CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Xp 2,3 – 3,12-13; 1Cr
1,26-31; Mt 5,1-12a
LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH
Lời Chúa: Ml 3,1-4; Dt 2,14-18; Lc
2,22-40 hay Lc 2,22-32
MỤC LỤC
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A
1. Khó nghèo
2. Hãy vui mừng
3. Nẻo về hạnh phúc – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
4. Hạnh phúc khi trao ban – Lm. Jos. Tạ
Duy Tuyền
5. Mối phúc thật – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
6. Sống cuộc đời thành tựu – Achille
Degeest
7. Mối phúc thứ nhất
8. Đi tìm hạnh phúc
9. Nỗi khao khát
10. Chín lần hạnh phúc
11. Phúc cho người sống những mối phúc
12. Đường hẹp – Radio Veritas Asia
13. Phúc thay
14. Suy niệm của Lm. Thiện Cẩm
15. Hạnh phúc – Lm. Nguyễn Ngọc Long
16. Tám Mối Phúc
17. Phúc Tám Mối
LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH
1. Tiến dâng cho Chúa
2. Tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa -
JKN
3. Thắp lên một ngọn nến
4. Mẫu gương của bậc cha mẹ - Lm. Gioan
Trần Khả
5. Lễ Đức Mẹ dâng Con trong đền thờ
6. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
7. Dâng Chúa trong đền thờ
8. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
9. Dâng Con trong đền thờ
10. Các con là ánh sáng thế gian
11. Bảo vệ ánh sáng – Lc 2, 22-40
12. Lễ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ
13. Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh
14. Lễ Nến – Lm. Nguyễn Ngọc Long
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN A
1. Khó nghèo.
Phật Thích Ca đã xác quyết trong bài
thuyết pháp đầu tiên tại Bênarét bằng câu: Vạn sự vô thường, vạn sự khổ. Nghĩa
là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ đau. Sinh, bệnh, lão, tử.
Con người sinh ra để rồi ốm yếu, già lão và cuối cùng là chết chóc. Rõ thật đời
là bể khổ mà mỗi người là một cánh bèo trôi dạt trên đó.
Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện
trên đất Palestin, đã tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: Phúc cho ai có tâm hồn
khó nghèo, vì Nước Trời là của họ.
Một người bị mang tiếng là bi quan yếm
thế, còn người kia thì lại bị coi là không tưởng, lạc quan thái quá. Một bên
coi đời là bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch
trống trơn. Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và thời giờ cũng như sức lực để
nghiên cứu, suy tư và bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của Đức Phật và của
Chúa Giêsu. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh về hai bài giảng đó.
Tuy nhiên, chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của hai bài giảng
có tính cách tiên tri ấy. Vì thật ra, cả Đức Phật lẫn Chúa Giêsu, đều không chủ
ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ chia sẻ cho anh em
nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình.
Kinh nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm
của một người đã đạt tới chân nhu, vượt ra ngoài thế giới vô thường của những
đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng. Còn kinh nghiệm của Chúa Giêsu là
kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại trong cái mất và sự sống trong
cái chết. Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái nguyên nhân làm cho người ta khổ,
nhưng Ngài không bao giờ lên án cuộc đời, cho nó chỉ là bể khổ. Chúa Giêsu cũng
không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là kẻ khố rách áo ôm. Do đó, thánh
Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm hồn" vào trong câu nói của
Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo nào mới thực sự đem lại hạnh phúc cho con
người. Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào thời con người còn ăn lông ở lỗ
cũng như trong thời ở khách sạn năm sao, vẫn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy
và ngược đời: nhiều người có đủ điều kiện để hạnh phúc mà thực tế lại đau khổ
khôn lường. Còn những kẻ xem ra bần cùng tăm tối, lại tràn trề hạnh phúc.
Thực ra, ai cũng biết rằng nghèo không
đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại,
giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở tại
cái Tâm. Bởi thế các bậc thánh nhân, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu
như đều nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Đó chính là lý do tại sao
Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận đau hkổ, yêu thích
sự chính trực, thương xót anh em đồng loại, trong sạch và xây dựng hoà bình.
Thực vậy, những đức tính trên đây là
những đức tính người nghèo của Thiên Chúa, theo truyền thống Kinh Thánh. Người
nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng
quẫn, mà là kẻ luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa, biết sống cho Ngài và cho anh
em đồng loại. Lấy Chúa làm gia nghiệp và luôn sống trong tình liên đới với anh
em. Thực thi điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.
Nói theo tư tưởng Đông phương, thì hạnh
phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hoà điệu giữa lòng mình với lòng trời,
giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống cho hợp lòng người và lấy lòng
trăm họ làm lòng mình.
Trong tám mối phúc thật, Chúa Giêsu cho
thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta
với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.
2. Hãy vui mừng.
(Trích trong 'Manna')
Suy Niệm
Đời sống mỗi người đều có những chỗ
khuyết, chỗ hụt, những mất mát, yếu kém không thể bù đắp, nên ở đời có vẻ chẳng
ai được hạnh phúc trọn vẹn. Ngay giữa lúc hạnh phúc nhất, cũng có điều làm bận
lòng.
Trong bài giảng đầu tiên trên một ngọn
núi, Đức Giêsu đã chỉ cho ta bí quyết để có hạnh phúc.
Hạnh phúc thực sự là quà tặng của Thiên
Chúa, nhưng con người cần sống tích cực để đón nhận.
Được Nước Trời, được Đất Hứa, được thấy
Thiên Chúa, được Ngài ủi an, thương xót, và làm cho no thỏa: những điều đó có
nghĩa là sống thân tình với Ngài, được vui hưởng hạnh phúc viên mãn của chính
Thiên Chúa.
Chỉ nơi Ngài mới có hạnh phúc trọn vẹn,
vững bền.
Con người chỉ có hạnh phúc khi gắn bó
với Nguồn cội, với Đấng đã, đang và sẽ ban cho mình tất cả.
Nói cho cùng, người hạnh phúc là người
biết mở ra, mở ra với Thiên Chúa và mở ra với tha nhân.
Người có tâm hồn nghèo khó là người
thật sự nghèo, chẳng có nhiều của cải hay chỗ đứng trong xã hội. Khi cảm nghiệm
nỗi bất lực của mình, họ khiêm tốn mở ra và phó thác cho duy Thiên Chúa. Chính
lúc đó họ thấy mình bình an, vững vàng.
Người khao khát trở nên công chính là
người mong nên thánh. Nên thánh là sống theo tinh thần của cả Bài Giảng trên
Núi. Nỗi khao khát không nguôi làm cho con người lớn lên. Nỗi khao khát đào
sâu, để con người chứa được nhiều.
Người sầu khổ về mọi mặt sẽ được hạnh
phúc, khi trong cơn đau, họ biết quay về với Thiên Chúa. Phúc cho ai thấy đau
khổ của mình có ý nghĩa: đau khổ để đền tội, để phục vụ, để triển nở thiêng
liêng. Ngay cả đau khổ vô lý cũng làm ta gần Đấng trên thập giá.
Người bị bách hại, lăng nhục, vu khống
là người có phúc. Ngay giữa ngặt nghèo họ vẫn cảm được niềm vui (Cv 5,41), vì
họ dám sống và dám chết cho Thầy Giêsu.
Người hiền lành là người có lòng nhân
đối với người khác. Họ học gương hiền lành của Thầy Giêsu (Mt 11,29), không lấy
oán báo oán khi mình bị xúc phạm (Mt 21,5).
Người có lòng thương xót là người biết
mở ra để cảm thông, đau nỗi đau người khác và chia sẻ những gì mình có.
Người có tâm hồn trong sạch là người
ngay thẳng, thật thà, không giả hình, nhưng làm với ý hướng trong sáng. Chính
sự trong sáng của thân xác và tâm hồn sẽ làm người ấy dễ gặp được khuôn mặt
Thiên Chúa.
Người xây dựng hoà bình là người gieo
an hoà khắp nơi, trong gia đình, ngoài xã hội và giữa các dân tộc. Họ giải toả
những bất đồng, tháo gỡ những tranh chấp. Họ coi mọi người là anh em, con cùng
một Cha.
Thời nào con người cũng lao đao đi tìm
hạnh phúc.
Phúc cho ai không khép lại để tìm hạnh
phúc cho mình, nhưng biết mở ra để sống cho Chúa và tha nhân.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có lần bạn đã sống một trong những mối
phúc, và bạn đã có một kinh nghiệm không quên. Xin chia sẻ kinh nghiệm đó.
Bạn nghĩ gì về bạn? Nói chung bạn có
phải là một người hạnh phúc không? Điều gì làm bạn đau khổ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho con luôn vui tươi. Dù
có phải lo âu và thống khổ, xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ đến những người quanh con, những người - cũng như con - đang
cần một người bạn.
Nếu như con nên yếu đuối, thì xin cho
con biết yêu thương và sáng suốt hơn, thông cảm và nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con run rẩy, thì xin giúp
con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử, xin cho con biết đón nhận
khổ đau và bệnh tật như một lời kinh.
Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và
tín thác, như một lời xin vâng cuối cùng.
Và con về nhà Chúa, để dự tiệc yêu
thương muôn đời. Amen.
3. Nẻo về hạnh phúc – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
(Trích từ 'Cùng Đọc Tin Mừng')
Thi đàn Trung Quốc từ cổ chí kim nổi
lên một tên tuổi lớn, đó là nhà thơ Lý Bạch, thời Thịnh Đường (701 - 762). Ông
tự xem mình như tiên ông bị lưu đày xuống thế. Ông ưa sống kiếp lãng du, say mê
vẻ đẹp đất trời, vẻ đẹp sông núi, trăng sao...
Theo truyền tụng nhân gian, vào một đêm
trăng tỏ, Lý Bạch buông thuyền xuôi theo giòng sông Thái Trạch lấp lánh ánh
trăng đêm. Ông đàn hát ngâm vịnh và uống rượu thưởng thức trăng.
Càng về khuya, men rượu nồng bốc lên
càng làm ngây ngất lòng thi sĩ. Sông nước, cảnh vật lúc ấy càng huyền ảo nên
thơ. Thi nhân cảm thấy mình như đang lạc vào bồng lai tiên cảnh. Mảnh trăng
diệu huyền in hình dưới làn nước lung linh như đang gọi mời ông tao ngộ.
Trong hơi men chếnh choáng, ông nhoài
mình qua mạn thuyền, cúi thật sâu xuống nước để ôm lấy vầng trăng mà ông say
đắm lâu nay.
Than ôi! Ông đã bỏ hình bắt bóng và
giòng sông oan nghiệt đã kết liễu đời ông.
Trên cao, vầng trăng thật như đang mỉm
cười chế giễu ông.
Câu chuyện của nhà thơ họ Lý cũng là
câu chuyện thời sự của thế kỷ chúng ta. Nhân loại hôm nay đang kêu gào hạnh
phúc, đang khao khát kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng họ đâu biết rằng Thiên Chúa là
Cội Nguồn của hạnh phúc.
Một vầng trăng thật in thành hàng tỷ
bóng trăng trên các ao hồ khe suối.
Một Cội Nguồn Hạnh Phúc (là Thiên Chúa)
toả xuống vô vàn mảnh vụn hạnh phúc trong các sự vật phù du ở đời.
Thay vì tìm về Cội Nguồn hạnh phúc là
Thiên Chúa, người ta dại dột đâm đầu vào những chiếc bóng của hạnh phúc nơi
những tạo vật chóng tàn.
Quả thế, người ta tưởng hạnh phúc nằm
nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất... rồi người ta đâm đầu vào đó như
những những con thiêu thân lao vào lửa, như Lý Bạch nhào xuống nước tìm trăng.
Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc,
Thiên Chúa là nguồn mạch của hoan lạc và an bình, Thiên Chúa là Tình Yêu.
Tất cả những ai đang khao khát tình
yêu, an bình, hạnh phúc là đang khao khát Chúa.
Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình
bắt bóng. Người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội
nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời.
Thời thanh xuân, Augustino là con người
khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt. Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn
chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian... nhưng Anh đã thất
vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải. Mãi đến năm ba mươi
tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của
hạnh phúc, chẳng khác chi bóng trăng in hình đáy nước và chỉ có Thiên Chúa mới
là 'Vầng Trăng' thật, là Hạnh Phúc thật mà thôi. Bấy giờ, với tâm hồn tràn đầy
hoan lạc, Augustino thưa với Chúa: "Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho
Ngài nên hồn con thổn thức khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong
Ngài".
Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích
thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao. Chính Thiên Chúa đã đặt vào
cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không
gì trên đời nầy có thể khoả lấp được và để lòng khao khát đó luôn thôi thúc
chúng ta kiếm tìm, kiếm tìm không mệt mỏi cho đến khi gặp được Ngài là Hạnh
Phúc đích thật.
Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa
Giêsu chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta
quen gọi là tám mối phúc thật. Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi
đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa, là Nước Trời, là Đất hứa:
* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự
nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì
ta có là của Chúa ban...
* Cư xử hiền lành, biết nhường biết
nhịn và mềm mỏng với mọi người...
* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau
cho người khác...
* Khao khát trở nên người công chính,
* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái
với mọi người...
* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa
điều tà, điều gian ác, điều bất công...
* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà
thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau...
* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công
chính thanh liêm...
Nẻo về Hạnh Phúc đã rộng mở.
Bí quyết vào Nước Trời đã được giải
bày.
Vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có
đủ khôn ngoan và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với
chúng ta hay không.
4. Hạnh phúc khi trao ban – Lm. Jos. Tạ
Duy Tuyền
Khi nhìn về kiếp nhân sinh, với những
thăng trầm nổi trôi của đời người, đầy những đau khổ, bất hạnh lầm than, đại
văn hào Nguyễn Du đã nói rằng:
"Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn
lòng"
Có người còn bi quan bảo rằng:
"Đời vui sao chẳng thấy cười -
Sinh ra chẳng cười lại khóc oe
oe".
Phần nhiều trong văn học, thơ ca hay kịch
nghệ, người ta đã thành công khi khai thác chủ đề bất hạnh của đời người: cái
đói, cái nghèo, cái khổ đau của bệnh tật, cái khổ đau của bất công và áp bức đã
gây nên biết bao nỗi oan khiên, bất trắc cho thân phận con người. Những bất
hạnh mà ta thường gặp không chỉ đổ xuống trên những thân phận nghèo đói, túng
thiếu mà còn đổ xuống trên những kẻ có tiền, có của, có địa vị nhưng lại không
tìm được hạnh phúc ở trong cuộc sống của mình. Dang vọng, tiền tài xem ra cũng
không quý bằng hạnh phúc ở trong đời sống hằng ngày. Cuộc đời không có hạnh
phúc là cuộc đời bất hạnh tựa như cây xanh thiếu lá nên trơ trụi và cằn khô. Vì
"Cây xanh thiếu lá nó cũng trơ trơ - Biết mình thế này thà đừng sinh
ra". Vì sống là đi tìm hạnh phúc. Sống mà không có hạnh phúc thì cuộc đời
như đã mất. Hạnh phúc là nỗi khao khát, là niềm ước mơ của mọi người. Từ những
em bé bán vé số, đánh giầy, thu lượm ve chai cho đến những em sinh ra trong một
gia đình giầu sang vẫn mang trong mình một khao khát được hạnh phúc. Từ những
người quyền thế, giầu có lắm kẻ đón người đưa đến những con người xấu số bị bỏ
rơi, khinh bỉ bên lề đường vẫn ao ước một khung trời hạnh phúc cho riêng mình.
Tựa như cuộc đời có nhiều nẻo đường
khác nhau thì hạnh phúc cũng có nhiều cách khác nhau. Có hạnh phúc của người mẹ
vừa sinh con, dù rằng bà phải chịu nhiều đau đớn thể xác. Có hạnh phúc của
những người làm cha làm mẹ khi nhìn thấy những đứa con lớn khôn từng ngày, dù
phải cơ cực lầm than, hay mưa nắng dãi dầu nơi nương rẫy, phố chợ. Có hạnh phúc
của những con người đang quên mình vì tha nhân, vì bạn bè, dù rằng phải mang
tiếng nợ đời "Ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng". Có hạnh phúc của
những đôi vợ chồng trẻ đang yêu nhau nơi túp lều tranh, dù rằng phải chịu cảnh
đói khổ cơ hàn nhưng vẫn tha thiết yêu nhau: "Tay bưng bát muối chấm gừng
- Gừng cay muối mặn xin đừng xa nhau". Thực vậy, có nhiều người vẫn chủ
trương rằng: sống có ích cho tha nhân mới là cuộc đời đáng yêu, đáng sống. Có
lẽ ở đời, chẳng ai thích đau khổ nhưng nhiều người vẫn chấp nhận bước vào khổ
đau, vì đó chính là phương thế để đem lại hạnh phúc cho người mình yêu.
Hôm nay, Chúa Giêsu giới thiệu cho
chúng ta một phương thức để đạt được hạnh phúc. Con đường hạnh phúc của người
môn đệ Chúa không phải là con đường trải thảm rộng thênh thang mà là con đường
hẹp của sự hy sinh, của quảng đại dấn thân vì lợi ích của tha nhân. Vì phúc
thay ai có tâm hồn nghèo khó, có tấm lòng hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu
thích sự chính trực, thương xót đồng loại, giữ lòng trong sạch, và biết xây
dựng hoà bình.
Như vậy, hạnh phúc của người môn đệ
không hệ tại ở những cái mình có mà ở những cái mình dám từ bỏ vì Chúa và vì
tha nhân. Vì Chúa mà ta từ bỏ mọi thứ tham lam, ích kỷ và bất chính để ta sống
thanh thoát khỏi những đam mê của cải và lạc thú. Vì Chúa mà ta bỏ đi cái tôi
ghen tương, nóng giận, để gìn giữ sự hoà thuận với những người mà chúng ta đang
sống. Vì Chúa mà chúng ta dấn thân cho công lý được triển nở, cho hoa bác ái
được toả hương, cho an bình được ngự trị. Vì Chúa mà chúng ta xả thân giúp
người giúp đời mà không cần so đo tính toán thiệt hơn. Từ bỏ chính mình để ta
hướng tới tha nhân. Có từ bỏ chính mình thì ta mới nghĩ tới thiện ích của tha
nhân. Từ bỏ những quyền lợi, những nhu cầu của bản thân để chúng ta trao hiến
những điều tốt đẹp nhất cho tha nhân.
Người ta bảo rằng ở bên Palestina có
hai biển hồ là Biển Chết và biển hồ Galilêa, cả hai biển hồ này đều đón nhận
nguồn nước từ sông Jordan. Thế nhưng, nơi Biển Chết thì không có một sự sống
nào có thể tồn tại. Vì Biển chết đón nhận nhưng không trao ban, nó giữ lại cho
riêng mình, nên nguồn nước trở thành mặn chát và độc hại. Ngược lại, tại biển
hồ Galilêa cũng đón nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó tràn qua các hồ
nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống
cho cây cối, muôn thú và con người.
Đời người cũng tựa như biển hồ, nếu chỉ
biết giữ riêng cho mình tất cả mọi sự nhận được từ Thiên Chúa. Sự sống trong họ
rồi cũng chết dần chết mòn như nước trong lòng Biển chết. Thật hạnh phúc cho ai
biết trao ban. Cuộc sống sẽ mãi lan toả và dồi dào sức sống như biển hồ
Galilêa. Vì ai có thì được cho thêm, và vì chính lúc chết đi là khi vui sống
muôn đời. Amen.
5. Mối phúc thật – ĐTGM. Ngô Quang
Kiệt.
Khi nghe bài "Phúc Thật Tám
Mối" trên đây, nhiều người ngạc nhiên sửng sốt. Những hạnh phúc Chúa hứa
ban sao quá khác với những quan niệm về hạnh phúc mà ta thường có. Người ta ai
cũng mong có nhiều của cải, làm ăn phát tài. Thế mà Chúa lại nói: "Phúc
cho người nghèo". Người ta ai cũng mong được khôn ngoan, được có uy quyền,
được người khác nể phục. Thế mà Chúa lại nói: "Phúc cho người hiền
lành". Người ta ai cũng mong được an bình, sống thoải mái, vô lo. Thế mà
Chúa lại nói: "Phúc cho các con khi các con bị bắt bớ".
Chúng ta ngạc nhiên, không hiểu Lời
Chúa, vì chúng ta có quan niệm sai lầm về hạnh phúc và về đạo.
1) Về hạnh phúc, chúng ta thường tưởng
lầm rằng cứ có tiền bạc, có địa vị, có tình yêu là có hạnh phúc. Nhưng không
phải như vậy. Không thiếu những người giàu tiền bạc, có địa vị cao, nhưng luôn
bất hạnh.
Marilyn Monroe, nữ minh tinh thần thoại
của thế giới phim ảnh là người có sắc đẹp mê hồn, được mọi người tôn thờ, và
chắc chắn không thiếu tiền bạc. Thế mà nàng phải sống cuộc đời cô đơn buồn
thảm. Sau cùng phải tự kết liễu đời mình trong buồn tủi, lo âu. Giờ nhắm mắt
không có một người yêu bên cạnh.
Ngày nay xuất hiện nhiều "Tây ba
lô", những người nước ngoài ăn mặc thô sơ, vai đeo ba lô, đi gặp gì cũng
ăn, ngủ bờ ngủ bụi. Tại sao họ không chọn ăn mặc chải chuốt, ngủ nghỉ trên chăn
êm nệm ấm trong những khách sạn sang trọng? Thưa vì họ thích đơn sơ, thích khổ
cực, thích phấn đấu, thích sống với thiên nhiên. Đó là hạnh phúc của họ.
Tiền bạc, tiện nghi, danh vọng, địa vị,
tình yêu chắc chắn làm cho đời sống dễ chịu hơn. Nhưng vẫn chưa phải là hạnh
phúc đích thực.
2) Về đạo, chúng ta lầm tưởng rằng điều
cốt yếu của đạo là giáo lý. Thưa không phải như thế. Đi đạo không phải là đi
theo một giáo lý. Đi đạo là đi theo một người. Điều cốt yếu của đạo là gặp được
Chúa. Giáo lý chỉ là phương tiện giúp ta gặp được Chúa. Chúa mới là đích của
đời ta. Chúa chính là hạnh phúc đích thực. Gặp được Chúa rồi, linh hồn ta sẽ
toại nguyện, không còn mơ ước điều gì khác.
Thánh Augustinô khi còn tuổi trẻ đã
chạy theo dục vọng, đi tìm lạc thú trong những buổi ăn chơi trác táng, những
cuộc tình đắm mê. Ngài đã bỏ đạo, đi theo bè rối, nhưng chẳng thấy mãn nguyện.
Một hôm nghe thánh Ambrôsiô giảng, Ngài đã được ơn thống hối ăn năn. Ngài trở
về với Chúa, cảm nghiệm được tình yêu của Chúa rồi, ngài đã thốt lên một lời
bất hủ: "Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải
băn khoăn, cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa".
Hiểu như thế rồi ta sẽ thấy Tám Mối
Phúc Thật không có gì bí ẩn. Đó chính là tám nét vẽ nên chân dung Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa vô cùng giàu
sang đã tự nguyện sống cuộc sống của một người nghèo. Sinh ra không nhà. Sống
không nhà. Chết cũng không nhà.
Chúa Giêsu đầy quyền năng. Người đã chế
ngự được sóng gió, xua đuổi ma quỷ, lại sống rất hiền lành khiêm nhường. Bị kết
án oan ức, bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị giết chết, Người vẫn im lặng chấp nhận.
Chúa Giêsu có một trái tim xót thương,
sẵn sàng tha thứ cho kẻ tội lỗi, sẵn sàng giúp đỡ người hoạn nạn, cứu chữa
người tật nguyền.
Chúa Giêsu đem đến cho ta niềm bình an,
hoà giải ta với Thiên Chúa và với nhau.
Chúa Giêsu đã bị bắt bớ, giết chết vì
rao giảng Tin Mừng.
Tám mối phúc chính là con đường Chúa đã
đi qua. Là hình ảnh trung thực của Chúa Giêsu. Đi vào con đường ấy, ta chắc
chắn gặp được Người. Sống theo con đường ấy, ta trở nên giống như Người. Hoà
tan mình vào con đường ấy, ta sẽ trở nên một với Người. Khi ta từ bỏ hoàn toàn
ý riêng, để Người hoàn toàn chiếm đoạt, ta sẽ đạt tới hạnh phúc, hạnh phúc đích
thực, hạnh phúc viên mãn, hạnh phúc vĩnh cửu.
Lạy Chúa Giêsu, xin hướng dẫn con theo
đường lối của Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đối với bạn, hạnh phúc là gì?
2) Có bao giờ bạn cảm được niềm vui khi
sống trong những mối phúc mà Chúa Giêsu loan báo chưa? Nếu có, xin chia sẻ với
anh chị em.
3) Những đau khổ của bạn thường do
những nguyên nhân nào?
6. Sống cuộc đời thành tựu – Achille
Degeest
(Trích từ 'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Danh từ "hạnh phúc" (dùng
trong Phúc Âm hôm nay) phải hiểu là sự thành công cuối cùng của con người khi
nó được đặt trong tình nghĩa với Chúa. Nói thành công, không những là nói về
bình diện những khát vọng tự nhiên của trí khôn và cõi lòng, song còn về bình
diện những khả năng mới mẻ mà con người nhận được khi được nâng lên trạng thái
siêu nhiên. Sống bất diệt là một ước vọng tự nhiên; thấy Thiên Chúa là một ân
huệ siêu nhiên. Đừng quên cái viễn tượng hạnh phúc cuối cùng trong Chúa, khi
đọc Bài Giảng Trên Núi, bài Tám Mối Phúc Thật. Nếu các 'mối phúc' bị giản lược
vào bình diện tự nhiên (chiều ngang ta sẽ không thể hiểu nổi nữa).
Nếu hướng về Nước Trời, chúng trở thành
tuyệt diệu. Trong các bản văn của Cựu Ước nói về Đấng Cứu Thế, những kẻ xấu số
đều được ưu ái, vì nỗi nghèo khổ và hèn mọn của họ khiến họ cởi mở đón nhận
Thiên Chúa. Trong Tám Mối Phúc Thật, Chúa Giêsu mô tả một thái độ nội tâm và
một hoàn cảnh bên ngoài, tự nó đã làm cho Chúa thương tình, ta hãy ghi lại một
vài nhận xét về tuyệt tác này.
1) Các 'mối phúc' bắt nguồn từ Thiên
Chúa song chúng không bao hàm sự thiếu tin tưởng ở con người, mà là vượt khỏi
con người. Có nghĩa là Chúa xem con người có khả năng sống tốt lành, công
chính, trong sạch và an hòa. Người chỉ vẽ cho biết phải dùng phương tiện nào và
đâu là chỗ chúng được hoàn thành. Phương tiện nằm ở điểm này là người môn đệ
Đức Kitô sống trong mối liên lạc với Chúa mình. Đó là ý nghĩa của mấy tiếng 'vì
Ta'. Sự thành tựu được thực hiện đầy đủ 'trên trời'. Vậy các mối phúc là một
niềm hạnh phúc bắt đầu dưới trần gian trong nỗ lực đau đớn và hoàn thành trên
trời trong sự chiếm hữu trọn vẹn. Ngay trên thế gian này trong mối liên lạc với
Đức Kitô, con người phải khởi sự dùng các phương tiện để xây dựng niềm vui bất
diệt của mình.
2) Trong các mối phúc, thì sứ điệp nào
đang cần thiết nhất cho thời đại ta? Các mối phúc làm thành một toàn thể, không
thể coi thường một mối nào mà không làm hại đến tất cả. Ngược lại, tha thiết
với một mối là tha thiết với tất cả.
Có lẽ trước não trạng hiện đại, ta có
quyền lưu tâm cách riêng đến lòng trong sạch. Đây không phải là sự 'vắng mặt'
của tội lỗi mà thôi nhưng còn là một phẩm chất của trí tuệ, linh hồn và con
tim. Đây nói đến sự ngay thẳng, sự thành thực ở trình độ trí tuệ. Trí khôn
trong trắng thì không tự xây dựng nên một hệ thống tư tưởng nào để rồi đặt nó
vào giữa mình và thực tại. Các hệ thống duy tâm đều không tinh ròng. Ví dụ
thuyết duy khoa học, thuyết mác-xít.
Tấm lòng trong sạch chỉ sự trong sáng
của cái nhìn nội tâm, cái nhìn làm cho ta khám phá ra Thiên Chúa trong mình và
trong các tạo vật. Muốn thế, phải nỗ lực xây dựng sự trong trắng luân lý và
nhất là phải có ý chí hiến thân mình cho Chúa trong sự đơn sơ của đức tin và
tình yêu. Cõi lòng trong trắng gặp thấy khắp nơi và trong mọi sự chính Đấng mà
tình yêu nó tìm kiếm. Ta nên biết nhìn Chúa khắp nơi, trong các biến cố và ngay
trong một thế giới mà ta tuyên bố là hư hỏng, nhưng được Thiên Chúa cứu vớt.
7. Mối phúc thứ nhất.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Người đàn ông chán đời đứng nhìn xuống
giòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông ta đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi
kết liễu cuộc đời bất hạnh không còn lối thoát nào nữa. Ông ta đã làm đủ mọi
cách để lấp đầy nỗi chán chường. Ông đã đi đây đi đó, đã tìm lạc thú trong
những cuộc vui chơi, đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng nỗi
chán chường càng thêm chất ngất.
Ông ta thử thời vận lần cuối bằng một
cuộc hôn nhân. Nhưng không có người đàn bà nào ở với ông được vài tháng. Ông ta
đòi hỏi quá nhiều, mà lại chẳng biết nghĩ đến ai cả. Ông ta nhận ra rằng ông đã
chán chường và chẳng ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có giòng sông may ra
mới đem lại cho ông sự thanh thoát.
Ông ta chưa kịp hút xong điếu thuốc thì
thấy có người hành khất đi qua cầu. Con người rách rưới đó đứng nhìn ông và đưa
tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán đời không ngần ngại rút cả ví tiền trao cho
người hành khất và bảo:
- Thôi, ông cầm lấy cả đi. Tôi đâu cần
tiền làm chi nữa.
Người hành khất cầm lấy chiếc ví, nhìn
thẳng vào mắt kẻ chán đời và nói với giọng vừa ôn tồn vừa nghiêm nghị:
- Thưa ông, tôi không cần một số tiền
lớn như thế này. Tuy là một người đi xin ăn, nhưng tôi không phải là kẻ hèn
nhát. Tôi cũng không muốn nhận tiền của một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ ví tiền mà
đem qua thế giới bên kia với ông.
Nói xong, người hành khất ném cái ví
xuống giòng nước rồi lặng lẽ bỏ đi, để mặc kẻ chán đời với nỗi đắng cay chua
xót đang gặm nhấm cõi lòng.
Đã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán
đời vẫn chưa muốn kết liễu đời mình. Ông ta nhìn theo người hành khất đang từ
từ mất dạng. Tự nhiên, ông ta không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt ví tiền
trao tặng lại cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông ta biết trao
tặng cho ai bất cứ điều gì. Giờ phút này, ông ta muốn mở rộng tâm hồn, giang
rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống.
Anh chị em thân mến,
Không gì buồn chán cho cho bằng một
cuộc đời không định hướng. Không gì bất hạnh cho bằng một tâm hồn ích kỷ, chỉ
biết lo lắng tích góp cho riêng mình. Niềm vui sống chỉ có được khi ta hướng
đời mình tới một cùng đích cao cả: Nước Trời hay Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đến để đem lại cho con người
hạnh phúc và hạnh phúc ngay ở trên đời này. Dĩ nhiên, hạnh phúc không có nghĩa
là không có đau khổ. Cho dẫu có đau khổ, nhưng cuộc sống vẫn có ý nghĩa và đáng
sống nhờ niềm tin của con người vào tình yêu Thiên Chúa. Hơn ai hết, Chúa Giêsu
đã trải qua rất nhiều đau khổ. Ngài bị chống đố, bị khước từ, và cuối cùng bị
treo trên thập giá. Thế nhưng, Ngài hẳn là một con người hạnh phúc thực sự mới
có thể tuyên bố: "Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó... Phúc cho những ai
đau khổ, bị ngược đãi...".
Trong cuộc đời, xưa cũng như nay, vào
thời con người ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời khách sạn năm sao, vẫn luôn
luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để hạnh
phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tối tăm,
lại tràn trề hạnh phúc.
Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó
không đương nhiên là khổ. Đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau.
Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề
hạnh phúc chủ yếu ở cái tâm, ở tâm hồn. Bởi vậy, mối phúc thứ nhất, theo Thánh
Matthêu, bao gồm các mối phúc khác là "Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó".
Các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều luôn nhất
trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Chính đó là lý do tại sao Chúa Giêsu
đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền lành, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sực chính
trực, thương xót người đồng loại, trong sạch và biết xây dựng hoà bình. Thật ra
tất cả những đức tính đó là đức tính của "người nghèo của Thiên Chúa"
(Giavê), của một "Anawim" theo truyền thống Kinh Thánh. "Người
nghèo của Thiên Chúa" (Giavê) không phải là người có đời sống vật chất khó
khăn túng quẫn, mà là kẻ trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi
Chúa, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống trong tình liên đới với anh em
đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến Chúa yêu người.
Như thế, Chúa Giêsu xác nhận
"Người nghèo của Thiên Chúa" (Giavê) như ngôn sứ Sôphônia rao giảng
(Bđ. 1) mới thật là người có phúc, là người may mắn, vì chính (Giavê) Thiên
Chúa sẽ là hạnh phúc của họ. Nói chung, tám mối phúc thật xét theo nội dung
cũng chỉ là mối phúc duy nhất: "Phúc cho những người sống tinh thần nghèo
khó".
Thưa anh chị em,
Ai trong chúng ta cũng khao khát tiền
của, danh vọng, quyền thế. Chúng ta chạy theo những thứ ấy như một chiếc bóng,
vì chúng không bao giờ thoả mãn được nỗi khao khát hạnh phúc vô biên trong tâm
hồn chúng ta. Chúa Giêsu đến cho chúng ta biết ai là kẻ hạnh phúc đích thực
trên trần gian. Đó không phải là những người giàu sang, tỷ phủ, siêu sao nổi
tiếng, những nhà lãnh tụ chinh phục thế giới, những đại thiên tài... Nhưng là
các kẻ nghèo khó, khiêm nhu, chính trực, nhân ái, xây dựng hoà bình và chịu
bách hại vì đức tin. Tiêu chuẩn của người đời. Nói cho cùng, tám mối phúc thật
đều quy về một mối: Phúc cho ai sống như Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu là người
trước tiên đã sống tám mối phúc này trong cuộc đời của Ngài: chẳng ai từ bỏ bản
thân bằng Ngài, hiểu rõ nỗi khốn cùng của loài người, rộng lòng thương xót,
thực thi thánh ý Thiên Chúa, ngay thẳng và đơn sơ, xây dựng hoà bình và cam
chịu bách hại cho bằng Ngài. Vì thế, Ngài có thể nói vào lúc cuối đời:
"Lạy Cha, chớ gì niềm vui của con được tràn đầy nơi chúng, để niềm vui của
chúng nên trọn vẹn" (Ga 17,13). Và kết thúc bài giảng tám mối phúc, Ngài
nói: "Anh em hãy hân hoan vui mừng, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên
trời rất lớn lao".
Vậy, anh chị em thân mến,
Ngay từ cuộc sống này, người tín hữu
chúng ta phải tự nhận mình là những người hạnh phúc nhất. Mặc dù đang phải vất
vả vì chén cơm manh áo từng ngày, đang cố gắng để tha thức cho những người bách
hại mình, chúng ta hãy vui sướng để nhận ra mình là người có phúc, chúng ta hãy
vui mừng, vì chúng ta đang đi lại từng bước của Chúa Giêsu Kitô. Và như thế thì
chắc chắn "Nước Trời sẽ thuộc về chúng ta".
8. Đi tìm hạnh phúc
Trong dịp đầu năm, chúng ta thường cầu
chúc cho nhau 365 ngày hạnh phúc. Trong những bức thư, chúng ta thường nguyện
ước cho nhau gặp nhiều may mắn, thế nhưng trái chín hạnh phúc vẫn ở ngoài tầm
tay của chúng ta, vì cả chúng ta lẫn những người chung quanh không ai có đủ yêu
thương và đủ quyền phép để thực hiện những điều mong ước. Bởi đó đau khổ vẫn
chồng chất trong cuộc sống, đau khổ vì nghèo đói, vì bệnh tật, vì chết chóc.
Đau khổ vì thất bại, vì chia ly, vì những cám dỗ đè nặng. Và hạnh phúc mãi mãi
vẫn là một khát vọng chưa một lần nguôi ngoai.
Tôi còn nhớ trong cuốn giới luật yêu
thương, Đức cha Bùi Tuần đã viết: Cuộc đời chúng ta là một chuyến đi, đi từ
khát vọng này sang khát vọng khác. Chẳng lúc nào mà chúng ta không ước mơ,
nhưng cũng chẳng có sự gì làm cho chúng ta được no thỏa. Trong mọi ước muốn to
nhỏ, hình như chúng ta vẫn tìm hoài một hạnh phúc vô biên. Niềm hạnh phúc vô
biên ấy là gì để rồi chúng ta lên đường tìm kiếm và đầu tư cuộc đời chúng ta
vào đó?
Có người cho rằng: hạnh phúc trong cuộc
sống đó là sắc đẹp và vẻ quyến rũ, để rồi suốt ngày họ lo trau chuốt cho thân
xác của họ. Nhưng sắc đẹp ấy tồn tại được bao lâu? Mười hay mười lăm năm là
cùng, để rồi chúng ta cũng phải già nua với tuổi đời chồng chất.
Có người cho rằng: Tiền bạc sẽ đem lại
hạnh phúc. Nhưng thực sự có phải là như vậy hay không? Paul Getty là chủ một
hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Tài sản của ông lên tới hàng tỷ mỹ kim. Tuy
nhiên cũng vì thế mà hàng ngay ông nhận được cả trăm bức thư tống tiền và hăm
dọa sẽ ám sát ông, để rồi ông đã phải sống trong cảnh cô đơn, như chính ông đã
thú nhận: Tôi chưa bao giờ được hạnh phúc. Tôi là một kẻ bất hạnh nhất.
Có người cho rằng: Địa vị và danh tiếng
chính là mục đích của cuộc đời. Vậy thử hỏi những người đã có một thời vàng
son, nắn giữ uy quyền tuyệt đối, như các vua chúa thời xưa, vậy bây giờ họ ở
đâu? Hay thân xác họ cũng đã phải trở về với bụi đất và chìm vào quên lãng, như
Nguyễn Du đã từng than thở:
- Bất tri tam bách dư niên hậu.
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.
- Biết rồi ba trăm năm sau,
Nào ai còn khóc một câu thương mình.
Và sau cùng, có người đi tìm hạnh phúc
trong tình yêu, thế nhưng liệu họ có được thỏa lòng ước mơ hay lại như kinh
nghiệm đã diễn tả: Yêu nhau trong ba ngày, ghét nhau trong ba tháng và chịu
đựng nhau suốt ba mươi ba năm... Hạnh phúc của tình yêu thì chỉ thoáng qua,
những đau khổ của nó lại kéo dài trong suốt cả cuộc đời.
Vậy đối với chúng ta, niềm hạnh phúc
đích thực là gì? Tôi xin thưa niềm hạnh phúc đích thực của chúng ta là chính
Thiên Chúa và được sống với Ngài mãi mãi trên quê trời, vì chỉ mình Ngài mới có
đủ tình yêu và khả năng thực hiện mọi điều chúng ta mơ ước mà thôi. Đối với
chúng ta, chỉ có một sự cần thiết, đó là tìm kiếm Chúa và cứu rồi linh hồn, như
lời Chúa đã phán: Được lời lãi cả thế gian, mà mất linh hồn thì nào có ích lợi
chi.
Bởi đó đời sống chúng ta phải là một
cuộc phiêu lưu đi tìm kiếm Chúa, phải là một hànhtrình đi về với Chúa. Đã là
một cuộc hành trình thì phải có một hướng đi, một con đường nhất định. Con
đường ấy chính là cái đạo mà Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta, bởi vì đạo
chính là đường. Cái đạo ấy, con đường ấy được gồm tóm trong giới luật yêu
thương, và cụ thể hơn được diễn tả qua tám mối phúc thật mà chúng ta vừa nghe.
Chúa Giêsu đã thổi vào tâm hồn chúng ta
một luồng gió mới, đã gieo vào cõi lòng chúng ta một tinh thần mới, hoàn toàn
khác biệt với tinh thần thế gian. Phúc thật tám mối là như bản hiến chương Nước
Trời, gồm tóm những điều căn bản và cần thiết nhất, phải được coi như là những
tiêu chuẩn hướng dẫn cho đời sống chúng ta.
Hãy thực thi tinh thần của bài giảng
trên núi về tám mối phúc thật, để chúng ta tìm thấy cho mình niềm hạnh phúc
đích thực ở đời này và nhất là ở đời sau.
9. Nỗi khao khát
Bill Gates, nhà tỷ phú trẻ tuổi người
Mỹ, chuyên kinh doanh về máy điện toán, nhiều năm liên tiếp đạt danh hiệu
"người giàu nhất thế giới". Theo tạp chí Forbes bình chọn mỗi năm,
tài sản cá nhân của Gates hiện đã lên đến 36,4 tỉ USD (1997) và đang sinh sôi
nảy nở rất nhanh. Mỗi ngày, ông chủ công ty Microsoft này thu nhập 42,5 triệu
USD.
Nhiều người ao ước được giàu có và danh
tiếng như ông vua phần mềm máy tính này, thậm chí chỉ xin được bằng cái số lẻ
của ông thì đã vô cùng hạnh phúc. Bởi vì "Có tiền mua tiên cũng
được!" Hay như thời nay người ta thường nói:
"Đồng tiền là Tiên là Phật
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng che thân,
Là cán cân công lý,
Đồng tiền là hết ý".
Nhưng Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại
tuyên bố: "Hạnh phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó" (Mt 5,3). Hơn nữa,
Người còn cho là hạnh phúc những ai hiền lành, sầu khổ, bị bách hại...
Giáo Hội gọi đó là Hiến Chương Nước
Trời, nghĩa là chỉ những ai sống và thực thi những điều ấy mới được làm công
dân của Nước Trời.
Với người không có niềm tin thì đó là
một điều hết sức nghịch lý. Nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, bị bách hại... không
thể mang lại hạnh phúc mà chỉ đem đến những bất hạnh thiệt thòi, khinh bỉ mà
thôi.
Như vậy phải chăng Đức Giêsu ngăn cản
nền văn minh tiến bộ của nhân loại đang vươn tới hùng cường, thịnh vượng sao?
Phải chăng Người ủng hộ cho hành động bóc lột và đàn áp? Hoàn toàn trái lại.
Người đã nói: "Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi
dào" (Ga 10,10). Vì thế, làm môn đệ Đức Giêsu là phải xua đuổi nghèo nàn
và lạc hậu khỏi thế giới này, là phải đẩy lui đau khổ và bất công xa rời con
người. Đó là những vị khách không mời mà đến, và chúng ta phải có nhiệm vụ tống
khứ chúng ra khỏi mái nhà của nhân loại. Đây là mục tiêu giải quyết của Kitô
giáo, và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.
Đức Hồng Y Tonini tuyên bố: "Giáo
Hội trở nên nghèo bởi vì Giáo hội tràn đầy Thiên Chúa. Giáo Hội nghèo bởi vì
Giáo Hội có nhiều thứ vĩ đại hơn". Nếu Chúa đã nói: "Phúc cho những
ai có tâm hồn nghèo khó", "Phúc cho những ai hiền lành",
"Phúc cho những ai sầu khổ", "Phúc cho những ai bị bách
hại", là bởi vì họ đã khiêm tốn nhận mình thiếu thốn, bất lực, nên đặt
trọn niềm tin cậy và phó thác nơi Người.
Nếu Chúa đã dạy: "Phúc cho những
ai có tâm hồn trong sạch" "Phúc cho những ai khao khát công chính,
"Phúc cho những ai xây dựng hòa bình", Phúc cho những ai xót thương
người", là bởi vì họ đã quyết tâm sống trọn vẹn cho Thiên Chúa và nhiệt
tâm phục vụ anh em.
Tận thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng có
nỗi khao khát cháy bỏng được sống hạnh phúc, ai cũng muốn người khác đem lại
phúc lộc cho mình. Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người biết đem
lại hạnh phúc cho kẻ khác, và hết lòng quảng đại với tha nhân. Đức Giêsu đã
dạy: "Cho thì có phúc hơn là nhận" (Cv 20,35). Nhà truyền giáo Albert
Schweiltzer quả quyết: "Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy
con đường hiến thân phục vụ".
Hạnh phúc đích thực không đo bằng của
cải con người thu tích được, không tùy thuộc nơi những thành đạt mà họ có, cũng
không đến từ danh vọng mà con người chiếm hữu, nhưng chính là do nơi họ biết
hoàn toàn tín thác vào Chúa mà thôi. Sự giàu có đích thực là sự giàu có ở trái
tim, không phải ở túi tiền.
10. Chín lần hạnh phúc
Người ta có thể làm cho lễ Các thánh
trở nên lễ của hạnh phúc hay không? Dầu sao Tin Mừng ngày hôm nay cũng nói lên
điều đó! Chín lần "hạnh phúc". Và đầu tiên là: "Các ngươi hãy
vui mừng hoan hỉ, phần thưởng của các ngươi sẽ lớn lao ở trên Trời".
Đám mây đầu tiên trên ngày lễ này đó là
thì tương lai "Các ngươi sẽ là...Các ngươi sẽ được... Các ngươi sẽ
thấy...". Chính với những thì tương lai kiểu này mà người ta đã giễu cợt
những người bất hạnh. Người ta dễ dàng tìm thấy trên đó những bài thuyết giáo
khó chịu và những bản văn hoang tưởng của Nã phá Luân!: Khi một người chết đói
bên cạnh một người khác no đầy, không thể nào làm cho người đó chấp nhận sự
khác biệt này nếu không có một người có uy tín nói với họ: Thiên Chúa muốn như
thế, phải có người nghèo và người giàu trên thế gian này, nhưng sau đó và trong
vĩnh cửu sự chia sẻ sẽ được thực hiện theo cách khác".
Các mối phúc chính là hạnh phúc trong
tương lai và những sự đảo ngược đầy ấn tượng, những người đầu tiên sẽ là những
người cuối cùng. Nhưng không như Nã phá Luân nghĩ, theo nghĩa đó đơn giản là
một sự phân phối lại và chỉ có trong tương lai mà thôi. Hạnh phúc được ban tặng
ngay từ bây giờ cho tất cả mọi người dười hai hình thức một cuộc hành trình
tiến về niềm vui hoàn toàn và một cuộc hành trình đã có hạnh phúc. Giá như mỗi
năm họ làm cho lễ Các thánh trở nên một ngày suy niệm về sự hy vọng.
Chúng ta là những người của hy vọng,
những người của Tin Mừng. Một ngày kia, tại Palextin, một người đã cất tiếng
nói: "Nước Trời kia rồi! Nước Trời đây là ơn cứu độ Chúa ban cho tất cả
mọi người. Từ đây bất cứ người nào cũng có thể hướng tới hạnh phúc được mô tả
nơi trang cuối cùng của Thánh Kinh: "Tôi thấy trời mới và đất mới. Tôi
nghe có tiếng nói: Kìa nhà tạm Chúa ở giữa nhân loại. Họ sẽ là dân tộc của Ngài
và Ngài sẽ là Thiên Chúa ở giữa nhân loại. Thiên Chúa sẽ lau khô mọi giọt lệ,
sẽ không còn chết nữa, hết tang chế, hết kêu than, đau đớn, vì những cái trước
kia qua đi rồi" (Kh 21, 1-4).
Chính điều này mà chúng ta mừng vào lễ
Các thánh: tất cả chúng ta được mời gọi đi vào trong thế giới mới của sự vui
mừng lớn lao. Nhưng phải nói đi nói lại rằng ngay từ bây giờ chúng ta là những
người của cái tương lai này. Sự liên tục giữa đất và trời không phải luôn luôn
được nhận thức một cách rõ ràng. Chúng ta sẽ không nhận lãnh một phần bánh Trời
được đo lường và trả giá bằng cuộc sống mà chúng ta đang sống, khó nhọc, lo âu
và đau khổ. Chúng ta sẽ mãi mãi là khả năng của niềm vui mà chúng ta tìm kiếm
nơi chúng ta trên thế gian này. Chúng ta sẽ là con người của niềm vui mà chúng
ta đang tạo nên. Người ta không chinh phục nước trời mà là trở thành nước trời.
Với những mối phúc. Những mối phúc này
là một tinh thần và là một hình ảnh. Tinh thần của Nước trời, bầu không khí và
những tập tục của Nước trời. Còn hình ảnh là hình ảnh của vị sáng lập, vị vua
mẫu mực: đó là Chúa Giêsu, Hgaì đã là người nghèo hèn, khiêm nhu, ôn hoà, trong
trắng và bị bách hại. Khi nói "Phúc cho", Ngài biết Ngài nói về điều
gì, về sự trộn lẫn giữa hiện tại và tương lai. Điều này làm cho chúng ta hạnh
phúc như Ngài đã từng hạnh phúc. Chúa Giêsu hạnh phúc vì đã là một con người.
Điều kỳ lạ là người ta rất ít nói về điều này.
Chúng ta có thể ngay lập tức trở thành
một "chân phước" khi chúng ta sống trong niềm hy vọng, nếu tôi dám
nói như thế. Niềm hy vọng dặc biệt này được gọi là "vì Chúa" bởi vì
nó nối kết chúng ta với Chúa trong khi đảm bảo rằng Chúa muốn cho chúng ta hoan
hỉ và sẽ làm tất cả để cho chúng ta hạnh phúc: "Thầy nói cùng các con
những điều này để các con được vui mừng và sự vui mừng đó được đầy đủ" (Ga
15,11). Cho nên trước hết các mối phúc này khẳng định với chúng ta rằng Chúa ở
với chúng ta. Nhưng chúng cũng cho chúng ta biết những sở thích của Ngài và ở
đây lọt vào một điêù phiền nhiễu: Thiên Chúa có thích sự đau khổ hay không? Tại
sao Ngài ưa thích người nghèo, người khiêm hạ, người bị bách hại?
Tôi tin rằng câu trả lơì nằm ở phía tấm
lòng của những kẻ đáng thương này. Thiên Chúa tìm kiếm những người con và đặc
biệt là Ngài tìm ra họ trong các hoàn cảnh khó khăn đó. Đây không phải là lý
thuyết mà là thực tế. Khi lặp đi lặp lại chín lần "Phúc thay", Chúa
Giêsu nói đến kinh nghiệm riêng của Ngài. Rất muốn làm vui lòng Cha Ngài, Chúa
Giêsu đã kinh nghiệm rằng con người chỉ thực sự là con của Chúa khi ở trong một
tình trạng nghèo khổ đáng thương nào đó.
Đến lượt chúng ta hãy thử kinh nghiệm
về các mối phúc này. Chúng chỉ làm cho người ta mỉm cười hoặc nghiến răng nếu
nhìn từ xa. Nhưng những người cố gắng thử nghiệm thì nhận thấy kinh nghiệm và
nói lên kinh nghiệm đó: họ cảm thấy hạnh phúc... vì được hạnh phúc như Chúa
Kitô.
11. Phúc cho người sống những mối phúc.
(Trích trong 'Mở Ra Những Kho Tàng' của
Charles E. Miller)
Tự nhiên ai cũng muốn hạnh phúc, nhưng
hạnh phúc rất khó tìm thấy. Nó thường trượt khỏi tay chúng ta giống như bánh xà
phòng ướt nơi phòng tắm. Tất cả chúng ta đều cố gắng để được hạnh phúc, nhưng
chúng ta lại không luôn luôn đồng ý với những gì mà sự hạnh phúc có. Điều đó
giống như những cảm hưởng khác nhau trong âm nhạc và thực phẩm vậy. Chúng ta
khác nhau cho dù bây giờ chúng ta có phung phí tiền bạc vào những gì sẽ làm cho
chúng ta được hạnh phúc, hoặc chúng ta sẽ để dành cho "những ngày mưa
gió" trong tương lai.
Tất cả những gì mà người ta nghĩ là
hạnh phúc thì Chúa Giêsu lại không nghĩ vậy, giáo huấn của Người hoàn toàn biệt
lập về sự hạnh phúc là gì, làm thế nào và khi nào chúng ta đạt được hạnh phúc.
Tất cả chúng ta đều đã nghe lời giáo huấn của Người nhưng có lẽ chúng ta hoàn
toàn thất bại trong việc nắm bắt cho dù là một đặc tính duy nhất mà Chúa Giêsu
đã tuyên bố.
Chúng ta gọi giáo huấn này của Người là
những mối phúc, từ "beatus" theo nghĩa Latinh có nghĩa là hạnh phúc.
Đầu tiên chúng ta nhận thấy rằng những mối phúc không phải là những điều luật,
cũng không phải là những lời khuyên. Chúng là những lời tuyên bố. Chỉ một điều
duy nhất mà hôm nay Chúa Giêsu đã nói chúng ta phải làm, đó là "hãy sung
sướng và vui mừng". Những điều khác, Người muốn trình bày những gì mà hạnh
phúc phải gồm có, Người nói thẳng những người hạnh phúc là những người nghèo,
người khóc lóc, người đau buồn và người đói khát. Ngài cũng nhấn mạnh những
người hạnh phúc là những người bày tỏ sự thương xót, người kiến tạo hoà bình và
người chịu đau khổ, bắt bớ. Đó không phải là danh sách mà chúng ta sẽ chọn lựa
cho chính mình. Nếu chúng ta phải nhận lấy sự nghèo khổ, khóc lóc, đói khát như
những món quà Giáng sinh, chúng ta sẽ nghĩ rằng ông già Noel phải trở thành ông
già keo kiệt mới đúng.
Nhưng Chúa Giêsu không phải là ông già
keo kiệt dù người nói những điều mà nhiều người nghĩ là "bịp bợm" chứ
làm sao hạnh phúc với những thứ ấy được, chìa khoá bài giáo huấn của Chúa Giêsu
được tìm thấy trong mối phúc thứ sáu. Mối phúc ấy nói: "Phúc cho ai có
lòng trong sạch, vì họ sẽ xem thấy Thiên Chúa".
Người có lòng trong sạch là những người
giống như những vị thánh, trung tâm toàn bộ đời sống của họ là Thiên Chúa.
Trong sự nghèo khổ, họ nhận ra sự giàu có thật chỉ tìm thấy nơi Thiên Chúa. Nơi
sự đau buồn của họ, họ khám phá ra rằng niềm vui thật chỉ cảm nghiệm được ở nơi
Thiên Chúa. Nơi sự thấp hèn, họ hiểu rằng chỉ có Thiên Chúa mới có thể nâng họ
lên sống xứng đáng một con người. Trong sự đói khát, họ thấy giá trị của Thánh
Thể, bởi Mình và Máu Chúa sẽ dẫn chúng ta tới bữa tiệc vĩnh cửu trên quê trời.
Họ bày tỏ lòng thương xót mà không báo thù, họ đem đến sự an bình chứ không oán
ghét, bởi vì họ biết rằng Thiên Chúa là nguồn mạch sự thương xót và bình an. Họ
sẵn lòng chịu bắt bớ, bách hại bởi vì họ cảm thấy đặc ân được đau khổ và ngay cả
cái chết chỉ là làm chứng cho sự thật.
Vì người có lòng trong sạch đặt trọng
tâm vào Thiên Chúa nên họ nhận biết Chúa Giêsu đã thực hiện những gì Người đã
rao giảng. Chúa Giêsu là người nghèo, người phải chịu nhiều đau buồn trong cuộc
thương khó của Người. Người đã trở nên thấp hèn, bị khinh khi như là một tội
nhân trên thập giá. Họ thấy Chúa Giêsu đã trải qua đói khát trong hoang địa để
chuẩn bị cho sứ vụ của Người, Người đã chuyển giao sự trống rỗng của người đến
cạn kiệt để rồi làm sung mãn chúng ta bằng sự sống và tình yêu của Người. Chúa
Giêsu đã biểu lộ lòng thương xót đối với những người tội lỗi và Người đã hiến
dâng mọi sự như là đặc ân sự bình an của Người.
Mặc dù không có mối phúc nào là một lề
luật, chúng ta tự mình cũng phải thực hiện cho tốt: "Hãy trở nên giống
Chúa Giêsu. Hãy có lòng trong sạch. Hãy tập trung toàn bộ đời sống của bạn ở
nơi Thiên Chúa". Đó sẽ là lời khuyên tốt cho chính chúng ta. Trong việc
thực hành, chúng ta có thể làm trọn vẹn một điều mà Chúa Giêsu hôm nay bảo chúng
ta làm: "Hãy sung sướng và vui mừng vì phần thưởng của các con ở trên trời
thì rất lớn lao".
12. Đường hẹp – Radio Veritas Asia
(Trích từ 'Sống Tin Mừng')
Khi Mẹ Têrêsa thành Calcutta còn sống,
người ta kể lại rằng, một lần Mẹ đang rửa những vết ghẻ lở của người bị bệnh
cùi thì có một thương gia giàu có đến thăm nhà, thấy Mẹ đang làm việc ấy, ông
phát biểu ý kiến như sau: - Nếu có ai cho tôi một triệu bạc để làm công việc
như Mẹ đang làm thì tôi cũng không dám làm.
Mẹ Têrêsa vui vẻ trả lời: - Tôi cũng
vậy, nếu có ai cho tôi một triệu bạc tôi cũng không thể làm điều ông làm.
Tiền của vật chất không phải là yếu tố
chính và chúng ta cũng không thể nào đo lường giá trị tinh thần của hành động
con người bằng tiền của vật chất, nhưng đây là điều mà thường tình mỗi người
chúng ta cũng dễ bị cám dỗ suy nghĩ và hành động như vậy, đó là hành động theo
sự khôn ngoan của xác thịt, theo như bài đọc hai của thánh Phaolô Tông đồ nhắc
lại cho chúng ta.
Bài Phúc âm hôm nay trình bày cho chúng
ta một căn bản, một hiến chương cho đời sống đức tin của mình, đời sống đức tin
của người môn đệ Chúa qua mọi thế hệ, trong mọi hoàn cảnh và chúng ta không thể
nào hiểu được, cũng như không thể nào sống thực hành những điều phúc.
Tám mối phúc thật được ghi lại trong
Phúc Âm hôm nay, trong một kiểu nói phàm trần với tâm thức tự nhiên con người,
với lẽ khôn ngoan xác thịt như cách nói của thánh Phaolô Tông đồ. Chìa khoá để
hiểu và sống những điều Phúc âm mà chính Chúa Giêsu Kitô đã dạy chúng ta là
chính Ngài là Chúa. Chúa đã sống trọn vẹn những điều phúc này, nhất là trên núi
Sọ khi để mình bị treo trên thập giá trong một hành động dâng hiến tuyệt đỉnh
chính mình cho Thiên Chúa Cha, và chỉ khi nào chúng ta như Chúa Giêsu trên thập
giá, bắt chước Chúa Giêsu trên thập giá chúng ta mới hiểu và mới sống như Chúa
đã sống.
Không phải vì tiền của, vì danh vọng mà
Mẹ Têrêsa có thể thực hiện những gì Mẹ đã làm cho những anh chị em thấp cùng
nhất trong xã hội, nhưng chính là tình yêu Chúa tràn đầy nơi Mẹ, không phải nhờ
tiền của mà con người có thể sống thánh thiện, sống thương xót, sống hòa bình,
sống công bằng, sống mối phúc thật như Chúa Giêsu đã dạy, nhưng chính là tình
yêu Chúa, nhờ Chúa biến đổi, nhờ sống kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta mới
có đủ can đảm để sống những gì Chúa mời gọi chúng ta sống: "Phúc cho những
ai có tinh thần nghèo khó, phúc cho những ai hiền lành, phúc cho những ai đau
buồn, phúc cho những ai đói khát điều công chính, phúc cho những ai hay thương
xót, phúc cho những ai có lòng trong sạch, phúc cho những ai ăn ở thuận hòa,
phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính".
Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được
sống như Chúa, được sống kết hiệp với Chúa mỗi ngày một hơn để chúng ta có thể
hiểu và sống tám mối phúc thật như Chúa đã sống. Xin Chúa giúp mỗi người chúng
ta được trung thành với đức tin. Amen.
13. Phúc thay
Trong Kinh Thánh, "Hạnh phúc"
là tiếng ca tụng người biết làm cho ơn Chúa ban sinh lợi, nên họ cảm thấy hạnh
phúc ngay từ bây giờ, và nếu họ luôn trung thành với con đường đã chọn, họ sẽ
được nhìn nhận là người công chính trong giờ phán xét."(Tin Mừng thánh
Matthêu, Centurion, 1991, tr.58)
1. Bốn mối phúc đầu của Matthêu: ca
tụng người biết hướng về Thiên Chúa và từ chối bạo lực.
* "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo
khó, vì Nước Trời là của họ". Sự nghèo khó mà mối phúc này nhắm tới không
phải là sự nghèo khó về vật chất; nhưng là thái độ của một người nghèo tự nhận
mình không có quyền đòi hỏi gì trước mặt Chúa, trái lại mọi sự mình có đều do
bàn tay nhân từ của Thiên Chúa.
J. Potel chú giải: "Người Kitô hữu
phải nhìn nhận mình đã lãnh nhận sự sống nơi Thiên Chúa; mà Đức Giêsu dạy rằng
phải nhận ra và yêu mến Ngài như một người Cha. Sự nghèo khó tinh thần chính là
chấp nhận từ thẳm sâu lòng mình rằng sự sống là quà tặng thường xuyên của người
Cha này. Thiên Chúa không cần lời khen ngợi, Ngài tự hiến một cách vô vị lợi:
đó chính là nguồn mạch sự khiêm nhường Kitô giáo. Sự khiêm nhường triệt để này
tạo nên phẩm giá của một con người và của tất cả mọi người. Thật vậy, phẩm giá
này không dựa trên sự giàu có cũng như những đức tính nhân bản, nhưng dựa trên
tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mỗi người, nhất là người nghèo. Chính đây là
trọng tâm của Tin Mừng vĩnh cửu".
* "Phúc thay ai hiền lành, vì họ
sẽ được đất hứa làm gia nghiệp". Mối phúc thứ hai này nối dài mối phúc
trên từ một câu Thánh Vịnh 36: "Những ai hiền lành sẽ chiếm hữu trái đất
và sẽ hưởng một nền hòa bình sung mãn". J. Potel nói tiếp: "Sự hiền
lành là hoa trái của sự khó nghèo. Người nghèo thì không có phương tiện thể lý
hay pháp lý bảo vệ mình. Vậy phải chăng người nghèo hoàn toàn trơ trọi trước
những người không nhìn nhận quyền của mình? Không, vũ khí của họ chính là sự
hiền lành, sự nhẫn nại, sự tín nhiệm vào Thiên Chúa. Sự chiến thắng vĩnh viễn
không đến từ võ lực. Ngày nay người ta gọi nó là kết quả của sự không dùng bạo
lực".
* "Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ
được Thiên Chúa ủi an". Tận đáy sâu của nỗi tuyệt vọng, người tín hữu vẫn
thấy ánh lên một niềm hy vọng: "Tia hy vọng này là khuôn mặt của Thiên
Chúa. Ngài đến gần để an ủi người đắm chìm trong cơn thử thách".
* "Phúc thay ai khao khát nên
người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng". Rảo qua toàn bộ
Kinh Thánh, Sự công chính ở mối phúc thứ bốn được hiểu là "tự điều
chỉnh" tâm hồn và thái độ theo cách thế Thiên Chúa đã làm. Thiên Chúa ở
đây là Đấng đã đến để gặp gỡ con người và nối kết với họ bằng giao ước. Như vậy
'trọn đời mình, người Kitô hữu tìm cách đáp ứng những đòi hỏi tinh thần và luân
lý do giao ước này đề ra bằng cách thực hiện "sự công chính" đối với
Thiên Chúa và đối với đồng loại'.
2. Bốn mối phúc sau hướng đến thái độ
đặc trưng của người môn đệ Đức Kitô
* "Phúc thay ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương". Khi chiêm ngắm cách Thiên Chúa, Đấng
nhân từ và xót thương cư xử với ta, người môn đệ của Đức Kitô học biết tha thứ
những xúc phạm và trợ giúp anh em mình sống trong cảnh tuyệt vọng.
* "Phúc thay ai có tâm hồn trong
sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa". Sự trong sạch ở đây không có
liên quan trực tiếp đến tình dục. Nó cũng không phải là sự chính trực, sự không
giả dối, sự đi đôi giữa nói và làm. Sự trong sạch đây là con đường hợp nhất với
Thiên Chúa.
* "Phúc thay ai xây dựng hòa bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa". Jean Potel giải thích: "Đối với
Đức Giêsu, sống hòa bình bằng cách rèn luyện một đời sống hòa hợp và an lành
không đủ, Ngài đòi một đức ái tích cực, nhất là khi không có hòa bình trong gia
đình, nơi cộng đoàn Kitô hữu. Hòa bình sẽ được gọi không có biên giới cũng như
tình yêu Thiên Chúa không có giới hạn. Những người xây dựng hoà bình là con Thiên
Chúa: dĩ nhiên nhiệm vụ của con là tiếp tục công việc của Cha mình, mà điều Cha
trên trời muốn là đem hoà bình đến cho con người".
* "Phúc thay ai bị bách hại vì sự
công chính, vì Nước Trời là của họ". Trung thành tuân giữ giáo huấn của
Đức Kitô như trong các mối phúc không phải là không có những hiểu lầm, những
đối nghịch, những bách hại, vì những giá trị Nước Trời đi ngược lại với những
giá trị thường được đề cao như những tiêu chuẩn cuộc sống. Đối với Đức Giêsu,
những môn đệ bị bách hại của Ngài là những người nghèo thật sự của mối phúc thứ
nhất. Họ chỉ có lời hứa Nước Trời cho những khổ đau họ gánh chịu.
Tất cả các mối phúc đều vẽ lên một
khuôn mặt, đó là khuôn mặt của Đức Giêsu. Jean Potel kết luận: "Đức Giêsu
hân hoan đón nhận Nước Trời mà Ngài hết lòng chờ đợi và đã hoàn toàn dấn thân
vì Nước Trời ấy. Cuộc đời, lời nói, hành vi của Ngài đều biểu lộ nơi Ngài một
con người nghèo hèn, hiền lành, thương xót, trong sạch, kiến tạo hòa bình; một
người chỉ sống vì Nước Trời đang đến, vì triều đại của Đấng mà các môn đệ Ngài
sẽ cầu khẩn khi gọi là Cha".
14. Suy niệm của Lm. Thiện Cẩm
PHÚC THAY AI CÓ TÂM HỒN NGHÈO KHÓ
Phật Thích Ca mở đầu bài thuyết pháp
đầu tiên tại Bê-na-rét bằng câu: "Vạn sự sự vô thường, vạn sự khổ",
nghĩa là mọi sự đổi thay không ngừng, nên mọi sự chỉ là khổ. Sinh, lão, bệnh,
tử: Con người sinh ra để rồi già yếu, bệnh tật, và cuối phải chết. Rõ thật cuộc
đời chỉ là bể khổ!
Năm trăm năm sau, Đức Kitô xuất hiện
bên đất Pa-lét-tin, dõng dạc tuyên bố trong bài giảng đầu tiên: "Phúc thay
ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ!" (Mt 5,3)
Một người mang tiếng là bi quan yếm
thế, người kia lại bị coi như không tưởng, lạc quan quá cỡ. Một bên coi đời là
bể khổ, còn một bên lại nhìn thấy màu hồng trong cái thanh bạch trống trơn.
Người ta đã tốn khá nhiều giấy mực và
thời giờ sức lực để nghiên cứu, suy tư, bàn cãi về hai bài giảng đầu tiên của
Đức Phật và của Đức Giêsu.. Đã có cả những luận án trình bày và so sánh hai bài
giảng đó. Tuy nhiên có lẽ chẳng mấy ai hiểu được chính xác nội dung ý nghĩa của
hai bài giảng có tính cách ngôn sứ ấy. Vì thực ra, cả Đức Phật lẫn Đức Kitô,
đều không có chủ ý đề ra một lý thuyết về vấn đề hạnh phúc và đau khổ, mà chỉ
chia sẻ cho anh em nhân loại của các Ngài chính kinh nghiệm sống của mình. Kinh
nghiệm của Đức Phật là kinh nghiệm của một người đã đạt tới Chân Như, vượt ra
ngoài thế giới vô thường của những đam mê mù quáng, của sự phân chia đối kháng;
còn kinh nghiệm của Đức Kitô, là kinh nghiệm của một người thấy được sự tồn tại
trong cái mất (x. Mt 10,39), và sự sống trong cái chết (x. Ga 12,24-25)
Đức Phật chỉ nói lên cái lý do, cái
nguyên nhân làm cho người ta khổ, nhưng Người không bao giờ lên án cuộc đời,
cho nó chỉ là bể khổ. Đức Kitô cũng không bảo rằng muốn hạnh phúc thì phải là
kẻ khố rách áo ôm. Do đó, Matthêu đã có lý khi thêm ba chữ "có tâm
hồn" vào trong câu nói của Chúa, để xác định cho rõ cái nghèo hèn nào mới
thực sự đem lại hạnh phúc cho con người.
Trong cuộc đời, xưa cũng như ngày nay,
vào thời con người còn ăn lông ở lỗ, cũng như trong thời ở khách sạn 5 sao, vẫn
luôn luôn diễn ra những cảnh trái khoáy: nhiều người có đủ mọi điều kiện để
hạnh phúc, mà thực tế lại đau khổ khôn lường, còn những kẻ xem ra bần cùng tăm
tối, lại tràn trề hạnh phúc.
Thật ra ai cũng biết rằng nghèo khó
không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau.
Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc cho con người. Vấn đề
hạnh phúc chủ yếu ở cái TÂM. Bởi thế các bậc thánh hiền, bằng những ngôn ngữ
khác nhau, nhưng hầu như đều luôn luôn nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm
linh.
Chính đó là lý do tại sao Đức Giêsu đề
cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận khổ đau, yêu thích sự chính
trực, thương xót đồng loại, trong sạch, và biết xây dựng hòa bình. Thực ra tất
cả những đức tính trên đây là những đức tính của "người nghèo của Thiên
Chúa", của một anawim, theo truyền thống Kinh thánh. Người nghèo của Thiên
Chúa, không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ
trước hết hoàn toàn tin tưởng phó thác cậy trông nơi Chúa, biết sống cho Người
và cho anh em đồng loại của mình, lấy Chúa làm gia nghiệp, và luôn luôn sống
trong tình liên đới với anh em đồng loại, thực thi điều răn trọng nhất là mến
Chúa yêu Người.
Nói theo Đông phương chúng ta, thì hạnh
phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hòa điệu giữa lòng mình với lòng Trời,
giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống sao cho hợp lòng Trời và lấy lòng
của trăm họ làm lòng mình, "dĩ bách tánh tâm vi tâm" (ĐĐK XLIX,1).
Theo truyền thống Ấn Độ nói chung và
Phật giáo nói riêng, hạnh phúc là sukha, đó là tình trạng giống như tình trạng
của một bánh xe, mà trong đó mọi sự ăn khớp với nhau: vành xe, ổ trục và các
đũa xe đều tốt và nằm đúng vị trí, hòa hợp với các thành phần khác, do đó mà
bánh xe chạy trơn tru. Còn đau khổ là dukha, đó là tình trạng một bánh xe trục
trặc, vì có những thành phần hư hỏng hay không ăn khớp với những thành phần
khác.
Nói tóm lại, không ai sướng khổ một
mình hay chỉ tại mình, mà tất cả chúng ta liên đới và chịu trách nhiệm về hạnh
phúc cũng như đau khổ của nhau. Vì thế mà trong Tám mối phúc thật, Đức Giêsu
cho thấy hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa
chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.
15. Hạnh phúc – Lm. Nguyễn Ngọc Long
Hạnh phúc cần thiết cho đời sống mỗi
người từ khi mở mắt chào đời cho tới khi nhắm mắt từ giã cuộc sống trần thế, ai
củng mong muốn có hạnh phúc và ra công gắng sức để tìm hạnh phúc. Nhưng nếu hỏi
hạnh phúc là gì, và làm thế nào để có được hạnh phúc? Có lẽ không mấy ai có thể
cắt nghĩa cho rõ ràng được! Vì hạnh phúc không là điều đơn giản có thể thu tóm
trong một định nghĩa hay một công thức, hay một bài viết. Hạnh phúc cũng không
giống như chiếc áo, chiếc xe, hay cái nhà mà có thể vẽ ra thành hình hài có màu
sắc, hay có thể mua sắm làm ra được.
Hạnh phúc là điều cảm thấy trong tâm
hồn, trong cuộc sống, khi một biến cố, một lời nói cử chỉ mang lại niềm vui, mà
họ chờ đợi từ lâu. Thí dụ, khi thi đỗ hay lam ăn phát đạt gặp dịp may, con cháu
khỏe mạnh mau lớn, học hành giỏi giang, cước được người hằng mong ước, sang
đoàn tụ với gia đình, được khen tặng tán thưởng, được khích lệ an ủi, thoát
khỏi tai bay vạ gió, bình phục khỏe mạnh trở lại sau cơn bạo bệnh...
Trong Phúc âm, những người được Chúa
chúc phúc, những người được gọi là hạnh phúc, lại có đời sống trái ngược. Họ
phải gánh chịu cuộc sống đâu có gì sáng sủa mang lại hạnh phúc như chúng ta
hiểu. Trái lại họ phải chịu phần thiệt thòi, sống hy sinh chịu đựng nhiều hơn
là đàng khác! Tại sao Chúa lại gọi họ là những người có hạnh phúc? Phải chăng
đó chỉ là những lời an ủi để họ bằng lòng với số phận "chịu vậy" cho
xong?
"Phúc thay cho những ai có tâm hồn
nghèo khó, vì nước trời là của họ" (Mt 5,3). Tất cả mọi người ai cũng cần
có cuộc sống no đủ cơm ăn áo mặc, nhà ở, việc làm, cơ hội học hành thăng tiến
cuộc sống cho xứng đáng nhân vị đời sống con người. Nhưng đời sống con người
đâu chỉ gói trọn trong phạm vi bốn bức tường nhà ở của mình. Nó còn liên đới
lan rộng và tùy thuộc với môi trường, với mọi người xung quanh nữa. Và đời sống
con người đâu phải chỉ có nhu cầu cho thể xác, cho bao tử, cho sức khỏe, nhưng
còn có nhu cầu thiêng liêng tinh thần nữa: Lòng tin tưởng biết ơn Đấng Tạo Hóa.
Người nghèo khó trong tâm hồn là người
nhìn nhận Chúa là Cha đời mình và sống bác ái, chia sẻ với người xung quanh
mình. Chính tình liên đới đó làm cho cuộc sống có ý nghĩa, có hạnh phúc.
Dưới con mắt của mọi người, những ai
lâm cảnh hoạn nạn buồn sầu tủi khổ, họ là những người bất hạnh - Thử lòng trong
đời đã có ai chưa một lần nào lâm cảnh này? - Nhưng đức tin dạy chúng ta: Thiên
Chúa không bỏ họ một mình trong lúc sầu khổ, như Ngài đã hứa: "Con đừng
sợ, trong cơn sầu khổ, Ta sẽ cứu độ con" (Is 43,1). Và trong hoàn cảnh
bước đường cùng vẫn có những người anh chị em đồng loại sẵn sàng an ủi, giúp đỡ
nhau. Điều này rất cần cho con người. Và chính điều này mang lại hạnh phúc cho
cuộc sống.
Trong lúc gặp bước đường cùng khổ gian
nan, mà biết có người cùng chia sẻ, cùng đồng hành với, sẽ cảm thấy được an ủi.
Đời sống được an ủi, là đời sống có hạnh phúc.
Chúa chúc phúc cho những người có lòng
nhân từ, lòng thông cảm với người khác (Mt 3,7-8). Có thể họ bị người đời cho
là khờ dại hay "ăn cơm nhà, vác ngà voi hàng xóm". Nhưng đâu phải như
thế. Họ là những người kiến tạo hoà bình. Vì họ không lợi dụng người anh chị em
mình lúc yếu thế sa cơ để kiếm lợi cho riêng mình như cảnh "dậu đổ bìm bịp
leo!", nhưng tìm cách tương trợ lẫn nhau "chị ngã em nâng".
Họ là những người không tìm cách, tìm
dịp xa gần nhục mạ bôi nhọ danh dự người khác. Lòng đạo đức nhân bản là nền
tảng đời sống đức tin của họ, như lời Chúa dạy: Yêu thương, tha thứ cả kẻ bách
hại các con (Mt 5,44).
Và trong đời sống, thiết tưởng ai cũng
đã có kinh nghiệm quý báu này: Ngày hôm nay người này có thể là người thù địch,
hay người không đồng ý kiến, tư tưởng với ta, nhưng ngày mai họ có thể sẽ trở
thành bạn, người làm ơn cho ta! Nhà chí sĩ Nguyễn Trãi thuở xưa trên bình diện
quốc gia dân tộc trong hịch Bình Ngô Đại Cáo đã kêu gọi: "Lấy chí nhân
thay cường bạo!" làm nền móng xây dựng hòa bình cho xã hội, kiến tạo tình
người, bắc chiếc cầu thông cảm tha thứ làm hoà với nhau.
Những người được Chúa chúc phúc, được
Chúa hứa cho đời sống hạnh phúc là những ai? Họ là những người tin theo Chúa,
sống rao giảng tình yêu Chúa, tình yêu bác ái tha thứ, thắp sáng niềm hy vọng
cho mọi người bằng chính đời sống mình trong môi trường họ sinh sống.
Qua đời sống như thế "Danh Chúa
được cả sáng và Nước Chúa trị đến". Và người khác tìm thấy niềm vui hạnh
phúc cho tâm hồn khi nhận ra tình yêu thương, tương trợ nhau.
16. Tám Mối Phúc
Khi còn bé tôi nghĩ rằng nếu đào một
cái lỗ xuống đất và cứ tiếp tục đào, đào mãi, tôi có thể làm thành một con
đường hầm từ Việt Nam xuyên qua trái đất sang đến Hoa Kỳ. Tất cả mọi người Mỹ,
nhà cửa, ruộng vườn... là thế giới lộn ngược!
Đó là lý luận của trẻ con. Nhưng một
thế giới lộn ngược đối với Chúa Giêsu không phải là một tư tưởng quá điên rồ.
Chúa Giêsu trong bài giảng trên núi hôm nay, thánh Matthêu đã đưa ra Tám Mối
Phúc làm đảo lộn những giá trị và sự khôn ngoan của con người. Những phúc lành
của Chúa Giêsu là những giá trị bị lộn ngược.
Đang khi người ta chúc "Phúc cho
những ai giàu có" thì Đức Giêsu lại nói "Phúc cho những ai có tinh
thần nghèo khó". Đang khi người ta chúc "Phúc cho những ai lanh
lợi" thì Đức Giêsu nói "Phúc cho những ai hiền lành". Đang khi
người ta chúc phúc "Phúc cho những ai vui vẻ" thì Đức Giêsu nói
"Phúc cho những ai đau buồn". Người ta chúc "Phúc cho những ai
tiệc tùng linh đình". Đức Giêsu nói "Phúc cho những ai đói khát điều
công chính". Người ta ước ao "Phúc cho những ai có quyền hành".
Đức Giêsu nói "Phúc cho những ai hay thương xót người". Người ta muốn
"Phúc cho những ai có thân hình đẹp đẽ thon thả". Đức Giêsu nói
"Phúc cho những ai có lòng trong sạch". Người ta muốn "Phúc cho
những ai gây tin giật gân". Đức Giêsu nói "Phúc cho những ai ăn ở
thuận hòa". Đang khi người ta muốn "Phúc cho những ai có đủ tiền mướn
luật sư giỏi" thì Đức Giêsu nói "Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ
công chính". Lý do của sự đảo ngược giá trị này vì Chúa Giêsu rao giảng
với tiêu chuẩn và uy quyền của thần linh. Chúa tập trung vào việc yêu mến Thiên
Chúa và thương yêu tha nhân, còn người trần gian lại tập trung vào sự hưởng thụ
ích kỷ và thỏa mãn khoái lạc.
Triết gia Aristốt xưa kia đã nói:
"Hạnh phúc (happiness) là cái mà tất cả mọi người tìm kiếm". Đó là
điều tự nhiên của con người. Sự ao ước này có nguồn gốc thần linh: Thiên Chúa
đã đặt nó trong trái tim con người để lôi kéo con người lại với Người. Do đó
những điều con người nghĩ là hạnh phúc, nhưng không đưa họ về với Thiên Chúa,
đều là hạnh phúc giả tạo, khoái cảm mau qua, và không phải là phúc lành thực
sự.
Người nghiện rượu tin rằng hạnh phúc
nằm trong chai bia, chai rượu. Một chai chưa đủ, rồi hai, ba chai. Sau đó lái
xe về nhà, vượt đèn đỏ, gây tai nạn. Sáng sớm tỉnh dậy thấy mình mẩy băng bó
đầy những thương tích. Từ đó anh học biết rằng hạnh phúc hứa ban bởi rượu là
giả tạo, hoàn toàn không phải là phúc lành tí nào!
Thế gian có thể tìm kiếm được khoái cảm
mà họ muốn, nhưng cũng có thể mất. Một sự thay đổi về tài sản của cải, một sự
suy sụp về sức khỏe, một kế hoạch bị thất bại, một tham vọng không đạt được, và
ngay cả một sự thay đổi của thời tiết... cũng có thể lấy đi cái hạnh phúc mong
manh do thế gian mang lại.
Phúc lành của người Kitô hữu hoàn toàn
khác biệt. Không một yếu tố ngoại giới nào có thể ảnh hưởng đến, hay hủy diệt
nó được. "Và niềm vui của các con", Đức Giêsu đã nói "không ai
lấy mất được". "Các mối phúc thật cho thấy một trật tự của hạnh phúc
và ân sủng, của vẻ đẹp và bình an"
17. Phúc Tám Mối
Vào năm 258, hoàng đế Valerian ban lệnh
bắt tất cả các giám mục, linh mục và thầy sáu vào tù. Đức Giáo Hoàng Sixtus II
là người bị bắt đầu tiên. Ngài liền tin tưởng trao lại tài sản của Giáo Hội cho
thầy sáu Laurensô với những lời hướng dẫn phải phân phát cho các bà góa và trẻ
mồ côi. Thầy sáu Laurensô đã làm đúng như lời dặn của Đức Giáo Hoàng Sixtus II.
Khi Đức Giáo Hoàng Sixtus II bị đem đi
hành quyết, Laurensô đã đi theo ngài khóc lóc thảm thiết: "Thưa Đức Thánh
Cha, ngài vội vàng đi đâu vậy? Và con phải làm gì đây? Tại sao ngài lại đi đến
nơi hiến tế mà không có thầy sáu, người phụ giúp bàn thờ của ngài? Con đã thi
hành lệnh truyền của ngài về tài sản của Giáo Hội". Đức Giáo Hoàng đáp:
"Con yêu dấu, ta sẽ không bỏ rơi con đâu. Con sẽ theo ta trong ba ngày
nữa".
Ngay sau đó, Laurensô đã bị bắt. Ông
quận trưởng đã yêu cầu Laurensô phải trao nộp tài sản của Giáo Hội. "Giáo
Hội thực sự rất giàu có", Laurensô trả lời "Tôi sẽ chỉ cho ông thấy
những tài sản đó, nhưng hãy cho tôi một thời gian ngắn để gom góp lại. Thời
gian đã được ban, và Laurensô đã đi đến với các bà góa, trẻ mồ côi, những người
què quặt, và già yếu mà Giáo Hội đã giúp đỡ. Ngài đã qui tụ họ lại xếp thành
hàng dài đứng trước cửa nhà thờ, rồi mời ông quận trưởng đến và nói: "Thưa
ông, đây là những tài sản của Giáo Hội!" Viên quận trưởng nổi giận và hứa
sẽ ban cho Laurensô một cái chết đặc biệt: từ từ và đau đớn.
Sau đó Laurensô đã bị xích vào vỉ sắt
nướng thịt, nằm trên ngọn lửa cháy riu riu. Tuy chịu cực hình, nhưng lòng khát
khao của ngài hướng về Thiên Chúa quá lớn lao đến độ ngài không còn cảm thấy
đau đớn. Nằm trên vỉ sắt một lúc, ngài nói với ông quận trưởng: "Xin ông
hãy lật sang mặt bên kia, bên này đã chín đủ rồi". Quân lính đã làm y như
vậy. Sau đó ngài lại nói: "Bây giờ cả hai bên đã chín, tất cả đã sẵn sàng,
hãy đem ra phục vụ!" Rồi ngài cầu nguyện cho tòa thánh Rôma, để nhờ đó,
thế giới có thể đón nhận được đức tin. Đang khi ngước mắt hướng lên trời, ngài
đã tắt hơi thở cuối cùng trong niềm vui hân hoan được trở về với Thiên Chúa
hằng sống.
Nơi Thiên Chúa, người nghèo khổ đặt tất
cả sự phó thác tin cậy, người đau buồn tìm sự ủi an, người tội lỗi xin ơn tha
thứ, người ốm đau được ơn chữa lành, kẻ bị bách hại có sức mạnh và lòng can đảm
phi thường... Họ hoàn toàn tùy thuộc nơi Ngài. Vì thế tất cả phúc lành được
trao ban cho họ.
Mẹ Têrêsa Calcutta là một người phụ nữ
sống cho tha nhân. Suốt đời của mẹ sống với Phúc Tám Mối của Chúa Giêsu. Mẹ
phục vụ những người nghèo khó nhất trần gian là để bắt chước lòng nhân từ của
Chúa Giêsu. Ngay cả những người không phải là Kitô hữu đã nhìn vào mẹ Têrêsa và
thấy mẹ có một điều gì đó giống như Thiên Chúa và có thể nối kết với Ngài. Một
người ăn xin đang hấp hối bên vệ đường thành phố Calcutta, sau khi được cứu
sống đã hỏi mẹ Têrêsa: "Trên trần gian này, có điều gì giống với Thiên
Chúa không?" Mẹ trả lời: "Không, tôi đang cố gắng là một cái gì đó
giống như Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa".
Cha Henri Nouwen, tác giả nổi danh của
nhiều tác phẩm tu đức, khi ngài còn sống đã gặp mẹ Têrêsa ở Rôma. Ngài nói rằng
điều đáng chú ý nhất nơi mẹ Têrêsa, là mẹ thường xuyên tập trung vào Đức Giêsu.
Dân chúng bu quanh lấy mẹ và đặt biết bao nhiêu câu hỏi. Mẹ đã trả lời với một
nguyên tắc duy nhất: tập trung tất cả nơi Đức Giêsu. Những câu trả lời của mẹ,
mới nghe có vẻ "đỏ mặt" vì đơn sơ và ngây thơ, phản ảnh những thói
quen của một người sống hoàn toàn tùy thuộc vào Thiên Chúa. Chính cha Nouwen
cũng đã cảm nhận được một sức mạnh dịu dàng và êm đềm phát ra từ những câu trả
lời đó.
Phúc Tám Mối là những con đường dẫn ta
về Nước Trời theo gương Chúa Giêsu đã đi. Đó không phải là tám con người khác
nhau, nhưng là tám bức hình chụp từ những góc cạnh khác nhau của cùng một
người, người đặt hoàn toàn tin tưởng và tùy thuộc vào Chúa Giêsu Kitô, người
sống theo giảng thuyết và trở nên giống như Ngài.
Ở Hoa Kỳ hằng năm những hãng xăng dầu
thường phát hành miễn phí những tấm bản đồ chỉ đường. Lịch sử của những tấm bản
đồ chỉ đường này bắt đầu vào năm 1895, khi tờ báo "Chicago Times
Herald" vẽ ra lộ trình của cuộc đua xe hơi từ Chicago tới Waukegan cho các
độc giả theo dõi. Từ đó trở đi những người lái xe đã bắt đầu đòi hỏi những bản
đồ chỉ đường giữa các thành phố. Những tấm bản đồ vẽ ra những con đường tốt
nhất, những chỗ phải đi đường vòng, những điều kiện của xa lộ, những chỗ nghỉ
ngơi, đổ xăng và những điểm cần phải chú ý dọc theo bên đường...
Sách Giáo lý Công giáo giải thích rằng:
"Trong suốt cuộc đời của Chúa Giêsu, Ngài luôn tỏ mình là "khuôn mẫu
của chúng ta". Ngài là "Con người hoàn hảo" và Ngài mời gọi
chúng ta đến làm môn đệ Ngài, bước theo Ngài: trong sự hạ mình của Ngài. Ngài
đã để lại cho ta một gương để noi theo; bằng lời cầu nguyện của Ngài, Ngài thu
hút ta vào việc cầu nguyện; bằng sự khó nghèo của Ngài, Ngài kêu gọi chúng ta
hãy tự ý chấp nhận cảnh thiếu thốn và những cuộc bách hại".
Phúc Tám Mối là tất cả những gì Chúa
Kitô đã sống, Ngài muốn chúng ta sống những điều đó trong Ngài, để Ngài sống
trong chúng ta như Công đồng Vatican II đã nói: "Do sự Nhập Thể của Ngài,
một cách nào đó Con Thiên Chúa đã kết hiệp với mỗi người chúng ta".
LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THÁNH
1. Tiến dâng cho Chúa
Suy Niệm
Sống là chấp nhận thuộc về. Mở mắt chào
đời là thuộc về một gia đình, một đất nước. Càng sống con người càng thấy mình
thuộc về nhiều hơn. Thuộc về một nhóm, một giáo xứ, một nơi làm việc...
Khi đôi bạn trẻ yêu nhau, họ muốn trái
tim của họ thuộc về nhau. Thuộc về nhau là nền tảng của sự chung thủy.
Đối với Do thái giáo, bé trai đầu lòng
mới sinh ra thì thuộc về Chúa, được thánh hiến dành riêng cho Chúa. Cha mẹ cậu
phải bỏ ra một món tiền tượng trưng để chuộc cậu về cho mình (x. Ds 18,15-16;
Xh 13,13)
Bài Tin Mừng hôm nay không nói đến
chuyện chuộc con, nhưng lại nói đến việc bà Maria và ông Giuse tiến dâng con
trai đầu lòng cho Chúa.
Đức Giêsu đã sống nghiêm túc sự tiến
dâng này suốt đời. Ngài thuộc về Thiên Chúa Cha một cách trọn vẹn. Từ khi vào
đời làm người, Ngài đã nói: "Này tôi xin đến để thực thi ý Chúa." (Dt
10, 9)
Năm 12 tuổi, cậu Giêsu đã cố ý ở lại
Đền Thờ, mà cậu gọi là nhà Cha của cậu (x. Lc 2, 49).
Khi chịu phép rửa ở sông Giođan, Đức
Giêsu ý thức rõ hơn mình là Con, thuộc về Cha, được Cha sai vào giữa lòng nhân
loại (x. Mc 1,11).
Có biết bao cám dỗ trong những năm rao
giảng, cám dỗ từ ma quỷ, từ đám đông, từ môn đệ. Cám dỗ lôi kéo Ngài sống cho
mình, và không muốn thuộc về Cha, Đấng sai Ngài đi.
"Các lời Thầy nói với anh em, Thầy
không tự mình nói ra" (Ga 14,10).
"Con không thể tự mình làm bất cứ
điều gì ngoại trừ điều Con thấy Chúa Cha làm" (Ga 5,19).
Đức Giêsu không tự mình nói, tự mình
làm, vì Ngài đã vượt qua được cái tôi, và để cho Cha chiếm hữu toàn bộ cuộc
sống.
Nếu chúng ta dám nói và làm theo ý Cha,
chúng ta sẽ giống Đức Giêsu: thuộc trọn về Thiên Chúa.
Thuộc về Thiên Chúa phải là nền tảng
chi phối mọi tương quan của ta với thụ tạo khác.
Cậu bé Giêsu được đưa lên Đền Thờ lần
đầu tiên.
Chúng ta thấy một đôi vợ chồng nghèo
với đứa con nhỏ, đứng lẫn trong đám đông, chờ đến phiên mình. Ai có mắt để thấy
được sự lớn lao của mầu nhiệm?
Si-mê-on: một người công chính và mộ
đạo, một người đầy Thánh Thần và sống trong chờ đợi. An-na: một góa phụ già nua
phụng thờ Chúa đêm ngày, trong ăn chay và cầu nguyện.
Để thấy Chúa trong cái đều đặn, bình
thường, buồn tẻ, cần có một đời sống đạo đức sâu xa.
Chúa có thể gặp ta như một sự tình cờ,
nhưng thật ra lại là kết quả của những năm dài chuẩn bị.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn hãy chia sẻ cho biết hiện nay bạn
đang thấy mình "thuộc về" những người nào hay những tập thể nào. Sự
thuộc về mạnh nhất của bạn hiện nay đặt ở đâu? Bạn thấy có nguy hiểm gì không?
Thuộc về Thiên Chúa, thuộc về tha nhân:
có khi nào bạn cảm nghiệm điều đó một cách mãnh liệt không? Xin chia sẻ.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
Sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc
về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng
có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái
rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến
khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những
bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù
phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước
khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về
con từ lâu. Amen.
2. Tiến dâng Đức Giêsu cho Thiên Chúa -
JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Gia đình của Đức Giê-su tôn trọng lề
luật như thế nào? Tại sao phải tôn trọng lề luật?
2. Các kinh sư Do Thái là những người
giữ các luật tôn giáo một cách rất nhiệm nhặt. Họ có vì thế mà trở nên công
chính trước mặt Thiên Chúa không? Tại sao? Bạn rút ra được bài học gì cho việc
giữ luật của bạn?
3. Tình yêu và lề luật, cái nào là mục
đích, cái nào là phương tiện? Cái nào làm cho bạn trở nên công chính, thánh
thiện?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se tôn
trọng lề luật
Bài Tin Mừng cho thấy Đức Ma-ri-a và
thánh Giu-se đã chu toàn những tập tục của luật Mô-sê liên quan đến việc hạ
sinh Đức Giê-su. Luật Mô-sê qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt
tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21). Khi được 1
tháng tuổi, trẻ phải được đem tới đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con
đầu lòng - dù là người hay là thú vật - đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì
nó thuộc về Ngài, rồi phải chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13,2.12-13; Ds
18,15-16). Nếu sinh con trai thì khi nó được 40 ngày, hoặc nếu sinh con gái thì
khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy uế, và phải dâng lễ toàn thiêu
bằng một con chiên con, người nghèo có thể thay thế bằng một đôi chim gáy hay
một cặp bồ câu non như Đức Ma-ri-a đã làm (x. Lv 5,7; 12,8). - Mặc dù biết Đức
Giê-su, con của mình, là Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se vẫn tuân
thủ tất cả những gì lề luật đòi buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.
2. Vấn đề: có nên giữ luật như các kinh
sư Do Thái không?
Như vậy là chúng ta phải nghiêm chỉnh
tuân giữ lề luật. Nhưng một vấn đề rất cụ thể và hết sức thiết thực đặt ra cho
chúng ta là: các kinh sư Do Thái, những người Pha-ri-sêu, nổi tiếng là giữ luật
một cách nhiệm nhặt, nhưng lại bị Đức Giê-su chê trách rằng họ chẳng hề tuân
giữ lề luật. Thật vậy, Đức Giê-su đã từng tuyên bố với các kinh sư Do Thái
rằng: « Ông Mô-sê đã chẳng ban Lề Luật cho các ông sao? Thế mà không một ai
trong các ông tuân giữ Lề Luật!» (Ga 7,19). Stê-pha-nô cũng nói với các kinh sư
Do Thái tương tự như thế trước khi bị họ ném đá chết: «Các ông là những người
đã lãnh nhận Lề Luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ» (Cv
7,53). - Vậy phải giữ luật như thế nào mới được gọi là thật sự giữ luật? mới
đẹp lòng Thiên Chúa? mới trở nên thánh thiện đích thực?
3. Cần phân biệt luật tổng quát và luật
chi tiết
Trong tôn giáo, lề luật là những điều
mà mọi tín đồ phải thực hiện hay tuân giữ để thực hiện tinh thần hay mục đích
của tôn giáo: nên trọn lành, được cứu rỗi. Luật lệ gồm hai phần mà chúng ta cần
phân biệt:
• Phần tinh thần, mang tính tổng quát,
phát xuất từ Thiên Chúa. Phần này - tương tự như hiến pháp trong một quốc gia -
là những nguyên tắc mang tính tổng quát, nhưng hết sức quan trọng. Có thực hiện
được những nguyên tắc tổng quát này thì mới đạt được mục đích của tôn giáo.
Trong Ki-tô giáo, có hai nguyên tắc tổng quát nhất là: «Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí
khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình» (Lc 10,27); «Tất cả Luật
Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy» (Mt 22,40).
Hai nguyên tắc này đã được thánh
Phao-lô và Gia-cô-bê tổng hợp lại thành một nguyên tắc duy nhất: «Ai yêu người,
thì đã chu toàn Lề Luật (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8.10);
«Anh em hãy mang gánh nặng cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Ki-tô»
(Gl 6,2); «Luật Kinh Thánh được đưa lên hàng đầu là: Ngươi phải yêu người thân
cận như chính mình» (Gc 2,8). Chính Đức Giê-su cũng tuyên bố rất rõ ràng: «Thầy
ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu
thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,35).
• Phần cụ thể, mang tính chi tiết,
thường do con người lập nên bằng cách suy diễn từ những điều luật tổng quát
trên cách áp dụng cụ thể những điều luật ấy trong mọi tình huống của đời sống
con người. Phần này - tương tự như luật pháp trong một quốc gia - gồm những
điều luật cụ thể giúp thể hiện một cách chi tiết những điều luật tổng quát
(trong quốc gia là hiến pháp). Ki-tô giáo có vô số điều luật - trong giáo luật
cũng như trong từng lãnh vực của tôn giáo - nhằm cụ thể hóa và chi tiết hóa hai
nguyên tắc tổng quát «mến Chúa, yêu người» nói trên. Mọi Ki-tô hữu đều phải cố
gắng thực hiện những qui định mang tính chi tiết này, để nhờ đó thực hiện cách
hoàn hảo hai nguyên tắc tổng quát trên.
4. Giá trị của hai thứ luật trên
Những điều luật căn bản, mang tính tổng
quát thì có giá trị tuyệt đối, con người phải thực hiện trong bất kỳ tình huống
nào, và không hề có luật trừ. Đó là luật phát xuất từ Thiên Chúa. Theo tinh
thần của đoạn Tin Mừng Mt 25,31-46 thì Thiên Chúa chỉ phán xét con người theo
điều luật tổng quát này của Ngài mà thôi.
Những điều luật mang tính chi tiết đều
phải nhằm giúp con người thực hiện điều luật tổng quát trên trong những tình
huống cụ thể hơn. Do đó, chúng chỉ có giá trị khi nhằm mục đích thực hiện hoàn
hảo những nguyên tắc tổng quát trên và khi phù hợp với mục đích ấy. Do đó, bất
cứ điều luật chi tiết nào nếu đem áp dụng trong những hoàn cảnh cụ thể mà phản
ảnh đúng hay phù hợp với những nguyên tắc tổng quát trên, thì người tín hữu
buộc phải tuân giữ. Trái lại, nếu trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, việc áp
dụng những luật cụ thể này lại đi ngược với tinh thần của điều luật tổng quát
trên, thì trong hoàn cảnh cụ thể ấy, người tín hữu không buộc phải tuân theo.
Chính Đức Giê-su đã sẵn sàng lỗi luật ngày sa-bát khi mà nếu giữ luật chi tiết
này trong những trường hợp cụ thể Ngài gặp thì hóa ra lại vi phạm một luật tổng
quát hơn, là luật yêu thương (x. Mt 12,1-8; 9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga
5,1-18; 9,1-41). Vì khi soạn ra những điều luật chi tiết này, không ai có thể
nghĩ ra hết tất cả những trường hợp luật trừ, là những trường hợp mà tuân hành
những luật này sẽ trở nên vi phạm những lề luật cao hơn hay tổng quát hơn.
Trong hiến pháp của một quốc gia thường
có một khoản qui định rằng bất cứ một điều khoản nào trong luật pháp mà đi
ngược lại tinh thần của bất kỳ một điều khoản nào trong hiến pháp, thì điều
khoản trong luật pháp ấy trở thành vô giá trị, không phải tuân giữ. Hiến pháp
mới là căn bản, luật pháp chỉ là công cụ hay phương tiện để thể hiện hay thực
hiện hiến pháp mà thôi. Vậy chúng ta cần phải tập trung quan tâm vào việc thực
hiện điều luật tổng quát của Ki-tô giáo là «mến Chúa, yêu người», mà tóm gọn
hơn nữa là «yêu người», hơn là chú tâm thực hiện những chi tiết của lề luật
thành văn. Nói thế không có nghĩa là không cần thực hiện những điều luật chi
tiết, vì theo Đức Giê-su thì: «Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia
thì không được bỏ» (Mt 23,23b).
5. Một cám dỗ thường xảy ra đối với
việc thực hiện lề luật
Người tín hữu không được giáo dục đức
tin đầy đủ thường bị cám dỗ chỉ quan tâm thực hiện những điều luật chi tiết, cụ
thể, thậm chí quan trọng hóa cả những chi tiết của luật lệ, mà không hề quan
tâm tới tinh thần tổng quát của lề luật. Do đó, thường xảy ra tình trạng như
sau: có những tín hữu giữ những luật lệ tôn giáo một cách hết sức chi tiết, tỉ mỉ,
được mọi người coi là đạo đức, thánh thiện. Nhưng nếu những người ấy tự xét
mình một cách nghiêm túc xem mình đã thật sự mến Chúa yêu người chưa, thì họ
phải tự nhìn nhận là chưa, hoặc còn thiếu sót hơn cả những người bình thường
khác.
Điều chúng ta phải lấy làm lạ và phải
suy nghĩ thật nghiêm túc là: các kinh sư Do Thái giữ luật nhiệm nhặt như vậy,
thế mà Đức Giê-su lại đánh giá rằng «không một ai trong các ông tuân giữ Lề
Luật!» (Ga 7,19), tại sao? Vì tuy họ quan tâm giữ nhiệm nhặt nhiều điều khoản
của tôn giáo, nhưng họ lại «bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công
lý, tình thương và lòng chân thành » (Mt 23,23). Và những khoản luật mà họ tuân
giữ nhiệm nhặt ấy nghĩ cho cùng cũng «chỉ là giới luật của phàm nhân» (Mt
15,9). Nên việc giữ luật nhiệm nhặt ấy cuối cùng lại trở thành «sôi hỏng bỏng
không», hay như «công dã tràng»!
Còn cách giữ Luật Chúa của chúng ta thì
sao? Liệu Thiên Chúa có đánh giá chúng ta, những người đang tự hào là giữ luật
một cách nghiêm nhặt, tương tự như thế không? Rất có thể, vì chúng ta chỉ chú ý
tới cái «xác của lề luật», là những điều khoản thành văn, mà không chú ý tới
cái «hồn của lề luật», tức tinh thần của lề luật. Xác mà không có hồn thì chỉ
là xác chết, vô giá trị! Chắc chắn tới ngày phán xét, rất nhiều người đã giữ
luật một cách nhiệm nhặt không kém gì các kinh sư Do Thái, nhưng lại đứng vào
hàng ngũ «quân bị nguyền rủa » (Mt 25,41), chỉ vì "xưa Ta đói, các ngươi
đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống, v.v...» (25,42tt). Tội
nghiệp cho họ là những kẻ mà Luật Chúa thì không thèm giữ chỉ toàn lo giữ «luật
của phàm nhân»!
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con biết tôn trọng
Luật Cha là luật yêu thương. Xin ban cho con tinh thần của thánh Âu-Tinh: «Cứ
yêu đi, rồi làm gì thì làm!» Con nhận ra rằng con chỉ chu toàn được Luật của
Cha khi con thật sự yêu thương mà thôi. Vì thế, xin Cha cho con biết yêu
thương!
3. Thắp lên một ngọn nến
Thế giới hôm nay có những kẻ thù địch
với Kitô giáo. Họ hăng say tuyên truyền cho tội ác và tìm mọi cách để thu hút,
lôi cuốn đám đông đi theo đường hướng của họ.
Trước sự kiện này, một số các tín hữu
nhiệt thành đã thiết lập phong trào thánh Christôphôrô. Những người gia nhập
phong trào này không cần phải ghi tên hay đóng góp chi cả, miễn là cố gắng làm
thế nào chứng minh cho kẻ khác biết được rằng : tất cả chúng ta đều được Chúa
yêu thương và chăm sóc. Chính vì thế mà phải sống một cuộc sống chan hòa tình
người, tôn trọng những quyền lợi của nhau, cũng như sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau.
Điều mà phong trào này tâm niệm đó là :
- Thà thắp lên một ngọn nến, còn hơn là
ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
Đọc lại Phúc âm, chúng ta ghi nhận điều
này : Đức Kitô là ánh sáng muôn dân.
Thực vậy, hôm nay trước cửa đền thờ,
ông già Simêon đã nói tiên tri về Hài nhi Giêsu như sau :
- Lạy Chúa, xin để tôi tớ này được ra
đi bình an, vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ, Chúa dọn ra trước mặt nhân trần,
làm ánh sáng rạng soi dân ngoại, còn Israen dân Chúa được vinh quang.
Rồi trong cuộc sống công khai, chính
Đức Kitô cũng đã từng công bố :
- Ta là ánh sáng thế gian, ai theo Ta
sẽ không còn ngồi trong đêm tối.
Hay như thánh Gioan đã xác quyết :
- Nơi Ngài có sự sống. Và sự sống là
ánh sáng cho muôn dân. Anh sáng đã chiếu soi trong u tối.
Một khi Đức Kitô đã là ánh sáng, thì Mẹ
Maria chính là chiếc đèn, bởi vì Mẹ mang trong mình ánh sáng và từ đó tỏa lan
khắp nơi. Hôm nay nơi đền thờ Giêrusalem, Mẹ bồng ẵm trong vòng tay của mình
Hài nhi Giêsu, ánh sáng muôn dân. Không phải Mẹ chỉ bồng ẵm Chúa trên đôi tay
của mình, mà hơn thế nữa, tâm hồn Mẹ hoàn toàn được ánh sáng Chúa chiếu soi và
biến đổi. Mẹ chính là tấm gương trung thực nhất phản ảnh mọi nhân đức của Chúa.
Trên trời cũng như dưới đất, không một
tạo vật nào giống Chúa cho bằng Mẹ. Mẹ chính là người môn đệ đầu tiên đã đi
trên dấu chân của Chúa, qua đau khổ và thập giá để tiến đến vinh quang. Mẹ hoàn
toàn tin tưởng và phó thác để được trọn vẹn trung thành với thánh ý của Chúa.
Còn chúng ta thì sao ?
Tôi xin thưa :
- Chúng ta cũng phải trở nên ánh sáng
như Đức Kitô, chúng ta cũng phải trở nên đèn cháy như Mẹ. Thực vậy, thánh
Phaolô đã khuyên nhủ :
- Trước kia anh em là tối tăm, nhưng
hiện nay anh em là ánh sáng trong Đức Kitô.
Phải chăng đây cũng chính là điều Đức
Kitô mong ước nơi mỗi người chúng ta, khi Ngài phán :
- Các con là ánh sáng thế gian. Một
thành xây trên núi, không thể giấu được. Và người ta cũng không thắp đèn rồi để
dưới gậm giường, nhưng sẽ đặt trên giá, để nó chiếu sáng cho mọi người trong
nhà.
Là người Kitô hữu, chúng ta phải mang
Đức Kitô, hay nói cách khác, phải mang ánh sáng của Ngài trong tâm hồn, rồi từ
đó chiếu tỏa ánh sáng ấy cho những người chung quanh.
Là người tín hữu, chúng ta phải trở
thành ngọn đèn cháy sáng, để những người còn ngồi trong tối tăm lầm lạc, nhờ
chúng ta, sẽ tìm thấy đường ngay nẻo chính. Muốn được như thế, thì tâm hồn và
cuộc đời chúng ta phải trong suốt như pha lê, cho ánh sáng Chúa chiếu qua.
Thế nhưng có kẻ lại nghĩ rằng :
- Ánh sáng của tôi còn quá yếu ớt, làm
sao có thể chọc thủng được đêm đen ?
Trong một buổi thuyết trình, vị linh
mục được mời nói chuyện, đã bắt đầu bằng cách tắt hết các bóng điện, khiến cho
tăm tối phủ kín khắp phòng. Rồi ngài đánh một que diêm và thắp lên một ngọn
nến. Ánh sáng của ngọn nến tuy yếu ớt, nhưng cũng đủ để họ nhìn thấy được khuôn
mặt của người bên cạnh. Và nếu người nào cũng thắp lên một ngọn nến như thế,
thì hẳn căn phòng sẽ rực rỡ, sẽ chan hòa ánh sáng.
Đừng nói rằng :
- Mình chẳng làm gì được.
Trái lại, thay vì ngồi phê bình và chỉ
trích, thở dài và bi quan, chúng ta hãy góp phần nhỏ bé của chúng ta vào công
cuộc đẩy lui ảnh hưởng của đêm tối, của tội ác.
Nếu hoạt động của đêm tối là âm mưu, là
thù oán, là tham vọng bất chính, thì hoạt động của ánh sáng phải là nhân hậu,
phải là tha thứ, phải là khiêm cung.
Nếu một con én không làm nổi mùa xuân
thì ít nữa nó cũng góp phần báo tin mùa xuân đang đến.
Chúng ta cũng vậy, thà thắp lên một
ngọn nến, còn hơn là ngồi đó mà rủa xả bóng đêm.
4. Mẫu gương của bậc cha mẹ - Lm. Gioan
Trần Khả
Tổng Thống George Washington một trong
những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con
hiếu thảo đối với mẹ. Sau những trận chiến cam go nơi sa trường, sau những cuộc
họp căng thẳng với các chính khách, sau những công việc bề bộn của một nguyên
thủ quốc gia, ông vẫn dành cả tiếng đồng hồ để về nhà thăm người mẹ hiền và trò
chuyện với bà nhiều giờ liền. Một hôm thấy con đã vất vả công việc quốc gia,
lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ mới hỏi ông:
"Tại sao con lại chịu khó và mất
thời giờ như vậy để ngồi bên cạnh mẹ?"
Vị Tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả
lời, "Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc
mất giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui
sống" (Trích trong Thiên Phúc: Maria Mẹ Tuyệt Mỹ, Tr. 27-28).
Vai Trò Của Cha Mẹ
Làm cha mẹ, khi thấy con cái treo những
bức hình của những ca sĩ, những tài tử, diễn viên kịch ảnh, những anh hùng thể
thao... và khi thấy chúng lúc nào cũng mê man nghe nhạc, nghe khi vừa thức dậy,
khi ăn, khi đi học, khi ngồi làm bài, khi làm việc vặt trong nhà, thì chúng ta
e ngại là con cái chúng ta sẽ bị ảnh hưởng qúa nhiều bởi những mẫu người đó.
Tuy nhiên, khảo cứu tâm lý cho chúng ta biết, khi tuổi trẻ truởng thành hơn thì
chúng sẽ ít bị ảnh hưởng bởi những mô phạm nhất thời đó. Người có ảnh hưởng
nhiều nhất nơi con cái là cha mẹ. Cha mẹ cần dạy và sống những gía trị đạo đức
và luân lý để con cái noi theo khi chúng còn sống chung dưới mái ấm gia đình.
Một bà mẹ nhận xét, "Cái quan trọng trong đời sống của gia đình không phải
là những món ăn sang trọng, cái bếp sạch sẽ ngăn nắp, hay biết sắp xếp liệt kê
những việc phải làm trong nhà. Không gì có thể thay thế việc cho con cái chúng
ta nhìn thấy tình thương và sự tận tụy hy sinh của chúng ta đối với chúng. Đồ
chơi, quần áo mới, dĩa nhạc, đồ trang sức sẽ không thể thay thế tấm lòng hy
sinh và tình thương của cha mẹ tỏ ra đối với con cái."
Những Tấm Gương
Khi chúng ta mừng lễ kính Đức Mẹ Dâng
Chúa Giêsu vào đền thánh, phúc âm thánh Luca giới thiệu cho chúng ta hình ảnh
những con nguời tôi trung của Thiên Chúa: Giuse, Maria, Simeon và Anna. Là bậc
cha mẹ gương mẫu, là đôi vợ chồng đạo đức, đầy lòng tin tưởng nơi Thiên Chúa.
Khi vừa đủ ngày, Giuse và Maria đem con lên đền thờ để hiến dâng cho Thiên
Chúa. Hành động Hiến Dâng của các ngài biểu lộ một đức tin sâu đậm, và lòng xác
tín yêu mến lề luật của Chúa. Các ngài dâng Con không phải chỉ bằng môi miệng
hay lời kinh suông, nhưng còn kèm với của lễ tuy đơn sơ nhưng gói gọn cả tấm
lòng đối với Thiên Chúa trong khả năng của các ngài. Hơn nữa, cho dù được tiên
báo là con mình sẽ như một Luỡi Gươm Đâm Thấu Tâm Hồn, các Ngài vẫn can đảm
lãnh nhận và chu toàn trách nhiệm dậy dỗ con. Con trẻ lớn lên thêm mạnh mẽ, đầy
khôn ngoan và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người. Được như thế là do bởi cha mẹ
Ngài là những nguời công chính và đạo hạnh.
Hầu hết những nguời làm cha mẹ đều có
tình thương yêu đối với con cái. Tuy nhiên không phải ai cũng biết cách tỏ tình
thưong yêu và phương cách dậy dỗ giáo dục con cái cho đúng. Việt Nam chúng ta
có câu, "Cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh." Câu này chỉ trúng một phần
nhỏ. Để chu toàn trọng trách làm cha mẹ, bậc cha mẹ còn có bổn phận tìm hiểu và
học hỏi đào sâu về đức tin, về tâm lý và luân lý để huấn luyện dậy dỗ con mình
lớn lên trong đường lối của Thiên Chúa.
Nhận Ra Dấng Cứu Thế
Khi đến đền thờ, các ngài gặp hai Nhân
Vật cao niên Simeon và Anna. Con trẻ Giêsu mới chỉ được có 40 ngày. Ông Simeon
và bà Anna chưa hề gặp con trẻ và cha mẹ của con trẻ. Nhưng tại sao họ đã nhận
ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu Thế? Sở dĩ họ nhận ra con trẻ Giêsu là Đấng Cứu
Thế bởi vì Simeon là Người công chính biết kính sợ Thiên Chúa, cho nên lòng trí
của ông luôn tỉnh thức. Ông đã nghe và nhận ra tiếng thúc đẩy của Thần Khí và
ông đã nhận ra Đấng Cứu Thế. Khi ông đã được nhìn thấy Chúa Giêsu và ẵm bồng
Ngài thì ông mãn nguyện sung sướng. Ông Simeon đã nhìn ra giá trị đích thực và
không còn luyến tiếc sự đời. Do đó, ông xin bằng lòng xuôi thác, "Lạy chúa
bây giờ Chúa để cho tôi tớ Chúa đi bình an theo như lời Chúa, vì chính mắt tôi
đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn cho muôn dân." Cũng thế, bà Anna, sau
khi chồng chết, đã thủ tiết và dành cuộc đời của bà sống ăn chay cầu nguyện
trong đền thờ trông chờ Đấng Cứu Thế. Vì có tấm lòng thành kính và sống trong
tinh thần chuẩn bị và mong chờ Đấng Cứu Thế cho nên bà cũng đã được diễm phúc
gặp Ngài và nhận ra Ngài để công bố và xác nhận cho những nguời khác về Đấng
Cứu Thế.
Tuy nghèo túng nhưng Giuse và Maria vẫn
có thể tìm được của lễ để dâng cho Thiên Chúa và chu toàn trách nhiệm làm cha
làm mẹ. Phần chúng ta, chúng ta có thể liệu được những gì để dâng cho Thiên
Chúa và làm những gì để nói lên tinh thần của bậc làm cha làm mẹ đối với con
cái? Trong tuổi già lưng còng mắt kém, nhưng ông Simeon và và Anna vẫn có thể
nhìn và nhận ra Đấng Cứu Thế. Phần chúng ta, chúng ta có nhận ra Chúa Giêsu
trong hoàn cảnh sống hàng ngày không?
5. Lễ Đức Mẹ dâng Con trong đền thờ
Bài Tin Mừng anh chị em vừa nghe là một
trong những bài Tin Mừng có những hình ảnh đẹp nhất trong thời thơ ấu của Chúa
Giêsu. Có thể nói cuộc gặp gỡ của những người được nói đến trong bài Tin Mừng
hôm nay là cuộc gặp gỡ của những người đại diện cho dến ba thế hệ.
Tiên tri Simêon và Anna thuộc thế hệ
cao niên. Đức Mẹ và thánh Giuse thuộc thế hệ đương thời và Chúa Giêsu thuộc thế
hệ mai sau. Cả ba thế hệ hội tụ lại trong khung cảnh của đền để thực hiện cho
Lễ Đức Mẹ Dâng Con
NHỮNG LƯỠI GƯƠM SẦU KHỔ.
Đang khi thăm viếng bệnh viện, một cha
sở dừng lại nhìn một giáo dân trẻ, có đứa con đầu lòng mới được 4 ngày. Mặc dầu
vẻ bề ngoài thật dễ thương, nhưng người mẹ trẻ đó lại đầm đìa nước mắt. Cha sở
hỏi: "Sao con lại khóc vậy hở Rosie?". Để đáp lại, Rosie chỉ ngước
nhìn lên Đức Mẹ bồng ẵm Chúa Giêsu Hài Đồng mà mắt đẫm lệ. Đó là một bức họa
của một phần bài Tin Mừng hôm nay: "Khi ông già Simeon được Chúa Thánh
Thần linh hứng, đã nói với Đức Mẹ rằng: Một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn
bà". Rosie đã nhỏ lệ vì chị cảm thương Đức Mẹ, vì Mẹ biết rằng: Chúa Kitô
Con Mẹ sẽ phải đau khổ, và cũng vì chị cảm thấy nỗi lo âu của người mẹ sợ rằng
con nhỏ của mình sẽ phải đau khổ, cha sở giải thích cho chị rằng Thiên Chúa đã
ban cho Đức Mẹ sức mạnh phi thường để đón lấy lời báo tin đắng cay ấy, để nhận
lấy lưỡi gươm sầu khổ ấy.
Các bà mẹ ngày nay cũng có thể nhìn
thấy vô vàn những nguy hiểm đe dọa con mình. Những đe dọa thể xác: như bệnh tật
đủ loại, tai nạn mất sự sống và tàn tật, những kẻ hung ác, ngược đãi trẻ nhỏ,
những thứ ma túy hủy hoại thể xác và cả tâm hồn, ăn uống say sưa quá độ, lái xe
ẩu. Và còn biết bao tệ hại làm tan nát thể xác giới trẻ. Rồi những nguy hiểm
cho linh hồn đứa trẻ lại càng tệ hại: những bạn bè xấu làm mất cả đức tin, mất
phán đoán về sự chân thực và sự sai lầm, những bạn bè say sưa, những bạn bè
nghiện ngập, những phim ảnh và tạp chí khêu gợi dục vọng, những sách vở và thầy
dạy làm sai lạc điều chân thật, và tinh thần của ma quỉ ngày nay gào thét lên rằng:
mọi sư đều tốt, bao lâu bạn có thể chiếm được chúng.
Thực vậy, các bà mẹ có nhiều điều lo
lắng, nhưng tình trạng vẫn còn hy vọng. Một người có ảnh hưởng giúp đỡ. Một
người mẹ gương mẫu, hoàn toàn vô tội, rất mực tinh tuyền, biết chắc rằng: con
trẻ bà bồng ẵm trong tay rồi một ngày kia sẽ được đặt lại vào tay bà. Mà lúc ấy
con bà đã bị thương tích, đầy máu me và hết sống. Người mẹ trên trời này nóng
lòng giúp đỡ người mẹ ngày nay.
Như Đức Maria, các bà mẹ có những niềm
vui và nỗi sầu. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa về niềm vui, như Đức Maria đã
làm. Sự lo sợ của Đức Mẹ về tương lai, thay vì làm cho Người lìa xa Thiên Chúa,
hay là làm cho Người quên Thiên Chúa, thì lại làm cho Người hứơng mắt về Cha
trên trời đầy thông suốt và quyền năng.
Như thánh Phaolô viết cho tín hữu Do
thái: "Chúa Giêsu đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở
thành Vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong mọi việc phụng thờ Thiên Chúa,
hầu đền tội cho dân (B. đ.2; Dt 2,17).
Hôm nay Thánh lễ này thể hiện điều đó
cho chúng ta. Lễ hiến tế làm sống lại những biến cố vui buồn trong cuộc đời
Đấng cứu thế, Ngài sinh lại; chết và lại phục sinh. Từ sự làm mới lại cuộc
thương khó và tử nạn của Ngài, mọi bà mẹ, mọi Kitô hữu, có thể lấy lại được sức
mạnh để mang lấy sự lo lắng về tương lai, và đón nhận đau khổ khi nó xảy đến.
Xin Chúa chúc lành cho các bạn.
6. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
Ý NGHĨA CỦA NGÀY LỄ
Bốn mươi ngày trước đây, chúng ta đã
mừng lễ Chúa Giáng Sinh. Theo luật Môsê, Sau khi sinh con trai đầu lòng được 40
ngày, người mẹ phải đến Đền Thờ Giêrusalem để làm lễ thanh tẩy cho mình và hiến
dâng con trẻ cho Thiên Chúa, rồi chuộc lại bằng lễ vật một con chiên hay một
cặp bồ câu: vì mọi con trai đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa. Ý nghĩa này nhắc
cho dân Do Thái cảm tạ Thiên Chúa vì Ngài đã tha không giết các con trai đầu
lòng của họ, đang khi các con trai đầu lòng của dân Ai Cập đều bị giết chết,
trong đêm Thiên Chúa giải phóng họ khỏi ách nô lệ Ai Cập đưa về Đất Hứa (x. Xh
13,l-3a.11-16).
Đức Maria và thánh Giuse cũng tuân giữ
diều luật này. Hai ông bà đem Hài nhi Giêsu lên đền Thờ hiến dâng cho Thiên
Chúa và gặp ở đây hai vị tiên tri già lão: Simêon và Anna. Hai vị được Thánh
Thần linh ứng dã nhận ra Chúa Cứu Thế. ông Simêon đã mãn nguyện vì được tận mắt
chiêm ngưỡng Đấng muôn dân trông đợi. Ông đã lớn tiếng chúc tụng Thiên Chúa và
nói tiên tri về Hài nhi Giêsu: Hài nhi này sẽ là ánh sáng của muôn dân nhưng
lại là đối tượng cho người ta chống đối.
Sự kiện dâng Chúa Giêsu vào Đền Thờ cho
thấy Người là con đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Ông Simêon và bà Anna tượng
trưng cho tất cả sự trông đợi của It-ra-en, họ đã tới gặp Cứu Chúa của mình.
Đức Giêsu được nhìn nhặn là Đấng Mêsia người ta trông đợi từ lâu, là ánh sáng
của muôn dân và là vinh quang của Ít-ra-en, nhưng Người cũng là dấu hiệu của sự
chống đối. Thanh gươm của đau khổ được báo cho Mẹ Maria đã loan báo một sự hiến
dâng toàn hảo và độc nhất của thập giá. Sự hiến dâng sẽ mang lại ơn cứu độ mà
Thiên Chúa đã chuẩn bị trước mặt tất cả mọi dân tộc
Lễ của ánh sáng
Lễ hôm nay còn được gọi là Lễ Nến, vì
có cuộc rước nến vào Nhà thờ như cuộc đón rước Chúa GIÊSU là ánh sáng của muôn
dân. Thánh Xốp-rô-ni-ô, Giám Mục Giêrusalem dã nói: "Đây là ý nghĩa của
mầu nhiệm: chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang
theo đèn sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ
làm cho chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón
Chúa. Người là ánh sáng thật đã đến, ánh sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên
thế gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy toả
sáng" (x. Kinh Sách, các bài đọc ngày 2/2)..
Công đồng Vaticanô II đã lấy lại lời
tiên tri của ông Simêon để mời gọi mọi người Ki tô hữu ý thức sứ mạng và ơn gọi
của mình là phải làm cho mọi người được nhận biết Chúa Ki tô, phải đem ánh sáng
Tin Mừng của Ngài chiếu soi hướng dẫn mọi người trên thế giới. Chính Chúa Giêsu
đã tuyên bố. "Thầy là ánh sáng trần gian. Ai đi theo Thầy sẽ không bước đi
trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống" (x.Ga 12, 34-50). Bao lâu
con người chưa nhận biết Chúa Ki tô và ánh sáng Tin Mừng của Ngài, thì bấy lâu
con người còn dò dẫm trong tăm tối và dễ bị lầm lạc.
Tuy nhiên, Chúa Ki tô đã trở nên đối
tượng chống đối của con người. Có những người biết Chúa để sống theo Ngài. Có
những người khác lại chống đối Ngài. Chúng ta lấy làm đau xót với thánh Giuse
và Mẹ Maria khi nghe tiên tri Simêon tiên báo điều đó ngay trong ngày vui của
Chúa Giêsu: "Cháu còn là dấu hiệu bị người đời chống báng, còn chính Bà
(Đức Ma ria) thì một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà, ngõ hầu những ý nghĩ từ
thâm tâm nhiều người phải lộ ra". Lời tiên tri đó đã ứng nghiệm ngay từ
lúc Chúa Giêsu mới sinh ra cho đến khi bắt dấu cuộc đời rao giảng Tin Mừng Nước
Trời. Cuộc chống dối đó ngày càng lan rộng và quyết liệt cho đến khi giết được
Ngài treo lên Thập giá. Nhưng Ngài dã Phục Sinh và đã trở thành ánh sáng của
muôn dán, nguồn sống cho nhân loại.
HÃY SỐNG TRONG ÁNH SÁNG
Từ nay, ai đã tin Chúa Giêsu Ki tô và
lãnh nhận Bí tích Thánh Tẩy đều đón nhận sự sống của Thiên Chúa và được ánh
sáng của đức Ki tô chiếu soi, hướng dẫn cuộc sống. Thật vậy, nhờ Bí tích Thánh
Tẩy, chúng ta được thánh hiến cho Thiên Chúa và được trở nên con của Ngài trong
Đức Giesu Ki tô. Thiên Chúa đã thương gọi chúng ta từ tối tăm vào ánh sáng
huyền diệu của Ngài. Xưa kia, chúng ta là tối tăm, nhưng nay trong Chúa Ki tô,
chúng ta là "con cái của sự sáng là ánh sáng của trần gian" (x. Ga
12,85-36). Do đó chúng ta phải sống như con cái của sự sáng, phải chiếu sáng
trước mặt mọi người, để "người ta nhận thấy việc tốt chúng ta làm mà ngợi
khen Cha chúng ta trên trời" (Mt 5.14-16).
Thánh Phao lô nhắn nhủ những người đã
được thánh hiến cho Thiên Chúa qua Bí tích Thánh Tẩy: Hãy bước đi trong ánh
sáng của Chúa, Hãy vật bỏ những việc tối tăm, Hãy mang khí giới ánh sáng,Hãy
hành động đàng hoàng như giữa ban ngày, để luôn được hiệp thông với Chúa Ki tô
tà ánh sáng muôn dân" (x. Ep 6,8-14).
Chúa Giêsu hôm nay đang tiến vào Đền
Thờ của Ngài. Chúng ta hãy tiếp dón Ngài vào tâm hồn, vào cuộc sống của ta, để
ánh sáng của Ngài biến đổi chúng ta thành những ngọn nến chiếu sáng như những
vì sao trong đêm tăm tối của trán gian, hầu dẫn đưa những ai còn ngồi nơi tăm
tối đến gặp gỡ Đức Giêsu Ki tô, 'đấng Cứu Độ mà Thiên Chúa đã dọn sẵn trước mặt
muôn dân" và dã bày tỏ cho mọi người.
7. Dâng Chúa trong đền thờ
(Suy niệm của Lm. Đaminh Nguyễn Thành
Tiến)
Một bà lão gặp vị linh mục và nói:
"Thưa cha, con đã cầu nguyện rất nhiều, con chỉ mong thấy Chúa một lần là
đủ cho con, nhưng Chúa chưa nhận lời".
Ước mong đơn sơ của bà thật sự gói trọn
niềm hy vọng của người Kitô hữu; bởi cùng đích của cuộc đời chúng ta là gặp gỡ
và kết hợp trọn vẹn với Chúa. (x. Phút Lắng Đọng Mỗi Ngày – tháng 12).
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại việc ông
già Simêon được diễm phúc gặp Chúa Hài Đồng, được bồng ẵm Chúa khi Chúa được Mẹ
Maria và Thánh Giuse dâng tiến trong đền thờ.
Việc Chúa Giêsu được dâng tiến trong
đền thờ và thái độ của cụ già Simêon cho chúng ta nhiều bài học:
- Đức Giêsu được dâng tiến trong đền
thờ: Nghi thức dâng con trai đầu lòng cho Thiên Chúa là nghi thức Do thái nhắc
nhở rằng mọi con trai đầu lòng thuộc về Thiên Chúa. Đức Giêsu -Ngôi Hai Thiên
Chúa nhập thể- là Con Chúa Cha từ thuở đời đời. Tuy nhiên, đi vào lịch sử nhân
loại trong văn hóa Dothái giáo, Ngài được cha mẹ dâng tiến cho Thiên Chúa theo
như luật định. Qua đó, Ngài nêu gương cho chúng ta về việc tuân giữ lề luật và
dâng mình cho Thiên Chúa.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta, từ khi còn
tấm bé, đã được cha mẹ dâng cho Thiên Chúa trong ngày chịu phép rửa. Nhờ phép
rửa, chúng ta trở nên con Thiên Chúa, thuộc về Thiên Chúa và được gọi Thiên
Chúa là Cha. Chúng ta hãy ý thức và sống xứng đáng với hồng ân này.
- Tiếp theo là thái độ của cụ Simêon:
Sau cả một đời chờ mong, giờ đây, cụ sung sướng thỏa mãn; bởi vì cụ đã thấy, đã
được bồng ẵm Đấng Cứu Thế trên tay mình.
Ông cụ Simêon mới được thấy Chúa, được
ẵm Chúa trên tay mà đã sung sướng và tạ ơn Thiên Chúa như vậy, huống cho chúng
ta được rước Chúa Giêsu vào tâm hồn mỗi ngày! Chúng ta có nhận ra hồng ân cao
trọng này mà ca tụng Chúa hay không?
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu Hài Đồng, ông già Simeon
-được Thánh Thần thúc đẩy- đã lên đền thờ và gặp được Chúa -Đấng Cứu độ- mà lâu
nay ông hằng mong ước. Ước gì chúng con năng đến nhà thờ tham dự thánh lễ mỗi
ngày; để nhờ vậy, chúng con không chỉ gặp được Chúa mà còn được rước Chúa ngự
trong tâm hồn. Amen.
8. Dâng Chúa Giêsu trong đền thánh
(Suy niệm của Lm PX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Chương 1–2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng
chủ đạo là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu
nhịp nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong
biến cố này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả
được điều đó khi dùng Đanien 9–10 trong các lời loan báo cho Đức Maria và Dacaria,
cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca
"Chúc tụng" (Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được
quy tụ lại quanh khái niệm "sự hoàn tất các ngày" (= đã mãn: 1,23.57;
2,6.21-22), các bản văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến.
Vậy các chương này thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm.
Tác giả đã muốn nối kết biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức
Giêsu tỏ mình ra cũng tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi
Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria được báo tin: 30 ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được
truyền tin đến khi Đức Giêsu chào đời: 30 ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời
cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày
Tổng cộng: = 490 ngày = 70 tuần 7 ngày
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24, sau 70
tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ được tái
cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho
thấy rằng việc Đức Giêsu được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc
"Vinh quang" của Thiên Chúa (x. cụ Simêôn gọi Đức Giêsu là "vinh
quang của Israel") đến cư ngụ vào thời cánh chung để thanh tẩy Đền Thờ và
Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).
2.- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu 21, để duy
trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác định bố cục
có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu (2,21-24):
- cắt bì và đặt tên (c. 21),
- thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu
(cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình (2,25-38):
- tỏ mình cho cụ Simêôn (cc. 25-35),
- tỏ mình cho bà Anna (cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc của bài tường
thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các
ngài (22): "Các ngài" là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức
Giêsu? Luật không buộc thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy
vậy, "các ngài" phải được hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì
các ngài là chủ từ của động từ "đem [con] lên". Các nhà chú giải nhìn
nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên
đã không được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh
con. Và đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát
xuất từ những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8,
một phụ nữ sinh một con trai bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa
bé phải được cắt bì (vào ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày
nữa, "cho đến khi mãn thời gian thanh tẩy của bà" (Lv 12,4), trước
khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền Thờ. Sau
ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế phục dịch
tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ toàn thiêu và
một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà
phải dâng hai chim gáy hoặc hai bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết
này mô phỏng truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24. Tuy vậy, đến câu sau,
tác giả Lc nối kết việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu
được gọi là "con trai đầu lòng" ở 2,7, và việc chuộc lại Người là
nhiệm vụ của cha mẹ Người. Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: "Đức Chúa phán
với ông Môsê: 'Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng trong số con
cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta". Sự thánh hiến này
sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được chuộc lại
bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo lường của
thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16), nộp cho một thành viên của gia đình tư tế,
khi đứa bé đã được một tháng. Tác giả Lc không nhắc gì đến việc trả số bạc;
thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ
Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah nói
cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền
(24): Hy lễ không phải là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh
tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25): Các chi
tiết mô tả cụ Simêôn đã đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức
Maria, và bà Anna, vào số những đại diện của những người Do Thái trung thành
đang sống tại Paléttina vào thời gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu
đây là niềm hy vọng hậu Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ
thần quyền tại Israel (x. Is 40,1; 61,2).
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ
của người canh đêm, sau khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà
(35): Có những tác giả cho rằng "thanh gươm" đây là nỗi ngờ vực về
chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng
đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek...). Cách giải thích này không tương ứng
với TM Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách
giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi
"thanh gươm" này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng
kiến Con mình bị đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp
với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện dưới chân thập giá trong TM Ga mà
thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một
ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong
số các phụ nữ đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55; 24,10). Cách giải thích
này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như đưa vào đó một ngoặc đơn
(x. bản dịch Bible de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách giải thích này cũng giới
hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như trái với cái nhìn của
tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất cả các tác giả Tân Ước, tâm lý
của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của họ trong Lịch sử cứu độ (ta
thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức Maria chỉ luôn đóng một vai
trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế, lối giải thích này lại chỉ ưu
tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của lời này của ông Simêôn trong
nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh
"thanh gươm" là biểu tượng của sự "chia rẽ" và "mâu
thuẫn" (x. Ed 12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã làm cho miệng lưỡi
Người Tôi Trung nên như một "lưỡi gươm sắc bén". Sách Khải huyền đã
lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16; 19,15.21). Khi ta
thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là "Lời của Thiên Chúa" và
"từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén" (Kh 19,13.15), đàng
khác, ta lại nhận thấy rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó
Người Tôi Trung được gọi là "ánh sáng muôn dân", tức khắc ta nghĩ
rằng hai câu này hiện diện trong tâm trí tác giả Lc khi ngài viết cc. 32.35a,
và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc khải của Thiên Chúa là
chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng là Lời sẽ phán xét (x. Dt
4,12). Thế mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc giới thiệu Đức Maria
như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là Israel được nhân-cách-hóa (đọc Lc 1,28 dưới ánh
sáng của Xp 3,14-15 và Dcr 2,14). Theo hướng này, ta hiểu tác giả đang vận dụng
một kiểu nhân-cách-hóa tiên trưng để trình bày hoạt cảnh Dâng Con trong Đền
Thờ, và như vậy, ngài đã đặt vào miệng ông Simêôn c. 35a để ngỏ lời với Đức
Maria trong tư cách là Thiếu nữ Sion: nơi Mẹ, chính là Israel sẽ bị thanh gươm
của Đức Chúa đâm thâu.
Cách giải thích này (được gợi ý bởi
Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt...) có điểm thuận lợi là làm cho c.
35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi câu này
trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước được
nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng
hoảng gây ra nơi Israel bởi "dấu hiệu gây chống báng" được ngôn sứ
Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c.
35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi
phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa tới chỗ thâm tâm của người ta phải
lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di
theo và minh họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai
cánh của một bức tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng
soi đường và muôn dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh
kia cho thấy khủng hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa
chọn phải vấp ngã. Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ
được ông Simêôn trình bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp tục trình bày trong
Tin Mừng cũng như trong Công vụ.
(2) Có một cách giải thích khác cũng có
thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một cách chứng minh
kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết
"thanh gươm" với "đâm thâu (= xuyên qua)". Theo hình ảnh
này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu diệt và một số
người để được cứu độ (x. Ed 5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này
phát xuất từ ý tưởng nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều
người Israel phải vấp ngã hay được chỗi dậy. Đức Maria, là thành viên của
Israel, cũng sẽ phải chịu ảnh hưởng. Trong Lc, chính Đức Giêsu sẽ được mô tả
như một người gây chia rẽ trong các gia đình (12,51-53). Như vậy, với hình ảnh
thanh gươm đâm thâu Đức Maria, ông Simêôn gợi đến khó khăn mà Mẹ sẽ gặp thì mới
học ra rằng việc vâng phục Lời Thiên Chúa phải vượt lên trên cả những dây liên
hệ gia đình (x. 8,21; 11,27-28).
4.- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu (21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan
là cơ hội để con trẻ tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng
vậy, việc cắt bì và đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng
như Gioan, Đức Giêsu được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St 17,11) và tháp
nhập vào Israel (x. Gs 5,2-9). Ngài cũng được đặt tên là Giêsu, một tên được
chính Thiên Chúa ban cho. Bản văn nhấn mạnh trên việc đặt tên hơn là trên việc
cắt bì.
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể
lại nhân dịp Đức Giêsu tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau
khi sinh Đức Giêsu (cc. 22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau
khi sinh (cc. 22b.23). Dường như Luca đã mô phỏng truyện dâng Samuel (1 Sm
1,22-24) mà tả cảnh này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và
ông Giuse, như là những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của
Luật Môsê. Trong các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và
trong truyện tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình
thái cứu độ mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế
Êli trong 1 Sm 1–2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như
Dacaria đã tiên báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca "Chúc
tụng", nay sự cao cả của Đức Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song
đối như thế, đến đây ông Simêôn nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc.
29-32 và một là lời sấm ở cc. 34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới
của Thiên Chúa. Lời sấm được ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu
và thân phận của Mẹ.
Tác giả luôn luôn viết một truyện về
phái nam đi song song với một truyện về phái nữ, ở đây cũng vậy: bà Anna song
đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria công bố trong bài ca của
ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được ông Simêôn công bố mà
được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna không nói một tuyên bố nào;
vai trò của bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường
thuật về Thời thơ ấu (39-40)
Hai câu kết làm vọng lại điệp khúc đã
có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc lại từng chữ
bản mô tả Gioan (1,80). Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là 1 Sm
2,21c.26.
+ Kết luận
Câu truyện này là một lễ mừng các cuộc
gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng ta ở đây cho thấy nhiều tương
quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây liên hệ có một không hai với
Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức
Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên
một quan hệ buộc người ta phải rảo qua trọn con đường với Người và phải luôn
luôn ở gần kề với Người.
5.- Bài học
1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi
Giêsu, chính Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang.
Cho dù tọi lỗi của Israel có thế nào, Thiên Chúa vẫn trung thành giữ những lời
đã hứa. Vào dịp chúng ta chịu phép rửa tội, Thiên Chúa đã nhận chúng ta làm
con. Cho dù chúng ta có bất trung thế nào, Người vẫn không bao giờ bỏ rơi chúng
ta. Cho dù các tội lỗi của chúng ta đã xua đuổi Người ra khỏi thánh điện là
trái tim chúng ta, Người vẫn tìm mọi cách để đưa chúng ta đến chỗ hoán cải. Hãy
mở rộng thánh điện tâm hồn mà đón Đức Kitô.
2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và
làm việc. Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu
chúng ta ở trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của
Người trong lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng
giúp chúng ta hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của
chúng ta chính xác hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm
sống đời môn đệ của Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện
cũng như sống nếp sống hằng ngày.
3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu
cho chúng ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được
ban thưởng. Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó,
cần chuẩn bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm
tình biết ơn.
4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và
ông Giuse tập trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi
trẻ em khác. Nhưng "ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu" (c.
40) đã tạo nên trong gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí
quyết của hạnh phúc đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú
của Đức Giêsu. Đây là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức
Kitô thật là trung tâm của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc
đời, chúng ta vẫn sẽ cảm nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người
khác và được người khác yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào
Đền Thờ của Người. "Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm...: sự
thinh lặng, sự bất ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi
người đều biết ... Không thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng,
nhưng thế giới vẫn tiếp tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt
động của họ, loài người không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các
biến cố lớn là những sự kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại
theo một tầm nhìn hoàn toàn loài người... Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan
phòng ẩn tàng của Thiên Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày" (Hông Y John
Henry Newman, 1801-1890).
9. Dâng Con trong đền thờ
(Suy niệm của Lm Đaminh Nguyễn Ngọc
Long)
Lần chuỗi kinh mân côi chục thứ bốn có
lời ngắm nguyện: "Đức Bà dâng Chúa Giêsu trong đền thánh".
Tập tục đạo đức dâng con cho Thiên Chúa
có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin?
Đức tin nói với chúng ta:
Con cái là hoa qủa phúc lộc Trời cao
ban cho cha mẹ. Tuy cha mẹ là người sinh thành nuôi dưỡng con mình.
Con cái không là sản phẩm do cha mẹ chế
biến tạo thành. Nhưng sự sống, tính tình cùng hình hài thân xác của con cái là
do Thiên Chúa sáng tạo thành.
Con cái tuy là giọt máu tình yêu thương
của cha mẹ. Nhưng mầm sự sống trong dòng máu tình yêu thương của cha mẹ lại là
hình ảnh giọt máu tình yêu thương của Thiên Chúa, Đấng là nguồn sự sống của con
người.
Đức Mẹ Maria và Thánh Giuse ngày xưa đã
không nhìn Chúa Giêsu là con riêng do mình tạo ra. Nên đã đem con mình vào đền
thờ khấn nguyện tạ ơn dâng cho Thiên Chúa. Cử chỉ đạo đức này của Đức Mẹ nói
lên lòng tin tưởng phó thác vào bàn tay Thiên Chúa. Vì đã nhận được ân đức qùa
tặng từ nơi Thiên Chúa, cùng coi làm việc đạo đức này là bổn phận tất yếu của
người đã lãnh nhận được ân phúc.
Lần thứ nhất, Thiên Thần Gabriel hiện
đến truyền tin cho Đức Mẹ: Chúa Giêsu xuống thế làm người trong cung lòng Đức
Mẹ. Và nói cùng Đức Mẹ: người con trong cung lòng bà sinh ra là Đấng thánh cao
cả.
Lúc đem con vào đền thờ dâng cho Thiên
Chúa, Đức Mẹ lại nghe lời truyền tin thứ hai của Tiên Tri Simeon: Thiên Chúa đã
đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel vấp ngã hay được vực dậy
đứng lên. Cháu là dấu hiệu cho người đời chống báng. Còn chính bà một lưỡi gươm
sẽ đâm thâu qua lòng bà!
Lòng vui mừng vì người con đã chào đời.
Nhưng cũng có nhiều lo âu bối rối, nhất là khi nghe những lời truyền tin thứ
hai về con mình và về đời mình.
Tuy vậy Đức Mẹ qua tập tục đạo đức đem
dâng con cho Thiên Chúa trong đền thờ, thầm nói lên tâm tình phó thác vào bàn
tay quan phòng của Thiên Chúa không chỉ riêng cho đời con mình, mà cho cả chính
mình nữa.
Là cha mẹ, người Công giáo chúng ta, ai
cũng vui mừng khi hay tin có con. Và mừng rỡ hơn nữa khi người con mở mắt chào
đời mạnh khoẻ. Nhưng ngay từ khi hay tin sự sống hình hài thân xác người con
bắt đầu thành hình trong cung lòng mẹ cha, ai cũng đọc kinh khấn nguyện xin ơn
phù hộ cho người con tương lai. Đến khi người con ra đời, cha mẹ nào cũng hằng
dâng lời tạ ơn cùng kêu xin khấn nguyện cho con mình trong suốt cả đời sống.
Ngày xưa khi còn thơ bé, chúng ta đã
được cha mẹ bồng ẵm vào thánh đường xin cho được nhận lãnh Bí tích rửa tội, ánh
sáng đức tin vào Thiên Chúa là hướng đi cho đời sống.
Ngày nay lớn lên trưởng thành lập gia
đình, cha mẹ trẻ có con, họ cũng làm việc nối lửa đức tin cho con mình như thế.
Nếp sống đức tin này gói ghém tâm tình
tạ ơn cùng phó thác vào bàn tay quan phòng Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của
đời sống gia đình.
Tâm tình tạ ơn dâng hiến hòa lẫn trong
làn khói ánh nến lung linh và lời cầu xin thoát ra tự đáy tâm hồn niềm tin:
"Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con khi nay và trong giờ lâm
tử. Amen."
10. Các con là ánh sáng thế gian
Anh chị em thân mến!
Tối hôm thứ bảy 30.1.1993 là tối đánh
dấu 65 năm ngày Hitler lên cầm quyền tại Đức, đã gây ra không biết bao nhiêu
tang tóc đau thương cho cả nhân loại. Tại khắp nơi trên nước Đức đã có hàng
trăm ngàn người xuống đường tuần hành, nhiều ánh sáng rực rỡ nhóm lên, nhiều
nến cháy trên tay của mỗi người tham dự cuộc tuần hành. Ánh nến ấy là biểu
trưng của một chút ánh sáng mà nhiều người dân Đức muốn thắp lên để xoá tan màn
đêm dày đặc của hận thù, ích kỷ, bại hoại do những người theo tân Đức Quốc Xã.
Hôm nay, tại nhiều nhà thờ trên khắp
thế giới, người tín hữu Kitô cũng cầm nến cháy sáng trong tay để tưởng niệm một
biến cố quan trọng trong cuộc đời của Chúa Giêsu. đó là việc Ngài được cha mẹ
dâng vào đền thờ Giêrusalem. Cũng như mọi bé trai đầu lòng Do Thái khác, Chúa
Giêsu cũng được cha mẹ mang đến đền thờ Giêrusalem để dâng hiến cho Thiên Chúa
theo đúng quy định của luật Môisê. Nhưng theo chương trình của Thiên Chúa, đây
không chỉ là một lề luật có sẵn, nhưng điều chính yếu là việc tỏ mình của Con
Thiên Chúa như ánh sáng của muôn dân.
Thật thế, như chúng ta đã nghe trong
bài Tin Mừng hôm nay, lời chúc tụng của cụ già Simêon là một kỷ niệm về lời
tiên báo của tiên tri Isaia: "Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để mở
mắt những người mù loà, để đưa tù nhân ra khỏi lao tù, để đưa dân riêng ra khỏi
bóng tối" (Is 42,6). Và chính Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: "Ta là ánh
sáng thế gian".
Thật vậy, qua cuộc sống và cái chết
cùng sự Phục Sinh của Ngài, Chúa Giêsu đã chiếu giãi ánh sáng cho những bí ẩn
của cuộc sống con người. Trong ánh sáng của Ngài, chúng ta biết được mình bởi
đâu mà ra và mình sẽ đi về đâu. Đồng thời ánh sáng của Ngài cũng xoá tan mọi
tăm tối tội lỗi của thế gian. Nơi đâu ánh sáng của Chúa Giêsu được chiếu toả,
nơi đó bóng đêm của tội lỗi, của ích kỷ, của hận thù sẽ tan biến đi. Chúa Giêsu
đã mang ánh sáng đến trên trần gian và Ngài muốn ánh sáng đó được chiếu toả
trong mọi hang cùng ngõ hẻm của trần gian.
Nhiệm vụ mang ánh sáng của Ngài đi khắp
nơi đã được Chúa Giêsu uỷ thác cho Giáo Hội, Ngài đã nói với các môn đệ:
"Các con là ánh sáng thế gian". Giáo Hội và một cách cụ thể là mỗi
người Kitô hữu đều là ánh sáng của Chúa Kitô được thắp lên để soi sáng cho trần
gian.
Theo một truyền thống đã có từ lâu
trong Giáo Hội, ngày hôm nay các tu sĩ cầm nến cháy trên tay để cùng với Chúa
Kitô tự hiến cho Chúa Cha và cùng với Ngài trở thành ánh sáng cho mọi người.
Nhưng ngày lễ nến hôm nay không chỉ là ngày lặp lại lời tuyên khấn của các tu
sĩ, mà còn là lễ của mỗi người Kitô hữu.
Ngày hôm nay mỗi người Kitô hữu chúng
ta được mời gọi để đốt lên ngọn nến mà chúng ta đã lãnh nhận trong ngày chịu
phép Rửa tội. Họ được mời gọi để cùng với toàn thể Giáo Hội lặp lại những lời
cam kết chống lại sức mạnh của tăm tối trong cuộc sống của họ. Những ngọn nến
đã được đốt lên trên toàn nước Đức biểu hiện của một ý chí muốn xoá tan những
bóng tối riêng tư của hận thù, ích kỷ, bạo động... và đồng thời khơi dậy nguồn
ánh sáng của sự tha thứ, yêu thương, quảng đại và cảm thông.
Ngày hôm nay, những ngọn nến mà mỗi
người Kitô hữu thắp sáng lên cũng nhắc nhở cho họ về sứ mệnh cao cả là trở
thành ánh sáng cho mọi người. Trong đêm tối của một xã hội dầy đặc những hận
thù, ích kỷ, lừa lọc... mỗi người tín hữu Kitô đều có thể nói: "Thà đốt
lên một ánh nến còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối". Một cuộc sống tin
tưởng, hân hoan, phó thác và yêu thương, phục vụ quên mình, đó là một chút ánh
sáng mà mỗi người tín hữu Kitô đều có thể đốt lên để soi sáng cho một góc trời
nào đó, để từ đó người khác có thể nhận ra ánh sáng đích thực của Chúa Kitô.
11. Bảo vệ ánh sáng – Lc 2, 22-40
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang
Kiệt)
Khi dâng Đức Giêsu trong đền thờ, Đức
Mẹ tự nhận mình không có quyền trên Đức Giêsu. Đức Giêsu thuộc về Thiên Chúa.
Thiên Chúa trao cho Đức Mẹ để Đức Mẹ săm sóc dưỡng nuôi. Đức Mẹ dâng Đức Giê-su
trong đền thờ không chỉ nhằm chu toàn lề luật, nhưng là công nhận quyền của
Thiên chúa và cũng là để cầu xin Chúa chúc phúc cho Hài Nhi Giê-su.
Lễ Đức Mẹ dâng Con cũng được gọi là lễ
Nến. Việc làm phép nến nói lên Đức Giê-su là ánh sáng soi trần gian.
Cụ Si-mê-on đã nhận biết Đức Giêsu là
ánh sáng. Nhưng ánh sáng khởi đầu còn non nớt. Mà chung quanh thì bóng đêm và
cuồng phong đang thét gào, hằm hè huỷ diệt làn ánh sáng run rẩy yếu ớt vừa ló
dạng.
Có bóng tối cám dỗ của loài ma quỉ thâm
độc lúc nào cũng rình chờ phá hoại chương trình của Thiên chúa. Có bóng tối độc
ác của Vua Hêrôđê ghen ghét vì sợ mất quyền hành. Có bóng tối chán nản do những
thất bại trong công cuộc rao giảng. Có bóng tối u mê của đám đông không hiểu
những mầu nhiệm Nước Trời. Có bóng tối nhút nhát của các môn đồ mau chóng bỏ
cuộc. Có cuồng phong ganh ghét của các thượng tế, luật sĩ. Có bóng tối vô tình
của quân lính hành hình. Có bóng tối của cái chết đau đớn tủi nhục.
Đức Mẹ đã là người che chở làn ánh
sáng, chống lại mọi bóng tối vây bọc. Đức Mẹ đã ấp ủ làn ánh sáng chống lại bão
gió cuồng phong. Vì thế Đức Mẹ đã bị một lưỡi gươm đâm thấu tâm hồn.
Hôm nay các bà mẹ trong xứ noi gương
Đức Mẹ, đến nhà thờ dâng con cho Chúa. Khi dâng con các bà công nhận con cái là
hồng ân Chúa ban tặng. Khi dâng con các bà cũng cầu mong Chúa chúc phúc cho
tương lai của con cái.
Nhìn những đôi má, những bàn tay trắng
hồng của các em nhỏ đang vây quanh bàn thờ, tôi tưởng như đang thấy những mầm
cây non mơn mởn vừa mới lú lên khỏi mặt đất.
Nhìn những đôi mắt long lanh, trong
sáng, tôi thấy hiển hiện những làn ánh sáng xinh tươi vừa hé.
Đó là ánh sáng đức tin mà các em đã
lãnh nhận ngày chịu phép rửa tội. Đó là ánh sáng trí tuệ trinh nguyên như một
tờ giấy trắng. Đó là ánh sáng nhân đức của một linh hồn chưa vương tội lỗi.
Thế nhưng chung quanh các em có biết
bao hiểm nguy rình rập. Những cơn nắng cháy khô hạn tình người rình chực thiêu
rụi mầm cây vừa hé. Những lớp bóng tối vật chất đang tìm vây bủa ánh sáng đức
tin. Những cơn gió lười biếng đang kéo màn mây ngu muội dập tắt ánh sáng trí
tuệ. Những cơn cuồng phong sự dữ đang huy động lực lượng dập tắt ánh sáng nhân
đức của linh hồn.
Các bà mẹ đang dâng con cho Chúa. Các
bà hãy bảo vệ kho tàng quý giá Chúa trao cho các bà gìn giữ chắc chắn. Khi
đương đầu với sự dữ để bảo vệ ánh sáng nơi con cái, các bà sẽ phải chịu những
thương tích như Đức Mẹ. Hãy học nơi Đức Mẹ nghệ thuật nuôi dạy con cái, để các
cháu bé hôm nay được Chúa chúc phúc sẽ "càng thêm tuổi, càng thêm khôn
ngoan, càng được Thiên Chúa cũng như mọi người thương mến".
Lạy Đức Ki-tô là ánh sáng soi trần
gian, xin chiếu ánh sáng ân sủng vào các em nhỏ đang chờ được Chúa chúc phúc,
để làn ánh sáng đức tin, ánh sáng nhân đức và ánh sáng trí tuệ Chúa đã nhóm lên
trong các em ngày càng vươn cao và lan rộng.
Lạy Mẹ Maria, xin giúp các bà mẹ can
đảm bảo vệ ánh sáng của con cái, để ánh sáng của chúng vẫn còn sáng mãi cho đến
ngày ra đón rước Chúa.
12. Lễ dâng Chúa Giêsu vào đền thờ
(Suy niệm của Lm Micae-Phaolô Trần Minh
Huy)
Mẹ Maria và thánh cả Giuse biết rằng
mọi sự đều từ Chúa mà đến và mọi sự đều phải trở về với Chúa. Trẻ Giêsu là một
quà tặng bởi Chúa mà đến, và do đó hai ngài lên Giêrusalem để dâng lại cho
Chúa. Các gia đình, nhất là các bà mẹ, hôm nay cũng mang con đến nhà thờ dâng
cho Chúa, cảm tạ Chúa, vì sự sống Chúa đã ban cho nơi con cái.
Chúng ta hết lòng quí trọng quà tặng sự
sống này. Không bao giờ đối xử với sự sống như một sở hữu hay như một cái gì
chúng ta chế tạo ra, để rồi tưởng mình có quyền muốn giữ thì giữ, muốn bỏ thì
bỏ. Chúa là Đấng Tạo Hóa đã ban sự sống cho chúng ta và đang nâng đỡ cho mọi sự
được tồn tại. Ngài ban quà tặng sự sống ấy cho chúng ta, chúng ta phải làm cho
nó được phát triển và kiện toàn. Trẻ Giêsu mà Mẹ Maria ẳm trong lòng và Simêon
bồng trên đôi cánh tay già nua, tuy bé bỏng nhưng là Đấng Cứu độ muôn loài.
Như Mẹ Maria ẳm trẻ Giêsu trong lòng,
và như Simêon bồng Người trong đôi cánh tay già nua, là Chúa cả trời đất. Chúng
ta cũng hãy trân trọng và chăm lo cho những đứa con bé bỏng của chúng ta. Biết
đâu những đứa trẻ bé bỏng hôm nay mai kia sẽ thành những người lãnh đạo Giáo
Hội và đất nước.
Ngoài ra, chúng ta phải làm hết sức
mình có thể để Chúa Kitô trở nên sự sống của chúng ta, và qua chúng ta, Chúa
cũng trở nên sự sống cho mọi người chung quanh chúng ta, nhờ các hoạt động từ
thiện truyền giáo của chúng ta.
Chúng ta nghe ông Simêon nói với Đức Mẹ
rằng Chúa Kitô là dấu hiệu cho người ta chống đối: có những người nhờ Ngài mà
đứng lên, có những kẻ vì Ngài mà phải ngã xuống, có những người hân hoan đón
nhận sự sống Chúa mang lại, có những người lại tìm cách tiêu diệt sự sống ấy từ
trong trứng nước.
Trẻ Giêsu được dâng trong đền thờ khiến
chúng ta nghĩ đến bao nhiêu em bé sinh ra đời. Chúng ta nức lòng nghĩ đến những
em bé được chờ đợi và chào đón, nhưng cũng đau lòng nghĩ đến những trẻ sơ sinh
không được đón nhận, những trẻ em bị bỏ rơi không thể sống sót vì thiếu sự quan
tâm chăm sóc của cha mẹ và người thân. Nhìn thánh gia thất, chúng ta nôn nao
nghĩ đến những gia đình sum vầy cha mẹ con cái đầm ấm hạnh phúc, nhưng cũng
nặng lòng nghĩ đến những đôi vợ chồng khao khát niềm vui có con cái mà hy vọng
ấy dường như mỗi lúc một vô vọng và chúng ta thành tâm cầu nguyện cho họ.
Nhìn Chúa Hài Đồng được dâng lên, chúng
ta cũng nghĩ đến bao nhiêu thai nhi không được phép đón nhận ngày sinh, cuộc
sống và ánh sáng mà Thiên Chúa làm người mang đến cho mọi người, vì sự yếu đuối
của con người, vì những toan tính và kế hoạch ích kỷ của những con người khác,
cũng như của các cơ cấu xã hội, ngay cả bởi những cha mẹ vô trách nhiệm và gia
đình của các thai nhi ấy.
Nghĩ đến những trẻ em bị giết chết ngay
trong lòng mẹ không được sống đến lúc mở mắt chào đời, chúng ta cũng nghĩ đến
những bà mẹ phải bị ám ảnh dằn vặt vì phá thai, dưới bất cứ lý do gì (vì yếu
đuối, bị lừa gạt, bị lạm dụng hay vì khó khăn kinh tế, vì công ăn việc làm). Ý
nghĩ phá thai là giết người, và giết chính con mình sẽ làm cho những người mẹ
ấy phải đau khổ tâm lý trong suốt cả cuộc sống. Quả thế, một số các mẹ và các
chị đã ấm ức khóc hay nước mắt lưng tròng khi liên tưởng đến nỗi khổ tâm của
mình hay con cái của mình vì hoàn cảnh đã phá thai. Nhiều nghiên cứu tâm lý và
xã hội kết luận rằng đa số người phá thai có nguy cơ mắc bệnh tâm thần và ung
thư cao vì những nỗi ân hận ray rứt kéo dài triền miên trong cuộc sống.
Chúng ta cũng đau thương nghĩ đến nhiều
trẻ nít và vị thành niên bị lạm dụng tình dục và hãm hiếp, hay sống thử phóng
túng buông thả luân lý để rồi phải phá thai hay phải làm mẹ khi tuổi đời còn
quá non nớt, không đủ khả năng hay không thể nuôi con, đành phải bỏ rơi con
trong thùng rác, trên vỉa hè bệnh viện hay xó chợ, cho ruồi bâu, kiến rúc...
Một số em được may mắn sống sót và lớn lên trong các cô nhi viện, một số khác
gặp hoàn cảnh tệ hơn sống lây lất bụi đời, gánh chịu không biết bao nhiêu cơ
cực cay đắng trên tâm hồn và trên thân xác, vì không có được một mái ấm gia
đình, không biết cha mình là ai, mẹ mình là ai và đang ở nơi đâu!
Nghĩ tới những em bé bất hạnh bị bỏ rơi
vô thừa nhận ấy, chúng ta tuy thông cảm và tôn trọng, nhưng cũng bất bình chua
xót nghĩ đến những đôi vợ chồng ích kỷ chỉ nghĩ đến tự ái, đau khổ hay vui
sướng của bản thân mà không nghĩ đến những hậu quả đau thương cho con cái, làm
cho gia đình đổ vỡ, ly dị khiến các em trở nên mồ côi cha mẹ, dù cha mẹ các em
đang còn sống cả đó, và nhiều em bị đẩy ra đường tự kiếm sống, làm cho bao
nhiêu em bị hành hạ và giết chết hằng ngày trên khắp nẻo đường đời, dưới đủ mọi
hình thức nghèo đói, bệnh tật, mại dâm, ma túy, HIV. Các em không chỉ bị giết
chết về thân xác, mà còn bị giết chết dần mòn về tâm hồn và đức tin: những lạm
dụng và tội lỗi đã giết chết lòng trong trắng của các em, đã đánh mất tình
thương, niềm tin và hy vọng của các em vào con người, vào cuộc đời, lắm khi cả
vào Thiên Chúa nữa.
Ngôi Lời nhập thể và được tiến dâng hôm
nay nâng đỡ chúng ta. Ngài là Thiên Chúa đã mặc lấy thịt xương máu huyết để trở
nên con người và để ở với chúng ta, chia sẻ thân phận con người chúng ta, đau
khổ với chúng ta, đau khổ vì chúng ta và đau khổ cho chúng ta, cho đến chết và
chết tất tưởi trên thập giá. Ngài hiến ban mạng sống của Ngài để cho chúng ta
được sống, được cứu độ. Đó là sứ điệp thúc đẩy chúng ta tìm lại những giá trị
của mầu nhiệm Thiên Chúa nhập thể làm người. Chúa không đến cất đi đau khổ.
Ngài cũng không đến để giải thích đau khổ. Ngài đến để chia sẻ đau khổ với con
người, nâng đỡ con người và mời gọi con người chia sẻ phận người với những con
người khác, vốn là đồng bào, đồng loại và anh chị em của mình.
Chúng ta nghiêng mình cảm phục và ca
ngợi những tấm lòng từ thiện, những đôi vợ chồng son sẻ đã mở rộng lòng nhân ái
đón nhận các trẻ em mồ côi hay bị bỏ rơi, tàn tật để cho các em có cha có mẹ và
một mái ấm gia đình. Nhưng chúng ta cũng nghiêm khắc thức tỉnh lương tâm và kêu
gọi những con người đã gây ra những mảnh đời đau khổ cho đồng loại qua việc lạm
dụng tình dục, sở khanh, cưỡng hiếp..., hãy thôi đi các việc thất đức đó, hãy
kính trọng Thiên Chúa, tự trọng, tôn trọng phẩm giá và tình yêu con người. Chúng
ta hãy cùng nhau kiến tạo cộng đồng xã hội và gia đình thành thiên đường mà
hưởng, đừng biến chúng thành địa ngục mà phải chịu đựng.
Lễ dâng Chúa hôm nay mở ra cho chúng ta
những cái nhìn mới, những con đường mới để suy tư và hành động, để cảm nghĩ và nói
năng, để sống và yêu thương, để trao ban và lãnh nhận. Chúng ta tin, chúng ta
hy vọng và chúng ta quyết tâm làm một cái gì cho những người kém may mắn hơn
chúng ta: cô nhi, quả phụ, khuyết tật, nghiện ngập, HIV... Chúng ta cố gắng hết
sức mình để mang hy vọng và tình thương cho kẻ khác, để làm cho Chúa Giêsu được
sinh ra trong tâm hồn và cuộc đời của những người chưa biết Chúa, cũng như để
làm cho Chúa Giêsu được sinh ra lại và lớn lên trong tâm hồn và cuộc đời của
những ai đã từ khước Chúa vì tội lỗi của họ.
Nhưng thưa quí ông bà và anh chị em,
Mình Máu Thánh Chúa Giêsu mà chúng ta sắp rước lấy, quyền năng của Chúa đã biến
thể từ bánh rượu là lương thực hằng ngày của con người chúng ta. Vậy nếu chúng
ta dâng lên Ngài bản thân chúng ta, cuộc đời đời chúng ta, giáo xứ chúng ta,
gia đình chúng ta, mọi người chúng ta thương mến, công việc làm ăn, học hành,
kinh nguyện của chúng ta, những niềm vui và hạnh phúc, những nỗi buồn phiền và
gánh nặng vất vả của chúng ta; cả những kẻ thù nghịch, những người chúng ta
không thương hoặc những người ghét bỏ chúng ta, cả những tính xấu và tội lỗi
của chúng ta... thì quyền năng của Chúa cũng sẽ biến đổi thành cái gì tốt đẹp
hơn cho chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng điều đó, vì tình yêu của Chúa thì lớn
hơn tất cả.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa luôn luôn dùng
gương sáng hướng dẫn chúng con, và hôm nay Chúa được dâng lên cho Chúa Cha.
Chúng con xin Chúa ban cho chúng con ơn chân thành dâng chính mình chúng con
cho Chúa mỗi ngày. Mỗi buổi mai khi vừa thức dậy, chúng con sẽ dâng mình lại
cho Chúa. Chúng con nài xin Chúa ơn luôn có Chúa hiện diện trong cuộc sống
chúng con, luôn lắng nghe tiếng Chúa Thánh Thần dạy bảo, thúc giục, để tất cả
chúng con sống hiệp nhất yêu thương hầu làm chứng tá cho Nước Chúa ở giữa trần
gian. Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được Chúa yêu thương chúng ta và giúp
chúng ta làm cho người khác cũng cảm nhận được Chúa yêu thương họ, ban bình an
và niềm vui cho họ, bất chấp tất cả những gì có thể xảy ra. Amen.
13. Dâng Chúa Giêsu vào đền thánh
(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
I. LỊCH SỬ NGÀY LỄ.
Thánh lễ 40 ngày sau lễ Giáng Sinh đã
xuất hiện từ đầu thế kỷ thứ V tại Giêrusalem và được "mừng một cách trọng
thể như lễ Phục Sinh vậy" (tường trình của thánh nữ hành hương Aetheria).
Mãi đến năm 650, thánh lễ này mới du nhập vào Rôma. Nội dung Thánh lễ được
triển khai theo đoạn Phúc âm thánh Luca 2,22-40.
Giáo hội Đông phương hiểu Thánh lễ này
như lễ gặp gỡ của Chúa: Đấng Mê-si bước vào Đền thờ và gặp dân Thiên Chúa của
Cựu ước qua ông Simêon và bà tiên tri Anna; Giáo hội Tây phương lại coi đây là
Thánh lễ mừng kính Đức Maria: thanh tẩy theo luật Do thái (Lv 12).
Khi du nhập vào Phụng vụ Rôma, Đức
Thánh Cha Sergiô I (678-701) lại thêm vào nghi thức rước nến, vì thế, từ thế kỷ
thứ VIII, thánh lễ được gọi là Lễ Nến. Trong cuộc rước nến này, Đức Thánh Cha
và cả đoàn đồng tế mặc phẩm phục tím, ám chỉ sự chưa thanh tẩy của Đức Maria
khi lên Giêrusalem; khi đoàn đồng tế đến đại thánh đường Đức Bà Cả, liền thay
phẩm phục trắng, chỉ sự tinh tuyền đã được thanh tẩy của Đức Maria.
Từ cuộc canh tân Phụng vụ năm 1960,
ngay cả trong phụng vụ Rôma, thánh lễ này cũng qui hướng về Chúa, hơn là Đức Mẹ
dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ.
Thánh lễ này chấm dứt chu kỳ Giáng
Sinh.
(Lm Nguyễn văn Trinh, Phụng vụ chư
thánh, tập 1, tr 68).
II. Ý NGHĨA NGÀY LỄ
1. Theo tập tục của luật Maisen.
Bài Tin mừng cho thấy Đức Maria và
thánh Giuse đã chu toàn những tập tục của luật Maisen liên quan đến việc hạ
sinh Đức Giêsu. Luật Maisen qui định tất cả các trẻ nam đều phải cắt bì và đặt
tên vào ngày thứ 8 sau khi chào đời (x. Lv 12,3; Lc 1,59-60; 2,21).
Khi được một tháng tuổi, trẻ phải được
đưa tới Đền thờ để làm lễ chuộc lại con, vì mọi con đầu lòng – dù là người hay
là thú vật – đều phải tiến dâng cho Thiên Chúa, vì nó thuộc về Người, rồi phải
chuộc nó lại từ Thiên Chúa (x. Xh 13, 2.12-13; Ds 18,15-16).
Nếu sinh con trai thì khi nó được 40
ngày, hoặc nếu sinh con gái thì khi nó được 80 ngày, người mẹ phải làm lễ tẩy
uế, và phải dâng lễ toàn thiêu bằng một con chiên, người nghèo có thể thay thế
bằng một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non như Đức Maria đã làm (x. Lv 5,7;
12,8).
Mặc dù biết Đức Giêsu con của mình, là
Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi
buộc. Đó là một gương mẫu cho chúng ta.
Sách Xuất hành qui định: "Giavê phán
cùng Maisen rằng: Hãy hiến thánh cho Ta mọi con đầu lòng: vật gì bất cứ, khi
thông dạ mẹ, thì thuộc về Ta". Điều luật này tưởng nhớ sự kiện Thiên Chúa
giải thoát dân Israel khỏi cảnh nô lệ Ai cập. Vì thế, mọi con trai đầu lòng đều
thuộc về Thiên Chúa và phải dành riêng cho Người. Tuy nhiên, sau khi việc phụng
tự được dành riêng cho chi tộc Lêvi, thì con trai đầu lòng thuộc các chi tộc
khác không phải lo việc phụng tự nữa.
Nhưng để tỏ ra chúng vẫn thuộc sở hữu
của Thiên Chúa, nên người ta thực hiện một nghi thức chuộc lại. Sách luật qui
định con dân Israel phải hiến dâng một lễ vật tượng trưng để chuộc lại con
trai.
2. Đức Maria dâng con theo lề luật.
Theo luật Maisen cũng là tục lệ của
người Do thái, những người con trai được sinh ra, nhất là con đầu lòng, sau 40
ngày bà mẹ phải đưa đến Đền thờ, trước là dâng con cho Chúa, sau là chính mình
làm lễ tẩy uế.
Vậy sau khi Chúa Giêsu sinh ra được 40
ngày, Đức Maria đem con lên Đền thờ dâng cho Thiên Chúa theo luật Do thái. Mẹ
Ngài hoàn toàn thanh sạch, không cần phải giữ luật ấy, nhưng Mẹ cũng thi hành
đầy đủ lễ nghi, trước là vâng theo ý Chúa, sau là để người ta khỏi sai lầm mắc
phải.
Hôm ấy, ông già Simêon là người hằng
mong đợi được trông thấy Đấng Cứu Thế, lên Đền thờ cũng là ngày cha mẹ dâng Hài
Nhi Giêsu trong Đền thờ. Vừa trông thấy Hài Nhi, được ơn trên soi sáng chỉ dẫn,
ông rất vui mừng, vội đưa tay ẵm kính Hài Nhi và chúc tụng Thiên Chúa:"Lạy
Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì
chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi
đường cho dân ngoại, là vinh quang của Israel dân Ngài" (Lc 2,29-32).
Hai Ông Bà thấy và nghe như thế thì lấy
làm lạ, chưa kịp hỏi han gì thì cụ già Simêon nhìn lên Đức Mẹ mà
thưa:"Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Israel
ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người ta chống báng; và như
vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm
sẽ đâm thâu tâm hồn bà"(Lc 2,34-35).
Đồng thời, nữ tiên tri Anna trông thấy
Chúa Hài Nhi, bà cũng nói lên lời chúc tụng Thiên Chúa và nói lại cho người ta
biết rằng chính Ngài là Vị Cứu Thế muôn dân đang chờ đợi.
Mặc dầu biết Đức Giêsu, con mình, là
Con Thiên Chúa, Đức Maria và thánh Giuse vẫn tuân thủ tất cả những gì luật đòi
buộc. Và sau cùng, để chuộc lại con mình, hai Ông Bà vì nghèo nàn chỉ dâng lên
Thiên Chúa một đôi chim gáy với tất cả tấm lòng thành.
3. Lễ hôm nay cũng là Lễ Nến
Khi lễ này được du nhập vào phụng vụ
Rôma, Đức Thánh Cha Sergiô I lại thêm vào nghi thức rước nến, vì vậy lễ dâng
Chúa Giêsu vào Dền thờ hôm nay cũng được gọi là Lễ Nến, vì trước Thánh lễ có
nghi thức làm phép nến và kiệu nến vào nhà thờ như cuộc đón rước Chúa Giêsu là
Ánh Sáng của muôn dân.
Chính cây nến được làm phép và thắp
sáng trong ngày lễ này, tượng trưng cho ánh sáng và vinh quang của Chúa Giêsu.
Thánh Xôprôniô, Giám mục Giêrusalem đã nói:"Đây là ý nghĩa của mầu nhiệm:
chúng ta tiến bước, đèn sáng trong tay, chúng ta hăm hở đi tới, mang theo đèn
sáng để nói lên rằng ánh sáng đã chiếu soi chúng ta và ánh sáng đó sẽ làm cho
chúng ta nên rạng ngời. Nào mau lên, tất cả chúng ta cùng nhau ra đón Chúa.
Người là Ánh Sáng thật đã đến, Ánh Sáng chiếu soi mọi người sinh ra trên thế
gian. Vậy, thưa anh em, mọi người chúng ta hãy đón nhận ánh sáng và hãy tỏa
sáng" (Kinh Sách, các bài đọc ngày 02.02).
Cuộc rước trong phụng vụ hôm nay nói
lên đời sống của mỗi tín hữu phải giãi chiếu ánh sáng cho người khác. Chúa Kitô
là ánh sáng cho trần gian. "Ánh Sáng" là một từ thường được dùng để
chỉ về sự sống và chân lý. Thiếu ánh sáng là cô đơn, nghi nan và lầm lạc. Chúa
Kitô là Sự Sống cho thế gian và cho mọi người, Là Ánh Sáng chiếu soi, là Chân
Lý giải thoát, Là tình Yêu viên mãn... Mỗi khi cầm nên đi trong đoàn kiệu,
chúng ta thông phần vào ánh sáng của Chúa Kitô.
III. BƯỚC THEO MẸ MARIA.
Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy
xin Mẹ Maria giúp chúng ta biết theo gương Mẹ để biết khiêm nhường phục vụ Chúa
và tha nhân trong mọi công việc của cuộc sống.
Trước hết, Lễ này dạy chúng ta bài học
khiêm nhường vâng giữ luật Chúa và Hội thánh. Thật ra luật Cựu ước không buộc
Đức Maria và Chúa Giêsu, vì Đức Maria không thụ thai cách bình thường như người
đời. Ngài mang thai là do quyền năng Chúa Thánh Thần, nên Ngài không bị ô uế
theo luật Maisen và không buộc phải thanh tẩy.
Đức Giêsu cũng không buộc phải được
hiến dâng cho Thiên Chúa theo luật dạy, vì rồi đây chính Ngài sẽ bị sát tế và
dâng hiến lên Chúa Cha trên thánh giá để làm của lễ chuộc tội loài người. Việc
hiến dâng các trẻ em Do thái theo luật Maisen chỉ là hình bóng việc tự hiến của
Ngài mà thôi. Thế nhưng chỉ vì khiêm tốn vâng phục mà Đức Maria và thánh Giuse
đã chu toàn luật Cựu ước cho Chúa Giêsu để nêu gương cho chúng ta.
Thứ đến, Đức Maria sẵn lòng dâng hiến
Con mình cho Thiên Chúa. Qua đó, Mẹ lặp lại lời Fiat, và một lần nữa, trao phó
trọn đời mình cho Thiên Chúa an bài sử dụng. Chúa Giêsu được hiến dâng lên Chúa
Cha trên tay của Mẹ Maria. Đây là cuộc hiến dâng đặc biệt nhất tại Đền thờ, và
không bao giờ được lặp lại. Hơn ba mươi năm sau, Chúa Giêsu đã dâng chính thân
Người, nhưng ngoài thành, ở trên đồi Calvê.
Mẹ Maria đã trở nên một dụng cụ tuyệt
vời để Chúa sử dụng trong cuộc việc cứu chuộc loài người. Mẹ không từ chối Chúa
một sự gì. Tiếng Fiat luôn chiếm hữu tâm trí Mẹ để mọi việc được diễn tiến theo
thánh ý Chúa, cho dù thân xác Ngài phải bị hao mòn.
Truyện: Ngụ ngôn về cây bút chì.
Người thợ làm bút chì nâng niu sản phẩm
của mình trước khi cho nó vào hộp. Ông nói với bút chì: "Có 5 điều mày cần
phải nhớ trước khi tao để mày bước vào thế giới hỗn độn ngoài kia. Lúc nào mày
cũng phải nhớ và không bao giờ được quên những điều ấy, khi đó, mày mới trở nên
một cây bút chì đẹp nhất, hiểu không?
Thứ nhất, mày luôn có thể tạo ra những
thứ rất vĩ đại, nhưng chỉ khi nào mày nằm trong tay một ai đó.
Thứ hai, mày phải liên tục chịu đựng
những sự gọt giũa rất đau đớn, nhưng hãy nhớ, tất cả đau đớn ấy chẳng qua để
làm cho mày đẹp hơn mà thôi.
Tiếp theo, mày phải nhớ lúc nào mày
cũng có thể sửa chữa những lỗi mà mày ghi ra.
Và một điều nữa, hãy biết phần quan
trọng nhất trên cơ thể của mày chính là phần ruột, phần bên trong chứ không
phải là lớp vỏ ngoài.
Cuối cùng,, mày, bút chì, phải để lại
vết chì của mày trên bất cứ bề mặt nào mà mày được sử dụng để viết, và phải
liên tục viết, bất kể chuyện khó khăn gì, được không?
Cây bút chì hiểu rõ những lời người thợ
nói và nó tự hứa sẽ nhớ tất cả những điều ấy, và rồi, nó vào nằm trong hộp để
bước ra thế giới với những mục đích riêng mà nó đã định.
Qua câu truyện ngụ nôn về cây bút chì,
bạn hãy thử đặt chính bạn vào vị trí cây bút chì xem. Lúc nào bạn cũng phải nhớ
và không bao giờ được quên những điều này, khi đó, bạn sẽ trở thành một con
người vĩ đại cho mà xem.
Bạn hãy cố thực hành:
Thứ nhất, bạn có thể làm nên những
chuyện vĩ đại, nhưng chỉ khi nào bạn biết đặt mình vào trong vòng tay của Thiên
Chúa, hãy để cho mọi người được sử dụng những món quà mà Thiên Chúa ban cho
bạn.
Thứ hai, bạn sẽ phải liên tục nếm trải
những đau đớn và thất bại trong cuộc sống, nhưng có trải qua ngần ấy đau khổ,
bạn mới có thể mạnh mẽ hơn được.
Cũng cần phải nhớ lúc nào bạn cũng có
thể khắc phục những sai lầm trong quá khứ.
Tiếp theo đó, bạn phải biết phần quan
trọng nhất của cơ thể bạn không phải là ngoại hình mà là tấm lòng bên trong của
bạn
Còn điều cuối cùng, trên mọi nẻo đường
mà bạn đi qua, bạn hãy để lại những dấu ấn riêng của bạn và trong bất cứ trường
hợp nào, bạn cũng phải hoàn thành nhiệm vụ của minh.
Hãy làm theo ngụ ngôn về bút chì, nó sẽ
giúp cho bạn cảm thấy bạn đúng là một con người đặc biệt và chỉ có bạn mới có
thể hoàn thành được những trách nhiệm mà ngay từ khi sinh ra, bạn đã được giao
phó.
Đừng bao giờ để mình bi quan và cũng
đừng bao giờ cho rằng cuộc đời bạn thật tầm thường và rằng bạn không thể thay
đổi bất cứ thứ già cả.
Trong Thánh Lễ hôm nay, cùng với lễ
dâng trọn hảo là chính Chúa Giêsu, được Đức Maria và thánh Giuse tiến dâng
trong Đền thờ, chúng ta cũng xin hiến dâng tuổi xuân và cả cuộc sống của chúng
ta làm lễ dâng lên Thiên Chúa. Xin Ngài chúc phúc và hướng dẫn đường đời chúng
ta trong thánh ý Ngài, hầu cả cuộc sống chúng ta trở nên lễ dâng tình yêu trong
Tình Yêu Thiên Chúa.
14. Lễ Nến – Lm. Nguyễn Ngọc Long.
A. Lịch sử
Lịch sử Ngày này trong Hội thánh công
giáo là ngày lễ mừng, vẫn quen gọi là lễ Nến hay lễ Đức Mẹ dâng Chúa Giêsu vào
đền thờ. Tại sao lại có lễ này và gọi như vậy? Theo luật Maisen trong kinh
thánh cựu ước ( Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6) ghi chép:
1. Trẻ em sơ sinh trong thời han luật
định phải mang đến đền thờ dâng hiến cho Thiên Chúa.
2. Một người phụ nữ sau khi sinh con
được 40 ngày phải mang vào đền thờ Thiên Chúa lễ vật, để được thanh tẩy. Vì
thời đó người ta hiểu là sau khi sinh con, người phụ nữ không còn được thanh
sạch. Thanh sạch về thể xác hay tâm hồn? Trong sách luật không nói rõ.
3. Người con đầu lòng là tài sản của
Thiên Chúa. Vì thế có tục lệ dâng con và lễ vật cho Thiên Chúa để chuộc.
Sau khi hạ sinh Chúa Giêsu được 40 ngày
Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép trong đạo thời đó. Nhưng
lễ dâng Chúa Giêsu trong đền thánh theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ: Hai
người đạo đức Ông gìa Simeon và Bà Hanna được hạnh phúc bồng bế haì nhi Giêsu
trên tay mình. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là "ánh
sáng cho mọi dân tộc" ( Lc 2,22-40).
Bên Hội thánh Đông phương lễ này gọi là
Lễ gặp Đấng Cứu Thế: Chúa Giêsu, vị Cứu thế vào đền thờ và gặp hai vị đại diện
cho thời đạo cũ: Simeon và Hanna. Tục lệ này trở thành lễ mừng kính trong hội
thánh bên Giêrusalem từ đầu thế kỷ thứ tư: 40 ngày sau khi Đức Mẹ hạ sinh Chúa
Giêsu.
Bên Hội thánh tây phương lễ này là lễ
kính Đức Mẹ: Đức Mẹ Maria cũng như bao người phụ nữ khác, sau khi sinh hạ con,
mang lễ vật vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Bên Roma mừng kính
ngày lễ này cũng vào thế kỷ thứ tư trong các thánh đường. Sau này, vào ngày lễ
này nến được làm phép và mọi người rước nến cháy sáng trong nhà thờ. Vì thế lễ
có tên là Lễ Nến.
Từ năm 1969 lễ ngày mùng Hai tháng Hai
không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Mẹ Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng
Chúa Giêsu vào đền thờ, 40 ngày sau khi Chúa mở mắt chào đời trong hang đá
Belem. Nếu lễ Chúa giáng sinh được mừng kính ngày 25. 12., ngày lễ dâng Chúa
vào đền thờ, sẽ là ngày 02 tháng hai. Nếu lễ giáng sinh được mừng kính vào ngày
06.01., ngày lễ dâng Chúa vào đền thờ sẽ vào ngày 14. tháng Hai.
B. Ý nghĩa ngày lễ mừng.
Tục lệ đạo đức lễ Nến ăn sâu trong cuộc
sống người tín hữu. Ỡ nhiều nơi, giáo dân tín hữu mang nến đến nhà thờ để được
làm phép trong ngày này. Họ mang nến đã làm phép về thắp lên mỗi khi đọc kinh
gia đình, khấn nguyện khi có người ốm đau hoặc trẩy đi xa, trong những dịp vui
mừng cưới hỏi hay tang chế.
Lễ mừng này nói lên ý nghĩa cuộc gặp
gỡ: Chúa Giêsu con Thiên Chúa được đưa vào đền thờ, một biểu hiêu trong công
trình thiên nhiên. Ngài đi vào thiên nhiên gặp gỡ đời sống con người: tôn giáo
và đời sông gặp gỡ nhau.
Vì thế, sau này trong bước đường rao
giảng nước Thiên Chúa, Ngài hay dùng những thí dụ cụ thể trong đời sống để cắt
nghĩa về nước đó: ơn kêu gọi là con Thiên Chúa và nước Thiên Chúa là quê hưong
của mọi người.
Hai thế hệ con người gặp gỡ nhau. Gìa
trẻ gặp gỡ nhau. Hai vị trưởng lão Simeon và Hanna gặp gỡ trẻ Giêsu. Cuộc gặp
gỡ tình người này là cuộc trao đổi. Thế hệ lớn tuổi trao lại cho thế hệ trẻ
kinh nghiệm sống đã thu lượm được, những gía trị đời sống, niềm hy vọng cùng
lời chúc lành mong chờ trông đợi của mình. Thế hệ trẻ đón nhận những trối trăn
của lớp trưởng thượng trao lại.
Thế hệ lớn tuổi qua lời ông Simeon: Giờ
đây lạy Chúa, xin để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an. Vì mắt tôi đã nhìn thấy ơn
cứu chuộc cho muôn dân, biểu lộ lối sống biết nhận lãnh và cũng sẵn sàng cho đi
trối lại. Cung cách chuyển giao này gây niềm phấn khởi cho thế trẻ đang lên sẵn
sàng nhận lãnh lời trối trăn như bảo vật làm nền tảng cho tương lai đời sống
cùng niềm tin đạo giáo.
Chúa Giêsu, Đấng là ánh sáng từ trời
cao, được đưa vào đền thờ như lời mời gọi mọi người cùng đến gặp gỡ nhau trong
tình khoan dung tha thứ cho nhau và mang đến cho nhau niềm hy vọng.
Lễ dâng Chúa vào đền thờ ngày mùng hai
tháng hai hằng năm như lời mời gọi mỗi người đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là ánh
sáng cho tâm hồn mình. Anh sáng Chúa Giêsu chiếu soi vào đền thờ tâm hồn con
người và mang đến niềm vui cùng sự an ủi trong những giờ phút đen tối của cuộc
đời.
Sưu tầm
MỒNG HAI TẾT KÍNH NHỚ TỔ TIÊN
(Mt 15,1-6)
Ngày Tết chúng ta sắm mặc, sửa ăn, ngày
đầu năm chúng ta đi chúc tết nhau, con cháu tết ông bà cha mẹ, người dưới chúc
tết người trên, với biết bao nhiêu lời chúc tốt đẹp, kèm theo nhữfng món quà
thơm thảo bày tỏ lòng biết ơn, kính quí, thảo hiếu với người trên, anh em nâng
chén chúc tụng nhau.
Ngày Mồng Hai Tết, Giáo hội dạy chúng
ta dâng tấm lòng thành, kính nhớ tổ tiên : "Ca tụng các bậc cha ông của
chúng ta đã sống qua các thời đại" (Hc 44, 1, 10-15). Quả thật, có được
ngày đầu năm hoan hỷ vui xuân, làm sao chúng ta lại quên công, bỏ nghĩa các bậc
tiền nhân được, chúng ta là phận cháu con đã và đang thừa hưởng gia tài ân đức
các ngài để lại, nên phải 'kể lại sự khôn ngoan của các ngài' để noi theo, các
ngài đã giữ các điều răn của Chúa, cháu con cũng phải một mực trung thành. Như
thế, dòng dõi các ngài mới trường tồn vạn đại. (x. Hc 44, 1, 10-15 )
Thảo kính mẹ cha là điều Chúa truyền
dạy
Thụ ơn ắt phải báo đền, mẹ cha là hình
ảnh của Thiên Chúa : ngoài việc sinh thành, dưỡng dục, các ngài còn là người
đại diện Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa tình thương hằng bao bọc, che chở và
nuôi dưỡng chúng ta nên người. Chính trong bậc sống gia đình, cha mẹ được Thiên
Chúa mời gọi để cộng tác vào chương trình tạo dựng của Ngài, để cho ra đời
những người con, mang hình ảnh Chúa, và tô điểm thêm cho trái đất nhiều người
ca ngợi và kính sợ Chúa.Vì thế, trong bổn phận thảo hiếu, ngoài việc con cái
phải phụ dưỡng, giúp đỡ cha mẹ khi già yếu, còn phải hằng ngày cầu nguyện cho
cha mẹ : luôn sống xứng bậc mình, sẵn sàng hy sinh để nuôi dưỡng và giáo dục
cho tròn bổn phận mình. Thiên Chúa dạy chúng ta : "Hãy thảo kính cha
mẹ"
(Mc.7, 8-13). Phụng dưỡng mẹ cha theo
đúng lời Chúa truyền dạy, chớ dựa vào : " truyền thống của cha ông mà hủy
bỏ lời Thiên Chúa". (Mt 13, 6) Nhớ đến công ơn sinh thành, dưỡng dục, tất
cả chúng ta đều phải biết sống hiếu thảo, vâng lời, giúp đỡ cha mẹ lúc sinh
thời cũng như khi đã khuất bóng.
Việc "đền ơn đáp nghĩa" là
một nghĩa vụ thiêng liêng để được phần phúc và sống lâu dài trên địa cầu này,
đó là những ước mơ và lời cấu chúc trên cửa miệng của chúng ta trong ngày đầu
năm mới như hạnh phúc, khang an và trường thọ. Vậy đâu là bí quyết để những lời
chúc đó trở thành hiện thực ? Thưa là áp dụng lời Chúa dạy chúng ta : "Hãy
thảo kính mẹ cha"; " Ai thảo kính cha sẽ được sống lâu dài" (Hc
3, 6). Thánh Phaolô Tông đồ khuyên chúng ta "Kẻ làm con hãy vâng lời cha
mẹ, theo tinh thần của Chúa, vì đó là điều phải đạo. Hãy tôn kính cha mẹ. Đó là
điều răn thứ nhất có kèm theo lời hứa : Để ngươi được hạnh phúc và trường thọ
trên mặt đất này" (Ep 6,1).
Thực hành chữ hiếu là thể hiện đạo lý
dân tộc
Thật phù hợp với đạo lý dân tộc Việt
Nam, chiếc bánh chưng, một sản phẩm cổ truyền, một chứng tích của đạo lý, chúng
ta làm nhất là khi ăn ngày Tết nhắc nhớ chúng ta mang nặng nghĩa mẹ tình cha.
Bởi Lang Liêu, vị hoàng tử thứ mười tám, con người hiền lành, hiếu thảo đã dâng
lên vua cha thứ bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh dầy tượng trưng cho trời;
với ý nghĩa xem công cha nghĩa mẹ to lớn như trời cao đất rộng, che chở cho con
cái sống an vui giữa đời.
Vì cha nên mới có mình,
Mẹ cha đối đáp công trình biết bao
Ơn này sách với trời cao
Trong lòng con dám lúc nào lãng quên
Ngày Tết, cầm bánh chưng lên ăn, làm
chúng ta nhớ đến tổ tiên để tỏ lòng hiếu thảo như : thăm viếng, chúc tết, giúp
đỡ là một lẽ, chúng ta còn phải xin lễ cầu nguyện cho những người đã khuất. Tất
cả đều là những nghĩa cử cần thiết, không thể thiếu được.
"Cây có cội, nước có nguồn, con
người có tổ có tông : có cha có me, có ông có bà". Ai trong chúng ta cũng
đều thuộc nằm lòng những câu ca dao tục ngữ của người xưa răn dạy về đạo hiếu
đối với mẹ cha.
Tôn kính
Công cha nghĩa mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày còn thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song
thân."
Phụng dưỡng
Còn nữa, phận làm con đối với cha mẹ:
"Khi ấm lạnh ta hầu săn sóc
Xem cháo cơm thay thế mọi bề
Ra vào thăm hỏi từng khi
Người đà vô sự ta thì an tâm."
(Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Vâng lời
Dạy sao cho được con hiền
Để cho cha mẹ khỏi phiền về con
Một niềm phép tắc nết na
Biết sống biết kính mới là khôn ngoan
Có một số người, không biết sống đạo gì
mà lại đối xử nhất trọng nhất khinh. Bởi vì đối với người Việt Nam, tương quan
với họ hàng gia tộc là điều quan trọng. Lấy vợ, lấy chồng không chỉ là lấy một
người mà "lấy" cả họ hàng nhà chồng, nhà vợ. Cách cư xử với họ hàng
bên chồng hay bên vợ không chỉ liên quan đến bản thân mà còn liên quan đến cả
họ hàng bên mình.
Trong tác phẩm "Gia Huấn Ca"
Nguyễn Trãi đã đề cao đạo đức, và chữ hiếu được nhấn mạnh rất rõ:
"Dù nội ngoại bên nào cũng vậy,
Đừng tranh dành bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày,
Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng
khăng." (Nguyễn Trãi, Gia Huấn Ca)
Khi cha mẹ qua đời
Con cái tỏ lòng hiếu kính bằng cách lo
an táng chu đáo, cầu nguyện và xin lễ cho cha mẹ. Không những cầu nguyện cho
cha mẹ, con cái còn xin cha mẹ cầu nguyện cho mình trước mặt Chúa, như khi còn
sống, các ngài vẫn cầu nguyện cho mình.
Hội Thánh Công giáo nhìn nhận đó là một
hình thức tốt đẹp để bày tỏ lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân. Hội Thánh khuyến
khích các tín hữu phát huy những tinh hoa trong văn hoá dân tộc.
Thực hành chữ hiếu
Trong ngày Mồng Hai Tết năm nay chúng
ta hãy nhìn qua lại lòng hiếu thảo của chúng ta đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ
để mà yêu mến, biết ơn, vâng lời và giúp đỡ các ngài khi còn sống và đã qua
đời. Đồng thời Lời Chúa nhắc cho chúng ta phải thi hành bổn phận thảo hiếu của
chúng ta.
Ai mà phụ nghĩa quên công
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.
(Ca dao)
Xin Chúa trả công bội hậu đời này và
đời sau cho những bậc đã sinh thành dưỡng dục chúng con, và giúp chúng con luôn
sống cho phải đạo đối với các Ngài. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét