CHÚA NHẬT 8 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Is 49,14-15; 1Cr 4,1-5; Mt 6, 24-34
MỤC LỤC
1. Thiên Chúa
quan phòng
2. Thiên Chúa
quan phòng
3. Lạc quan –
Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
4. Chỉ trong
Thiên Chúa mà thôi – Anmai
5. Thiên Chúa
quan phòng
6. Suy niệm của
ĐGM. Phaolô Nguyễn Thanh Hoan
7. Chọn Thiên
Chúa hay tiền của
8. Suy niệm của
Lm Ignatiô Hồ Thông
9. Suy niệm của
Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
10. Thiên Chúa
quan phòng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
11. Tiền và
Nước Trời
12. Suy niệm
của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện
13. Con là con
của Chúa
14. "Dân
ngoại đạo!".
15. Người biết
rõ các ngươi cần đến các điều ấy
16. Thiên Chúa
hay thần tài? - Lm Nguyễn Hồng Giáo
17. Nguồn sống
– Lm Vũ Đình Tường
18. Đơn sơ như
trẻ nhỏ
19. Thiên Chúa
quan phòng
20. Không thể
thờ hai chủ
21. Chú giải
của Noel Quesson
22. Suy niệm
của Lm Hồ Thông
1.
Thiên Chúa quan phòng
Hơn bao giờ
hết, con người thời nay đang sống trong một sự khắc khoải lo sợ. Đúng vậy,
người ta lo sợ trước bệnh tật, tuổi già và chết chóc. Người ta lo sợ trước
chiến tranh và vũ khí nguyên tử. Người ta lo sợ trước những điều rủi ro làm mất
tiền, mất tình và mất hạnh phúc. Cuộc sống như trở nên bấp bênh vô định. Khắp
nơi đều có những đe doạ, những hiểm nguy. Người ta dùng tới mọi phương tiện
miễn sao tìm thấy được một sự bảo đảm an toàn. Từ những phương tiện chính đáng
như các công ty bảo hiểm đến những phương tiện kỳ cục và vô lý chẳng hạn như
bói toán và kiêng cữ.
Tại thành phố
Paris có tới 15.000 thầy bói, hằng năm thu được những lợi tức đáng kể. Cứ ba
người Pháp thì lại có một người đi nghe bói toán và những chuyện nhảm nhí khác.
Tất cả những tờ báo lớn đều có mục tử vi. Có tờ chỉ bỏ mục này có một ngày thì
liền bị giảm mất 40.000 số trong vòng 48 tiếng đồng hồ. Tại Đức và nhiều quốc
gia văn minh khác cũng thế. Với chúng ta cũng vậy. Đứa bé mới sinh ra người ta
cũng chấm tử vi trọn đời cho nó. Hằng năm người ta lên chùa vào dịp tết để xin
sâm, để hái lộc đầu xuân. Hằng ngày mỗi khi mất trộm mất cắp người ta vội đi
hỏi thầy bói. Rồi thì kiêng cữ đủ thứ, đủ chuyện để khỏi xui khỏi rủi. Chúng ta
muốn biết trước hậu vận tương lai, nhưng mà tiền cho thầy bói chỉ chuốc thêm lo
vào mình. Sự sợ hãi vẫn còn đó, nó làm cho chúng ta dường như bị tê liệt. Và sự
lo sợ trở thành một tiếng kêu xin cần được cứu vớt và an toàn. Có điều đáng
tiếc là họ đã không biết đi tìm sự cứu vớt và an toàn ấy nơi Thiên Chúa vì họ
cho rằng Thiên Chúa là một cái gì mơ hồ và xa xôi. Bao lâu người ta không còn
tin tưởng vào Thiên Chúa nữa, chắc chắn người ta sẽ bị thất bại.
Đúng thế, với
chúng ta Thiên Chúa không phải là một ông chủ hà khắc nhưng là một người Cha
đầy yêu thương và thương xót. Đời sống của chúng ta sẽ không còn lo âu khắc
khoải nếu chúng ta bước đi dưới sự soi dẫn của Ngài và nếu chúng ta ra sức thực
thi thánh ý Ngài. Bởi vì Ngài đã tính trước và thấy trước mọi sự. Đồng thời
Ngài lại đặc biệt chăm sóc cho chúng ta: Các con hãy nhìn xem chim trời và cánh
hoa đồng nội. Các con còn trọng hơn chúng bội phần. Nào ai trong các con lo
lắng mà có thể làm cho thân mình lớn thêm được một tấc sao. Và như thế, người
tin tưởng vào Chúa thì sự lo sợ chỉ là một cái gì kỳ cục, bởi vì chúng ta không
phải là những kẻ vất vưởng, bị bỏ rơi và tiếng kêu cứu của chúng ta không phải
là những tiếng kêu vô vọng chẳng được đáp trả.
Tuy nhiên, cần
phải có một chút can đảm chúng ta mới dám phó thác mọi sự cho Chúa, chúng ta
mới dám nhảy vào vòng tay thương yêu của Ngài.
Tại Nam Hàn,
hồi đó có tin quân Bắc Hàn cùng với quân Liên Xô sẽ mở những cuộc tấn công vượt
qua biên giới. Dân chúng sống gần vùng phi quân sự vội vã đi mua sắm những nhu
yếu phẩm nào gạo, nào sữa, nào đường, nào thuốc lá. Chỉ có những tiệm sách là
im lìm không ai đặt chân tới, vì trong một tình trạng căng thẳng như thế, sách
vở phỏng có ích lợi chi. Thế nhưng, cũng có một thiếu phụ bước vào và hỏi mua
một cuốn Kinh Thánh và một cuốn giáo lý. Người bán hàng sững sờ ngạc nhiên và
tự hỏi: Một cuốn Kinh Thánh và một cuốn giáo lý ích gì khi mà chiến tranh sắp
bùng nổ. Nhưng người thiếu phụ đã bình tĩnh trả lời: Những cuốn sách này ở mọi
nơi và trong mọi lúc đều đem lại lợi ích.
Sống giữa một
hoàn cảnh đầy lo âu sợ hãi, câu trả lời của người thiếu phụ phải chẳng đã làm
cho chúng ta xúc động và cảm thấy hổ thẹn.
2.
Thiên Chúa quan phòng.
Có một nhà hiền
triết quan sát cơn gió thổi qua đồng cỏ. Khi cơn gió nổi lên, cây cỏ đều ngả
theo chiều của gió. Khi cơn gió tạm ngưng thì cây cỏ lại ngóc đầu lên. Khi con
gió đổi chiều, thì cây cỏ cũng đổi chiều.
Thấy vậy, nhà
hiền triết bèn nói: Cây cỏ là chúng ta, còn cơn gió là số mệnh. Số mệnh không
bao giờ để cho chúng ta nghỉ yên, nó thổi tung và thổi tung mãi, khi thì thổi
bên trái, lúc thì thổi bên phải. Điều quan trọng là phải biết nương theo chiều
gió. Đừng chống cự, đừng phản kháng, nhưng hãy biết gắn bó với số mệnh của
mình, bởi vì số mệnh là chính Thiên Chúa, là thánh ý của Ngài.
Từ đồng cỏ, nhà
hiền triết ghé thăm một người bạn quen. Thoạt khi tới cửa, thì con chó sủa
vang, đứa bé đang chơi ngoài sân, nhìn thấy người lạ, bèn chạy đi nép mình vào
vòng tay người mẹ. Nhà hiền triết càng tiến tới, thì đứa trẻ níu chặt lấy đôi
tay người mẹ.
Thấy vậy, nhà
hiền triết bèn nói: Đứa trẻ sợ hãi là chúng ta. Người lạ mặt là số mệnh, còn
vòng tay chở che là Thiên Chúa. Số mệnh nhiều khi âm thầm từng bước tiến lại
gần, khiến chúng ta sợ hãi, thế nhưng điều khôn ngoan là hãy noi gương bắt
chước đứa trẻ, biết nép mình vào vòng tay uy quyền của Thiên Chúa. Tương lai càng
đen tối, chúng ta lại càng phải níu chặt bàn tay của Thiên Chúa. Sống dưới cái
nhìn trìu mến của Ngài, chúng ta sẽ không còn sợ hãi. Nếu đứa trẻ nhận ra tôi
là một người quen, thì nó sẽ vui mừng chạy ra và ôm lấy. Cũng vậy, số mệnh dù
có bẽ bàng thì cũng là thánh ý của Thiên Chúa. Nếu chúng ta có một đức tin mạnh
mẽ, chúng ta sẽ sẵn sàng đón nhận không kêu ca oán trách.
Thế nhưng có
một người đàn bà đã lên tiếng phản đối: Làm sao tôi có thể giơ tay đón nhận số
mệnh, vì nó như những ngọn roi quất vào cuộc đời tôi. Chồng tôi bị chết trong
chiến tranh, và bây giờ, mười mấy năm sau, đứa con trai tôi cũng lại chết trong
chiến tranh.
Nhà hiền triết
thông cảm với những đau khổ ấy, nhưng rồi ông đã trả lời bằng một giọng đầy an
ủi khích lệ: Tôi biết, rất có thể chúng ta sẽ phải khóc dưới sức nặng của thập
giá, nhưng chúng ta không có quyền chất vấn Thiên Chúa. Chúng ta phải tin rằng
Đấng đã dựng nên những bông hoa xinh tươi, những trái cây ngon ngọt, Đấng đã
cẩn thận sắp xếp từng nguyên tử của vật chất, thì Ngài sẽ chẳng để cuộc sống
con người bị bất ổn.
Con người đau
khổ, đó là điều dĩ nhiên. Nhưng đau khổ không phải là một cái gì thừa thãi và
vô ích, chính Chúa Giêsu cũng đã từng chịu đau khổ, nhưng Ngài đã mặc cho những
đau khổ ấy một giá trị tuyệt vời và đã dùng những đau khổ ấy để cứu chuộc chúng
ta. Rồi Ngài lại phán: Phúc cho những ai than khóc vì Nước Trời là của họ. Vậy
thì chị là người đang đau khổ, Nước Trời là của chị đó. Nếu không có Nước Trời,
thì tôi sẽ lên tiếng kêu gọi mọi người đau khổ hãy đoàn kết, chống lại số mệnh,
chống lại Thiên Chúa. Nhưng Nước Trời còn đó, và Thiên Chúa đang chờ đón chúng
ta. Hãy để Ngài tẩy rửa và thanh luyện chúng ta nên xứng đáng với hạnh phúc
tuyệt vời ấy.
Đừng hỏi tại
sao Thiên Chúa lại dựng nên bông hồng có những gai nhọn, Ngài có chương trình
của Ngài. Hãy để cho Ngài uốn nắn và hành động. Thái độ khôn ngoan nhất là biết
nép mình vào bàn tay Chúa. Nếu cây cối chống trả với ngọn gió, nó sẽ bị gẫy đổ,
nếu chúng ta chống trả với Thiên Chúa, đời chúng ta sẽ chồng chất thêm nhiều
khổ đau, dù cuộc đời chúng ta có sóng gió, thì cũng hãy tin tưởng vào Thiên
Chúa vì trước mặt Thiên Chúa, chúng ta đáng giá hơn chim trời và hơn hoa cỏ
đồng nội rất nhiều.
3. Lạc
quan – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Người ta nói
rằng sống trong cuộc đời luôn phải chiến đấu để vươn lên, chiến đấu để tồn tại.
Cuộc sống luôn có những khó khăn, luôn có những thử thách đòi hỏi con người
phải can đảm vượt qua những khó khăn của dòng đời. Nhất là trong việc tìm kiếm
cơm áo gạo tiền luôn là nỗi lo của hàng triệu người. Có kẻ ăn bữa no bữa đói.
Có người ăn bữa sáng, lo bữa chiều. Vì người đông của hiếm. Kinh tế thị trường
lại cạnh tranh khiến kẻ mạnh luôn thắng còn người nghèo đói luôn thua thiệt.
Những ngày tết vừa qua tại bệnh viện Truyền Máu và Huyết Học Quận 5 vẫn có
những người nghèo khổ tấp nập tìm đến đây với hy vọng bán được thứ duy nhất bán
được để tồn tại. Đó là Máu hay Tiểu Cầu để có tiền trang trải nợ nần và cho con
cái hưởng chút hương vị mùa xuân. Gọi là "chợ" vì có kẻ bán, người
mua. Nhưng nơi đây chỉ duy nhất một "người mua" là bệnh viện. Theo
báo tuổi trẻ ghi nhận rẵng: "Sài Gòn những ngày tết sạch sẽ và yên tĩnh,
mọi người gặp nhau với những lời chúc tốt đẹp. Ngoài kia tiếng chiêng trống của
một đám múa lân rộn rã. Thế mà trong nầy vẫn có những người nghèo khổ phải nhốn
nháo xin bán từng giọt sức của mình".
Thế nhưng, cho
dù là giầu có hay có công danh sự nghiệp, dường như ai cũng không bao giờ toại
nguyện về cuộc sống mình. Người giầu cũng khóc, kẻ nghèo cũng than. Kẻ có địa
vị cũng khổ, người dân thấp hèn càng bất hạnh hơn. Con người thường hay than
phân trách phận vì Trời chẳng bao giờ làm cho họ toại nguyện về những gì mình
đang có.
Có một chàng
thanh niên nọ lúc nào cũng than vãn số mình không tốt, không thể giàu có được.
Một ngày kia, một ông lão đi qua, nhìn thấy vẻ mặt ủ ê của anh bèn hỏi:
- Chàng trai,
sao trông cậu buồn thế, có việc gì không vui à?
- Cháu không
hiểu tại sao cháu làm việc chăm chỉ, vất vả mà vẫn nghèo. Chàng trai buồn bã
nói.
- Nghèo ư, cháu
là một người giàu đó chứ?
- Chưa ai nói
với cháu như vậy cả, cháu rất nghèo.
- Giả như ta
chặt ngón tay cái của cháu, ta trả cháu 3 đồng tiền vàng cháu có đồng ý không?
- Không ạ.
- Giả như ta
chặt một bàn tay của cháu, ta trả 30 đồng tiền vàng, cháu có chịu không?
- Không bao giờ.
- Vậy ta muốn
lấy đi đôi mắt của cháu, ta trả cháu 300 đồng tiền vàng, cháu thấy thế nào?
- Cũng không
được.
- Vậy ta trả
cháu 3,000 đồng tiền vàng để cháu trở thành ông lão như ta, già cả, lú lẫn được
không?
- Đương nhiên
là không.
- Cháu muốn
giàu. Vậy ta sẽ đưa cho cháu 30,000 đồng tiền vàng để lấy đi mạng sống của
cháu, cháu thấy thế nào?
- Cháu cảm ơn
ông! Cháu đã hiểu cháu cũng là một người giàu có.
Trong cuộc
sống, rất nhiều người thường than thân trách phận mà không thực sự hiểu ra mình
còn hạnh phúc hơn rất nhiều người khác. Có kẻ giầu nhưng gia đình lại không
hạnh phúc. Có kẻ tuy nghèo nhưng gia đạo lại trên dưới thuận hoà. Có kẻ có tiền
nhưng không có sức khoẻ. Có người vất vả ngược xuôi nhưng lại chẳng đau yếu bao
giờ. Vì thế, dầu chúng ta trong hoàn cảnh nào cũng hãy lạc quan với những gì
mình có. Hãy vui với phận số an bài. Đứng đứng đó để nguyền rủa đời mình mà hãy
nhìn về tương lai với tinh thần lạc quan và hy vọng. Người xưa vẫn thường nói:
"không ai giầu ba họ - Không ai khó ba đời". Cuộc sống luôn tặng ban
cho chúng ta biết bao niềm vui và hạnh phúc. Hãy biết tận hưởng những giây phút
hiện tại, đừng đứng đó mà nguyền rủa ngày tháng mình sinh, nhưng hãy đứng dậy
để vượt qua những khó khăn trước mắt. Hãy tin tưởng vào tương lai đang chờ đón những
điều tốt đẹp sẽ đến với chúng ta.
Lời Chúa hôm
nay mời gọi chúng ta hãy tín thác vào Chúa. Hãy để cho Chúa lo cho bạn ngày mai
còn ngày hôm nay hãy sống hết mình với giây phút hiện tại. Hiện tại có khó khăn
nhưng "sau đêm dài là ánh bình minh". Hiện tại là bóng đêm nhưng bình
minh sẽ ló rạng để phá tan đêm tối. Chúa bảo rằng: "chim trời chúng con
gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội chúng không làm lụng thế mà vẫn xinh
tươi rực rỡ". Là con cái của Chúa, Chúa sẽ không bao giờ để chúng ta phải
thua thiệt. Chúa sẽ chăm sóc cuộc đời chúng ta như người cha người mẹ lo cho
con cái. Chúa sẽ luôn làm những điều tốt đẹp nhất cho chúng ta.
Ước gì mỗi
người chúng ta biết an vui với phận số của mình trong niềm tin tưởng phó thác
vào Chúa. Nguyện xin Chúa luôn đồng hành và giúp chúng ta vượt qua những khó
khăn của dòng đời hôm nay. Amen.
4. Chỉ
trong Thiên Chúa mà thôi – Anmai
Đã là người,
khi bước vào cuộc đời này không tránh khỏi những băn khoăn. Có những băn khoăn
về phận người, có những băn khoăn về đời sống vật chất và cũng có những băn
khoăn về đời sống tinh thần. Từ những băn khoăn đó, con người đi tìm lý giải
cho ý nghĩa của cuộc đời. Vì mang trong phận mình là con người yếu đuối, bất
toàn hay nói đúng hơn là bất lực trước những nghịch cảnh của cuộc đời để rồi sự
băn khoăn đó cứ dồn dập trong cuộc đời.
Thiên Chúa nói
với con người là Thiên Chúa ở bên, ở gần con người và chở che con người ấy
nhưng mà thực tế trong cuộc sống, quá nhiều lần Thiên Chúa làm cho con người
hụt hẫng và không biết là Thiên Chúa có ở cạnh bên mình hay không?
Trong bài ca
thứ hai, bài ca người Tôi Trung trong sách ngôn sứ Isaia mà chúng ta nghe đó
diễn tả tâm trạng thổn thức, tâm trạng lo lắng rằng Thiên Chúa có ở bên mình
hay không. Chúng ta vừa nghe: Sion từng nói: "Đức Chúa đã bỏ tôi, Chúa
Thượng tôi đã quên tôi rồi! " Nghe tiếng lòng thổn thức như vậy, Đức Chúa
đã đáp lời: Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa
con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng
quên ngươi bao giờ.
Đức Chúa không
cần phải nói nhiều, không cần giải thích nhiều, Đức Chúa chỉ lấy hình ảnh của
một người mẹ để minh họa. Đã là mẹ thì không bao giờ có ai cam tâm bỏ con mình
cả và rồi Đức Chúa nói rằng dẫu cho là người mẹ có quên đứa con mình đi chăng
nữa vì lý do nào đó còn Đức Chúa thì Đức Chúa không hề quên.
Chúa Giêsu, hôm
nay, trong trang tin mừng hết sức quen thuộc như muốn nhắc lại cho chúng ta về
thao thức của con người về tương lai, về cuộc đời.
Với hình ảnh
hết sức bình thường của con chim. Chúa Giêsu nói cho các môn đệ rằng chúng
không gieo, không gặt và cũng chẳng thu vào kho lẫm thế nhưng mà lạ lùng là cha
trên trời vẫn nuôi chúng. Quả thật là như vậy, bao nhiêu con chim trên trời
nhưng chúng ta thấy có con nào phải chết vì đói đâu. Thiên Chúa vẫn nuôi chúng
mỗi ngày, không chỉ có nuôi thôi nhưng còn nuôi một cách hết sức chu đáo nữa là
đàng khác.
Kế đến, Chúa
Giêsu lại dí dỏm về chiều cao của con người. Ai lùn thì sẽ rõ chuyện này. Biết
mình lùn đấy nhưng làm sao mà có thể cao hơn được. Khoa học dù có can thiệp đi
chăng nữa nhưng hình như chẳng được là bao.
Hết sức bình
thường với con người là chuyện cơm ăn áo mặc. Dù cho con người cố gắng mặc đẹp
thế nào đi chăng nữa thì cũng chẳng thể nào sánh bằng bông hoa huệ ngoài đồng.
Không chỉ có hoa huệ mà còn nhiều loài hoa khác nữa áo quần của con người không
thể nào sánh ví với vẻ đẹp mà tạo tác ban tặng cho nó.
Đi đến một bước
xa hơn nữa, Chúa Giêsu nói rằng tất cả những gì lo cho con người thì mọi người
và cả dân ngoại cũng đi tìm cái đó nhưng Cha của anh em trên Trời biết anh em
đi tìm cái gì. Kết thúc những gì Ngài nói, đỉnh điểm của điều Ngài nói đó là
chớ phải lo lắng gì về ngày mai cả. Ngày mai đều nằm trong lòng bàn tay của
Chúa.
Thánh Vịnh 61
mà chúng ta vừa nghe trong bài đáp ca nói lên tâm tình cuả người tin tưởng vào
Chúa:
Chỉ trong Thiên
Chúa mà thôi,
hồn tôi mới
được nghỉ ngơi yên hàn.
Ơn cứu độ tôi
bởi Người mà đến,
duy Người là
núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ
chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Chỉ trong Thiên
Chúa mà thôi,
này hồn tôi hãy
nghỉ ngơi yên hàn.
Vì hy vọng của
tôi bởi Người mà đến,
duy Người là
núi đá, là ơn cứu độ của tôi,
là thành luỹ
chở che: tôi chẳng hề nao núng.
Nhờ Thiên Chúa,
tôi được cứu độ và vinh quang,
Người là núi đá
vững vàng,
ở bên Thiên
Chúa tôi hằng ẩn thân.
Hỡi dân ta, hãy
tin tưởng vào Người luôn mãi,
trước mặt
Người, hãy thổ lộ tâm can:
Thiên Chúa là
nơi ta ẩn náu.
Thánh Vịnh 61
quả thật là tuyệt vời khi nói đến kẻ thường dân, khi nói đến người quyền quý.
Tất cả chỉ là không không trước mặt Thiên Chúa mà thôi:
Kẻ thường dân
âu chỉ là hơi thở,
người quyền quý
đều ví tựa ảo huyền,
đứng cả lên cân
cũng chẳng tày mây khói.
Đừng tin tưởng
ở trò áp bức nữa,
chớ hoài công
cậy ngón bóc lột người!
Tiền tài dẫu
sinh sôi nảy nở,
lòng chẳng nên
gắn bó làm chi.
Thế đấy! Phận
con người hết sức mong manh và dù cho có giàu có, dù tiền tài có sinh sôi nảy
nở đi chăng nữa cũng chẳng giải quyết được chuyện gì. Tại sao không giải quyết
được? Là vì khi nhắm mắt xuôi tay có mang theo được gì đâu và sinh mạng của mỗi
người nằm trong tay ai?
Mới đây không
lâu, một buổi chiều trung tuần tháng 1. Một linh mục thân quen vừa từ trên lầu
xuống để đi dâng Lễ bỗng dưng té ngã. Anh em đưa vị linh mục ấy đi cấp cứu và
rồi vừa vào nhà thương thì tim đã ngưng đập. Cố gắng hết sức chạy chữa nhưng
không qua khỏi.
Được biết sáng
hôm ấy thì địa phận Mỹ Tho phải ngậm ngùi chia tay với cha sở và cũng là giám
đốc Trung Tâm Mục vụ của địa phận. Nghe đâu Ngài đang chơi thể thao với các
thầy bỗng dưng té xuống. 15 giờ 30 Chúa gọi Ngài về.
Đang chuẩn bị
cử hành lễ an táng cho Cha kia vừa té ngã ở chân cầu thang và được Chúa gọi về
thì nghe tin nghệ sĩ ưu tú Kim Ngọc cũng vừa ra đi sau khi té ở nhà riêng. Con
cái, bạn bè thân hữu không khỏi bàng hoàn trước sự ra đi của nghệ sĩ Kim Ngọc.
Đứng trước 3
cuộc ra đi vội vàng ấy những ai quen biết, những người thân trong gia đình
không ai là không bàng hoàng, không thẩn thờ. 3 cuộc đời ấy, ba sinh mạng ấy
chắc chắn không ai có thể ngờ được rằng đến ngày đó Thiên Chúa gọi về. Nhiều
người vẫn tưởng là những người ấy không thể nào đi sớm như vậy. Trong Thánh Lễ
an táng, vị giảng lễ hôm ấy ngậm ngùi thân thưa với cộng đoàn, với người quá cố
rằng ngài không nghĩ rằng ngài giảng lễ an táng cho người quá cố. Lẽ ra người
quá cố giảng lễ an táng cho ngài vì ngài lớn tuổi hơn người quá cố!
Lớn tuổi hơn,
nhỏ tuổi hơn hay thậm chí tài giỏi hơn không quan trọng. Chuyện quan trọng là
tất cả đều nằm trong lòng bàn tay của Chúa tất cả.
Chúa đã khẳng
định rằng tất cả những gì mà chúng ta chưa kịp xin thì Ngài thấu hiểu. Cuộc đời
của chúng ta, chúng ta chưa biết ngày nào, giờ nào nhưng Thiên Chúa biết.
Thiên Chúa vẫn
mời gọi chúng ta tin tưởng, quan phòng vào lòng bàn tay từ ái của Chúa. Thái độ
tin tưởng hay ngờ vực vẫn là thái độ tự do và lời đáp trả của mỗi người chúng
ta.
5.
Thiên Chúa quan phòng
Trong bài Tin
Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng cho mạng sống mình: sẽ
ăn gì? mặc gì? ngày mai sẽ ra sao?, mà phải tin cậy vào sự quan phòng chăm sóc
của Thiên Chúa. Ngài đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự quan phòng liên lỉ của
Thiên Chúa: chim trên trời, bông huệ ngoài đồng, chúng có đáng gì đâu, thế mà
Thiên Chúa vẫn hằng nuôi nấng, để ý đến, huống chi con người, vì con người được
tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa và được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc bằng chính
giá máu Ngài.
Đọc kỹ bản văn
của Matthêu, chúng ta thấy có bốn lần Chúa Giêsu dạy chúng ta đừng quá lo lắng
đến nỗi mất tin cậy vào Thiên Chúa. Khi nói như thế, Ngài muốn chúng ta đừng
tìm bảo đảm nơi của cải nay còn mai mất, mà phải tìm cái cốt yếu cho cuộc đời
trước đã, rồi mọi sự khác sẽ được thêm cho. Lo lắng quá cũng chẳng giải quyết
được gì: "Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo dài đời mình thêm
được một vài gang tấc không?". Tín nhiệm hoàn toàn vào Thiên Chúa không có
nghĩa là sống trong thụ động, mà là cộng tác với công việc của Thiên Chúa tùy
ơn gọi của mỗi người: tự giúp mình thì trời sẽ giúp cho.
Thiên Chúa biết
rõ chúng ta không phải là những con chim hay bông hoa ngoài đồng, mà là những
con người phải làm việc để nuôi thân và góp phần xây dựng gia đình và xã hội.
Chúa dạy chúng ta "trước hết hãy tìm" nghĩa là hẫy đặt đúng chỗ công
việc: việc nào trước, việc nào sau. "Trước hết hãy lo tìm Nước Chúa và sự
công chính của Ngài", lời này đặt nền tảng cho người Kitô hữu trong việc
chọn lựa: Thiên Chúa phải chiếm chỗ ưu tiên trong con người và công việc của
chúng ta, rồi đến việc cứu rỗi bản thân và đưa người khác về với Chúa; đảo lộn
trật tự này tức là đi ngược thánh ý và chương trình của Thiên Chúa.
Ước gì Lời Chúa
hôm nay giúp chúng ta tự kiểm thảo xem từ trước đến giờ, chúng ta đã chọn Chúa
hay chọn tiền bạc? Đã quá lo lắng đến vật chât hay đã luôn tín nhiệm vào Thiên
Chúa quan phòng? Xin Chúa cho chúng ta biết tìm kiếm trước hết Nước Chúa và sự
thánh thiện, và tin chắc rằng Chúa sẽ ban cho chúng ta mọi sự khác mỗi khi
chúng ta cần đến, vì Chúa là Cha chúng ta và hằng yêu thương săn sóc chúng ta.
6. Suy
niệm của ĐGM. Phaolô Nguyễn Thanh Hoan
Nghe qua bài
Tin mừng này với những từ ngữ Chúa dùng như: "Anh em không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa, vừa làm tôi tiền của được", hoặc "Anh em đừng lo lắng lấy
gì mà ăn... lấy gì mà mặc", có lẽ chúng ta những doanh nhân đang theo đuổi
mục đích làm ra của cải, cảm thấy lúng túng. Tin mừng muốn nói gì đây. Vì thế
ta phải tìm hiểu cẩn thận để hiểu Lời Chúa hôm nay thực sự là một Tin mừng, là
sự bằng an cho cuộc sống.
Trước hết bài
Tin mừng này có liên quan đến bài diễn từ đầu tiên của Chúa Giêsu, cũng gọi là
bài giảng về hiến chương nước Thiên Chúa, cho thấy đâu là hạnh phúc thật cho
nhân loại, hay còn gọi là tám mối phúc thật với ba nội dung chính:
- Thiên Chúa
Toàn Năng, đầy tình yêu thương nhân loại, chính Ngài là hạnh phúc thật của
chúng ta, ngoài Người ra con người không tìm đâu được hạnh phúc, cho nên phải
đặt hết tin tưởng, gắn bó yêu mến Ngài trên hết mọi sự.
- Hai là con
người là anh em với nhau, vì cùng mang dấu ấn Thiên Chúa nới mình. Cần theo
đuổi cuộc sống đầy tình người, sống tinh thần hòa bình, khoan dung tha thứ,
chân thành trong sáng và đặc biệt phải biết thương yêu những người yếu kém
trông cộng đoàn.
- Ba là trước
mọi gian nan thử thách, kể cả sự bắt bớ ngược đãi vì Tin mừng, hãy coi đây là
cơ hội để làm chứng lòng trung tín và hy vọng nơi Thiên Chúa của mình.
Sau bài diễn từ
quan trọng đó thì Chúa đem ra nhiều trường hợp cụ thể để thực hành cho đạt tới
Hạnh phúc thật đó. Và coi chừng những trở ngại có thể làm ta sai lạc mục tiêu
hạnh phúc thật. Một trong các trở ngại đó là vấn đề của cải, của cải có thể trở
thành tà thần đầy nguy hiểm.
Trước vấn đề
của cải, Chúa cẩn thận dạy các tông đồ: "Người ta không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa, vừa làm tôi của cải được" hoặc "anh em đừng lo lắng lấy
gì mà ăn...lấy gì mà mặc" thế là gì? Nhu cầu sự sống như cơm áo, phương
tiện giao dịch của thời văn minh như tiền bạc, trương mục ngân hàng ta phải lo
cho có để dùng mới được. Thực ra ở đây Chúa không kết án tiền bạc mà Chúa đề
cập đến cách làm ra và sử dụng tiền bạc. Chúa nói "đừng lo lắng",
không có nghĩa là đề cao những người biếng nhác, những người vô trách nhiệm,
siêng ăn nhác làm, không quan tâm đến gia đình con cái. Chúa cũng không phê
phán những người lập ra những kế hoạch, lên chương trình trong công việc làm
ăn. Kinh tế thị trường kinh tế tự do, không biết lo là thất bại. "Đừng lo
lắng" ý Chúa muốn nói, phải kết hợp sao cho hài hòa giữa công việc làm ăn,
với niềm tin vào Thiên Chúa Tình yêu, Ngài đang tham dự vào đời sống chúng ta.
Trong đời sống đó có phần cố gắng của chúng ta, mà có cả quyền năng yêu thương
của Thiên Chúa. Cái thất bại của con người tại vườn địa đàng là họ đã bỏ Thiên
Chúa tin vào satan và kế hoạch riêng tư đầy kiêu căng của mình.
Sự tham dự của
Thiên Chúa vào đời ta là kế hoạch kỳ diệu ta không tưởng tượng được. Tại tiệc
cưới Cana, trông khi người ta cần mười lít rượu là cùng, nhờ lời Đức mẹ, Chúa
tham dự giải quyết cuộc khủng hoảng với 600 lít rượu tặng đôi tân hôn. Tại bãi
biển hoang vu, các tông đồ chỉ kiếm được năm chiếc bánh và mấy con cá, Chúa
biến thành cả núi cá và bánh cho 4.000 người ăn no mà còn dư. Cho nên trong
việc làm ăn, hãy biết trông cậy vào Chúa để Ngài yêu thương giúp đỡ. Bông hoa
sớm nở chiều tàn, hay con chim bé nhỏ Chúa còn thương phương chi con người là
con của Chúa.
Khi nói người
ta không thể làm tôi hai chủ: vừa Thiên Chúa vừa tiền bạc. Ý Chúa muốn giải
thoát, muốn tránh cho ta thói tham lam, lấy thế lực vạn năng mạnh mẽ của tiền
của để bảo đảm tương lai, người ta coi tiền tài như thần thánh và tìm kiếm bằng
bất cứ giá nào. Người ta quên thời gian hiện tại và hạt giống của tương lai,
chỉ đi tìm của cải mà đánh mất tương lai đời đời thì đó là người ngu dại. Để
làm sáng tỏ vấn đề Chúa lấy chuyện người phú hộ làm thí dụ, ông làm kinh tế
giỏi, ông lập kế hoạch lớn, làm nhiều kho lẫm, và cho thế là an toàn, thủ hưởng
lâu dài suốt đời. Nhưng Chúa bảo hắn: "Đồ ngu, nội đêm nay người ta cất
linh hồn ngươi về thì những của cải đó ngươi để cho ai?"
Nhớ lại câu
chuyện ông Giakêu, suốt một quá khứ dài ông mãi mê tìm tiền của, làm giàu bất
chính. Vậy mà hạnh phúc chưa thấy vì lòng vẫn còn đói tiền của, trong khi những
tiếng phê phán chê bai chỉ làm cho ông chán ngấy cuộc đời. Vậy mà sau một đêm,
Lời Chúa soi sáng cho ông thấy rõ chân lý giá trị của hiện tại, ông đã có một
quyết định thật lớn lao: "Ông sẵn sàng lấy một nữa gia tài cho người
nghèo, đền lại gấp bốn sự thiệt hại ông đã gây ra cho kẻ khác.", lúc đó
Chúa nói ngay với ông: "Hôm nay ơn cứu độ đến với nhà này" (Lc19,9).
Hai tiếng "hôm nay" ở đây rất quan trọng vì nó cho ta thấy Chúa hiện
diện ngay lúc chúng ta làm việc bác ái để ghi công đời đời cho chúng ta. Cuộc
sống này là thời kỳ gieo tỉa, mùa gặt sẽ đến mai sau. Nhưng kết quả việc bác ái
là của cải cho đi đã trở thành hồng phúc vinh quang Chúa cất sẵn trên trời cho
chúng ta.
Dụ ngôn Cuộc
phán xét chung cho chúng ta thấy rõ điều đó. Ở đây không thấy nói đến đạo nào,
chức vị nào mà chỉ nói đến Tình Yêu. Lúc đó Chúa cho người ta thấy việc bác ái
thực hành là tiêu chuẩn duy nhất làm cho chúng ta được thưởng công đời đời, vì
mỗi lần giúp đỡ người nghèo là giúp cho chính Chúa. Chúa nói với họ: "Nào
những kẻ Cha ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng vương quốc dọn sẵn cho các ngươi
ngay từ tạo Thiên lập địa.Vì xưa Ta đói các ngươi cho ăn; Ta khát các ngươi cho
uống; Ta là khách lạ các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng các ngươi đã cho
mặc; Ta đau yếu các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù các ngươi đã hỏi han".
Người ta sẽ ngạc nhiên hỏi Chúa: Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn,
khát mà cho uống đâu? Chúa đáp: "Ta bảo thật các ngươi: Mỗi lần các ngươi
làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của ta là các ngươi đã làm
cho chính ta vậy". Đó là những người được tuyển chọn. Còn những người bị
loại, bị xua đuổi vào lửa đời đời dành cho ác quỉ, thì lý do cũng là không biết
thương những người đói khát, bơ vơ...v.v. Anh em thấy rõ Thiên đàng chúng ta ở
đâu? Đó chính là "Tình Yêu", là trân trọng và yêu thương con người vì
có Chúa ở nơi họ. Như vậy các việc lành khác thì sao? Có cần không? Tất cả đều
hướng về Tình yêu là điều răn trọng nhất.
Nói tóm lại,
hiện tại ta hướng về Tình yêu thì Thiên Chúa Tình yêu sẽ đón nhận ta. Ta chỉ
biết hướng về mình để dùng của cải phục vụ cho mình và gia đình thì chúng ta
mất sự sống đời đời. Chúng ta chọn đường nào? Bài Tin mừng kết luận:
"Trước hết anh em hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của
Người...". Nước Thiên Chúa là Tình Yêu. Sự công chính của Ngài cũng là
Tình Yêu, vì Ngài là Tình Yêu.
Cách đây không
lâu, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong thông điệp Tình Yêu và chân lý, Ngài đã
khẳng định rằng: "Mọi sự bắt nguồn từ Tình Yêu, mọi sự được định hướng
trong Tình Yêu và mọi sự sẽ kết thúc trong Tình Yêu".
Người doanh
nhân có công làm cho tiền của luân chuyển để cho dân giàu nước mạnh thật là quý
trông thời kỳ kinh tế thị trường này. Nhưng khi thành công ta phải biết chia sẻ
cho người nghèo thì mới đúng nghĩa doanh nhân công giáo. Vì chỉ chờ cho đến lúc
giàu có nhiều của mới chia sẻ thì đã bỏ mất cái ngày Hôm Nay. Chúa còn nói
thêm: "Anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai có cái khổ của ngày mai.
7. Chọn
Thiên Chúa hay tiền của
(Suy niệm của
Lm Giuse Đinh Lập Liễm)
A. DẪN NHẬP
Cuộc đời là một
chuỗi những sự lựa chọn. Bất cứ ai đều phải có sự lựa chọn cho đời sống của
mình về phương diện tinh thần cũng như vật chất. Trên bình diện tôn giáo, Đức
Giêsu đã chỉ dẫn cho chúng ta cách lựa chọn:"Các con không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được"(Mt 4,24). Và Ngài đã đòi chúng ta
một sự lựa chọn dứt khoát: một là Thiên Chúa, hai là Tiền của. Chúng ta có
quyền tự do lựa chọn và phải gánh chịu hậu quả về sự lựa chọn đó.
Chúng ta là
những người khôn ngoan đã dứt khoát chọn lựa Thiên Chúa vì chúng ta là con của
Ngài, đã được dựng nên giống hình ảnh Ngài. Một khi đã chọn Thiên chúa, chúng
ta phải tuyệt đối yêu mến và tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài. Chúa khuyên
chúng ta đừng quá lo lắng về cơm ăn áo mặc, hãy nhìn xem chim trời, hoa cỏ đồng
nội thì biết. Nhưng chúng ta phải lưu ý: Chúa khuyên chúng ta đừng "lo
lắng" nhưng phải biêt "lo liệu". Lo lắng là dấu chỉ chưa đủ tin
tưởng vào Chúa, còn lo liệu là biết khôn ngoan sắp đặt mọi sự trong hiện tại
cũng như trong tương lai trong sự yêu mến và tin tưởng phó thác cho Chúa.
Tin tưởng phó
thác vào Chúa quan phòng không có nghĩa là ỷ lại, để cho Chúa lo mọi sự, nhưng
trái lại, phải có sự cộng tác của chúng ta. Đây là bằng chứng: ngày từ đầu
Thiên Chúa đã trao trái đất cho con người coi sóc, Đức Giêsu đã làm nghề thợ
mộc tại Nazareth và thánh Phaolô cũng chủ trương ai không làm việc thì không có
quyền ăn. Vậy, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cứ làm việc bình thường,
đừng bồn chồn lo lắng. Hãy quên đi quá khứ, hăng say làm việc trong hiện tại và
đặt tương lai vào trong bàn tay Chúa quan phòng.
B. TÌM HIỂU LỜI
CHÚA
+ Bài đọc 1: Is
49,14-15
Dân Israel bị
lưu đày bên Babylon, sống cơ cực dưới sự đè nén của ngoại bang, họ đâm ra chán
nản, thất vọng. Họ cho rằng Thiên Chúa đã quên họ. Họ đã bị bỏ rơi. Niềm tin bị
giảm sút.
Nhưng tiên tri
Isaia đã khẳng định với dân: Thiên Chúa không bao giờ bỏ quên họ bởi vì họ là
con của Ngài. Ông đưa ra một hình ảnh sống động và cụ thể: có người mẹ nào mà
bỏ quên con mình? Cho dù người mẹ có bỏ quên con mình đi nữa thì Thiên Chúa sẽ
không bao giờ bỏ quên đâu.
+ Bài đọc 2:
1Cr 4,1-5
Tín hữu Corintô
có nhiều tinh xấu như óc bè phải, tính kiêu căng, tự phụ. Hôm nay thánh Phaolô
nhắc nhở họ phải đề phòng một tính xấu khác, đó là xét đoán.
Thực ra, không
ai biết được con tim khối óc của người khác, chỉ là phỏng đoán, duy một mình
Thiên Chúa mới biết được chính xác. Vì thế, mọi người hãy dành quyến xét xử cho
Thiên Chúa "Đấng thấu suốt lòng mọi người".
+ Bài Tin mừng:
Mt 6, 24-34
Hôm nay Đức
Giêsu nói với cả người giầu lẫn người nghèo phải biết lựa chọn. Chỉ có hai con
đường để lựa chọn, đó là phụng sự Thiên Chúa hay phụng sự Tiền của.
Phụng sự Thiên
Chúa là sống theo Tin mừng, theo Hiến chương Nước Trời và tìm kiếm sự công
chính của Thiên Chúa, nghĩa là tìm biết và thi hành thánh ý Ngài.
Nếu phụng sự
Chúa thì phải tin vào Chúa quan phòng. Đành rằng chúng ta phải làm việc để giải
quyết đời sống vật chất như cơm ăn áo mặc... nhưng chúng ta phải dành ưu tiên
cho việc tìm kiếm Nước Trời, còn mọi sự khác Ngài sẽ ban cho.
C. THỰC HÀNH
LỜI CHÚA
Bắt cá hai tay
Người Việt nam
chúng ta thường dùng câu tục ngữ "Bắt cá hai tay" để chỉ những người
tham lam, mưu cầu nhiều việc. Ta phải hiểu câu tục ngữ này như thế nào? Nhân
dân ta hiểu câu tục ngữ này theo nghĩa đen là: mỗi tay bắt một con, và kết quả
là tuột mất hết chẳng bắt được con cá nào. Chẳng thế mà ca dao Việt nam đã từng
khuyên nhủ mọi người:
Thôi đừng bắt
cá hai tay
Cá thì xuống
bể, chim bay về ngàn.
Câu tục ngữ này
có thể minh họa một phần nào lời Đức Giêsu nói trong bài Tin mừng hôm
nay:"Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ
kia; hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ kia. Các con không thể vừa làm
tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được" (Mt 6,24).
I. PHẢI BIẾT
CHỌN LỰA
1. Lựa chọn là
điều cần thiết
Ngày nay người
ta nói nhiều đến dấn thân. Dấn thân, nhập cuộc là thân phận của con người. Sống
là dấn thân, mà dấn thân thì phải lựa chọn. Sống là một chuỗi những lựa chọn.
Chính những lựa chọn này sẽ làm cho người ta thành công hay thất bại, trở thành
người tốt hay người xấu, được hạnh phúc hay phải đau khổ. Đã chọn lựa điều này
thì phải bỏ điều kia. Từ bỏ bao giờ cũng là một giằng co, nuối tiếc.
Đức Giêsu muốn
các môn đệ của Ngài phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc
bắt cá hai tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất. Hôm
nay phải chọn lựa hoặc Thiên Chúa hoặc Tiền của.
2. Phải chọn
lựa thế nào?
a) Thời xa xưa,
trong thời vua Achab trị vì, dân Israel đã bỏ Chúa mà đi thờ dân ngoại Baal.
Tiên tri Êlia đã hô hào dân chúng hảy trở về với Thiên Chúa, phải dứt khoát lựa
chon:"Các ngươi nhảy khập khiễng hai chân cho tới bao giờ? Nếu Đức Chúa là
Thiên Chúa, hãy theo Người; còn nếu là Baal thì cứ theo nó" (1V 18,21)
b) Thời nay,
Đức Giêsu cũng cảnh báo cho những người tôn thờ tiền của như sau:"Các con
không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được" (Mt 6,24)
* Ý nghĩa chữ
"Tiền của"
Tiền của ở đây
được viết bằng chữ hoa, tiếng Aram là MAMMON, có nghĩa là Tiền của. Nếu tiền
được thần hóa như thế, thì sức mạnh thống trị của nó không thể coi thường. Nếu
tiền và Thiên Chúa đã được Đức Giêsu đưa lên bàn cân để người ta lựa chọn, thì
quyền lực của nó phải là vô song.
* Ý nghĩa chữ
"tôi" và "chủ".
Đối với người
xưa "không ai được làm tôi hai chủ" có ý nghĩa hơn đối với chúng ta.
Từ ngữ là "tôi" trong nguyên ngữ Hy lạp là "nô lệ", làm nô
lệ cho; còn từ "chủ" để chỉ quyền sở hữu tuyệt đối. Ý nghĩa câu này
sẽ rõ hơn nếu chúng ta dịch: không ai có thể làm nô lệ cho hai ông chủ.
Để hiểu ý
nghĩa, có hai điều chúng ta cần nhớ về người nô lệ thời xưa. Nô lệ, trong quan
điểm luật pháp, không phải là một con người mà là một đồ vật. Nô lệ tuyệt đối
không có gì cả, chủ có thể sử dụng nô lệ thế nào cũng được. Đối với luật pháp, nô
lệ là một dụng cụ sống, ông chủ có thể bán, đánh đập, quăng ra ngoài hoặc giết
đi, vì ông ta sở hữu người nô lệ y như sở hữu một đồ vật. Thứ đến, nô lệ thời
xưa không có chút thời giờ nào là của riêng. Mỗi giây phút của đời sống nô lệ
đều thuộc về chủ...
Đây chính là
mối dây liên hệ của chúng ta đối với Thiên Chúa, ta không có quyền gì cả. Thiên
Chúa là chủ tuyệt đối. Không bao giờ chúng ta được hỏi: tôi muốn làm gì? Nhưng
luôn luôn hỏi: Chúa muốn tôi làm gì?
3. Nguy hại của
thần Mammon.
Thần Mammon hay
thần Tiền của có một sức mạnh vạn năng, nó giải quyết phần lớn các nhu cầu của
con người, nên tiền của hấp dẫn lạ lùng. Người Vệt nam chúng ta có câu:
Có tiền mua
tiên cũng được
Hoặc:
Mạnh về gạo,
bạo về tiền
Lắm tiền, nhiều
gạo là tiên trên đời.
Ngay cả việc
đạo cũng phải có tiền mới xong:
Có thực mới vực
được đạo.
Nguyên ngữ
Mammon chỉ có nghĩa là của cải vật chất. Nguyên nghĩa của nó không phải là một
chữ mang ý nghĩa xấu. Các rabbi Do thái vẫn dạy:"Hãy quí trọng mammon của
người khác như của chính ngươi", nghĩa là mọi người phải coi tài sản vật
chất của người khác quí trọng như tài sản của mình.
Tiền của là như
vậy, nhưng tại sao Đức Giêsu lại gay gắt với tiền của như thế? Thật ra, Ngài
không lên án tiền của, Ngài chỉ cảnh báo những ai ham mê của cải mà thôi. Hay
nói cách khác, Thánh Kinh đã nói:"Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều
ác" (1Tim 6,10).
Và chúng ta
phải công nhận rằng tiền của là phương tiện hữu hiệu Chúa ban, để bảo tồn sự
sống đời này, và để mua Nước Thiên đàng đời sau. Tự bản chất của tiền là tốt,
nó là hồng ân Thiên Chúa tặng ban cho con người.
Tiền của chỉ
trở nên xấu khi ta quá tôn thờ nó, như một ông chủ sai khiến hành hạ đời ta,
thậm chí lấy luôn mạng sống ta.
Tiền của chỉ
trở nên đáng ghét khi ta quá tham lam thu tích nó mà quên đi bổn phận chia sẻ
với anh em, như người giầu có xử tệ với Lazarô nghèo khó.
Tiền của chỉ
trở nên án phạt khi ta quá ham mê nó mà từ bỏ Thiên Chúa, như Giuđa bán Thầy vì
mê 30 đồng bạc.
Tiền của chỉ
trở nên cạm bẫy khi ta quá bám víu vào nó mà không còn tin cậy vào Thiên Chúa
quan phòng, như người phú hộ ham hưởng khoái lạc không kịp ăn năn.
Vì thế, Đức
Giêsu thật có lý khi cấm chúng ta không được làm tôi tiền của. Ngài cảnh báo
như thể để mưu cầu hạnh phúc đời đời cho chúng ta.
Truyện: Nô lệ
hay tự do
Hôm ấy, trời
vừa rạng đông, ông hoàng nói với tên đầy tớ:"Xem chừng anh mơ ước giầu có
lắm. Vậy từ giờ này cho đến lúc mặt trời lặn, anh có sức ngần nào thì cứ chạy.
Tất cả nhữngg ruộng vườn, ao cá anh chạy vòng quanh được, ta cho anh hết".
Anh vui sướng
quá! Cha chết sống dậy cũng không bằng. Anh liền cắm đầu chạy, chạy vùn vụt như
Hạng Vũ trên con ngưa Ô-Truy. Chín mười tiếng đồng hồ qua, chàng làm chủ được
mấy cánh đồng bao la bát ngát. Chàng vừa dừng chân, thì một hồ cá mênh mông với
mặt nước trong ngần huyền ảo phán chiếu ánh mặt trời đã xế chiều. Chang lại
chạy tiếp. Sau cùng, màn đêm buông rơi. Chàng hổn hển quay bước trở về, để làm
bậc tỷ phú với "Ruộng vườn cò bay thẳng cánh, ao hồ mặc sức cá đua".
Nhưng vừa bước
chân vào ngưỡng cửa, chàng ngã lăn xuống bất tỉnh. Vợ con vội vàng thuốc thang
săn sóc... Nhưng vô hiệu. Nhà tỷ phú đã trút linh hồn sau một ngày dài lao lực
quá mức. Người ta đào cho chàng một chỗ nghỉ trong lòng đất, vừa dài, vừa rộng,
nhưng không quá ba tấc đất.
Đó là kết cục
của một con người ham mê tiền của, để nó sai khiến như một tên nô lệ, phải vắt
cạn kiệt sức lực cho tới chết, mà không được mảy may hưởng dùng.
Sự nô lệ cho
tiền của là một bệnh "ung thư" thật sự của xã hội chúng ta. Nhắc lại
như thế là việc tầm thường. Nền văn minh Tây phương đang tự phá hủy chính mình
dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy đua đuổi theo cái "tiện nghi", cái
"xa hoa", những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con
người trở thành nạn nhân của "đồ bỏ đi ấy của Satan" như cách gọi của
tác giả người Ý, Papini.
II. TIN VÀO
CHÚA QUAN PHÒNG
1. "Đừng
lo lắng về của ăn áo mặc"
Tiếp theo việc
phải chọn lưa giữa Thiên Chúa và Tiền của, Đức Giêsu khuyên chúng ta đừng lo
lắng về cơm ăn áo mặc, hãy xem chim trời và hoa đồng nội, chúng sống thế nào!
Chúng ta cần
phân biệt giữa "lo lắng" và "lo liệu". Chúa bảo chúng ta
đừng lo lắng chứ không phải đừng lo liệu. Lo lắng vì không tin tưởng vào Thiên
Chúa quan phòng. Mọi lo lắng đều liên hệ đến tương lai, mà tương lai là điều
chưa có thật. Trái lại, lo liệu là vẫn lo làm việc hôm nay, tiên liệu cho ngày
mai, nhưng luôn tin cậy phó thác cho Chúa.
Lo lắng chủ yếu
là không tín thác vào Chúa. Sự không tín thác như thế có thể hiểu được nơi
người ngoại giáo với tin tưởng vào một thần linh ganh tị, thất thường, không
thể đoán trước được, nhưng không thể hiểu được nơi một người đã học gọi Thiên
Chúa là Cha. Khi chúng ta đặt chính mình vào đôi tay của Thiên Chúa, chúng ta
mở lòng mình để hưởng nhờ ơn Chúa bảo vệ chúng ta. Và chúng ta có thể sống đời
sống của mình và cử hành giây phút hiện tại.
2. Hãy tin vào
Chúa quan phòng
Quan phòng là
hành động của Thiên Chúa hướng dẫn con người và thế giới cách nào đó mà ta
không ngờ. Nó không phải là định mệnh, hay số mệnh như quan niệm bình dân. Bình
dân hiểu: số mệnh, định mệnh là sự ấn định trước cho mỗi người phải chịu một
kiếp sống tốt hay xấu, sướng hay khổ, thành hay bại giống như rút thăm, rút số
ghi sẵn cái gì thì phải lãnh cái đó.
Quan phòng là
việc của người Cha khôn ngoan sáng suốt, đầy tình thương mến, hy sinh tận tụy
lo toan cho con, nhưng cũng rất tôn trọng tự do sáng kiến của con, khi con hết
lòng yêu mến, kính phục Cha, nó sẽ hết lòng vâng theo lời hay lẽ phải của Cha.
Phụng vụ Chúa
nhật hôm nay nhắc nhở cho ta điều mà ta không bao giờ được quên là ta tùy thuộc
vào Chúa từng hơi thở. Chúa là Chúa các tạo vật. Ngài nắm quyền ban sự sống và
đem lại cái chết. Ngài cầm vận mạng mọi loài trong tay.
Trong bài đọc
1, tiên tri Isaia nhắc nhở cho dân chúng là ngay cả khi họ bị lưu đầy bên
Babylon, Chúa vẫn nhớ họ và không bỏ rơi họ. Mặc dầu bị án phạt, Chúa vẫn nhớ
họ và giải thoát họ khỏi nô lệ. Sứ điệp của tiên tri Isaia bảo ta là phải đặt
tin tưởng phó thác vào Chúa, ngay cả trong những ngày đen tối, bởi vì Thiên
Chúa không bỏ rơi dân Người. Isaia còn đưa ra hình ảnh người mẹ với đứa con,
không bao giờ người mẹ bỏ quên con, và giả như người mẹ có quên con đi chằng
nữa thì Thiên Chúa cũng không bao giờ bỏ ta là con Ngài.
Tin mừng cũng
nói lên một sứ điệp tương tự Lời Chúa vang dội bên tai ta như là lời an ủi vỗ về:"Các
con chớ áy náy lo lắng mà nói rằng: chúng ta sẽ ăn gì, uống gì hoặc sẽ lấy gì
mà mặc... Cha trên trời biết rõ chúng con cần những sự đó" (Mt 6,31-32).
Truyện: Người
mẹ không quên con
Một phụ nữ
nghèo nàn ở trong một giáo xứ tại Dublin có một đứa con trai và đứa con này làm
tan nát đời bà.
Anh ta không
chịu làm việc mà dùng thời giờ để uống rượu và la cà với những kẻ phá rối. Anh
lấy trộm hết những vật có giá trị của bà trong nhà. Bao nhiêu lần, bà đã cầu
xin anh thay đổi đời sống, nhưng anh từ chối không làm. Anh làm cho trái tim mẹ
anh tan nát và đời sống bà trở nên khốn khổ.
Có lúc anh ta
phải vào tù. Hẳn là bà bỏ mặc anh ta? Không đời nào. Bà đến nhà tù thăm anh ta
không bỏ tuần nào, mỗi lần đều mang theo thuốc lá và những đồ dùng khác cho anh
ta trong một cái bao nhỏ. Một ngày nọ, một linh mục trong giáo xứ gặp bà lúc bà
đang trên đường đến nhà tù.
"Đứa con
trai này làm đời bà tan nát" vị linh mục nói. "Nó sẽ không bao giờ
thay đổi. Tại sao bà không quên nó đi"?
"Làm sao
tôi có thể quên nó được"? bà đáp lại. "Tôi không thích việc nó làm
nhưng nó vẫn là con tôi".
Bạn có thể nói
rằng người mẹ ấy điên. Tuy nhiên bà chỉ làm điều mà bất cứ bà mẹ nào đúng nghĩa
một bà mẹ không thể không làm, đó là yêu thương con của mình dù ở hoàn cảnh
nào. Một bà mẹ không bao giờ bỏ cuộc. Đối với hầu hết chúng ta, tình thương của
bà mẹ là một tình yêu của con người đáng tin cậy nhất. Nên không lạ gì khi Kinh
Thánh dùng tình yêu của bà mẹ như một hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa
(McCarthy).
3. Quan phòng
và hành động.
Tin vào Chúa
quan phòng không phải là trao hết mọi việc vào tay Chúa rồi sống ỷ lại với tư
tưởng:"Trời sinh voi, trời sinh cỏ" rồi "ngồi há miệng chờ sung
rụng". Tin Chúa quan phòng không được mang tính cách thụ động, không phải
thái độ vô vi, yếm thế, buông trôi. Đức tin chân chính phải thể hiện bằng việc
làm, càng tin, càng phải đem hết sức mình cộng tác vào công trình sáng tạo của
Thiên Chúa: biết xây dựng trần thế tốt đẹp như khi Ngài dựng nên mọi sự tốt đẹp.
Nếu Đức Giêsu
nói:"Các con không phải làm gì cả, cứ tin vào Chúa quan phòng" thì
tại sao trong toàn bộ Thánh Kinh, ngay từ đầu, Thiên Chúa đã nói điều ngược
lại? Chương đầu tiên của sách Sáng thế đã cho chúng ta lệnh truyền:"Hãy
thống trị đất và bắt nó pục tùng".
Thật ra, Đức
Giêsu khẳng định:"Vì thợ đáng được nuôi ăn"(Mt 10,10). Điều này được
hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người đó không có quyền ăn như thánh
Phaolô kết luận (2Tx 3,10). Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của
người đã không làm sinh lợi nén bạc mà người đó đã lãnh nhận (Mt 25,14-30).
"Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài".
Vả lại, Ở
Nazareth, Đức Giêsu đã có một nghề nghiệp: Ngài đã trải qua kinh nghiệm sống đổ
mồ hôi, sôi nước mắt. Và cũng như 20 gia đình tạo thành ngôi làng nhỏ miền quê
ấy, Ngài cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài gia súc. Đức Giêsu hoàn toàn
biết rằng tiền bạc có ích và cần thiết cho cuộc sống.
Nhà nho cũng
hiểu điều đó khi nói:"Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức":
trời hành động kiên cường thế nào thì quân tử cũng phải tự cường, hết sức làm
như thế, không ngưng nghỉ. Quân tử là con trời, con vua, là hiền nhân, minh
triết, phải biết tri thiên mệnh: biết ý trời, biết mệnh lệnh của trời để làm
theo. Tin có thiên mệnh, tin cáo đạo Trời, chính là tin Thiên Chúa quan phòng
sắp xếp mọi trật tự cho muôn loài trong trời đất.
Nhà nho chân
chính Nguyễn công Trứ luôn luôn kiên cường hành đạo không mỏi mệt, không vụ
danh lợi, dù làm tướng, làm quan hay làm lính "vẫn ra tay buồm lái với
cuồng phong". Nhờ thế, ông đã biến biển cả thành nương dâu, đồng ruộng Kim
Sơn, Tiền Hải cho nhân dân ấm no. Nhất là ông đã biến những con người yếm thế
thành những nam nhi anh hùng:"Chí những toan xẻ núi lấp sông", biến
những tâm hồn tham danh lợi thành trong sáng thanh tao:"Chẳng lợi danh gì
lại hóa hay". Một con người đầy chí khí không cầu thành công danh lợi, chỉ
cầu thành nhân mưu ích cho đời:"Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên".
Đức Giêsu đâu
có thành công lúc sinh thời, nhưng đã thành Đấng Cứu Độ của muôn dân.
III. TÌM CÁI ƯU
TIÊN CHO CUỘC SỐNG
Trong tất cả
các tạo tạo vật nơi vũ trụ và tất cả các sinh vật trên mặt đất, mối quan tâm
trước tiên của Chúa là con người, vì con người là một tuyệt tác phẩm của Thiên
Chúa. Nếu Chúa quan tâm đến chim trời, đến hoa đồng cỏ nội, thì Chúa còn quan
tâm hơn gấp bội đến con người, được tạo dựng giống hình ảnh của Chúa.
Nhưng chúng ta
phải đặt vấn đề và giải quyết: Tại sao với đủ mọi thứ bảo hiểm cho thân xác mà
ta vẫn cảm thấy bồn chồn lo lắng, chưa có hạnh phúc? Thưa, vì ta thiếu bảo hiểm
cho tâm hồn. Khi mà chủ thể, cùng đích và lẽ sống của ta không phải là Chúa
nhưng là thứ gì khác, và khi thứ khác đó bị mất đi, ta sẽ ngã gục, vì không còn
gì để bám víu. Chúa không muốn ta để cho những hoàn cảnh hay trạng huống của
cuộc sống điều khiển và chi phối. Chúa muốn ta sống thế nào để có thể cảm
nghiệm được tình yêu và quan phòng của Chúa từ lúc này qua lúc khác, từ ngày nọ
qua ngày kia. Để được như vậy, ta cần chiêm niệm Lời Chúa:"Trước hết hãy
tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, còn mọi sự khác, Người sẽ
ban cho"(Mt 6,33).
Truyện: Nguyên
tắc sinh tồn
Một giáo sư
thực vật học, tay cầm một hạt giống nhỏ mầu nâu và nói với cả lớp rằng:
- Tôi biết rõ
hợp chất của hạt giống này. Nó gồm Hydro, carbon và nitro. Tôi biết đúng tỉ lệ
và có thể tạo ra một hạt giống khác trông y như hạt giống này.
Một học sinh
đứng lên hỏi:
- Thưa thầy,
nếu đem hạt giống thầy chế tạo đó mà gieo xuống đất, nó có thể mọc lên không ạ?
Giáo sư trả lời:
- Với hạt giống
của tôi, điều đó không thể được. Nhưng nếu tôi đem hạt giống mà Thiên Chúa đã
làm ra, nó sẽ mọc lên thành cây, vì nó chứa đựng nguyên tắc mầu nhiệm mà chúng
ta gọi là nguyên tắc sinh tồn.
Hạt giống là
một cái gì chứa đựng sự sống. Con người, có thể với sự tài giỏi của khoa học,
tạo ra những hạt giống tương tự hoặc tạo ra những người máy robot, song không
thể tạo ra được sự sống được. Quyến sống chết chỉ duy nhất ở trong tay Thiên
Chúa thôi.
Nếu Chúa đã
nói:"Các con đừng lo lắng về ngay mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày
nào có cái khổ của ngày đó"(Mt 6,34) thì chúng ta phải hiểu là: quá khứ đã
qua đi rồi, hãy quên nó đi; hiện tại đang nằm trong tay, phải chu toàn nó;
tương lai là của Chúa, hãy phó thác cho Ngài và sống trong an bình thư thái.
8. Suy
niệm của Lm Ignatiô Hồ Thông
Chúa Nhật VIII
Thường Niên này nói về ơn quan phòng của Thiên Chúa, gợi lên tấm lòng trìu mến
yêu thương của Thiên Chúa.
Is 49,14-15
Qua vị ngôn sứ
của Ngài, Thiên Chúa khẳng định cho dân Ngài rằng Ngài ân cần chăm sóc họ như
tấm lòng của người mẹ đối với con thơ bé bỏng của bà.
Mt 6,24-34
Trong Tin Mừng,
Chúa Giêsu miêu tả Thiên Chúa ân cần chăm sóc con người như một người cha hằng
quan tâm đến những nhu cầu của con cái mình, và còn quan tâm đặc biệt hơn đối
với những ai đặt quyền ưu tiên cho việc tìm kiếm Nước Trời và cho những đòi hỏi
của sự thánh thiện như điều kiện của Nước Trời.
1Cr 4, 1-5
Bài đọc II
không cho thấy những mối liên hệ với hai bài đọc kia: nó là đoạn trích sau cùng
từ thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô như một lời kết
luận. Thánh Phao-lô công bố rằng thánh nhân thực hiện sứ mạng của mình như một
người quản lý trung thành của những mầu nhiệm Thiên Chúa. Các tín hữu Cô-rin-tô
không có quyền tranh cãi về phẩm chất sứ điệp của thánh nhân. Chỉ một mình
Thiên Chúa mới có quyền phán xét.
BÀI ĐỌC I (Is
49,14-15)
Tin Mừng Chúa
Nhật này trình bày Thiên Chúa như một người cha, quan tâm đến những nhu cầu của
con cái mình. Bản văn Cựu Ước trình bày cho chúng ta Thiên Chúa như một người
mẹ, đầy trìu mến yêu thương đứa con thơ của mình.
Tác giả ca tụng
tình mẫu tử của Thiên Chúa đối với dân Ngài là ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Ông thi
hành sứ vụ của mình bên cạnh những kẻ lưu đày ở Ba-by-lon. Tác phẩm của ông
xứng đáng với nhan đề "Sách An Ủi" (40-55): ông hứa với những người
bất hạnh này cuộc giải phóng gần kề và cuộc hồi hương sắp đến rồi. Trong những
chương cuối cùng, từ chương 48 đến chương 55, vị ngôn sứ nhấn mạnh những viễn
cảnh về một Giê-ru-sa-lem được hồi sinh từ hoang tàn đổ nát, sẽ gặp lại cảnh
huy hoàng thịnh vượng như xưa, vì Đức Chúa không quên Thành Thánh Xi-on, đại
diện toàn thể đất nước.
1. Lời phàn nàn
của Giê-ru-sa-lem:
"Xi-on
từng nói: 'Đức Chúa đã bỏ rơi tôi, Chúa Thượng đã quên tôi rồi'".
Lời phàn nàn
của Giê-ru-sa-lem này mở ra phần thứ hai tác phẩm của vị ngôn sứ. Phần thứ nhất
được thống trị bởi lời phàn nàn của những người lưu đày, họ nghĩ rằng Thiên
Chúa không còn bận lòng đến số phận của họ: "Hỡi Gia-cóp, sao ngươi nói,
hỡi Ít-ra-en, sao ngươi bảo: 'Đường tôi đi, Đức Chúa không nhìn thấy, quyền lợi
của tôi, Thiên Chúa chẳng đoái hoài?'" (40: 27). Đức Chúa đã nhắc nhở cho
họ rằng Ngài là Đấng sáng tạo toàn cõi đất và là Đấng làm chủ mọi biến cố: Ngài
có thể lật đổ kẻ áp bức, cho sa mạc nở hoa, vân vân.
Thành Thánh
hoang tàn đổ nát và thưa thớt dân cư: biểu thị dân Thiên Chúa bất hạnh, than
thân trách phận như một người vợ bị Thiên Chúa dứt tình đoạn nghĩa (hình ảnh
đến từ các ngôn sứ, đặc biệt ngôn sứ Hô-sê). Thiên Chúa trả lời khi công bố
rằng Ngài yêu thương dân Ngài bằng trọn cả một tấm lòng, một tình yêu sắc son,
không tì vết, như người mẹ hiền tận tình yêu thương đứa con thơ bé bỏng của
mình.
2. Tình mẫu tử
của Thiên Chúa:
Ngôn sứ I-sai-a
đệ nhị đã thường diễn tả tấm lòng của Thiên Chúa đối với dân Ngài bằng động từ
"thương" mà ngữ căn của nó có cùng một ngữ căn của từ
"réhem" chỉ "dạ mẹ" (Isaiah 49:10,15; 55:7). Ngôn sứ
I-sai-a đệ tam lấy lại động từ này từ thầy mình khi ông viết: "Có phụ nữ
nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng
đẻ đau? Cho dẫu nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao
giờ". Chắc chắn đây là cách diễn tả tình yêu Thiên Chúa gây xúc động nhất
mà chúng ta gặp thấy trong Kinh Thánh.
Thật ra, hai
thế kỷ trước đó, trong vương quốc phương Bắc, ngôn sứ Hô-sê đã ca ngợi tình yêu
của Thiên Chúa đối với dân Ngài, được sánh ví với tình yêu rất mực thủy chung
của người chồng đối với vợ của mình hay của hôn phu đối với vị hôn thê của
mình. Tuy nhiên, ông không phải là không biết những khía cạnh khác của tình yêu
Thiên Chúa đối với dân Ngài: "Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu
nó....Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó...Ta xử với chúng như
nguwofi nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào má; Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn"
(Hosea 11:1-4). Sau này, vài thập niên trước ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, ngôn sứ
Giê-rê-mi-a đã đặt trên môi miệng Đức Chúa những lời đầy cảm xúc này:
"Ép-ra-im có phải là đứa con Ta yêu dấu, một đứa con Ta rất mực mến yêu?
Vì mỗi lần nhắc tới nó, Ta lại thấy nhớ thương, nên lòng Ta bồi hồi thổn thức,
Ta thương nó, thương nó rất nhiều" (Gr 31: 20).
Chúng ta lưu ý
rằng để diễn tả tấm lòng của Đức Giêsu, các thánh ký sẽ lấy lại cùng hình ảnh
khi sử dụng một động từ Hy-lạp: "chạnh lòng thương" có cùng ngữ căn:
"lòng dạ", có nghĩa "mối cảm xúc dâng lên tận tâm can". Đức
Giêsu chạnh lòng thương trước nỗi đau của người đàn bà góa khóc thương đứa con
trai một của mình, trước nỗi khốn khổ của đám đông dân chúng hay nỗi khốn cùng
của những người bệnh hoạn tật nguyền.
Và nếu Đức
Giêsu về phương diện thể lý mặc lấy nam tính, phải chăng Ngài đã không đảm nhận
theo một cách nào đó nét đặc trưng của nữ tính khi sinh hạ một nhân loại mới
trong đau đớn sao?: "Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của
mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan
chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian" (Ga 16: 21).
BÀI ĐỌC II (1Cr
4, 1-5)
Với bản văn
này, chúng ta hoàn tất phần thứ nhất thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các
tín hữu Cô-rin-tô. Thánh nhân cố hàn gắn lại những bất đồng chia rẽ giữa những
tín hữu Cô-rin-tô; thánh nhân lại càng nhiệt tâm hơn vì Giáo Đoàn này là công
trình của ngài.
1. Người quản
lý trung thành của các mầu nhiệm Thiên Chúa:
Vả lại, những
chia rẽ này đụng chạm trực tiếp đến thánh nhân, bởi vì có "một phe nhóm
thuộc về ông Phao-lô". Tuy nhiên, thánh Phao-lô rất nhạy bén. Thánh nhân
đã bị thương tổn, không ở nơi tình cảm riêng tư của ngài, nhưng ở nơi lý tưởng
tông đồ của ngài. Cảm thấy mình bị bình phẩm hay bị nghi ngờ theo những tiêu
chuẩn phàm nhân (có thể về thể chất của ngài, lập luận của ngài, ngôn từ của
ngài, dáng điệu cử chỉ của ngài, vân vân), thế nên chỉ sứ điệp phải truyền đạt
mới là điều quan trọng. Đây thật sự là một sự thử thách đối với vị sứ đồ hiến
dâng bản thân mình cho sứ mạng của mình. Từ đó, thánh nhân thốt lên: "Vậy
chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức Ki-tô, những người quản
lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa".
2. Phải trả lẽ
với lương tâm của mình:
Thánh nhân
không là một siêu sao, nhưng chỉ là người quản lý trung thành của các mầu nhiệm
Thiên Chúa. Đó là tiêu chuẩn duy nhất theo đó vị sứ đồ chịu quyền xét xử.
Thánh nhân phải
trả lẽ với ai? Không với những Ki-tô hữu Cô-rin-tô. Những người này không có
thẩm quyền phán xét lòng trung thành của thánh nhân. Cũng không tòa đời (chắc
chắn thánh nhân nghĩ đến việc ngài bị điệu ra trước quan tổng trấn Rô-ma là
Gallion ở Cô-rin-tô).
Phải chăng
thánh nhân phải trả lẽ cho lương tâm của mình? Vâng, tất nhiên. Thánh Phao-lô
diễn đạt ngay liền một cách tinh tế: "tôi chẳng thấy lương tâm áy náy điều
gì". Người duy nhất có thẩm quyền xét xử thánh nhân là chính Thiên Chúa,
chứ không một ai khác.
Chúng ta thấy
thánh Phao-lô nâng cao dần dần cuộc tranh luận như thế nào. Thánh nhân đưa ra
một định nghĩa rất đẹp về sứ vụ tông đồ và dẫn đưa lập luận của mình cho đến
khi gợi lên cuộc phán xét chung cuộc, ở đó những ý định ẩn kín trong thâm tâm
con người được phơi bày ra và ở đó những khen thưởng xứng về những công việc
của mình.
TIN MỪNG (Mt
6,24-34)
Bản văn này còn
thuộc "Bài Giảng Trên Núi", ở đó thánh Mát-thêu đã quy tụ những lời
dạy khác nhau của Chúa Ki-tô. Cung giọng của đoạn văn này gần với văn chương
minh triết của Cựu Ước ở đó những châm ngôn, thành ngữ, dụ ngôn quen thuộc,
hình ảnh thi vị, được tô điểm với những lời khuyên xử thế thực tiển. Nhưng bên
kia sự giống nhau này xuất hiện một ghi nhận mới, cao vời: bài diễn từ mặc khải
về Chúa Cha và sự ân cần chăm lo không ngừng của Ngài. Đức Giêsu vừa mới dạy
cho các môn đệ Kinh Lạy Cha; Ngài vừa mới đòi hỏi các ông phải có đức ái không
giới hạn theo hình ảnh đức ái của Cha trên trời. Bây giờ Ngài tiếp tục khi gợi
lên đại gia đình tình yêu: tình phụ tử của Đấng đã sáng tạo hoa đồng cỏ nội,
chim trời và con người. Đây là một trong những trang Tin Mừng rất đẹp về tấm
lòng nhân ái của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa
và tiền của:
Trước tiên Chúa
Giêsu nhắc lại sự đòi hỏi mà Ngài đã phát biểu từ mối phúc đầu tiên: tinh thần
siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Ngài dựa trên câu châm ngôn thịnh hành:
"Không ai có thể làm tôi hai chủ" mà Ngài áp dụng đặc biệt bằng cách
đối lập Thiên Chúa với tiền của. Bản văn Hy-lạp đã gìn giữ từ A-ram
"mammon", nguyên nghĩa là của cải vật chất hay tài sản. Chắc chắn
Chúa Giêsu đã muốn nhân cách hóa của cải vật chất để chỉ nó như một ông chủ.
Việc tôn thờ
tiền của không xứng hợp với sự phụng sự Thiên Chúa. Những người quá lo lắng
trích trử của cải tiền của tức tự mình làm nô lệ cho của cải và do đó không thể
được tự do để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói trước đó: "Kho tàng
của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó". Hơn nữa, Thiên Chúa muốn một tình yêu
trọn vẹn, không phân chia đối với Ngài. Việc từ chối của cải là điều kiện tiên
quyết cho trọn một đời dâng hiến mà Ngài đòi hỏi.
2. Đừng lo lắng
thái quá:
Chúa Giêsu
không đòi hỏi phải từ bỏ những của cải thiết yếu, nhưng đừng quá cho mạng sống
mình: lấy gì mà ăn (6: 25-30), cho thân thể: lấy gì mà mặc (6: 31-33) và về
ngày mai (6: 34). Những môn đệ Ngài sẽ có kinh nghiệm về lời khuyên này. Ở Tiệc
Ly, Chúa Giêsu sẽ nhắc lại cho họ điều đó: "Khi Thầy sai anh em ra đi,
không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì
không?". Các ông đáp: "Thưa không" (Lc 22: 35).
Cũng như cô
Mác-ta tất bật lo toan nhiều việc để đón tiếp Ngài cho thật chu đáo trong khi
cô em Ma-ri-a ngồi dưới chân Chúa lắng nghe Lời Ngài. Chúa Giêsu đánh giá rằng
cô Ma-ri-a chọn phần tốt nhất. Chúa Giêsu thiết lập thứ bậc về hai cách thế bận
lòng. Vào thời thiên sai, nỗi bận lòng ưu tiên phải là của cải tinh thần.
3. Tin tưởng
vào Chúa quan phòng:
Việc Đấng Tạo
Hóa ân cần chăm lo cho các loài thọ tạo của mình là một chủ đề Kinh Thánh, được
khẳng định trong nhiều bản văn. Các Thánh Vịnh ca ngợi: "Hết mọi loài ngửa
trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa ăn" (Tv 104, 27, 145, 15; 136, 25;
147, 9).
Giữa những thọ
tạo khiêm hạ nhất, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: chim trời và hoa đồng cỏ nội để
mời gọi con người phải sống trong sự tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Người.
Người đã ban cho chim trời có thức ăn hằng ngày, mặc dù chúng không nhọc công
gieo vãi, không gặt hái và không trích trử lúa thóc vào kho lẫm. Người cũng sẵn
sàng trang điểm hoa đồng cỏ nội nay còn mai mất một tấm áo sắc màu tuyệt vời
hơn cả một cẩm bào của vua Sa-lô-mon.
"Hoa
huệ", từ ngữ chỉ không chỉ hoa huệ nhưng nhiều loại hoa đồng cỏ nội. Vào
mùa xuân, miền Ga-li-lê nở rộ những hoa đồng cỏ nội này. "Nay còn, mai đã
quăng vào lò". Chúa Giêsu biết điểm xuyết những dụ ngôn của Ngài bằng chi
tiết cụ thể: hoa đồng cỏ nội, bị héo khô, được các nông dân Ga-li-lê thu lượm
lại, không chỉ dùng làm cỏ khô để nuôi gia súc, nhưng còn làm chất đốt để nướng
bánh.
Từ những tạo
vật hèn mọn như chim trời hay hoa đồng cỏ nội, Chúa Giêsu đề cập đến phẩm chất
cao cả của con người. Con người là một tạo vật cao vời khôn sánh đối với chim
trời hay hoa đồng cỏ nội. Ý thức về sự cao cả của mình phải cho giúp người
Ki-tô hữu có một thái độ hoàn toàn khác với thái độ lương dân. Người môn đệ của
Chúa Ki-tô phải tín thác trọn vẹn vào ơn quan phòng của Thiên Chúa, Cha chúng
ta ở trên trời.
4. Trước hết,
hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa:
"Hãy tìm
kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người". Từ "công
chính" phải được hiểu theo nghĩa kinh thánh: "sự thánh thiện".
Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
"Còn tất
cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho", tức là những điều Ngài vừa mới đề
cập đến: thức ăn, áo mặc, đây là những căn nguyên lo lắng đối với dân ngoại,
nhưng không đối với con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu không hứa với "những
người công chính" là sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản
là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày, như trong lời kinh mà Ngài vừa
mới dạy: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày". "Anh
em đừng lo lắng về ngày mai". Đừng bận lòng này mai là một thái độ tin
tưởng và một sự biểu lộ tinh thần nghèo khó: "Chúa là hạnh phúc và tình
yêu đời con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy tình yêu và hạnh phúc đời
đời".
9. Suy
niệm của Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy niệm:
Chế độ nô lệ
tưởng như đã không còn trên thế giới.
Nhưng ngày nay
người ta vẫn nói đến những hình thức nô lệ mới.
Nước nghèo mất
chủ quyền, chịu nô lệ cho nước giàu,
các phụ nữ trở
nên nạn nhân của nô lệ tình dục,
trẻ em nô lệ
cho chơi game, thanh niên nô lệ cho ma túy.
Xem ra khó
tránh được chuyện bị làm nô lệ,
giữa một thế
giới đề cao tự do và giải phóng.
Khi không muốn
làm nô lệ cho ai,
con người lại
trở nên nô lệ cho cái tôi ích kỷ.
Khi không chấp
nhận lệ thuộc Đấng Tạo Hóa cao vời,
con người lại
trở nên nô lệ cho các thụ tạo do mình tạo ra.
Đức Giêsu đặt
chúng ta trước một chọn lựa.
"Anh em
không thể đồng thời làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được."
Nếu có hai chủ
thì thế nào cũng yêu mến người này hơn người kia.
Giữa Thiên Chúa
và Tiền Của, tôi sẽ gắn bó với ai hơn, tôi sẽ chọn ai?
Tôi không thể
giả vờ thỏa hiệp để chọn cả hai, để được cả hai.
Thần Tài hứa
hẹn cho tôi sự an toàn và hạnh phúc giả tạo,
còn Thiên Chúa
hứa cho tôi hạnh phúc đích thực, vững bền.
Chỉ khi đặt
Thiên Chúa lên trên mọi sự, tôi mới thật sự tự do.
Có sáu động từ
lo trong bài Tin Mừng trên đây.
Đức Giêsu nhiều
lần khuyên các môn đệ đừng lo (cc. 25. 31. 34).
Nhưng làm người
ai lại không lo về ngày mai, trừ phi là trẻ thơ?
Trên thế giới
bao người vẫn phải vật vã từng ngày với cơm ăn, nước uống?
Con người có
thể sống vô tư như chim trời không
khi chim trời
ngày nay cũng bị đe dọa không nơi trú ẩn?
Chúng ta cần
hiểu cho đúng chữ lo của Đức Giêsu.
Ngài không dạy
chúng ta sống vô trách nhiệm, phó mặc hay lười biếng.
Cái lo mà ta
nên tránh là cái lo âu, lo sợ của người kém lòng tin (c. 30),
không tin rằng
Thiên Chúa quý con người hơn mọi thụ tạo khác.
hơn giống chim
trời, hơn hoa ngoài đồng nội.
Lo âu đó chi
phối quá khiến người ta cứ loay hoay, bối rối tự hỏi:
ta sẽ ăn gì,
uống gì hay mặc gì đây? (c. 31).
Lo âu này khiến
người ta bất an và sợ hãi, vì là lo âu một mình,
quên rằng mình
có Người Cha biết rõ những nhu cầu thiết yếu (c. 32),
và sẵn sàng lo
cho mình những điều cần dùng (c. 33).
Lo âu này cũng
khiến người ta tìm kiếm thỏa mãn nhu cầu của mình
hơn là ưu tiên
tìm kiếm xây dựng Nước Thiên Chúa (c. 33).
Kitô hữu không
phải là người ngây thơ, sống không lo ngày mai.
Kitô hữu là
người biết lo liệu, lo toan cho cuộc sống của họ.
Nhưng họ không
căng thẳng vì phải bơ vơ lo một mình.
Họ lo như một
người con trưởng thành, cùng lo với Thiên Chúa Cha.
Họ lo một cách
thư thái nhẹ nhàng như loài chim buổi sớm đi tìm thức ăn.
Kitô hữu nắm
được chìa khóa của hạnh phúc, của no đủ và bình an.
Đó là cứ tìm
kiếm Thiên Chúa trước tiên, mọi sự khác sẽ được ban dư dật.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa,
xin cho con
luôn vui tươi.
dù có phải lo
âu và thống khổ,
xin cho con
đừng bao giờ khép lại với chính mình;
nhưng biết nghĩ
đến những người quanh con,
những người -
cũng như con -
đang cần một
người bạn.
Nếu như con nên
yếu đuối,
thì xin cho con
biết yêu thương và sáng suốt hơn,
thông cảm và
nhân từ hơn.
Nếu bàn tay con
run rẩy,
thì xin giúp
con luôn biết mở ra và cho đi.
Khi lâm tử,
xin cho con
biết đón nhận khổ đau và bệnh tật
như một lời
kinh.
Ước chi con sẽ
chết trong khiêm hạ và tín thác,
như một lời xin
vâng cuối cùng.
Và con về nhà
Chúa,
để dự tiệc yêu
thương muôn đời. Amen.
10.
Thiên Chúa quan phòng – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
Anh em đừng lo
lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6,34)
Suy niệm:
Phân tích
Bài Tin Mừng
này có hai ý lớn:
1. Không ai có
thể làm tôi hai chủ. Vậy phải chọn làm tôi Thiên Chúa hay làm tôi tiền của.
2. Đừng quá lo
lắng về những nhu cầu của cuộc sống thể xác: của ăn, áo mặc, tuổi thọ; vì đã có
Chúa lo cho ta những thứ đó. Điều cần lo trước hết là tìm kiếm nước Thiên Chúa
và sự công chính của Ngài.
Suy gẫm
1. Trong câu
Chúa Giêsu cảnh cáo về việc làm tôi tiền của, chữ "Tiền Của" được
viết hoa, ngụ ý đó là một thứ tà thần. Thật vậy, tiền của có sức ám người ta
tất mạnh, và có sức phá hoại mọi thứ đạo đức. Đừng bao giờ coi thường nguy hiểm
của nó.
2. Một ông già
trúng số độc đắc 100 triệu, ông bị bệnh tim, gia đình lo sợ tin vui sẽ giết mất
ông. Vì thế họ đến gặp một mục sư, xin ngài đến thăm dò và hỏi xem ông cụ sẽ
làm gì nếu có 100 triệu. Ông nói: "Tôi sẽ cho ngài và cho nhà thờ một
nửa" mục sư té xỉu.
3. Sở dĩ con
người lo lắng thái quá và từ đó không còn được hạnh phúc trong cuộc sống, là vì
con người không tin ở sự hiện diện và quan phòng của Thiên Chúa. Chim trời
không gieo vãi mà vẫn có ăn, hoa cỏ đồng nội không canh cửi mà vẫn xinh đẹp rực
rỡ. Tin ở tình yêu quan phòng của Thiên Chúa có nghĩa là đón nhận từng giây
phút hiện tại sống sung mãn từng khoảnh khắc cuộc sống. Tin ở tình yêu quan
phòng của Thiên Chúa cũng có nghĩa là chấp nhận các khuyết điểm của mình, khoan
dung đối với những giới hạn của người khác, và nhìn mỗi thất bại như một cơ may
mới.
4. "Anh em
đừng lo lắng về ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày
đó" (Mt 6,34).
Cuộc sống hiện
tại với bao nhiêu mới mẻ, hấp dẫn khiến mình phải chạy đua với thời gian, với
model của thời đại và ước muốn hoàn thiện bản thân. Mà muốn thành công trong
một lĩnh vực nào đó, là cả một quá trình. Vậy mà mình muốn đạt được ngay. Thế
là cứ lo nghĩ, dự định với kế hoạch mà không đủ can đảm thực hiện nó trong giây
phút hiện tại và như thế ngày nào cũng bận tâm lo nghĩ về tương lai chỉ thêm
chán nản.
Cuộc sống luôn
đòi hỏi mỗi người chúng ta ở việc học, cách sống, sự an toàn, sự chia sẻ, sự
cảm thông, khả năng yêu thương đối với tha nhân. Tại sao mình không chịu bắt
tay vào những công việc đó ngay trong những giây phút này? Như thế có tốt hơn
chăng hay cứ hoài lo âu nghĩ ngợi!
Lạy Chúa, mải
loay hoay với những tính toán cho tương lai mà con quên mất mình đang sống ở
đâu và phải làm gì. Xin Chúa cho con can đảm sống tốt giây phút hiện tại với
Chúa, với anh em và chính bản thân con.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
chúng con xin chọn Chúa là gia nghiệp đời con. Vì chỉ nơi Chúa mà chúng con mới
có sự sống đời đời. Xin Mình Thánh Chúa nâng đỡ những yếu đuối, nhẹ dạ nơi bản
tính loài người chúng con. Xin giúp chúng con vượt thắng những cạm bẫy của thế
gian để hồn xác chúng con mãi mãi thuộc trọn về Chúa.
Nhưng Chúa ơi!
Ở đời người ta cần công danh. Ở đời người ta chuộng sự giàu có. Chúng con cũng
nhiều lần chạy theo những danh lợi thú trần gian. Chúng con đã để tâm tìm kiếm
của phù hoa mà quên đi hạnh phúc thiên đàng. Chúng con tin Chúa nhưng lại chưa
thờ Chúa trên hết mọi sự. Chúng con chưa thực sự phó thác đời mình cho Chúa.
Chúng con còn lắm bon chen để tìm kiếm danh lợi thú trần gian. Chúng con thích
tích góp của cải hơn là tích đức đời sau. Chúng con lao tâm khổ trí vì của ăn
mau hư nát hơn là giá trị vĩnh cửu Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu
mến yêu, xin giúp chúng con biết yêu mến Chúa hơn mọi sự trần gian. Xin loại
trừ nơi chúng con những quyến luyến của đam mê tội lỗi, lầm lạc. Xin cho chúng
con luôn được trung thành phụng sự Chúa hết cuộc đời. Amen
11.
Tiền và Nước Trời
(Tổng hợp từ R.
Veritas)
Có người đã
luận bàn về đồng tiền như sau:
Tiền có thể:
- Mua được cao lương
mỹ vị, nhưng không mua được sự ngon miệng
- Mua được
thuốc thang đắt giá, nhưng không mua được sức khỏe.
- Mua được chăn
êm nệm ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon lành.
- Mua được nhà
cao cửa rộng, nhưng không mua được mái ấm gia đình.
- Mua được trò
chơi giải trí, nhưng không mua được sự bình an thanh thản của tâm hồn.
- Mua được sách
vở tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh, kiến thức.
- Mua được bạn
bè, nhưng không mua được tình nghĩa.
- Mua được trái
tim, nhưng không mua được tình yêu.
- Mua được thân
xác, nhưng không mua được tâm hồn.
- Mua được đời
này, nhưng không mua được đời sau.
- Mua được con
người, nhưng không mua được Thiên Chúa
- Mua được visa
để đi khắp nơi trên thế giới, nhưng không mua được hộ chiếu để vào Nước Trời...
***
Bạn thân mến!
Lời Chúa trong Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cũng nhắc đến tiền của: "Anh em
không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được" (Mt.6:24)
Đồng tiền là
vật có máu "lạnh". Từ xa xưa ông cha ta đã nói: "Lạnh như
tiền!" Tiền còn là bạc. Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa
là bạc bẽo, bạc tình, bạc nghĩa. Vì tiền mà mất cha mẹ, mất vợ chồng, mất anh
em bạn bè...
Tiền bạc không
ưa thích con người, nhưng con người ưa thích tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn,
tiền cũ... người ta vẫn dành cho nó một cảm tình đặc biệt. Có ai chê tiền đâu!
Từ người già cho tới em bé, ai ai cũng đều thích tiền.
Chúa Giêsu
không bài bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người
giàu. Ngài chỉ nhắc nhở về thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo những
người giàu có trong việc sử dụng đồng tiền.
Tiền của tự nó
không xấu. Xấu hay tốt là tùy ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con
người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, đặt tiền của cao hơn Chúa, coi
tiền của là mục đích của cuộc sống, đến nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí
tuệ để chiếm hữu thật nhiều tiền.
Tiền của cần
thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho biết bao băng hoại,
tráo trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Khi con người
đề cao và bám víu vào tiền của, coi tiền của là vạn năng, là cùng đích của cuộc
sống ...thì con người sẽ trở thành nô lệ cho tiền của.
Tiền của có thể
trở thành phương tiện giúp ta đạt tới đích điểm là Nước Trời, nhưng cũng có
nguy cơ đẩy ta xa Chúa, đi tìm kiếm những sự phụ thuộc chóng qua của thế gian.
Do đó, điều quan trọng là phải biết sử dụng tiền của như phương tiện để tìm
kiếm Nước Trời. "Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính
của Người, còn tất cả những thứ khác, Người sẽ thêm cho" (Mt.6:33)
***
Tâm sự của con
chim Sẻ:
Bạn thân mến!
Tôi chỉ là con
Sẻ nhỏ. Một con chim thật tầm thường. Đời tôi cũng chẳng có giá trị gì nhiều,
nhưng Thiên Chúa đã chăm sóc tôi...
Tôi không có
kho lẫm, tôi không bao giờ gieo hạt hay gặt hái, nhưng Thiên Chúa đã ban cho
tôi phần của một con chim sẻ, chỉ đủ dùng và không có được một hạt dư...
Tôi biết có
nhiều con chim sẻ ở khắp nơi, nhưng khi một đứa trong chúng tôi bị rơi xuống
đất, Cha trên trời cũng biết rõ điều ấy...
Dù nhỏ bé,
nhưng tôi không bao giờ bị quên lãng – dù yếu đuối, nhưng tôi không bao giờ sợ
hãi...Vì có Cha trên trời luôn nâng đỡ chở che ...
Tôi bay lượn
trong những khu rừng rậm rạp, hay nhẹ nhàng trên những khóm hoa – tôi không cần
bản đồ hay la bàn, nhưng không bao giờ tôi lạc lối...
Lời Chúa hôm
nay cất tiếng mời gọi: "Hãy nhìn xem chim trời...Cha anh em ở trên trời
vẫn lo cho chúng! Anh em không đáng giá hơn các con chim ấy sao?... (Mt.6:26)
Vì thế xin đừng
lo lắng! Nhưng hãy đặt tất cả đời ta trong vòng tay yêu thương quan phòng của
Cha trên trời, Bạn nhé!
12. Suy
niệm của Lm Giuse Nguyễn Thể Hiện
"Hãy tìm
Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người"
Trong hai Chúa
Nhật trước, các bài Tin Mừng nói về cách hành xử của Kitô hữu đối với những
người thân cận. Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 6,24-34) dạy chúng ta về mối tương
quan đối với những giá trị và thực tại vật chất trần gian.
1. "Anh em
không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được" (c.24)
Trước hết, bài
Tin Mừng bắt đầu bằng một giáo huấn quan trọng của Chúa Giêsu: "Không ai
có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó
với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm
tôi Tiền Của được" (c.24).
Làm tôi
(douleuein) là phục vụ với một lòng trung thành tuyệt đối, chấp nhận bị chủ sai
khiến và quyết định thế nào mặc lòng. Người nô lệ không có quyền gì trên cuộc
đời mình. Là vật sở hữu của chủ, anh ta phải chịu chủ sai khiến và phải tuyệt
đối tùng phục theo những quyết định của chủ. Vì thế, không ai có thể làm tôi hai
chủ, nhất là khi hai chủ ấy hoàn toàn trái ngược nhau và cả hai đều là những
người rất đòi hỏi.
Nhưng sự
"làm tôi" mà Đức Giêsu nói đến ở đây còn đi xa hơn cách hiểu thông
thường rất nhiều. Khi đưa ra hai cặp đối lập yêu / ghét và gắn bó / khinh dể,
Người muốn cho thấy sự "làm tôi" ở đây phải là sự dấn thân phục vụ
hết mình, trọn vẹn, chân thành, với tất cả lòng yêu mến. Theo nghĩa này, người
ta càng không thể làm tôi hai chủ được. "Vì anh ta hoặc sẽ ghét chủ này mà
yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ".
Cuối câu 24,
Đức Giêsu nêu rõ danh tánh hai ông chủ: Thiên Chúa và Tiền Của. Người khẳng
định một cách rõ ràng và mạnh mẽ: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa
vừa làm tôi Tiền Của được". Hạn từ "Tiền Của" ở đây có thể được
hiểu ở nhiều cấp độ khác nhau. Một số người hiểu đó là tiền bạc theo nghĩa
thông thường. Một số khác hiểu đó là những tài sản vật chất khác nhau mà người
ta kiếm chác được, nhất là bằng những hoạt động bất chính. Nhiều người hiểu
(một cách hữu lý) rằng "Tiền Của" ở đây là tất cả những gì người ta
tìm kiếm được và sở hữu được, ngay cả quyền lực, công danh, sự nghiệp, tài
năng..., nói tóm lại là tất cả những giá trị và thực tại trần thế, không loại
trừ đó là những thực tại tốt lành. Tất cả những thứ đó đều có thể được người ta
sùng bái quá đáng, và đều có thể trở thành đối thủ cạnh tranh không khoan
nhượng với Thiên Chúa trong tâm hồn và cuộc sống của người ta.
Chúa Giêsu
không lên án "Tiền Của", nhưng Người không chấp nhận những ai để cho
thói tôn sùng "Tiền Của" làm chủ mình. Người nặng lời phê phán những
ai yêu mến và gắn bó với những thực tại trần gian mà họ làm ra và sở hữu. Vấn
đề không phải là không có "Tiền Của", mà là không được ưu tiên nó như
là thực tại quan trọng nhất và có sức chi phối khao khát, suy nghĩ, chọn lựa,
quyết định và hành xử của chúng ta. Thiên Chúa phải chiếm vị trí số một, và các
đồ đệ của Đức Giêsu phải không được từ nan bất cứ điều gì Thiên Chúa đòi hỏi.
Họ phải làm tôi Thiên Chúa trong tình yêu và trong sự gắn bó sâu xa với Ngài.
Chính trong thái độ tâm linh căn bản đó, người đồ đệ sẽ có một cách hành xử
đúng đắn đối với những thực tại và giá trị trần thế, ngay cả những thực tại và
giá trị cốt thiết để hiện hữu và sống còn, như của ăn và áo mặc chẳng hạn.
2. Đừng lo lắng
khi phải đối diện với những vấn đề của cuộc sống (cc.25-32)
Những của cải
và giá trị trần gian có thể chiếm trọn trái tim, chi phối hành động và biến
thành một thứ thước đo giá trị của con người. Con người bị các thực tại phàm
trần tác động và điều kiện hoá, vì ai cũng phải đối diện với những nhu cầu rất
căn bản của cuộc sống như cái ăn, cái mặc... Các thực tại vật chất là rất cần
thiết để con người có thể sống được: chúng ta không thể chỉ sống bằng suy tưởng
hay bằng ý chí và không cần bất cứ thứ gì khác. Để sống, người ta buộc phải ăn,
phải uống, phải mặc; và chính trong sự tuỳ thuộc vào các thực tại vật chất như
thế mà mối tương quan của người ta với của cải trần gian được thực hiện. Không
ai có thể tránh né được mối tương quan này. Vấn đề là chúng ta phải sống sự tuỳ
thuộc đó như thế nào.
Chúa Giêsu dạy:
" Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng
lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể
chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt,
không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại
chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài
đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì?
Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không
làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn,
dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ
ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như
thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng
tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại
vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó"
(cc.25-32).
Với một loạt
những quan sát và suy tư, Đức Giêsu nhắc chúng ta nhớ rằng Thiên Chúa biết rất
rõ chúng ta và Người luôn sẵn sàng bảo đảm cho cuộc sống của chúng ta. Người đã
ban cho chúng ta món quà lớn lao hơn tất cả: thân thể và mạng sống, lẽ nào
Người lại chẳng sẵn sàng ban cho chúng ta những món quà nhỏ hơn, tức là những
phương tiện giúp chúng ta gìn giữ quà tặng lớn lao kia? Chim trời vẫn tìm được
của ăn, cho dù không gieo không gặt. Đoá huệ ngoài đồng vẫn được trang điểm
diễm lệ, cho dù không làm lụng canh cửi. Thiên Chúa, Đấng Tạo Hoá, luôn lo liệu
mọi sự cho chúng. Há Người lại chẳng làm như thế cho con người, vốn là những
con cái mà Người quý hơn tất cả và hằng âu yếm lấy tình phụ tử mà chăm nom gìn
giữ? Và cuối cùng là một suy tư đơn giản: Hỏi có ai trong anh em có thể nhờ lo
lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang không? (c.27).
Chúng ta được
mời gọi đón nhận những thực tại căn bản, ví dụ như độ dài của cuộc sống trần
gian của mỗi người, như Thiên Chúa đã ấn định. Nhưng Đức Giêsu không có ý nói
rằng chúng ta đừng làm lụng canh cửi, đừng gieo gặt trồng cấy, đừng để ý lưu
tâm hay đừng xây dựng những dự phóng tương lai... Người muốn nói rằng tất cả
những điều đó phải được thực hiện nhưng không phải là với một sự lo lắng bận
tâm thái quá và mù quáng, mà là với lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng
ta. Thiên Chúa đã ban cho con người bàn tay và khối óc, tức là Người đã lo liệu
trước để chúng ta có thể xây dựng cuộc sống cho phù hợp với phẩm giá cao cả của
mình.
Đức Giêsu biết
rõ sự vận hành bình thường của cuộc đời. Người không phủ nhận rằng đôi khi chim
trời và con người vẫn phải chết vì đói. Nhưng ngay cả trong những trường hợp
cực đoan đó, sự lo lắng thái quá cũng không hề giúp chúng ta tiến bước bình an
và chắc chắn trong cuộc sống trần gian này. Trái lại, trong những trường hợp
cực đoan bi đát đó, chúng ta càng có lý do để trông cậy và hy vọng nơi Thiên
Chúa, không chỉ hy vọng về những thực tại trần gian mà thôi, mà nhất là hy vọng
về những thực tại Nước Trời, là nơi duy nhất có cuộc sống viên mãn thật sự.
Sự "không
lo lắng" của chúng ta, như vậy, theo lời của Đức Giêsu, không đặt cơ sở
trên một sự lạc quan ngây thơ hay trên khả năng làm chủ cuộc sống của chúng ta
(khả năng ấy quá bé nhỏ). Sự "không lo lắng" đó được đặt cơ sở trên
sự thực vững chắc, rằng Thiên Chúa quyền năng và thông biết mọi sự, rằng Thiên
Chúa luôn luôn nhân lành yêu thương ta, rằng Thiên Chúa luôn luôn trung thành
với lời sáng tạo của Người.
3. Chọn lựa căn
bản của cuộc sống: Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người (cc.33-34)
Sau khi đã dạy
chúng ta đừng lo lắng, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết đâu là thực tại phải chi
phối ước muốn của chúng ta, lấp đầy con tim của chúng ta, xác định thước đo giá
trị của chúng ta và đòi hỏi những hoạt động của chúng ta. Người nói:
"Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn
tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai:
ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" (cc.33-34)
Nước Thiên Chúa
và sự công chính của Người. Đó là những giá trị cao cả nhất và sâu xa nhất; và
chúng ta được mời gọi hoàn toàn quy hướng tất cả con người của mình về những
thực tại đó. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa đang tỏ mình hoàn toàn cho chúng
ta trong tư cách là Đức Chúa quyền năng và tràn đầy ân nghĩa, Đấng luôn đón
nhận và yêu thương che chở chúng ta trong sự hiệp thông vào sự sống của chính
Người. Tất cả lòng tin của chúng ta, tất cả niềm hy vọng của chúng ta và tất cả
lòng yêu mến của chúng ta đều phải được quy hướng về Người trong một ý hướng
hoàn toàn thuần khiết. Đó là tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Sự công chính của Thiên
Chúa là sự công chính đến từ chính Thiên Chúa. Đó là cách hành xử của người
công chính, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa và được Đức Giêsu nói rõ trong
bài giảng trên núi. Tất cả nỗ lực của chúng ta và tất cả sức mạnh của chúng ta,
đều phải được huy động để thực hiện sự công chính ấy.
Nếu chúng ta
trước hết chỉ tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người như thế, thì
những điều khác sẽ được ban cho chúng ta như những phương tiện để chúng ta thực
hiện chọn lựa căn bản đó của cuộc đời. Ý nghĩa của sự hiện hữu của chúng ta
không tuỳ thuộc vào những mối bận tâm về cuộc sống hiện tại này, mà là ở sự
hoàn toàn quy chiếu của chúng ta, ngay trong cuộc sống thế tạm hôm nay, vào
Thiên Chúa, và ở sự chuẩn bị của chúng ta, nhờ những hành động công chính, cho
cuộc hiệp thông viên mãn vĩnh cửu với chính Thiên Chúa.
Đó mới là tương
lai đích thật mà chúng ta phải hướng tới, chứ không phải là cái ngày mai trong
cuộc đời thế tạm này. Vì thật ra, cái ngày mai thế tạm vẫn sẽ là cái ngày mai
vất vả: "Ngày nào có cái khổ của ngày ấy" (c.34). Nhưng sự vất vả
trong ngày mai thế tạm sẽ rất khác nhau. Đó sẽ là sự vất vả nhọc nhằn và cay
đắng, nếu chúng ta vất vả vì những lo lắng cho cuộc sống thế tạm và vật chất
này. Trái lại, đó sẽ là vất vả phúc lạc và bình an, nếu chúng ta tìm kiếm Nước
Thiên Chúa và sự công chính của Người, tức là nếu chúng ta hoàn toàn quy hướng
về Thiên Chúa và sống theo những mối phúc mà Chúa Giêsu đã công bố trong bài
giảng trên núi (5,3-12).
Tất cả chúng ta
đều chịu tác động của các thực tại thế tạm. Lời Chúa hôm nay nhắc cho chúng ta
rằng: ngay trong mối tương quan của chúng ta với những thực tại cần thiết cho
cuộc sống thế tạm, Thiên Chúa vẫn phải chiếm vị trí mang tính quyết định. Ta
được mời gọi đừng để cho những lo toan về các nhu cầu (cho dù là khẩn thiết
nhất) của cuộc sống, hoàn toàn chi phối tâm trí chúng ta, đến nỗi chúng ta đánh
mất sự tin tưởng vào Thiên Chúa là Cha chúng ta. Quan trọng hơn tất cả những
bận tâm lớn nhỏ của cuộc sống, là lòng tin và niềm xác tín rằng: "Cha anh
em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó" (c.32). Nếu lòng
tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa và xác tín mạnh mẽ về sự nhân lành vô biên của
Người, làm người bạn đồng hành với những mối bận tâm về cuộc sống vật chất của
chúng ta, thì chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và chúng ta sẽ đối
diện với cuộc sống (có khi rất khắc nghiệt) này với một sự tự do nội tâm đích
thực.
"Trước hết
hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người" (Mt 5,33).
13. Con
là con của Chúa
(Suy niệm của
Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
SUY NIỆM
Mở đầu bài Tin
Mừng hôm nay, ta nghe Chúa Giêsu cho ta lời một giáo huấn rất dứt khoát:
"Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia,
hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được." (Mt.6,24).
LÀM TÔI THIÊN
CHÚA
Năm 1989, 1
trận động đất 8,2 độ Richter gần như san bằng Armenia, làm hơn 30.000 người
chết trong vòng 4 phút. Trong cơn hỗn loạn, có 1 người đàn ông dặn vợ mình ở
nhà cho an toàn, rồi chạy ào đến trường, nơi con trai ông đang học.
Ở đó, ông nhìn
thấy 1 đống đổ nát - ngôi trường đã sập hoàn toàn. Ngay lúc đó, người đàn ông
nhớ đến lời hứa ông luôn nói với con mình: "Dù thế nào, bố cũng luôn bảo
vệ con!". Và ông bật khóc khi nhìn đóng gạch vụn đã từng là trường học.
Rồi ông bắt đầu cố định hướng xem lớp của con mình nằm ở vị trí nào. Góc bên
phải phía sau của trường học! Ông lao đến và bắt đầu bới đống gạch đá.
Nhiều vị phụ
huynh thấy người đàn ông làm như vậy, họ vừa khóc vừa kéo ông ra, kêu lên:
"Quá muộn rồi!","Anh không làm được gì đâu", "Về nhà
đi" hoặc "Chúng ta phải chờ cứu hộ đến thôi"... Nhưng để đáp lại
những lời đó, người đàn ông chỉ nói đúng 1 câu: "Giúp tôi 1 tay!". Và
ông vẫn tiếp tục bới đống gạch, cẩn thận quẳng từng viên gạch, từng mảnh tường
ra ngoài.
Đội cứu hộ đến
và họ cũng cố lôi ông ra khỏi đống đổ nát.
- Chúng tôi sẽ
lo việc này, ông về nhà đi!
Nhưng người cha
vẫn dọn dẹp từng viên gạch và chỉ đáp:
- Giúp tôi 1
tay đi!
Cảnh sát cũng
có mặt. Họ cũng khuyên can người đàn ông:
- Anh đang
trong trạng thái không ổn định. Anh có thể gây nguy hiểm cho mình và cho người
khác, đề nghị anh về nhà!
Nhưng họ cũng
chỉ nghe được 1 câu:
- Giúp tôi 1
tay đi!
Một người rồi
nhiều người vào "giúp 1 tay"
Họ đào bới đống
gạch suốt 8 tiếng... 12 tiếng... 24 tiếng... 36 tiếng... Và đến tiếng thứ 38,
khi kéo 1 tảng bê-tông ra, dường như họ thấy tiếng trẻ con.
- Armand? -
Người đàn ông gọi to, giọng nghẹn lại
và ông nghe
thấy tiếng trả lời:
- Bố phải
không? Con ở đây này! Con đang bảo các bạn đừng lo, vì bố sẽ đến cứu con, và
tất cả các bạn nữa! Bố đã hứa bố sẽ luôn bảo vệ con mà...
14 học sinh
trong số 38 em ở lớp của Armand được cứu sống hôm đó, vì khi ngôi trường sập
xuống, 1 tảng bê-tông to đã chèn vào tạo thành cái "hang" nhỏ và các
em bị kẹt. Armand đã bảo các bạn đừng khóc, bởi vì "bố tớ sẽ đến cứu chúng
ta!". Các em nhỏ hoảng sợ, đói khát, nhưng đã được cứu sống, bởi vì có 1
người cha đã hứa.
Làm tôi Thiên
Chúa là làm con Thiên Chúa:
"Hạnh phúc
thật" của con người.
Vì, làm tôi
Thiên Chúa, là được Thiên Chúa yêu thương.
"Làm tôi
Thiên Chúa" không phải là sống kiếp đời "Tôi mọi", mà là được
Ngài chia sẻ sự sống, và niềm hạnh phúc.
"Làm tôi
Thiên Chúa" là sống khiêm nhường để tuân theo thánh ý Chúa, và như thế, là
vâng phục Thiên Chúa và được Ngài che chở.
"Làm tôi
Thiên Chúa" là được "công tác" vào chương trình cứu độ của Ngài,
vì được Ngài nâng lên bậc "làm con Thiên Chúa". "Lạy Cha chúng
con ở trên trời".
"Làm tôi
Thiên Chúa" là bước theo con đường Giêsu và được Người xem là "bạn
hữu".
"Làm tôi
Thiên Chúa" là được tất cả vì Thiên Chúa là Alpha và Omega, là hạnh phúc
viên mãn.
"Làm tôi
Thiên Chúa" chính là "làm con Thiên Chúa". Và chính vì thế, ta
có thể vui sống, vững tin, vì đời ta luôn trong vòng tay yêu thương che chở của
Ngài.
"Làm tôi
Thiên Chúa" ta được Ngài trao ban những gì có giá trị bền vững, sự vĩnh
hằng.
Và như thế, ta
có thể tin yêu phó thác vào Thiên Chúa, Cha mình, như đứa bé trong câu chuyện
kể trên: "Con ở đây này! Con tin rằng Chúa sẽ cứu con! Chúa đã hứa sẽ luôn
bảo vệ con mà!".
"Có phụ nữ
nào quên được đứa con thơ của mình,
hay chẳng
thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau?
Cho dù nó có
quên đi nữa,
thì Ta, Ta cũng
chẳng quên ngươi bao giờ." (Is.49,15).
LÀM TÔI TIỀN CỦA
Làm tôi tiền
của là "đại họa" cho bản thân và cộng đồng nhân loại.
"Làm tôi
tiền của" là sống một kiếp đời đày đọa.
"Làm tôi
tiền của" là sống "tôi mọi" không ngừng.
"Làm tôi
tiền của" là trong tay thần chết, đã trong tay thần chết thì tất nhiên
không được bảo vệ.
"Làm tôi
tiền của" là sa lầy vào những hành vi đen tối.
"Làm tôi
tiền của" là mất phương hướng ngay lành, đi vào thế giới hủy diệt.
"Làm tôi
tiền của" là tin vào sự phù phiếm và bám víu vào những giá trị mỏng manh.
"Làm tôi
tiền của" là mất tất cả.
"Tiền
của" là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu! "Ông chủ"
xấu đó không ai khác hơn là "ma quỷ"! Tiền của là phương tiện đáng sợ
của ma quỷ. Thậm chí, nó chính là ma quỷ!
Thực tế, tiền
của đem lại cho con người "cơm no, áo ấm", "ăn ngon, mặc
đẹp". Nhưng tham vọng con người là "túi tham không đáy", thường
không dừng lại ở mức "lương thực hằng ngày", nên đi xa hơn, tiến đến
hành vi "tom góp", cưỡng đoạt, tìm cách sở hữu càng nhiều càng tốt,
bằng mọi cách, bất chấp đạo đức, phi nhân, phi nghĩa, và tìm cách phá đổ tất cả
những cản trở, mà cao điểm, chính loại bỏ lương tâm, chối từ Thiên Chúa.
Đó là sự tiến
hóa về miền đất chết của nhân loại. Đó là nền văn minh sự chết. Nếu con người
không "thức tỉnh", con người dần dần biến Trái Đất này thành một hành
tinh chết, không phải vì sự cạn kiệt của tài nguyên, mà là sự cạn kiệt những
giá trị tinh thần.
Hãy xem sự phá
hoại môi trường hiện nay, không hoàn toàn vì nhu cầu con người, thực ra, có sự
đóng góp đáng kể của lòng ích kỷ và tham vọng.
Tin Mừng hôm
nay không phải là bài học "nghệ thuật sống" về sự an nhàn thanh thản,
mà là giáo huấn về "Tình Yêu Thiên Chúa", để con người tìm thấy đâu
là nơi nương tựa, đâu là hạnh phúc thật sự để con người nhắm tới, và đâu là sự
mỏng manh vô nghĩa mà con người lầm tưởng là thứ giá trị như lòng mơ ước.
Sự lo lắng sẽ
đến khi con người muốn được sở hữu và toàn quyền quyết định trên những gì con
người mong muốn theo ý riêng mình, nhưng đáng tiếc thay, con người không có gì
để sở hữu và tất nhiên không có quyền gì trên bất cứ thứ gì. Tất cả "là
mây là khói", là "là phù hoa", là "cát bụi", là vô
nghĩa, nếu con người sống ngoài Thánh ý Thiên Chúa, sống ngoài Tình Yêu Thiên
Chúa. "Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì
ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?" (Lc.12,20).
Ngược lại, sự
bình an sẽ đến khi con người nương tựa vào Thiên Chúa và con người sẽ nhận ra
sự giàu có của mình khi biết nhìn lên Thiên Chúa và gọi Ngài hai tiếng: Cha ơi!
Sự giàu có ấy
là gia tài bất tận, bất biến, không ai xâm phạm được, và không bao giờ vì nó mà
ta đau khổ. Đó là sự giàu có tâm hồn.
Con người chỉ
hiểu được giá trị tiền của cùng với danh vọng trần thế, và biết chọn lựa thái
độ thế nào đối với chúng, khi con người nhìn vào cuộc đời Chúa Cứu Thế, đặc
biệt khi Người bị ma quỷ cám dỗ ở sa mạc.
"Người ta
sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán
ra" (Mt.4,4).
"Ngươi chớ
thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi" (Mt.4,7).
"Ngươi
phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình
Người mà thôi". (Mt.4,10).
"Thờ
phượng một mình Người mà thôi". Đó là con đường của chúng ta. Con đường
sống của nhân loại.
Vì thờ phượng,
là tâm tình con thảo đối với Cha mình, là Thiên Chúa. Và đó mới là nguồn vui,
nguồn hạnh phúc thật sự của đời người. "Chúa là nguồn vui của con"
(Tv.43,4).
Lạy Chúa,
Nghe nói phó
thác tất cả trong tay Chúa, con đừng lo sợ.
Không khó đâu!
Mặc dù con không biết Chúa Kitô đưa con đi đâu,
Ngài dành những
gì bất ngờ cho con,
chỉ tin Chúa là
Cha của con,
chừng ấy đủ
rồi. Amen.
(Đường Hy Vọng.
Hồng Y P.X. Nguyễn Văn Thuận).
Truyện áp dụng:
Chờ sung rụng
Xưa có một anh
rất lười, không chịu làm gì, ngay cả việc ngủ và ăn mà anh ta cũng không muốn
nữa.
Một hôm, anh ta
nằm ngửa dưới gốc cây sung, há miệng chờ sung rụng vào, khỏi mất công hái mà ăn.
Xui quá, sung
chín rơi rụng đầy trên mặt đất, quanh chỗ anh ta nằm mà chả có trái nào rớt
trúng vào miệng anh ta cả.
Có một người đi
qua thấy thế, đem lòng thương hại, lấy chân kẹp một trái sung rụng bỏ vào miệng
anh ta. Anh chàng lười vừa nhai vừa lụng bụng:
- Rõ cái đồ
lười.
14.
"Dân ngoại đạo!".
Chúa Giêsu không
thích những kẻ hay lo lắng. Họ làm thương tổn điều mà Ngài sống với Chúa Cha.
Làm sao nghĩ rằng có giây phút nào Chúa Cha, Đấng đã tạo dựng vũ trụ vì hạnh
phúc của con cái loài người, lại có thể để họ sống trong nghèo túng. "Dân
ngoại đạo!", Chúa Giêsu nói như thế với kẻ nào hay lo lắng. Người Kitô-
ngoại đạo biết Chúa nhưng không biết lòng Chúa. "Những người kém
tin!". Chúng ta kém tin khi, để ngăn chận những mối lo, chúng ta chọn việc
tin vào tài khoản ngân hàng của chúng ta ở ngân hàng hơn là tin vào Chúa.
- Không sao,
tin vào Chúa rất có thể kèm theo sự cẩn thận theo lương tri đơn sơ! Những câu
chuyện trong Tin Mừng nói về chim chóc và hoa cỏ này rất đẹp, nhưng có những
lúc cạn lương vào cuối tháng, bệnh tật, thất nghiệp, lo âu muốn biết chúng ta
có thể trang trải chuyện học hành cho đứa con nhỏ hay không, vết thương ăn sâu
trong tâm trí khó xoá nhoà bằng một dịp tĩnh tâm ngắn ngủi. Tại Palestin, vào
thời Chúa Giêsu, người ta dễ dàng phó thác vào Chúa hơn hay sao?
- Vấn đề không
phải ở đó, Tin Mừng là lời nói dành cho các hoàn cảnh của chúng ta. Chúa Giêsu
nói với tôi "Dân ngoại đạo!" hoặc"Con thật Cha trên trời"
trong thế giới hiện tại. Chính so với thái độ của tôi trước những khó khăn hiện
tại này mà sự kém tin của tôi làm Ngài nổi giận.
Bởi vì đây chính
là một vấn đề đức tin. Đây không phải là chuyện chơi mà là tìm biết ai là kẻ
giải thoát chúng ta khỏi những lo toan: Chúa hay cuốn sổ chi phiếu của chúng
ta? Chúng ta ghét thế nước đôi này, chúng ta muốn giao phó chúng ta cho cả hai.
Nhưng Chúa Giêsu nói:"Không ai có thể làm tôi hai chủ".
Ngài nói điều
đó bởi vì Ngài biết sự hấp dẫn của tiền bạc. Và chúng ta cũng biết sự hấp dẫn
ấy! Trước tiên chúng ta muốn có tiền bạc để sống một cách liêm khiết, một cách
đơn sơ. Chúng ta muốn có tiền bạc để đảm bảo không thiếu thốn. Sau đó chúng ta
muốn có tiền bạc để có tiện nghi hơn. Và cuối cùng chính tiền bạc điều khiển
cuộc sống của chúng ta, bỏ mặc cuộc sống chìm trong ba mối lo toan kiếm tiền,
mua sắm và đảm bảo tương lai. Trong cuộc sống đó, nói với Chúa: "Xin cho
chúng con hôm nay lương thực hằng ngày" chỉ còn là một lời kinh máy móc mà
thôi.
- Thế thì Chúa
Giêsu muốn chúng ta cư xử như những người bất cẩn và vô trách nhiệm hay sao?
- Chúng ta biết
rõ rằng cái được thua không phải ở đó. Chúng ta thấy rõ vấn đề mà Chúa Giêsu
đặt ra cho chúng ta nhưng chúng ta lại muốn gạt đi: "Bạn có tin rằng bạn
có một người Cha trên trời hay không?"
Nếu có, phải
dẹp bỏ các lo lắng vừa quấy rầy nhưng rốt cục vừa trấn an bởi vì đây là điều đã
biết. Chúng ta e sợ dấn mình sâu hơn trong cái không biết của niềm tin!
Cuối cùng có
thể nói: "Lạy Cha, con biết Cha yêu con và con không sợ gì cả". Đó là
chọn sự an bình ở một mức độ rất sâu xa trong con tim của chúng ta. Đây là một
sự an bình thường là khá dễ dàng, may thay, nhưng lại có thể đòi buộc tính anh
hùng: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày" trở thành
một hành vi đức tin rất ý thức và là một hành vi tình yêu. "Các ngươi đừng
lo lắng cho ngày mai" từ nay là sự khôn ngoan của chúng ta.
Điều mà Chúa
Giêsu nói thêm: "Ngày mai, mai sẽ lo" không nói ngược lại ba lần
"Các ngươi đừng lo lắng" trước đó, mà tô đậm chúng. Cần phải lo lắng
đến công việc, lương bổng, bệnh tật, nhà cửa phải mua, việc hưu dưỡng phải dự
kiến. Nhưng sự lo lắng này chỉ tốt nếu nó diễn ra trong niềm tin tưởng vào
Chúa. Và dấu hiệu thì rõ ràng: vẫn an bình.
Tìm kiếm Nước
trời trước tiên, chính là kiếm tìm Chúa trước tiên, bền bỉ quy hướng về Chúa,
chắc chắn rằng với Ngài chúng ta có thể được giải thoát. Những người nào dám
tin tưởng như thế thì có được kinh nghiệm kỳ diệu này là con tim có tự do.
15.
Người biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy.
(Trích trong
'Giải Nghĩa Lời Chúa' của Đức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)
Đời sống chúng
ta hiện nay còn nhiều khó khăn. Vấn đề lương thực là một và có lẽ phải đứng
hàng đầu. Chúng ta đầu tắt mặt tối mà vẫn chưa đủ cơm ăn áo mặc. Thế mà Lời
Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay lại bảo chúng ta đừng lo lắng! Chúng ta có thể
bình thản sống như Lời Chúa dạy không?
Thiết tưởng
trước hết phải hiểu đúng ý của Chúa đã! Và cho được như vậy, chúng ta phải nhờ
chính Phụng vụ hôm nay giúp đỡ. Không phải vô lý mà trước khi đọc cho chúng ta
nghe bài Tin Mừng, Phụng vụ đã công bố mấy lời của sách Isaia. Và chúng ta sẽ
thấy những lời thư Phaolô cũng giúp chúng ta thi hành Lời Chúa.
1) Hơn một
người mẹ thương con
Chắc chắn những
lời sách Isaia hôm nay không phải của nhà tiên tri đã hoạt động trong dân
Israel trước khi dân này mất Nước và bị đem đi lưu đày. Sấm ngôn của vị tiên tri
này chỉ chiếm 39 chương đầu trong sách Isaia thôi. Những chương 40-55 là của
một ngôn sứ khác, mai danh ẩn tích, thường được gọi là Isaia II. Và người ta
phải nói đến một Isaia III làm tác giả cho những chương cuối cùng của sách
Isaia hiện nay, gồm những chương 56-66.
Bài trích đọc
hôm nay nằm trong Isaia II. Tác giả bấy giờ đang sống trong cảnh lưu đày với
con cái Israel ở Babylon. Ông được Chúa sai đi loan báo Tin Mừng cứu độ: Người
sắp tái tạo và tái sinh Dân Người, tức là phục hồi Israel và trùng tu lại
Yêrusalem.
Sứ mạng không
dễ đâu. Sion đã kiệt quệ rồi. Nó chỉ còn biết nói: "Yavê đã bỏ tôi, Đức
Chúa đã quên tôi". Và bề ngoài rõ ràng như vậy. Con cái Israel đã tha
phương lâu quá rồi. Các tin tức từ Yêrusalem cho biết Đất Nước đã trở thành của
ngoại bang; Đền thờ chẳng còn gì nữa; và ở tại nơi lưu đày này, đa số đã xây
dựng cơ nghiệp như là vĩnh viễn. Có chăng chỉ còn một thiểu số đạo đức chẳng
bao giờ chịu quên Sion và chỉ muốn được trở về để làm lại Dân Chúa. Nhưng đó là
thành phần khó nghèo, hy vọng gì làm được công việc đáng kể. Người ta hiểu rằng
"quyền năng của Thiên Chúa hay viên thành nơi sức yếu đuối của con
người", tức là Thiên Chúa càng biểu lộ sự cứu độ của Người khi con người
tỏ ra bất lực.
Đó chính là
trường hợp lúc bấy giờ, khi Thiên Chúa sai Isaia đến với Dân. Thay mặt Người,
ông phải công bố cho họ biết Thiên Chúa sắp ra tay cứu Dân. Họ tưởng Người bỏ
họ và quên họ rồi sao? Chỉ có họ đã bỏ Người và đường lối của Người, nên họ mới
như ngày hôm nay. Họ đã quên Người và huấn giáo của Người nên mới nghi ngờ lòng
tốt và quyền năng của Người. Trước kia, Người đã thi thố bao nhiêu kỳ công cho
họ, đâu phải vì họ xứng đáng? Chính lúc họ thất vọng, chán nản như đã quên
Người thì Người đã đến phục hồi họ. Tất cả quá khứ của lịch sử Israel là như vậy.
Và bây giờ cũng sắp như thế. Bởi vì:
"Mẹ nào
lại quên con đẻ của mình...?".
Isaia cho chúng
ta một hình ảnh khác về Êzêkiel. Nhà tiên tri này nói đến Thiên Chúa như là một
người chồng trung thành. Không những chính Người đã làm ra thân thể kiều diễm,
lộng lẫy của Dân Người khi lôi kéo nó ra khỏi cảnh bỏ rơi nhớp nhúa, đói ăn,
xấu xí; Người đã đem về tắm rửa, dưỡng nuôi, may mặc và trang sức và dạy cho
yêu thương... nhưng rồi nó đã trở thành bạc phục, chạy theo trăng gió để phá
hoại thân thể và đời sống. Tuy nhiên Thiên Chúa luôn trung thành và mãi mãi
trung thành. Người sẽ tìm cách đưa bạn Người vào sa mạc để khuyên nhủ, để cải
hóa... Theo Êzêkiel, tình yêu của Thiên Chúa nói lên sự trung thành không thể
nào tưởng tượng được.
Isaia cũng nói
đến tình yêu ấy. Nhưng nơi ông nó tha thiết, sâu xa, vô vị lợi và êm ái như
lòng mẹ. Và hơn lòng mẹ, bởi vì cho dù "chúng quên được con mình, thì phần
Ta, Ta sẽ không bao giờ quên ngươi".
Thiết tưởng
không cần giải thích thêm. Ai có thể phủ nhận tình hiền mẫu? Ai không biết nó
chân thật, sâu xa, êm ái và vô vị lợi? Nó đáng tin và đáng tin hơn hết: vì
người ta có thể đặt những nghi vấn về tình yêu vợ chồng hay bạn hữu, nhưng
chẳng ai dám nghi ngờ gì về tình yêu của người mẹ.
Isaia có thể
kéo được lòng con cái Israel trở về với Thiên Chúa nhờ lời sấm chân thật, đơn
sơ và cảm động này. Chúng ta hoan hô các bà mẹ. Chúng ta cảm mến lòng các bà
mẹ, nhất là các bà mẹ Việt Nam. Chúng ta hãy đi từ đó để hiểu về tình yêu của
Thiên Chúa đối với chúng ta, để hiểu lời Tin Mừng hôm nay nói với chúng ta về
Cha trên trời.
2) Người biết
rõ các ngươi cần đến các điều ấy
Thật vậy, Thiên
Chúa yêu thương chúng ta. Người đã sinh ra chúng ta, nên Người không thể bỏ và
quên chúng ta được. Loài người lầm lạc sa ngã, thì Người đã sai Con của Người đến
để tìm gặp chúng ta, nơi Đức Yêsu Kitô.
Nhưng rất ít kẻ
đón nhận Con Một Thiên Chúa giáng sinh làm người. Đại đa số bộ phận nhân loại
vẫn dửng dưng với lời loan truyền Tin Mừng Cứu Độ. Vì sao, nếu không phải vì
như lời nhận xét của chính Chúa Cứu thế? Là: Không ai có thể làm tôi hai chủ;
người ta không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.
Nhưng chúng ta
muốn thưa lại với Người: Chúng tôi không tìm tiền của thì chúng tôi ăn gì, mặc
gì? Thế là chúng ta mặc nhiên bỏ Thiên Chúa và quên Người đi, để lo có cơm ăn
áo mặc. Những yêu cầu này khẩn trương và bức thiết quá!
Tuy nhiên chính
vì vậy mà Thiên Chúa sai Con của Người đến. Người mời chúng ta coi chim trời:
chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm và Cha các ngươi, Đấng ngự
trên trời, nuôi nấng chúng. Các ngươi không hơn chúng sao? Chắc chắn chúng ta
phải hơn chúng, không phải chỉ vì chúng ta linh ư vạn vật, nhưng nhất là vì
Đấng nuôi chim trời lại là Cha của chúng ta. Người phải săn sóc đến chúng ta
trước chứ. Lẽ tự nhiên là vậy; sau chúng ta yếu tin vậy?
Còn về áo mặc
chúng ta lo làm gì? Kìa xem cỏ đồng nội nay còn mai sẽ quăng vào lò mà Thiên
Chúa còn cho mặc đẹp hơn cả Salômon trong vinh hoa đời ông, huống chi là chúng
ta, con của Thiên Chúa toàn năng và đầy tình yêu thương?
Lời Chúa dạy rất
đơn sơ, chí lý. Nó chân thật rõ ràng. Nhưng sao chúng ta khó tin vậy. Phải
chăng chúng ta mới chỉ nhìn thấy khía cạnh tiêu cực trong lời giáo huấn kia mà
chưa đi sâu vào phương diện tích cực. Chúng ta mới chỉ nghĩ tới việc
"đừng" lo ăn lo mặc. Nhưng Chúa không bảo chúng ta như vậy. Cùng lắm,
chúng ta có thể hiểu rằng Người bảo chúng ta "chớ lo đến ngày mai, mai sẽ
lo cho mai; khó ngày nào đủ cho ngày ấy". Tuy nhiên đó cũng chưa phải là
giáo huấn tích cực, sâu xa và cốt yếu của Người. Điều Người muốn nói với chúng
ta là "hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời trước đã, và các sự ấy sẽ được ban
thêm cho các ngươi". Vì Cha trên trời biết rõ chúng ta cần những điều ấy.
Người không thể bỏ và quên chúng ta. Chúng ta có lo cũng chẳng có thể thêm cho
đời mình một gang nữa. Khởi đầu sự khôn ngoan chân thật là lòng kính sợ Thiên
Chúa, là tin vào tình thương của Người, là được sự bình an của Người, rồi nhờ
Người hướng dẫn sống trong sự bình an ấy.
Những con người
như thế vẫn lo cơm ăn áo mặc; nhưng họ lo trong niềm tin vào tình yêu của Thiên
Chúa. Cũng chẳng thể nói được rằng họ "lo", bởi vì niềm tin luôn giữ
họ trong sự bình an. Họ không bị các lo lắng đời này lôi đi đến nỗi chưa hết
hôm nay đã lo sang ngày mai, để cuối cùng không còn suy nghĩ, yêu mến gì khác
nữa ngoài tiền của và những sự ở đời này. Họ đã bỏ và quên Chúa, vì không thể
làm tôi vừa Thiên Chúa vừa tiền của được. Còn kẻ tin Chúa, luôn tìm Nước Đức
Chúa Trời và sự công chính của Người trước đã và sẽ tìm thấy mọi điều cần khác
ở đó; và sẽ thấy chúng chỉ là những phương tiện sinh sống chứ không phải là đối
tượng của đời sống con người. Những người như vậy dù có vất vả vẫn thư thái
bình an vì Chúa chẳng bỏ quên họ, hay nói đúng hơn vì họ chẳng bỏ quên Chúa. Họ
luôn thấy Chúa là Cha là Mẹ. Họ được an ủi nhất là thấy Chúa yêu thương mình và
Người không thể không săn sóc mình hơn chim trời và hoa cỏ ngoài đồng nội.
Nhưng con người
không sống chỉ nhờ bánh, mà còn cần vinh dự, cảm thông của xã hội. Chúng ta
cũng lo điều này không ít. Lời thư Phaolô hôm nay có lẽ giúp được chúng ta.
3) Đấng xét xử
tôi chính là Chúa
Chúng ta ít có
khi nào đau đớn như thánh Tông đồ. Người đã vất vả hình thành ra đoàn chiên ở
Côrinthô. Chính người đã sinh ra giáo đoàn ấy. Thế mà bây giờ vì có kẻ thọc gậy
bánh xe, và cũng vì tâm lý những người Côrinthô bồng bột nhẹ dạ không những ưa
mới nới cũ mà còn nông nổi thích chạy theo những sự bay bướm, uy tín của Phaolô
đang mất dần. Không thiếu những kẻ xấu miệng phê phán người thế này thế khác.
Nói đúng ra, thánh Tông đồ không buồn cho mình. Người chỉ sợ vì thế mà đức tin
ở Côrinthô sa sút và lầm lạc.
Người không chủ
quan, chỉ thấy những sự tốt ở nơi mình. Người có tự kiểm điểm và kiểm điểm cả
những dư luận về mình. Nhưng người không mảy may bận tâm. Không phải những dư
luận và đánh giá ấy làm cho người xao xuyến lo lắng. Đấng xét xử tôi, người
nói, chính là Chúa. Chỉ có Chúa là quan trọng. Chỉ có tình yêu của Người là cần
thiết. Phaolô tìm Nước Đức Chúa Trời trước đã và sự công chính của Người. Chính
Người là Cha là Mẹ và hơn cả cha mẹ vô vàn. Cho dù trước lương tâm chúng ta
không thấy có gì, nhưng không phải cứ thế là chúng ta được giải án tuyên công.
Không phải xã hội và người ta hay lương tâm của mình sẽ trao tặng lời tán
thưởng đời đời cho chúng ta, nhưng là Thiên Chúa, Đấng xét xử chúng ta. Cho nên
chúng ta đừng vội xét đoán trước khi Chúa đến và mọi dư luận trước đó cũng chỉ
là không.
Tuy nhiên không
vì vậy mà ai muốn sống thế nào cũng được. Trong xã hội, tất cả chúng ta đều là
những người quản lý các mầu nhiệm Thiên Chúa. Và trong các sách Tin Mừng, nhiều
lần Người đã nói đến vai trò quản lý này. Người đòi họ phải trung thành với
chức vụ, phân phát các ơn của Chúa trong bác ái khiêm tốn, và tỉnh thức cần mẫn
chờ đợi chủ về. Tất cả những tư cách ấy, Chúa dạy chúng ta phải đem ra thi hành
trong đời sống xã hội. Nếu đã thi hành thì chúng ta cứ yên tâm, không phải xao
xuyến vì các dư luận đánh giá đoán xét công việc và thiện ý của chúng ta. Chỉ
có điều chúng ta có thật là người quản lý trung thành và khôn ngoan không?
Giờ đây chúng
ta hợp dâng thánh lễ. Chẳng có điều gì cần hơn trong lúc này là đến gần bên
Chúa để cảm thấy tình Cha, tình Mẹ của Người. Đời sống của chúng ta đang có
nhiều khó khăn và lo lắng ư? Kìa, Thiên Chúa đang ban Con Một của Người cho
chúng ta; và Con Một của Người đang trao cả Mình Máu Người cho chúng ta. Thiên
Chúa còn có thể tiếc gì, không muốn ban cho chúng ta khi hiến ban cho chúng ta
mối tình to lớn như thế? Chúng ta hãy có niềm tin, đón nhận mối tình ấy, lãnh
nhận chính Thiên Chúa. Chính Người ở trong chúng ta sẽ hướng dẫn chúng ta trong
đời sống hàng ngày, để dù lam lũ vất vả, dù gặp những xét đoán bất lợi, chúng
ta vẫn không mất niềm tin, vì có Chúa đang ở với chúng ta và giúp chúng ta là
các người quản lý tốt ở trong một xã hội.
Lạy Cha, ước gì
tâm hồn chúng con được như em bé nằm gọn trong lòng mẹ. Chúng con cũng luôn phó
thác cuộc đời chúng con trong tay Cha trên trời. Tin tưởng tuyệt đối vào sự
quan phòng của Cha. Tâm hồn chúng con luôn được bình an và hạnh phúc tràn đầy.
Xin Đức Giêsu đưa chúng con vào trong tình yêu của Cha. Amen.
16.
Thiên Chúa hay thần tài? - Lm Nguyễn Hồng Giáo.
Trong bài Phúc
Âm Mt 6, 24-34 mà chúng ta nghe đọc trong Chúa Nhật 8 Thường Niên năm A, và
trong dịp Tết Nguyên Đán, Đức Giêsu dùng ba ví dụ rất nên thơ gợi cảm để chỉ
cho chúng ta thấy một sự lo lắng thái quá về đời sống vật chất là vô lý nếu như
chúng ta còn tin có Thiên Chúa là Cha chúng ta. Ví dụ thứ nhất: chim trời không
gieo, không gặt nhưng chúng vẫn được Cha trên trời nuôi sống. Ví dụ thứ hai:
cuộc đời của mỗi người chúng ta có một quảng thời gian nhất định sống ở trần
gian này, - điều đó chúng ta không thay đổi được, dù có lo lắng cũng chẳng kéo
dài đời mình thêm một vài gang tấc! Và cuối cùng: hoa huệ ngoài đồng không làm
lụng, không kéo sợi, thế mà dù vua Sa-lo-mon vinh hoa tột bậc cũng không mặc
đẹp bằng nó. Kết luận của ba ví dụ là: nếu như Thiên Chúa quan tâm nuôi sống
chim trời và ban áo mặc cho hoa đồng cỏ nội, thì lẽ nào Chúa lại không lo lắng
cho con người hơn gấp bội sao? Kết thúc bài giảng, Chúa Giêsu tuyên bố:
"Vậy đừng quá lo lắng về ngày mai. Ngày mai cứ để ngày mai lo. Ngày nào có
cái khổ của ngày đó".
Chúng ta đồng ý
rằng lời Chúa Giêsu dạy chúng ta hôm nay thật là hấp dẫn. Có gì đáng mong ước
hơn là có Cha Trên Trời lo lắng cho ta? Tuy nhiên, càng suy nghĩ và đi sâu vào
thực tế, chúng ta càng thấy mọi sự chẳng đơn giản chút nào.
Những lo lắng
chính đáng
Con người thời
đại ta cũng như mọi thời đại, đều có trăm ngàn nỗi lo, và những nỗi lo chính
đáng. Đừng nói gì xa xôi, chỉ nguyên những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống đã
làm điên đầu nhiều bậc cha mẹ gia đình: lo sao cho có cái ăn, cái mặc, cho căn
nhà ở khỏi giột nát khi tới mùa mưa, cho con cái được học hành, cho có thuốc
thang khi bệnh tật, cho giá cả đừng tăng vọt, mùa màng không thất thoát...
Những nỗi lo như thế phát xuất từ trách nhiệm của mỗi người, đều chính đáng và
đẹp lòng Chúa.
Chúa Giêsu
không muốn cho chúng ta lười biếng hoặc sống vô trách nhiệm. Chim trời cũng
phải vất vả tìm mồi. Có những thứ chim phải bay thật xa mới tới chỗ có thức ăn.
Hoa huệ ngoài đồng cũng có khi phải đâm rễ len lỏi giữa sỏi đá để tìm chất nuôi
sống. Đàng khác chính Chúa cũng nói rằng: "Ngày nào có cái khó, cái khổ
của ngày đó". Vậy khó nhọc, gian khổ là điều có thực, gắn vào thân phận
con người.
Không những
Chúa không muốn ta sống lười biếng, vô lo, vô trách nhiệm, mà còn muốn ta phải
làm việc để cùng với Người hoàn hiện thế giới này và góp phần vào công cuộc cứu
độ thế giới. Ngay lúc vừa mới dựng nên loài người, Thiên Chúa đã ra lệnh cho họ
phải canh tác trái đất và làm chủ vạn vật. Trong dụ ngôn về những nén bạc (x.
Mt 25, 15-25), Chúa Giêsu đã hỏi mỗi người đã dùng tài năng Chúa ban mà làm lợi
cho Người được bao nhiêu, chứ không phải đã chôn giấu nó an toàn như thế nào.
Thế thì ta có quyền và có bổn phận phải lo lắng, tính toán, phải có kế hoạch,
phải phòng xa. Điều Chúa không chấp nhận là chúng ta lo lắng về đời sống vật
chất như thể đó đã là cùng đích của đời sống, là tuyệt đối cho đời mình.
Thiên Chúa hay
Thần Tài?
Câu then chốt
nhất của bài Phúc Âm hôm nay là: "Tiên vàn hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và
đời sống công chính như Nguời đòi hỏi, còn các thứ kia (nghĩa là của cải vật
chất), Người sẽ thêm cho." Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa: đây mới
là vấn đề ưu tiên.
Nỗi lo số một
của người môn đệ Chúa Giêsu là nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết.
Nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên
Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đó là trật tự phải tôn trọng. Nhưng đây không
phải là vấn đề thời gian sau trước nhưng là vấn đề giá trị mà khi cần phải chọn
lựa, ta phải biết đâu là thiết yếu đâu là thứ yếu.
Lời dạy của Chúa
Giêsu là hệ trọng. Và nó cũng phù hợp với kinh nghiệm sống của chúng ta. Người
ta thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang
sẽ giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Nhưng thực tế luôn
luôn chứng minh rằng suy nghĩ và hành động như thế là sai lầm. Xã hội tư bản
lấy sự sản xuất của cải hàng hoá dư dật và sự hưởng thụ tự do làm mục tiêu, và
bắt mọi sự khác phải phục vụ cho mục tiêu ấy, nên đã rơi vào khủng hoảng về
tinh thần, về lý tưởng sống. Và vì mục tiêu ấy, người ta khai thác các tài
nguyên thiên nhiên một cách vô độ và ngày nay thiên nhiên quay lại "trả
thù" con người, đe dọa cuộc sống trên trái đất. Ở các nước xã hội chủ
nghĩa trước đây, theo lý thuyết người ta coi kinh tế là yếu tố quyết định mọi
sự khác, và tuy vẫn nói kinh tế phải phục vụ con người, nhưng trên thực tế con
người và các giá trị đạo đức bị chà đạp trầm trọng... Sau khi hàng loạt nước xã
hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, những nước khác đã quay sang kinh tế thị trường
và cũng đang phát triển theo hướng phương Tây, liệu có tránh nổi những tiêu cực
gắn liền vào tư bản chủ nghĩa không? Của cải vật chất là ông chủ không dễ gì
khuất phục nổi. Tinh thần thường tỏ ra yếu đuối và không hấp dẫn bằng của cải
giàu sang. Ở Việt Nam xã hội chủ nghĩa "thời mở cửa", điều đó cũng
đang được chứng minh.
Của cải là cần
thiết. Nhưng của cải tự nó không mang lại hạnh phúc cho con người. Nó phải là
một phương tiện, một người tôi tớ. Nhưng khốn thay, tên đầy tớ này rất có uy
quyền, rất dễ trở thành ông chủ của con người, để con người phục dịch nó với
bất cứ giá nào.
"Tiên vàn
hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi":
Sống theo ưu tiên đó, có nghĩa là chúng ta vẫn phải làm việc, phải vất vả, phải
lo lắng và biết tiên liệu, nhưng chúng ta sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán
rẻ lương tâm vì đồng tiền bát gạo, sẽ coi trọng con người hơn của cải và đặt
các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá trị vật chất.
Sống theo ưu
tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được sự tự do thanh thoát và
bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ biết có Chúa là Cha yêu
thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Người mới đem lại cho họ niềm hạnh
phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
17.
Nguồn sống – Lm Vũ Đình Tường
Cơm ăn, áo mặc
là nhu yếu cần thiết cho cuộc sống con người. Vì là nhu yếu không thể thiếu nên
nó chi phối cuộc sống đến độ trở thành mối lo, phiền toái chính cho mọi lứa
tuổi. Giầu hay nghèo, Đông hay Tây, nơi nào cũng có mối lo riêng liên quan tới
vấn đề cơm ăn, áo mặc.
Dân chúng nơi
các quốc gia nghèo đói mong sao cho đủ cơm ăn, áo mặc hàng ngày. Ăn bữa sáng,
lo bữa chiều. Ăn no, mặc ấm là hạnh phúc rồi. Họ rất thấm Lời Chúa nói: Ngày
nào có cái lo của ngày ấy.
Quả thực, gạo
chợ, nước sông là vấn đề thực tế mỗi ngày. Ngày nào cũng lo đến miếng cơm, manh
áo. Tảng sáng thức giấc mối lo ập đến; trưa đến chưa kiếm đủ cho bữa tối càng
lo hơn. Càng về chiều niềm hy vọng nhạt dần như nắng chiều vàng úa quyện chặt
gót chân. Mệt, đói lả nhưng vẫn phải lê chân bước về nhà, túi trống, bụng
không. Niềm hy vọng cả nhà chợt tắt. Mắt nhìn nhau thông cảm. Lại một tối uống
nước muối đi ngủ. Cái đói hành hạ về đêm, đòi ngủ chung giường. Có đêm nó xuất
hiện dưới cơn ác mộng nhắc lại đói, khát. Đôi khi may mắn chiêm bao được hưởng
bữa tiệc đầy cao lương, mỹ vị. Về y phục cũng thế lo sao cho đủ ấm, đủ áo quần
che thân, tránh rét giá đông. Được như thế là hạnh phúc hơn người. Tết đến mong
có áo mới, đóng bộ chúc tuổi bà con.
Nơi các quốc
gia kỹ nghệ hoá vấn đề cơm ăn, áo mặc cũng đóng vai trò quan trọng trong cuộc
sống. Người ta không hài lòng với ăn no mặc đẹp. Quảng cáo tới tấp dậy người ta
đua đòi, hơn thua nhau. Không phải lo đến miếng nên cần phải có tiếng. Chúng
đội lốt dưới chiêu bài kiến thức, hiểu biết về xã hội đang sống. Chúng mặc cho
lớp áo trưởng giả, giới thượng lưu. Trí thức cao hơn kẻ thất học, thượng lưu
thuộc giai cấp cao hơn. Từ lối suy nghĩ đó người ta lao đầu chạy theo quảng
cáo. Làm thế nào để ngồi ghế nhà hàng mới khai trương trước người khác. Như thế
đủ hãnh diện có kiến thức hơn người. Mặc sao phải đẹp hơn người mới đáng hàng
thượng lưu. Để thiên hạ ngồi sau ngắm lưng trần, như thế mới là có vai vế trong
xã hội. Chưa hài lòng, phải diện đúng thời trang, theo mùa, vừa trình làng. Như
thế mới đúng điệu, đi trước thiên hạ một bước. Đủ ăn, đủ mặc là một nhu cầu.
Mong muốn hơn nhu cầu là xa xỉ. Mọi xa xỉ đều phí phạm. Phí phạm đáng chê,
trách.
Xa xỉ
Gọi là xa xỉ vì
đó không phải là nhu cầu mà là ước muốn. Ước muốn có cũng được mà không có cũng
chẳng sao. Tuy nhiên nhiều người muốn là phải được nên lầm lẫn ước muốn và nhu
cầu là một. Lầm lẫn chết người này là một đại họa cho nhiều gia đình. Nhà người
ta cái gì cũng mới; nhà mình toàn đồ cũ. Đây không phải là so sánh, không chạy
theo thiên hạ, không đua đòi mà giải thích là cho có với người ta. Không hơn
người ít ra cũng phải bằng người. Để thoả mãn ý tưởng hơn người thì phải làm
tăng, dài giờ hơn. Căng thẳng, đè nén sinh ra từ đó. Rõ khổ.
Nhiều trường
hợp cho thấy bề ngoài trưng diện sang trọng, sạch sẽ, ngăn nắp nhưng lòng người
thì sô bồ, bề bộn, gian tham, mưu kế, rình rập, hằn thù, rối hơn tơ vò. Lo chạy
đua để hơn người còn giờ đâu cho đời sống nội tâm. Có chăng thì qua loa, mong
cho xong sớm còn lo việc riêng, gia đình, sinh nhai, tính kế. Một số tỏ ra hào
hoa phong nhã, rộng rãi nơi công cộng. Về nhà thì thu lại, nhỏ mọn, tính toán
hơn thiệt. Dễ hiểu vì nơi đô hội tiếng hoan hô, tiếng vỗ tay tạo nên cảm giác
quan trọng, hào sảng hơn người. Đối với niềm tin còn thu nhỏ hơn nữa. Tính toán
chi li, từng phút giây cho Chúa. Không đủ giờ cho việc làm dấu đi ngủ nói chi
đến đọc kinh tối. Đây không phải là xét đoán, tò mò hay dò lòng người. Nhìn cử
chỉ bên ngoài để biết bên trong. Phản ảnh khao khát đời sống bên trong bộc lộ
qua ao ước, lời nói, cử chỉ, hành động bên ngoài. Người giầu đời sống nội tâm
không khao khát tràng pháo tay bề ngoài. Một người có nguồn vui nội tâm không
cần bon chen, ao ước nguồn vui phù du, chóng qua, mau tàn.
Thực tế cuộc
sống
Thực tế cuộc
sống cho thấy ai cũng có mối lo. Kẻ ít người nhiều. Mấy ai thoát khỏi, trừ trẻ
sơ sinh. Tuy nhiên có mối lo chi tiêu cần thiết, chính đáng. Bên cạnh đó có mối
lo chi tiêu hầu như dư thừa, hoặc ngay cả bất chính. Chi tiêu chính đáng như
tiền bắt buộc chi tiêu hàng tuần. Ngoài tiền mua thực phẩm còn nhiều thứ khác
phải chi. Không tiền nhà, tiền điện, nước, thì tiền học phí, tiền xăng xe, tiền
thuốc, tiền điện thoại. Thêm cả tiền bảo hiểm, quà tặng, nhà thờ, quyên góp lụt
lội.
Chi tiêu thừa
là chi tiêu không cần thiết, đôi khi để thoả mãn điều ước muốn, tệ hơn nữa là
thoả mãn dục vọng. Chi tiêu mua vui bất chính làm cho đời thêm ưu phiền. Thực
tế cho thấy càng lệ thuộc, bám víu vào vật chất nhiều chừng nào cuộc sống càng
nặng nề, thêm đau khổ, lắm ưu phiền và giầu âu lo. Ít khao khát, dính bén vinh
quang trần thế cuộc sống sẽ êm đềm hơn. Điều này không có nghĩa là phí phạm tài
năng Chúa ban. Xử dụng chúng để phục vụ, mang lợi ích cho xã hội và Giáo Hội là
cần thiết, rất thực tiễn. Điều nên nhớ là nguồn hạnh phúc thật không nhất thiết
hệ tại ở bên ngoài. Lệ thuộc vào đời sống vật chất sẽ làm nghèo, giảm sức sống
đời sống nội tâm. Một tâm hồn tìm nguồn an vui nơi ân sủng Chúa luôn sống vui
tươi, hồn nhiên. Một tấm lòng khao khát đi tìm vật chất, nguồn vui trần thế,
hào nhoáng ngoài xã hội là dấu chỉ nội tâm nghèo nàn. Như thế nguồn vui đích
thực chỉ có thể tìm thấy trong Chúa, ân sủng Chúa ban.
Nguồn sống thật
không đến từ vật chất, địa vị, vô tri, vô giác. Nguồn sống thật đến từ chủ thể
sống động. Nguồn sống vĩnh cửu đến từ chủ thể vĩnh cửu. Ngoài Thiên Chúa ra
không còn chủ thể nào vĩnh cửu. Chỉ ân sủng Chúa mà thôi, hồn tôi cũng đủ thảnh
thơi muôn đời.
18. Đơn
sơ như trẻ nhỏ.
(Trích trong
'Đối Thoại với Thiên Chúa' của Fernandez)
1) Sống giây
phút hiện tại cách trọn vẹn, không lo lắng thái quá. Tư cách con Thiên Chúa.
Tin tưởng và phó thác vào Người
Trong bài Tin
Mừng hôm nay, Chúa khuyên chúng ta: "Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày
mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.
Ngày hôm qua đã
qua đi rồi. Chúng ta không biết mình có thấy được ngày mai hay không, vì không
một ai có khả năng biết trước về tương lai. Tất cả những vất vả nhọc nhằn của
ngày hôm qua còn lại với chúng ta hôm nay đều là lý do cho chúng ta tạ ơn Thiên
Chúa: chúng ta cám ơn Chúa đã đổ xuống muôn vàn ân sủng và phúc lành; chúng ta
cũng mắc nợ lòng biết ơn đối với anh em đồng loại. Chúng ta cũng sẽ đặt thêm hy
vọng, dù chỉ là thêm một chút, vào kho tàng của chúng ta ở trên trời. Từ những
ngày đã qua, chúng ta có thêm động lực để thống hối và đền bù tội lỗi, sai phạm
và thiếu sót của mình. Chúng ta có thể mượn lời Ca nhập lễ trong thánh lễ hôm
nay để nói về ngày hôm qua: "Chúa đã cứu trợ tôi, đã đưa tôi đến chỗ thênh
thang rộng rãi, và đã cứu sống tôi bởi vì Người thương tôi". Ngày mai
"chưa bắt đầu". Nếu nó đến, nó sẽ còn tuyệt vời hơn cả những gì chúng
ta ước mong, bởi vì Thiên Chúa chúng ta đã chuẩn bị nó cho chúng ta được thánh
hóa: "Số phận con ở trong tay Ngài " (Tv 31,16). Khách quan mà nói, chúng
ta không thể để cho những băn khoăn lo lắng về ngày mai đè nặng lòng mìh: Chúa
sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết đề vui lòng đón nhận bất cứ điều gì thâu
hoạch được. Nhất định chúng ta sẽ chiến thắng lẫy lừng!
Điều quan trọng
là ngày hôm nay. Hôm nay là ngày mà chúng ta cần có để yêu thương, để phát
triển trong sự thánh thiện, qua vô số những sự kiện nhỏ nhặt, tự như những họa
tiết dệt nên dải lụa cuộc đời. Một số sự việc tự nhiên làm chúng ta cảm thấy dễ
chịu, một số khác có lẽ khiến chúng ta ít hài lòng hơn, nhưng mỗi một sự kiện
ấy đều có thể góp phần làm rạng rỡ viên đá quý mà chúng ta dày công gọt dũa và
đánh bóng bằng sự hoàn hảo nhân loại và ý nghĩa siêu nhiên, vì Chúa và vì sự
sống vĩnh cửu.
Chúng ta không
thể đùa giỡn với ý nghĩ ấy. Đôi khi óc tưởng tượng bay bổng của chúng ta
"tô son trét phấn" cho các thực tại quá khứ và trói buộc chúng ta
bằng cách lý tưởng hóa một tương lai không phải nhọc công nỗ lực; hay trái lại
nó bày ra một chân trời u ám, một viễn cảnh đen tối khiến chúng ta phải lo sợ
hãi hùng. "Kẻ nào mải ngóng theo gió sẽ không đủ tự tin gieo hạt, và kẻ
nào cứ dõi mắt nhìn mây sẽ chẳng dám thu hoạch ". Đó là một lời mời gọi
chúng ta bắt tay thực hiện ngay bổn phận của phút giây hiện tại, tuy vẫn để tâm
tìm kiếm cơ hội tốt hơn có thể xảy đến. Trong hoạt động tông đồ, chúng ta cũng
dễ dàng trì hoãn một dự án để tìm một dịp thuận tiện hơn. Công cuộc rao giảng
Tin mừng của các Tông đồ sẽ ra sao nếu các ngài lần lữa chờ đợi và tìm kiếm
những hoàn cảnh thuận lợi hơn? Điều gì sẽ xảy ra nếu các môn đệ Đức Kitô dậm
chân tại chỗ "chờ thời "? Hic et nunc: Ngay tại đây và lúc này là kẻ
khởi điểm mà chúng ta phải chứng tỏ tình yêu Chúa bằng tất cả tấm lòng và bằng
hành động.
Xét về mặt tự
nhiên cũng như siêu nhiên, sự thánh thiện và hiệu năng hệ tại chủ yếu ở chỗ
sống mỗi ngày như thể đó là ngày duy nhất trong cuộc đời mình: mỗi ngày đều là
một ngày mà chúng ta phải lấy tình yêu dành cho Chúa lấp đầy vào đó; mỗi ngày
đều là một ngày mà chúng ta phải hoàn tất, phải vun đắp "đầy tới miệng"
bằng các việc tốt. Chúng ta không thể để cho bất kỳ cơ hội nào vuột khỏi tầm
tay. Ngày hôm nay không quay lạil ần nữa đâu, mãi mãi, và Chúa mong chờ chúng
ta lấp đầy ngày hôm nay bằng tình yêu và bằng những hành vi phục vụ nhỏ bé cho
tha nhân. Thiên thần hộ thủ sẽ hân hoan vui sướng khi đem một ngày sống như thế
dâng lên Thiên Chúa.
2) Lo lắng
luống công vô ích. Chúng ta sẽ luôn luôn được ban đủ ơn để giữ vững lòng trung
thành
"Anh em
đừng lo lắng..." Lo lắng luống công vô ích chẳng không xóa được nỗi bất
hạnh, mà còn làm chúng ta khổ sở hơn. Vì chúng ta phải nai lưng vác lấy gánh
nặng mà chẳng nhận được ơn Chúa nâng đỡ. Sự lo lắng thổi phồng những khó khăn
thử thách, trong khi lại bóp nghẹt khả năng thi hành bổn phận của giây phút
hiện tại. Điều tệ hại nhất là chúng ta không tin tưởng Chúa Quan phòng luôn
luôn can thiệp vào mọi tình huống của đời mình. Trong Bài đọc I hôm nay, Chúa
hỏi chúng ta qua miệng ngôn sứ Isaia: Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của
mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi
nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ". Qua mọi việc xảy đến hôm
nay, Thiên Chúa Cha vẫn luôn luôn yêu thương nghĩ đến chúng ta.
Và Đức Giêsu
vẫn thường nhắc nhở chúng ta như thế! Người nói: "Cứ yên tâm, chính Thầy
đây, đừng sợ". Chúng ta không thể vừa quán xuyến mọi việc hôm nay vừa lo
toan cho ngày mai. Chúng ta luôn luôn nhận được ơn nâng đỡ hiệu quả để sống
trung thành hôm nay, sống ngày đặc biệt này với niềm vui và bình an. Ngày mai
sẽ mang đến những ân huệ mới, và gánh nặng của ngày mai sẽ không nặng nề hơn
ngày hôm nay đâu. Ngày nào có lao nhọc vất vả, thập giá và niềm vui của ngày
ấy. Mỗi một ngày trong đời sống chúng ta đều được Thiên Chúa Cha canh phòng cẩn
mật. Chúng ta không thể chỉ biết có hiện tại mà thôi. Mọi nỗi lo âu sợ hãi chỉ
chực nổi lên khi chúng ta không dốc hết nỗ lực ở đây và lúc này, khi chúng ta
không đặt hết niềm tin tưông vào Chúa Quan phòng; những nỗi lo lắng sẽ tiêu tan
hết khi chúng ta chân thành lặp đi lặp lại: "Lạy Chúa, con muốn điều Chúa muốn,
vì Chúa muốn, như Chúa muốn, bao lâu Chúa còn muốn".Lúc đó niềm vui và
bình an sẽ đến.
Đôi khi chúng
ta có thể bị cám dỗ muốn điều khiển cả tương lai, quên mất rằng cuộc đời mình
nằm trong tay chúa. Đừng để mình như đứa trẻ mất kiên nhẫn bỏ qua nhiều trang sách
để khám phá câu chuyện kết thúc thế nào. Thiên Chúa ban cho chúng ta ngày giờ
đẻ sống, từng ngày nối tiếp nhau, để chúng ta lấp đầy sự thánh thiện vào đó.
Trong Cựu ước, chúng ta đọc thấy câu chuyện người Do thái sống trong sa mạc: họ
thâu nhặt manna Thiên Chúa ban cho mỗi ngày làm thức ăn. Một số người vì muốn
dự trữ cho tương lai nên đã tích trữ nhiều hơn mức cần thiết. Ngày hôm sau họ
thấy số manna ấy bị hư đi không thể ăn được. Họ đã thiếu niềm tin vào Thiên
Chúa Giavê, Đấng canh phòng họ bằng tình phụ tử. Dĩ nhiên chúng ta nên biết
khôn ngoan tiên liệu cho tương lai, nhưng không như những người Do thái hồi còn
lang thang trong sa mạc chỉ dựa vào sức mình.
Niềm hạnh phúc
của chúng ta phải là niềm hạnh phúc đầy hy vọng, khi chúng ta thi hành bổn phận
hàng ngày, tập trung trí óc, con tim và mọi năng lực vào đó. Sự tin tưông vào
Chúa - sự phó thác thánh thiện không làm giảm sút trách nhiệm trong khi hành
động, và trong khi tiên liệu những việc phải làm trong mỗi tình huống. Cũng
không có nghĩa là chúng ta không cần vận dụng sự khôn ngoan. Nó hoàn toàn trái
ngược với thái độ thiếu tin tưởng vào Chúa và có cái nhìn mơ hồ về những việc
sắp sẩy đến. Chúa lặp lại với chúng ta: "Vậy anh em đừng lo lắng về ngày
mai". Chúng ta hãy tận dụng tốt ngày hôm nay.
3) Tìm kiếm
Chúa trong công việc. Khổ chế trong trí tưởng tượng để sống giây phút hiện tại:
tại đây và lúc này
Thiên Chúa biết
chúng ta cần gì. Chúng ta hãy lo trước tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công
chính của Người, và tất cả những cái khác sẽ được ban cho chúng ta..
"Chúng ta hãy vững vàng quyết tâm dành cả cuộc đời để phục vụ Chúa cách
tận tụy. Chúng ta đừng mải tìm cách biết nhiều hơn về ngày mai, vì đó không
phải là bận tâm chính đáng Mà đúng hơn chúng ta hãy quan tâm đến điều tốt có
thể làm hôm nay. Ngay mai sẽ sớm trở thành hôm nay, và chúng ta sẽ quan tâm đến
nó. Chúng ta cần tích lũy lượng manna cần thiết cho ngày hôm nay, chứ không
nhiều hơn. Chúng ta đừng bao giờ nghi ngờ rằng không biết Chúa có mưa manna
xuống không vào ngày hôm sau, rồi ngày kế tiếp, và ngày kế tiếp nữa, bao lâu
cuộc đời lữ thứ của chúng ta còn kéo dài". Thiên Chúa không bỏ rơi chúng
ta đâu.
Khi chúng ta
sống trong phút hiện tại, chúng ta chú tâm vào những sự việc và những con người
thật. Điều này có nghĩa là chúng ta khổ chế trong trí tưông tượng và không phí
thời gian cho những hồi ức vô bổ và không thích đáng. Óc tưông tượng có thể lôi
kéo chúng ta vào một thế giới khác, xa rời cái thế giới duy nhất được tạo dựng
để làm môi trường cho chúng ta nên thánh. Óc tưởng tượng của chúng ta thường
làm lãng phí thời gian quý báu, và khiến chúng ta bỏ lỡ nhiều cơ hội chính đáng
làm việc tốt. Thiếu sự khổ chế nội tâm, trí tưởng tượng và óc tò mò, là một
trong những kẻ thù lớn nhất cản trở việcnên thánh.
Nếu chúng ta
sống giây phút hiện tại, chúng ta sẽ chắc chắn loại bỏ được những nỗi sợ giả
tạo về các hiểm họa tưởng tượng trong tương lai mà óc tưông tượng của chúng ta
phóng đại lên hay bóp méo đi. Cũng có đôi khi những thập giá không có thực mà
óc tương tượng của chúng ta vẽ vời ra đẩy chúng ta xa rời thực tế. Lúc đó chúng
ta khổ sở một cách vô ích, thay vì vui vẻ chấp nhận những thập giá nho nhỏ Chúa
gởi đến cho con cái của Người mỗi ngày để tâm hồn được đầy ắp bình an và mềm
vui.
Nếu chúng ta
sống trọn vẹn giây phút hiện tại vì Tình Yêu, chúng ta không thể không nhận ra
những chi tiết khó hiểu mời gọi mình sống trung thành. Tại đây và lúc này chúng
ta cần phải giữ đúng thời khóa biểu đã đặt ra cho bản thân: Tại đây và lúc này
chúng ta cần phải quảng đại với Chúa, kẻo chứng ta rơi vào trạng thái dửng dưng
nguội lạnh. Tại đây và lúc này Thiên Chúa đang mong đợi chúng ta chế ngự bản
thân trong tiểu tiết này hay tiểu tiết khác mà chúng ta thấy khó thực hiện hay
khó bỏ qua. Người muốn chúng ta tiến lên tại những "tọa độ nóng" này,
những điểm quan trọng làm chất liệu cho cuộc hồi tâm đặc biệt.
Chúng ta hãy
cầu xin Ba Ngôi Cực Thánh ban ơn giúp chúng ta sống giây phút hiện tại của từng
ngày với một con tim đầy ắp Tình Yêu, như thể đó là lễ vật cuối cùng của cuộc
đời chúng ta trên trần gian.
19.
Thiên Chúa quan phòng
(Suy niệm của
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi)
Sống trên đời,
ai cũng có những lo âu, những suy nghĩ, những tính toán. Hầu hết, ai cũng lo
lắng cho miếng cơm manh áo, ai cũng tìm cách kiếm ra nhiều tiền để đời sống
được sung túc, dư dật, để cuộc sống được hạnh phúc theo như suy nghĩ thường
tình của con người. Tuy nhiên, Chúa dạy con người đừng quá lo lắng cho mạng
sống mình nhưng phải tin cậy vào sự quan phòng chăm sóc của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu cảnh
báo con người đừng quá nô lệ vào tiền của, vào vật chất mau qua ở đời:
"Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền của được"
(Mt 6, 24). Chúng ta thấy, đồng Tiền ở trong đoạn Tin Mừng này được viết chữ
hoa, chữ nổi, ma Tiền theo tiếng Aram là Ma Quỷ, là Mammôn, có nghĩa là thần.
Tiền được nâng lên bậc Thần Tiền, nghĩa là nó có sức mạnh vượt bực. Do đó, con
người phải chọn lựa giữa Tiền và Thiên Chúa, giữa tự do và nô lệ.
Vâng, sống trên
gian trần, trên thế giới, cuộc sống của mỗi người là một cuộc lựa chọn liên lỉ,
không ngừng. Và những chọn lựa mãi mãi này sẽ giúp con người trở nên tốt hay
xấu. Chọn lựa là một sự từ bỏ không tiếc nuối. Đã chọn điều này thì phải bỏ
điều khác. Đã từ bỏ phải đòi nhiều hy sinh. Chúa Giêsu muốn người môn đệ Chúa
phải chọn lựa dứt khoát, không lưng chừng, không tiếc nuối, không thỏa hiệp,
không bắt cá hai tay. Bởi vì, người bắt cá hay tay luôn luôn là kẻ thua thiệt.
Hoặc họ chọn Chúa làm chủ hoặc họ chọn nô lệ cho Mammon, ma quỷ. Ở Việt Nam
trước đây báo chí đã đăng một bài thơ thật dí dỏm về tiền: "Tiền là Tiên,
là Phật. Tiền nổi bật cuộc đời. Tiền là cái đà danh vọng. Tiền là hết ý".
Tục ngữ ca dao chúng ta cũng có câu để đời: "Có tiền mua tiên cũng
được", ngay trong việc đạo cũng có câu: "Có thực mới vực được
đạo". Nhưng Chúa Giêsu hôm nay đã đưa ra hai hình ảnh chứng minh sự chăm
sóc quan phòng của Thiên Chúa: "Chim trên trời, hoa huệ ngoài đồng".
Thực tế, chim trên trời hay hoa huệ ngoài đồng nào chúng có đáng gì đâu, thế mà
Thiên Chúa vẫn hằng hằng chăm sóc, nuôi dưỡng, lo lắng, để ý đến. Cho nên, con
người là đối tượng Chúa để ý chăm sóc đặc biệt vì con người được Thiên Chúa tạo
dựng giống hình ảnh của Ngài và đã được chính Chúa Kitô cứu chuộc bằng giá máu
của Ngài.
Chúa Giêsu
trong Tin Mừng và trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay giúp chúng ta tự kiểm
thảo xem đời sống theo Chúa từ trước tới nay chúng ta đã thật lòng sống theo
giáo huấn của Ngài hay chúng ta ơ hờ sống nô lệ tiền bạc, vật chất? Chúng ta có
để Chúa làm chủ cuộc đời chúng ta hay chúng ta chưa đủ tín thác vào sự quan
phòng chăm sóc dưỡng nuôi của Chúa? Chúa Giêsu muốn chúng ta đừng tìm bảo đảm
nơi của cải trần gian này, mà phải tìm điều căn bản cho cuộc đời trước đã, còn
các thứ khác Ngài sẽ ban cho. Con người có lo lắng mấy đi nữa thì cũng chẳng
giải quyết được gì cả: "Dù có lo lắng đi nữa, hỏi có ai trong các con kéo
dài đời mình đời mình thêm được vài gang tấc không?". Tín thác vào Chúa
không có nghĩa là chúng ta để mặc Ngài, còn chúng ta cứ ăn chơi rồi sung sẽ
rụng và chúng ta nhặt lấy! Không, chúng ta phải: "Tự giúp ta rồi trời sẽ
giúp ta" (Aide-toi et Dieu t'aidera). Thiên Chúa tôn trọng con người vì
con người quí hơn chim sẻ, quí hơn bông huệ rất nhiều. Con người là tạo dựng
của Thiên Chúa, do đó, họ phải làm việc để sống, nuôi dưỡng gia đình và góp tay
vào việc làm đẹp công trình sáng tạo của Thiên Chúa. Chúa dạy con người trước
hết hãy tìm nghĩa là hãy đặt đúng vị trí, đặt đúng công việc: việc nào trước,
việc nào sau. Chúa nói: Trước hết hãy lo tìm kiếm Nước Chúa và sự công chính
của Ngài. Thiên Chúa muốn chúng ta chọn Ngài ưu tiên trong cuộc sống. Đi ngược
ý định này là đi ngược thánh ý và chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
Thiên Chúa mời
gọi con người hãy bền tâm, kiên trì và cầu nguyện. Chúa khuyên chúng ta đừng lo
lắng, chứ không ngăn cản chúng ta lo liệu, cân nhắc, tiên liệu. Đừng quá lo cho
ngày mai vì ngày mai chưa đến. Tất cả đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa.
Tất cả đều là hồng ân. Tất cả đều là ơn Chúa. Anh em đừng lo lắng về ngày mai:
ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày đó (Mt 6, 34). Chúng
ta hãy ký thác đường đời cho Chúa...
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp chúng con luôn biết làm vinh danh Chúa trong đời sống của chúng con.
Amen.
20.
Không thể thờ hai chủ
(Suy niệm của
Lm Giuse Nguyễn Hữu An)
Nói về tiền
bạc, bao giờ Thánh Kinh cũng nói nghiêm túc. Thánh Kinh nói về tiền bạc hầu như
nói về sự sống và sự chết. Với tiền bạc, người ta có thể cứu sống mình nhưng
cũng có thể làm cho mình hư mất. Tiền bạc có thể mở cửa thiên đàng cho ai đó
nếu biết dùng nó như một phương tiện, nhưng cũng có thể đóng lại với người ấy
nếu chạy theo tôn thờ nó.
Trang Tin Mừng
hôm nay, Chúa Giêsu dạy: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm
tôi tiền của được". Phải lựa chọn một trong hai. Không được bắt cá hai tay.
1. Luận về đồng
tiền.
Đồng tiền là
đồng chuyền, rất bẩn, rất có nguy cơ truyền bệnh. Nhưng nó là một thứ thiêng
liêng và quý giá vô cùng. Sống là phải lo kiếm tiền, kiếm bằng mọi giá, kiếm
càng nhiều càng tốt.
Đồng tiền là
thứ không ở lâu bền với người ta, nay nằm trên tay người này, mai đã sang túi
người khác. Người có thu nhập thấp, cảm nhận điều này rõ lắm: Tiền lĩnh về,
chưa kịp nóng túi, đã rủ rê nhau sang túi mấy bà bán gạo, bán rau ngoài chợ gần
hết! Đồng tiền cũng còn được gọi là đồng bạc, một phần vì thế chăng? Cái sự
chuyền của đồng tiền nhiều khi cũng bay bướm nghệ thuật lắm. Xin nêu một ví dụ:
Chiều 24-4-2009, phía đầu chiếc xe CSGT màu trắng, người đại úy dí ngón tay trỏ
vào tập biên bản, người vi phạm hiểu ý, "nhằn" ngay trong túi ra một
tờ polyme màu xanh. Người đại úy lật mấy trang biên bản lên, người vi phạm vội
vã nhét tờ 100.000 đ vào đó. Bỗng, một cơn gió vô tình thốc tới làm mấy trang
biên bản bay tốc lên, tờ 100.000đ bay vèo theo gió, chờn vờn đậu xuống vỉa hè
cách đó một quãng. Người đại úy vội vã chạy theo, vội vã cúi xuống nhặt, rồi
khoan thai đút vào túi... Tờ 100.000đ màu xanh giờ đã nằm yên trong túi quần
"ông" đại uý (Bài CSGT "làm luật" ngay tại Hà Nội, báo Khoa
học & Đời sống, thứ ba ngày 5-5-2009).
Vì cái sự
chuyền tay nhau như thế, nên nó rất bẩn. Có lẽ trên đời này, đồng tiền là thứ
bẩn thỉu nhất, bởi nó giây đủ các mùi vị, từ mùi thịt cá tanh tưởi, đến mùi hoa
quả thum thủm do bị ế, bị ủng; từ mùi mồ hôi của chị bán bánh cuốn đến mùi dầu
mỡ của ông lão sửa xe...
Nhưng vì nó là
đồng chuyền, cho nên đồng tiền luôn luôn mang trong mình nó sự tổng hợp vĩ đại
nhất của tất thảy các mùi vị, không thiếu một thứ gì... Chính vì đặc điểm này,
mà mặc dù quý đồng tiền đến mấy, người ta cũng chỉ mân mê chứ rất ít khi thấy
một ai đó đưa nó đặt lên mũi, lên môi để ngửi hay để hôn! Không ngửi, không hôn
vì nó rất bẩn; nhưng bẩn đến mấy chúng ta vẫn luôn luôn trân trọng đồng tiền.
Ví dụ: Khi bề dưới muốn biếu tặng ai tiền, người đó phải cho nó vào phong bì,
đưa bằng hai tay (thậm chí còn phải cung kính dâng lên). Ngược lại, khi được bề
trên ban tặng thì bề dưới phải đưa cả hai bàn tay ra đón nhận, đồng thời cất
tiếng "xin cảm ơn" (thêm chữ "ạ" nữa thì càng tốt).
Đồng tiền bẩn,
nên nó chứa rất nhiều vi trùng; chứa nhiều vi trùng nên nó cũng là nguồn lây đủ
mọi thứ bệnh, có loại bệnh không thể nói nên lời...!
Tiền bẩn, muốn
sạch thì rửa. Nhưng có thứ tiền không bẩn, thậm chí còn nguyên đai nguyên kiện,
thơm phức mùi mực in, mà người ta vẫn đem đi... rửa. Sự rửa như thế không được
khen mà lại gọi là một thứ... tệ, vâng tệ rửa tiền! Nhà nước Việt Nam gần đây
mới thành lập Ban chỉ đạo phòng chống nạn này! Quốc tế người ta làm cái công
việc chống này từ lâu lắm rồi. Chắc vì họ quản lý kém, thậm chí rất thiếu kinh
nghiệm? Ngay đến bây giờ Việt Nam mới thành lập ban chỉ đạo chống chứ đã trực
tiếp chống đâu? Nghĩa là vẫn trên tinh thần phòng là chính, chứ không phải
chống là chính.
Đồng tiền cũng
có sự khôn sự dại! Bà con ta vẫn thường nhắc nhau: "Đồng tiền đi trước là
đồng tiền khôn" là gì? Tiền đi đâu mà được gọi là khôn vậy? Thời nào chứ
thời buổi này, có lẽ ngay đến trẻ con nước mình cũng cảm nhận được điều đó. Bây
giờ đi đâu, làm gì mà có sự đưa đường chỉ lối của đồng tiền (nhất là tiền
ngoại), thì khó mấy cũng vượt qua, "kẻ thù nào đánh thắng". Có tiền,
mua gì cũng được. Thời nay người ta thường nói: "Cái gì không mua được
bằng tiền, thì sẽ mua được bằng nhiều tiền hơn". Cái vị thế của đồng tiền
còn tạo thế lực cho người nắm giữ nó. Trong phạm vi hẹp là gia đình, ai có khả
năng kiếm nhiều tiền, người đó là chủ; điều đó ai cũng thấy. Trong xã hội, thì
dân gian có câu: "Vai mang túi bạc kè kè. Nói quấy nói quá, người nghe rầm
rầm!".
Sống đã vậy,
chết thì sao? Có người nói, khi hai tay buông xuôi, đồng tiền chả có nghĩa gì
nữa cả. Nói thế là xạo. Chết không kịp mang, nhưng chết rồi thì vẫn cần. Ngay
lúc vừa ngậm hàm, người trong gia đình đã phải nghĩ ngay đến việc bỏ vào cái
miệng vô hồn ấy một chút vẩy vàng. Rồi trên dọc đường tiễn đưa người quá cố,
nhất là khi qua cầu, lại phải rải tiền xuống đường, xuống sông, cả tiền thật
lẫn tiền âm phủ. Đó là tiền làm luật đối với bọn ma quỷ cản đường. "Trần
sao âm vậy mà"! Ngoài ra, nhiều gia đình vào ngày giỗ, ngày Tết mua vàng
mã đốt cúng cho người chết. Vậy người chết không cần tiền là cái gì?
Đồng tiền còn
là vật có máu "lạnh". Từ xa xưa ông cha ta đã nói: "Lạnh như
tiền!". Có thể xuất phát vì ngày xưa tiền làm bằng kim loại mà nhận xét
như thế? Bây giờ dùng tiền giấy là chính, người ta vẫn không thay đổi cách nghĩ
và cách nói đó. Thực ra cái "lạnh" của đồng tiền còn mang một ý nghĩa
khác, nghĩa bóng nhiều hơn là nghĩa đen, chỉ những khi ta thiếu nó quá, cần đến
nó quá, mới thực sự cảm nhận được cái chất "lạnh" của nó, đồng tiền!
Tiền là bạc.
Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc
nghĩa. Vì tiền mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng.
Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận: "Trong tay đã sẵn
đồng tiền, dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì". Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
cũng chua xót nói rằng: "Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm hết gạo, hết
ông tôi".
Tiền bạc không
cần con người nhưng ai cũng cần tiền bạc. Dù tiền rách, tiền bẩn, tiền cũ... người
ta vẫn dành cho nó một cảm tình. Có ai chê tiền đâu, từ người già cho tới trẻ
em. Mà lạ lắm, những người lớn tuổi, dù có là mắt kém, thông manh lông quặm,
tai điếc đặc ra, nhưng tiền vẫn không đếm lộn. Ai mượn bao nhiêu, thiếu nợ ngày
nào, các cụ vẫn nhớ rõ ràng và nhớ chính xác. Chẳng trách chi, người ta cứ nói,
"Đồng tiền nó liền khúc ruột". Đụng tới khúc ruột, ai mà chẳng đau
chẳng xót.
Vâng! Thế đó,
đồng tiền là đồng chuyền, rất bẩn, rất có nguy cơ truyền bệnh. Nhưng nó là một
thứ thiêng liêng và quý giá vô cùng. Sống là phải lo kiếm tiền, kiếm bằng mọi
giá, kiếm càng nhiều càng tốt. Kiếm đến đâu, cất ngay vào ví, vào két hoặc gửi
ra ngân hàng các nước trung lập. Nếu trót để bẩn quá, hoặc nghi... bẩn, phải
rửa ngay. Rửa kín đáo, chớ để Ban phòng chống rửa tiền phát hiện! Còn khi chết?
Yên tâm, đã có con cháu lo! Tuy nhiên cũng cần nhắc điều này: đồng tiền là rất
bạc. Bạc tình, bạc cả nghĩa nữa. Không kín đáo, không có thế lực, dễ bị nó đưa
tay vào còng có ngày! (Trần Huy Thuận).
Người ta thường
nói rằng, tiền bạc có thể:
* mua được cao
lương mỹ vị, nhưng không thể mua được sự ngon miệng.
* mua được
thuốc thang đắt giá, nhưng không thể mua được sức khỏe.
* mua được
giường êm nệm ấm, nhưng không thể mua được giấc ngủ.
* mua được nhà
cao cửa rộng, nhưng không thể mua lấy mái ấm gia đình.
* mua được trò
chơi giải trí, nhưng không mua được sự bình an tâm hồn.
* mua được sách
vở tài liệu, nhưng không mua được sự thông minh.
* mua được tôn
giáo, nhưng không mua được ơn cứu độ.
* mua được
Passe-port và Visa để đi khắp thế giới, nhưng không thể mua được hộ chiếu để
vào Nước Trời.
2. Chúa Giêsu
đối với tiền của.
Chúa Giêsu
không phi bác tiền của, không phê phán sự giàu sang, cũng không bác bỏ người
giàu. Ngài chỉ nhắc nhở thái độ phải có đối với tiền của và cảnh cáo, phê phán
những người giàu trong việc sử dụng tiền của.
Tiền của tự nó
không xấu. Xấu hay tốt là tuỳ ở nhận thức, thái độ và cách sử dụng của con
người. Chúa Giêsu lên án sự ham mê tiền của, coi đó như tất cả cuộc sống, đến
nỗi dành hết sức lực, thời gian, trí tuệ để cố chiếm hữu thật nhiều; thậm chí
bán rẻ cả lương tri, phẩm giá con người. Tiền của trở thành thần tượng và chiếm
chỗ độc tôn trong lòng người. Ngài kết án những người vì đồng tiền mà sống bất
công, lừa thầy phản bạn, coi thường mạng sống và danh phẩm người khác. Ngài còn
phê phán chỉ trích những người giàu sang chỉ biết cậy dựa vào tiền bạc và sống
ích kỷ hưởng thụ.
Tiền của là
phương tiện tốt nếu được dùng để làm điều thiện, giúp đỡ người thiếu thốn, phục
vụ khoa học vì những mục đích tốt. Chỉ có cách đó mới làm cho người ta không
làm tôi của cải. Lòng tham lam, việc tích trữ của cải là mối nguy hiểm lớn cản
trở con đường tìm kiếm Nước Trời và đưa ta xa rời Thiên Chúa. Người thanh niên
giàu có được mời gọi bán tất cả của cải tài sản để đi theo Chúa đã buồn rầu bỏ
đi vì anh ta có nhiều của cải. Chúa Giêsu đã cảnh tỉnh: Người giàu có vào Nước
Trời còn khó hơn lạc đà chui qua lỗ kim. Vì thế không lạ gì thái độ cương quyết
của Chúa Giêsu là đòi hỏi một chọn lựa dứt khoát: Không thể vừa làm tôi Thiên
Chúa vừa làm tôi tiền của.
Chúa Giêsu luôn
đứng về phía người nghèo và bênh vực kẻ cô thế. Ngài sinh ra và lớn lên trong
cảnh nghèo. Ngài chọn các môn đệ giữa số những người nghèo. Ngài hằng quan tâm,
yêu thương vỗ về những người nghèo và tuyên bố mối phúc đầu trong bát phúc:
"Phúc cho những người nghèo khó vì Nước Trời là của họ" (Lc 6,20; Mt
5,3). Yêu người nghèo, nhưng Chúa Giêsu không hề kết án người giàu và tẩy chay
sự giàu có. Ngài ân cần tiếp đón và đối thoại với người giàu, sẵn sàng đến dùng
bữa với họ khi được mời; Ngài để cho những phụ nữ giàu đi theo giúp đỡ trong
hành trình sứ vụ. Tuy nhiên, Ngài nặng lời chỉ trích những người giàu chỉ biết
bám víu vào tiền của, sống ich kỷ hưởng thụ bỏ mặc người nghèo đói cơ cực (x.
Lc 16,19-31: dụ ngôn người giàu và Lazarô), làm giàu cách bất lương, ỷ vào tiền
của mà khinh dễ kẻ khác.
3. Ưu tiên tìm
kiếm Nước Trời
"Tiên vàn
hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đời sống công chính như Người đòi hỏi".
Ưu tiên hàng
đầu của người môn đệ Chúa Giêsu là Nước Thiên Chúa. Mọi sự khác cũng cần thiết
nhưng không được đặt lên trên Nước Thiên Chúa. Phải dành ưu tiên cho Nước Thiên
Chúa, rồi mới đến các thứ khác. Đây là vấn đề giá trị khi chọn lựa. Thế gian
thường lấy của cải vật chất làm ưu tiên số một và cho rằng của cải giàu sang sẽ
giải quyết được mọi vấn đề của xã hội và của con người. Con cái Chúa thì sẵn
sàng từ bỏ tất cả để tìm kiếm Chúa và phụng sự một mình Chúa. Có Chúa là có tất
cả; khi không còn gì nhưng còn có Chúa là còn tất cả vì Ngài là lẽ sống. Khi đã
chọn Chúa, ắt sẽ biết sử dụng tiền của và tất cả những gì Chúa ban để phụng sự
Ngài và Giáo hội qua việc phục vụ anh em đồng loại. Sống theo ưu tiên đó, người
Kitô hữu sẽ không nô lệ vật chất, sẽ không bán rẻ lương tâm vì tiền của, sẽ coi
trọng con người hơn của cải và đặt các giá trị luân lý đạo đức lên trên các giá
trị vật chất. Sống theo ưu tiên của Nước Thiên Chúa, người Kitô hữu sẽ giữ được
sự tự do thanh thoát và bình an ngay giữa những nhiệm vụ nặng nề nhất, vì họ
biết có Chúa yêu thương cùng lo cho họ và với họ, và chỉ có Ngài mới đem lại
cho họ niềm hạnh phúc đích thực mà họ hằng mong ước.
4. Kết luận:
Tiền của cần
thiết cho cuộc sống. Thế nhưng nó cũng là nguyên nhân cho bao băng hoại, tráo
trở trong xã hội, đổ vỡ trong gia đình, hư đốn trong bản thân. Thánh Phaolô
khuyến cáo "Lòng ham tiền của là cội rễ mọi điều ác" (1Tm 6,10). Khi
con người đã quá đề cao và bám víu vào tiền của, coi nó là vạn năng, là tất cả
cuộc sống thì sẽ trở thành nô lệ cho nó.
Thiên Chúa ban
cho con người tiền của chóng qua để sống, thăng tiến, phát triển, phục vụ...
Giá trị của tiền của hệ tại con người biết sử dụng cách đúng đắn như phương
tiện phục vụ anh em, đặc biệt người nghèo khổ, để đạt tới Nước Trời là hạnh
phúc đích thực.
Nếu tiền của có
thể là phương tiện mua tình bạn, để chia sẻ với tha nhân, thì nó cũng là một
sức mạnh xấu, là cạm bẫy cần cảnh giác, như thư thánh Phaolô đã viết:
"Những người giàu, anh hãy truyền cho họ đừng tự cao tự đại, đừng đặt hy
vọng vào của cải phù vân, nhưng vào Thiên Chúa, Đấng cung cấp dồi dào mọi sự
cho chúng ta hưởng dùng. Họ phải làm việc thiện và trở nên giàu có về các việc
tốt lành, phải ăn ở rộng rãi, sẵn sàng chia sẻ" (1Tm6,17-18). Tiền của chỉ
là việc nhỏ sánh với việc lớn là Nước Trời. Tiền của giàu sang nơi trần gian
chỉ là tạm bợ, không thể tạo hạnh phúc đích thực cho con người; ngược lại nó
làm con người vong thân khi bị nó chiếm hữu, và lúc ấy nó sẽ là chủ nhân ông và
con người sẽ biến thành tôi tớ. Vậy nếu ở đời này, con người biết sử dụng tiền
của tạm bợ cách tốt đẹp, họ sẽ được trao phó của cải vĩnh cửu trên trời.
Tiền của có thể
trở thành phương tiện giúp đạt tới đích là Nước Trời, nhưng cũng có nguy cơ đẩy
người ta ra xa Chúa để tìm kiếm những sự thuộc thế gian. Do đó, điều quan trọng
là phải biết sử dụng tiền của như phương thế đạt Nước Trời. Chúa Giêsu muốn các
môn đệ phải chọn lựa dứt khoát, không có thái độ lưng chừng hoặc bắt cá hai
tay. Người bắt cá hai tay bao giờ cũng là kẻ thua thiệt nhất.
Lạy Chúa, xin
cho con biết chọn Chúa là đối tượng duy nhất của lòng trí con. Amen.
21. Chú
giải của Noel Quesson
Ngày nay, một
cách đọc Tin Mừng hời hợi thật ra sẽ có hại. Đức Giêsu có lên án tiền bạc
không? Người có khuyên người ta vô lo và lười viếng không? Đức Giêsu có thể có
lý khi khuyên một người cha trong gia đình đang thất nghiệp đừng lo lắng cho
ngày mai không? Khi cho ví dụ "chim trời không gieo, không gặt", Đức
Giêsu có bảo các bà mẹ. Trong gia đình đừng chuẩn bị các bữa ăn, đừng mua lương
thực không? Có thật là Người bảo những người nghèo đôi khi thiếu cá nhưng nhu
cần thiết phải chờ một phép lạ của sự quan phòng để không chết đói. Từ đó, Đức
Giêsu chẳng phải là một con người hiền lành mơ mộng mà ngôn ngữ mang chất thi
ca là một thứ trò chơi không có thật, không thể nào phù hợp với thực tế khắc nghiệt
của kinh tế và những vấn đề nghiêm túc của việc phân chia các tài nguyên hay
sao?
Hẳn ở đây phải
có một ngộ nhận. Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu những lời của Chúa.
"Không ai
có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó
với chủ này mà khinh dễ chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm
tôi Tiền Của được...".
Thật là tai hại
khi những dịch giả đã không dám giữ lại ở đây một chữ, quả thật là huyền bí mà
Đức Giêsu chắc chắn đã sử dụng. "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa
vừa làm tôi Mam-mon...". Từ ngữ này bằng ngôn ngữ A-ram đã được Matthêu
giữ lại trong bản văn Hy-lạp bởi vì chắc đúng là do chính Đức Giêsu nói ra bằng
tiếng mẹ đẻ của Người là tiếng Aram. Trong ngôn ngữ này; "Mam-mon" có
nghĩa cụ thể là "tiền bạc", "thu hoạch", "lợi
nhuận", "sự giàu có". Khi đặt "Thiên Chúa" đối lập với
"Tiền Của", Đức Giêsu dường nhu muốn nhân cách hóa tiền bạc... làm nó
thành một thứ ngẫu tượng. Người ta có cảm tưởng rằng Đức Giêsu nghĩ đến
"Tiền Của" như đó là đối thủ của Thiên Chúa, một cách diễn tả cụ thể
về Xa-tan, "Ông Hoàng của thế gian này" bắt con người làm nô lệ và cố
gắng đoạt chỗ của Thiên Chúa...Để hiểu rõ tư tưởng của Đức Giêsu, chúng ta cũng
ghi nhận ở đây hai từ quan trọng. Người nói về "chủ".. về "làm tôi"...
Từ "chữ" dịch từ "kurios" thường có nghĩa là "Đức
Chúa". Từ "làm tôi" dịch từ "douleuô"' có nghĩa là
"làm nô lệ". Những nhận xét ấy làm chúng ta phải nghĩ rằng Đức Giêsu
không chống lại tiền của một cách ngây thơ và không thực tế. Ở Nagiaret, Người đã
có một nghề nghiệp: Người đã trải " qua kinh nghiệm kiếm sống đổ mồ hôi,
sôi nước mắt. Và cũng như hai mươi gia đình tạo thành ngôi làng nhỏ miền quê
ấy; "Người cũng phải sở hữu ít đồng ruộng và một vài gia súc. Đức Giêsu
hoàn toàn biết rằng tiền bạc có ích trong các giao dịch thương mại. Người không
có phản ứng sơ đẳng chống lại các ngân hàng,. hoặc các đồng tiền hoặc tiền thuế
hoặc những người thu thuế! Điều này là một phần của đời sống Người và chúng ta
các dụ ngôn..của Người: "Đưa đồng tiền nộp thuế cho tôi coi ". Người
bảo họ: "Thế thì của Xêda, trả về Xêda" (Mt 22,19). Trong dụ ngôn
những nén bạc và của cải chôn giấu Đức Giêsu còn khuyên những kẻ nghe Người nói
"đem số tiền của họ gởi vào ngân hàng?. Đức Giêsu luôn tự đo đối với mọi ý
thức (Matthêu 25,27).
Không, Đức
Giêsu không lên án tiền của tự thân, trong việc sử dụng bình thường của tiền
của. Trái lại, không có từ ngữ nào đủ mạnh để lên án "sự nô lệ cho tiền
của": Anh em không thể làm tôi Mam-mon! anh em không có quyền làm mình trở
thành nô lệ của ông chủ đáng sợ đó. "Nhưng khốn cho các ngươi là những kẻ
giàu có!" (Luca 6,24). "Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng
dưới đất: vì kho tàng của anh ở đâu thì lòng anh ở đó" (Matthêu 6,19).
"Hãy đi bán tài sản của mình" (Mt 19,21). Những lời ấy rất mạnh mẽ,
những không lỗi thời và cổ lỗ: sự nô lệ cho tiền của là một bệnh "ung
thư" thật sự của xã hội chúng ta. Nhắc lại như thế là việc tầm thường. Nền
văn minh Phương Tây đang tự phá huỷ chính mình dưới nhịp độ dữ dội mà cuộc chạy
đua đuổi theo cái "tiện nghi", cái "xa hoa", những đồ dùng
lạ mắt bắt ép nền văn minh ấy. Chính con người trở thành nền văn minh của 'đồ
bỏ đi ấy của Xa-tan': tiện nghi, xa hoa, những đồ dùng lạ mắt bắt ép nền văn
minh ấy. Chính con người trở thành nạn nhân của "đồ bỏ đi ấy của
Xa-tan" như cách gọi của tác giả người Ý, Papini. Biết bao nhiêu nhà doanh
nghiệp có một cuốn lịch đen ghi các cuộc hẹn gặp nhưng không bao giờ còn sống
chung với vợ và con cái của họ nữa? Càng không còn sống với Thiên Chúa! Còn nói
gì về sự "phung phí" các nguồn tài nguyên của hành tinh này có nguy
cơ làm ghẹt thở nhân loại của thế kỷ XXI? Còn nói gì về sự "cướp bóc"
các nước thuộc thế giới thứ ba bởi các nước giàu có?
Không, tiền của
không có mùi thơm. Đó là một quyền lực của cái ác đáng sợ khi nó "nô lệ
hóa" Một người nào. Giá một chiếc xe tăng đủ để mua lương thực cho hàng
trăm ngàn người đói khát!!! Và chúng ta không hề xấu hổ. Một máy bay siêu thanh
khu trục và ném bom có giá bằng 40.000 nhà thuốc tây ở các làng mạc để cứu sống
những em nhỏ!!! Và chúng ta không hay biết. Tiền của lẽ ra phải là một
"đầy tớ" tuyệt vời, hiện đang là một "ông chủ" xấu.
"Vì vậy
Thầy bảo cho anh em biết: Đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn, cũng đừng lo cho
thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng
trọng hơn áo mặc sao?".
Công thức
"đừng lo" sẽ trở lại bốn lần trong một vài hàng. Quả thật, sự
"lo lắng" là một trong những hình thức nô lệ mà của cải kéo theo nó.
Theo thống kê, thế giới Phương Tây hiện đại rất dễ bị tổn thương bởi chúng nhồi
máu cơ tim và trầm uất thần kinh hơn phần còn lại của thế giới. Dường như Đức
Giêsu muốn nói: Hãy nắm lấy đời sống ở khía cạnh tốt đẹp. Anh em hãy sống,
nhưng hãy sống đi! Anh em dùng thời gian của mình để chạy, để lúc nào cũng có
được nhiều tiền hơn: thỉnh thoảng anh em hãy dùng thời gian để sống! Và Đức
Giêsu nhắc nhở chúng ta trật tự rõ ràng của các giá trị. Lương thực, quần áo dù
rất cần thiết... cũng chỉ để phục vụ sự sống! Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II,
trong một thông điệp của ngài đã nhắc lại những nguyên tắc ấy về sự khôn ngoan
của Tin Mừng: "Ý nghĩa nền tảng sự thống trì của con người trên thế giới
hữu hình.... chủ yếu là sự ưu tiên
Của luân lý
(đạo đức) trên kỹ thuật, vị trí hàng đầu của con người trên đồ vật, sự ưu việt
của tinh thần trên vật chất... Điều quan trọng là sự phát triển của con người
chứ không chỉ là sự tăng bội của các đồ vật... Thà có ít hơn để hiện hữu nhiều
hơn".
"Hãy xem
chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho, thế mà Cha anh
em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai
trong anh em có thể nhờ lo lắng mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang
không? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng
mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi, thế mà,
Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vùa Sa-lô-môn, đủ vinh hoa tột bậc, cũng
không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã
quẳng vào lò mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế thì huống hồ là anh em, Ôi
những kẻ kém tin?".
Những hình ảnh
này không thể nào quên được. Nhưng chúng quá ấn tượng nên người ta có thể hiểu
sai. Các bạn hãy đọc lại những lời ấy. Đức Giêsu không bao giờ nói rằng không
nên làm việc. Đức Giêsu không bao giờ khuyến khích người nghèo đi xin xỏ hoặc
nằm chờ sung rụng. Người không đề cao sự vô lo hoặc thói lười biếng. Thật là
quá đáng. Có một thu "tôi mặc kệ". nào đó làm cho chính những người
khác phải mang lấy những lo lắng vì chúng ta vô lo, chúng ta chất lên đầu họ.
Trái lại, có những lo lắng, do lòng thương yêu người khác, những người mà chúng
ta có trách nhiệm: Tin Mừng bảo chúng ta nhận lấy những lo láng này trên vai
chúng ta như người ta vác một cây thập giá. Vả lại, nếu Đức Giêsu nói:
"Anh em chớ làm gì cả, cư vô tích sự đi..." thì tại sao trong toàn bộ
Kinh Thánh ngay từ đầu, Chúa đã nói điều ngược lại. Chương đầu tiên của sách
Sáng Thế cho chúng ta lệnh truyền "hãy thống trị đất và bắt nó phục
tùng". Thật ra Đức Giêsu khẳng định: "Vì thợ đáng được nuôi ăn"
(Matthêu 10,10). Điều này được hiểu ngầm rằng người nào không làm việc, người
đó không có quyền ăn như lời Thánh Phaolô đã kết luận (2 Thê-xa-lô-ni-ca 3,10).
Và cũng phải đọc lại lời lên án nghiêm khắc của..người đã không làm sinh lợi
nén bạc mà người đó đã nhận (Matthêu. 25,14-30). "Còn tên đầy tớ vô dụng
kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài".
Vậy Đức Giêsu
muốn nói điều gì? Khi Người nói "lo lắng mà làm gì?".
Thế thì người
nói một điều thật sự rất tốt cho mỗi người-chúng ta: Người bảo chúng ta phải
thư giãn một chút phải chống lại sự căng thẳng thần kinh thái quá...
Người bảo chúng
ta phải làm việc như "chim trời và hoa cỏ ngoài đồng": Các bạn hãy
nhìn kỹ chúng... hãy nhìn hoạt động và các sự khéo léo mà chúng sử dụng để
sống, để nuôi thân, để có nới trú ẩn? Và rồi Đức Giêsu nói với chúng ta nhiều
nhất về Chúa Cha: anh em còn đáng giá hơn tất cả những tạo vật khác, vậy mà
Người đã chăm lo cho chúng với sự chính xác.
"Vì thế,
anh em đừng lo lắng tự hỏi: Ta sẽ ăn gì, uống gì hay mặc gì đây? Tất cả những
thứ đó dân ngoài vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả
những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người,
còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho".
Tất cả lập luận
của Đức Giêsu nhằm mời gọi chúng ta chớ quá lo lắng dựa trên một sự tin chắc
của đức tin: Cha anh em "biết"? Trước đó, Người đã nói về sự cầu
nguyện: "anh em đừng lải nhải như dân ngoại, vì Cha anh em đã
"biết" rõ anh em cần gì (Matthêu 6,8). Hai quan niệm về Thiên Chúa
đối lập nhau: Thiên Chúa ma thuật của những dân ngoại... và Thiên Chúa là Cha
yêu thương con cái Người. Con người theo Đức Giêsu không hề là một người
"vô lo"... mà chính là con người đã thay đổi mối lo! Người ấy đã trở
nên say mê Nước Thiên Chúa: "Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa!".
Làm tôi tớ cho
Mam-mon trên thực tế là chỉ lo cho chính mình. Còn phục vụ cho Thiên Chúa là
bắt đầu phục vụ tình yêu, là được tự do...
"Vậy anh
em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ đề ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ
về ngày ấy".
Một câu châm
ngôn bình dân. Đức Giêsu biết mình nói về điều gì. Cả cuộc đời, Người đã sống
như thế. Đúng vậy Tại s ao lại thêm vào những lo lắng của hôm nay những lo lắng
của ngày mai? Như thế, người ta sống mỗi ngày với nỗi sợ hãi những bất hạnh là
có lẽ sẽ không đến. Chỉ cần sống những lo lắng mỗi ngày... ngày mai rồi sẽ
biết! Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa.
22. Suy
niệm của Lm Hồ Thông
ƠN QUAN PHÒNG
CỦA THIÊN CHÚA
Bản văn này còn
thuộc "Bài Giảng Trên Núi", ở đó thánh Matthêu đã quy tụ những lời
dạy khác nhau của Chúa Kitô. Cung giọng của đoạn văn này gần với văn chương
minh triết của Cựu Ước ở đó những châm ngôn, thành ngữ, dụ ngôn quen thuộc,
hình ảnh thi vị, được tô điểm với những lời khuyên xử thế thực tiển. Nhưng bên
kia sự giống nhau này xuất hiện một ghi nhận mới, cao vời: bài diễn từ mặc khải
về Chúa Cha và sự ân cần chăm lo không ngừng của Ngài. Đức Giêsu vừa mới dạy
cho các môn đệ Kinh Lạy Cha; Ngài vừa mới đòi hỏi các ông phải có đức ái không
giới hạn theo hình ảnh đức ái của Cha trên trời. Bây giờ Ngài tiếp tục khi gợi
lên đại gia đình tình yêu: tình phụ tử của Đấng đã sáng tạo hoa đồng cỏ nội,
chim trời và con người. Đây là một trong những trang Tin Mừng rất đẹp về tấm
lòng nhân ái của Thiên Chúa.
1. Thiên Chúa
và tiền của:
Trước tiên Chúa
Giêsu nhắc lại sự đòi hỏi mà Ngài đã phát biểu từ mối phúc đầu tiên: tinh thần
siêu thoát khỏi những của cải trần thế. Ngài dựa trên câu châm ngôn thịnh hành:
"Không ai có thể làm tôi hai chủ" mà Ngài áp dụng đặc biệt bằng cách
đối lập Thiên Chúa với tiền của. Bản văn Hy-lạp đã gìn giữ từ A-ram
"mammon", nguyên nghĩa là của cải vật chất hay tài sản. Chắc chắn
Chúa Giêsu đã muốn nhân cách hóa của cải vật chất để chỉ nó như một ông chủ.
Việc tôn thờ
tiền của không xứng hợp với sự phụng sự Thiên Chúa. Những người quá lo lắng
trích trử của cải tiền của tức tự mình làm nô lệ cho của cải và do đó không thể
được tự do để thờ phượng Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã nói trước đó: "Kho tàng
của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó". Hơn nữa, Thiên Chúa muốn một tình yêu
trọn vẹn, không phân chia đối với Ngài. Việc từ chối của cải là điều kiện tiên
quyết cho trọn một đời dâng hiến mà Ngài đòi hỏi.
2. Đừng lo lắng
thái quá:
Chúa Giêsu
không đòi hỏi phải từ bỏ những của cải thiết yếu, nhưng đừng quá cho mạng sống
mình: lấy gì mà ăn (6, 25-30), cho thân thể: lấy gì mà mặc (6, 31-33) và về
ngày mai (6, 34). Những môn đệ Ngài sẽ có kinh nghiệm về lời khuyên này. Ở Tiệc
Ly, Chúa Giêsu sẽ nhắc lại cho họ điều đó: "Khi Thầy sai anh em ra đi,
không túi tiền, không bao bị, không giày dép, anh em có thiếu thốn gì
không?". Các ông đáp: "Thưa không" (Lc 22,35).
Cũng như cô
Mácta tất bật lo toan nhiều việc để đón tiếp Ngài cho thật chu đáo trong khi cô
em Maria ngồi dưới chân Chúa lắng nghe Lời Ngài. Chúa Giêsu đánh giá rằng cô
Maria chọn phần tốt nhất. Chúa Giêsu thiết lập thứ bậc về hai cách thế bận
lòng. Vào thời thiên sai, nỗi bận lòng ưu tiên phải là của cải tinh thần.
3. Tin tưởng
vào Chúa quan phòng:
Việc Đấng Tạo
Hóa ân cần chăm lo cho các loài thọ tạo của mình là một chủ đề Kinh Thánh, được
khẳng định trong nhiều bản văn. Các Thánh Vịnh ca ngợi: "Hết mọi loài ngửa
trông lên Chúa đợi chờ Ngài đến bữa ăn" (Tv 104, 27. 145,15; 136,25;
147,9).
Giữa những thọ
tạo khiêm hạ nhất, Chúa Giêsu đưa ra hai ví dụ: chim trời và hoa đồng cỏ nội để
mời gọi con người phải sống trong sự tin tưởng và phó thác trọn vẹn vào Người.
Người đã ban cho chim trời có thức ăn hằng ngày, mặc dù chúng không nhọc công
gieo vãi, không gặt hái và không trích trử lúa thóc vào kho lẫm. Người cũng sẵn
sàng trang điểm hoa đồng cỏ nội nay còn mai mất một tấm áo sắc màu tuyệt vời
hơn cả một cẩm bào của vua Sa-lô-mon.
"Hoa
huệ", từ ngữ chỉ không chỉ hoa huệ nhưng nhiều loại hoa đồng cỏ nội. Vào
mùa xuân, miền Ga-li-lê nở rộ những hoa đồng cỏ nội này. "Nay còn, mai đã
quăng vào lò". Chúa Giêsu biết điểm xuyết những dụ ngôn của Ngài bằng chi
tiết cụ thể: hoa đồng cỏ nội, bị héo khô, được các nông dân Galilê thu lượm
lại, không chỉ dùng làm cỏ khô để nuôi gia súc, nhưng còn làm chất đốt để nướng
bánh.
Từ những tạo
vật hèn mọn như chim trời hay hoa đồng cỏ nội, Chúa Giêsu đề cập đến phẩm chất
cao cả của con người. Con người là một tạo vật cao vời khôn sánh đối với chim
trời hay hoa đồng cỏ nội. Ý thức về sự cao cả của mình phải cho giúp người Kitô
hữu có một thái độ hoàn toàn khác với thái độ lương dân. Người môn đệ của Chúa
Kitô phải tín thác trọn vẹn vào ơn quan phòng của Thiên Chúa, Cha chúng ta ở
trên trời.
4. Trước hết,
hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa:
"Hãy tìm
kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người". Từ "công
chính" phải được hiểu theo nghĩa kinh thánh: "sự thánh thiện".
Tìm kiếm sự công chính, tức là nổ lực nên thánh và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
"Còn tất
cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho", tức là những điều Ngài vừa mới đề
cập đến: thức ăn, áo mặc, đây là những căn nguyên lo lắng đối với dân ngoại,
nhưng không đối với con cái Thiên Chúa. Đức Giêsu không hứa với "những
người công chính" là sẽ ban cho họ dư đầy của cải trần thế, nhưng đơn giản
là đảm bảo cho họ nhu cầu cần thiết hằng ngày, như trong lời kinh mà Ngài vừa
mới dạy: "Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày".
"Anh em
đừng lo lắng về ngày mai". Đừng bận lòng này mai là một thái độ tin tưởng
và một sự biểu lộ tinh thần nghèo khó: "Chúa là hạnh phúc và tình yêu đời
con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy tình yêu và hạnh phúc đời đời".
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét