ĐIỂM THI MÔN TIẾNG ANH & TU
ĐỨC
LỚP ỨNG SINH KỲ I NĂM 2014
TIẾNG ANH TU ĐỨC
·
Đaminh Đặng Đình Bảo 6/10 6
·
Phaolô Hoàng Văn Chiến 5/10 6
·
Phêrô Nguyễn Viết Dũng 4/10 7
·
Phêrô Trịnh Xuân Điệp 4/10 6
·
Giuse Vũ Văn Điều 3/10 7
·
Đaminh Trần Thế Hùng 5/10 7
·
Giêrônimô Nguyễn Tiến Hưng 5/10 6
·
Phêrô Hà Van Linh 3/10 5
·
Antôn Hoàng Hải Nam 5/10 7
·
Giuse Phạm Ngọc Phú 5/10 6
·
Nguyễn Văn Quyền 6/10 6
·
Phêrô Nguyễn Thái Sơn 2/10 5
·
Vũ Văn Sỹ 4/10 5
·
Giuse Vũ Văn Thiện 7/10 7
·
Phaolô Võ Tấn
Hồng Thái 7/10 7
·
Bùi Huy Trường 2/10 5
·
Giuse Vũ Văn
Tuyên 6/10 8
·
Phêrô Khổng Văn
Tú 7/10 7
·
Gioan.B Hoàng Van Tuấn 8/10 7
CHÚA NHẬT 5
THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Is
58,7-10; 1Cr 2,1-5; Mt 5,13-16
MỤC LỤC
1. Muối
2. Muối và đèn sáng
3. Thắp sáng cuộc đời – R. Veritas
4. Sống có ích cho tha nhân – Lm. Jos
Tạ Duy Tuyền
5. Muối và ánh sáng
6. Vì đời và cho đời – Lm. Antôn Nguyễn
Văn Tiếng
7. Là muối, là ánh sáng
8. Muối cho đời – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
9. Có can đảm sống trung thực theo con
người mình
10. Chiếu ánh sáng của chúng ta khi cần
11. Ánh sáng và bóng tối
12. Ướp mặn đời và toả sáng trần gian
13. Muối
14. Ánh sáng
15. Nhiệm vụ của người môn đệ
16. Chú giải của Noel Quession
17. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà
Lạt
1. Muối
Ngày nay có những người thích sưu tầm.
Họ sưu tầm đủ mọi thứ lỉnh kỉnh: nào tem thư, nào nút áo, nào giấy kẹo, nào
sách hiếm, nào tiền cũ, nào xe hơi... Trong một cuộc triển lãm họ, người ta
trưng bày hàng trăm chiếc bình đựng muối. Một ông khách viếng thăm phòng triển
lãm, trên tay cầm một chiếc đùi gà quay, vừa đi vừa ăn. Tới phòng trưng bày
những chiếc bình đựng muối, ông bỗng cảm thấy như món gà quay của mình có phần
nhạt nhẽo. Ông đã mở nắp những chiếc bình ấy nhưng chẳng chiếc nào có được tí
muối. Vì thế ông đành phải quay lại quầy hàng bán đồ ăn để xin chút muối.
Hàng trăm chiếc bình đựng muối mà chẳng
có được một hạt muối nào, phải chăng đó là một hình ảnh sống động, tượng trưng
cho cuộc đời của nhiều người trong chúng ta. Thực vậy, rất nhiều người được coi
là có muối, nhưng sự thực lại chẳng hề có. Sự kiện này giúp cho chúng ta dễ
dàng hiểu được điều Chúa Giêsu xác quyết: Các con là muối cho đời.
Trong cuộc sống hàng ngày, muối được
dùng vào nhiều việc khác nhau. Chẳng hạn muối được dùng như một thứ phân bón để
hạ phèn, muối được dùng để làm giảm cơn đau. Một người có nhiều kinh nghiệm
sống trong tù cho tôi hay: Sau khi bị tra tấn dã man, người ta thường dùng muối
để chà xát lên vết thương và người bị tra tấn sẽ không còn bị đau đớn nhức nhối
nữa. Muối được dùng làm chất khử trùng. Khi trộn muối vào đồ ăn, nó sẽ giữ cho
đồ ăn khỏi ươn thối. Và sau cùng muối sẽ làm cho đồ ăn tăng thêm hương vị đậm
đà. Vậy đâu là sứ điệp Chúa Giêsu muốn gởi đến chúng ta khi xác quyết: Các con
là muối cho đời?
Tôi xin thưa chúng ta trở nên muối bằng
một đức tin sống động để làm cho cuộc đời có một ý nghĩa, có một hương vị đậm
đà. Thực vậy, trong cuộc sống chúng ta đã gặp biết bao nhiêu người kéo lê đời
mình một cách buồn tẻ và vô nghĩa, không mục đích, cũng giống như món gà quay
nhạt nhẽo vì thiếu muối. Chính nhờ thứ muối đức tin của chúng ta mà họ tìm thấy
được hương vị cuộc đời.
Tiếp đến chúng ta trở nên muối bằng
chính đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta. Như
muối ướp trong đồ ăn và làm cho đồ ăn khỏi hư thối, thì nhờ muối gương sáng của
mình, người kitô hữu sẽ giúp cho những kẻ mà họ tiếp xúc thoát khỏi những lầm
lạc, những suy đồi, những xuống cấp. Đồng thời nhờ thứ muối của gương sáng này,
mà người kitô hữu sẽ dần dần cảm hoá được họ, giúp họ sửa chữa những sai lỗi,
những khuyết điểm, cũng như giúp họ tìm thấy nẻo đường trở về cùng Thiên Chúa,
bởi vì lời nói thì như gió lung lay, còn việc làm thì như tay lôi kéo. Đời sống
gương mẫu của chúng ta sẽ là một bài giảng hùng hồn nhất có sức lôi cuốn và hấp
dẫn những người chung quanh.
Bởi đó, bằng đức tin và bằng gương
sáng, chúng ta trở nên muối cho bản thân chúng ta và cho những người chung quanh
khỏi bị ươn thối và cuộc đời của chúng ta cũng như của những người chung quanh
tìm thấy được hương vị đậm đà.
2. Muối và đèn sáng
Quan đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa
Giêsu mời gọi các môn đệ phải trở nên muối ướp và đèn soi. Bằng hai hình ảnh cụ
thể này, Ngài phác hoạ một luật sống mà các môn đệ phải tuân theo khi Ngài gởi
họ đi vào đời.
Hình ảnh thứ nhất: "Các con là
muối ướp thế gian".
Muối là vật dụng thường thức dùng trong
việc nấu nướng. Không có muối, đồ ăn thiếu hương vị và lạt lẽo. Nhưng người Do
Thái còn dùng muối làm phân bón. Vì vậy mà Ngài bảo: Các con là muối đất. Trong
Kinh Thánh, muối là hình ảnh được nhắc lại nhiều lần. Từ vụ vợ ông Lót nhìn lại
đàng sau mà biến thành tượng muối, đến chút muối mà thánh Phaolô căn dặn nên
đặt vào trong lời ăn tiếng nói cho có hương vị khi giao tiếp với anh em.
Các con là muối, nghĩa là chúng ta hãy
sống đạo dức, thực thi những điều Ngài dạy, để thánh hoá bản thân, nêu gương
sáng cho người khác, hâm nóng những cõi lòng đã nguội lạnh. Nếu chúng ta không
sống Lời Chúa trọn vẹn, thì chúng ta như muối đã nhạt, không ích lợi gì, chỉ
đáng đem đổ ra ngoài đường cho người ta dày đạp. Người Do Thái ngày xưa đổ rác
cả ra đường phố cho khách qua lại dẫm lên.
Người ta hỏi ông Ganhdi, nhà ái quốc Ấn
Độ, rằng: - Trước thảm hoạ nguyên tử, ông sẽ làm gì?
Ganhdi trả lời:
- Tôi sẽ cầu nguyện.
Và được hỏi thêm:
- Vì sao ông không theo đạo công giáo?
Ông trả lời:
- Phúc Âm của Chúa thì rất tốt lành,
nhưng người công giáo đã không sống Phúc Âm, nên không hơn gì chúng tôi.
Câu trả lời này khiến chúng ta nhớ lại
lời Chúa: Các con là muối đất, nếu muối đã nhạt đi, thì biết lấy gì mà ướp cho
mặn lại. Chỉ còn ném ra ngoài đường cho người ta chà đạp.
Hình ảnh thứ hai là đèn soi.
Có lần Chúa Giêsu đã xác quyết: Ta là
ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong đêm tối, nhưng sẽ có ánh sáng
đời đời. Và hôm nay Chúa dạy các môn đệ hãy bắt chước Ngài để trở nên ánh sáng
thế gian: Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá
đèn hầu soi sáng cho mọi người trong nhà.
Chúng ta phải là đèn soi cho kẻ khác
bằng lời nói, bằng việc làm và bằng gương sáng. Nếu Phúc Âm không được rao
giảng người ta sẽ quên nó. Trái lại, nếu mỗi người chúng ta thắp lên cây đèn
nhỏ của mình, thì không những nhà riêng của chúng ta mà cả thế giới sẽ được soi
sáng. Sự sáng của các con sẽ chiếu soi trước mặt thiên hạ và mọi người sẽ ngợi
khen Thiên Chúa.
Một buổi chiều, Mẹ Têrêsa đi qua một
căn nhà ở ngoại ô Calcutta. Căn nhà tối om và có tiếng rên từ bên trong vọng
ra. Mẹ đẩy cửa bước vào, sờ soạng đi lại giường một cụ già tiều tuỵ, đau yếu.
Mẹ hỏi:
- Nhà của cụ không có đèn đóm gì à?
- Có một chiếc đèn còn tốt nhưng không
có dầu.
Mẹ lục lọi tìm chiếc đèn, rồi lau chùi,
mua dầu đổ vào và đốt lên. Mặt cụ tươi tỉnh. Ít lâu sau, Mẹ nhận được mấy dòng
chữ sau đây: Nụ cười của Mẹ nhu dầu khích lệ, như đèn thắp sáng đời tôi.
Mỗi người chúng ta đều được Chúa kêu
mời trở nên muối mặn ướp thế gian, và trở nên đèn thắp sáng cuộc đời mình và
cuộc đời người khác.
3. Thắp sáng cuộc đời – R. Veritas
(Trích từ 'Sống Tin Mừng')
Khi tìm một bài hát về thánh Phêrô và
Chúa Giêsu, tôi đã gặp được một bài rất ý nghĩa mà trước đó không hề biết đến.
Đó là bài hát có tựa đề: "Con Là Đá". Người quen thuộc bài hát
"Con Là Đá" này cũng nên tìm đọc qua một bài hát tương tự khác có tựa
đề "Con Không Là Đá". Bởi một sự tình cờ và với sự tò mò thôi thúc,
tôi có dịp nghe qua bài hát này và kể từ đó tôi cảm thấy rất thích bài hát nói
về Phêrô: "Con Không Là Đá" đó, tác giả đã diễn tả ý nghĩa sâu xa của
Lời Chúa Giêsu nói cho Phêrô: "Con là Đá".
Qua lời ca của bài hát, "Con Không
Là Đá", Chúa Giêsu nói với Phêrô, theo ý của tác giả, thì "con chỉ là
Đá khi con nương tựa vào Chúa, sống kết hiệp với Thiên Chúa. Trước mặt Thiên
Chúa, thật sự con chỉ là cát bụi; con chỉ có thể là Đá trên Thiên Chúa là Viên
Đá Thật".
Kể từ đó, bài hát nói về Phêrô
"Con Không Là Đá" đã thấm nhập vào tâm hồn tôi, và hôm nay, khi đọc
lại bài Phúc Âm thánh Mátthêu (Mt 5,13-19), nhắc lại lời Chúa Giêsu:
"Chúng con là ánh sáng thế gian", tôi lại nhớ đến bài hát nói về
Phêrô "Con Không Là Đá". Tôi có thể chia sẻ với anh chị em rằng, tất
cả chúng ta phải là ánh sáng mà Chúa Giêsu Kitô nói, Ngài là ánh sáng thật đã
đến trần gian, đã soi chiếu cho mọi người và chúng ta chỉ là ánh sáng trong
Chúa Kitô là ánh sáng thật.
Chúng ta chỉ là ánh sáng thế gian trong
mức độ khi chúng ta để Chúa Kitô biến đổi cuộc sống mình, để cho ánh sáng của
Chúa biến đổi cuộc đời chúng ta trở thành cuộc đời của Chúa. Lời Chúa phán:
"Chúng con là ánh sáng", không là một lời khoe khoang để chúng ta
hãnh diện, tự kiêu, nhưng là một mệnh lệnh, một đòi hỏi, mỗi người phải là một
Chúa Kitô khác, hãy sống sự sống của Chúa, hành động như Chúa để trở thành một
Chúa Kitô khác.
Nhân dịp này, chúng ta tự suy nghĩ lại
câu nói chúng ta thường nghe qua: "Tốt đời đẹp đạo". Người ta đến với
đạo qua hành động, việc làm đời thường của chúng ta, họ muốn nhìn thấy việc làm
tốt của chúng ta để đến với Đạo, để sống theo như lời Chúa nói: "Để ngợi
khen Cha chúng con Đấng ngự trên trời". Đó là cái nhìn của người ngoài từ
đời đến đạo, và cái nhìn này có thể hiểu lệch lạc đến độ lấy đời làm méo mó đạo
để thỏa mãn yêu cầu không đạo đức của đời. Là người Kitô, chúng ta hãy nhìn từ
một quan niệm mới không phải từ đời đến đạo mà phải bắt đầu từ đạo đến đời. Tôi
muốn nói từ đời sống đạo của mỗi người chúng ta, đời sống như Chúa Kitô đã sống
để rồi chúng ta lan tỏa cho đời. Chúng ta phải là người đồ đệ đích thực của
Chúa, sống đức tin chân chính, sống đức bác ái của Chúa, sống như Chúa sống,
sống sức mạnh của Chúa Thánh Thần và như thánh Phaolô Tông đồ diễn tả trong bài
đọc hai: "Tôi sống nhưng không phải là tôi mà là chính Chúa Kitô sống
trong tôi".
Thánh Phaolô đã để cho ánh sáng của
Chúa được hiện diện trong cuộc đời của ngài, biến cuộc đời của ngài trở thành
ánh sáng cho muôn dân. Chúng ta cần sống trọn vẹn Tin Mừng của Chúa, sống như
Chúa đã sống, sống sức sống của Chúa, lãnh nhận ánh sáng của Chúa. Để làm tốt
cho đời, chúng ta cần lấy Đạo Chúa mà chúng ta có để làm cho đời được tươi đẹp,
như thế tốt đời mới đẹp đạo của Người, đó là đối với chúng ta phải tốt đạo để
đẹp đời, chúng ta phải sống trọn vẹn đức tin của mình, phải thực hiện đức bác
ái của mình cách hoàn hảo.
Bài đọc thứ nhất từ sách tiên tri Isaia
hôm nay, là một bản kê khai những việc làm tốt mà chúng ta, những đồ đệ của
Chúa cần phải biến đổi để trở thành ánh sáng, để mang ánh sáng của Chúa đến cho
anh chị em. Chúng ta không phải là Ánh Sáng; chúng ta là ánh sáng thế gian khi
nào chúng ta sống kết hợp với Chúa là Ánh Sáng Thật.
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được
lớn lên, được trưởng thành trong đức tin, được vững mạnh trong đức ái, để chúng
ta sống trọn vẹn đức tin của chúng ta, sống tốt đạo của chúng ta để chúng ta
làm đẹp cho đời.
4. Sống có ích cho tha nhân – Lm. Jos
Tạ Duy Tuyền
(Trích từ 'Cùng Nhau Suy Niệm')
Người ta kể đoạn kết của bộ phim Tôn
Ngộ Không như sau: Vào đêm trước khi thầy trò Tam Tạng bước vào cửa Phật. Thầy
trò ngủ chung với nhau, nhưng lòng bồi hồi xao xuyến không sao ngủ được. Ngộ
Không thấy Thầy mình nằm trăn trở hết nghiêng bên này, lại nghiêng bên kia. Bèn
quay sang nói với Thầy: "Ngày mai chúng ta vào cõi Phật rồi, sao Thầy
không vui?". Thầy Tam Tạng thở dài nói rằng: "Ngộ Không con ơi, con
là khỉ, cả đời con theo Thầy chỉ mong thành người. Còn Thầy đã là Người, lại bỏ
kiếp người vào cõi Phật. Biết có hay không! Làm người mà chưa giúp gì cho đời,
liệu thành Phật, Thầy còn có cơ hội cứu đời cứu người nữa hay không?".
Thực vậy Tôn Ngộ Không, khi theo thầy
đi Thỉnh kinh đã mang hoài bão trở thành một con người nhưng Ngộ Không đã không
có cơ hội thay đổi bản chất của mình, vì khỉ vẫn là khỉ, cho dù có 72 phép thần
thông cũng không thay đổi phận số của mình. Còn chúng ta là người, nhưng sống
cho trọn kiếp người, cho xứng với bản chất và phẩm giá làm người đôi khi chúng
ta vẫn chưa thực sự nên người. Có một nhà tu đức nói rằng: Bạn muốn là một
người kytô hữu tốt trước hết bạn hãy là một con người tốt. Bạn muốn là một vị
thánh, thì bạn phải là một người kytô hữu tốt. Dù chúng ta có muốn làm thánh
làm phật, dù chúng ta có muốn trở thành những con người siêu phàm làm được
nhiều chuyện lớn lao, phi thường nhưng trước hết và trên hết chúng ta phải là
một con người hoàn hảo, một con người biết sống đúng bổn phận của mình.
"Tu thân tích đức - tề gia - trị quốc - bình thiên hạ". Một em học
sinh muốn trở thành những nhà bác học lừng danh, thì trước hết, tuổi thơ của em
phải là những học sinh gương mẫu, em phải biết chu toàn tốt bổn phận học trò
của mình mới mong lập được công trạng cho gia đình và xã hội. Hơn nữa, người có
tài nhưng không sống đúng bản chất con người là "nhân chi sơ tính bản
thiện" thì cũng chỉ là kẻ gieo vãi sự chết chóc nơi nhân thế thay vì dùng
tài năng để phục vụ cho đời.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy bản
chất của người kytô hữu không phải là những gì cao xa nhưng chỉ là những hạt
muối bé nhỏ hay chỉ là một chút ánh sáng lẻ loi. Thật bình thường và cũng thật
tầm thường nhưng lại thật hữu ích cho đời sống con người. Không có muối làm sao
có những bữa tiệc thơm ngon mặn mà. Không có ánh sáng làm sao con người có thể
nhìn ngắm những vẻ đẹp muôn màu của vũ trụ mà Thiên Chúa đã dựng nên.
Các con là muối cho đời - là ánh sáng
cho trần gian. Muối thì thấp hèn, âm thầm và khiêm tốn. Nhưng muối làm cho
người phụ nữ nội trợ thêm rạng rỡ niềm vui, cho bữa cơm gia đình thơm ngon đậm
đà.
- Ánh sáng thì rực rỡ, huy hoàng. Ánh
sáng soi cho người ta thấy rõ đường đi, cho con người nhận ra nhau, cho quan hệ
giữa người với người thêm trong sáng chân thành. Mọi mối quan hệ còn ở trong
bóng tối, thì đó chỉ là những mối quan hệ bất chính và tội lỗi.
Nhưng thân phận cả hai đều phải chịu
hao mòn hy sinh thì mới thực sự có ích cho đời: muối tan dần đi, ngọn đèn ngày
càng lụn xuống. Lý do tồn tại của cả hai là để gây tác động tốt: nếu muối không
mặn và đèn không sáng thì không có ích gì nữa, chỉ nên vất ra đường phố cho
người ta chà đạp và khinh bỉ.
Thân phận và hoàn cảnh của mỗi kitô hữu
khác nhau: có người âm thầm hèn mọn như hạt muối, có người rực rỡ huy hoàng như
ánh sáng. Nhưng mọi người đều có sứ mạng phải tác động tốt lên môi trường mình
sống. Không tác động tốt thì không còn là kitô hữu nữa.
Là muối đất, là ánh sáng thế gian, hơn
ai hết, kitô hữu chúng ta cần phải thắp sáng lên niềm hy vọng bằng cuộc sống
tỏa lan tình người. Dù chỉ là một ngọn đèn mù mờ giữa biển khơi, cho dù phải
đương đầu với biết bao sống gió nhưng vẫn phải giữ cho ngọn đèn đó cháy sáng,
vì biết đâu xa xa ngoài khơi vẫn còn có ai đó đang cần một chút ánh sáng để
định hướng vào bờ.
Ngược dòng lịch sử 600 năm trước Chúa
Giáng Sinh, tiên tri Isaia đã dạy chúng ta phương thế để trở thành ánh sáng cho
đời:
Về mặt tiêu cực: đừng bao giờ khinh bỉ
người khác, phải loại bỏ những tranh chấp, hăm dọa, nói xấu anh chị em mình; Về
mặt tích cực là chia cơm cho kẻ đói, chia áo cho người nghèo, làm cho người đau
khổ được hạnh phúc...
Và "Như thế, sự sáng của ngươi sẽ
tỏa rạng như hừng đông, ánh sáng của ngươi sẽ bừng lên trong đêm tối và bóng
tối sẽ trở thành như giữa ban ngày".
Một buổi chiều, Mẹ Têrêsa đi qua một
căn nhà ngoại ô ở Calcutta. Nhà tối om và có tiếng rên từ bên trong vọng ra. Mẹ
đẩy cửa bước vào, sờ soạng, đi lại giường một cụ già tiều tụy đau yếu, Mẹ hỏi:
Nhà cụ không có đèn đóm gì ư?-Có một chiếc đèn còn tốt, nhưng không có dầu. Vả
lại có ai đến thăm tôi đâu mà phải đèn với đóm! Mẹ lục lọi tìm ra chiếc đèn,
lau chùi, mua dầu cho vào và đốt lên. Mặt cụ tươi tỉnh lên. Ít lâu sau Mẹ nhận
được một lá thơ với mấy dòng chữ: "Nụ cười vui tươi của Mẹ, như dầu khích
lệ, như đèn đốt sáng đời tôi, mỗi khi chiều về".
Mỗi người chúng ta cũng được Chúa mời
gọi để thắp sáng cuộc đời kẻ khác. Mỗi người đều có một khả năng cá biệt để
thắp sáng niềm tin cho anh chị em chúng ta và ướp mặn trần gian bằng tình yêu
thương bác ái và cảm thông. Vì:
"Làm thân cây nến vào đời
Càng tiêu hao cháy, càng ngời vinh
quang"
Nhưng tiếc thay, vì lười, vì ích kỷ, vì
hèn nhát, ngọn đèn của chúng ta lu mờ dần đi và có khi tắt ngấm. Vì thiếu bác
ái, thiếu lòng nhân từ nên những ai tiếp xúc với chúng ta đều cảm thấy mặn
chát, khô cằn thiếu sức sống vui tươi. Xin Chúa giúp chúng ta dám hy sinh và từ
bỏ mình mỗi ngày để trở nên ánh sáng và muối men cho đời. Amen.
5. Muối và ánh sáng
(Tổng hợp từ R.Veritas)
Sau một thời gian dài học hỏi và tu
luyện, người học trò mới cất tiếng hỏi thầy mình:
- Thưa thầy, đâu là sự khác biệt giữa
kiến thức và giác ngộ?
Thầy mỉm cười và ôn tồn giải thích:
- Khi có kiến thức, giống như con có
"ánh sáng" soi đường con đi. Nhưng khi con giác ngộ, chính con sẽ trở
thành "ánh sáng" soi đường cho người khác.
Bạn thân mến!
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng mời gọi
ta trở nên "Ánh Sáng và Muối Đất". Đó cũng là lệnh truyền cấp bách mà
Chúa Giêsu gởi đến mỗi người chúng ta hôm nay.
"Chính anh em là muối cho
đời". (Mt. 5,13) Muối là một sản phẩm không thể thiếu trong đời sống con
người. Muối vừa làm phân bón cho đất đai màu mỡ; vừa làm gia vị cho các món ăn
thêm thơm ngon đậm đà; vừa bảo quản thực phẩm cho khỏi hư thối. Khi muối muốn
ướp cho "mặn đời", muối phải biết chấp nhận hòa tan, phải biết
"mất đi" cho chính mình để hoá thân trong chất mặn, để hiến dâng cho
đời hương vị thơm ngon, mặn nồng của quảng đại, của yêu thương và tha thứ ...
"Chính anh em là ánh sáng cho trần
gian"(Mt.5:13). Đây là lời mời gọi tuyệt vời dành cho người Kitô, bởi lẽ
chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng (1Ga.1:5). Chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là
Ánh Sáng (Ga.8:12). Vậy ta muốn trở thành ánh sáng như Đức Giêsu, ta phải ở gần
Ngài: gần đèn thì ta được toả sáng.
Ánh sáng không thiên vị một ai, không
thích người này và cũng không chê người kia. Ánh sáng của mặt trời lan tỏa khắp
nơi, chiếu sáng mọi người và mọi nhà. Ánh sáng của người Kitô cũng
vậy,"ánh sáng của anh em phải ở trên cao, vượt trên mọi danh vọng, tiền
tài, lạc thú. Không phải để khoe khoang, tự kiêu, nhưng là để tôn vinh Cha,
Đấng ngự trên trời" (Mt.5:16).
Ánh sáng của cây nến tuy nhỏ bé nhưng
cũng đủ toả sáng cả một căn phòng, làm cho bóng tối phải lùi bước. Một khi ánh
sáng của ngọn nến bừng lên, đó cũng là lúc ngọn nến bị đốt cháy, bị tan biến
đi. Người Kitô cũng vậy, phải mất đi cho chính mình, phải tan biến đi để
"Ánh Sáng Chúa Kitô" được loan toả khắp nơi, khắp mọi nhà, khắp mọi
tâm hồn.
Khi bị đốt cháy, ngọn nến nhận sức nóng
từ ngọn lửa và cho đi ánh sáng. Người Kitô trong thế giới hôm nay cũng phải
giống như vậy. Nhưng trong suy tư thinh lặng, tôi tự hỏi lòng mình: "Tôi
đang nhận điều gì trong cuộc sống hôm nay? Và tôi sẽ cho đi những gì cho người
anh em xung quanh tôi?"
***
Vì tôi là muối nhạt nên thế giới này vô
vị.
Vì tôi là đèn hết dầu, nên thế giới còn
nhiều bóng tối.
Thế giới này sẽ mang bộ mặt mới nếu tôi
thực thi lời mời gọi của Chúa Giêsu trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay: "Anh
em là muối cho đời ...Anh em là ánh sáng cho trần gian ".
Lạy Chúa Giêsu!
Xin giúp con lắng nghe tiếng Chúa
và nỗ lực thực thi Lời Ngài trong cuộc
sống của con hôm nay. Amen!
6. Vì đời và cho đời – Lm. Antôn Nguyễn
Văn Tiếng
Muối
Muối rất cần để bảo vệ thực phẩm. Và
hình ảnh ấy cũng nói đến những con người đóng vai trò giáo dục, có bổn phận và
trách nhiệm "bảo vệ và gìn giữ" những vẻ đẹp cao quý, thiêng liêng,
những giá trị đạo đức nhân phẩm để con người sống "nên người", sống
"cho ra người" hơn. Ca dao Việt Nam có câu: "Cá không ăn muối cá
ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư".
Muối là gia vị làm cho thức ăn được
ngon miệng, mặn mà. Từ đó nó gợi cho con người hình ảnh tình nghĩa đậm đà mà
con người cần phải có để cuộc đời thêm đẹp, thêm ấm áp. Nếu không tình đời sẽ
"lạt như nước ốc, bạc nhơ vôi".
Ánh Sáng
Ánh sáng chiếu soi vạn vật, nhờ ánh
sáng con người chiêm ngưỡng được vẻ đẹp cảnh vật quanh ta.
Nhờ ánh sáng, con người định hướng được
hướng đi của đời mình. Nhờ ánh sáng con người vượt qua được nguy hiểm, tiếp tục
cuộc hành trình an toàn, và đến bến bờ hạnh phúc. Như ánh sáng Hải Đăng cần
thiết cho những cuộc hành trình ở Đại Dương bao la.
Ánh sáng thiên nhiên gợi cho ta hiểu
ánh sáng tâm hồn. Đôi mắt mùa lòa làm cho con người đau khổ vì sống trong tăm
tối, nhưng đôi mắt tâm hồn "mùa lòa" sẽ dẫn con người đến sự sụp đổ
hoàn toàn. Mùa Xuân thiên nhiên có thể không đến với những con người mà đôi mắt
đã bị cướp đi ánh sáng, nhưng nếu tâm hồn họ đã vươn lên được niềm hạnh phúc
cao cả, nếu đôi mắt tâm hồn của họ đã nhìn xuyên thấu những giá trị cao quý của
đời người, dù sống trong tăm tối, tâm hồn họ vẫn rực sáng với muôn điều hạnh
phúc kỳ diệu sẽ đến trong thế giới nhiệm mầu của riêng họ.
Điểm chung của muối và ánh sáng
Muối và ánh sáng đều đem lại sự an
bình. Không hư hao, và tránh những điều xấu có thể đến.
Muối và ánh sáng đem lại cho đời những
điều tốt đẹp hơn. Mặn mà và tươi sáng.
Muối và ánh sáng đều chịu hao mòn. Tan
biến và dần dần tự hủy đi tạo ra muôn thứ tốt đẹp và hữu ích. Những hạt muối
hòa tan và mất đi để có những bữa ăn ngon. Những cây nến hao mòn và mất đi để
cho đời ánh sáng. Mặt trời một ngày nào đó cũng tắt khi nguồn năng lượng cạn
kiệt.
Muối và ánh sáng đều thầm lặng hy sinh.
Khi dùng những món ăn ngon, người ta khen thịt, cá, rau, quả...không ai khen
muối. Khi ngắm cảnh đẹp, người ta khen núi, sông, hoa, lá, mây trời... không ai
khen ánh sáng.
Vì đời và cho đời
Muối thì phải mặn. Nếu muối mà không
mặn thì có còn là muối không?
Ánh sáng thì phải chiếu sáng. Nếu ánh
sáng mà không chiếu sáng, thì có còn là ánh sáng không?
Môn đệ thì phải theo gương thầy. Môn đệ
mà không giống thầy, thì có còn là môn đệ thầy không?
Chúa Giê-su, Thiên-Chúa-làm-người. Ngài
dành cả cuộc đời ở trần thế nầy để "vì đời và cho đời".
Vì đời và cho đời như "muối và ánh
sáng".
Hãy nhìn vào cuộc đời của Đức Ki-tô,
Đấng Cứu Thế, từ Bê-lem đến đỉnh Can-vê! Còn ai "vì đời và cho đời"
hơn như thế không?
Nên môn đệ Chúa Giê-su phải là
"muối" và "ánh sáng" theo gương của Thầy Chí Thánh của mình
là Chúa Giê-su.
Chính anh em là muối cho đời (Mt.5,13).
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian
(Mt.5,14).
"Muối và ánh sáng vì đời và cho
đời".
Và tất cả múc nguồn từ Chúa Giê-su
Ki-tô.
Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư
ngụ giữa chúng ta. (Ga.1,14).
Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước,
là ánh sáng chỉ đường con đi. (Tv 119,105).
"Muối và ánh sáng vì đời và cho
đời", để đời có Niềm Tin, Hy Vọng và Vui Sống. Để đời biết sống đúng ý
nghĩa kiếp người và tìm về bến bờ hạnh phúc vĩnh cửu trong Tình Yêu Thiên Chúa.
"Chính Thầy là con đường, là sự
thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy"
(Ga.14,6).
Lạy Chúa,
Xin dạy cho con,
và soi sáng cho con,
biết suy nghĩ và hành động,
theo thánh ý Chúa. Amen.
7. Là muối, là ánh sáng
Suy Niệm
Anh em là muối cho đời: một định nghĩa
tuyệt vời về người Kitô hữu.
Kitô hữu gắn liền với cuộc đời, hòa
mình với mọi người, như muối thấm vào thức ăn, giữ cho nó khỏi hư và thêm đậm
đà.
Vị mặn của muối là yếu tố quan trọng.
Mặn thuộc về bản chất của muối.
Muối nhạt chẳng đáng gọi là muối, vì
chẳng ướp được gì.
Khi đánh mất bản chất của mình, nó cũng
hoàn toàn trở nên vô dụng.
Anh em là ánh sáng cho trần gian: một
định nghĩa kinh khủng về người Kitô hữu, bởi lẽ chỉ Thiên Chúa mới là Ánh Sáng
(1Ga 1,5). Chỉ Đức Giêsu mới dám nhận mình là Ánh Sáng (Ga 8,12).
Anh em là ánh sáng vì anh em gần Thầy,
gần đèn thì sáng.
Thế giới hôm nay tiến bộ về khoa học kỹ
thuật, nhưng lại là một thế giới nhạt nhẽo, mất ý nghĩa, một thế giới tối tăm
và vẩn đục. Chúng ta hay phàn nàn về sự xuống cấp, suy đồi, nhưng người Kitô
hữu ít khi nhìn nhận phần trách nhiệm của mình trước thực trạng đó.
Vì tôi là muối nhạt nên thế giới này vô
vị. Vì tôi là đèn hết dầu, nên thế giới còn nhiều bóng tối.
Thế giới sẽ mang bộ mặt mới, nếu chúng
tôi sống đúng định nghĩa của Đức Giêsu.
Khi hoà mình với đời, chúng ta có thể
trở thành muối nhạt, ngọn đèn chúng ta có thể bị hết dầu. Cần được ướp lại bằng
vị mặn của Đức Giêsu, ngọn đèn cần được nuôi bằng dầu của Người.
Phải liên tục trở lại với Đức Giêsu để
đừng đánh mất bản sắc Kitô hữu của mình.
Anh em ở trong thế gian, nhưng không
thuộc về thế gian.
Vẫn còn nhiều Kitô hữu, có khả năng
nhưng lại rụt rè, đặt ngọn đèn đời mình dưới thùng. Họ không dám dấn thân vào
đời, vì sợ nguy hiểm, vì thiếu tự tin vào bản lãnh của mình, hay vì hiểu sai
thế nào là khiêm tốn thực sự.
Cần có nhiều Kitô hữu làm băng video,
viết kịch, quay phim. Cần nhiều người là văn nghệ sĩ, làm nhà nghiên cứu.
Cuộc sống chúng ta phải tỏa sáng, qua
bao điều tốt đẹp, để mọi người nhận ra Thiên Chúa là Nguồn ánh sáng và cất
tiếng ngợi ca tôn vinh.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn biết gì về cha Đắc Lộ, người có
công lớn trong việc sáng tạo chữ quốc ngữ của dân tộc Việt Nam?
Nhiều Kitô hữu đã bị biến chất khi dấn
thân vào đời. Có cách nào hoà mình mà không đánh mất chính mình?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, tạ ơn Chúa đã cho chúng
con ánh sáng mặt trời, mặt trăng, và ánh sáng từ những nguồn năng lượng trên
mặt đất.
Tạ ơn Chúa vì Chúa đã gọi chúng con là
ánh sáng. Đó là vinh dự và cũng là một trách nhiệm nặng nề.
Xin cho chúng con có khả năng đẩy lui
bóng tối của hận thù và bất công, của buồn phiền và thất vọng.
Xin cho chúng con biết gìn giữ ngọn lửa
mà Chúa đã thắp lên trong lòng chúng con, và biết vâng theo những soi sáng của
Chúa qua từng phút giây của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, cuộc chiến giữa ánh
sáng và bóng tối vẫn còn tiếp diễn trên thế giới và trong lòng chúng con. Ước
gì chúng con đừng chỉ lo nguyền rủa bóng tối, nhưng can đảm thắp lên những ngọn
lửa, để cả trái đất ngập tràn ánh sáng Chúa.
8. Muối cho đời – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Trong những dịp cuối năm, các bản tổng
kết tình hình đều đánh giá cao những đóng góp của Giáo hội đặc biệt trong lãnh
vực giữ gìn đạo đức xã hội. Nơi nào có đồng bào Công giáo sinh sống, tệ nạn xã
hội không có hoặc có rất ít. Nghe những nhận định trên, tôi rất vui vì thấy anh
chị em tín hữu đang sống đúng tinh thần trở thành muối cho đời như lời Chúa dạy
trong bài Tin Mừng hôm nay.
Khi nói đến muối Chúa Giêsu có ý dạy
các môn đệ về cách thế hiện diện trong xã hội.
Đó là một hiẹn diện khiêm nhường
Hạt muối thật bé nhỏ. Chẳng ai chú ý
tới sự hiện diện của nó. Bên cạnh thịt, cá, rau cỏ, muối chỉ đóng vai phụ.
Người ta trưng bày những món ăn đắt tiền. Người ta giới thiệu những món ăn cầu
kỳ. Không thấy ai trưng bày muối. Chẳng có ai giới thiệu muối trong bữa tiệc
lớn. Xét về giá trị kinh tế, muối chẳng đáng giá bao nhiêu. Đó là một hiện diện
quên mình.
Muối có đó nhưng không ai thấy muối.
Không chỉ vì muối bé nhỏ khiêm nhường mà vì muối phải tan biến đi. Phải tan
biến đi muối mới có tác dụng. Muối ướp vào thịt cá mà không tan đi thì không
thấm được vào thớ thịt, thớ cá, không giữ cho thịt tươi cá tốt được. Muối gia
giảm vào cá kho, thịt rim, nước canh mà không tan đi thì khi ăn phải, người ta
sẽ nhăn mặt bỏ đi. Chỉ khi tan biến đi, hoà tan vào thịt, cá, rau cỏ, muối mới
có ích lợi. Muối phải hiện diện nhưng lại phải tiêu huỷ đi thì mới có ích.
Đó là một hiện diện tích cực.
Tuy bé nhỏ khiêm nhường và vắng mặt,
nhưng hiện diện của muối là một hiện diện tích cực. Tích cực vì góp phần bảo
trì thực phẩm khỏi hư thối, vì nâng phẩm chất món ăn. Tích cực vì là một thành
phần hầu như không thể thiếu trong các món ăn. Tuy không thấy và không nói ra,
nhưng ai cũng ngầm hiểu trong mỗi món ăn đều có muối.
Khi dùng muối làm hình ảnh minh hoạ,
chắc chắn Chúa Giêsu cũng muốn cho các môn đệ của Người có những đặc tính của
muối.
Người muốn các môn đệ của Người sống
giữa nhân loại như muối ở trong thức ăn. Người muốn các môn đệ của Người hiện
diện thật kiêm nhường như những hạt muối bé nhỏ. Người muốn các môn đệ của
Người hiến thân mình cho nhân loại như những hạt muối hòa tan trong thực phẩm.
Nhưng để sự hiện diện bé nhỏ khiêm
nhường mang yếu tố tích cực, các môn đệ phải giữ được vị mặn của muối.
Vị mặn, đó là lòng yêu mến Chúa mặn
nồng, là tình yêu tha nhân mặn mà, là sống tinh thần Tám Mối Phúc như Chúa dạy
trong bài Tin Mừng tuần trước.
Giữ được vị mặn của Phúc Âm và hiện
diện âm thầm trong phục vụ quên mình, người môn đệ Chúa sẽ thực sự góp phần bảo
vệ nền đạo đức của xã hội. Dù không muốn, họ vẫn trở thành ánh sáng soi trần
gian.
Lạy Chúa, Chúa tin tưởng con, nên đã
gọi con là muối trần gian. Xin cho lòng con yêu mến Chúa tha thiết, để đem cho
đời hương vị tình yêu. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn nghĩ gì về hình ảnh hạt muối?
2- Làm muối, dễ hay khó?
3- Bạn đã bao giờ cảm thấy niềm vui
được chìm đi để anh em được nổi nang chưa?
9. Có can đảm sống trung thực theo con
người mình
(Trích từ 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật' –
Achille Degeest)
Chân lý, nhất là chân lý do đức tin
mang tới, là muối và ánh sáng. Chân lý, tự nó, không thể nên lạt lẽo và tối mờ.
Nhưng thực tế thì chân lý trở nên "khả giác" khi đi vào trí khôn và
cõi lòng con người. Chính những con người mang chân lý và đức tin, là muối và
ánh sáng gian trần. Bởi vì nhà ở của chân lý và đức tin là con người với tất cả
sự phức tạp của nó, bản năng, sở thích của nó, cho nên sự biến chất lạt lẽo và
tình cảnh bị bóp nghẹt vẫn là những mối đe doạ thường xuyên. Chúa nói với môn
đệ rằng họ là muối và ánh sáng mà không để cho bị lạt lẽo và che mờ đi.
Muối được dùng nhiều trong các nghi thức
tôn giáo, hẳn là vì nó chữa lành, không bị hư thối, vì nó cho hương vị. Sách
Lêvi (2,13) nói đến muối của Giao Ước để chỉ rằng Giao Ước phải bền vững, không
thể hư hỏng. Tiên tri Êlisê "tẩy sạch" một giòng suối bằng cách bỏ
vào muối vào. (2V 2,21). Ánh sáng là để soi chiếu. Để rọi chiếu, ánh sáng chỉ
cần là ánh sáng. Bài Phúc Âm nói tới cái thùng, có lẽ gợi lại tục lệ của mấy
người nghèo thường đặt đèn trên một cái thúng lật ngược. Nếu lấy thùng chụp đèn
lại, người ta giam hãm ánh sáng và làm nó phải tắt.
- Để suy niệm, chúng ta sẽ hiểu muối và
ánh sáng như những biểu tượng của người Kitô hữu.
1) Người Kitô hữu phải là muối thế
gian. Ngày nay hơn bao giờ Giáo Hội phải thâm nhập vào nền văn minh với những
giá trị của đức tin, hầu cho thế gian khỏi tan rã và thoái hoá trong bạo lực.
Người ta nói nhiều đến thuyết duy vật, thuyết duy sắc dục... Lắm người quảng
đại chiến đấu cho một thế giới công bình hơn, nhưng không biết bên kia cái cùng
đích họ theo đuổi còn có gì... Nếu bị bỏ mặc cho mình, thì thế giới sẽ nên hủ
bại. Người Kitô hữu phải làm chứng về phẩm giá, và số mệnh con người, để góp
phần cứu vớt thế gian. Trong tất cả đời sống xã hội, gia đình, nghề nghiệp,
chính trị kinh tế, họ phải nghĩ tưởng và hành động theo như lòng tin nơi Đức
Giêsu Kitô soi sáng thúc đẩy họ. Nếu không có can đảm làm như thế, nếu trở nên
lạt lẽo, thì nó sẽ không chu toàn sứ mệnh và thế gian có thể lôi kéo họ vào sự
ghê tởm. Bị ném ra ngoài cho người ta dày đạp dưới chân. Phúc Âm nói thế.
2) Người Kitô hữu phải là ánh sáng gian
trần. Vấn đề không phải là phô trương mình ra. Những cũng là ánh sáng soi chiêu
vì nó là nó, thì người Kitô hữu cũng phải toả ánh sáng Tin Mừng bằng cách là
người Kitô hữu đích thực, thế thôi. Một điểm đáng cho ta lưu ý. Khi hoạt động
với tư cách Kitô hữu, có nên che dấu "sự quy chiếu" của mình về Chúa
Kitô và đặc nó dưới thùng hay không? Nói cách khác, ánh sáng mà người tin Chúa
mang trong mình không phải loan báo Đức Giêsu Kitô hay sao? Trả lời thực tế cho
câu hỏi này không đơn giản đâu. Dù sao, theo Phúc Âm dạy thì hành động được
thực hiện trong ánh sáng, phải dẫn đưa con người tới chỗ ngợi khen Cha trên
trời.
10. Chiếu ánh sáng của chúng ta khi
cần.
(Trích trong 'Mở Ra Những Kho Tàng' -
Charles E. Miller)
Trong một cuộc phỏng vấn Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, một phóng viên đã hỏi ngài: "Đức Thánh Cha cầu nguyện cho
những ai và cho điều gì?" Đức Thánh Cha trả lời bằng việc trích dẫn đoạn
văn mở đầu trong Hiến Chế về Giáo Hội trong thế giới ngày nay của Công đồng
Vatican II. Đoạn văn ấy như sau: "Sự vui mừng và hy vọng, đau buồn và lo
âu của con người thời đại này, đặc biệt là những người nghèo hay những người bị
bách hại, cách nào đó là niềm vui và hy vọng, đau buồn và lo âu của những người
theo Chúa Kitô" (Bước qua ngưỡng cửa hy vọng, số 20).
Thật ra Đức Thánh Cha đã trả lời câu
hỏi không chỉ như ngài là một Giáo Hoàng mà với tư cách là một người Công giáo,
một người theo Chúa Kitô, giống như mọi người chúng ta. Chắc chắn những lời cầu
nguyện của Đức Thánh Cha cũng sẽ là của chúng ta nữa. Dĩ nhiên cầu nguyện phải
dẫn tới hành động và hành động tương quan với tha nhân nữa.
Biến lời cầu nguyện thành hành động là
giáo huấn của tiên tri Isaia trong Thánh Lễ hôm nay: "Hãy chia bánh với
người đói, cung cấp chỗ cư trú cho kẻ bị áp bức và không nhà. Mặc quần áo cho
kẻ mình trần khi thấy họ, đừng xoay lưng lại với những khốn khổ đang xảy
ra". Những lời cảm động này muốn nói tới những người Do Thái bị lưu đày,
họ trở về sau khi thoát ách nô lệ ở Babylon. Họ tìm thấy quê hương họ đã bị xâm
chiếm bởi một dân tộc khác, một dân không chia sẻ cùng một tôn giáo hay nền
luân lý của họ. Họ cảm thấy mình như là một dân tộc thiểu số trong một khu vực
thù địch.
Chúng ta không giống như họ nơi xã hội
của chúng ta, những người Công Giáo không phải là một nhóm người thiểu số, nhưng
một số người đang lớn dần lên chung quanh chúng ta có vẻ như trái tim họ bị xơ
cứng trước những nhu cầu của người anh em, ví dụ như những người đói khát,
những dân nhập cư, những người không nhà, những người nhận trợ cấp xã hội. Các
nhu cầu giúp đỡ sẵn sàng bị loại bỏ như là việc vô giá trị và không đáng được
phục vụ. Ở một số nơi, tinh thần này đã thay thế cho sự thương xót. Những người
Công Giáo chúng ta không thoát khỏi ảnh hưởng của những biến chứng này. Đôi khi
những hiệu quả thì rất tinh tế mà chúng ta không hề ý thức đên chúng.
Ngày nay, một số người nghèo khổ và
thích cuộn mình nằm nơi góc tối, nơi đó họ không bị nhìn thấy. Nhưng Chúa Giêsu
đã dạy chúng ta rằng chúng ta phải chiếu sáng sự tốt lành của chúng ta trên
những người có nhu cầu để họ không bị quên lãng, tiên tri Isaia đã giúp chúng
ta hiểu những gì Chúa Giêsu muốn nói bằng việc nói với chúng ta: "Nếu các
người rời khỏi nơi áp bức, sự kết án gian dối và những bài giảng ác tâm, nếu
các ngươi cho những kẻ đó bánh ăn, an ủi những kẻ ưu phiền, thì ánh sáng sẽ
bùng lên ngay giữa nơi tối tăm của các ngươi".
Chúng ta có thể cần tự nhủ phải trở lại
với lối suy nghĩ của người Công Giáo và hành động theo Đức Kitô, những người mà
niềm vui hay những đau thương, nhu cầu và những lo âu của họ trong thời đại
này, đặc biệt là của những người nghèo khó hoặc những người đau khổ là những
người có liên quan đến chúng ta.
Thật ra, tất cả chúng ta đều có những
nhu cầu lớn lao, không có mức độ tài chánh nào có thể đáp ứng cho đủ cả. Chúng
ta cần Thiên Chúa và ân sủng của Người. Thiên Chúa không hề quay mặt đi khỏi
chúng ta. Người hằng nhìn xem chúng ta và đáp trả những lời cầu xin của chúng
ta cách quảng đại, đặc biệt là lời cầu trong Thánh Lễ. Người gọi chúng ta ra
khỏi tình trạng không nhà của thế giới trần tục để vào trong nhà của Người là
Giáo Hội. Ở đây, Người tiếp đón chúng ta bằng những lời êm dịu và yêu thương
trong Thánh Kinh, nuôi dưỡng chúng ta bằng Thịt và Máu Con của Người. Có phải
chúng ta xứng đáng với tất cả chuyện đó chứ? Chúng ta làm gì để xứng đáng với
điều đó? Chắc chắn những hồng ân quảng đại của Thiên Chúa hằng ban xuống trên
chúng ta, sẽ khiến chúng ta đi theo sự hướng dẫn của Đức Thánh Cha và làm cho
những nhu cầu của tha nhân thật sự trở nên của chính mình.
11. Ánh sáng và bóng tối
Ngày kia, các môn đệ của thầy Haxiđich
bên Ấn Độ đến than phiền với thầy về ảnh hưởng xấu của ma quỷ trên thế gian. Họ
hỏi thầy phải làm thế nào để có thể xua đuổi ma quỷ?
Thầy Haxiđich đề nghị trước hết hãy lấy
chổi bắt đầu quét bóng tối khỏi căn phòng nhỏ dưới hầm. Các môn sinh ngạc nhiên
trước lời dạy bảo đó. Nhưng họ cũng đành lòng vâng theo.
Sau nhiều giờ mệt nhoài, mồ hôi nhễ
nhãi, nhưng họ vẫn không đuổi được bóng tối ra khỏi căn phòng nhỏ.
Thầy Haxiđich bảo các môn sinh lấy gậy
đập bóng tối để đuổi ma quỷ ra khỏi phòng. Nhưng vẫn uổng công vô ích. Lần thứ
ba, thầy bảo các môn sinh hãy xuống hầm gào thét nguyền rủa bóng tối. Họ đã
khan cổ, mất tiếng mà vẫn không sáng thêm được chút nào.
Sau cùng thầy bảo các môn sinh:
- Hỡi các con, mỗi người trong các con
hãy đương đầu với thách đố của bóng tối bằng cách đốt lên một cây nến.
Họ thi hành theo lời thầy. Và kìa, lập
tức bóng tối đã bị đuổi đi. căn hầm tối tăm lạnh lẽo bỗng trở nên sáng rực và
ấm cúng.
Anh chị em thân mến,
Văn sĩ Locke, người Anh, cũng nói:
"Thà bật lên một que diêm còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối". Và trong
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã khẳng định: "Chính anh em là muối cho đời,
là ánh sáng cho người".
Bóng tối của tà thần vây phủ khắp nơi
bằng nhiều hình thức: gian dối, hận thù, chiến tranh, bất công, bóc lột, tệ nạn
xã hội, sách báo tranh ảnh đồi truỵ... Người ta đã tốn biết bao công sức, đổ
biết bao mồ hôi, đã quá mệt mỏi. Tất cả hầu như đã không được gì. Bóng tối vẫn
là bóng tối vây phủ con người. Ngoài ánh sáng ra, có gì xua đuổi được bóng tối?
Nỗ lực trong bóng tối thì bóng tối vẫn cứ tối mãi. Cần phải khơi dậy nguồn
sáng. Mỗi con người là một cây đèn, cần phải được thắp sáng lên. Mỗi người cần
phải tự mình thắp sáng lên cây đèn của mình. Một ngọn đèn cháy sáng, rồi hai,
rồi ba, rồi hàng trăm, hàng ngàn ngọn đèn cháy sáng, thế giới tối tăm này sẽ
bớt tối đi. Tất cả mọi người đều thắp sáng ngọn đèn của mình, cuộc đời này sẽ
sáng rực lên nguồn sống mới, vui tươi và ấm cúng biết chừng nào?
Tuy nhiên, thưa anh chị em, có người đã
tự hỏi: "Tại sao tôi lại phải là muối cho đời và ánh sáng cho
người?". Tôi chỉ muốn sống bình thường như mọi người, muốn đi lẫn vào đám
đông chứ không muốn đi đầu như một người lãnh đạo. Tôi không muốn chơi nổi,
không muốn chường mặt ra cho mọi người nhìn vào như ngọn đèn trên giá hay ngọn
đèn đường trên cao nơi góc phố. Trở thành muối, thành ánh sáng có lẽ là nhiệm
vụ của linh mục, tu sĩ hãy một số người đặc biệt nào đó chứ không phải là tôi.
Chúng ta được quyền tự hỏi như thế khi
ý thức mình chỉ là con người tội lỗi, yếu đuối như mọi người. Nhưng Chúa Giêsu
hôm nay không muốn chúng ta từ chối nhiệm vụ này, khi Ngài nói: "Chính anh
em là muối cho đời, là ánh sáng cho người". Người Kitô hữu là muối cho
đời, là ánh sáng cho trần gian, không có nghĩa là phải có thái độ cha chú, lên
mặt dạy đời, tự phụ phô trương quảng cáo như kiểu bọn Biệt phái Pharisêu giả
hình. Trái lại, là muối, là ánh sáng, người Kitô hữu phải có cung cách khiêm
tốn, tan biến, lắng chìm giữa lòng đời, như hạt muối thấm vào thức ăn, như ánh
sáng chan hoà trong không khí, và có như thế thì món ăn mới thêm đậm đà, không
gian mới xinh đẹp, tươi vui.
Lẽ tất nhiên, muối phải luôn mặn từ bên
trong, và đèn phải chiếu sáng từ trên cao. Bằng không, chúng sẽ trở thành đồ vô
dụng, đồ phế thải, bỏ đi... Vậy, người Kitô hữu phải luôn sống đức tin của
mình, phải thực thi Tin Mừng của Chúa Kitô ngay giữa các môi trường mình đang
sinh sống hằng ngày. Trái lại, nếu sống bê tha, bất công, gian ác, thì sẽ trở
thành bóng tối, sẽ bôi nhọ khuôn mặt của Chúa Kitô, của Giáo Hội: Muối đã biến
chất, nhạt nhẽo, vô vị. Đèn đã cạn dầu, tắt ngúm, đứt bóng, còn ích gì?
Ngôn sứ Isaia trong Bài đọc 1 hôm nay
đã kê khai cách tỉ mỉ những việc cần làm để cho "ánh sáng chúng ta bừng
lên trong bóng tối và bóng tối sẽ trở thành như giữa ban ngày", đó là hãy
chia cơm, sẻ áo cho người đói rách, tiếp nhận người không cửa không nhà. Đó là
loại bỏ những xiềng xích bất công, cử chỉ hăm doạ, lời nói xấu (x. Bài đọc 1).
Chúa đã ban cho chúng ta thời giờ, sức lực và phương tiện đủ để chúng ta ướp
mặn và soi sáng, nhưng nhiều người chúng ta bỏ quên, không sử dụng những ân huệ
này.
Anh chị em thân mến, hơn ai hết, Kitô
hữu chúng ta phải là những cây đèn đặt trên giá đèn để xua tan bóng tối và
chiếu sáng cả nhà. Căn nhà thế giới, căn nhà Giáo Hội, căn nhà của mỗi gia đình
chúng ta cần thứ ánh sáng ấy biết bao!
Là môn đệ chân chính của Chúa Kitô,
chúng ta không thể quên lời Ngài đã quả quyết: "Chính anh em là muối cho
đời, là ánh sáng cho người". Xác tín vào Lời Chúa, chúng ta sẽ gắng công
dùng mọi khả năng tự nhiên và siêu nhiên Chúa ban để ướp mặn đời, để toả sáng
cho mọi người bằng một cuộc sống thánh thiện xứng đáng với tư cách là những
người con của Cha trên trời.
Nếu mỗi người chúng ta đều thấm nhập
chất mặn của Tin Mừng và phản chiếu ánh sáng của Chúa Kitô, thì thế giới này
làm sao còn bóng tối, cuộc đời này làm sao không rực sáng lên hy vọng và nguồn
vui sống? Được Lời Chúa soi sáng, được Thánh Thể bồi dưỡng, chúng ta hãy sống
gắn bó với Chúa, thấm nhập tinh thần của Ngài để rồi hoàn thành sứ mạng Chúa đã
trao phó cho chúng ta hôm nay, đó là làm muối cho đời, làm ánh sáng cho người.
12. Ướp mặn đời và toả sáng trần gian
Chúa Giêsu đưa ra hai hình ảnh để định
nghĩa cho Đời Sống Tông Đồ, đời sống Kitô-hữu. Là một Kitô-hữu, tôi phải sống
thế nào? Chúa Giêsu dạy tôi: "Chính con là muối cho đời, là ánh sáng cho
trần gian".
Muối là một loại vật chất khá cần thiết
cho mọi người trong nhiều lãnh vực. Muối bảo quản thức ăn, cũng là gia vị cho
thức ăn - thức uống. Muối còn được dùng để trị bệnh: đắp vào chỗ trặc gân, bong
gân; muối sát trùng, để giúp tiêu hóa, để lưu giữ và chuyển tải I-ốt, ngăn ngừa
bệnh tật... Muối cũng có nhiều công dụng khác nữa, kể cả cho các loài động và
thực vật.
Nhờ vào tính chất nào của muối mà nó
hữu ích cho cuộc sống chúng ta như vậy? Chắc chắn câu trả lời - ai cũng biết -
là vị mặn của muối. Nhưng giả như muối mà không mặn, thì chắc là không còn hữu
dụng nữa. Những viên muối không mặn, người ta không đem ướp cá mắm gì được,
không sát trùng được, không làm phân được,... và có thể nói: người ta cũng
không muốn trải trên đường đi? vì giẫm lên làm đau chân.
Như vậy, bản chất của muối là mặn. Cũng
thế, bản chất của người môn đệ Chúa Kitô là rao giảng Tin Mừng, là con cái
Thiên Chúa, là giữ gìn cho thế gian khỏi phải hư đi.
"Cá không ăn muối - cá ươn"
"Con cãi cha mẹ - trăm đường con hư"
Thế gian không sống Tông Đồ, không sống
đời Kitô hữu, thế gian phải chết!
Tôi là một Kitô hữu, vậy tôi phải có
"vị mặn Kitô". Nếu tôi không có "vị mặn Kitô" thì tôi không
giúp gì cho thế gian cả. Lạy Chúa, xin Chúa hãy "ướp" con bằng chính
cái bản chất Kitô của Chúa, xin cho con luôn được kết hiệp mật thiết với Chúa
Kitô trong tư tưởng, lời nói, việc làm - để con thực sự là môn đệ của Chúa, là
muối cho đời.
Ánh sáng. Là một loại vật chất mà nhờ
nó, người nhận thấy các sự vật xung quanh mình. Ở những nơi tối, người ta càng
cần đến ánh sáng và càng nhận thức rằng ánh sáng rất cần cho cuộc sống. Có thể
nói: không có ánh sáng - không thể có sự sống. Ngày thứ nhất trong công trình
sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên ánh sáng trước hết.
Khi có ánh sáng, người ta không thể che
giấu được vật gì, tốt cũng như xấu. Để diễn tả điều này, Chúa Giêsu nói:
"Một thành phố xây dựng trên núi, không tài nào che giấu được". Một
sự kiện lớn khi được ánh sáng chiếu vào, thì không ai là không thấy. Ơn Cứu Độ
của Chúa phổ quát, sức sống của Hội Thánh mãnh liệt như vậy, không thể không được
mọi người biết đến.
Chúa Giêsu chính là ánh sáng cho muôn
dân (Lễ Nến vừa qua, ngày 2.2) đã tác động vào Hội Thánh, làm cho Hội Thánh
cũng trở nên ánh sáng cho muôn dân; Chúa nói: "Chính các con là ánh sáng
cho trần gian". Cũng như "hữu xạ tự nhiên hương", Chúa đã thắp
sáng trần gian bằng chiếc đèn Hội Thánh, thì lẽ đương nhiên trần gian nhờ Hội
Thánh mà thấy được Ơn Cứu Độ cho mình, nhờ Hội Thánh mà phân biệt tốt xấu, mà
nhận biết việc phải làm, nhận biết con đường dẫn tới hạnh phúc viên mãn.
Chúa Giêsu dùng sự kiện thắp đèn để
khẳng định điều này: "Không ai thắp đèn rồi lấy thúng úp lại". Chúa
muốn chúng ta, những Kitô hữu hãy sống như con cái sự sáng, hãy tỏa ánh sáng
Chúa Kitô, tỏa hương thơm tốt lành là những việc thiện để người đời nhận biết
Chúa Kitô, Ánh Sáng của Muôn Dân và Đấng Cứu Độ duy nhất của trần gian.
Cuối cùng, với câu nói định nghĩa của
Chúa Giêsu: "Chính anh em là muối cho đời, chính anh em là ánh sáng cho
trần gian", chúng ta đã biết Chúa muốn nói với chúng ta rằng: Hãy dùng đời
sống mình mà sinh lợi Nước Trời cho trần gian. Mỗi người chúng ta có một hoàn
cảnh sinh sống khác nhau, hãy dùng nó để phục vụ anh em đón nhận Tin Mừng. Xin
được mượn lời bài hát "Tâm tình hiến dâng" của cha Oanh Sông Lam để
cảm tạ Chúa và quyết tâm sống như người môn đệ Chúa Kitô.
"Biết lấy gì cảm mến, biết lấy chi
báo đền, hồng ân Chúa cao vời Chúa đã làm cho con.
Thương con tự ngàn xưa, một tình yêu
chan chứa, và chọn con đi làm đuốc sáng chiếu soi trần gian. Cho con say tình
mến, và này con xin đến: một đời trung trinh làm muối đất ướp cho mặn đời.
Trao cho con Lời Chúa, dù đời con hoen
úa, nguyện đời con đem Lời Chân lý đền cho mọi nơi. Ra đi đầy nguyện ước, và
này con gieo bước, nguyện đời con đem nguồn yêu mến đến cho mọi người..."
13. Muối
Mahatma Gandhi (1869-1948), vị thánh
của những người Ấn giáo, đã đấu tranh giành lại độc lập và tự do cho Ấn Độ bằng
đường lối ôn hòa bất bạo động, đã nói: "Nếu tôi đã hân hạnh gặp được một
người nào là Kitô hữu chân thực, có lẽ tôi đã trở nên một người Kitô hữu ngay lập
tức". Nếu mẹ Têrêsa đã sống vào thời Gandhi, ông đã trông thấy mẹ ở thành
phố Calcutta, và có lẽ ông đã trở thành một người Công giáo. Một vị thánh giống
như Mẹ Têrêsa là một người có đời sống làm cho người khác phải tin vào Thiên
Chúa. Chính mẹ Têrêsa đã sống và đã định nghĩa: "Kitô hữu là người trao
ban chính bản thân mình".
Hôm nay trong bài Phúc âm, vai trò của
người Kitô hữu trên trần thế được Chúa Giêsu định nghĩa bởi hai tiếng: Muối và
Ánh sáng. "Các con là muối đất cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì
muối nó cho mặn lại?... Các con là ánh sáng cho trần gian, một thành xây trên
núi không tài nào giấu được".
Theo William Barclay, khi Chúa Giêsu
nói: "Các con là muối cho đời", Ngài đã sử dụng một lối diễn tả đặc
biệt bằng cách ca ngợi sự vĩ đại nhất dành cho một con người. Đó là nhấn mạnh
đến sự hữu ích và phẩm giá của một người. Thời xưa muối rất có giá trị. Người
Hy Lạp coi muối như thần linh. Trong một câu ngạn ngữ bằng tiếng Latinh, người
Lamã đã nói: "Nil utilius sole et sale" – "Không có gì hữu ích
hơn là mặt trời và muối". Trong thời Chúa Giêsu, muối được nối kết với ba
đức tính cao quí của con người: sự thanh khiết, bảo trì, và khẩu vị.
Người Lamã nghĩ rằng muối là vật thanh
khiết vì nó đến từ sự thanh khiết nhất đó là mặt trời và biển cả. Do đó muối là
của lễ đầu tiên được dâng cúng cho các thần, và khi kết thúc một ngày, những lễ
vật của người Do Thái được dâng lên với muối. Nếu người Kitô hữu là muối, ắt
hẳn phải là một gương mẫu của sự thanh khiết.
Thời cổ xưa, muối là một phương tiện
phổ thông nhất để giữ cho đồ ăn khỏi bị hư thối. Plutarch đã dùng một lối diễn
tả lạ lùng khi nói rằng thịt là một xác chết. Xác chết đó sẽ thối, nếu để nó y
như vậy. Nhưng muối bảo trì và giữ nó tươi. Do đó muối giống như một linh hồn
mới được đưa vào trong một thân xác đã chết. Muối giữ cho thịt khỏi bị mục rữa.
Nếu người Kitô hữu là muối, ắt hẳn phải có một ảnh hưởng chống lại những điều
độc hại giống như vi trùng trong cuộc sống.
Nhưng đặc tính vĩ đại và hiển nhiên
nhất của muối là làm cho món ăn đậm đà và ngon miệng. Đồ ăn thiếu muối sẽ trở
nên nhạt nhẽo. Giống như muối làm cho lương thực trở nên ngon, người Kitô hữu
cũng tạo nên khẩu vị thơm ngon cho cuộc đời.
Thế nhưng điều trái ngược đã xảy ra
trong lịch sử. Người ta đã đổ lỗi cho Kitô giáo đã làm mất hương vị của cuộc
sống. Ngay sau khi hoàng đế Constantine trở lại đạo và biến Kitô giáo thành tôn
giáo của đế quốc Lamã, đến thời hoàng đế Julian lên ngôi, ông lại muốn đưa các
thần linh xưa kia trở lại, và phàn nàn rằng: "Các bạn có nhìn kỹ vào những
người Kitô hữu này chưa? Con mắt lõm sâu, đôi má tái mét nhợt nhạt, bộ ngực xẹp
lép; chúng ủ ê một cuộc sống vô hồn, chẳng ồn ào tham vọng: mặt trời chiếu rọi
cho họ, nhưng họ không nhìn thấy; trái đất cống hiến đầy đủ cho họ, nhưng họ
chẳng ước muốn gì; tất cả những điều mong muốn của họ là từ bỏ mọi sự và chấp
nhận đau khổ cho đến chết".
Thực ra không phải vì Kitô giáo đã trở
nên bi quan yếm thế, làm mất đi sự sinh động của cuộc đời, nhưng bởi hoàng đế
Julian quá dính bén với cuộc sống trần thế vật chất này và đã trở nên sa đọa!
Theo các nhà chú giải Thánh Kinh, người
Do Thái dùng muối được lấy ra từ hai nguồn cung cấp. Một là từ các bờ biển sản
xuất muối có chất lượng cao cho việc nấu nướng đồ ăn, gọi là muối biển. Người
đầu bếp chỉ việc ném cục muối to vào nồi đồ ăn, rồi nếm thử, nếu đã vừa miệng
thì lấy cục muối ra. Nó có thể được sử dụng vài lần, từ từ sẽ trở nên lạt, và
giảm dần sự mặn mà.
Nguồn cung cấp muối thứ hai đến từ Biển
Chết – biển mặn nhất trên trái đất. Nhưng muối lấy từ Biển Chết có pha trộn
nhiều khoáng chất hỗn hợp khác. Khi phần muối đã tan ra, nó không còn là cục
muối nữa, mà chỉ là một cục khoáng chất vô dụng. Sau cùng chỉ ném ra ngoài
đường "cho người ta chà đạp dưới chân".
14. Ánh sáng
Chúa Giêsu dùng một hình ảnh cụ thể
khác để nói về vai trò của các môn đệ: "Các con là ánh sáng cho trần
gian". Ở một chỗ khác, Chúa Giêsu nói về chính Ngài rằng: "Ta là ánh
sáng thế gian". Vậy ai là ánh sáng thế gian, Chúa Giêsu hay các môn đệ?
Điều có vẻ mâu thuẫn này được giải
quyết khi Chúa Giêsu nói về chính mình như sau: "Bao lâu Thầy còn ở thế
gian, Thầy là ánh sáng thế gian". Bao lâu thân xác Ngài còn đang hiện diện
nơi trần thế, chính Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng khi cuộc đời trần thế của
Ngài không còn nữa, các môn đệ của Ngài phải đóng vai trò ánh sáng thế gian. Vì
họ đã được hấp thụ bởi chính nguồn ánh sáng là Đức Kitô, nên phải phản ảnh lại
ánh sáng đó.
Xưa kia, có một người đàn ông mua được
một hộp nữ trang mà người bán hàng hứa rằng nó sẽ chiếu sáng lóng lánh trong
đêm tối. Đêm đó ông đặt hộp nữ trang trên bàn và bật đèn sáng lên xem. Nhưng
quá thất vọng vì hộp nữ trang đã không chiếu tỏa ra ánh sáng trong đêm tối như
người bán hàng đã hứa. Tình cờ vợ của ông nghe biết được câu chuyện. Ngày hôm
sau, bà đặt hộp nữ trang dưới ánh sáng mặt trời, đến tối nó tỏa ra ánh sáng
lung linh rực rỡ. Thấy thế bà vợ mới cắt nghĩa cho chồng như sau: "Anh đã
quên làm theo những lời hướng dẫn trong cái hộp này: "Hãy đặt tôi dưới ánh
mặt trời ban ngày, và ban đêm tôi sẽ chiếu ánh sáng cho bạn". Hộp nữ trang
đó đã không tỏa ra ánh sáng vì nó đã không hấp thụ được ánh mặt trời ban ngày.
Nó phải nhận được ánh sáng thì mới phát ra ánh sáng được.
Trong bài đọc thứ 2, thánh Phaolô chỉ
cho chúng ta nơi chốn để lấy được năng lực và sản xuất ánh sáng. Đó là từ thập giá
của Đức Kitô. Thánh Phaolô nói rõ ràng là nhiều vị giảng thuyết tài ba đã đến
với dân thành Côrintô, kẻ thì dựa trên học vấn lỗi lạc, người thì dựa vào tài
hùng biện, ăn nói khéo léo, kẻ khác dựa trên các đức tính cá nhân của họ. Còn
ngài, thánh Phaolô đã dựa trên: "Tôi xác định rằng hồi còn ở với anh em,
tôi đã không rao giảng điều gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà chính Ngài đã chịu
đóng đinh vào thập giá".
Ngày chịu phép rửa tội, mỗi người chúng
ta đã đón nhận cây nến được đốt lên từ ánh sáng Chúa Kitô. Qua lời hứa của cha
mẹ đỡ đầu, chúng ta chấp nhận phản chiếu ánh sáng Chúa Kitô đó bằng chính đời
sống Kitô hữu của mình. Ánh sáng của cây nến là biểu tượng của đức tin trong
đời sống Kitô hữu.
Sách Giáo lý Công giáo số 1216 xác định
rằng: "Trong phép Rửa tội, người được rửa tội nhận lấy Ngôi Lời là
"ánh sáng đích thực soi sáng mọi người", và "sau khi được soi
sáng như thế", họ trở nên "con của sự sáng" và chính bãn thân họ
là "ánh sáng".
Công đồng Vatican II khuyên như sau:
"Người giáo dân có rất nhiều cơ hội làm việc tông đồ: rao giảng Phúc âm và
thánh hóa. Chính chứng tá của đời sống Kitô và những việc lành được làm với
tinh thần siêu nhiên có sức lôi kéo người ta đến đức tin và đến với Thiên Chúa,
vì Chúa phán: "Sự sáng của các con phải soi trước mắt người ta, như vậy để
họ xem thấy việc lành các con mà ngợi khen Cha các con ở trên trời".
Ước gì trong cuộc đời Kitô hữu, chúng
ta ý thức được vai trò làm muối và ánh sáng như lời Chúa dạy trong bài Phúc âm
hôm nay. Để chu toàn trách nhiệm này, xin Chúa "thắp sáng lên trong con
tình yêu của Chúa". Nếu không có tình yêu và ân sủng của Chúa, chúng ta
chẳng là gì cả.
15. Nhiệm vụ của người môn đệ
(Chú giải của Lm. FX. Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Bản văn đọc hôm nay nằm trong Bài Giảng
trên núi (ch. 5–7) và nói đến sứ mạng của người môn đệ "trong thế
gian". Bản văn được trực tiếp kết nối với các "Mối Phúc"
(5,3-12). Các câu 11-12 nói về bách hại chỉ là những câu nhắc lại c. 10 và
chuyển tiếp. Nhưng cụm từ "phúc thay anh em" cho phép ta móc với từ
"anh em" ở c. 13. Những người nhận bản văn này không phải là mộthạng
tín hữu đặc biệt, nhưng là các môn đệ đã được nói đến ở đầu chương (5,1) và
được ngỏ lời trực tiếp ở cc. 11-12. Cộng đoàn Kitô hữu được nhắc nhớ đến bổn
phận truyền giáo.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia làm hai phần:
1) Môn đệ Đức Giêsu là "muối cho
đời" (5,13);
2) Môn đệ Đức Giêsu là "ánh sáng
cho trần gian" (5,14-16).
3.- Vài điểm chú giải
- anh em là (13): Đức Giêsu nói trực
tiếp với các môn đệ Người, để xác định sứ mạng của họ. Đây không phải là mộtgợi
ý về mộtchiều hướng nên theo, nhưng là một khẳng định về tư cách, ơn gọi. Cũng
có thể thấy cụm từ này có liên với Xh 19,6 ("Còn các ngươi, các ngươi sẽ
là mộtvương quốc tư tế cho Ta và mộtdân tộc thánh"). Như Đức Chúa (Yhwh)
đã chọn dân Ngài giữa các dân nước và xác định tư cách của họ, Đức Giêsu cũng
đã chọn các môn đệ trong loài người và bây giờ xác định sứ mạng cho họ.
- muối cho đời... ánh sáng cho trần
gian (13.14): dịch sát là "muối của đất (gê)" và "ánh sáng của
thế gian/ trần gian (kosmos)". Vì "đất" được dùng song song với
"trần gian", nó không có nghĩa là đất bùn, đất bột, đất thịt, nhưng
là "trái đất", tương tự với "trần gian", "thế
gian". Cả hai từ "đất" và "trần gian" ở đây đều có
nghĩa là "toàn thể nhân loại", tức có mộttầm mức phổ quát.
- để họ thấy những công việc tốt đẹp
anh em làm (16): Dường như câu này mâu thuẫn với Mt 6,1-18 (nhất là với
cc.1-2.5.16)? Thật ra, các bản văn nêu ra hai lý do khác nhau: ở đây lý do là
vinh quang của Cha trên trời; trong 6,1-18, lý do là việc chúc tụng ngợi khen
cá nhân mà đương sự đi tìm để thỏa mãn tính khoe khoang của mình (x. 6,2-5).
Hai bản văn cũng nói đến hai cách thức xử sự khác nhau: ở đây, người môn đệ chỉ
đơn giản tỏ mình ra là môn đệ của Đức Kitô, là Kitô hữu; còn ở 6,1-18, Đức
Giêsu kết án sự khoe khoang người ta tỏ ra để lôi kéo sự chú ý của người khác.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Mối Phúc cuối cùng liên hệ đến những
người bị bách hại vì sống công chính (5,10). Chính Mối Phúc này được Đức Giêsu
lấy lại mà ngỏ trực tiếp với các môn đệ, là những người đang ở ngay bên Người,
và với đám đông đang nghe Người (5,1): "Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị
người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa" (5,11). Đức Giêsu đã
loan báo cho các môn đệ biết ngay từ đầu phản ứng tiêu cực của môi trường, nếu
họ sống trung thành với Người, nếu họ tìm sự công chính và quy hướng lối sống
của họ theo chương trình của Người. Họ phải trả lời thế nào? Ai cũng coi trọng
việc mình được chấp nhận và nhìn nhận. Phải chăng các môn đệ phải thích nghi
với môi trường của họ, để được môi trường chấp nhận? Phải chăng họ phải giới
hạn quan hệ với mộtvòng những người có cùng những ý tưởng như nhau, để khỏi gây
mâu thuẫn? Cho họ cũng như cho tất cả các Kitô hữu, hôm nay còn đang thường
xuyên bị cám dỗ từ chối chân tính của mình và tìm thích nghi, hoặc bị cám dỗ
rút lui vào đàng sau cánh cửa, Đức Giêsu giao cho nhiệm vụ làm muối cho đời và
ánh sáng cho trần gian. Nhờ đó, cho dù họ có bị sỉ nhục (5,11), họ vẫn đưa được
người ta đến chỗ tôn vinh Chúa Cha trên trời (5,16).
* Môn đệ Đức Giêsu là "muối cho
đời" (13)
Khi khẳng định rằng các môn đệ là
"muối cho đời", Đức Giêsu cho hiểu các môn đệ có sứ mạng truyền giáo.
Do ơn gọi, họ phải đóng mộtchức năng đối với những người khác tương tự muối đối
với các thức ăn (giữ cho khỏi hư thối, làm cho thêm hương vị). Không có muối,
thức ăn bị hư thối; không có người Kitô hữu, xã hội thiếu mất mộtsức mạnh
thiêng liêng và luân lý có khả năng gìn giữ xã hội khỏi những sự dữ đang muốn
xâm nhập vào. Do đó, sự hiện diện của người Kitô hữu không phải là không đáng
kể hoặc có hay không cũng vậy. Giống như muối, sự hiện diện của Kitô hữu không
thể thay thế. Không ai có thể đứng vào vị trí của họ nếu họ bị suy yếu đi. Tác
giả lưu ý và răn đe các Kitô hữu coi chừng kẻo mình trở nên nhạt nhẽo đi. Họ
cũng sẽ như muối, khi đã nhạt thì chỉ còn đáng loại bỏ (x. 5,22.29).
* Môn đệ Đức Giêsu là "ánh sáng
cho trần gian" (14-16)
Hình ảnh ánh sáng (cc. 14-15) là hình
ảnh của Kinh Thánh (x. Xh 3,2; Is 60,19; Is 42,6). Tác giả Gioan gán cho Đức
Giêsu chức năng mà ở đây Mt gán cho các môn đệ. Bóng tối, đêm tối, trong Cựu
Ước cũng như Tân Ước, là biểu tượng của các thế lực sự ác (x. Mt 8,12; Lc
22,53). Môn đệ Đức Kitô được thông dự vào sự sáng của Thiên Chúa, như Môsê khi
xuống núi có mang trên mặt phản ánh vẻ uy hùng của Thiên Chúa (Xh 34,35). Không
thể có chuyện Kitô hữu đi qua mà không ai biết; không ai có thể dửng dưng trước
ánh huy hoàng thiêng liêng mà Kitô hữu đang tỏa ra. Giống như ánh sáng, Kitô
hữu đi vào những nơi sâu thẳm nhất và kín ẩn nhất của trái tim con người và đưa
ra ánh sáng những lỗ hổng mà ta gặp trong đó.
Lời khẳng định được minh giải bằng hai
hình ảnh (c. 15). "Thành xây trên núi" có thể gợi ý đến Giêrusalem
thiên sai, là điểm thu hút tất cả các dân tộc (x. Is 2,2-5; 60,1-2.19-20). Các
Kitô hữu tháp vào trong thế gian như mộtnguồn ánh sáng từ đó mọi người có thể
nhận được sự nâng đỡ và định hướng. "Thành xây trên núi" nêu bật tính
khả thị (thấy được), điểm quy chiếu là chính tư cách của Họi Thánh Đức Kitô cho
tất cả mọi người. Hình ảnh này được nhắc lại bằng hình ảnh cái đèn đặt trên đế.
Căn phòng trong đó gia đình và bạn bè quy tụ lại trở nên sinh động nhờ ánh sáng
của đèn. Hai hình ảnh này cũng có thể được áp dụng cho từng người môn đệ. Do ơn
gọi, người môn đệ phải thông chia ánh sáng cho người khác. Họ không được thiếu
ánh sáng, và càng không được thiếu trách nhiệm vì không tạo được mộtảnh hưởng
tốt nào trong cộng đoàn. Ánh sáng đây không phải là ánh sáng của các lời nói,
cũng chẳng phải là ánh sáng của chân lý lý thuyết, nhưng là ánh sáng của
"các việc tốt", như Đức Giêsu đã đề cập đến (4,23-25) và đã làm
(5,3-11) và sẽ còn nhắc đến (7,23; 25,31-46) trong các diễn từ của Người.
Khi đó người ta nhận ra rằng những ân
huệ người môn đệ đang có phát xuất từ Thiên Chúa; họ sẽ chúc tụng ngợi khen
Ngài. Điều này không có nghĩa là Thiên Chúa đòi hỏi con người hành động để tán
dương Ngài, khi mà ta thấy là hoạt động cứu độ của Đức Kitô chứng tỏ rằng mọi
sự là nhắm mưu ích cho những con cái Thiên Chúa "tuyển chọn" (x. Mt
5,44-48).
+ Kết luận
Từ bản chất của nhiệm vụ được ký thác
cho họ, các môn đệ phải là như ánh sáng và muối cho người khác. Bởi vì nhiệm vụ
của họ là thúc bách và lôi cuốn, họ phải ở trước mặt người ta, chứ không tránh
né. Bởi vì bổn phận của họ là đưa đến mộtcái hoàn toàn mới, họ phải duy trì
chân tính của họ, chứ không được tự đồng hóa với môi trường của họ. Chính các
"việc tốt" giúp cho môn đệ sống đúng tư cách muối và ánh sáng.
Đời sống của các môn đệ đi theo các
huấn thị của Đức Giêsu được coi như là mộtnhiệm vụ lớn. Không ai có thể thay
thế họ được; họ phải chịu trách nhiệm về sự kiện trần gian nhận được hương vị
và trở thành chan hòa ánh sáng. Xuyên qua đời sống họ, họ phải bày tỏ cách thức
hiện hữu của Thiên Chúa, họ phải truyền thông niềm vui của các đứa con với Chúa
Cha và chinh phục loài người về cho gia đình Ngài.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Muối tăng thêm hương vị; muối thấm
vào thực phẩm để giữ cho khỏi hư thối. Muối hòa tan ra, và được phân phối trong
tất cả khối lương thực. Muối có mặt khắp nơi trong khối lượng thực, nhưng muối
vẫn là muối, thì mới giữ được giá trị và tính hữu hiệu của mình. Giống như
muối, các môn đệ Đức Giêsu phải hiện diện trong môi trường và liên kết với môi
trường. Nhưng họ phải cứ là muối, phải bảo toàn được cách cách thức sống của
Cha họ (5,48). Muối không phải là mộtviên ngọc, mộtnén bạc phải được cất giữ
hoặc đưa ra mà làm cho sinh lãi, nhưng là mộtchất gia vị. Nó sinh tác dụng khi
nó chấp nhận "tự hủy" đi, hòa tan vào thực phẩm. Kitô hữu là muối cho
đời, bởi vì người ấy không được kêu gọi đi vào mộtcuộc sống tách biệt, xa rời
những người khác, nhưng bởi vì người ấy biết tan biến mình đi trong đại gia
đình nhân loại để hỗ trợ bất cứ ai cần. Hình ảnh muối chống lại mọi thứ tinh
thần phân lập (separatism) kiểu Pharisêu và gợi đến dụ ngôn men vui trong bột
(13,23). Kitô hữu không những là người của những người khác, mà còn được gọi
sống với những người khác, theo chiều hướng của Đức Kitô (bạn của người tội lỗi
và thu thuế: 11,19).
2. Hình ảnh của ánh sáng đi song song
với hình ảnh muối, vì ánh sáng cũng ảnh hưởng trên cuộc sống của con người.
Không có ánh sáng, thì không thể có sự sống; mọi sự chìm vào trong bóng tối và
trở nên hỗn độn (x. St 1,1). Như thế, trách nhiệm của người Kitô hữu là không
thể lường được. Nếu sự dữ không lui đi, là vì ánh sáng phải đánh đuổi sự dữ đi
lại quá yếu hoặc tệ hại hơn nữa, lại tắt mất rồi!
3. Các môn đệ của Đức Giêsu phải đói
khát sự công chính, đói khát lối xử sự công chính (5,6), và đó là mối quan tâm
đầu tiên của họ. Cách xử sự này là hình thức căn bản qua đó họ làm chứng về
Thiên Chúa Cha. Xuyên qua lối xử sự của họ, các môn đệ phải đưa loài người đến
chỗ quan tâm, suy nghĩ và tự hỏi, sao cho cuối cùng loài người cũng hòa với họ
trong việc ca ngợi Thiên Chúa. Vậy các môn đệ phải bắt chước cách xử sự của
Chúa Cha. Chỉ như thế thì qua lối sống của họ, bản chất của Chúa Cha mới được
mạc khải ra và nhận biết. Nhờ những người sống như là con của Ngài, Thiên Chúa
muốn được nhìn nhận như là Cha nhân lành và lôi kéo càng ngày càng nhiều người
đến với Ngài.
4. Các môn đệ Đức Giêsu phải là mộtđiểm
quy chiếu và là ánh sáng, làm cho mỗi sự vật xuất hiện ra trong bộ mặt thật của
nó và trong giá trị thật của nó. Do đó, họ phải ở vào mộtvị trí dễ thấy. Kitô
hữu không được quên và càng không được cắt đứt sự thông truyền các ân ban mình
đang có cho kẻ khác. Họ không được chạy lung tung để tìm người theo phe mình.
Họ cũng không được rút lui vào tình trạng vô danh hoặc náu mình vào trong đám
đông. Chỉ khi họ có thể thấy được, chứ không đi trốn hoặc đi ngụy trang, thì
nhờ họ, Thiên Chúa mới có thể được nhận biết như là Cha nhân lành. Chỉ có lòng
nhân ái, lòng tốt, tình yêu, tinh thần phục vụ mới có thể trở thành ánh sáng
cho người khác.
5. Môn đệ Đức Kitô phải là mộtngọn đèn
đặt trên đế để soi chiếu cho mọi người trong nhà. Ở vào vị trí sao cho người ta
thấy được mình thì hoàn toàn khác với việc tìm cách khoe mình (x. 6,1-18) vì
những động lực khác. Chúng ta phải cho thấy các việc tốt đã làm không phải để
được người ta khen ngợi (6,2), nhưng để cho nhờ ta trung thành sống bản tính
con Thiên Chúa trước mắt người khác, Thiên Chúa được khen ngợi (5,16).
16. Chú giải của Noel Quession
Bài giảng trên Núi đã bắt đầu từ Chúa
nhật vừa qua bởi các mối Phúc thật sẽ được tiếp tục trong năm Chúa nhật.
Matthêu đã tập họp ở đây những lời dạy của Đức Giêsu mà Maccô và Luca đã đặt
vào những bối cảnh khác. Đó là dấu chỉ người ta có thể đưa ra những lời giải
thích khác nhau. Những lời dạy của Đức Giêsu thường khá mở rộng để đón nhận
nhiều ý nghĩa khác nhau.
"Chính anh em là muối cho
đời"
Đức Giêsu nói với những người sống theo
các mối phúc Người nghèo khó, người hiền lành, người xây dựng Hoà bình, người
bị bách hại.. "chính anh em là muối cho Đời. Hình ảnh này gợi cảm và rất
cởi mở, có thể đón nhận nhiều ý nghĩa bổ sung. Vào thời của Đức Giêsu, muối
dùng để làm cho đất màu mỡ, dĩ nhiên có trộn với phân bón... Như một loại phân
bón để mùa màng được tươi tốt. Ngày hôm nay, muối luôn luôn dùng để bảo quản
thực phẩm... nó ngăn cản hoặc làm chậm lại sự phân hủy. Nhưng vai trò thông
thường nhất của muối là đem lại hương vị: có muối, ngon đấy... không có muối,
tất cả thành nhạt nhẽo.
Đức tin dùng để làm gì? Liệu tin vào
Đức Giêsu và sống các mối Phúc thật có thay đổi gì không? Đức Giêsu trả lời:
"Đem lại hương vị cho đời?"
Con người hiện đại, còn hơn cả con
người của các thời đại trước đây bị chìm ngập trong sự tầm thường và buồn chán
mỗi ngày: những cử chỉ máy móc và vô vị của công nhân làm việc theo dây
chuyền... những khuôn mặt nhợt nhạt dưới ánh sáng đèn những... những đồ vật
được tiêu chuẩn hóa 'bằng nhựa dẻo..." sự nhạt nhẽo trong rất nhiều câu
chuyện trao đổi thường ngày... sự cào bằng trước những ý thức hệ... Đời sống có
còn thú vị gì không? Nếu người ta nói nhiều về "chất lượng đời sống"
thì một cách chính xác chẳng phải người ta đã đánh mất chất lượng ấy hay sao?
Chính trong bối cảnh hiện tại này mà
NGÀY HÔM NAY Đức Giêsu lại nói với chúng ta: chính anh em là muối cho đời! Anh
em hãy đem niềm vui, sự táo bạo, nhiệt tình vào cái tầm thường mỗi ngày. Anh em
hãy đem ý nghĩa đến cho những thực tế, thông thường có nguy cơ trở thành nhạt
nhẽo. Anh em hãy đặt Nước Thiên Chúa vào trong các thực tế ấy. Anh em hãy thách
đố mọi chủ nghĩa vô thần hiện đại đã bắt đầu loại bỏ đi "khả đăng siêu
việt", tức là muối, của nhân loại... để rồi sau đó không ngừng tuyên bố
rằng đời sống là "phi lý" và không có ý nghĩa. Với Đức Giêsu mọi sự
đâu có thể mang một ý nghĩa, một "hương vị"; dù là sự đau khổ, sự
bách hại, cả cái già và cái chết, sự thất bại cũng xây dựng. Một nhà hiền triết
đã viết như thế. Rên rỉ để làm gì? Ai sẽ nói giá trị mầu nhiệm và huyền diệu
của thử thách đời sống trong sự hiệp thông với Đức Giêsu?
"Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy
cái gì muối cho nó mặn lại? nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra
ngoài cho người ta chà đạp thôi".
Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người
phải "chính thống" không trở thành nhạt nhẽo. Một Kitô hữu đã đánh
mất "mùi vị Thiên Chúa", mùi vị đích thực duy nhất sẽ trở thành vô
dụng "Tin Mừng chính là muối, và các bạn sẽ làm ra đường từ muối đó".
Paul Claudel đã cao rao như thế.
Đức Giêsu mạnh mẽ cảnh báo chúng ta:
sau một thời gian sống quảng đại và ác liệt, đức tin của chúng ta có thể bị
biến chất. Động từ mà chúng ta dịch là "nhạt đi" hay biến chất cũng
có nghĩa "trở nên mất trí"... đánh mất lương tri trở thành điên đại!
Theo nghĩa của Kinh Thánh...nghĩa là đánh mất. sự khôn ngoan mà đức tin vào
Thiên Chúa ban cho (Is 19,11). Thánh Phaolô cũng đồng hóa "muối" với
"sự khôn ngoan": "Anh em hãy ăn ở khôn ngoan. Lời nói của anh em
phải luôn luôn mặn mà dễ thương" (Cl 4, 5-6).
Nếu chúng ta trở nên quá vô vị, đó là
vì chúng ta đã để cho sức mạnh ăn mòn của muối trong Tin Mừng yếu đi trong đời
sống chúng ta. Nếu muối nhạt đi.. Tôi phải đối với giả thiết ấy cho tôi và đời
sống của riêng tôi. Nếu mọi Kitô hữu không còn là muối nữa thì người ấy trở nên
vô dụng, Người Kitô hữu "con tắc kè" chấp nhận mọi phương thức và mọi
tâm thức của thế gian, mặc lấy màu sắc của môi trường người ấy sống, và trở nên
vô dụng. "Tôi làm như vậy, bởi vì mọi người đều nghĩ như thế... bởi vì
khắp mọi nơi, người ta làm như thế"; chúng ta có đánh mất tất cả nhân cách
để theo lối sống tiêu thụ và duy vật không kìm chế không? Chúng ta có thủ lợi
từ những bất công xã hội không? chúng ta có để cho mình rơi vào thái độ không
hành đạo hoặc chủ nghĩa vô thần viện cớ rằng nhiều người làm như thế xung quanh
chúng ta?
Đối với những người trở nên vô vị, với
những Kitô hữu đang trở thành một chất thải màu sắc, không mùi vị, Đức Giêsu
nói: "Anh em phải khác với thế gian, nếu anh em muốn là muối cho thế
gian"..
Một yêu sách, đúng vậy. Nhưng trong một
sự khiêm nhường cao cả. Không phải vì người ta là Kitô hữu mà người ta tự động
là một con người cao siêu. Mỗi người chúng ta điều biết những giới hạn và những
tội lỗi của mình. Nhưng thứ muối mà chúng ta phải đem lại cho thế gian không
phải là lòng kiêu ngạo của các nhân đức cũng không phải sự cao siêu của chúng
ta mà chính là "điều ' Thiên Chúa đã làm trong chúng ta".
Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.
Cách nói bóng bẩy thứ hai này có cùng
một hình thức và ý nghĩa như cách nói đầu, nhưng còn cao cả hơn nữa! Phải là
"mặt trời" cho thế gian! Không có ánh sáng, sẽ không có màu sắc, vẻ
đẹp và sự sống nào cả. Đức Giêsu đã sống trong một xã hội tiền khoa học không
biết được nhiều điều, nhưng xã hội ấy gần gũi thiên nhiên hơn chúng ta và cũng
hiểu được nhiều điều hơn chúng ta về các thực tại sống. Giờ đây chúng ta, nhờ
khoa học mà biết rằng không có ánh sáng, không thể có sự sống. Thật vậy; mặt
trời là nguồn gốc duy nhất và cần thiết cho mọi năng lượng tồn tại trên hành
tinh chúng ta.
Không có sự quang hợp các chất diệp lục
trong cây cỏ thì cũng không thể có bất cứ đời sống sinh vật hoặc con người nào.
Không có mặt trời, sẽ không có than đá, dầu hỏa và điện năng... bởi vì không có
rừng và thủy triều, mặt trời là một hình ảnh đẹp nhất về Thiên Chúa: suối nguồn
của mọi sự sống! Từ khi thế giới được tạo dựng, một ánh sángtràn trề chiếu soi
mọi vật. "Hãy có ánh sáng!" (St 1,2)
Đức Chúa là ánh sáng và là sự cứu chuộc
của tôi" (Tv 27,1) "Tôi là ánh sáng của thế gian, Đức Giêsu đã nói:
"Anh em phải chiếu sáng, như những vì sao trên vòm trời" (Pl 2,15).
Trở thành ánh sáng của thế gian quả là một trách nhiệm to lớn.
Bản thân chúng ta rất ít tỏa sáng. Chớ
lấy đó mà sinh lòng kiêu ngạo.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con ánh
sáng của Chúa. Trong đạo Do Thái, chỉ có Luật của Môsê và Đền Giê-ru-sa-lem mới
được gọi là "ánh sáng". Chúng ta nhận thấy cuộc cách mạng phi thường
mà Đức Giêsu định thực hiện? Trước mặt Người là những con người hèn mọn, tật
nguyền, bệnh hoạn, những con người đau khổ bởi mọi thứ giày vò (Mt 4,23). Đó
không phải là những người đàn ông và đàn bà xuất chúng, nhưng là những, người
nghèo khổ, không có văn hóa và cũng không có ảnh hưởng. Những con người không
sùng đạo hơn những người khác, với đám đông đó, Đức Giêsu nói: "Chính anh
em là ánh sáng cho trần gian!". Chính họ không phải là "ánh
sáng" nhưng họ chỉ để ánh sáng xuyên qua và tỏa sáng qua họ đức tin mà họ
có trong Đức Giêsu. Đức Giêsu tạo ra cho Người ý tưởng kỳ diệu về nhân phẩm con
người khi người để cho Thiên Chúa phong chức cho mình!
Một thành xây trên núi khống tài nào
che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lại đặt bên dưới cái thùng,
nhưng đặt trên đế và nó soi sáng cho mọi người trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng
của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ"
Từ bờ Hồ Ti-bê-ri-a, người ta thấy
thành Safed, ở trên cao với cao độ hơn một ngàn mét, thành được xây trên những
núi nằm ngang của dãy núi Ga-li-lê, chiếu ánh sáng của nó ra xung quanh. Đức
Giêsu đã thoáng thấy những căn nhà màu trắng của thành được mặt trời chiếu
sáng. Trong căn nhà nhỏ của gia đình, Đức Giêsu cũng thường nhìn thấy Mẹ Người.
Đức Maria đốt đèn trong ngày Sa-bát. Một cái đèn khiêm tốn bằng đất nung nhưng
đủ để soi sáng "cả nhà" trong gian nhà duy nhất của những nhà người
nghèo ở Phương Đông. Hãy soi Sáng Đức Giêsu nói chúng ta hãy soi sáng.
Vấn đề ở đây không phải là sự phô
trương của chủ nghĩa đắc thắng, như ngày nay người ta nói. Vì sau đó, Đức Giêsu
sẽ khuyên chúng ta: "Khi làm việc lành phúc đức anh em phải coi chừng, chớ
có phô trương cho thiên hạ thấy" (Mt 6,1). Không phải chính chúng ta tự tôn
giá trị của mình như những cách phô trương của những người Pha-ri-sêu mà Đức
Giêsu từng đả kích (Mt 6, 1.6). Chỉ ánh sáng của Thiên Chúa mới có thể soi sáng
anh em chúng ta. Nhưng ánh sáng ấy muốn soi sáng thông qua chúng ta. "Quả
thật, xưa Thiên Chúa đã phán: ánh sáng hãy bừng lên từ nơi tối tăm! Người cũng
làm cho ánh sáng chiếu soi lòng trí chúng tôi, để tỏ bày cho thiên hạ được biết
vinh quang của Thiên Chúa sáng ngời trên gương mặt Đức Kitô. Nhưng kho tàng ấy,
chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi
thường phát xuất từ Thiên Chúa, chứ không phải từ chúng tôi". (2 Cr 4,
6-7).
"Ánh sáng của anh em phải chiếu
giải trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn
vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời".
Đây là lần đầu tiên trong Tin Mừng của
Matthêu. Chúng ta nghe Đức Giêsu nói về "Cha của anh em, Đấng ngự trên
trời". Đức Giêsu ở đây mạc khải một định hướng và trách nhiệm to lớn của
các Kitô hữu trong thế gian là phải trở thành "muối cho thế gian, mặt trời
của hoàn vũ... không không phải vì vinh quang của riêng mình. Vinh quang ấy
dùng để tôn vinh Thiên Chúa.
Đức Giêsu đã là một người hoàn toàn
tách ra khỏi trung tâm của bản thân mình và hoàn toàn hướng về Chúa Cha.
"Tôi không cần người đời tôn vinh", Đức Giêsu đã nói như thế (Ga
5,41)
Về phần chúng ta là những người tội
lỗi, rõ ràng nếu chúng ta có chút gì là "muối" và "ánh
sáng", điều đó chỉ do Chúa Cha mà đến. Nếu bạn mạnh khỏe, vui vẻ, quảng
đại và tự nhiên thanh khiết, đó là vinh quang của bạn và càng tốt cho bạn.
Nhưng nếu bạn là một người yếu đuối mà Thiên Chúa làm cho mạnh mẽ, một kẻ tội
lỗi mà Thiên Chúa cứu độ, một người. Ô uế mà Thiên Chúa không ngừng thanh
huyện, một người hay thù oán mà Chúa Cha đã dạy sự tha thứ, một người quan tật
sâu xa đến tiền bạc mà Thiên Chúa đã giải thoát khỏi mọi thứ của "cải của
mình. Nếu bạn là một trong số những người nghèo, khó ấy, đã thất bại nhiều
trong mọi thứ công việc mà vẫn hạnh phúc" bởi niềm vui của các mối phúc
thật... lúc đó, trường hợp của bạn có thể làm anh em của bạn quan tâm, bởi vì
sự khốn khổ của bạn cũng là của anh em bạn và chính họ, họ cũng có thể hy vọng
được cứu chữa. Khi nhìn thấy điều tốt lành mà bạn, một người rất yếu đuối đã
làm, họ có thể tôn vinh Cha của bạn, Đấng ngự trên trời.
17. Chú giải của Giáo Hoàng Học Viện Đà
Lạt
MUỐI CHO ĐỜI VÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN
CÂU HỎI GỢI Ý
1. Có lẽ các câu này là lời đả kích
đường lối bí truyền hoặc việc xa lánh thái quá thế gian (do ảnh hường của nhóm
Essêni). Các khuynh hướng ấy có phải là những cám dỗ thường xuyên của Kitô giáo
không? Ngày nay chúng đội hình thức nào?
2. Đâu là tầm quan trọng của muối trong
thế giới cổ xưa.. phải chăng nó có một ý nghĩa biểu trưng đặc biệt? Một công
dụng đặc biệt?
3. Vì sao một thành phải được ưu tiên
tọa lạc trên ngọn núi?
4. Đâu là ý nghĩa của chữ "ánh
sáng các con " trong thành ngữ "ánh sáng các con phải chói lọi trước
mặt mọi người?
5. Các câu này có tạo nên mối liên hệ
giữa người Kitô hữu và trách vụ truyền giáo của họ không? Mối liên hệ nào?
6. Người Kitô hữu là muối cho đời theo
nghĩa nào? (Xem Lv 2, 13).
7. Làm sao dung hòa các câu 14- 16 với
Mt 6, 1-18?
***
1. Trong thế giới cổ xưa, muối và ánh
sáng được xem như là hai thực tại chẳng ai có thể bỏ qua: không gì ích lợi hơn
muối và mặt trời (Pline trưởng lão, Htst. nst. 31, 102). Cả hai cũng thường
được nhắc đến trong Cựu ước.Muối là một sản phẩm cần thiết bậc nhất của dân
Bedouin (Ả Rập phiêu cư) (Hc 39, 26); nó tiêu hủy những cái gì xấu (2V 2, 19-
21; Đnl 29, 22; Tl 9, 45; Gr 17, 6; Xp 2, 9; G 39, 6) Nó nên thực phẩm (G 6, 6;
Cl 4, 6) và, vì là thứ gia vị chủ yếu của mọi bữa ăn và mọi hy tế (Xh 30, 35;
Lv 2, 13; Ed 43, 24), nên muối trở thành biểu hiệu của sự hiếu khách, của minh
ước và giao ước Lv 2, 3; Đnl 28, 69; Ed 4, 14). Sau hết nó là biểu tượng của sự
khôn ngoan (xem Phụng vụ Bí tích rửa tội - liên hệ với Ed 16,4) mà thỉnh thoảng
nó được nối kết với, trong lời giảng huấn của các giáo sĩ; bấy giờ nó chỉ sự
khôn ngoan hoàn hảo mà người hiền triết sẽ thủ đắc trong thời thiên sai.
2. Ánh sáng cũng năng được sử dụng như
là một biểu tượng trong Thánh kinh, nơi nó thường chỉ sự mặc khải cứu độ của
Thiên Chúa. Trong Isaia Đệ nhị, người Tôi tớ Giavê được công bố là" ánh
sáng muôn dân (49, 6); Israel cũng phải là ánh sáng cho dân ngoại (42, 6).
Trong sách các giáo sĩ, tước hiệu, "ánh sáng thế gian" được gán cho
Thiên Chúa, cho Ađam, cho Israel, cho lề luật, cho Đền thờ và cho Giêrusalem.
Trong Tân ước người ta xác quyết Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian" (Lc 2,
32; Ga 8, 12; 12, 35). Và theo gương Người, các môn đồ phải trở nên ánh sáng
của nhân loại (P 12, 15; so sánh với Ep 5, 8-14).
Kiểu nói trực tiếp trong Mt "Các
con là muối... là ánh sáng, được giải thích qua sự kiện dụ ngôn đi tiếp theo
Tám mối phúc thật. Nếu các môn đồ biết từ bỏ của cải, biết sống hiền lành khiêm
nhượng, nhân ái từ bi, can đảm trong thử thách, kiên quyết theo đuổi sự hoàn
thiện Kitô giáo, thì bấy giờ người ta mới có thể nói thực với họ: "Các vị
là muối cho đời và là ánh sáng cho thế gian". Phần tiếp của Diễn từ sẽ cụ
thể cho thấy cách thức của người môn đồ tự tỏ mình là muối, là ánh sáng.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
"Các con là": Thành ngữ có lẽ
mượn ở Xh 19, 6: "Các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế và là một dân thánh
cho Ta". Giavê đã nói với dân Ngài đã chọn giữa muôn dân. Chúa Giêsu ở đây
nói với môn đồ Người đã chọn giữa loài người. Như Giavê đã xác định ơn gọi của
tuyển dân, Chúa Giêsu cũng minh định sứ mệnh của các môn đồ Người.
"Muối cho đời ":
"Đời", ám chỉ loài người, là một từ ngữ quen thuộc với Cựu ước. Ở đây
"đời" song song với "thế gian" của câu 14. Người môn đồ
chẳng phải là muối của đất, vì không bao giờ muối được dùng như phân bón, nhưng
là muối cho đời cho thế gian. Ở đây Mt nhấn mạnh cốt để nói rằng
"muối" không chỉ cần thiết cho bản thân người môn đồ, như là một phẩm
chất nội tại, song còn cần thiết để chu toàn sứ mệnh của mình đối với nhân
loại. Do đó phẩm chất cấu thành môn đồ không thể tách rời khỏi chức vụ truyền
giáo của kẻ ấy. Đây là một nét nói lên chiều hướng phổ quát và truyền giáo mà
Mt thích dùng.
"Nếu muối ra lạt": Có thể
giải thích hai cách:
1. Hình ảnh dựa vào thứ muối dơ bẩn lấy
ở phía Tây-Nam Biển Chết thời Chúa Giêsu (trên bờ dốc Djebel-ousdeum). Loại
muối màu xanh lạt này, có pha trộn thạch cao và vôi, dễ biến thành bùn vô đụng
dưới tác dụng của ẩm ướt. Ta vần có thể gọi nó là muối, nhưng thực ra không
phải là muối nữa.
2. Đúng hơn, có lẽ Chúa Giêsu đã muốn
gợi lên một hình ảnh không thể có, để làm ta lưu tâm hơn đến tính cách nghịch
lý của một môn đồ đã đánh mất cái tạo nên chính bản chất môn đồ.
"Thì lấy gì muối nó lại": Phàm
kẻ phải trở nên nguyên nhân hoàn thiện cho bao người khác thì không thể nhận
lãnh từ họ cái mà y phải trao hiến cho họ. Nếu y đánh mất nhân đức, người khác
không thệ hoàn lại cho y.
"Nó không còn ích gì": Muối
nhạt chẳng lợi ích gì nữa, ngay cả làm phân bón. Người môn đồ cũng vậy. Đánh
mất sự cao quý của mình, kế đó trở nên đối tượng khinh khi, như thế mảng trong
mình một sự thối nát đặc biệt; tình yêu ngày trước của y đi dần tới chỗ tiêu
tán. Câu "Chỉ có việc đổ ra ngoài cho người ta dẫm đạp đi thôi " gợi
lên cảnh đường sá vương vãi rác rền cặn bã ở phương Đông ngay xứ. Đây là hình
ảnh nói lên việc kết án người môn đồ đã mất tinh thần của ơn gọi mình.
"Ánh sáng của thế gian": ánh
sáng của thế gian có nghĩa là cho thế gian, chứ không phải thuộc về thế gian
hay là bản chất của thế gian. "Một thành tọa lạc trên núi": đây là
hình ảnh của một xứ mà các thị trấn thôn làng thường được xây trên các cao điểm
(để có vị thế chiến lược đề phòng mọi cuộc tấn công từ bên ngoài vào). Điều đó
đặc biệt đúng đối với Giêrusalem, thành mà ta có thể thấy từ rất xa. Trong
trường hợp này, tuyệt đối không thể che dấu thành được. "Ánh sáng của các
con": Lời Thiên Chúa được Chúa Kitô đem đến thì sống trong môn đồ và đơm
hoa kết trái trong cách ăn nết ở của họ. Ánh sáng, chính là Chúa Kitô, Đấng
đóng ấn người trên các môn đồ. Đức tin chân thành và ngay thật của họ phải tỏ
hiện ra trong các việc họ làm. Các hành động này phải có một phẩm chất, một
tính cách hoàn thiện thế nào đó khả dĩ khơi dậy được, lời những kẻ chứng kiến,
lời ngợi ca Thiên Chúa.
"Ngõ hầu họ thấy việc lành các con
làm": Làm sao dung hòa câu này với 6, 1-18 (nhất là các câu 1-2. 5. 16)?
Thưa động lực khác nhau trong hai bản văn: ở đây động lực là vinh quang Chúa
Cha trên trời; còn trong 6, 1- 8 động lực là sự tìm kiếm lời khen ngợi bản thân
để thỏa mãn lòng khoe khoang tự phụ (x. 6, 2-5: "hầu được vinh vang nơi
người đời... hầu được bày ra cho người ta thấy..."). Cách hành động cũng
khác nhau: ở đây, người môn đồ phải tỏ ra như là Kitô hữu: trong 6, 1-18 Chúa
Giêsu kết án việc phô trương nhắm mục đích làm người ta chú ý.
KẾT LUẬN
Môn đồ Chúa Kitô nhất thiết phải ảnh
hưởng trên nhân loại. Nếu chấp nhận hạnh phúc theo quan điểm của Chúa Kitô, thứ
hạnh phúc của Bát phúc, thì người môn đồ mới có thể tỏa chiếu trong thế gian và
ướp mặn môi trường sống của mình.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1. Người Kitô hữu toan thất vọng trước
kết quả nghèo nàn của nỗ lực mình, phải can đảm lên bằng cách nhớ rằng mình
thực sự quan trọng đối với thế giới hôm nay, mặc dầu bề ngoài có vẻ trái ngược,
nhớ trong mình là muối và ánh sáng của trần gian. Nhân loại sẽ mất hết ý nghĩa
nếu không có sự hiện diện là hành động của người Kitô hữu trong thế giới.
2. Người Kitô hữu toan nhụt chí và bằng
lòng với một cuộc sống tầm thường, cũng phải nhớ lại rằng, vì là muối và ánh
sáng của vũ trụ, mình không thể chấp nhận đào ngũ hay buông thả mà không phản
lại với bản tính sâu xa và lý do hiện hữu của mình.
3. Chính việc can đảm thực hiện Bát
phúc giúp người môn đồ Chúa ki tô trở nên muối và ánh sáng của vũ trụ. Còn tất
cả mọi đường lối hoạt động khác chỉ đưa đến sự lạt lẽo vô vị hay tăm tối u
minh.
4. Lương dân sẽ trở lại trong mức độ
thấy chung quanh họ có nhiều Kitô hữu xác tín sống không phô trương cũng chẳng
khiếp nhược cuộc sống môn đồ Chúa Kitô trong nếp sinh hoạt đều đặn khiêm tốn
thường ngày. Đó là "chứng tá của Kitô hữu, là hành động truyền giáo duy
nhất có hiệu quả trong một thế giới tin vào việc làm nhiều hơn vào lời nói.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét