người. Chúng ta chỉ có thể trở nên
chứng nhân mạnh bạo, can trường của Đức Kitô khi ta đã sống kinh nghiệm thông
dự vào tình yêu thập giá cách trọn hảo.
6. Ơn gọi – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Thiên Chúa có chương trình cho mỗi
người; tuy nhiên nếu ai không đáp trả tiếng gọi của Ngài, thì Thiên Chúa vẫn
yêu thương và tiếp tục mời gọi họ theo chương trình yêu thương của Ngài. Thiên
Chúa luôn mong muốn và mời gọi mỗi người sống hạnh phúc, không chỉ ở đời sau
nhưng ngay đời hiện tại này nữa.
1) Chúa gọi Samuel
Samuel là người con được sinh ra sau
khi bà Anna, một phụ nữ hiếm muộn, cầu khẩn Đức Chúa. Người mẹ đã cầu xin Thiên
Chúa ban cho mình người con, bà cầu nguyện khẩn thiết đến độ thầy tư tế Hêli
tưởng bà say rượu nói nhảm. Sau khi nghe bà trình bày, thầy Hêli chúc lành cho
bà, và sau đó bà sinh hạ Samuel. Bà mẹ này đã dâng người con quý cho Thiên
Chúa, để Samuel được phục vụ trong nhà Thiên Chúa. Bà Anna nhận ra rằng, tuy
Samuel là con bà, nhưng Samuel cũng là người thuộc về Thiên Chúa, là người của
Thiên Chúa. Người hiếm muộn dễ nhận ra con cái là quà tặng của Thiên Chúa; họ
thường trân trọng và quý món quà Thiên Chúa ban này cách đặc biệt.
Thiên Chúa gọi Samuel. Đầu tiên Samuel
cũng tưởng đó chỉ là lời gọi của người phàm. Samuel chỉ nhận ra Chúa gọi mình
khi thầy Eli dạy cho cậu biết. Phải chăng tiếng Chúa và tiếng con người cũng có
những nét giống nhau, và chỉ con người thân quen với Thiên Chúa hay có kinh
nghiệm với Thiên Chúa mới dễ dàng nhận ra? Con người là thể xác và tinh thần,
nên để nghe được tiếng Chúa, con người cần nhận ra điều gì đó và xác tín rằng
điều này đến từ Thiên Chúa. Thánh Yuse qua giấc mộng, nhận ra đó là tiếng Chúa.
Giấc mộng, có thể là trung gian Thiên Chúa dùng để tỏ lộ Ý của Ngài cho con
người. Đức Maria được thiên thần truyền tin. Có thể thiên thần lấy hình một
người hiện ra cho Đức Maria và nói với Mẹ, nhưng cũng có thể Mẹ Maria nhận ra Ý
Thiên Chúa qua những ý tưởng hiện ra trong đầu Mẹ.
Thiên Chúa có chương trình cho Samuel.
Ngài có chương trình cho Yuse và Maria. Thiên Chúa có chương trình cho Phaolô
(1Cor.1, 1). Thiên Chúa cũng có chương trình cho mỗi người chúng ta, vì Thiên
Chúa yêu thương mỗi người chúng ta như yêu chính Đức Yêsu (Ga.17, 23. 20; 15,
9.13). Thiên Chúa muốn chúng ta thuộc về Thiên Chúa, và sống hạnh phúc nhờ và
trong Đức Yêsu Kitô (Eph.1, 3tt).
2) Thân xác anh em là chi thể của Chúa
Kitô
Con người là tạo vật vô cùng quý đối
với Thiên Chúa, đến độ Thiên Chúa đã ban chính Con Một Ngài cho thế gian, để
những ai tin vào Con Ngài thì được cứu (Ga.3, 16). Không phải những ai tin vào
Con Ngài thì mới được cứu, nhưng những ai tin vào Con Ngài thì qua việc tin vào
Con Ngài họ nhận ra sự thật về Thiên Chúa và về chính con người, và qua đó họ
được giải phóng (Ga.8, 32) và được cứu.
Cả thân xác con người cũng là quý giá
đối với Thiên Chúa. Thân xác của Đức Yêsu đã phục sinh, và cũng vậy thân xác
của mỗi người chúng ta. Một số người tưởng rằng chết là hết, hoặc thân xác bị
tiêu hủy sẽ vĩnh viễn không còn gì nữa; nhưng dựa vào biến cố Đức Yêsu phục
sinh từ cõi chết, và theo sự hiểu biết của thánh Phaolô (1Cor.15), thân xác
chúng ta sẽ phục sinh cho dù hiện tại chúng ta thấy thân xác của con người bị
tiêu hủy với thời gian. Thân xác chúng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần.
Mỗi Kitô-hữu không chỉ phải sống sao
cho tâm hồn được tinh tuyền để xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, nhưng
Kitô-hữu còn phải sống sao để thân xác cũng là thánh và thuộc về Thiên Chúa
nữa. Với Kitô-hữu, không chỉ linh hồn là quý nhưng cả thân xác nữa.
3) Ơn gọi
Cuối tuần thứ hai trong cuộc Linh Thao,
thánh Ynhã Loyola đề nghị người làm Linh Thao chọn lựa bậc sống. Với thánh
Ynhã, chọn lựa bậc sống gia đình hay "dâng hiến" không phải là mình
thích bậc sống nào thì mình chọn bậc sống đó, nhưng là nhận ra Thiên Chúa muốn
mình sống bậc sống nào thì mình sẽ "chọn" bậc sống đó.
Xác tín rằng Thiên Chúa yêu thương mỗi
người. Nên nếu Thiên Chúa muốn ta sống ở bậc sống nào, thì bậc sống đó (dù gia
đình hay dâng hiến) sẽ giúp ta triển nở và hạnh phúc nhất. Như vậy, để nhận ra
Thiên Chúa muốn mình sống ở bậc sống nào, hãy xem bậc sống nào làm mình triển
nở và hạnh phúc thật. Đời sống gia đình không kém giá trị hơn đời sống dâng
hiến. Đời sống nào giúp tôi sống triển nở và hạnh phúc, thì đó là bậc sống
Thiên Chúa muốn tôi sống, và đó là bậc sống tốt nhất đối với tôi. Nếu Chúa muốn
tôi sống đời gia đình, thì bậc sống gia đình là tốt nhất đối với tôi; nếu Chúa
muốn tôi sống đời "dâng hiến," thì đời sống dâng hiến là đời sống tốt
nhất đối với tôi, vì nơi bậc sống này tôi được triển nở và hạnh phúc, và như
vậy Thiên Chúa được tôn vinh nơi tôi.
Các tông đồ và thánh Phaolô, một khi
biết Đức Yêsu, đã dâng hiến cả cuộc đời để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha
nhân. Các tu sĩ trong dòng lịch sử, đã hiến thân trọn vẹn cho Thiên Chúa và con
người. Những người có gia đình muốn phục vụ Thiên Chúa cách đặc biệt, chẳng hạn
nơi trách vụ phó tế vĩnh viễn, cần có sự đồng ý của người phối ngẫu, vì các vị
này phải có trách nhiệm đầu tiên với gia đình, nên để có thời gian và sức lực
phục vụ tha nhân, cần sự đồng ý của người phối ngẫu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Xin bạn cho biết những nét đẹp của
đời sống gia đình.
2. Xin bạn liệt kê những nét đẹp của
đời sống dâng hiến (đời sống tu trì).
3. Theo ý riêng của bạn, đời sống nào
giúp bạn triển nở và hạnh phúc hơn?
7. Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế
(Trích trong 'Suy Niệm Phúc Âm Hằng
Ngày' – Radio Veritas Asia)
Nhìn nhận khả năng của người khác đó là
một điều mà ít ai trong chúng ta cũng muốn. Việt Nam chúng ta thường nói: "Mỗi
người có một ông quan trong bụng". Ai cũng muốn mình hơn kẻ khác, nổi hơn
và trội hơn kẻ khác nhiều, ít ai chịu lép vế, chịu thua kẻ khác. Tự cao tự đại,
ưa chỉ tay năm ngón, đó là thói thường của con người.
Kiêu ngạo là tội đứng đầu trong bảy mối
tội đầu. Có lẽ người ta thấy tội kiêu ngạo là đầu dây mối nhợ sinh ra mọi tội
lỗi khác. Tự đưa mình lên cao, không xem ai ra gì và theo như câu nói dân gian
của người Việt Nam :
"Coi trời bằng vung" hay "coi trời bằng ngọn rau má" là
thế. Tâm trạng đó làm cho con người khó chấp nhận nhau về khả năng, về tài
khiếu hơn thua.
Bài Tin Mừng hôm nay nói việc thánh
Gioan Tẩy Giả cũng có những môn đệ tìm theo học hỏi và muốn tôn ông làm thầy,
ít ra là phải hai hoặc ba người, vì sách ghi rằng: "Gioan đang đứng và nói
chuyện với hai trong nhóm môn đệ của ông", chứng tỏ là Gioan cũng có nhiều
môn đệ khác nữa ngoài hai người đó.
Và tâm trạng chung khi một người có
nhiều môn đệ đi theo thì không muốn một môn đệ nào của mình bỏ mình đi mà theo
một người khác. Lý do đó có thể là mình kém tài giỏi, đạo đức hơn người kia
chăng? Sự việc đó phải chăng đã làm mất sĩ diện cho mình? Vậy mà chúng ta thấy
Gioan không nghĩ đến điều đó, ông vẫn chỉ cho các môn đệ của mình về Chúa
Giêsu: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Hai môn đệ của Gioan nghe nói liền
đi theo Chúa Giêsu nhưng Gioan cũng không ngăn cản hai môn đệ mình, vì ông đã
thấy sự thật nơi Chúa Giêsu là Con Thên Chúa, là Đấng ông loan báo, Đấng cứu chuộc
tội lỗi nhân loại. Ông không mê hoặc người khác để cho họ nhắm mắt theo ông
nhưng ông chỉ cho người khác thấy sự thật, thấy chân lý, thấy Đấng Cứu Thế.
Mỗi người trong chúng ta đôi lúc cũng
có thái độ ngược hẳn lại: theo Chúa, tuân giữ luật Chúa, đôi lúc chúng ta muốn
người khác nhìn vào và khen chúng ta là ngưòi đàng hoàng, tốt lành, đạo đức và
chúng ta hãnh diện vì điều đó. Như thế chúng ta đã che mất hình ảnh của Thiên
Chúa trong chúng ta, người khác tìm đến chúng ta chứ không phải họ tìm đến với
Thiên Chúa qua sự tốt lành đạo đức đó. Mọi lời khen thưởng, ca ngợi thay vì
dành riêng cho Thiên Chúa, người ta lại dành hết cho chính mình. Bài học của
Gioan Tẩy Giả hôm nay là một bài học thực tế cho mỗi người trong chúng ta.
Khi hai môn đệ Gioan đi theo Chúa
Giêsu. Anrê sau khi đã biết Chúa Giêsu là Đấng Kitô, là Đấng Messia thì ông
giới thiệu với anh mình là Simon Phêrô đến gặp Chúa Giêsu. Anrê nói với anh
mình: "Chúng tôi đã gặp Đấng Messia, nghĩa là Đấng Kitô" và rồi ông
đã dẫn Simon Phêrô đến với Chúa Giêsu.
Mỗi người trong chúng ta khi biết được
Thiên Chúa, biết được ơn cứu rỗi của Đức Kitô, chúng ta có can đảm mạnh dạn
giới thiệu Ngài với mọi người chăng? Chúa không đòi hết thảy trong mọi người
chúng ta phải từ bỏ cha mẹ, anh em và mọi sự để theo Ngài. Nhưng Ngài đòi mỗi
người trong chúng ta tùy khả năng, tùy môi trường nơi chúng ta đang sống mà
giới thiệu Chúa cho mọi người biết. Chúa không đòi hỏi chúng ta phải rao giảng,
phải nói về Chúa thật hay như các nhà hùng biện để lôi cuốn người khác. Nhưng Ngài
chỉ mong ước trong cách sống đạo của mỗi người chúng ta, như là lời mời gọi tha
thiết mọi người tìm đến Thiên Chúa tình thương. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói, mỗi
hành động của chúng ta đều thể hiện lời Chúa trong Phúc Âm như thánh Phaolô đã
thúc nhắc chúng ta: "Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là chính
Chúa Kitô sống trong tôi".
Có khi nào chúng ta làm một việc gì mà
chúng ta suy nghĩ và thành thực hỏi Chúa: Chúa muốn con làm gì bây giờ đây? Hay
ý Chúa muốn con thực hiện như thế nào? Có lẽ chưa hoặc ít khi chúng ta hỏi Chúa
Giêsu như vậy. Nếu chúng ta thực sự yêu Chúa, Chúa luôn hiện diện trong chúng
ta và chúng ta luôn luôn muốn làm đẹp lòng Chúa, như một người muốn làm đẹp
lòng người yêu của mình thì khi nào họ cũng tìm hiểu xem người yêu của họ thích
gì rồi mua một món quà tặng đúng như ý người yêu mong ước.
Chúng ta yêu Chúa, chúng ta cũng phải
tìm xem Chúa yêu thích nhất điều gì và chúng ta phải cố gắng lo làm đẹp lòng
Ngài theo như điều Ngài mong muốn. Thật vậy, món quà đó không gì khác hơn là món
quà của đức "Mến Chúa và Yêu Người".
Lạy Chúa, xin cho mỗi người trong chúng
con biết sống khiêm nhượng như Gioan Tẩy Giả. Xin Chúa cho mỗi người trong
chúng con biết giới thiệu Chúa cho mọi người qua lời ăn, tiếng nói và nhất là
cách sống đạo của mỗi người chúng con trong cuộc sống hằng ngày.
8. Đáp lời Chúa gọi – Lm. Đam Trần Đình
Nhi
Lắng nghe sứ điệp của bài Tin Mừng (Ga
1,35-42)
Thánh Gioan kể lại một cách hết sức
thích thú câu chuyện Chúa Giêsu gọi hai môn đệ đầu tiên. Thích thú thật, vì đó
là câu chuyện cho phép chúng ta tha hồ dùng trí tưởng tượng mà hình dung ra bất
cứ điều gì chúng ta thấy thích hợp với tâm tình cầu nguyện của chúng ta. Vậy
trước hết chúng ta cứ để phần tưởng tượng lại mà tâm sự với Chúa, còn bây giờ
chúng ta xem câu chuyện xảy ra như thế nào.
Chúng ta biết rõ hai người môn đệ này
thuộc nhóm môn đệ ông Gioan Tẩy Giả. Với linh đạo "Chúa Giêsu phải nổi bật
lên, còn tôi phải lu mờ đi" (Ga 3,30), ông Gioan Tẩy Giả thấy không có vấn
đề gì khi ông vừa nhận ra Chúa Giêsu "đi ngang qua" liền nói cho các
môn đệ biết đấy chính là "Chiên Thiên Chúa". Lời ông Gioan giới thiệu
giản dị, nhưng chứa đựng cả một bí mật cao cả, đã khiến cho hai trong số các
môn đệ ông quyết định "đi theo Chúa Giêsu". Đều là "đi",
nhưng người thì đi ngang qua làm như không để ý gì, kẻ thì đi theo để gặp cho
được người mình chưa biết là ai. Bề ngoài xem ra như chuyện tình cờ, nhưng bên
trong là động lực mạnh mẽ: Chúa Giêsu cố ý đi ngang qua để lọt vào sự chú ý của
những kẻ Chúa muốn gọi, còn hai môn đệ ông Gioan cố ý đi theo Chúa Giêsu là để
khám phá một mầu nhiệm.
Điểm thứ hai lôi cuốn chúng ta chú ý,
đó là mẩu đối thoại ngắn gọn giữa Chúa Giêsu và hai ông. Những câu hỏi và trả
lời giống như giữa những người bàng quan với những lời lẽ rời rạc. Tuy nhiên
những lời rời rạc ấy lại hàm ẩn ý nghĩa vô cùng sâu xa. Tìm gì không giống như
tìm một vật để đâu đó hoặc đánh mất, nhưng là một hành trình tìm kiếm chân lý,
tìm Đấng là Tin Mừng với tất cả những giá trị siêu việt của Thiên Chúa. Ở đâu
không có nghĩa là một nơi chốn, vì "chồn có hang, chim có tổ, còn Con
Người không có chỗ tựa đầu" (Lc 9,58). Cho nên "ở đâu" có nghĩa
là cả một kho tàng tích trữ tất cả những mặc khải Thiên Chúa muốn tỏ ra cho
nhân loại. Cuối cùng là lời mời gọi Đến mà xem. Lời mời gọi "Đến mà
xem" mở ra một chân trời mới cho hai môn đệ ông Gioan. Phải đến thì mới
thấy được, nghĩa là phải thoát ra ngoài cái vỏ con người của mình thì mới thấy
được Chúa Giêsu là Đấng nào.
Kết thúc câu chuyện tìm kiếm này, thánh
sử ghi lại rõ ràng: "Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày
hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười". Hai ông đã ở lại với Người ngày
hôm ấy. Cả một ngày họ ở lại với Chúa Giêsu và chúng ta không rõ với khoảng
thời gian đó họ đã khám phá được những gì. Thánh sử chấm dứt câu chuyện, không
quên ghi lại câu chuyện thật ấn tượng ấy đã xảy ra vào khoảng giờ thứ mười, rồi
ngài im lặng ở đây, nhường lại để chúng ta tưởng tượng mà lắng nghe hoặc nói
với Chúa.
Sống sứ điệp Tin Mừng
Như hai môn đệ ông Gioan Tẩy Giả, chúng
ta thực sự đã được Chúa gọi làm môn đệ khi lãnh nhận bí tích Rửa tội. Tuy mang
danh người môn đệ của Chúa, nhưng có lẽ chúng ta vẫn chưa thực sự đi theo Chúa,
hỏi Chúa rằng "Thầy ở đâu?", đến xem chỗ Người ở và ở lại với Người.
Tất cả những hành vi trên, người môn đệ đích thực cần phải xét lại mỗi ngày để
coi mình còn giữ được căn tính môn đệ hay không.
Thay vì đi theo Chúa, chúng ta đi theo
những gì thế gian quyến rũ mời gọi. Thay vì hỏi Chúa "Thầy ở đâu?",
chúng ta đã giả thiết Chúa chỉ ở trong nhà thờ, do đó trong cuộc sống thường ngày,
chúng ta không muốn Chúa có mặt để Người khỏi cản trở chúng ta sống theo thế
gian. Mỗi tuần một lần, chúng ta quả có đến "xem chỗ Người ở", nhưng
thực ra chúng ta không ở lại với Người, có nghĩa là không sống mối tương quan
mật thiết với Người trong cầu nguyện.
Thánh sử Gioan đã kể thêm sau câu
chuyện rằng ông Anrê, một trong hai môn đệ ấy, đã về nhà và đem em mình là
Simôn Phêrô đến giới thiệu cho Chúa Giêsu. Đây cũng là điều chúng ta phải tự
hỏi: Có bao giờ tôi giới thiệu một người nào đó và đem họ đến với Chúa chưa?
Chúa Giêsu đang chờ đợi chúng ta đấy!
9. Lắng nghe tiếng Chúa
(Suy niệm của Lm. Anphong Trần Đức
Phương)
Từ Chúa Nhật trước, chúng ta đã bước
vào Mùa Quanh Năm với Chúa Nhật Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa. Hôm nay, chúng ta
mừng Chúa Nhật II quanh năm (Chu kỳ năm B).
Chủ điểm của Chúa Nhật này là 'Tiếng Chúa gọi mỗi người chúng ta làm việc tông
đồ cho Chúa.'
Bài đọc I (Samuel 3, 3-10; 19) nói đến
việc Chúa gọi Samuel đi làm tiên tri cho Chúa. Khi nhận ra tiếng Chúa, Samuel
đã mau mắn đáp lại: "Lạy Chúa xin hãy nói, con nghe đây!" Bài Phúc Âm
(Gioan 1, 35-42) nói đến việc Chúa gọi hai anh em ông Anrê và Phêrô theo Chúa.
Trong Bài đọc II (Corintô 6,13-15, 17-20), Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta là
những tín hữu của Chúa, là chi thể trong Thân Thể Mầu Nhiệm của Chúa, là đền
thờ Chúa Thánh Thần, chúng ta không được sống đời sống vô luân, nhưng phải sống
thánh thiện, xứng đáng con cái thật của Chúa.
Qua các thời đại, Thiên Chúa thường gọi
một số người để làm các công việc đặc biệt Chúa trao phó. Trong Cựu Ước, Chúa
gọi Abraham, Môsê, Davit, các tiên tri v.v... Trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã gọi
12 tông đồ. Đó là những ơn gọi đặc biệt, và việc Chúa gọi và chọn ai cũng là
một việc nhiệm mầu của Chúa. Chúa gọi và chọn người Chúa muốn. Tuy nhiên, Chúa
vẫn tôn trọng tự do của mỗi người; tùy theo mỗi người có quảng đại đáp lại
tiếng Chúa gọi hay không (Matthêu 19,16...), và có cố gắng sống xứng đáng và
trung thành với Ơn Gọi của mình hay không.
Thánh Luca (Lc 6,12-16) có kể lại việc
Chúa Giêsu đã "ra núi cầu nguyện suốt đêm với Thiên Chúa Cha. Đến sáng,
Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy 12 ông và gọi là Tông Đồ." Điều này cho
thấy việc chọn 12 Tông Đồ là việc rất quan trọng. Trong số 12 tông đồ Chúa
chọn, đa số làm nghề chài lưới, có người làm nghề thu thuế; lại có Giuđa
Itcariot là kẻ phản bội; sau này, Matthia được chọn để thay thế (Cv. 1, 15-26).
Chúa cũng chọn Phaolô làm Tông Đồ cho Chúa ngay chính lúc ông này (lúc đó còn
tên là Saolô) đang trên đường đi bách hại đạo Thánh Chúa (Cv. 9, 1...)
Trải qua lịch sử của Giáo Hội, Chúa
cũng chọn một số người để chuyên làm việc tông đồ cho Chúa qua các địa vị khác
nhau: Giáo Hoàng, Giám Mục, Linh Mục, Tu sĩ. Mỗi trường hợp đều do sự nhiệm mầu
của tình yêu Chúa. Chẳng ai dám tự phụ mình là người xứng đáng. Dù có những Ơn
Gọi rất đặc biệt, như trường hợp của Đức Hồng Y Avery Dulles (1918-2008) con
của ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles, đã gia nhập Đạo Công Giáo lúc 22
tuổi, đã từng là Sĩ Quan Hải Quân Hoa Kỳ, năm 1946 giải ngũ, vào Dòng Tên, chịu
chức Linh mục năm 1956, và dâng hiến cả cuộc đời để nghiên cứu, viết nhiều sách
về thần học, trở nên rất nổi danh tại Hoa Kỳ về đời sống thánh thiện và nhiệt
thành truyền giáo (giống như Ơn Gọi của Linh mục Bác Sĩ Cổ Tấn Hưng ở Việt
Nam); Cha Bao Yuanjin, hiện sống âm thầm truyền giáo ở Trung Quốc; Cha Charles
de Foulcauld (1858-1916), lập dòng Tiểu Đệ và Tiểu Muội, và rất nhiều trường
hợp khác.
Nhưng không phải chỉ các Giáo sĩ hay Tu
sĩ mới được mời gọi làm việc tông đồ cho Chúa, mà mọi tín hữu đều có ơn gọi
riêng của mình để làm tông đồ cho Chúa cách này hay cách khác. Nhìn công việc
truyền giáo bao la, Chúa Giêsu đã nói: "Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì
ít..." (Matthêu 9, 37), nhưng trong thực tế, Chúa chỉ chọn có 12 người
chính thức làm Tông đồ, sau này thêm ông Phaolô. Vậy, làm sao công việc rao
giảng Phúc Âm của Chúa đã có thể lan rộng nhanh chóng suốt cả Đế Quốc Rôma rộng
lớn thời đó? Chính là nhờ sự cộng tác quảng đại của các giáo dân thời bấy giờ.
Đó là việc Tông Đồ Giáo Dân.
Qua các thời đại cho đến ngày nay, vẫn có
những người làm tông đồ giáo dân rất tích cực. Có những vị là những Tông Đồ
Giáo Dân rất nổi danh như Antoine Federic Ozanam (Chân Phước) (1813-1835, học
giả nổi tiếng của Pháp, lập Hội Bác Ái Thánh Vinh Sơn, chuyên giúp đỡ những
người nghèo trên thế giới; Bác sĩ Thomas A. Dooley (Hoa Kỳ, 1927-1961) đã hy
sinh cả cuộc đời giúp đồng bào Việt Nam mới di cư từ Miền Bắc vào Miền Nam, và
sau đó mở nhà thương giúp bao bệnh nhân tại Lào; Frank Duff (Ái Nhĩ Lan,
1889-1980) lập Hội Đạo Binh Đức Mẹ, chuyên lo công việc thăm viếng giúp đỡ các
bệnh nhân, các gia đình đang gặp khó khăn; Chiara Lubich (người Ý, 1920-2008)
thành lập hội Focolore để cổ võ tinh thần hòa hợp giữa mọi người thuộc các sắc
tộc, ngôn ngữ, tôn giáo khác nhau.
Trong Giáo Hội, luôn có những Hội Đoàn
hoạt động tông đồ rất tích cực cho mọi lứa tuổi, như Đạo Binh Đức Mẹ, Liên Minh
Thánh Tâm, Các Bà Mẹ Công Giáo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Hướng Đạo Sinh Công Giáo,
Cursillo, Opus Dei, Tông Đồ Fatima, Hồn Nhỏ, Hội Bảo Trợ Ơn Gọi v.v... Ngoài
ra, còn có các Tu Hội Đời quy tụ chính những giáo dân sống giữa đời, liên kết
đặc biệt với nhau để làm việc tông đồ.
Tất cả các Hội Đoàn đều có mục đích
giúp thánh hóa bản thân và rao giảng Phúc Âm tình thương của Chúa cách này hay
cách khác, nơi chính gia đình của mình, nơi sở làm, nhà máy, xưởng thợ, trường
học, trong mọi môi trường sống hằng ngày của mỗi người.
Trong Thánh Lễ hôm nay, chúng ta hãy
đặc biệt cầu xin Chúa cho mọi người chúng ta luôn ý thức nhiệm vụ truyền giáo
mà chúng ta phải chu toàn; xin cho chúng ta luôn biết 'lắng nghe tiếng Chúa
gọi', trở nên những tông đồ nhiệt thành trên cánh đồng truyền giáo bao la trong
thế giới chúng ta hiện nay.
10. Họ đến và ở lại với Người
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thể
Hiện)
Được công bố trong khung cảnh những
ngày bắt đầu chu kỳ Thường Niên, bài Tin Mừng hôm nay (Ga 1,35-42) nêu bật sự
bắt đầu một giai đoạn mới với sự xuất hiện của Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên
bước theo Người.
Mở đầu bài Tin Mừng, chúng ta gặp một
sự xác định thời điểm mới trong trình thuật của sách Tin Mừng thứ tư: "Hôm
sau, ông Gioan lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông"
(c.35). Đó là ngày thứ ba kể từ sự kiện người Do Thái cử người đến chất vấn ông
Gioan rằng ông là ai (1,19tt). Ông Gioan lại đang đứng ở chỗ của ngày hôm
trước. Đó là cách tác giả ngầm nói với chúng ta về một tình trạng tĩnh, không
tiến triển. Và quả thực, trong đoạn văn này không có bất cứ một động từ nào
diễn tả sự di chuyển của ông Gioan. Nhưng sứ mạng của ông chưa kết thúc, cho
đến khi nào Đức Giêsu bắt đầu sứ mạng của Người. Một khi Đức Giêsu đi ngang qua
ông và tiến đi tiếp (trong hành trình sứ vụ của Người), thì ông sẽ không còn
xuất hiện ở chỗ đó nữa, vì sứ mạng của ông đã kết thúc. Còn bây giờ, ông vẫn
đang đứng đó. Bên cạnh ông là hai người trong nhóm môn đệ của ông. Họ đã nghe
ông giảng dạy và đã nhận phép rửa của ông. Tác giả Tin Mừng đã không ghi
"hai môn đệ" mà ghi là "hai người trong nhóm môn đệ", chứng
tỏ đã có cả một nhóm đông người đón nhận lời giảng dạy và phép rửa của ông Gioan.
Vậy cùng với ông Gioan, hai người môn đệ này của ông đang đứng đó trong tư thế
chờ đợi. Nhưng có một sự khác biệt: ông Gioan đã biết Đấng Mêsia (1,29) còn họ
thì chưa.
"Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông
lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa" (c.36). Ở đây có một chi
tiết nhỏ nhưng rất đáng chú ý: ngày hôm trước, ông Gioan thấy Đức Giêsu tiến về
phía mình (1,29), còn hôm nay, vẫn đứng đó, ông lại "thấy Đức Giêsu đi
ngang qua". Quả thật, đúng như lời ông nói: "Người đến sau tôi, nhưng
trổi vượt hơn tôi" (c.15), bây giờ ông đã ở phía sau rồi. Đó là thời khắc
của một sự thay đổi quan trọng, thời điểm chấm dứt vai trò của vị tiền hô, vì
Đấng ông loan báo đã bắt đầu hoạt động của Người rồi. Vào thời khắc quan trọng
đó, ông Gioan công bố trước mặt hai môn đệ của ông: "Đây là Chiên Thiên
Chúa". Ông nói cho họ biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia, Chiên Thiên Chúa, Đấng
xóa tội trần gian (xem c.29). Ông chỉ cho họ thấy một cách cụ thể nội dung mà
sự mong chờ của phép rửa do ông thực hiện đang hướng đến.
"Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi
theo Đức Giêsu" (c.38). "Đi theo Đức Giêsu" là một thuật ngữ
được áp dụng cho các môn đệ của Đức Giêsu (1,43; 8,12; 10,4; 12,26; 13,36;
21,19). Hai người môn đệ của ông Gioan, như thế, đã quyết định sẽ trở thành môn
đệ của Đức Giêsu. Họ đã lập tức lấy quyết định dứt khoát. Sự dứt khoát và lập
tức này cho thấy họ đã hiểu sứ điệp của ông Gioan. Ông Gioan đương nhiên không
hề phản đối quyết định của hai môn đệ, trái lại, có lẽ ông rất vui mừng trước
quyết định đó. Vì ông biết Đức Giêsu mới là Chú Rể, như lời ông nói:
"Chính anh em làm chứng cho thầy là thầy đã nói: "Tôi đây không phải
là Đấng Kitô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người. Ai cưới cô dâu, người ấy là
chú rể. Còn người bạn của chú rể đứng đó nghe chàng, thì vui mừng hớn hở vì
được nghe tiếng nói của chàng. Đó là niềm vui của thầy, niềm vui ấy bây giờ đã
trọn vẹn. Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi" (3,28-30).
Vậy hai môn đệ đi theo Đức Giêsu. Trong
im lặng. Tức là trong sự chờ đợi. Cuộc tìm kiếm của họ đã được bắt đầu với việc
họ rời ông Gioan và đi theo Đức Giêsu, nhưng chưa đạt đến đích nếu không có
sáng kiến của Đức Giêsu. Biết rằng họ đang đi theo mình, Đức Giêsu quay lại và
hỏi họ. Người ân cần quan tâm đến khát vọng và sự tìm kiếm chân thành và tốt
lành của con người. Người hỏi họ: "Các anh tìm gì thế?" (c.38a).Đức
Giêsu muốn biết họ tìm cái gì nơi Người, họ chờ đợi gì nơi Người, họ nghĩ Người
có thể làm gì cho họ.
Họ đáp: "Thưa Rabbi (nghĩa là thưa
Thầy), Thầy ở đâu?" (c.38). Hai môn đệ gọi Đức Giêsu bằng một tước hiệu
đầy kính trọng, và là cách gọi cho thấy họ ý thức rằng Người có thể ban cho họ
những giáo huấn giá trị, rằng Người có thể cho họ biết những điều họ chưa biết.
Họ vốn là môn đệ ông Gioan, nhưng đó chỉ là một hoàn cảnh tạm bợ, hoàn cảnh của
sự trông chờ Đấng mà chính ông Gioan loan báo là đang đến.
Đương thời, mối tương quan tôn sư – môn
đệ không chỉ là tương quan giữa người truyền và người nhận kiến thức, mà còn là
và chính yếu là một cách sống. Môn đệ lấy cách sống của tôn sư làm chuẩn mực
cho mình. Chính vì thế, trong ước muốn làm môn đệ của Đức Giêsu, hai người đồ
đệ này muốn biết Người sống ở đâu. Chắc chắn đó phải là một nơi chốn (và tình
cảnh cũng như cách thức sống) khác với của ông Gioan (mà họ đã từng biết). Kèm
với lời hỏi "Thầy ở đâu?", như thế, là một lời thưa với Đức Giêsu về
quyết định của họ rời xa vị tôn sư của giai đoạn cũ để đến sống dưới ảnh hưởng
của Người. Quyết định này hoàn tất sự đoạn tuyệt mà phép rửa bằng nước do ông
Gioan cử hành là biểu tượng. Đồng thời, câu hỏi đó cũng có giá trị của một lời
xin Đức Giêsu nhận họ làm môn đệ của Người.
"Người bảo họ: "Đến mà
xem" (c.39a). Đức Giêsu trả lời trực tiếp cho lời xin gián tiếp trong lời
hỏi của các ông. Người đưa ra một lời mời gọi rằng chính họ hãy đến để trải
nghiệm một cách cụ thể và thực tế cuộc sống chung với Người trong tư cách là đồ
đệ của Người. Khi đó, họ sẽ có thể tìm ra câu trả lời cho câu hỏi của họ. Rõ
ràng là để trở thành môn đệ của Đức Giêsu, trước hết, cần phải bước vào trong
vùng sự sống của Người, nơi Người đang sống.
"Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở
lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười" (c.39b). Họ đã
bước vào vùng của sự sống, trải nghiệm về ân nghĩa và sự thật trong đó (1,14).
Trải nghiệm trực tiếp đó đã giúp họ đi đến quyết định cuối cùng là ở lại với
Đức Giêsu. Trong Ga , đây là hai môn đệ đầu tiên đến nơi Đức
Giêsu sống. Như thế là bắt đầu xuất hiện cộng đoàn mới, cộng đoàn Mêsia, cộng
đoàn những kẻ sẽ có thể nói: "Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ
giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà
Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật "(c.14). Rõ
ràng đây là một thời khắc quan trọng.
"Lúc đó vào khoảng giờ thứ
mười". Theo cách tính của chúng ta ngày nay là khoảng bốn giờ chiều. Theo
cách tính của người Do Thái, đó là thời điểm cuối ngày và chuẩn bị bước sang
ngày mới, vốn bắt đầu vào khoảng 6 giờ chiều của chúng ta. Ngày cũ sắp chấm
dứt. Ngày mới sắp xuất hiện. Khi ngày mới bắt đầu cũng là lúc đánh dấu sự chấm
dứt của dân cũ và sự khởi đầu của dân mới. Dân cũ đã sắp chấm dứt vai trò của
mình, và đó là lúc Đức Giêsu bắt đầu gây dựng nhóm của Người.
"Ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, là
một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước tiên, ông
gặp em mình là ông Simôn và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia" (nghĩa
là Đấng Kitô)" (cc.40-41). Trải nghiệm của ông Anrê với Đức Giêsu đã lập
tức gây nên nơi ông cái ý thức về tính cách khẩn thiết phải làm cho những người
khác biết về Người. Trước tiên, ông tìm gặp và loan báo cho em trai mình. Nói
" trước tiên" tức là ông không chỉ giới thiệu với ông Simôn mà thôi,
nhưng còn với rất nhiều người khác nữa. Ông Simôn đã không được nghe ông Gioan
giới thiệu về Đức Giêsu, và ông chưa đi theo Người. Ông Anrê báo tin cho ông
Simôn bằng một công thức khá đặc biệt: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia"
(nghĩa là Đấng Kitô)». Chắc chắn ông Simôn là một trong số những người đang tha
thiết với niềm mong chờ Đấng Mêsia mà ông Gioan đã loan báo ở 1,27. Khi nói với
Simôn rằng các ông đã gặp Đấng Mêsia, là ông Anrê loan báo cho ông Simôn biết
sự chờ đợi đó đã kết thúc, Đấng Mêsia đang hiện diện rồi.
Quan niệm về "Đấng Mêsia" của
ông Anrê lúc này cần được giải thích trong quy chiếu về hai sự kiện: lời công
bố của ông Gioan ("Đây là Chiên Thiên Chúa" ở c.36) và lời giải thích
của tác giả Ga ("nghĩa là Đấng Kitô"). Với ẩn dụ Con Chiên, ông Anrê
hiểu Đức Giêsu là Đấng Mêsia trong tư cách Đấng thực hiện cuộc Vượt Qua mới,
Đấng sẽ dùng cái chết của mình mà giải thoát dân Người khỏi sự chết. Người sẽ
khai mở một giao ước mới,thay thế các thiết chế của giao ước cũ đã bị vượt quá.
Quan niệm " Đấng Kitô" quy chiếu về mầu nhiệm Thần Khí ngự xuống trên
Đức Giêsu (1,32) và Người chính là Đấng làm phép rửa trong Thần Khí (c.33). Ông
Anrê đã được trải nghiệm về tình yêu, ân sủng và sự thật nơi Đức Giêsu, và ông
loan báo điều đó cho ông Simôn, em trai mình.
Ông Anrê đã nhấn mạnh trải nghiệm quan
trọng đó không phải như một trải nghiệm cá nhân đơn độc, mà là trải nghiệm của
cộng đoàn các đồ đệ. Ông nói "Chúng tôi đã gặp". Trải nghiệm về Đấng
Mêsia luôn luôn là một trải nghiệm mang chiều kích cộng đoàn.
"Rồi ông Anrê dẫn em mình đến gặp
Đức Giêsu. Đức Giêsu nhìn ông Simôn và nói: "Anh là Simôn, con ông Gioan,
anh sẽ được gọi là Kêpha" (tức là Phêrô)" (c.42). Ông Simôn không có
sáng kiến tự mình đến với Đức Giêsu. Ông thụ động để cho ông Anrê dẫn đến.
Chúng ta cũng không thấy ông bình luận bất cứ câu nào về lời giới thiệu của ông
Anrê. Ông không nói một lời nào trong toàn bộ trình thuật này.
Đức Giêsu nhìn ông Simôn. Đây chắc chắn
không phải là một cái nhìn bình thường hay thoáng qua. Trước đây, ông Gioan
cũng đã nhìn Đức Giêsu và rồi tuyên bố "Đây là Chiên Thiên Chúa"
(c.36). Cái nhìn của Chúa Giêsu đối với ông Simôn lúc này cũng tương tự như
vậy. Người nhìn ông, rồi tuyên bố: "Anh là...". Vì thế, đó không phải
là một cái nhìn tuyển chọn, mà là cái nhìn thẩm thấu, cái nhìn để nhận định.
Đức Giêsu xác định ông Simôn là
"con ông Gioan", và tác giả Ga đặt mạo từ trước hạn từ
"con". Điều này gây khó khăn cho cách hiểu rằng thân phụ của ông
Simôn có tên là Gioan, vì ngay ở câu 41 tác giả vừa nói rõ Simôn là em trai của
Anrê (tức không thể là con trai duy nhất của ông Gioan được). Đàng khác, danh
xưng Gioan từ đầu đến đây được dùng để gọi ông Gioan Tẩy Giả (cc.35.40). Vì
vậy, nhiều người chấp nhận cách hiểu rằng ông Simôn một đàng thuộc về phong
trào của ông Gioan Tẩy Giả, một đàng khác, ông chưa hề được nghe chứng từ của
ông Gioan về Đức Giêsu, cũng chưa hề đi theo Đức Giêsu như hai người môn đệ
kia.
Rồi Đức Giêsu tuyên bố rằng ông Simôn
sẽ được gọi là Kêpha. Tác giả Ga là tác giả sách Tin Mừng duy nhất ghi tên Aram
của ông Simôn là Kêpha, một têngọi khá phổ biến trong tiếng Aram, và có nghĩa
là đá, tương tự như tên gọi Petros trong tiếng Hy Lạp. Tác giả Ga không hề nói
rằng Đức Giêsu đổi tên cho ông Simôn thành Phêrô. Trong Ga ,
không bao giờ Đức Giêsu gọi nhân vật này là Phêrô; chỉ có tác giả Ga mới gọi
ông là Simôn Phêrô trong một số trường hợp (thí dụ: 1,40; 6,6.68...).
Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với ông Simôn
ở đây là một cuộc gặp gỡ rất đặc biệt. Đức Giêsu không chủ động gặp ông hay bắt
chuyện với ông, cũng không kêu mời ông đi theo Người. Về phần mình, ông Simôn
hoàn toàn thụ động, và cuối cùng, ông cũng chẳng ngỏ lời xin làm môn đệ của Đức
Giêsu. Rồi sau khi đã gặp Đức Giêsu, ông Simôn chẳng hề giới thiệu Người với
bất cứ ai, khác hẳn ông Anrê là anh trai của ông. Người môn đệ đầu tiên mà Đức
Giêsu chủ động kêu gọi, trong Ga, ngay sau đoạn Tin Mừng mà chúng ta suy niệm
hôm nay, chính là ông Philípphê (1,43). Phải đến cuối sách, ở chương 21, sau
khi ông Simôn đã ba lần tuyên bố về tình yêu của ông đối với Đức Giêsu, chúng
ta mới thấy Đức Giêsu ngỏ lời với ông như Người ngỏ với ông Philípphê ngay từ
giây phút đầu gặp gỡ.
Rất nhiều khi trong cuộc đời, chúng ta
thấy mình được may mắn và hăng hái như ông Anrê. Nhưng cũng rất nhiều khi chúng
ta thấy mình giống như ông Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay vậy... Nhưng chính
nhân vật có vẻ thụ động, chẳng có gì hấp dẫn và xuất hiện trong một tình cảnh
chẳng có gì nổi bật này, lại là petros, nghĩa là tảng đá...
11. Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Văn
Nam
"Họ đã đến xem chỗ Người ở
Và ở lại với Người ngày hôm ấy"
Thiên Chúa luôn kêu gọi và muốn con
người cộng tác trong công trình cứu độ. Đó là chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa hôm
nay.
Thiên Chúa quyền phép vô cùng, làm được
mọi sự. Nhưng Ngài không muốn làm một mình, mà luôn kêu gọi con người cộng tác
với Ngài.
- Khởi đầu lịch sử cứu độ, Thiên Chúa
chọn ông Abraham làm cho ông trở nên cha của mọi dân tộc đông đúc. Từ dòng đời
này phát sinh Đấng Cứu Thế.
- Để giải phóng dân Do Thái khỏi ách
thống trị của đế quốc Ai Cập, Thiên Chúa đã chọn Môisen lãnh đạo dân Do Thái.
- Để có một lãnh tụ dẫn dắt dân Ngài,
Thiên Chúa đã chọn kẻ nhỏ nhất, yếu đuối nhất. Đó là cậu bé Đavít.
- Để cho lời hứa ban Đấng Cứu Thế được
thực hiện, Thiên Chúa đã chọn Đức Maria, một thiếu nữ vô danh miền Nazaret.
- Để tiếp tục công việc loan báo Tin
mừng và cứu độ trần gian, Chúa đã chọn 12 tông đồ, 72 môn đệ.
Thiên Chúa luôn kêu gọi và muốn con
người cộng tác với Ngài trong việc cứu độ nhân thế. Phụng vụ Lời Chúa hôm nay
chứng minh rất rõ chân lý trên:
Thiên Chúa chọn và gọi Samuel để ông
thay thế thầy cả Heli. Ngài gọi ông 3 lần và Samuel đã thưa: "Xin Ngài cứ
phán, tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe".
Thế là Samuel đã trở thành thủ lĩnh dân
Do Thái.
Bài Tin mừng ghi lại biến cố Chúa Giêsu
gọi và chọn 3 tông đồ đầu tiên là Gioan, Anrê và Phêrô. Các tông đồ đi theo
Chúa, đến gặp gỡ Chúa và ở lại với Người. Chính Chúa Giêsu đã gọi họ đích danh:
"Anh là Simon, con ông Gioan, anh sẽ được gọi là Kêpha".
Ơn gọi làm môn đệ Chúa Giêsu khởi đi từ
việc đến gặp gỡ Chúa Giêsu. Đi theo Chúa Giêsu hay gặp gỡ Chúa Giêsu là bước
đầu cần thiết để trở thành môn đệ. Gặp gỡ gắn bó với Chúa Giêsu là mục đích tối
hậu của người môn đệ (Ga 1,37). Sau đó những công việc mục vụ và rao giảng sẽ là
thành quả của việc gặp gỡ này.
Từ việc gặp gỡ "đến mà xem"
tới việc ở lại với Người. Trăm lần nghe không bằng một lần thấy; ở lại với
Người để thấy, để hiểu, để yêu mến và noi gương sống như Người.
Gặp gỡ Đức Kitô trong cuộc sống của
mình, rồi phải giới thiệu Chúa đến với tha nhân qua việc chu toàn bổn phận mà
Chúa trao phó. Đó là bổn phận, sứ mạng của người môn đệ Chúa Kitô và người kitô
hữu.
Theo đạo Công Giáo không phải đi theo
một tổ chức hay gia nhập một đảng phái... nhưng là đi theo một nhân vật độc đáo
là Đức Giêsu và qua Chúa Giêsu đến với Chúa Cha.
Qua Tông Huấn Lời Chúa, Đức Giáo Hoàng
Benêđictô XVI nhắc nhở chúng ta: "Đời sống Kitô hữu có đặc tính chủ yếu là
gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng hằng kêu gọi chúng ta bước theo Ngài" (Verbum
Domini số 72).
Làm cách nào chúng ta có thể gặp gỡ Đức
Giêsu trong cuộc sống hôm nay?
- Gặp gỡ Chúa trong thánh kinh, trong
lời của Người, học hỏi, suy niệm lời Chúa. Thánh Giêrônimô dạy: "Không
biết Kinh thánh là không biết Đức Giêsu".
- Cao điểm của cuộc gặp gỡ Đức Giêsu là
thánh lễ. Vì thánh lễ là trung tâm đời sống Giáo hội và đời sống Kitô hữu. Tông
huấn Verbum Domini số 52 dạy: "Chính Chúa Giêsu đã hiện diện trong lời của
Người, vì chính Người nói khi ta đọc kinh thánh trong Giáo hội".
- Gặp gỡ Đức Giêsu qua việc cầu nguyện
và suy niệm lời Chúa hằng ngày.
- Gặp gỡ Đức Giêsu một cách cụ thể qua
việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ... "Cho anh em một chút nước
lạnh, là cho chính Chúa".
Ngày xưa Chúa kêu gọi Samuel, các tông
đồ Gioan, Anrê, Phêrô... Ngày nay Chúa cũng kêu gọi mỗi người chúng ta làm môn
đệ để đem Tin mừng cho anh em. Chúng ta hãy mau mắn, quảng đại đáp lại lời mời
gọi của Chúa như các môn đệ, như Samuel xưa: "Lạy Chúa, xin hãy phán, này
tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe".
12. Thi hành sứ vụ nhân danh Ngài.
(Suy niệm của Yvane Fournier-Guérard)
Sứ vụ được thực hiện do các chứng nhân.
Nhờ tiếp xúc với Chúa Giêsu, họ hiểu được vai trò Phúc Âm hóa của họ.
Một vị tiền hô.
Khi Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời công
khai của Ngài, chiếc rìu đã đặt bên gốc cây. Một vị ẩn sĩ, Gioan Tẩy Giả, loan
báo Nước Trời và lớn tiếng đòi hỏi người ta hoán cải con tim để đón tiếp Đấng
Mêsia đang đến. Bằng dấu chỉ Phép rửa trong đó tín đồ được dìm vào dòng nước
sông Giođan để lấy lại sự thanh sạch của con tim. Gioan nhắc nhở mọi người rằng
một Đấng khác sẽ đến và thanh tẩy trong Thánh Thần.
Những gì Gioan đã làm trong hoang địa:
quy tụ môn đệ, rao giảng sự thống hối và mong đợi một vương quốc sắp tới, đều
đã chuẩn bị người ta nghe lời Chúa Giêsu. Bởi vì trước đó quần chúng đã thức
tỉnh trước sứ điệp thiêng liêng của Gioan nên họ đón tiếp Chúa ân cần hơn và đã
hiểu lời Ngài hơn.
Tỉnh thức là giai đoạn đầu tiên của
việc gặp gỡ Thiên Chúa.
Một lời sống động.
Rồi chiên Thiên Chúa mà Gioan Tẩy Giả
nhìn nhận là lớn hơn mình đã đến. Mảnh đất đã sẵn sàng nên hạt giống có thể
gieo được. Chúa Giêsu thực sự bị thu hút bởi lời rao giảng của Gioan. Ngài đã
nhìn thấy những đám đông được Gioan thuyết phục và những con người tự nhìn nhận
mình là kẻ tội lỗi. Ngài đã xin Gioan làm phép rửa cho Ngài. Ngài đã nhận ra
mảnh đất tốt lành, nơi đó cỏ dại ích kỷ, hận thù, tội lỗi của dân Ngài đã được
nhổ sạch.
Chúa Giêsu đã đi theo Gioan và từ nay
ông sẽ theo Ngài và sẽ khuyên các môn đệ của ông cũng làm như vậy nữa.
Giai đoạn thứ hai của sứ vụ là tiếp đón
Đấng đang đến cùng với sứ điệp và chân lý của Ngài.
Đây không chỉ là một trò chơi.
Anh chị em còn nhớ trò chơi điện thoại
được dùng trong những buổi sinh hoạt hay trong những lớp dạy về truyền thống
chứ? Người thứ nhất tham gia trò chơi rỉ tai người thứ hai một sứ điệp ngắn và
người này nói lại cho người thứ ba, v.v... đến người cuối cùng thì ít khi sứ
điệp còn giữ được nguyên vẹn như ban đầu. Vì nghe không rõ nên các sứ giả liên
tiếp nhau thay đổi sứ điệp được truyền đi và như vậy đã phản bội chính sứ điệp.
Các môn đệ đầu tiên không phản bội sứ
điệp. Sau khi đi theo Chúa Giêsu theo lời giới thiệu của Gioan, sau khi nhìn
thấy và đích thân nghe vị tôn sư, họ đã mời anh em và bạn bè của họ đến gặp
Ngài.
Chính nhờ lưu lại với Ngài mà việc hoán
cải con tim đã được thực hiện. Ngôn sứ Samuel cũng đã sống kinh nghiệm này, và
dân Samari đã diễn tả đúng chân lý này khi nói với người phụ nữ Samari:
"Không phải vì những gì chị kể cho chúng tôi mà chúng tôi tin, nhưng bởi
vì bản thân chúng tôi đã được nghe Ngài". Nhưng cần phải có ngôn sứ Êlia
trong Cựu Ước, cần phải có các môn đệ đầu tiên và người phụ nữ Samari để cho
người ta đến với Chúa Giêsu.
Đây là giai đoạn thứ ba của việc Phúc
Âm hóa: chúng ta được mời gọi loan báo cho kẻ khác con đường dẫn đến Thiên
Chúa.
Lạy Chúa, xin hãy phán, tôi tớ Chúa
đang lắng tai nghe.
Chúng ta là những lời sống động của
Thiên Chúa bằng cuộc sống hơn là bằng lời nói. Phải đích thân gặp gỡ Ngài, lắng
nghe Ngài, lớn lên trước mặt Ngài và tôn vinh Ngài bằng thân xác chúng ta được
xem như đền thờ của Ngài. Chứng nhân không vượt qua giai đoạn cuối này là một
chứng nhân giả. Lời của họ trống rỗng và sứ điệp của họ rất có nguy cơ bị méo
mó bởi chính những cách nhìn riêng của họ.
Bài Tin Mừng hôm nay nói về sứ vụ như
sau: "Hãy đến mà xem". Kẻ lớn lên trước mặt Chúa, như Samuel, có lẽ
không tự mình ý thức được rằng "không lời nào của họ là không có hiệu
quả", nhưng đã xảy ra đúng như vậy.
Được gọi với tư cách là ông bà, cha mẹ,
với tư cách là giới trẻ, với tư cách là những người đã chịu phép rửa để truyền
đạt đức tin, chúng ta hãy xin Chúa Giêsu giữ chúng ta lại bên cạnh Ngài. Xin
cho luật tình yêu của Ngài trở nên thiết thân với chúng ta như tác giả thánh
vịnh và cho chúng ta biết nói: "Này con đây" trong mọi hoàn cảnh,
trong lúc "miệng chúng ta loan báo tình yêu và chân lý của Ngài cho toàn
thể đại hội". Khi đón tiếp Ngài đến trong Thánh lễ này, chúng ta hãy thưa:
"Lạy Chúa, này con đây, con xin đến để thực thi ý Chúa".
13. Gặp gỡ Đức Kitô.
(Trích trong: "Niềm Vui Chia
Sẻ")
Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc đời
mình,
Gặp gỡ Đức Kitô, đón nhận ơn tái sinh.
Gặp gỡ Đức Kitô, chân thành mình gặp
mình,
Gặp gỡ Đức Kitô, nảy sinh tình đệ
huynh".
Câu điệp khúc của một bài ca sinh hoạt
của các bạn trẻ giúp chúng ta ý thức về cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu
tiên: Arê và Gioan trong Tin Mừng hôm nay. Chính Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
đã chọn đoạn Tin Mừng này để làm đề tài cho cuộc gặp gỡ giới trẻ thế giới lần
thứ 12 diễn ra vào trung tuần tháng 8 năm 1997 tại Paris, nước Pháp. Theo Đức
Thánh Cha, cuộc gặp gỡ rất quan trọng vì là "khởi điểm của mọi hành trình
Đức Tin".
Nhưng thế nào là gặp gỡ Đức Kitô?
Có lẽ chúng ta đều lúng túng khi được
người khác đặt câu hỏi cơ bản này. Chúng ta không biết phải trả lời làm sao, mô
tả như thế nào. Chúng ta chưa có kinh nghiệm hoặc một kinh nghiệm rất hời hợt.
Cuộc gặp gỡ Đức Kitô của hai môn đệ đầu tiên trong Tin Mừng hôm nay cho chúng
ta thấy một diễn tiến gồm một số bước: Trước hết là được Gioan Tẩy Giả giới
thiệu: "Đây là Con Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xóa tội trần gian". Hai
môn đệ vừa nghe giới thiệu liền đi theo Chúa Giêsu. Nếu hai môn đệ không tức
khắc đi theo Chúa Giêsu khi nghe Gioan giới thiệu, hai ông đã bỏ lỡ cơ hội gặp
gỡ Đức Kitô và đã không trở thành những môn đệ đầu tiên của Ngài.
Bước thứ hai là đối thoại với Chúa
Giêsu. Chính Chúa Giêsu là người ngỏ lời trước: " Các anh tìm gì
thế?" Đức Thánh Cha nói: "Khi ta hỏi Chúa điều gì, thì Ngài luôn hỏi
lại ta, người hỏi trở thành kẻ bị hỏi; người tìm kiếm Chúa trở thành kẻ được
Ngài kiếm tìm: "Các anh tìm gì thế?". Câu hỏi có vẻ tầm thường như
những câu hỏi lúc mới gặp nhau, nhưng đây là một câu hỏi đặt vấn đề cho những
ai theo Chúa: Chúng ta tìm ai? Theo Chúa để làm gì? Chúng ta chờ đợi nơi Chúa
điều gì?
Chúa không chờ đợi một câu trả lời của
trí tuệ, nhưng chờ đợi một câu trả lời của trái tim, của tâm hồn. Các môn đệ
đáp trả bằng một câu vắn gọn: "Thưa Thầy, Thầy ở đâu?" Câu trả lời
vắn gọn nhưng biểu lộ lòng trìu mến gắn bó muốn dấn bước theo Thầy, muốn chia
sẻ nếp sống của Thầy. Chúa cũng không nói địa chỉ, tên đường, số nhà, vì Ngài
"Không có nơi gối đầu". Ngài chỉ bảo: "Hãy đến mà xem".
"Hãy đến" là lời mời gọi của trái tim rộng mở. Hãy đến mà xem tình
yêu của Thiên Chúa biểu lộ nơi con người của Đức Giêsu. Đến với Chúa chắc chắn
dẫn đến một kinh nghiệm: kinh nghiệm về một tình yêu sâu thẳm nhất. Các môn đệ
đã đến, đã nhìn thấy nơi Chúa ở. Đây không phải là ngôi nhà vật chất, đây là
chính Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là đến với Thiên Chúa. Ngài ở với Thiên
Chúa, ở trong Thiên Chúa. Đến với Chúa Giêsu là gặp gỡ chính Thiên Chúa:
"Ai thấy Thầy là thấy Đấng đã sai Thầy". Các môn đệ đã kinh nghiệm
được điều ấy, nên đã ở lại với Chúa. Ở lại với Chúa là gắn bó với Chúa, kết hợp
với Chúa, ở lại trong tình yêu của Chúa. Tình yêu làm cho môn đệ gần gũi với
Thầy và sự gần gũi làm tăng thêm tình yêu.
Cuối cùng, khi đã kinh nghiệm tình yêu
của Chúa, Anrê tự nhiên cảm thấy được thúc bách phải chia sẻ niềm tin cho em
mình là Simon Phêrô: "Chúng tôi đã gặp Đức Kitô". Rồi ông dẫn em mình
đến gặp Chúa Giêsu. Anrê chắc chắn biểu lộ một sự thích thú rõ rệt. Ông đã sung
sướng được gặp Chúa, ông đã khám phá ra Chúa là Đấng Mêsia, Đấng được Thánh
Thần xức dầu tấn phong sai đi loan báo Tin Mừng Cứu Độ. Dĩ nhiên, ông còn phải
ở lại với Chúa Giêsu lâu hơn nữa, còn phải tìm hiểu, phải khám phá nhiều hơn.
Nhưng giờ đây, ông cùng chia sẻ với em mình, cùng tìm hiểu, cùng khám phá với
em và các bạn khác của ông. Niềm tin của ông càng được củng cố, càng lớn lên
trong mức độ ông biết chia sẻ cho người khác.
Sau cuộc gặp gỡ đầu tiên đó, các ông
trở lại với cuộc sống đời thường. Thế nhưng, từ nay không còn là cuộc sống như
trước, vì cuộc gặp gỡ Đức Kitô đã làm thay đổi tận căn. Giờ đây các ông sống
với niềm tin Đức Giêsu là Đấng Mêsia –Đấng Thiên Sai Cứu Thế- Chính niềm tin đó
điều khiển cuộc sống và làm cho cuộc sống người môn đệ mang một ý nghĩa mới.
Anh chị em thân mến,
Là Kitô hữu, đi lễ, đọc kinh thường
xuyên, nhưng thử hỏi, chúng ta có thật đã gặp gỡ Chúa chưa? Đã có lần nào chúng
ta choáng váng vì lần đầu tiên gặp gỡ đích thực với Chúa chưa? Chúa đã có mặt
trong cuộc sống của chúng ta chưa? Sao cuộc đời ta vẫn không có gì thay đổi,
vẫn thấy buồn chán, thất vọng, tội lỗi?...
"Gặp gỡ Đức Kitô, biến đổi cuộc
đời mình". Tại sao cuộc đời tôi chưa được biến đổi? Tôi vẫn sống với con
người cũ, tội lỗi, ích kỷ, lười biếng? Tôi như chưa được "tái sinh",
chưa "gặp lại mình", chưa "nối lại những mối dây huynh đệ"
với những người khác? Ấy là dấu Đức Kitô chưa có mặt trong đời tôi. Đã gặp được
Chúa là phải có một sự đổi đời. Bởi, sống đạo không phải là sống theo một điều
gì, đi theo một ai khác hơn là sống theo Đức Giêsu Kitô.
Nhưng ngày nay, gặp gỡ Đức Kitô ở đâu?
Đức Thánh Cha nói: "Đức Giêsu ở
bên cạnh chúng ta, nơi những người anh em chúng ta cùng chia sẻ cuộc sống hằng
ngày. Gương mặt của Ngài là gương mặt của người nghèo nhất trong những người
nghèo; của những người bị gạt ra bên lề cuộc sống, thường là nạn nhân của những
cơ chế bất công. Nhà của Đức Giêsu là bất cứ nơi nào con người phải chịu đau
khổ vì các quyền sống của họ bị chối từ, những hy vọng của họ bị phản bội,
những lo âu của họ không được biết đến. Nhà của Đức Kitô là chính nơi đó, ở
giữa mọi người, nơi mà Ngài yêu cầu chúng ta, nhân danh Ngài, lau khô mọi giọt
lệ và nhắc cho những ai cảm thấy một mình cô đơn nhớ rằng chẳng có ai cô đơn
hết, nếu họ đặt niềm tín thác vào Ngài".
Nếu đã gặp được Đức Kitô trong cuộc
đời, cuộc đời chúng ta đã được đổi mới như được tái sinh, sẽ từ bỏ con người
ích kỷ của mình và bị thúc đẩy chia sẻ niềm tin và cuộc sống với mọi người anh
em, nhất là những con người nghèo khổ. Mẹ Têrêxa Calcutta đã gặp Đức Kitô nơi
những người nghèo khổ bị bỏ rơi và mẹ đã đem cả cuộc đời để phục vụ hết lòng.
Nếu thực sự đã gặp được Đức Kitô, chúng ta đã trở thành một Kitô hữu năng nổ và
tích cực trong cuộc sống, sẵn sàng dấn thân phục vụ Tin Mừng tình thương cứu độ
của Thiên Chúa cho mọi người.
Như Đức Thánh Cha đã nói: "Cuộc
gặp gỡ Đức Kitô rất quan trọng, vì là khởi điểm của mọi hành trình đức
tin". Đức tin quả là một cuộc hành trình khởi đi từ cuộc gặp gỡ Đức Kitô,
đến nhận biết Ngài, yêu mến và gắn bó mật thiết với Ngài. Gắn bó mật thiết đến
nỗi sẵn sàng tận hiến cả tâm hồn và thể xác, con người và cuộc sống cho vinh
Danh Chúa hơn.
14. Thầy ở đâu - Hãy đến mà xem
Suy Niệm
Đoạn Tin Mừng này đã được Đức Thánh Cha
dùng làm bài suy niệm cho ngày Giới Trẻ Thế Giới lần thứ XII.
Để gặp được Đức Giêsu, cần có người
giới thiệu. Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình. Ông Anrê
cũng đã giới thiệu Đức Giêsu cho em là Simon, và dẫn ông này đến gặp Ngài.
Chẳng ai thực sự gặp được Đức Giêsu mà lại không mong giới thiệu Ngài cho người
khác.
Đức Giêsu là kho tàng cứ mãi lớn lên
khi được san sẻ. Hạnh phúc của Gioan Tẩy giả và Anrê là thấy Đức Giêsu và người
mình giới thiệu gặp nhau. Họ chấp nhận tự xóa mình. Gioan chấp nhận chia tay
với hai môn đệ yêu dấu. Anrê sau này chẳng được nổi tiếng bằng Simon.
Theo lời giới thiệu của Gioan, hai ông
đi theo Đức Giêsu. Chẳng rõ họ đã đi theo bao lâu và bao xa. Họ rụt rè không
biết bắt đầu câu chuyện thế nào. Đức Giêsu thấy sự lúng túng dễ thương của họ.
Chính Ngài đi bước trước, mở đầu cuộc đối thoại.
Các anh tìm gì thế?
Câu hỏi này bắt họ phải trở lại với
lòng mình, phải ý thức về nỗi khát khao đang chi phối mình. Tôi đang tìm gì?
Tiền bạc, tiếng tăm, thỏa mãn? Hay tôi đang tìm một Ai đó cho đời tôi một hướng
đi? Đức Giêsu gợi chuyện để họ bày tỏ khát vọng của mình.
Thưa Thầy, Thầy ở đâu?
Câu hỏi này tương đương với một câu trả
lời. Chúng con muốn biết nhà của Thầy, muốn đến thăm Thầy.
Đến nhà một người là đi vào thế giới
của người đó. Hai ông không chỉ muốn biết Đức Giêsu qua lời Gioan. Họ muốn đích
thân gặp gỡ Ngài. Chuyện này không ai làm thay được.
Hãy đến mà xem.
Đức Giêsu không giấu hai ông về thế
giới của Ngài. Lời mời này vẫn vang vọng đến tai chúng ta. Đừng sợ đi theo Đức
Giêsu để đến nhà Ngài. Đừng sợ trao đổi với Ngài như một người bạn. Nơi nào có
những người nghèo khổ, bị bỏ rơi, những người cô đơn, bị khinh miệt hay phản
bội, những người khác văn hóa và tôn giáo, nơi đó là nhà của Đức Giêsu.
Họ đã đến xem và đã ở lại.
Hai ông đã nhận lời mời ngay lập tức.
Không có khoảng cách giữa ước muốn và thực hành. Chúng ta chẳng rõ chi tiết của
cuộc hạnh ngộ này, nhưng chắc chắn đó là một kỷ niệm không quên.
Kinh nghiệm của hai ông cũng là của mọi
Kitô hữu. Chúng ta phải được giới thiệu Đức Giêsu, phải đích thân gặp Ngài, và
phải trở nên người giới thiệu Ngài cho thế giới.
Gợi Ý Chia Sẻ
"Các anh tìm gì thế?" Theo ý
bạn, người trẻ hôm nay đang làm gì? Đang tìm ai? Nơi bản thân bạn, đâu là mối
bận tâm lớn nhất của bạn hiện nay?
Bạn có tin Đức Giêsu có thể đem lại câu
trả lời cho những vấn đề sâu xa nhất của bạn không? Bạn có tin Đức Giêsu có thể
đem lại bình an cho thế giới hôm nay không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
nhiều bạn trẻ đã không ngần ngại chọn
những cầu thủ bóng đá, những tài tử điện ảnh làm thần tượng cho đời mình.
Hôm nay, Chúa cũng muốn biết chúng con
chọn ai, và chúng con thật sự đắn đo trước khi chọn Chúa.
Bởi chúng con biết rằng chọn Chúa là
lội ngược dòng, theo Chúa là bước vào con đường hẹp: con đường nghèo khó và
khiêm nhu, con đường từ bỏ và phục vụ.
Hôm nay, chúng con chọn Chúa
Không phải vì Chúa giàu có, tài năng
hay nổi tiếng, nhưng vì Chúa là Thiên Chúa làm người. Chẳng ai đáng chúng con
yêu mến bằng Chúa. Chẳng ai hoàn hảo như Chúa.
Ước gì chúng con can đảm chọn Chúa
nhiều lần trong ngày, qua những chọn lựa nhỏ bé, để Chúa chiếm lấy toàn bộ cuộc
sống chúng con, và để chúng con thông hiệp vào toàn bộ cuộc sống của Chúa.
Amen.
15. Hành trình ơn gọi – ĐTGM. Giuse Ngô
Quang Kiệt
Các bài sách thánh hôm nay đều nói về
ơn gọi. Ơn gọi của Samuel thật lạ lùng. Còn ơn gọi của Anrê và Gioan diễn ra
nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, dù mạnh mẽ lạ lùng hay nhẹ nhàng bình thường, hành
trình ơn gọi nào cũng trải qua bốn giai đoạn.
1- Giai đoạn thứ nhất: Chúa kêu gọi.
Việc Chúa kêu gọi không xảy ra tức khắc
trong một lần, nhưng diễn tiến tuần tự, chậm rãi với mức độ tăng dần, tuỳ sự
đón nhận của người nghe.
Thoạt tiên là một lời kêu gọi nhẹ nhàng
qua một thiên hướng, một ước nguyện của người thân, một gương mẫu, một thần
tượng. Ở Samuel, đó là ước nguyện của bà mẹ muốn tạ ơn Chúa. Ở Anrê và Gioan,
đó là thiên hướng đi tìm lý tưởng.
Sau đó, Chúa có thể dùng các trung gian
dẫn ta đến với Chúa. Trong trường hợp Samuel, người trung gian là thày cả Hêli.
Còn trong trường hợp Anrê và Gioan, thánh Gioan Baotixita đã làm trung gian đưa
hai môn đệ đến với Đức Giêsu.
2- Giai đoạn hai: Ta đáp trả.
Nếu ta trung thành đáp trả mỗi khi nghe
tiếng Chúa kêu gọi, Chúa sẽ tiếp tục gọi ta đi vào những đoạn đường mới, mỗi
lúc một khó khăn hơn. Tiếng Chúa mời gọi mỗi lúc một mãnh liệt hơn, đòi hỏi ta
phải trả lời mỗi lúc một dứt khoát hơn. Cho đến một thời điểm quyết định, Chúa
sẽ đưa ra lời mời gọi cuối cùng đòi ta trọn vẹn dấn thân lên đường theo Chúa.
Với Samuel, việc Chúa ba lần cất tiếng gọi chứng tỏ Chúa tha thiết muốn tuyển
chọn ông. Với Anrê và Gioan, việc Đức Giêsu mời hai ông đến chỗ Ngài ở đã khiến
hai ông phải dứt khoát với quá khứ để bắt đầu một giai đoạn mới.
3- Giai đoạn ba: Sống thân mật với
Chúa.
Tuyệt đỉnh của ơn gọi không phải là làm
việc cho Chúa, nhưng là sống thân mật với Chúa. Chúa không kêu gọi ta theo một
chủ thuyết nhưng kêu gọi ta theo Chúa. Ta đến với Chúa không phải để học những
bài học lý thuyết nhưng để tham dự vào sự sống của Chúa. Sự sống của Chúa là sự
sống thần linh nâng ta lên hưởng nếm sự ngọt ngào của tình Cha - Con thắm
thiết. Sự sống của Chúa là tình yêu đưa ta vào hạnh phúc của người biết mình
được yêu thương.
Trong tình yêu Thiên Chúa, tâm hồn ta
được gột rửa sạch mọi tội lỗi.
Trong tình yêu Thiên Chúa, trái tim ta
trở nên dịu dàng, hiền hoà rộng mở để tha thứ và đón nhận mọi người.
Hạnh phúc sống trong tình yêu Thiên
Chúa lớn lao đến độ biến đổi toàn bộ cuộc đời ta. Ai đã một lần nếm cảm sẽ
không còn mơ ước điều gì khác nữa.
Sau khi được tiếp xúc thân mật với
Chúa, trọn cuộc đời Samuel hoàn toàn dâng hiến cho Chúa. Sau một buổi chiều
thân mật sống với Đức Giêsu, hai tông đồ Anrê và Gioan gắn bó với Người, cho
đến chết vì Người.
4- Giai đoạn bốn: Làm chứng cho tình
yêu Chúa.
Cảm nhận được tình yêu Thiên Chúa rồi,
ta sẽ không thể làm điều gì khác hơn là ra đi làm chứng về tình yêu đó. Giống
như dòng suối sung mãn tràn xuống thành thác, tâm hồn tràn đầy tình yêu sẽ cất
lên thành lời ca tụng, giới thiệu tình yêu Thiên Chúa cho mọi người.
Sau khi gặp Đức Giêsu, Anrê vội vã đi
tìm em là Phêrô để dẫn đến giới thiệu với Người. Từ đó, Anrê theo Đức Giêsu cho
đến cuối đời. Ông đã đem chính mạng sống làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa.
Ông đã đổ máu ra để chứng thực tình yêu ấy. Ông dám khước từ cuộc sống trần
gian vì ông đã biết đến hạnh phúc đích thực trong tình yêu Thiên Chúa. Tất cả
chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi đến sống thân mật với Người trong tình
Cha-Con thắm thiết.
Lời Chúa vang lên khi ta chịu phép Rửa
tội.
Lời Chúa tiếp tục mời gọi ta khi ta
lãnh nhận các bí tích, khi ta nghe sách thánh, khi ta học giáo lý, khi ta tĩnh
tâm, nghe giảng.
Lời Chúa lúc thì nhẹ nhàng thoang
thoảng, khi thì mãnh liệt thiết tha. Nhiều lúc ta tưởng đến nhà thờ vào ngày
Chủ nhật là đã đáp lại tiếng Chúa mời gọi, nhưng không phải. Chúa không mời gọi
ta chỉ đi lễ như trả nợ. Chúa muốn ta thực sự gặp gỡ Người, tiếp xúc thân mật
với Người, sống thân thiết với Người trong tình con thảo.
Hành trình đức tin của người Kitô hữu
là một hành trình đi về với Chúa. Sau bao nhiêu năm giữ đạo, tôi đã đi đến đâu?
Tôi đã thực sự gặp được Chúa chưa? Tôi đã tiến đến gần Chúa chưa? Hay là tôi
mới ở khởi điểm? Hãy đến, Chúa đang mời gọi ta. Chúa đang chờ đợi ta. Chúa đang
mở rộng vòng tay, mở rộng trái tim để đón ta đến sống trong tình yêu của Người.
Tình yêu ấy là hạnh phúc muôn đời của ta.
GỢI Ý CHIA SẺ
1- Có khi nào bạn nghe thấy tiếng Chúa
mời gọi không?
2- Bạn đã quảng đại đáp lại tiếng Chúa
mời gọi chưa?
3- Có bao giờ bạn cảm nghiệm được tình yêu
của Chúa chưa?
16. Lựa chọn theo Chúa
"Một trong hai người... đã đi theo
Chúa Giêsu".
Một thương gia người Mỹ, lúc chết đã
làm chúc thư để lại gia tài đồ sộ cho các con. Người con gái của ông tên Grace
lúc đó 23 tuổi, đang tu ở tu viện Đaminh Nữu Ước. Ông để cho cô này một triệu
đô la, với điều kiện là cô phải rời tu viện và tuyên bố bỏ đạo Công giáo. Cuối
cùng nữ tu Grace dứt khoát không rời tu viện, cũng không bỏ đạo. Vì thế cô đã
mất cả phần tài sản to lớn đó.
Bước đường theo Chúa đôi lúc cũng đòi một
sự lựa chọn như vậy. Tin Mừng hôm nay cho ta thấy những người đầu tiên xin làm
môn đệ Chúa. Trong giai đoạn đầu cuộc sống công khai của Chúa, chỉ có Gioan Tẩy
Giả được ban ơn đặc biệt nhận ra Chúa, ông giới thiệu Chúa: "Đây là Con
Chiên Thiên Chúa". Người Do Thái nghe danh hiệu này theo ý nghĩa thường
gặp trong Kinh Thánh, là tôi tớ Thiên Chúa, một người tôi tớ âm thầm phục vụ lò
sát sinh. Những người nghe thánh Gioan lúc đó là những người thiện chí, muốn
cải thiện, họ quanh quẩn bên vị tiền hô để học hỏi sống chính trực. Họ biết
Chúa Giêsu là người tốt, nhưng không phải một ông vua, không hứa hẹn giàu sang
vinh hiển, tuy nhiên cũng có người quyết định đi theo Chúa.
Chúa Giêsu tiếp đón họ rất bình thường,
chẳng có gì là niềm nở. Chúa hỏi họ như hỏi người lạ: "Các anh kiếm
gì?" Chúa không phải một người quảng cáo hay tuyên truyền. Chúa bảo các
ông: "Hãy đến mà xem". Việc tìm hiểu rất cần thiết, chứng tỏ một tâm
hồn khát khao chân lý, một tâm hồn có khả năng tiến bộ. Trong buổi đàm đạo đầu
tiên này, có lẽ những người theo Chúa không được hứa hẹn gì, ngoài việc nhận ra
Chúa là Đấng Mêsia, Đấng đã được hứa ban trong Kinh Thánh. Nhưng Kinh Thánh
cũng đã nói trước Đấng Mêsia sẽ chịu bạc đãi, khổ đau. Họ chưa hiểu cặn kẽ số
phận Đấng Cứu Thế, nhưng cũng lờ mờ thấy theo Chúa là phải chấp nhận khó khăn,
hy sinh và có khi nguy hiểm nữa, nhưng họ đã quyết định theo Chúa.
Các ông đi theo Chúa trong niềm vui
phấn khởi. Các ông vui không vì đã tìm ra một món lợi, nhưng vì từ lâu các ông
vốn khát khao ơn cứu độ, các ông tha thiết chia sẻ tâm tình mong chờ Đấng Cứu
Thế của Kinh Thánh, và bây giờ thấy lòng mong đợi đó được đáp ứng. Các ông có
được niềm vui lớn lao, và khi vui người ta thấy cần chia sẻ, niềm vui sẽ tràn
đầy và truyền lan. Các ông đi nói lại với bạn bè, với bà con thân thuộc: Chúng
tôi đã thấy Đấng Cứu Thế, cũng gọi là Đức Kitô. Các ông muốn người thân cũng
vui với mình, và muốn mọi người cùng đi theo Chúa như mình.
Đầu tiên Gioan Tiền Hô đã gửi Anrê và
Gioan đến với Chúa. Rồi Anrê và Gioan đi gọi Simon và Philipphê mời gọi
Nathanael. Khởi đầu là do Chúa. Ơn gọi của Chúa như một niềm vui lan tràn từ
người nọ tới người kia như nước chuyển qua những ống dẫn và ta có cảm tưởng như
nếu không có người hướng dẫn thì những người kế cận sẽ không nhận được ơn gọi
của Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết
lắng nghe lời Chúa gọi và luôn cố gắng truyền thông cho anh chị em, để mọi
người sớm thành môn đệ Chúa.
17. Giới thiệu
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, tôi muốn
chia sẻ với anh em một bổn phận quan trọng, đó là: Bổn phận giới thiệu Đức Kitô
cho những người chung quanh.
Thực vậy, Gioan Tiền Hô lúc bấy giờ
xuất hiện bên bờ sông Giordan, ông rao giảng về tâm tình ăn năn và trao ban
phép rửa sám hối. Mọi người đều kính trọng ông và coi ông như là một vị tiên
tri. Thế nhưng ông đã thẳng thắn xác quyết với họ:
- Tôi chỉ là tiếng kêu trong sa mạc,
hãy dọn đường Chúa đến.
Cũng chính ông đã long trọng giới thiệu
Chúa Giêsu cho các môn đệ của mình:
- Đây là Chiên Thiên Chúa.
Rồi ông đã khiêm nhường thú nhận:
- Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây
giày cho Ngài. Ngài cần phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi.
Nghe lời giới thiệu ấy, Andrê và Gioan
đã bước theo Chúa. Chúa Giêsu quay lại thấy hai ông liền phán:
- Các ngươi tìm chi.
Các ông thưa:
- Lạy Thầy, Thầy ở đâu?
Chúa Giêsu bảo:
- Hãy đến mà xem.
Hai ông đã đến cùng Chúa và ở lại với
Ngài ngày hôm đó. Sau cuộc gặp gỡ này, Andrê đã đi tìm em mình là Simon và nói
với ông:
- Chúng tôi đã gặp Đấng Cứu Thế, tức là
Đức Kitô.
Và chính Andrê đã dẫn Simon đến cùng
Chúa.
Thoạt nhìn thấy Simon, Chúa Giêsu liền
phán:
- Con là Simon, kể từ nay con sẽ được
gọi là Kêpha, nghĩa là Đá.
Phúc âm còn kể tiếp, sau khi được Chúa
gọi, Philipphê, đã đến gặp Nathanael và nói:
- Chúng tôi đã gặp Chúa Giêsu, con ông
Giuse quê tại Nagiarét, là đấng Maisen mà các tiên tri đã nói tới trong lề
luật.
Nhưng Nathanael đáp lại:
Ở Nagiarét nào có cái chi hay?
Philipphê liền nói:
- Hãy đến mà xem.
Cuối cùng Nathanael đã đi tìm gặp Chúa,
đã tin nhận Chúa với lời tuyên xưng:
- Lạy Thầy, Thầy là Con Thiên Chúa, là
vua Israel .
Và ông đã trở nên một trong số 12 tông
đồ của Ngài.
Từ những chi tiết tôi vừa kể, chúng ta
thấy: Gioan Tiền hô đã giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, trong đó
có Gioan và Andrê. Rồi sau đó, Andrê cũng đã giới thiệu Chúa Giêsu cho em mình
là Phêrô. Còn Philipphê, một khi đã đi theo Chúa, ông cũng đã giới thiệu Chúa
cho Nathanael. Còn chúng ta thì sao?
Nhiều người trong chúng ta lầm tưởng
rằng, bổn phận giới thiệu Đức Kitô, làm chứng về Ngài cũng như rao giảng Phúc
âm là một bổn phận dành riêng cho các linh mục và tu sĩ, còn người giáo dân,
thì không cần phải vướng mắc chi vào chuyện đó.
Nghĩ như vậy là lầm. Đúng thế, với Bí
tích Rửa tội, chúng ta trở nên người Kitô hữu. Và như chúng ta thường định
nghĩa. Người Kitô hữu là người có Đức Kitô trong tâm hồn và mang Đức Kitô trong
cuộc sống của mình, bằng cách tuân giữ những điều Ngài truyền dạy và sống gắn
bó mật thiết với Ngài qua những tâm tình cầu nguyện.
Thế nhưng có Chúa mà thôi chưa đủ,
chúng ta còn có bổn phận phải giới thiệu Chúa, phải đem Chúa đến cho những
người chung quanh. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã phán:
- Các con là muối, là men, là ánh sáng.
Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân...
Bởi đó, bằng một cuộc sống đạo đức,
chúng ta thực sự có Chúa trong tâm hồn, đồng thời bằng những hành động bác ái
yêu thương, chúng ta đem Chúa đến và giới thiệu Chúa cho những người chung
quanh chúng ta.
18. Giới thiệu
Một thủ tục đầu tiên, hay đúng hơn, một
nghi thức đầu tiên mà trong bất cứ buổi hội họp hay một bữa tiệc lớn nhỏ nào
người ta vẫn thường làm, đó là giới thiệu những người hiện diện, nhất là giới
thiệu những chức sắc, những nhân vật quan trọng. Trong cuộc sống xã giao hằng
ngày cũng vậy, mỗi khi gặp những người mới lạ, người ta cũng thường giới thiệu
nhau. Như vậy, giới thiệu nhau là một điều rất bình thường, và tất cả chúng ta
đều biết mục đích của sự giới thiệu là để biết nhau.
Trong bài Tin Mừng chúng ta thấy Gioan
Tẩy Giả giới thiệu Chúa Giêsu cho các môn đệ của ông, ông nói: "Đây là
Chiên Thiên Chúa". Lời giới thiệu này chứng tỏ Gioan biết Chúa Giêsu là ai
và cũng chứng tỏ ông ý thức sứ mệnh tiền hô của mình, ông đã chỉ lối cho hai
môn đệ đến gặp Chúa Giêsu. Đây là lời giới thiệu trung thực, đầy can đảm và có
mãnh lực thôi thúc hai môn đệ đi theo Chúa.
Hai môn đệ ấy, một người là Anrê, còn
người kia, tuy Tin Mừng không nói đích danh, nhưng chúng ta biết đó là Gioan,
tác giả bài Tin Mừng này, bởi vì trong sách Tin Mừng của ông, ông thường giấu
tên mình. Họ đến nói chuyện với Chúa, chúng ta không biết Chúa nói gì với hai
ông và hai ông nói gì với Chúa, chỉ biết rằng sau khi tiếp xúc với Chúa ra về,
hai ông đã biểu lộ lòng tin: tin nhận Chúa là Đấng Mêsia, Đấng Thiên Sai, Đấng
Cứu Thế, và lòng đầy phấn khởi, quyết dấn thân theo Chúa không điều kiện.
Ngày hôm sau, ông Anrê lại đưa em mình
là Simon đến gặp Chúa. Vừa gặp Simon, Chúa đổi ngay tên cho ông là Phêrô. Trong
truyền thống của Do thái, việc đổi tên như thế bao hàm một ý nghĩa quan trọng
và là một cách minh chứng: người đổi tên là người có uy quyền, và người được
đổi tên sẽ được trao cho một nhiệm vụ quan trọng nào đó. Ở đây, Chúa Giêsu đổi
tên cho Simon, minh chứng uy quyền của Chúa, và Ngài sẽ trao cho ông một sứ
mệnh mới, một nhiệm vụ đặc biệt. Simon được đổi tên là Phêrô, nghĩa là Đá Tảng,
tức là ông sẽ làm nền móng của Giáo Hội, ông sẽ là người lãnh đạo tối cao của
Giáo Hội sau này.
Như vậy, Gioan Tẩy Giả biết Chúa Giêsu,
nên ông đã giới thiệu cho các môn đệ và hai môn đệ đã tin theo Chúa. Liền sau
đó, Anrê đã giới thiệu cho em mình, và Phêrô cũng tin theo Chúa. Rồi cả ba môn
đệ cũng như tất cả các môn đệ khác đã biết Chúa, sống với Chúa và vâng lệnh
truyền của Chúa đi giới thiệu Chúa cho muôn dân: "Anh em hãy đi khắp nơi
rao giảng cho mọi người". Các ông đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ này.
Đối với chúng ta hôm nay, một khi đã
chịu phép rửa tội và gia nhập vào Giáo Hội, chúng ta đều có nhiệm vụ giới thiệu
Chúa cho anh em. Chúng ta có thực hiện không và thực hiện như thế nào? Mục đích
của giới thiệu là để biết nhau, muốn giới thiệu về một người thì phải biết về
người đó, tùy theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết về nhau nhiều hay
ít, nếu không biết rõ về người nào thì có thể giới thiệu sai về người ấy, chẳng
ai muốn người khác giới thiệu sai về mình, giới thiệu sai là xúc phạm đến người
đó và cũng mắc lỗi với người mình giới thiệu. Vì thế, muốn giới thiệu ai thì
phải biết rõ về người ấy, cũng vậy, để giới thiệu Chúa chúng ta phải biết Chúa.
Chúng ta có biết Chúa không?
Có lẽ nhiều người tín hữu có mặc cảm vì
thấy mình non yếu về đức tin, về giáo lý, về Kinh Thánh, hình như chúng ta chỉ
đủ đức tin để giữ đạo cho mình mà không truyền thụ được cho ai, vì vốn liếng
kiến thức về giáo lý, về Kinh Thánh quá ít. Chúng ta thử nhìn lại bản thân mình
mà coi: hồi nhỏ, chúng ta học giáo lý chỉ là những câu hỏi thưa, học thuộc để
được xưng tội rước lễ lần đầu, Thêm sức hoặc lãnh bí tích hôn phối, từ đó trở
đi, không còn ai lo phải học, phải thi giáo lý nữa. Nhiều người cũng chỉ bằng
lòng với vốn liếng giáo lý đó, chứ không còn học hỏi hay đào sâu thêm chi nữa,
cũng chẳng ai bắt buộc chúng ta học nữa, trong khi đó ở những bộ môn khác luôn
luôn được học hỏi, được bồi dưỡng thêm.
Nói như vậy không phải để chúng ta bi
quan, mặc cảm, nhưng để chúng ta cố gắng thêm, dù chúng ta không biết về Chúa
cho đủ, nhưng Chúa cũng sai chúng ta đi giới thiệu Chúa cho mọi người. Cách
giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác tốt nhất, cụ thể nhất, hữu hiệu nhất là
bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta, đó chính là một tấm gương trước mặt
mọi người và có giá trị hơn nhiều bài giảng, "Lời nói lung lay, gương bày
lôi kéo" là thế.
Xin hãy nhớ: không phải ai cũng có thể
làm việc lớn, nhưng tất cả mọi người có thể làm được điều thiện, mà điều thiện
thì luôn có trong đời thường, và việc thường thì luôn có bên cạnh. Không phải
ai cũng là thánh ở đời này, nhưng tất cả đều có thể là một người lành, người
tốt, vì thế, với việc thường ngày, dù có nhạt nhẽo, nhàm chán với đắng cay,
chúng ta cũng hãy góp phần nhỏ bé của mình để xây dựng Giáo Hội và thế giới,
chúng ta hãy cố gắng làm gì cho đời chứ không thu góp những gì của đời cho mình,
vì một cuộc đời chỉ biết có mình là cuộc đời đã chết trước khi tắt thở.
19. Cuộc gặp gỡ
Trong suốt quá trình của đời sống,
chúng ta có nhiều cuộc gặp gỡ với mọi người. Hầu hết những cuộc gặp gỡ này đều
ít có ý nghĩa, và chẳng bao lâu, bị quên lãng.
Mỗi ngày, bạn có thể gặp gỡ một số
người, nhưng không bao giờ gần gũi với họ, mà chỉ ở bề ngoài mà thôi. Bạn có
thể nói chuyện với một số người hàng giờ, thậm chí hàng năm, mà vẫn không hề
cảm thấy bạn đã bộc lộ con người đích thực của bạn cho họ. Bạn có thể sống
nhiều năm trong cùng một cộng đoàn với người khác, mà vẫn không bao giờ biết về
họ, hoặc nói chuyện về những điều sâu xa hơn với họ. Một số quan hệ với người
khác mà thậm chí còn đưa chúng ta quay trở lại với chính mình, trở nên nghèo
nàn hơn, sau khi chúng ta ra đi. Đây là một trong những điều đáng buồn nhất
trong cuộc sống.
Nhưng có những cuộc gặp gỡ khác mang ý
nghĩa vĩ đại; chúng phong phú hóa, và đôi khi, còn dứt khoát làm thay đổi cuộc
sống của chúng ta nữa. Có thể bạn chỉ vừa mới gặp gỡ một người nào đó, và ngay
tức khắc, một mối quan hệ liền được hình thành. Bạn có thể bộc lộ bản thân
mình, một cách rõ ràng và thực sự. Đây là một trong những điều thú vị và thỏa
mãn nhất trong cuộc sống.
Khi một tình bạn được khai sinh, thì
không có một sự thay đổi nào rõ rệt trong cuộc sống con người – mà chỉ là một
sự nhận thức rằng cuộc sống của người đó trở nên khác hẳn, khả năng yêu thương
và chăm sóc của họ đã được mở rộng một cách lạ lùng, mà không hề có bất cứ sự
nỗ lực nào từ phía người đó.
Thật sai lầm khi nghĩ rằng tình yêu đến
từ tình bạn lâu dài và sự kiên nhẫn theo đuổi. Theo Kahlil Gibran "Tình
yêu là kết quả của sự thu hút về mặt tinh thần, trừ khi sự thu hút này được tạo
ra trong một chốc lát, theo năm tháng, hoặc thậm chí qua nhiều đời, người ta vẫn
sẽ không tạo ra được nó". Nhiều cuộc gặp gỡ có ý nghĩa tình cờ xảy ra. Một
số người sẽ nói điều này với bạn, về cách họ gặp gỡ người bạn đời của mình: họ
không bao giờ quên được những sự kiện của cuộc gặp gỡ đầu tiên đó. Một khi
chúng ta đã yêu mến hoặc căm ghét một người nào, thì hầu như chúng ta nhớ được
từng chi tiết của cuộc gặp gỡ đầu tiên đó. Điều này giúp chúng ta hiểu biết
được tầm quan trọng của cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đức Giêsu và ba môn đệ sau
này trở thành các tông đồ của Người – Phêrô, Anrê và Gioan. Rõ ràng họ đã có
một cuộc gặp gỡ tuyệt vời. Nhiều năm sau, khi Gioan viết sách Tin Mừng, ông vẫn
có thể nhớ được chính xác về ngày giờ diễn ra cuộc gặp gỡ đó – đó là vào khoảng
giờ thứ 10 (4 giờ chiều).
Khi được gặp Đức Giêsu, Người đã lôi
cuốn họ ngay. Người dành cho họ nhiều thời gian theo lòng họ mong muốn. Họ nhận
thấy Người nồng nàn, thân thiện, hiếu khách. Họ biết rằng họ được gặp gỡ một
nhân vật quan trọng, và một tình bạn hiếm có được khai sinh. Họ cảm thấy hoàn
toàn được bình an nhờ sự hiện diện của Người. Thông qua cuộc tiếp xúc với
Người, họ bắt đầu khám phá ra chính con người của họ. Nhờ tính cách của Người,
họ có được tầm nhìn về con người mà họ có thể trở thành.
Có một sự khác biệt lớn lao giữa quyền
lực về ảnh hưởng. Những người nắm quyền lực trên chúng ta áp bức chúng ta, cố
gắng biến chúng ta thành nô lệ, hoặc bản sao của con người họ. Những người gây
ảnh hưởng trên chúng ta thì lại không hề cố gắng xoay chuyển, thay đổi, hoặc
đúc khuôn chúng ta. Họ tạo ra cho chúng ta một khoảng không gian, trong đó
chúng ta có thể tìm thấy bản thân mình, và đường lối của riêng mình. Đức Giêsu
không áp đặt quyền lực trên các môn đệ của Người. Nhưng Người gây ra một ảnh
hưởng sâu xa trên họ. Cuộc gặp gỡ với Người mãi mãi thay đổi cuộc sống của Phêrô,
Anrê và Gioan.
Chúng ta không thể gặp gỡ Đức Giêsu
bằng xương thịt. Nhưng chúng ta có thể gặp gỡ Người một cách thiêng liêng trong
lòng tin, với tư cách là một Người bạn, một Người anh Cả, và một Đấng Cứu độ.
Không nhận biết Đức Giêsu là chưa khám phá được điều mà đạo Công giáo hướng
tới. Đạo Công giáo đưa đến một mối quan hệ nồng ấm, gần gũi với Đức Giêsu.
Đức Giêsu mãi mãi ra đi rồi. Nhưng
Người vẫn luôn gần gũi với những ai chân thành tìm kiếm Người. Người không bao
giờ áp đặt bản thân Người trên bất cứ ai. Đối với kẻ nào thích được hiểu biết
nhiều hơn nữa, thì Người nói câu mà Người đã nói với Gioan và Anrê "Hãy
đến mà xem".
Tất nhiên đó không phải là một cuộc gặp
gỡ một lần cho tất cả, nhưng chúng ta đang nói về một mối quan hệ đang phát
triển với Người.
20. Các môn đệ đầu tiên - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn có thể biết và tin Đức Giêsu mà
không do một người nào khác giới thiệu cho bạn không? Nếu thế, bạn có cảm thấy
bổn phận phải tiếp tục giới thiệu Đức Giêsu cho những người khác nữa không?
2. Những người hiện nay mang danh là
biết và tin Ngài, thật ra có biết và tin Ngài đích thực không? Những người này
có cần được giới thiệu lại về Đức Giêsu để họ biết và tin Ngài đích thực hơn,
nghĩa là niềm tin ấy phải được thể hiện bằng sự dấn thân cụ thể trong đời sống
không?
3. Khi giới thiệu, rao giảng về Đức
Giêsu, bạn có bị cám dỗ tìm chính mình, lợi ích cho mình - thay vì tìm Ngài và
lợi ích cho Ngài - trong công việc thánh thiện ấy không? Bạn có dễ dàng từ bỏ
những ưu đãi, đặc quyền đặc lợi đi kèm với công việc tông đồ không?
Suy tư gợi ý:
1. Cần giới thiệu Đức Giêsu cho người
chưa biết Ngài
Đức Giêsu nói: "Ai tin và chịu
phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin, thì sẽ bị kết án" (Mc 16,16).
Sự cần thiết và quan trọng của Đức tin được Kinh Thánh nói đến rất nhiều (xem
thêm: Lc 8,12b; Cv 16,31; Rm 10,9; Ep 2,8; 1Pr 1,9; v.v...). Nhưng tin không
phải chuyện ai cũng làm được: ta thấy hiện nay trên thế giới, cứ 10 người thì
mới có 3 người mang danh là tin Đức Giêsu. Và rất có thể trong 3 người - hay
hơn nữa - mang danh là tin ấy mới có một người thật sự tin vào Ngài (vì tin
thật sự là tin phải được chứng tỏ bằng việc làm, bằng đời sống và sự dấn thân
thật sự). Việc có đức tin tùy thuộc nhiều điều kiện: một cách khách quan vào cơ
hội hay "nhân duyên" (nói theo từ nhà Phật), và một cách chủ quan vào
tâm trạng của mỗi người. Về điều này thánh Phaolô cũng viết: "Kinh Thánh
nói: Tất cả những ai kêu cầu danh Đức Chúa sẽ được cứu thoát. Thế nhưng làm sao
họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao
mà nghe, nếu không có ai rao giảng" (Rm 10,11.13-15a).
Để người ta tin vào Đức Giêsu, cần có
người giới thiệu Ngài cho họ. Người giới thiệu hết sức cần thiết. Trong thương
trường, để bán được hàng hóa, người ta phải tìm mọi cách, bằng quảng cáo, tiếp
thị, để giới thiệu cho mọi người biết trên thị trường có loại hàng hóa ấy, chất
lượng nó ra sao, nó cần thiết cho đời sống thế nào. Thời nay, hàng hóa mà không
nhờ quảng cáo và tiếp thị thì dễ có nguy cơ bị ế. Trong bài Tin Mừng hôm nay,
ta thấy Gioan Tẩy giả đã giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ của mình để họ
theo Ngài: hai môn đệ này một người là Anrê, và người kia chắc hẳn là Gioan
(nhỏ), tác giả bài Tin Mừng này (tác giả thường không muốn nói đến bản thân
mình). Nhờ Gioan Tẩy giả giới thiệu, hai môn đệ của ông đã trở thành môn đệ của
Đức Giêsu và dấn thân trọn vẹn cho Ngài suốt cuộc đời.
2. Cần giới thiệu lại Đức Giêsu cho
người đã biết và tin Ngài
Hiện nay, chung quanh ta có biết bao
người không tin thật sự vào Đức Giêsu, vào chân lý cứu độ. Trong số đó, có biết
bao người mang danh là tin Ngài, nhưng thật sự chỉ là tin trên danh nghĩa, vì
trong thực tế họ chỉ biết về Ngài rất mơ hồ, sự biết ấy không đủ sức mạnh để
thúc đẩy họ sống và hành động như sự hiểu biết ấy đòi hỏi. Ngay trong số chúng
ta, những người tự xưng là Kitô hữu, chúng ta có thể tuyên xưng rất mạnh niềm
tin của mình, thậm chí kết án những ai tin khác với mình, nhưng giữa niềm tin
ấy và cuộc sống của ta là cả một sự xa cách. Tin trên lý thuyết và sống trong
thực tế không trùng hợp với nhau, lý và sự, chủ trương và hành động, nói và làm
khác xa nhau. Điều đó chứng tỏ chúng ta chưa thật sự tin.
Thánh Giacôbê nói: "Một thân xác
không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin không có hành động là đức tin
chết" (Gc 2,26; x.2,17). Nhiều khi chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng
đức tin ấy xét cho nghiêm túc lại là thứ "đức tin chết", những đức
tin giả hiệu, là "hàng giả", loại rẻ tiền (vì được mua với giá rẻ).
Chính vì thế, Giáo Hội ngày nay mới nói đến vấn đề "phúc âm hóa mới",
hay "tái phúc âm hóa", nghĩa là giới thiệu lại Đức Giêsu cho những
người đã biết Ngài, đã mang danh là tin Ngài, để họ tin Ngài một cách đích thực
hơn.
3. Tỷ lệ người tin thật sự trong Giáo
Hội và thế giới hiện nay
Cứ nhìn vào thực trạng của Giáo Hội,
của xã hội và thế giới hiện nay, ta có thể thấy được tỷ lệ người tin thật sự
vào Đức Giêsu là bao nhiêu. Người thật sự tin tất nhiên phải trở thành
"muối" (x. Mt 5,13; Mc 9,49; Lc 14,34), thành "men" (Mt
13,33; Lc 13,21) chất lượng. Nếu thức ăn được ướp muối mà vẫn bị hư, bột được
trộn men mà không dậy lên được, là vì: hoặc muối hay men quá ít, hoặc muối hay
men đã bị mất chất lượng. Vì nếu men tốt thì chỉ cần "một chút men (là đủ)
làm cả khối bột dậy men" (Gl 5,9).
Tệ hơn nữa, nếu men bị biến chất thành
men thối thì thật là nguy hiểm cho đống bột. Đức Giêsu đã cảnh cáo chúng ta
chuyện này: "Anh em phải coi chừng, phải đề phòng men Pharisêu và men
Hêrôđê" (Mc 8,15; x. Mt 16,6). Ngài giải thích: "Men Pharisêu tức là
thói đạo đức giả" (Lc 12,1b), là thói giữ đạo một cách hình thức, với
những nghi lễ trang trọng bề ngoài, mục đích để được ca tụng, được khen, nhưng
trong tâm hồn thì chẳng có tình thương, chẳng muốn hy sinh chịu thiệt cho ai
(x. Mt 23). Còn "men Hêrôđê" có thể là thói ham thích quyền bính,
thích ép buộc người khác phải làm theo ý mình, đồng thời sẵn sàng làm tất cả
mọi sự - kể cả những chuyện bỉ ổi, đê hèn, tội lỗi - để đạt được hay duy trì
quyền bính của mình (x. Mt 2,16). Hai loại "men" này thực chất thì
như nhau, nhưng một đằng áp dụng trong tôn giáo, một đằng áp dụng ở ngoài đời.
Chính những loại "men" này đã làm Giáo Hội, xã hội và thế giới thoái
hóa về đạo đức và tâm linh.
Vậy, ai sẽ là người làm công việc
"tái phúc âm hóa" này, nghĩa là làm cho muối mặn trở lại, men nồng
trở lại? Bạn nhận định thế nào về thực trạng của Giáo Hội, xã hội và thế giới
hiện nay? Bạn có ý thức được nhu cầu khẩn thiết phải tái phúc âm hóa trong Giáo
Hội không? Bạn có nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi bạn làm công việc này không? Nếu
nghe thấy, bạn có đáp lại tiếng Chúa như Sa-mu-en trong bài đọc I không? Bạn có
sẵn sàng đi theo và rủ người khác theo Ngài như hai môn đệ của Gioan Tẩy giả
trong bài Tin Mừng không? Bạn thử lắng nghe Chúa nói trong lòng mình và nghe cả
lòng mình nói nữa!
4. Dành cho Chúa tất cả, đừng giữ lại
gì cho mình
Thái độ của Gioan Tẩy giả cũng là một
gương mẫu và là một bài học tốt cho chúng ta. Anrê và Gioan (nhỏ) đều đang là
môn đệ của Gioan Tẩy giả. Chắc chắn ông đã từng nói với các môn đệ mình cũng
như đã từng nói với dân chúng: "Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi,
tôi không đáng xách dép cho Người. Tôi làm phép rửa trong nước để giục lòng sám
hối, còn Người sẽ làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa" (Mt 3,11). Khi nói
những lời ấy, Gioan Tẩy giả xác định mình không phải là Đấng ấy, đồng thời muốn
giới thiệu Đấng ấy để mọi người - kể cả các môn đệ của ông - tin và hướng về
Đấng ấy. Chính vì thế, khi Gioan Tẩy giả "thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông
lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa"" thì có "hai môn
đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giêsu". Khi hai môn đệ rất ưu tú của
mình bỏ mình để làm môn đệ Đức Giêsu, chắc chắn Gioan Tẩy giả cảm thấy một niềm
vui buồn lẫn lộn. Vui vì thấy Đức Giêsu có được hai môn đệ, vui vì hai môn đệ
của mình có được một người thầy cao cả và xứng đáng hơn mình. Nhưng cũng buồn
vì mình đã bị mất mát một cái gì rất thân quí. Giữa vui và buồn ấy, đối với một
người thật sự quan tâm tới công việc chung, thì cái vui ấy sẽ lấn át cái buồn,
và nỗi buồn chỉ là thoáng qua.
Khi ta giới thiệu Đức Giêsu cho mọi
người, rao giảng, dạy dỗ về Ngài, chắc chắn vì sự giới thiệu, dạy dỗ ấy, nhiều
người sẽ nhận ta là thầy, và theo làm môn đệ ta. Ngoài ra, ta còn được biết bao
người kính trọng, nể phục, khen ngợi, đồng thời dành cho ta nhiều ưu tiên, đặc
quyền đặc lợi nào đó. Ban đầu có thể ta không hề nhắm tới những điều phụ thuộc
này, nhưng khi đã hưởng được những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy, lòng ta bắt
đầu cảm thấy gắn bó với chúng, đến nỗi nếu không có những ưu đãi hay đặc quyền
đặc lợi ấy, ta cảm thấy thiếu thốn, bực bội. Từ đó, như một phản xạ có điều kiện,
khi ta giới thiệu hay rao giảng về Đức Giêsu, phản ứng tự nhiên của ta là đòi
hỏi những ưu đãi hay đặc quyền đặc lợi ấy. Và cuộc đời tông đồ của ta dần dần
bị biến chất. Ta không còn quan tâm chính yếu tới Đức Giêsu mà ta đang giới
thiệu, rao giảng, nhưng ta lại tìm chính ta, tìm danh vọng, địa vị, ưu đãi
trong chính công việc tưởng chừng rất thánh thiện ấy. Và khi bổn phận tông đồ
buộc ta phải từ bỏ chúng, ta không thể chấp nhận được. Ta cố níu lại cho bằng
được những thứ ấy. Đó chính là một trong những cám dỗ rất thường gặp nơi những
người làm tông đồ, những người giới thiệu Đức Giêsu như Gioan Tẩy giả. Thiết
tưởng chúng ta luôn luôn tỉnh táo kẻo sa vào chước cám dỗ ấy, vì có biết bao
người đã chìm đắm trong đó rồi!
Cầu nguyện
Lạy Cha, con biết Cha là nhờ Đức Giêsu
giới thiệu, và biết Đức Giêsu là nhờ Giáo Hội, nhờ một ai đó giới thiệu. Nhờ
đó, con được diễm phúc biết và yêu mến Cha, biết và tin theo Đức Giêsu để được
cứu độ. Vì thế, con cảm thấy mình thật ích kỷ nếu không tiếp tục giới thiệu cho
những người khác nữa biết về Cha, về Đức Giêsu. Nhưng xin hãy cho con biết và
tin đích thực, đồng thời sống thật sự niềm tin ấy trước khi giới thiệu niềm tin
ấy cho người khác. Amen.
21. Đến và ở lại – Anmai
Thử hỏi ai trong chúng ta là người
không biết yêu? Và khi yêu nhau, tâm trạng của tình yêu nó làm sao đó và chẳng
ai có thể diễn tả được. Chỉ có những tâm hồn đang yêu mới diễn tả và mới hiểu
được tình yêu là gì.
Đơn giản, đứa trẻ, nhìn vào đứa trẻ
chúng ta sẽ thấy lộ ra tình yêu của chúng với cha mẹ chúng là như thế nào.
Chúng hình như không muốn xa lìa cha mẹ chúng chút nào cả. Bằng chứng tôi thấy
rõ nhất là ở gia đình, có hai đứa cháu trai năm nay đứa học lớp 10, đứa học lớp
5. Hai đứa cháu này không bao giờ chịu rời xa cha mẹ chúng cả. Dù nghe người khác
bảo là dẫn đi Siêu Thị hay đi mua đồ chơi, mua thức ăn cho chúng là những điều
chúng thích nhưng chẳng bao giờ dụ chúng được. Có lẽ một phần do bản tính nhưng
căn cốt đó là vì yêu cha yêu mẹ chúng, chúng sợ xa cha xa mẹ nên chẳng chịu rời
xa cha mẹ. Yêu là như vậy đó.
Hay là như chúng ta, hơn một lần chúng
ta tiễn biệt người thân chúng ta như ông, như bà, như cha, như mẹ. Ít nhiều gì
đó, chúng ta cảm thấy cái giây phút hạ huyệt, cái giây phút đưa vào lò thiêu nó
đau đớn đến mức nào. Có những người khóc ngất, có những người xỉu vì xa cha, xa
mẹ, xa ông, xa bà của mình. Tại sao khóc? Chẳng cần suy nghĩ, ta có thể trả lời
ngay là vì yêu. Yêu nên sợ xa, sợ mất người mà mình yêu.
Nhìn vào tình yêu đôi lứa chúng ta sẽ
thấy rõ nét nhất về sự xa cách này. Khi vì hoàn cảnh chưa đến được với nhau,
chưa được ở gần nhau thì cái lòng nó nao nao làm sao đó. Hình như lúc nào anh
chị cũng muốn được ở gần nhau, được ở bên nhau hết. Có những lúc đi xa thì chỉ
tổ làm giàu cho các mạng di động thôi vì lúc nào cũng liên lạc cả. Không được ở
gần nhau vì hoàn cảnh nào đó thì cũng mong được nghe tiếng của nhau. Vì sao
vậy? Vô duyên quá chăng? Không! Đó là vì yêu, yêu nên người ta mới mong mỏi
được ở gần nhau, ở bên nhau.
Tất cả những hình ảnh đơn sơ ấy biểu lộ
tình yêu giữa con cái với ông bà cha mẹ, giữa hai người yêu nhau. Phải nhìn
nhận thẳng với nhau rằng, trước khi yêu ta tin cái người ta yêu. Thử hỏi đứa
trẻ xem, nó tin ai nhất? Chắc chắn nó tin cha mẹ nó nhất trên đời nên nó mới
yêu. Thử hỏi không tin xem nó có dám yêu chăng?
Hai anh chị cũng thế! Dù không nói ra,
dù không cân - đo - đong - đếm được nhưng hình như tự hai người nó phát ra cái
tín hiệu rất là lạ đó là tin nhau. Tin nhau rồi họ mới tìm đến nhau và mới yêu.
Thật sự mà nói, chẳng ai dám đi yêu cái người mà mình không tin cả. Từ tin bắt
đầu đến yêu. Yêu nhau nên muốn ở lại bên nhau là chuyện bình thường thôi. Nếu
yêu mà không tin nhau đó là tình yêu bất thường, tình yêu dị dạng và tình yêu
móp méo.
Hình ảnh tin, yêu và ở lại bên nhau
được Thánh Gioan nói cho chúng ta qua trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe.
Gioan thuật lại rằng có hai môn đệ đang đứng với ông, thấy Đức Giêsu đi ngang
và Gioan giới thiệu ngay: "Đây là Chiên Thiên Chúa". Sau khi nghe
giới thiệu Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa, lập tức hai môn đệ đi ngay. Tại sao
đi ngay? Vì lẽ là môn đệ Gioan, tin Gioan nên mới đến với Chúa Giêsu và ở lại
với Chúa Giêsu. Không đơn giản như Thánh Gioan thuật lại, muốn đến và ở lại như
vậy chắc có lẽ phải qua một thời gian, một giai đoạn tìm hiểu và rồi tin và rồi
yêu như những người trẻ đến với nhau vậy. Và muốn có được kết qủa như ngày hôm
nay của hai môn đệ ông Gioan là do hai môn đệ ấy đã lắng nghe ông Gioan nói về
Chúa Giêsu trong thời gian hai ông ở với Gioan. Phải lắng nghe hai ông ấy mới
biết Chúa Giêsu là ai để rồi mới ngong ngóng tìm Chúa và hôm nay mới gặp được
Chúa và theo Chúa, ở với Chúa.
Muốn biết về ai, muốn tin vào ai và
muốn yêu người ấy thì chuyện quan trọng nhất đó là lắng nghe. Khi ta không lắng
nghe nói về người đó, nói với người đó thì làm sao ta biết, ta tin và ta yêu
được.
Hình ảnh về sự lắng nghe, về tin, về
yêu ấy được Samuael thuật lại trong trang sách của ông mà chúng ta cũng vừa
được nghe.
Trong cơn ngủ đấy nhưng Samuel được
nghe tiếng gọi, ông giật mình đến hỏi thầy của mình. Cả đến 3 lần, 3 lần ấy ông
Êli đều xác nhận không phải là ông gọi nhưng chính Thiên Chúa gọi Samuel. Và
Samuel lại tiếp tục trong cơn ngủ của mình. Thiên Chúa lại đến với Samuel và
thực thi theo lời thầy mình dạy, Samuel đã thân thưa với Chúa: "Xin Ngài
phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng tai nghe". Sau khi thân thưa, thỏ thẻ với
Chúa về tâm tình, về thái độ của mình thì ơn của Thiên Chúa đến với ông như
chúng ta nghe: "Samuel lớn lên, Đức Chúa ở với ông và Người không để cho
một lời nào của Người ra vô hiệu". (1 Sm 3, 19)
Thật sự là thế, Samuel lớn lên trong ơn
nghĩa của Chúa nhờ thái độ, nhờ tâm tình lắng nghe Chúa và rồi Chúa ở với ông.
Chúa ở với ông đồng nghĩa là ông ở trong Chúa.
Chúng ta, nhìn lại mình, chúng ta thấy
buồn cười lắm! Chúng ta được nghe các thánh, các tông đồ và nhiều người nói về
Chúa cho chúng ta nhưng tâm hồn của chúng ta nó cứ trơ trơ ra làm sao đó. Không
chỉ các thánh, các tông đồ nhưng ngay bản thân chúng ta thôi, Thiên Chúa đã
nhiều lần trực tiếp bằng những biến cố này biến cố khác trong cuộc đời Chúa nói
với chúng ta đấy nhưng chuyện quan trọng là chúng ta có đủ kiên nhẫn, có đủ
lắng đọng để nghe không?
Tạ ơn Chúa vì ngày nay xã hội phát
triển, thậm chí phát triển quá mức tưởng tượng. Tất cả những gì xã hội mang đến
cho con người là con dao 2 lưỡi. Nó phục vụ rất tốt cho cuộc sống của con người
nhưng ngược lại nó cũng làm cho con người ra hư hỏng. Nếu biết dùng thì con
người sẽ dùng những vật chất, những phát triển văn minh sẽ phục vụ con người
nhưng không khéo nó sẽ làm hỏng con người. Nếu không cẩn thận, nếu không có
chiều sâu tâm linh đậm đặc đủ con người sẽ mãi chạy theo những đam mê, những
cám dỗ của vật chất, của xác thịt, của danh vọng.
Những thú vui của danh vọng, địa vị,
vật chất ấy đôi khi đã làm cho con người đánh mất cảm thức về Chúa, không còn thấy
Chúa có chỗ đứng trong cuộc đời của mình nữa. Sự thật thật bi đát, sự thật thật
đau lòng đó là dù cho giàu có, danh vọng, hưởng thụ đến mức nào đi chăng nữa
nhưng không có Chúa cuộc đời nó cứ rỗng rỗng tuếch tuếch làm sao đó.
Chúng ta vẫn bị giằng co giữa những cái
mong manh của cuộc đời và Chúa nên rồi chúng ta cứ quay quắt trong những cái
mong manh ấy. Vì sao chúng ta bị quay quắt? Vì lẽ chúng ta đã lìa xa Chúa,
chúng ta đã không tìm Chúa, không đến, không lắng nghe lời Chúa như hai môn đệ
của ông Gioan và Samuel.
Vâng! Tất cả rồi sẽ qua đi, tất cả rồi
sẽ mất hết, còn lại duy chỉ mình Chúa thôi. Xin Chúa cho chúng ta ghi nhớ rằng
chỉ mình Chúa là đủ cho cuộc đời chúng ta để rồi dù cuộc đời này có bao nhiêu
ồn ào, bao nhiêu náo động chúng ta luôn lắng đọng tâm hồn để chúng ta đến bên
Chúa, để ở lại với Chúa và để nghe lời Chúa. Khi Lời Chúa ngự vào tâm hồn chúng
ta chúng ta sẽ tìm thấy sự bình an thật sự trong cuộc đời.
22. Chú giải của Noel Quesson
Mùa Phụng vụ được cấu trúc dựa theo hai
lễ lớn: Giáng Sinh và Phục Sinh. Mỗi "thời điểm đặc biệt" trên lại
được một thời gian chuẩn bị trước, gọi là Mùa Vọng và Mùa Chay, và được kéo dài
theo sau bằng Lễ Hiển Linh và Mùa Phục Sinh.
Ngoài hai giai đoạn lễ quan trọng này,
thời gian phụng vụ trong năm trở nên "thông thường" hơn, đó là các
Chúa Nhật xem ra ít sắc thái hơn. Tuy nhiên, đó không phải là những Chúa Nhật
tẻ nhạt, kém phong phú đâu. Đời sống của ta không chỉ bao gồm những thời gian
đặc biệt. Cần phải biết chấp nhận cả những chuỗi ngày bình thường nữa.
Sau những ngày lễ hội Giáng Sinh và Năm
mới, hôm nay chúng ta lại bước vào một chuỗi dài các Chúa Nhật, qua đó Giáo hội
trình bày cho ta cuộc đời trưởng thành của Đức Giêsu.
Hôm sau, ông Gioan lại đang đứng với
hai người trong nhóm môn đệ của ông".
Đây là biểu tượng cho "nếp sống
thường ngày", bắt đầu lại mỗi buổi sáng, bề ngoài có vẻ tầm thường, lu mờ,
ảm đạm... cứ khởi sự lại hoài hoài, nhưng thực sự có phải chỉ dẫn ta đến buồn
chán hay không?
Đâu phải vậy, chính trong bối cảnh tẻ
nhạt đó, thông thường xem như "không có cái gì xảy ra", thì lại sắp
phát sinh cái mới mẻ! Không có buổi sáng nào tầm thường cả.
Thiên Chúa đều hiện diện ở đó. Hôm nay,
một điều gì đó sẽ xảy đến.
Thánh Gioan đã có ý soạn thảo chương
thứ nhất Tin Mừng của ông, như một "Tuần lễ đầu tiên": chủ yếu là gây
chú ý "buổi khởi đầu của Đức Giêsu. (Ga 1,19) đó là ngày thứ nhất. Một
phái đoàn Do Thái đến chất vấn Gioan Tẩy Giả tại sông Giođan.
Ga 1,29: Ngày thứ hai "Hôm sau,
Gioan Tẩy Giả xác định Đức Giêsu là Chiên Thiên Chúa.
Ga 1,35: Ngày thứ tư, "Hôm sau,
Đức Giêsu kêu gọi thêm hai môn đệ khác.
Ga 2,1: Ngày thứ bảy, "Ba ngày
sau", phép lạ đầu tiên đã xảy ra tại tiệc cưới Ca-na, qua đó Đức Giêsu
biểu lộ vinh quang của Người và các môn đệ tin vào Người.
Qua các dàn dựng như trên, Thánh sử Gioan
muốn báo cho chúng ta một "Tin Mừng": đây là một cuộc sáng thế mới,
một cuộc tạo dựng mới được khởi sự, một việc lặp lại trang đầu tiên của Kinh
Thánh. Toàn thể "mạc khải" như kêu lên cho chúng ta biết: Không, thời
gian không thể tầm thường, tẻ nhạt, buồn chán. Chính thời gian sẽ phát sinh ra
điều mới lạ căn bản, thới gian luôn mang chứa năng lực sáng tạo, thời gian sẽ
thực hiện công cuộc Tạo dựng.
Đối với tôi mỗi buổi sáng có mang lại
một điều gì mới mẻ không?
Lạy Chúa, xin giúp con biết chăm chú
đến những gì sắp gây ra đến "biến cố" sắp xảy đến thường gây bất ngờ
cho con, Lạy Chúa, mỗi ngày, Chúa đang chờ đợi con.
Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên
tiếng nói: "Đây là chiên Thiên Chúa".
Vâng, Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức
Giêsu, và đã khiêm tốn tự xóa nhòa đời mình trước Đấng mà ông loan báo: ông sắp
chuyển giao các môn đệ của mình. Họ sẽ rời bỏ Gioan Tẩy Giả để theo một ông
Thầy khác. Tước hiệu đầu tiên trên đây, được dành cho con người mà cho tới nay,
vẫn được coi là chàng thợ mộc Na-da-rét, có ý nghĩa gì? Chàng là "Chiên
Thiên Chúa" sao!
Đó là tên gọi mà ta thường hát đi hát
lại trong mỗi thánh lễ Dưới tên gọi để chúng ta mặc cho nó một ý nghĩa nào?
Gioan Tẩy Giả nhằm nói lên điều gì? Ta chỉ cần gợi lại toàn diện bối cảnh Do
Thái lúc đó. Tước hiệu này thực sự là bước "chuyển tiếp" từ Cựu ước
sang Tân ước; đó là vị ngôn sứ cuối cùng và là chứng nhân đầu tiên Đức Giêsu
Kitô. Vào ngày lễ Vượt qua, mỗi gia đình Do Thái giết một con chiên và lấy máu
bôi lên cửa nhà mình trong lúc dùng bữa cơm tối: đó là biểu tượng cho công cuộc
"giải phóng" ít-ra-en. Ngoài ra, từ "con chiên" trong tiếng
A-ra-mên, ngôn ngữ Đức Giêsu sử dụng, cũng có nghĩa là "tôi tớ". Mọi
người Do Thái sùng đạo đều mang trong đầu lời sấm nổi tiếng của ngôn sứ Isaia
(53,7), giới thiệu "người Tôi tớ của Thiên. Chúa" hoàn hảo như
"một con" chiên bị người ta dẫn tôi lò sát sinh mà không mở miệng kêu
than". Vậy Đức Giêsu đã được chỉ định như Đấng sắp bị người ta sát tế
trong thinh lặng, sắp vì yêu mà hiến mạng sống mình để xóa bỏ tội lỗi trần
gian. Theo tập truyền Do Thái thời Đức Giêsu, người ta thường nói tới một
"con chiên Chúa", có thể mọc sừng cừu đực và lãnh trách nhiệm
"bảo vệ cả đoàn chiên". Ngoài ra, đó cũng là hình ảnh mà Gioan sử
dụng lại trong sách Khải Huyền, khi ông giới thiệu Con chiên, được chọn từ đoàn
chiên, đảm trách việc bảo vệ các anh em mình, tấn công và đánh tan kẻ thù.
Chúng ta có đi quá xa bài thánh ca dịu dàng "Đây Con chiên vô cùng hiền
lành" không! Thực ra, Chiên Thiên Chúa nơi chúng ta ca ngợi trước khi
trước lễ không phải là hình ảnh con vật dịu hiền, trìu mến và vô hại... Đúng ra
đó là hình ảnh một kẻ giao chiến hiếu thắng nhưng phải đổ đầm đìa máu huyết để
cứu thoát chúng ta khỏi bất hạnh!
Đó là cách thức Gioan đã giới thiệu Đức
Giêsu như thể ngay ngày thứ ba khởi sự đời sống công khai của Người.
"Hai môn đệ nghe ông nói đều đi
theo Đức Giêsu".
Tôi có thể hình dung ra cảnh tượng
trên. Đức Giêsu đang bước đi trên một con đường mòn dọc theo bờ sông. Hai người
theo gót chân Người, thái độ nhút nhát, vẻ hồi hộp... Họ chưa gặp Người bao
giờ. Đó là một người lạ mặt. Những gì sắp xảy ra đây?
Thật là quá "liều" khi theo
một người lạ như thế. Có lẽ, đây là một cuộc mạo hiểm. Nhưng những cuộc hành
trình vĩ đại đều bắt đầu như thế cả, vì nhờ đó mới mở ra một con đường mới.
"Đức Giêsu quay lại, thấy các ông
đi theo mình, thì hỏi..."
Đức Giêsu đã nghe thấy bước chân họ đạp
trên sỏi đá, phía sau Người. Người quay lại. Tôi thử quan sát cảnh tượng này.
Đây cũng là "cái nhìn đầu tiên" của Đức Giêsu đối với những người lạ
mặt...
"Các anh tìm gì thế?"
Đây là lời đầu tiên của Đức Giêsu được
ghi nhận trong Tin Mừng thánh Gioan. Câu hỏi này Đức Giêsu muốn đặt ra cho mọi
người. Hôm nay, Người cũng đang hỏi tôi như thế. "Bạn tìm gì đó? Bạn đặt
cho đời mình ý nghĩa nào? ước muốn của bạn là gì?
Ta cần ghi nhận, sự can thiệp đầu tiên
của Đức Giêsu không phải là một "khẳng định", nhưng là một "câu
hỏi'. Vì thực ra, để đến với Đức Giêsu, cần phải có thái độ "cởi mở",
không thể "khép kín" trong một hệ thống đóng khung, như các "tư
tế và trợ tế" đã đến gặp Gioan Tẩy Giả. (Ga. 1,19). Đối với những loại người này,
cuộc đối thoại đã sớm kết thúc vì thực ra họ 'không tìm cái gì cả'. Lời đầu
tiên của Đức Giêsu muốn lưu ý ta rằng, điều kiện trước hết để làm phát sinh và
đào sâu đức tin, phải là thái độ "tìm kiếm, Đức tin trước hết phải là thái
độ tìm hiểu đạo: đó là một cuộc kiếm tìm, một câu hỏi. "Lạy Chúa, Chúa là
ai?", kẻ nào cho mình biết tất cả, sẽ bị khựng lại trong những xác tín của
mình, sẽ không bao giờ tiến bộ được. "Không có Thiên Chúa! - Bạn có tin chắc
như thế không? Thiên Chúa hiện hữu. Người là Đấng này.. Đấng kia - Bạn có xác
tín như thế không?". Một triết gia tầm cỡ như Descartes đã nói: "Muốn
cho khoa học tiến bộ, cần phải biết "hồ nghi". Cũng vậy, cần phải
biết "đặt câu hỏi", như một thứ điều kiện để phát triển đức tin. Còn
Péguy đã diễn dịch như sau: "Có những tâm hồn hoàn toàn khép kín, không để
một ngõ ngách nào cho ân sủng thâm nhập. Không có chỗ có thể "thấm
ướt" được, thì làm sao có thể tiếp thu... ".
Lạy Chúa, xin ban cho tâm hồn chúng con
biết mơ mộng, biết kiếm tìm.
Họ đáp: 'Thưa Rapbi, (nghĩa là thưa
Thầy) Thầy ở đâu?". Người bảo họ: "Đến mà xem".
Tìm kiếm... bước theo... cư ngụ... đó
là ba thái độ cốt yếu của tình yêu. Tôi có kiếm tìm Thiên Chúa không? Tôi có
theo vết chân Người không? Tôi có luôn ở cùng Thiên Chúa không? Đức Giêsu đáp
lại lòng mong muốn, thái độ kiếm tìm của họ. Nhưng, cách đáp trả của Người luôn
tôn trọng tự do của họ: "Hãy đến mà xem?" Đức Giêsu không bó buộc các
ông đi theo. Người không phải là một nhà tuyên truyền, một người quảng cáo, khi
cần thiết có thể tìm mọi cách và áp lực người ta hoán cải. Phần tôi, cách tôi
sử dụng để trình bày đức tin như thế nào?
"Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở
lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều".
Có những từ mà Gioan không những gặp đi
lặp lại.
Không phải ông nghèo ngữ vựng, nhưng
ông chú ý sử dụng vậy. Nhờ cách lặp đi lặp lại như thế, ông có thể diễn tả bước
tiến của "người môn đệ": "kiếm tìm"(1,38), "đến
xem" (1, 39 và 46), "quan sát" (l,39 và 41), "gặp
thầy" (1,41 và 45), "bước theo" (l,37.38.40.43) "ở
lại" (l,38.39).
Gioan Thánh sử là một trong hai người
đã bước theo Đức Giêsu. Kỷ niệm của ông rất chính xác, như kỷ niệm lần đầu gặp
gở của hai người yêu nhau. Ong ghi lại cả giờ giấc sự kiện đó đã diễn ra vào
lúc "bốn giờ chiều', (thời đó người ta gọi đó là giờ thứ mười). Hôm đó, họ
đã trao đổi với nhau những gì? Hẳn là hai ông đã kể lại đời sống, những khát
vọng, những mong ước, thái độ "tìm kiếm" của họ. Còn Đức Giêsu, có
thể Người đã nói cho họ biết về những dự tính, những ước muốn riêng của Người.
"Ông Anrê, anh ông Simon Phêrô, là
một trong hai người đã nghe ông Gioan nói và đi theo Đức Giêsu. Trước hết, ông
gặp em mình là ông Simon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia, nghĩa là
Đấng Kitô".
Một nét đặc thù đáng ghi nhận, đó là
lời mời gọi của Thiên Chúa, hay "ơn gọi", thực tế được truyền đến tai
con người, nhờ các mối tương quan nhân loại. Để nghe được lời mời gọi của Thiên
Chúa, cũng cần phải chăm chú tới tiếng gọi của con người. Đó là những trường hợp
của Gioan Tẩy Giả, trước hết ông gọi Anrê và Gioan. Rồi đến lướt Anrê và Gioan
lại kêu gọi Simon. Sau này, Philipphê cũng sẽ mời gọi Nathanaen như thế.
Tôi có nuôi tư tưởng khi có dịp sẽ
hướng dẫn một người nào đó tới gặp gỡ Đức Giêsu không? Khám phá ra Đức Giêsu rồi,
tôi có lo truyền đạt cho kẻ khác hay chỉ biết giữ riêng cho mình?
"Ông dẫn em mình đến gặp gỡ Đức
Giêsu, Đức Giêsu nhìn ông Si-mon và nói: "Anh là Simon, con ông Gioan. Anh
sẽ được gọi là Kêpha", "tức là Phêrô".
Trở nên môn đệ, nghĩa là "thay
đổi" đời sống... đó là bước vào một, cuộc phiêu lưu mới, trở nên một
"con người mới". Đó là ý nghĩa việc đổi tên cho Simon. Đối với các
môn đệ đầu tiên, mỗi khi hồi tưởng lại, các ông đều cảm thấy việc thay đổi đời
sống của mình thật là phi thường.
Đó là khởi đầu cho một định hướng hoàn
toàn khác lạ trong đời sống của các ông. Trong não trạng của người Sêmít, việc
đổi tên cũng có nghĩa là, Thiên Chúa hoàn toàn ảnh hưởng trên Simon Phêrô.
Những con người đó đã "tìm kiếm" Đức Giêsu, đúng vậy? nhưng chính Đức
Giêsu cũng kiếm tìm họ... Chinh Người khởi xướng trước nhờ "ân sủng"
kỳ diệu của Người. Ơn gọi: vừa là tiếng kêu gọi của con người... vừa là lời mời
gọi của Thiên Chúa.
23. Các môn đệ đầu tiên – Lm. FX. Vũ
Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Trong Tin Mừng Gioan, bài tường thuât
ơn gọi các môn đệ được ghép vào bên trong cái mà người ta gọi là "Tuần lễ
khai mạc sứ vụ của Đức Giêsu".
- hai ngày đầu: Gioan Tẩy Giả làm chứng
(phủ định - khẳng định);
- ngày thứ ba ("hôm sau",
1,35): lần này Gioan Tẩy Giả giới thiệu Đức Giêsu cho hai môn đệ: "Đây là
Chiên Thiên Chúa" (cc. 35-36);
- đoạn văn của chúng ta (1,35-42) nằm ở
vị trí này;
- ngày thứ tư ("hôm sau",
1,43): Đức Giêsu gọi Philípphê và Natanaen;
- "ngày thứ ba" (2,1): Đức
Giêsu "bày tỏ vinh quang" (2,11) tạiCana miền Galilê.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Hai môn đệ đầu tiên (1,35-39);
2) Anrê (1,40-42a);
3) Simôn (1,42b).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Ông Gioan đang đứng... (35): Có một
nhóm môn đệ thường xuyên ở quanh Vị Tẩy Giả (x. Mc 2,18t và //; Mt 11,2; 14,12;
Lc 11,1; Ga 3,25). Bản văn xác định tiếp rằng một trong hai môn đệ là Anrê, em
của Simôn (41); còn người thứ hai thì vô danh.
Tìm cách dung hòa bài tường thuật của
TM IV với bài của các TMNL nói về ơn gọi của các môn đệ (x. Mc 1,16-20) là
chuyện vô ích. Chỉ có một điểm gặp nhau: hai anh em Simôn và Anrê ở trong số
những người được gọi đầu tiên. Còn các khác biệt quá lớn:
+ Theo Mc 1,29: Simôn ở Caphácnaum;
theo Ga 1,44: hai anh em gốc Bétxaiđa.
+ TM IV không nói gì tới các con ông
Dêbêđê, trong khi theo Mc 1,18-20, họ là cặp môn đệ thứ hai; Mc lại không hề
nói đến Philípphê và Natanaen.
+ Bối cảnh cũng khác nhau: theo TM IV,
các môn đệ đầu tiên thuộc nhóm của Vị Tẩy Giả, đã được ông hướng dẫn tới với
Đức Giêsu; theo Mc, Đức Giêsu chỉ kêu gọi các môn đệ sau khi Vị Tẩy Giả bị bắt,
và kêu gọi tại bờ hồ Ghennêsarét, chứ không tại bờ sông Giođan, lúc đó họ đang
làm nghề chài lưới.
+ Ý hướng tổng quát khác nhau: Theo Mc,
đây là một biến cố bất ngờ lôi kéo người ta ra khỏi cuộc sống hằng ngày để thi
hành sứ mạng tông đồ. Dường như bản văn Ga còn ghi giữ lại kỷ niệm lịch sử, đó
là các môn đệ đầu tiên của Đức Giêsu, và có thể chính tác giả, đã có lúc thuộc
về nhóm Gioan Tẩy Giả.
- thấy Đức Giêsu đi ngang qua (36): Hôm
sau ngày làm chứng (cc. 29-34), trong khi Vị Tẩy Giả còn đứng đó, Đức Giêsu đã
bắt đầu tiến đi: thái độ của Gioan tượng trưng rằng sự nghiệp của ông đã đến
lúc chấm dứt; thái độ của Đức Giêsu đánh dấu khởi đầu cuộc đời của Người là một
cuộc tiến bước thiêng liêng, sẽ đưa Người về với Chúa Cha (x. Ga14,28). Còn
Gioan thì tức khắc nói với hai người trong nhóm môn đệ đã đến để tìm ơn cứu độ
nơi ông, rằng: "Đây là Chiên Thiên Chúa".
- Các anh tìm gì thế? (38):
"Tìm" (zeteô: 34 lần trong TM IV) có nghĩa là "tìm cách có lại
những đồ vật đã bị mất hoặc để lạc". Trong tiếng Hy Lạp LXX, đây là từ ngữ
chuyên môn để nói về việc đi tìm Thiên Chúa, đặc biệt tìm sự Khôn Ngoan của
Thiên Chúa (x. Hn 1,1-2a; 8,2.18 ...). Trong tiếng Híp-ri, "tìm" là
darash; darash ha Torah, "tìm Torah", có nghĩa là giải thích Kinh
Thánh.
- Thưa Rabbi, Thầy ở đâu? Trên môi họ,
câu hỏi chỉ nhắm nơi Đức Giêsu đang sống, để họ đến gặp, nhưng tác giả là người
đã quen sử dụng các từ ngữ theo hai ý, có lẽ cũng hiểu câu hỏi theo một nghĩa
sâu hơn: "Thầy ở đâu về phương diện thiêng liêng?". Đối với ông, các
môn đệ đã mặc nhiên thưa với Đức Giêsu lời thỉnh cầu của Philípphê và của bất
cứ người nào: "Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha (nơi Chúa Cha, Thầy đang
cư ngụ), như thế là chúng con mãn nguyện" (14,8).
- Đến mà xem (39): Dịch sát là
"Hãy đến và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe. Mệnh lệnh cách
erchesthe có thể hiểu theo nghĩa điều kiện là "nếu như, với điều
kiện". Còn opsesthe là thì tương lai của động từ horaô, có thể hiểu như
một lời hứa của Đức Giêsu: TM IV có bốn động từ để diễn tả cái nhìn, từ cái
nhìn thể lý nhất đến cái nhìn chiêm ngưỡng sâu sắc nhất, đó là: blepein,
theasthai, theôrein, horan [idein]. Động từ sau cùng thuộc về lãnh vực đức tin.
Trong Ga 1,39, Đức Giêsu mời các ông di chuyển về phía Người và có cái nhìn đức
tin.
Câu trả lời của Đức Giêsu ở đây cũng có
một mức sâu hơn: việc khám phá ra nơi ở trần thế của Người tượng trưng và chuẩn
bị cho việc khám phá ra nơi ở thiêng liêng của Người. Bước đi theo Người theo
cách thể lý, các môn đệ thấy nơi trú ngụ của Người; hơn nữa, đã bước đi theo
Người cách thiêng liêng bằng lòng tin, họ cũng bắt đầu thấy được nơi ở thiêng
liêng của Người, tức Chúa Cha: "Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha"
(14,9).
- Họ ở lại với Người (39): Đây là chặng
đầu của một cuộc chung sống đưa tới sự hiệp thông sâu xa nhất (x. 15,4). Trọn
buổi chiều, kể từ 4g, họ xem và ở lại với Đức Giêsu, về thiêng liêng cũng như
về thể lý. Buổi chiều hoặc đêm đáng ghi nhớ ấy mở đầu cho đời sống đức tin tròn
đầy, đã đưa Anrê và người môn đệ vô danh kia vào trong mầu nhiệm của đời sống
Đức Kitô và làm cho họ rất phấn khởi: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia",
Anrê reo lên như thế khi gặp Simôn. Một niềm vui thiêng liêng bùng ra: đây là
niềm vui được ban cho những tâm hồn khám phá ra viên ngọc quí và kho tàng trên
trời (x. Mt 13,44).
- Khoảng giờ thứ mười (39): tức khoảng
4g chiều. TM IV quen ghi chú về thời gian chính xác (x. 4,52; 18,28; 19,14;
20,19), nhưng hẳn là có một ý hướng biểu tượng. Trong một số bản văn của Cựu
Ước hoặc của Do Thái giáo đương thời, số 10 là con số hoàn hảo; vậy "giờ
thứ 10" hẳn là giờ hoàn tất và đánh dấu khởi đầu công trình của Đức Giêsu.
Quả thế, ở 11,9, ngày là một hình ảnh được dùng để gọi thời gian Đức Giêsu hoạt
động ở trần gian (x. thêm 9,4-5; 12,35). "Mười" là một con số hoàn hảo
đối với các triết gia phái Pythagore và triết gia Philô khiến Bultmann gợi ý
rằng đây là giờ của sự hoàn tất. Cũng có những tác giả cho rằng ngay hôm sau,
bắt đầu vào lúc mặt trời lặn, là một ngày sa-bát; do đó hai môn đệ đã phải ở
lại với Đức Giêsu để tránh di chuyển vào ngày ấy.
- Trước hết (prôton) (41): Cuộc trò
chuyện đã kéo dài trong đêm. Do đó, chúng ta hiểu là sáng hôm sau, Anrê trước
hết vội vã đi tìm anh trước khi làm bất cứ việc gì.
- Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia (41):
Dịch sát là "Chúng tôi đã tìm thấy/tìm ra Đấng Mêsia" Heuriskein, tìm
thấy, được dùng thường xuyên trong phân đoạn này và phân đoạn sau. Anrê
"tìm thấy/ra" Simôn, báo rằng họ đã "tìm thấy/ra" Đấng
Mêsia. Sau được Đức Giêsu "tìm thấy/ra", Philípphê "tìm thấy/ra"
Natanaen và bảo rằng đã "tìm thấy/ra" Đấng Mêsia.
- Anh sẽ được gọi là Kêpha, tức là
Phêrô (42): Kêphas là từ A-ram kêpha được hy-hóa, có nghĩa là "tảng
đá". Cũng như từ rabbi (c.38) và Mêsia (c.41), kêpha là từ A-ram (Chúng ta
lưu ý là có ba từ A-ram trong cùng một đoạn văn). Hẳn là tác giả suy tư trong
ngôn ngữ này, hay ít ra ông cũng rất quen thuộc các thuật ngữ A-ram. Bản RSV
dịch thành một câu hỏi: "So you are Simon the son of John? Vây anh là
Simôn con ông Gioan à?". Người ta đặt tên cho những người hoặc những vật
thuộc quyền kiểm soát của mình (x. St 2,20; Đn 1,7); người cha đặt tên cho con
cái (Mt 1,25; Lc 1,63).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Hai môn đệ đầu tiên (35-39)
Truyện hai môn đệ này chắc chắn có dấu
vết những hoài niệm về một vài môn đệ. Nhưng dưới ngòi bút của tác giả, truyện
mang tính điển hình để chia sẻ với độc giả cái nhìn về đời môn đệ. Các biến cố
xảy ra rất nhanh, trong cái khung giả tạo bảy ngày: các môn đệ đầu tiên đến gặp
Đức Giêsu, rồi Đức Giêsu gọi Phêrô, Philípphê, Nathanaen. Cuối cùng toàn chương
kết thúc với lời Đức Giêsu long trọng mạc khải về chính mình: "Thật, tôi
bảo thật các anh, các anh sẽ thấy trời rộng mở, và các thiên sứ của Thiên Chúa
lên lên xuống xuống trên Con Người" (Ga 1,51).
Trước khi truyện đạt tới đỉnh cao này,
tác giả ghi lại lời chứng của Gioan. "Thấy Đức Giêsu đi ngang qua, ông lên
tiếng nói: «Đây là Chiên Thiên Chúa»" (Ga 1,36). Lời này nhắc lại lời nói
trong hoạt cảnh ở c. 29, chỉ khác là thuộc về ngày hôm sau. Đây là "cấu
trúc trôn ốc" quen thuộc của tác giả. Ngài thường xuyên trở lại với những
đề tài cũ, cứu xét chúng từ những viễn tượng khác, thăm dò, và chia sẻ với các
độc giả sự phong phú đặc biệt của những thực tại ngài đề cập đến (x. Ga
20,19-23).
Lúc đó Gioan [và hai môn đệ] được mô tả
là "đang đứng" (heistêkei). Có vẻ như thể ông đang chờ chuyện gì đó
xảy ra. Trong TM IV, hành động duy nhất có ý nghĩa mà Gioan làm, đó là làm
chứng. Vì lúc này Đức Giêsu chưa xuất hiện, hành động đó chưa xảy ra được. Như
ngày hôm trước, Gioan thấy Đức Giêsu bước đi và đã giới thiệu Người (Ga 1,29),
sang ngày hôm sau, một lần nữa, Gioan lại công bố Đức Giêsu là Chiên Thiên
Chúa. Hoạt cảnh của ngày hôm qua cho biết ý nghĩa của tên gọi bí ẩn này; hoạt
cảnh hôm nay cho thấy hậu quả của lời loan báo ấy. Ông mời họ rời ông để gắn bó
với Đấng Cứu thế duy nhất chân thật.
Do được thầy giới thiệu, hai môn đệ đã
quyết định đi theo Đức Giêsu. Ơn gọi của họ, cũng như của Samuen, được đánh
thức bởi một người khác, không phải bởi "ánh sáng" nhưng bởi
"chứng nhân của ánh sáng" (1,8; 3,3). Tác giả không nói gì đến hoàn
cảnh thời gian, không gian, tâm lý của các nhân vật: đây cũng là một lược đồ. Ý
thức về sự khác biệt giữa tiếng nói và Đấng được tiếng nói làm chứng cho, hai
môn đệ bước theo Đức Giêsu.
Hẳn là vì nghe tiếng bước chân, Đức
Giêsu quay lại, và thấy các ông đi theo mình. Người hỏi thẳng: "Các anh
tìm gì thế?" (Ga 1,38). Những người đi theo thưa với Người là
"Rabbi", không trả lời câu hỏi của Người, mà lại hỏi Người ở đâu.
Thay vì cung cấp một câu trả lời trực tiếp, Đức Giêsu mời hai người đến và xem
nơi Người ở. Hai ông đã nhận lời mời và đi với Người đến nơi Người ở, nơi này
là nơi nào chúng ta không biết. Lúc đó vào khoảng giờ thứ 10 (= 4g chiều, hay
là 5/6 ngày đã trôi qua), tức đã muộn. Có lẽ họ đã qua đêm với Người. Chi tiết
về thời gian này có ý nghĩa gì với tác giả không? Điều đánh động trong mẩu đối
thoại giữa Đức Giêsu và các môn đệ đầu tiên của Gioan, đó là họ xưng hô với Đức
Giêsu là Rabbi. "Thưa Ngài" (Kyrie) là từ ngữ thường được dùng để bày
tỏ lòng tôn kính; TM IV thường dùng từ ngữ này vào những dịp tường thuật các
cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người khác. Những người được hưởng nhờ quyền lực
siêu phàm của Đức Giêsu cũng gọi Người là "Kyrie". Rabbi có nghĩa chữ
là "thầy tôi" (didaskalos), thường được các môn sinh dùng để gọi vị
thầy họ trân trọng, nhưng sau này chỉ còn nghĩa là "thầy".
Trong TM IV từ đầu cho đến đây, không
chi tiết nào cho thấy Đức Giêsu là một thầy giáo. Không một điều gì gợi ý là
dân chúng mong ước Đấng đang đến là một thầy dạy. Trong TM này, từ ngữ Rabbi
cũng không được sử dụng nhiều: 7 trên 8 lần được các môn đệ Đức Giêsu sử dụng
(1,38.49; 3,2; 4,31; 6,25; 9,2; 11,8); lần còn lại được đặt trên môi của các
môn đệ nhìn nhận Gioan là thầy họ (3,26).
Hai môn đệ vô danh "bước
theo" Đức Giêsu. Trong ngôn ngữ Hy Lạp, "bước theo" (akoloutheô)
có nghĩa là "đi đàng sau một người"; "trở thành môn đệ"
(nghĩa ẩn dụ). Thay vì theo Gioan, bây giờ họ bước theo Đức Giêsu. Họ đã học
với Gioan; nay họ phải học với Đức Giêsu. Chính vì thế, họ gọi Người là
"Rabbi". Đây là cách tác giả diễn tả đòi hỏi từ bỏ tận căn được nói
đến trong các TMNL (x. Mt 19,21; Mc 10,21; Lc 18,22): hoặc họ là môn đệ của Đức
Giêsu hoặc họ là môn đệ của Gioan. Không thể có thỏa hiệp. Đây không còn phải
là quyết định triệt để trở thành môn đệ bằng cách từ bỏ những của cải vật chất
nữa để đi theo một vị thầy du thuyết; đúng hơn, đây là từ bỏ một dấn thân đầu
tiên trong đức tin của mình.
Nhưng ở đây không chỉ có vấn đề một dấn
thân tận căn. Tác giả diễn tả xác tín của mình là những ai đã thật sự học nơi
Gioan, những ai đã thật sự hiểu ý nghĩa của lời chứng của Gioan, thì trở thành
môn đệ của Đức Giêsu. Các môn đệ của Gioan tìm được vị trí đúng đắn của họ
trong cuộc đời khi họ trở thành môn đệ của Đức Giêsu. Những ai đã chú ý thật sự
đến lời chứng của Gioan thì phải đi vào nhóm môn đệ của Đức Giêsu. Đây là ý
nghĩa biểu tượng và cũng là ý nghĩa đích thật của bài tường thuật.
Câu hỏi mở đầu của Đức Giêsu cũng lạ:
"Các anh tìm gì thế?", một câu hỏi trên bình diện tường thuật thuần
túy chỉ có nghĩa là "Các anh muốn gì?". Họ không đáp lại bằng một câu
trả lời, nhưng bằng một câu hỏi: "Thầy ở đâu?". Nếu so sánh với ba
TMNL, ta thấy những lời đầu tiên Đức Giêsu nói công khai được các TM ấy ghi lại
đều có chất chứa một chương trình cho toàn thể Tin Mừng (Mt 3,15; Mc 1,15; Lc
4,21), còn TM IV thì thế nào?
Có thể cho rằng tác giả trình bày các
môn đệ đầu tiên của Gioan như là những cá nhân đang theo đuổi sự Khôn Ngoan
thần linh. Tuy nhiên, Đức Giêsu chính là hiện thân của sự Khôn Ngoan thần linh.
Thật khôi hài, những người đi tìm sự Khôn Ngoan thần linh lại tìm thấy sự Khôn
Ngoan hiện thân khi họ bước theo Đức Giêsu. Rồi tác giả cũng cho thấy Đức Giêsu
giải thích Kinh Thánh, và thường quy chiếu về bản thân Người. Chẳng hạn, Người
thực hiện một midrash[1] về Tv 78,24 trong Diễn từ về bánh ban sự sống (Ga 6,26-51).
Từ cách hiểu tổng quát về Đức Giêsu như thế, rất có thể tác giả mô tả hai môn
đệ đi đến với Đức Giêsu như đến với người có thể giải thích Kinh Thánh. Nếu
vậy, hẳn là họ đã có lý khi thưa "Rabbi" (Ga 1,38), nhưng danh hiêu
này cũng phản ánh cách các thành viên của cộng đoàn tác giả hiểu về Đức Giêsu.
Do đó, câu hỏi của hai ông "Thầy ở đâu?" đã được Đức Giêsu nâng lên
một bình diện ý nghĩa khác (x. phản ứng của Đức Giêsu đối với câu nói của Đức
Maria tại tiệc cưới Cana: Ga 2,3-4), khi Người bảo các ông bằng một câu nặng
chất đức tin: "Hãy đến và các anh sẽ xem thấy".
Hai môn đệ hỏi: "Thầy ở
đâu?". Câu hỏi này không đơn giản như thoạt nhìn. "Ở/ở lại",
menô, là một động từ tác giả rất ưa chuộng (67 lần trong truyền thống Gioan; 40
lần trong TM IV; 51 lần trong phần còn lại của Tân Ước).
Mặc dù thỉnh thoảng tác giả sử dụng
động từ này theo nghĩa thông thường là "ở lại, stay" hoặc "sống,
live", ngài rất thường dùng từ này theo một nghĩa thần học sâu sắc.
"Ở [lại]" thường gợi lên một khoảnh khắc đặc biệt quan trọng trong
lịch sử cứu độ (Để diễn tả ý nghĩa này, có những tác giả dịch là
"abide"). Đức Giêsu "ở lại" với các môn đệ đang tin vào
Người (Ga 2,12; 4,40; 7,9; 10,40; 11,6.54; 14,25). Đám đông nói rằng Đấng Kitô
"ở lại" (tồn tại) mãi mãi (Ga 12,34), nhưng tác giả gợi ý rằng Đức
Giêsu ở lại Nhà của Cha Ngài (Ga 8,35). Trong các bài diễn từ cáo biệt (Ga ch.
13–17), tác giả trình bày rộng rãi ý nghĩa đích thực của "ở lại". Đức
Giêsu trở về với Chúa Cha để chuẩn bị một chỗ cho các môn đệ để họ được ở với
Người (Ga 14,2-3).
Chúa Cha ở lại trong Đức Giêsu (Ga
14,10) và Thánh Thần ở lại trong các môn đệ của Đức Giêsu (Ga 14,17). "Ở
lại" không chỉ là "ở với", mà còn có nghĩa là "ở
trong". Trong thực tế, có một sự "ở lại trong nhau" giữa Đức
Giêsu và các môn đệ. Họ ở lại trong Người và Người ở lại trong họ (Ga
15,4.5.7). Các môn đệ ở lại trong tình thương của Đức Giêsu (Ga 15,9.10), và
các lời Người ở lại trong họ (Ga 15,7). Ý nghĩa tối hậu của Bí Tích Thánh Thể
là: đây là một phương tiện để ở trong nhau và hiến mạng sống cho nhau (Ga
6,56).
Tất cả những điều này đã được tiên báo
khi Đức Giêsu mời hai môn đệ vô danh đến và xem Người ở đâu. Không phải là
Người muốn họ đến mà thăm cái lều người Ả-rập du cư (bedouin) hoặc một nhà trọ
nào bên đường. Người mời họ đến mà nhận thấy rằng Người đang ở với Chúa Cha và
Chúa Cha đang ở với Người. Họ đến mà trải nghiệm rằng sống chung với Người
chính là điều duy nhất quan trọng của đời sống Kitô hữu.
Cũng như Gioan đã thấy (horaô) Thần Khí
ở lại (menô) trên Đức Giêsu, các môn đệ được mời xem/thấy (horaô) nơi Đức Giêsu
ở (menô). Đây không phải là một vấn đề nhìn xem bằng cặp mắt thể lý, mà là một
nhận thức nhờ đức tin. Như ông Gioan đã trải nghiệm cái nhìn mà Thiên Chúa đã
hứa (cc. 32.34), các môn đệ cũng chấp nhận lời mời của Đức Giêsu: "Hãy đến
và các anh sẽ xem thấy, erchesthe kai opsesthe" (1,39). Một lời mời gọi
(các anh hãy đến) và một lời hứa (các anh sẽ thấy). Họ đã đến, tức là rời bỏ vị
trí, quan điểm, lập trường của họ, để đi vào vị trí, quan điểm, lập trường của
Đức Giêsu, và họ đã "xem thấy". Họ đã nhận ra nơi Đức Giêsu đang ở
thật sự.
* Anrê (40-42a)
Đến đây, tác giả cho biết một trong hai
môn đệ ấy là Anrê, em của Simôn Phêrô. Truyền thống và nhiều nhà chú giải hiện
đại nghĩ rằng người môn đệ vô danh kia chính là người môn đệ Chúa thương mến.
Truyền thống cũng đã đồng hóa tác giả TM IV với người môn đệ Chúa thương mến và
đồng hóa người môn đệ Chúa thương mến với Gioan, con ông Dêbêđê. Các học giả
Kinh Thánh hiện đại khá dè dặt đối với các kiểu đồng hóa này. Dù sao, không có gì
chắc chắn để chúng ta có thể đồng hóa người môn đệ vô danh trong Ga 1,35-39 với
con ông Dêbêđê (Giáo sư Boismard nghĩ là Philípphê). Quả thế, nếu con ông
Dêbêđê là bạn của Anrê vào dịp họ được gọi làm môn đệ, thì đây hẳn là lần duy
nhất trong toàn bộ Tân Ước, Gioan con ông Dêbêđê đi đôi với Anrê. Thông thường
Gioan đi đôi với anh là Giacôbê (x. chẳng hạn Mt 4,21; Mc 3,17; Lc 5,10...),
còn Anrê thì đi đôi với anh là Phêrô (x. Ga 1,40-42). Simôn Phêrô chưa xuất
hiện, nhưng vì ông được biết nhiều, nên chỉ cần nêu tên ông ra là có thể xác
định được Anrê. Trong truyền thống của Họi Thánh sơ khai, Anrê chỉ là em của
Phêrô thôi (Mt 4,18; 10,2; Mc 1,16 (29); Lc 6,14). Tuy nhiên tác giả TM IV có
cách phác họa riêng Anrê.
Trong các TMNL, tên Anrê luôn xuất hiện
trong một danh sách. Danh sách này có khi chỉ có hai tên (Mt 4,18; Mc 1,16.29),
có khi bốn tên (Mc 3,18; Cv 1,13), có khi mười hai tên (Mt 10,2; Mc 3,13; Lc
6,14), nhưng không cho thấy Anrê có phận vụ gì cả. Anrê chỉ là em và bạn đồng
hành của Phêrô hoặc là một trong Nhóm Mười Hai. Nhưng với TM IV, Anrê được phác
họa ra như một người môn đệ đích thực của Đức Giêsu. Thậm chí ông còn là một
môn đệ có điều gì đó mà nói ra. Ông nói với anh mình (Ga 1,41), và ông nói với
Đức Giêsu (Ga 6,9; x. 12,22). Rõ ràng là tác giả có một "luận đề về đời
môn đệ" (Ga 1,35-39) và ngài tìm cách minh họa luận đề này bằng "ví
dụ Anrê".
Đối với ngài, Anrê là một con người
bằng xương bằng thịt, xuất thân từ một thành phố có thật: Bétxaiđa (Ga 1,44),
một thành của miền Galilê (Ga 12,21). Anrê là một môn đệ đã đi theo trọn chương
trình về đời môn đệ. Ông đã nghe lời chứng về Đức Giêsu. Ông đã bước theo Đức
Giêsu. Ông đã nêu chứng từ về Đức Giêsu cho những người khác. Nhận lời chứng về
Đức Giêsu, trở thành một môn đệ, và cống hiến chứng từ về Đức Giêsu cho những
người khác như một cách diễn tả đời môn đệ của mình, đây là cái pattern (mô
hình đơn giản) thông thường về đời môn đệ theo cái nhìn của TM IV. Cũng như
Anrê có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho anh mình (Ga 1,41), Philípphê cũng có
điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho Nathanaen (Ga 1,45), và người phụ nữ Samari
cũng có điều gì đó mà nói về Đức Giêsu cho các dân trong thành của bà (Ga
4,29.39). Trong cái chuỗi phản ứng từ chứng từ đến chứng từ này, Tin Mừng tiếp
tục được loan báo và người ta có thể tin.
Tác giả ghi nhận là "trước hết
(prôton), ông đi tìm gặp (heuriskei) anh mình" (Ga 1,41). Điều đầu tiên mà
người môn đệ mới này đã làm là đi tìm anh mình và nói về Đức Giêsu cho ông. Đã
được đưa vào trong "phong trào" của các môn đệ Đức Giêsu, Anrê phải
kể cho ai đó về Đức Giêsu, và anh ông là Simôn là người may mắn hưởng nhờ chứng
từ của ông đầu tiên. "Chúng tôi đã tìm thấy Đấng Mêsia". Một lần nữa,
tác giả dịch một công thức Híp-ri ra tiếng Hy Lạp: "nghĩa là Đấng Kitô".
Vì tác giả cho thấy Anrê làm chứng cho Đức Giêsu là Đấng Mêsia (Kitô), ta có
một sự xác nhận là lời chứng của ông Gioan nói rằng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa
(Ga 1,34) là chứng từ về tư cách Mêsia của Người. Qua cuộc gặp gỡ với Đức
Giêsu, Anrê đã nhận ra sự thật của lời chứng của ông Gioan. Trước đây, Anrê đã
được mô tả như là một người đang đi tìm (Ga 1,38); bây giờ ông được giới thiệu
như là người đã tìm thấy. Kẻ đi tìm đã tìm thấy nơi Đức Giêsu điều ông vẫn đang
đi tìm lâu nay.
Lúc đầu Anrê đã gọi Đức Giêsu là Rabbi,
"thầy của con", bây giờ ông gọi Người là Mêsia, "Đấng được xức
dầu". Khi tác giả phác họa các môn đệ thưa với Đức Giêsu như một rabbi,
thường ngài mô tả cho thấy các môn đệ này đến với Đức Giêsu và đặt một câu hỏi
(Ga 1,38; 6,25; 9,2;11,8) để được chỉ giáo thêm. Đấy là thói quen của các học
trò Do Thái. Các môn đệ ra khỏi cuộc gặp gỡ, đã học thêm được điều gì từ nơi
thầy. Đây là trường hợp của Anrê, cũng như sau này là trong của Nathanaen (Ga
1,49) và Maria Mácđala (20,16.18).
Nói rằng tác giả coi Anrê là một môn đệ
đích thực của Đức Giêsu, điều này được nêu rõ qua lời tuyên xưng đức tin của
ông vào Đức Giêsu. Ông công bố: "Chúng tôi đã đã tìm thấy (heurêkamen)
Đấng Mêsia" (Ga 1,41). Ở bình diện tường thuật, "chúng tôi" đây
là Anrê và người môn đệ vô danh. Ở một bình diện sâu hơn, "chúng tôi"
đây, theo truyền thống Gioan, là toàn thể nhóm của tác giả đang tuyên xưng niềm
tin vào Đức Giêsu Mêsia qua môi miệng Anrê.
Như thế, trong bài tường thuật rất ngắn
về vai trò của Anrê (Ga 1,[35-39].40-41), tác giả phác họa Anrê như là người
môn đệ đích thật. Điều đáng lưu ý, đó là Anrê được thúc đẩy mạnh mẽ bởi lý
tưởng dấn thân làm môn đệ đến nỗi ông đi tìm anh để kể về Đức Giêsu và đưa anh
tới với Đức Giêsu. Nếu có một nét căn bản, không thay đổi, mà TM IV rút ra được
từ dung mạo Anrê, đó là Anrê đưa người ta đến với Đức Giêsu.
* Simôn (42b)
Simôn Phêrô là một dung mạo quen thuộc
với độc giả, vì ông được nêu tên như thế (Ga 1,40), dù sau đó hai câu, tác giả
xác định là tên thật của ông là Simôn (Ga 1,42), còn Phêrô là biệt danh Đức
Giêsu ban cho ông.
Simôn được em là Anrê giới thiệu về Đức
Giêsu là Đấng Mêsia rồi cũng được em giới thiệu với Đức Giêsu. Như thế, con
đường Simôn Phêrô theo để đến với Đức Giêsu là con đường thông thường: ông được
một người đã tin làm chứng và đưa đến với Đức Giêsu; ông chấp nhận chứng từ đó
và đích thân đến gặp Đức Giêsu và khám phá ra quan hệ duy nhất giữa ông với
Ngài.
Vậy Simôn Phêrô là một môn đệ khác của
Đức Giêsu. Nhưng có điều gì đó chỉ có nơi người môn đệ này. Được đưa đến với
Đức Giêsu nhờ lời tuyên xưng của em vào Đấng Mêsia, Phêrô được Đức Giêsu ngỏ
lời với theo cách huyền bí: "Anh là Simôn, con ông Gioan, anh sẽ được gọi
là Kêpha" (Ga 1,42). Công thức này, được Đức Giêsu nói ra trong khi Ngài
nhìn ông, tương tự công thức mạc khải có ở Ga 1,29.36.47; 19,26-27.
Đức Giêsu đặt cho Simôn một tên mới,
tác giả ghi nhận điểm này để nêu bật quan hệ có một không hai giữa Simôn Phêrô
và Đức Giêsu, nhưng cũng để cho thấy Đức Giêsu có một uy quyền. Khi đặt tên cho
Phêrô, Đức Giêsu cũng còn muốn xác định cho ông một căn tính mới, một vai trò
mới trong cuộc sống, thậm chí một định mệnh mới (x. Abram và Giacóp: St 32,38;
35,10). Nói đến tầm quan trọng của tên mới của Simôn, chúng ta đều nhớ đến đoạn
văn Mt 16,15-19. So với hoạt cảnh tương đối dài đó được Mt mô tả, bản văn của
TM IV thật quá ngắn; nó chỉ tương tự với những câu ngắn nói về việc đổi tên ở
Mt 10,2; Mc 3,16 và Lc 6,14, chứ không sánh được với bản văn Mt 16. Có thể nói
kịch bản này là do tác giả TM IV sáng tác ra cho phù hợp với phần tường thuật
của ch. 1 của TM. Tuy nhiên, tác giả không suy diễn gì về việc đổi tên hay về ý
nghĩa của tên mới cả. Ngài chỉ dịch tên A-ram mới "Kêpha" thành một
tên Hy Lạp mới tương đương là "Phêrô" (Petros) thôi. Ngài cũng chẳng
nói gì đến tảng đá, và càng không nói đến Họi Thánh xây trên một tảng đá. Ngài
cũng không có một suy tư gì về vai trò của Phêrô như người giữ cửa với quyền
chìa khóa. Dù sao, đối với tác giả, tên mới này quan trọng, bởi vì ngài thường
xuyên gắn nó vào tên Simôn (trừ hai lần chỉ có tên Simôn, tất nhiên: Ga
1,41.42, và vài lần chỉ có tên Phêrô: 1,44; 13,37; 18,11.16.17.18.26.27;
20,3.4; 21,7.17.20.21). Chúng ta sẽ có một dung mạo Simôn rõ ràng hơn khi đọc
trọn TM IV.
+ Kết luận
Trong bài tường thuật này, có những yếu
tố chính của một ơn gọi làm môn đệ: 1) gặp gỡ đích thân Đức Giêsu; 2) khám phá
ra Đức Giêsu là một con người siêu phàm; 3) cuối cùng, thay đổi định mệnh. Cuộc
đời mỗi người là một chuyến "đi tìm" Đức Giêsu, được Người dẫn dắt,
rồi sau khi đã thực sự "tìm ra, tìm thấy" Người, thì đi giới thiệu
cho người khác. Đấy là một chu kỳ giúp mọi người tin Đức Giêsu và được cứu độ.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Chúng ta nghĩ đến sự thẳng thắn và
cương trực của Gioan Tẩy Giả. Ông đã làm chứng về Đức Giêsu, đã giới thiệu
Người là Đấng Mêsia. Sau đó, ông đã chứng kiến các môn đệ rời bỏ ông mà đi theo
Đức Giêsu: điều ông nói đang được thể hiện, "Người phải nổi bật lên, còn
thầy phải lu mờ đi" (3,30). Báo trước những thất thế của mình đã là khó,
nhưng vẫn còn dễ hơn là bình thản sống những thất thế đó khi chúng xảy đến.
Gioan biết mình là ai và đã can đảm sống sứ mạng cho đến cùng.
2. Lời mời gọi và lời hứa của Đức Giêsu
hết sức quan trọng: "Hãy đến và các anh sẽ thấy!". Tất cả mọi chuyện
đều nhắm đến cuộc gặp gỡ sống động và riêng tư. Đức Giêsu không giao cho những
kẻ đi theo Người một quyển sách chứa đựng các giáo thuyết và điều luật phải học
và phải tuân giữ, nhưng Người kêu gọi họ đi vào một tương quan riêng tư với
Người, đi vào hiệp thông với Người. Phần họ, họ không được giữ một khoảng cách
an toàn với Người để mà chỉ việc quan sát, nhưng phải dấn thân vào, phải đi với
Người, phải đưa bước trên nẻo đường Người đi.
3. Có những thành kiến nào có thể ngăn
cản người ta nhận biết Đức Giêsu? Có điều gì đang ngăn cản tôi, về phương diện
trí thức hoặc tình cảm, khiến tôi không nhận ra Người là Con Thiên Chúa, ngang
bằng với Thiên Chúa? Lâu nay tôi tự hào là mình đi theo Đức Giêsu, mình là môn
đệ của Người, thật ra quan hệ của tôi với Người có thật sự sống động? Vì sao?
Dường như tôi chưa thật sự "đến" với Người, nên cũng chưa thật sự
"thấy" được điều Người muốn mạc khải cho?
4. Anrê không gặp Simôn Phêrô tình cờ,
nhưng đã chủ ý đi tìm ông này, để đưa ông tham dự vào kinh nghiệm mới mẻ và lạ
lùng của ông: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia". Anrê không chỉ giới hạn
vào việc làm chứng, ông còn dẫn Simôn đến gặp Đức Giêsu. Có vô số nẻo đường cụ
thể đưa người ta đến với Đức Giêsu: tôi nghĩ đến những nẻo đường đã đưa tôi đến
với Người. Trên các nẻo đường này, có lời chứng và gương sáng của những người
khác góp vào. Nhưng chắc chắn phần quan trọng vẫn là kinh nghiệm thiết thân tôi
có về Đức Giêsu. Hôm nay, phải chăng tôi là một Anrê đưa được người khác đến
với Đức Giêsu, không phải chỉ bằng lời nói suông, mà bằng chính kinh nghiệm
sống tôi đã và vẫn đang có?
--------------------------------
[1] Midrash: Một cách chú giải Kinh
Thánh theo kiểu các kinh sư. Thường các kinh sư lấy các câu văn Cựu Ước rồi
diễn dịch, và ghép vào bản dịch của mình những chi tiết mang tính huyền thoại
hoặc tưởng tượng, để giáo dục dân chúng.
·
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét