CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN – C
Lời Chúa: Kb 1, 2-3; 2, 2-4; 2Tm 1,
6-9.13-14; Lc 17, 5-10
Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Lời Chúa: Cv. 1,12-14; Gl. 4,4-7; Lc
1,26-38
MỤC LỤC
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
1. Đầy tớ vô dụng
2. Đức tin
3. Làm điều phải làm
4. Hãy bật rễ lên
5. Suy niệm của Lm Đaminh Trần Đình Nhi
6. Chiếc bình trống rỗng – Thiên Phúc
7. Đức tin và người đầy tớ vô dụng
8. Nhận và cho không vị lợi – Achille
Degeest
9. Ai là người thay đổi? – Charles E.
Miller
10. Phép lạ của lòng tin
11. Đức tin – McCarthy
12. Phục vụ Thiên Chúa vì yêu thương
13. Đức tin và khiêm nhường – Veritas.
14. Đức tin và khiêm nhường
15. Chú giải của Noel Quesson
16. Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục
vụ
Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
1. Quà tặng
2. Lễ Mẹ Mân Côi
3. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Kinh Mân Côi: Góp phần xây dựng nhân
loại mới
6. Kinh Mân Côi và Đời Sống Đức Tin
7. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu
Duyên
8. Phương thuốc thần diệu – Lm Ignatio
Trần Ngà
9. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi
10. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng
11. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa
12. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc
1,26-38)
13. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng
14. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu
15. Đức Chúa ở cùng Bà
16. Tôi là nữ tỳ của Chúa
17. Lá sầu riêng – Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền
18. Mẹ đầy ơn phước – Veritas
CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN
1. Đầy tớ vô dụng
Dụ ngôn chúng ta vừa nghe nói lên mối
liên hệ giữa ông chủ và người đầy tớ, hay nói đúng hơn kẻ nô lệ của ông ta.
Thực vậy, nơi dân Do Thái vào thời Chúa
Giêsu vẫn còn tồn tại chế độ nô lệ. Kẻ nô lệ bị coi như là một tài sản của ông
chủ, khác với người làm công. Người làm công chỉ phục vụ cho ông chủ trong một
số công việc và trong một số giờ giấc nào đó, ngoài ra anh ta là người tự do.
Kẻ nô lệ sau những giờ giấc cực nhọc ở ngoài đồng ruộng, khi trở về nhà, không
được phép nghĩ đến việc ăn uống nghỉ ngơi. Ông chủ cũng không nghĩ đến việc mời
anh ta ăn cơm hay hầu hạ để cám ơn. Kẻ nô lệ phải lập tức làm những công việc
khác để phục vụ cho ông chủ, đến khi chủ không còn sai khiến điều gì nữa, thì
kẻ nô lệ mới được nghỉ ngơi. Và không bao giờ ông chủ nghĩ đến việc cám ơn hay
trả lương cho nô lệ của mình vì nô lệ là tài sản của chủ. Kẻ nô lệ được phép ăn
uống, nhưng bị coi là phương tiện bảo vệ mạng sống và sức lực mà ông chủ cần đến.
Vậy đâu là ý nghĩa Chúa Giêsu muốn nhắn
gởi qua câu chuyện kể trên? Chúng ta không được phép vội vã kết án là Chúa
Giêsu ủng hộ cho chế độ nô lệ, nhưng Ngài chỉ muốn dùng những hình ảnh sống
động và cụ thể để dạy cho chúng ta thái độ phải có đối với Thiên Chúa. Đúng thế
mục đích Ngài nhắm tới, đó là chống lại với giáo lý về công nghiệp của bọn biệt
phái. Những người này chủ trương, tất cả những việc lành, việc thiện đều là
công nghiệp trước mặt Thiên Chúa, để rồi Thiên Chúa phải tính công và trả ơn
cho họ theo lẽ công bằng.
Hẳn chúng ta còn nhớ lời cầu nguyện của
một người biệt phái trong đền thờ: Lạy Chúa, tôi đội ơn Ngài, vì tôi không phải
như những người khác, gian tham, bất lương, ngoại tình hay là như tên thu thuế
kia. Mỗi tuần tôi ăn chay hai lần. Tôi nộp thuế thập phân về mọi thứ hoa lợi.
Chính sự tính toán này, người Pharisêu đã biến Thiên Chúa thành một con nợ của
mình.
Thế nhưng qua dụ ngôn này Chúa Giêsu
muốn dạy chúng ta thái độ khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa bởi vì tất cả những gì
chúng ta có đều là hồng ân của Ngài hay như lời Ngài đã nói: Không có Thầy các
con không thể làm gì được. Như thế thì làm sao chúng ta có thể kể công trước
mặt Thiên Chúa. Mọi cố gắng luân lý của chúng ta không có giá trị gì trước mặt
Ngài. Mọi việc đạo đức chúng ta làm chỉ là bổn phận chúng ta phải chu toàn. Mọi
hành động bác ái của chúng ta cũng không đủ để cảm tạ những ơn huệ của Ngài và
của anh em đồng loại. Suốt cuộc đời chúng ta cũng chẳng đủ để cám ơn Ngài, thì
làm gì gọi được là công lao. Cho dù chúng ta có trung thành với Ngài đến hơi
thở cuối cùng thì chúng ta cũng vẫn phả kêu lên: Lạy Chúa, con chỉ là đầy tớ vô
dụng, con chỉ làm việc bổn phận của con mà thôi.
Lẽ tất nhiên, Thiên Chúa không phải là
một ông chủ hà khắc, nhưng Ngài là một người cha yêu thương, luôn chăm sóc và
mong muốn cho chúng ta được mọi sự tốt đẹp, và chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ
chịu thua trước tình yêu của chúng ta.
2. Đức tin
Nếu các con có được một đức tin bằng
hạt cải.
Giả sử như chúng ta có được một cỗ máy
thời gian đi ngược dòng lịch sử trở về trước một thế kỷ. Khi gặp gỡ những người
của năm 1895 và đưa cho họ tờ nhật báo hôm nay, chắc hẳn tờ nhật báo ấy là một
cái gì xa lạ và họ chẳng hiểu được bao nhiêu. Chỉ cần nêu ra một số từ ngữ,
chẳng hạn như phi thuyền, siêu thị, chứng khoán, vi tính...
Nếu như họ hỏi: Truyền hình là gì? Hẳn
chúng ta sẽ không ngần ngại trả lời đó là một chiếc máy giúp chúng ta nhìn thấy
sự việc xảy ra ở bên Pháp, bên Mỹ, bên Tàu đúng lúc nó đang thực sự xảy ra ở
những nơi ấy. Giả sử họ hỏi: Hoả tiễn hạch tâm tầm xa là gì? Hẳn chúng ta sẽ
sẵn sàng trả lời đó là một trái đạn khổng lồ được bắn đi có thể tiêu diệt bất
kỳ thành phố nào cách xa hàng ngàn cây số. Giả sử họ hỏi: đổ bộ mặt trăng là
gì? Chúng ta sẽ mau mắn cắt nghĩa đó là việc con người dùng phi thuyền bay lên
và đáp xuống mặt trăng.
Trước những câu trả lời này, dân chúng
của thế kỷ trước sẽ nghĩ gì về chúng ta? Chắc hẳn họ sẽ cho chúng ta là những
kẻ điên khùng, bởi vì một người tỉnh táo thời bấy giờ sẽ cho rằng chúng ta
không thể ngồi ở Việt Nam mà lại biết được những việc đang xảy ra ở bên Pháp,
bên Mỹ và bên Tàu. Và họ cũng cho rằng chúng ta không thể nào bay được như một
con chim để lên tới mặt trăng. Câu chuyện khoa học giả tưởng trên cho chúng ta
thấy: điều mà dân thế kỷ này cho là vô nghĩa và bất khả, thì đối với dân thế kỷ
khác lại là chuyện đương nhiên và bình thường. Điều mà dân thế kỳ này không bao
giờ dám mơ ước thì đối với dân thế kỷ khác lại là chuyện bình thường.
Và bây giờ cùng với cỗ máy thời gian
ấy, chúng ta đi vào tương lai, tới năm 3000. Trên những tờ báo lúc bấy giờ
không còn đăng tải những tin tức về bạo lực, nghèo đói và chiến tranh, mà chỉ
có tình yêu, sự thịnh vượng, hoà bình và thân hữu. Chắc hẳn chúng ta sẽ nghĩ
thầm rằng một thế giới như vậy chỉ là chuyện mơ tưởng, không thực, bởi vì ở đâu
có loài người thì ở đó có bạo lực, có hận thù, có bóc lột và giàu nghèo.
Thế nhưng, từ đó chúng ta đi tới một
kết luận: Nếu chúng ta tin rằng hoà bình không thể có trên mặt đất, thì làm sao
chúng ta thành công trong việc xây dựng nó. Nếu chúng ta cho rằng tự cõi lòng
con người vốn ích kỷ, thì chắc hẳn chúng ta không thể tạo được một xã hội công
bằng.
Tuy nhiên với đức tin, chúng ta phải
nhìn nhận rằng có thể có bình an trên mặt đất, có tình yêu giữa con người và có
sự hoà điệu giữa các dân tộc. Sở dĩ như vậy là vì Đức Kitô đã đến giữa chúng
ta, dạy cho chúng ta cách sống, cách thực hiện những điều trên. Đây chính là sứ
điệp Ngài muốn gởi gắm chúng ta qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.
Nếu các ngươi có được một đức tin bằng
hạt cải, các ngươi có thể chuyển núi dời sông. Nhờ đức tin mà chúng ta có được
quyền năng của Thiên Chúa trong tầm tay của mình. Và với quyền năng ấy, không
gì là không có thể, kể cả một thế giới không còn chiến tranh, hận thù và nghèo
đói.
3. Làm điều phải làm
Suy Niệm
Người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên
suốt ngày. Khi chiều về, anh còn phải lo cơm nước cho chủ. Anh chỉ được ăn uống
nghỉ ngơi khi chủ đã ăn xong. Đó là chuyện hết sức bình thường và tự nhiên đối
với một người làm công được ông chủ mướn. Chủ không cần phải tỏ lòng biết ơn
anh đầy tớ vì anh đã vâng phục mọi lệnh truyền của ông.
Chúng ta có thể là một Kitô hữu đạo
đức, có thể đã vất vả nhọc nhằn phụng sự Chúa suốt đời. Nhưng Thiên Chúa không
phải chịu ơn hay mắc nợ chúng ta, và chúng ta không có quyền đòi Ngài phải trả
công cho xứng. Đơn giản chúng ta là tôi tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm
điều phải làm.
Khó biết chừng nào khi làm được nhiều
điều tốt đẹp mà vẫn giữ tấm lòng khiêm nhu.
Những việc đạo đức chúng ta làm có thể
khiến chúng ta tự mãn trước Thiên Chúa. Đó là sa ngã của một số người Pharisêu
và đó vẫn là cám dỗ thường xuyên của chúng ta.
Người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện,
mà thực ra là khoe công trạng của mình (x. Lc 18,9-14).
Công trạng, công đức, công nghiệp có
thể thành vật cản khiến tôi chỉ thấy sự thánh thiện của tôi mà không thấy, cũng
chẳng cần tình thương của Chúa.
Việc tốt tôi làm có thể làm tôi tự tôn
trước anh em.
Người anh cả chỉ thấy những năm dài
phục vụ cha, không khi nào trái lệnh, nên anh chẳng muốn đón nhận người em út.
Làm thế nào để chúng ta thật sự khiêm
hạ trước Thiên Chúa, trước tha nhân và trước cả lòng mình.
Nhận mình chỉ là đầy tớ bình thường,
không gì nổi bật, mình chỉ cố làm tròn bổn phận được giao.
Có nhiều bổn phận ta phải chu toàn.
Bổn phận của một thụ tạo trước Thiên
Chúa Chí Thánh.
Bổn phận là con cái của Cha trên trời.
Bổn phận là môn đệ trung tín của Đức
Kitô.
Bổn phận là anh em của mọi người.
Yêu mến, phụng sự, tôn kính, ca ngợi
Thiên Chúa: đó là điều ta chẳng dám tự hào mình đã vuông tròn.
Giả như ta có làm được điều gì sáng
danh Chúa thì cũng là nhờ ơn Chúa đỡ nâng.
Cả một ước muốn tốt lành nơi ta cũng
đến từ Chúa.
Thiên đàng không phải là sự trả công
của Thiên Chúa. Ngài không ký hợp đồng với người sống đạo đức để rồi Ngài buộc
phải cho họ thiên đàng.
Thiên đàng là một quà tặng bất ngờ, ngỡ
ngàng, không do công của tôi, nhưng do lòng tốt của Thiên Chúa.
Thiên đàng hạnh phúc vì tôi được gần
Chúa hơn bao giờ.
Chúng ta không chọn Chúa để được thiên
đàng.
Chúng ta mong thiên đàng để được gần
Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, dám hy sinh hạnh phúc đời
này để được hạnh phúc đời sau, đó có phải là một tính toán vụ lợi không? Con
người có quyền tìm cho mình hạnh phúc thực sự không?
Con người khao khát hạnh phúc thực sự
và lâu bền. Bạn nghĩ mình có thể tìm được hạnh phúc đó ở đâu? Ở thiên đàng có
thứ hạnh phúc đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã yêu trái đất
này, và đã sống trọn phận người ở đó. Chúa đã nếm biết nỗi khổ đau và hạnh
phúc, sự bi đát và cao cả của phận người.
Xin dạy chúng con biết đường lên trời,
nhờ sống yêu thương đến hiến mạng cho anh em.
Khi ngước nhìn lên quê hương vĩnh cửu,
chúng con thấy mình được thêm sức mạnh để xây dựng trái đất này, và chuẩn bị nó
đón ngày Chúa trở lại.
Lạy Chúa Giêsu đang ngự bên hữu Thiên
Chúa, xin cho những vất vả của cuộc sống ở đời không làm chúng con quên trời
cao; và những vẻ đẹp của trần gian không ngăn bước chân chúng con tiến về bên
Chúa.
Ước gì qua cuộc sống hàng ngày của
chúng con, mọi người thấy Nước Trời đang tỏ hiện.
4. Hãy bật rễ lên
Suy Niệm
Cây dâu là một loại cây tương đối lớn ở
đất Israel, nó có bộ rễ rất to và khỏe. Còn hạt cải là thứ hạt nhỏ xíu như đầu
kim. Đức Giêsu dùng một hình ảnh rất sinh động để nói lên sức mạnh của lòng
tin: "Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, anh em có thể ra lệnh cho cây
dâu bật rễ lên, mọc dưới biển, nó sẽ vâng lời anh em."
Để làm bật rễ một cây dâu thật to, chỉ
cần một chút đức tin bé nhỏ, nhưng phải là một thứ đức tin vững vàng mạnh mẽ.
Có nhiều thứ bám rễ trong đời tôi:
những khuynh hướng xấu, những thói quen do môi trường, lối nhìn, lối nghĩ, lối
đánh giá tha nhân, lối sống đạo theo thói quen, hình thức... Rễ chằng chịt
khiến tôi khó gỡ ra để ném tất cả xuống lòng biển.
Chỉ khi có lòng tin vào quyền năng
Thiên Chúa, tôi mới có thể gỡ mình khỏi những ràng buộc, mới làm được những
điều tưởng như không sao làm nổi.
Với lòng tin đơn sơ, kiên vững, các ngư
phủ đầu tiên của Hội Thánh chẳng những đã chuyển được núi, dời được non, mà còn
làm chuyển rung cả thế giới.
"Xin thêm lòng tin cho chúng
con":
Lời nài xin của các tông đồ cũng là của
chúng ta, những người có đức tin nhỏ hơn hạt cải.
Tin là nghe theo lời Chúa, bước ra khỏi
thuyền, đi trên sóng gió và tin mặt nước sẽ cứng như đá.
Tin như thế là dấn thân, là buông mình
trọn vẹn, là thắng vượt được nỗi sợ và lý luận tự nhiên.
Tin là thái độ can đảm của người trưởng
thành, chứ không phải là thái độ dựa dẫm của người ấu trĩ.
Người có lòng tin thì làm được những
việc lớn lao, vì người đó đón lấy sức mạnh của Thiên Chúa và để cho sức mạnh ấy
tự do hoạt động nơi mình.
Thế giới hôm nay có vẻ từ chối niềm
tin, thật ra nó đang tìm kiếm một niềm tin nào đó.
Có biết bao giáo phái đủ loại xuất hiện
khắp nơi.
Một số thanh niên Nhật tìm lẽ sống nơi
giáo chủ Asahara.
Khi thanh niên Singapore có nhà, có xe
và thẻ tín dụng, thì họ lại thấy thiếu một cái gì đó rất sâu.
Con người còn khắc khoải hoài cho đến
khi gặp được Đấng Tuyệt Đối.
Chúng ta xin Chúa ban thêm lòng tin cho
ta, để cuộc sống của ta bừng tỏa ánh sáng cho những người đang tìm kiếm Chân Lý
cứu độ.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngày nay, nhiều bạn trẻ đánh mất niềm
tin vào cuộc sống và không thấy cuộc sống có ý nghĩa. Theo bạn, đâu là những
nguyên nhân dẫn đến thái độ chán nản trên đây?
Có những bạn trẻ không tin vào Thiên
Chúa, nhưng lại tin vào những nỗ lực của mình. Họ cố xây dựng cuộc đời bằng đôi
tay và khối óc. Bạn nghĩ gì về họ? Đức Tin có giúp gì cho bạn không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn
hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín.
Xin cho con đức tin can đảm để con
chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
Xin cho con đức tin sáng suốt để con
thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô Hình, nhưng rất
gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám mất
tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ vì mang
trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian và khước từ
những mời mọc quyến rũ của nó.
Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh phúc
vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết mình được yêu
ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng cáp
qua những cọ sát đau thương của phận người, để dù bao thăng trầm dâu bể, con
cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.
5. Suy niệm của Lm Đaminh Trần Đình Nhi
Chúa Giêsu mời gọi ta tin vào Người.
Trước lời mời gọi này, nhiều người Do-thái và các nhà lãnh đạo của họ từ chối
không nhìn nhận Chúa Giêsu cũng như sứ mệnh cứu thế của Người. Trái lại, các
môn đệ và Kitô hữu thì khẩn cầu Người: "Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho
chúng con." Lời cầu xin của các môn đệ và lời giải thích của Chúa Giêsu
giúp ta hiểu được những chiều kích khác biệt của đức tin. Tại sao ta xin Chúa
thêm lòng tin cho ta? Đâu là sức mạnh của lòng tin? Ngoài ra, Chúa Giêsu dùng
tỉ dụ người đầy tớ làm việc bổn phận để làm sáng tỏ ý nghĩa nào về lòng tin của
ta?
a) Lòng tin là một ân huệ Chúa ban
Giáo lý Công giáo gọi đức tin là nhân
đức đối thần, nghĩa là chính Thiên Chúa mới là đối tượng của lòng tin. Đức tin
không khởi đầu từ nơi ta, nghĩa là không phải tự ta muốn tin vào Chúa mà là
Chúa muốn ta hãy tin vào Người. Nhưng tại sao Người muốn ta phải tin vào Người?
Bởi vì Người có tất cả những đặc tính để ta có thể nhìn nhận Người là Đấng nào,
phó thác mọi sự trong tay uy quyền của Người và nhất là có thể lãnh nhận tình
yêu Người dành cho ta. Tất cả những đặc tính ấy làm cho Người trở nên đối tượng
lòng tin của ta. Người đã tỏ mình cho ta biết về Người, đó là một ân huệ cho ta
và là khởi đầu cho một mối quan hệ Người muốn thiết lập giữa Người với ta. Vì
thế, đức tin có hai phía: về phần Chúa, Người là Đấng "trung thành"
trong giao ước Người thiết lập với ta; về phần ta, ta có bổn phận phải đáp lại
lòng trung thành của Người. Người muốn đưa ta tới cùng đích của đời ta là được
cứu rỗi và sống bên Người mãi mãi.
Đức tin có lịch sử của nó, lịch sử gắn
liền với lịch sử của một dân tộc. Ông Áp-ra-ham, cha các kẻ tin, đã được Thiên
Chúa tuyển chọn để làm tổ phụ dân tộc Do-thái vì ông "đã tin vào Thiên Chúa"
(St 15,6). Người gọi ông thi hành sứ mệnh dẫn đầu một dân tộc để chuẩn bị cho
toàn thể nhân loại đón nhận ơn cứu rỗi. Ông là gương mẫu sống đức tin. Cả cuộc
đời ông là luôn tín thác vào Thiên Chúa là Đấng trung thành và toàn năng (Dt
11,11; Rm 4,21). Mà tin vào Thiên Chúa tức là vâng lời Người và thi hành những
điều Người dạy. Tiếp đến, ông Mô-sê và các ngôn sứ là những người được Thiên
Chúa tuyển chọn để hướng dẫn dân Chúa luôn biết tin vào Người và kế hoạch cứu
độ Người sẽ thực hiện qua dân Do-thái. Thăng trầm của lịch sử đức tin phản ảnh
qua lịch sử dân Do-thái. Tuy nhiên cuối cùng, theo thiên ý nhiệm mầu của Thiên
Chúa, lịch sử đức tin vẫn diễn tiến theo "kế hoạch yêu thương Người đã
định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn, là quy tụ
muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô" (Ep 1,9-10).
Đức tin đạt tới mức hoàn hảo nơi Chúa Giêsu, Người Tôi Tớ đã lên đường đi
Giê-ru-sa-lem mà "vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết" (Pl 2,7t)
để dẫn đưa đức tin của ta đến mức toàn thiện (Dt 12,2).
Như vậy, đối với một cá nhân hay đối
với một dân tộc, lịch sử đức tin là một diễn tiến quy chiếu về Chúa Kitô và đưa
ta đến kết hiệp với Người để nhờ Người, với Người ta đến với Thiên Chúa Cha.
b) Sức mạnh của lòng tin
Các môn đệ xin Chúa Giêsu thêm lòng tin
cho các ông. Hoặc nói khác đi, các ông xin Chúa giúp cho các ông tin vào Người
mỗi ngày một hơn. Lập tức Chúa nói đến hiệu quả của lòng tin ấy. Dĩ nhiên, Chúa
không có ý nói đến những phép lạ bề ngoài của lòng tin là những điều họ đã
chứng kiến và nhờ đó họ được tăng thêm niềm tin vào Người. Nhưng Chúa muốn nhắm
tới những phép lạ xảy ra trong tâm hồn mỗi người môn đệ theo Người. Người hứa:
"Nếu anh em có lòng tin bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này:
Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em."
Người muốn nói đến những cây dâu của tính hư nết xấu đã mọc rễ sâu trong tâm
hồn ta từ bao năm, đúng như Người đã khuyến khích ta khi gọi ta làm môn đệ:
"Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng." Chúa Giêsu bảo ta hãy để cho lòng
tin vào Người tỏa ra sức mạnh tiêu diệt con người tội lỗi của ta, nhờ đó ta
được biến cải thành mẫu người vâng lời và phục vụ giống như Người Tôi Tớ của
Thiên Chúa.
c) Phục vụ trong khiêm tốn
Đức tin luôn ràng buộc với sứ mệnh. Chúa
Giêsu đã thi hành sứ mệnh cứu thế với đức tin hoàn hảo, tin vào tình yêu của
Chúa Cha. Trước khi chết, Người chỉ nói: "Thế là đã hoàn tất" (Ga
19,30). Một câu nói ngắn gọn, nhưng chứa đựng biết bao tâm tình. Tâm tình cảm
tạ Thiên Chúa Cha. Tâm tình biểu lộ lòng vâng phục. Và tâm tình khiêm tốn,
không kể công hoặc khoe khoang. Sở dĩ Chúa Giêsu có được những tâm tình ấy là
vì suốt cuộc sống trên trần gian, tâm niệm của Người chỉ là thi hành thánh ý
Chúa Cha hoặc tin vào Thiên Chúa Cha mà thôi. Cho nên hôm nay Người dạy ta cùng
một bài học ấy: "Đối với anh em cũng vậy. Khi đã làm tất cả những gì theo
lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ
làm việc bổn phận đấy thôi."
Tỷ dụ người đầy tớ chu toàn bổn phận
cũng cho ta thấy rõ hơn khía cạnh ân huệ của lòng tin. Ta có được lòng tin vào
Chúa, đó là ân huệ Chúa ban nhưng không. Mà Chúa đã dạy: ta nhận được nhưng
không thì cũng hãy cho nhưng không. Nhận lấy và cho đi là năng động của đức tin
được thể hiện trong đời sống phục vụ của người môn đệ, y hệt như Chúa Giêsu đã
lấy tất cả những gì Chúa Cha ban cho Người mà ban lại cho các môn đệ Người, kể
cả sự sống của chính Người. Một đức tin như thế mới đích thực là đức tin sinh
động, chứ không phải đức tin chết (Gc 2,17).
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
"Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho
chúng con" là lời cầu nguyện hằng ngày của tôi, hay chỉ là lời kêu cứu khi
tôi gặp khó khăn hoạn nạn? Lời cầu nguyện ấy có đồng nghĩa với lời cầu xin cho
tôi "được biết Chúa Giêsu rõ ràng hơn, yêu mến Người nồng nàn hơn và theo
Người mỗi ngày một trung thành hơn"?
Tôi thử nhìn lại lịch sử đức tin của
tôi. Đức tin của tôi đang ở giai đoạn nào? Vẫn còn là những điều học thuộc lòng
về đạo hay đã bắt đầu tiến đến giai đoạn nhận ra ơn gọi và sứ mệnh của mình, để
sống mối quan hệ với Chúa?
"Những cây dâu" nào trong tôi
cần phải bật rễ đi để tôi trồng những cây trái sinh hoa quả đạo đức?
Cầu nguyện:
"Lạy Chúa Giêsu, con chẳng dám xin
đi trên mặt nước như Phê-rô, nhưng nhiều khi con cảm thấy sống đức tin giữa
lòng cuộc đời chẳng khác nào đi trên mặt nước.
Có bao thứ sóng gió đẩy đưa và lôi
cuốn. Có bao cám dỗ cuốn hút con vô vực sâu. Cả sự nặng nề của thân xác con
cũng kéo ghì con xuống. Đi trên mặt nước cuộc đời chẳng mấy dễ dàng. Nhiều khi
con thấy mình bàng hoàng sợ hãi.
Xin cứu con khi con hầu chìm.
Xin nắm lấy tay con khi con quỵ ngã.
Xin nâng đỡ niềm tin yếu ớt của con, để
con trở nên nhẹ tênh mà bước những bước dài hướng về Chúa. A-men."
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 55)
6. Chiếc bình trống rỗng – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ 'Như Thầy Đã Yêu')
Một thầy Rabbi già đau bệnh nằm liệt
giường. Các môn đệ thì thầm nói chuyện bên cạnh ông. Họ hết lời ca tụng các
nhân đức vô song của thầy.
Một người trong bọn họ nói: "Từ
thời Salomon đến nay, chưa có ai khôn ngoan như thầy". Người khác nói:
"Đức tin của thầy ngang ngửa với đức tin của tổ phụ Abraham". Người
thứ ba nói: "Chắc chắn sự kiên nhẫn của thầy không thua sự kiên nhẫn của
ông Gióp". Người thứ tư châm vào: "Về sự cầu nguyện thân mật với
Chúa, chỉ có Môsê và thầy mà thôi".
Vị Rabbi tỏ ra bồn chồn không vui. Khi
các môn đệ đã ra về hết, vợ ông mới hỏi: "Ông có nghe họ ca tụng ông
không? - Có.
- Thế tại sao ông lại tỏ ra bực dọc như
thế?
Vị Rabbi than phiền: - Vì không có ai
nhắc đến sự khiêm tốn của tôi?
Mong người ta ca ngợi sự khiêm tốn của
mình thì chẳng còn khiêm tốn! Cho dù thầy Rabbi có khôn ngoan như Salomon, đức
tin ngang ngửa với Abraham, kiên nhẫn như ông Gióp và thân mật với Chúa như
Môsê mà không có lòng khiêm tốn thì tất cả các nhân đức ấy cũng chỉ đổ sông đổ biển
mà thôi. Nếu người ta thực hành các nhân đức, chu toàn các việc đạo, làm nhiều
việc thiện, nhưng để tự mãn và khoe khoang công trạng thì ngay lúc đó họ không
còn thánh thiện nữa.
Vì khiêm tốn là nền tảng của mọi nhân
đức, nên hôm nay Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ: "Khi đã làm tất cả những
gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: "Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng,
chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi". Thật vậy, chúng ta là những
đầy tớ của Thiên Chúa, chúng ta chỉ làm những gì phải làm. Cho dù là Đức Thánh
Cha cũng luôn luôn nhận mình là "Đầy tớ của các đầy tớ Chúa". Đã là
đầy tớ thì phải vâng lệnh chủ, làm tất cả những gì ông sai bảo mà không được kể
công, cũng không buộc ông phải nhớ ơn. Đó là chuyện hết sức bình thường, chuyện
bổn phận. Có rất nhiều bổn phận phải chu toàn như bổn phận "Mến Chúa yêu
người", có ai dám nhận mình không hề thiếu sót. Cho dù họ có làm được điều
gì tôn vinh Thiên Chúa hay phục vụ anh em đồng loại, thì cũng là nhờ ơn Thiên
Chúa ban cho.
Kẻ kiêu ngạo không bao giờ cảm thấy mình
cần Chúa, họ luôn tự mãn với thành quả mình đã đạt được, luôn cho rằng thành
công là do mình tạo nên. Đó là nỗi bi đát cố hữu của những kẻ kiêu ngạo, của
nhóm Pharisêu, và cũng là cám dỗ thường xuyên của mỗi người chúng ta.
Người khiêm tốn trái lại, luôn hãnh
diện về những thiếu sót của mình, chính vì thiếu sót nên họ càng phải cậy dựa
vào Chúa nhiều hơn. Thế nên, khi được thành công thì họ rất vui mừng cho rằng
đó là món quà bất ngờ Chúa ban. Đó là lý do tại sao Chúa lại yêu thích những
con người khiêm tốn như thế.
Nếu đã ý thức mình là thân phận nhỏ bé,
là "đầy tớ vô dụng", thì cho dù khiêm tốn bao nhiêu cũng không đủ
nhưng kiêu căng một chút đã quá nhiều. Vì thế, chỉ có những ai thấu hiểu thân
phận yếu đuối của mình, mới chứa nổi Đấng mạnh mẽ vô song. Chỉ có những kẻ xóa
mình ra không mới có chỗ cho Đấng Vô Cùng. Chỉ có những chiếc bình trống rỗng
mới có thể đón nhận tràn đầy hồng ân.
7. Đức tin và người đầy tớ vô dụng
(Trích dẫn từ 'Bước Theo' – Phêrô Trần
Đình Phan Tiến)
Chúa nhật XXVII thường niên hôm nay,
được kính trọng thể Lễ Đức Mẹ Rất Thánh Mân Côi. Là Chúa nhật đầu tháng Mân
Côi, nên chi ý nghĩa đoạn Tin Mừng (Lc 17,5-10) được phép suy tư về Đức Mẹ.
Theo đó, đoạn Tin Mừng hôm nay có hai phần:
- Sức mạnh của ĐỨC TIN
- Khiêm tốn khi phục vụ
Hai chủ đề của đoạn Tin Mừng hôm nay
thật là ăn khớp (logic) với nhau. Có thể nói, chủ đề thứ nhất là chủ đề của sự
cần thiết trong năm Đức Tin nầy. Đức Tin là một chủ đề không dễ suy tư, nhưng
giá trị của nó rất lớn lao, vì qua sự giải thích của Chúa Giêsu, thì đức tin
không cần "to lớn", chỉ cần như hạt cải là đủ. Kích thước và sự đo
đếm của đức tin, được Chúa Giêsu công khai một cách cụ thể. Theo đó, lòng tin
của con người thật là quá nhỏ bé, không bằng hạt cải. Đức tin là một khái niệm
trừu tượng, nhưng được chính Chúa Giêsu đánh giá cụ thể bằng một hình ảnh rõ
ràng. Ai cũng biết, hạt cải nhỏ bé như thế nào. Nhưng cây cải bên Israel thì
không nhỏ, nó có cành cây rất to, không phải như cây cải ở Việt Nam, nó có cành
lá đến nỗi chim trời đến làm tổ được. Có lần Chúa Giêsu nói: "Nếu anh em
có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu nầy: 'Hãy bật rễ
lên, xuống biển mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em' (Lc 17, 6). Từ đó, chúng ta
hiểu rằng, đức tin của chúng ta không bằng hạt cải. Điểm quan trọng của việc
bước theo Chúa Giêsu qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chính là niềm tin. Niềm tin mà
không đủ lớn mạnh, thì như hạt giống bị thối, không vươn mầm được, vì mọi nhân
tố sống đạo được hệ tại bởi niềm tin. Tại sao vậy? Thưa, vì tất cả mọi sự
thiêng liêng đều thuộc về mầu nhiệm, mà mầu nhiệm là điều không thể nhìn thấy
qua con mắt thể xác. Từ đó, nếu muốn xác tín những mầu nhiệm thiêng liêng,
chúng ta cần đến đức tin. Hơn nữa, bản thân đức tin cũng là một mầu nhiệm. Như
vậy, theo đoạn Tin Mừng hôm nay, các Tông đồ xin Chúa Giêsu ban thêm lòng tin
cho các ông. Chúa Giêsu đã ban thêm lòng tin cho các Tông đồ bằng cách nào? Rõ
ràng, chúng ta thấy Chúa ban thêm lòng tin cho các Tông đồ không phải như cho
thêm bánh, hoặc cho thêm đường vào bánh. Mà là Chúa đã ban thêm cho các ông
bằng cách mạc khải cho các ông biết chiều kích của đức tin.
Theo đó, đức tin càng lớn thì sự khiêm
tốn càng cao, nên chi giá trị của đức tin thì không thể đo lường được. Vì đức
tin là sức mạnh có thể làm được những việc phi thường. Qua đó, chúng ta thấy
chưa ai đạt đến niềm tin bằng hạt cải như Chúa Giêsu nói, ngoại trừ chính Thân
Mẫu của Người, Đức Maria, Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi. Mẹ Maria là
người đã thể hiện niềm tin sắt son, một niềm tin hạt cải thôi, cũng đủ chứng
minh được Lời Chúa nói. Hành trình bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ là một hành
trình đầy chông gai thử thách, nếu không có niềm tin và không giữ vững đức tin,
Mẹ dễ dàng chối bỏ Chúa. Cùng với nhiều áp lực của xã hội đương thời, đa số
chống lại Chúa Giêsu. Nhưng chính trong những giây phút đó, từ lúc Mẹ thưa
tiếng xin vâng, Mẹ đáp Lời Sứ thần, cũng chính là Lời của Thiên Chúa, Mẹ luôn
trung thành bước theo, và luôn trung tín trong sứ mạng cứu rỗi nhân loại của
Con Mẹ, đồng thời là Ngôi Hai Thiên Chúa. Một đức tin bằng hạt cải thôi, của Mẹ
đã đủ minh chứng Lời của Con Mẹ. Vì thế, cho đến ngày nay, Đức Maria luôn là
người dẫn đầu, "người có đức tin bằng hạt cải", bởi vì sao? Thưa, vì
tất cả những gì Mẹ có thể làm được cho nhân loại trong hành trình cứu chuộc của
Con Mẹ, đều do đức tin bằng hạt cải của Mẹ. Điều nầy, cho thấy sự công bằng của
Thiên Chúa, Thiên Chúa không thiên vị Đức Mẹ. Một sự nổ lực nơi Mẹ cùng với
Thánh ân mà Mẹ đã đón nhận nơi Thiên Chúa đã cho Mẹ một đức tin bằng hạt cải.
Phần hai của Đoạn Tin Mừng: Khiêm tốn
khi phục vụ
Tuy đoạn hai có nhiều câu hơn, nhưng ý
dễ diễn đạt hơn, đó là: khi làm việc thiêng liêng chúng ta đừng câu nệ về công
trạng của mình. Vì không có người đầy tớ nào đòi dùng bữa trước khi chủ mình
chưa dùng bữa. Tất cả những ai bước theo Chúa Giêsu để phục vụ Hội Thánh, dù
phẩm trật cao thấp đều là những đầy tớ vô dụng, chỉ làm việc theo bổn phận. Vì
Ông Chủ chính là Thiên Chúa chứ không phải là chúng ta, Thiên Chúa toàn quyền
trên mọi sự, và là Đấng công bằng, công minh cho mọi loài thụ tạo, nên chi, khi
con người được kêu mời phục vụ, thì nên làm vì mục đích khiêm tốn, chứ không
nên tự cao, tự mãn.
Hai chủ đề riêng biệt, nhưng được bổ
túc cho nhau để đón nhận và phục vụ Thiên Chúa qua tha nhân là lý tường cao đẹp
của người môn đệ Đức Kitô. Được vậy, chúng ta hãy cầu xin Thiên Chúa ban thêm
đức tin cho chúng ta. Để minh chứng cho sự khiêm tốn phục vụ, Chúa Giêsu đã mạc
khải cho chúng ta biết kich thước của "Đức Tin".
Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng
con.
Lạy Nữ Vương Rất Thánh Mân Côi, xin cầu
cho chúng con. Amen
8. Nhận và cho không vị lợi – Achille
Degeest
(Trích dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật')
Hình như chọn đoạn Phúc Âm hôm nay Giáo
Hội chủ ý đặt một tương quan giữa sức mạnh đức tin và phục vụ không vị lợi vì
đức tin. Đức tin làm được những việc phi thường, nhưng xong việc người ta không
có quyền chờ mong ân thưởng. Hành động theo đức tin của mình, người tín hữu
không được cho là mình có công trạng đặc biệt, nhưng phải nghĩ rằng hành động
như vậy là bình thường, là tất nhiên, thế thôi –cũng như người nội trợ chu tất
công việc gia đình là điều bình thường, không cần gì khen ngợi. Dụ ngôn mang
cái tựa hơi lạ 'những người đầy tớ vô dụng', do một sự phiên dịch dễ gây hiểu
lầm. Nói đúng ra, đầy tớ nào cũng hữu dụng. 'Đầy tớ vô dụng' ở đây có nghĩa đầy
tớ làm bổn phận cách bình thường. Chúng ta suy niệm về thái độ người có đức
tin.
1) Trước hết chúng ta ý thức rằng đức
tin là một ân huệ.
Khi các tông đồ nài xin Chúa: Xin Thầy
ban thêm đức tin cho chúng con, chắc chắn các ông được Chúa Thánh Linh thần
ứng. Thật vậy, đức tin phát sinh và lớn mạnh là trực tiếp nhờ ơn Thiên Chúa.
Cũng như cuộc sống hồn xác của chúng ta tùy thuộc một hành vi sáng tạo thiên
nhiên, đời sống đức tin của chúng ta tùy thuộc một hành vi yêu thương nâng
chúng ta lên tầm cao đời sống siêu nhiên. Trong cả hai hành vi, ân huệ Thiên
Chúa tuyệt đối không vị lợi, sáng kiến hoàn toàn là của Thiên Chúa. Có ý thức
được như thế mới không dám nghĩ đến đòi hỏi yêu sách Thiên Chúa, mới có được
tâm tình thực tiễn vui sướng, thờ kính cảm tạ. Vả lại tinh thần Phúc Âm của
chúng ta nhờ đó được tiếp sức sinh động bằng những việc nhận và cho không vị
lợi, bởi lẽ chúng ta nhận được đức tin Thiên Chúa cho không và chúng ta cảm tạ
Thiên Chúa mà không đòi hỏi Người trả công, ban thưởng.
2) Đức tin phải ở trong thế hành động
Nhân danh đức tin mình, Kitô hữu là một
người đầy tớ. Đầy tớ làm việc và phục dịch. Công việc cơ bản người Kitô hữu
phải chu tất là ngợi khen Thiên Chúa và phục vụ đồng loại. Hai việc ấy dính
liền mật thiết trong một hành vi bác ái duy nhất. Ngợi khen là bày tỏ niềm xác
tín và cảm biết Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối hoàn toàn hay thương xót, vì vậy
Người có quyền đòi hỏi con người thờ kính, vâng phục, cảm tạ. Phục vụ đồng loại
là biểu lộ niềm xác tín rằng họ có quyền đòi hỏi chúng ta phục vụ họ. Con người
đối với nhau trong tư cách anh em, đối với Thiên Chúa trong tư cách con cái.
Vậy thì thờ kính, ngợi khen là gì? Đó là hình thái cao nhất của cầu nguyện.
Phục vụ, bác ái là gì? Đó là sự biểu lộ tình yêu thương của Thiên Chúa sống
động trong con người, là thực hành những điều cảm biết được nhờ cầu nguyện, tức
là nhờ việc thờ phụng Thiên Chúa và thực thi bác ái. Đức tin thêm sức mạnh vì ở
trong thế hành động. Sức mạnh tăng thêm cho đức tin, đó là phần thưởng vậy.
9. Ai là người thay đổi? – Charles E.
Miller
(Trích dẫn từ 'Mở Ra Những Kho Tàng')
Chúng ta sống trong một thế giới đầy
bạo lực và oán ghét. Đó là một thế giới được điều khiển bởi những kẻ sát nhân
và điên cuồng. Đó là một thế giới mà những đứa trẻ đã bị phá thai, những trẻ
nhỏ đã bị lạm dụng tình dục và bị giết chết bởi cha mẹ chúng. Đó là một thế
giới mà chính trị, kinh tế đã hư đốn. Có phải sự xấu ở nơi thế giới bây giờ đã
hình thành từ nhiều thế hệ, hoặc đó là phương tiện truyền thông đã làm cho
chúng ta ý thức hơn về những gì đang xảy ra?
Habacuc, một tiên tri Do Thái đã sống
sáu thế kỷ trước Chúa Kitô. Đó là một thời gian thật sự tồi tệ như thời đại của
chúng ta bây giờ. Ở Giuđa, sự nhầy nhụa của chính trị đã lan rộng, nền luân lý
hư hỏng, xã hội bất công, sự khinh bỉ những người nghèo, và việc thờ lạy ngẫu
tượng đã lờ đi Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacop. Thiên Chúa đã cứu
Israel ra khỏi ách nô lệ của Ai cập, đưa dân vào đất hứa, đám dân mà Người đã
làm Giao Ước quan trọng đối với họ.
Habacuc là một vị tiên tri bị chán
ghét, hầu hết mọi người không ai để ý tới, hoặc là ước mong thống hối và canh
tân. Habacuc đã nói một cách rõ ràng không úp mở. Ông ta đã trở lại với Thiên
Chúa trong cầu nguyện nhưng không phải trong cách lịch sự của lời kinh cầu, có
vẻ thích hợp với oai nghi của Thiên Chúa. Habacuc đã phàn nàn một cách cay đắng
với Thiên Chúa. Sự kiên nhẫn của ông đã đến chỗ tận cùng, ông ta đã cầu nguyện:
"Ôi Lạy Chúa còn bao lâu nữa? Con đã kêu khóc để cầu xin sự giúp đỡ nhưng
Ngài đã không lắng nghe. Con đã kêu lên Chúa. Ôi sự dữ! Nhưng Ngài đã không can
thiệp".
Những người khác có thể đã cầu nguyện
với Thiên Chúa theo cách này trước Habacuc trong Thánh Kinh như hầu như không
ai chú ý tới những điều đó. Habacuc có vẻ như là một tiếng vang mới đã can đảm
nói thẳng lên với Thiên Chúa. Sự nhấn mạnh của ông với Thiên Chúa đã được chú ý
tới, nhưng sự đáp trả của Thiên Chúa thì đáng chú ý hơn. Ngài đã không ra lời
sấm sét để khiển trách những tạo vật nhỏ bé của Ngài. Thiên Chúa không hỏi:
"Tại sao con dám nói với Ta cách như thế". Đúng hơn Thiên Chúa đã yêu
cầu Habacuc kiên nhẫn, tiếp đó Ngài thêm: "Người công chính, bởi vì đức
tin của ngươi sẽ được sống".
Habacuc là một con người của đức tin.
Ông tin rằng Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo phải có trách nhiệm với những tạo vật
của Người. Ông ta kêu lên Thiên Chúa, Đấng đã làm một Giao Ước với dân Người
hãy nhớ lại sự trung thành của Người, tình yêu của Người đối với họ. Habacuc đã
phàn nàn đó là sự thật, nhưng ông đã phàn nàn như một người công chính với một
Thiên Chúa thật, Đấng có thể tẩy rửa sự xấu xa nơi thế gian này. Ông đã tin
rằng Thiên Chúa là Người duy nhất có thể thay đổi. Habacuc là một người có đức
tin lớn lao.
Đức tin là một đặc ân. Các tông đồ sợ
rằng đức tin của họ đã không mạnh đủ, có lẽ họ nghĩ rằng một điều gì đó giống
như Habacuc khi họ hỏi Chúa Giêsu: "Lạy Chúa xin tăng thêm đức tin cho
chúng con". Lời nài xin này làm lớn đức tin của họ cách chắc chắn và cần
thiết cho chính chúng ta khi chúng ta cầu nguyện nơi Thánh Lễ, đặc biệt là lời
cầu nguyện sau khi hiệp lễ, chúng ta xin Chúa sửa lại những điều sai trái trong
xã hội của chúng ta.
Sự cầu nguyện của chúng ta sẽ được tràn
đầy với sự can đảm, điều đó sẽ đến từ đức tin. Thánh Phaolô đã bảo đảm với
Timôthêô;"Thánh Thần của Thiên Chúa đã ban cho chúng ta không phải là một
sự hèn nhát nhưng đúng hơn đã làm cho chúng ta mạnh sức, yêu thương và khôn
ngoan". Thánh Thần mà chúng ta đã lãnh nhận khi chịu phép rửa. Thánh Thần
đó sẽ thúc đẩy chúng ta cầu nguyện với Thiên Chúa với sự trông đợi nhưng cũng với
sự khẩn nài không chỉ trong Thánh Lễ và bất cứ nơi nào mà chúng ta cầu nguyện.
Khi nào chúng ta cầu nguyện, một người cầu nguyện là một người khôn ngoan, yêu
mến và mạnh mẽ để nhận biết rằng Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và là Đấng công
chính bởi vì Thiên Chúa là Đấng duy nhất có thể thay đổi.
10. Phép lạ của lòng tin
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Tại một cộng hoà thuộc Liên Xô cũ,
trong một cuộc mít tinh nọ, một giáo sư muốn chứng minh cho cử tọa thấy rằng
Chúa Giêsu chỉ là một tên phù thủy lừa bịp. Ông lấy một ly nước, đổ vào đó một
ít bột, nước liền đổi ra màu đỏ. Ông tuyên bố với cử tọa như sau:
"Thưa quý vị, tôi vừa mới làm một
phép lạ. Ngày xưa Ông Giêsu cũng chỉ làm như tôi vừa làm mà thôi. Ông Giêsu đã
biến nước thành rượu theo cách thế tôi vừa làm đó. Nhưng quý vị hãy xem tôi còn
làm được điều ngoạn mục hơn nữa". Nói xong, ông lấy một thứ bột khác cho
vào nước. Nước từ từ đổi màu, rồi trở lại nguyên trạng.
Trong đám cử tọa, một người đứng lên
phát biểu: "Thưa ông, ông quả thực là người tài ba nhưng liệu ông có dám
uống thử thứ rượu mà ông vừa chế biến hay không?" Quả thực, ông giáo sư
biết mình đang làm trò bịp. Nước mà ông đã cho đổi màu ấy chỉ là một hóa chất
độc hại. Thấy ông giáo sư chần chừ, người vừa lên tiếng phát biểu mới quay
xuống đám đông và bình tĩnh giải thích như sau:
"Thưa quý vị, đây là sự khác biệt
giữa Chúa Giêsu và ông giáosư nầy: với rượu nho của Ngài, Chúa Giêsu đã rót cho
chúng tôi hai ngàn năm hoan lạc rồi. Còn với thứ rượu mà vị giáo sư nầy chế
biến, nhân loại hẳn sẽ bị đầu độc".
Anh chị em thân mến,
Hai ngàn năm qua, Chúa Giêsu vẫn tiếp
tục làm phép lạ trong cuộc sống của mọi con người, đặc biệt là trong cuộc sống
của những ai tin vào Chúa. Mỗi cuộc đời Kitô hữu là một phép lạ phi thường của
Chúa Giêsu. Trong phép lạ lớn lao ấy còn hàm ẩn biết bao phép lạ khác nữa. Chúa
Giêsu hôm nay đã nói: "Nếu anh em có lòng tin nhỏ xíu bằng hạt cải thôi,
anh em có thể truyền lệnh cho cây dâu nầy bật gốc lên, xuống mọc dưới biển kia
cũng được". Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn nói rằng đức tin có khả
năng làm phép lạ như một sức mạnh phù phép, bùa chú, hiểu theo nghĩa đen là
"chuyển núi dời non", "bứng rừng trồng xuống biển". Nhưng
Ngài muốn nói: đức tin là một động lực thúc đẩy chúng ta dám nghĩ, dám làm
những việc to lớn, phi thường mà nếu không có lòng tin, chúng ta không dám hành
động. Bởi vì, người có lòng tin thì hành động bằng quyền năng của Thiên Chúa,
chứ không phải bằng khả năng giới hạn của mình. Do đó, người có lòng tin có thể
làm được những việc mà chỉ có quyền năng vô biên của Thiên Chúa mới làm được.
Thực ra, không phải là người ấy hành động nữa mà là chính Thiên Chúa hành động
trong người ấy và qua người ấy.
Nhờ đức tin thúc đẩy, chúng ta dám khởi
công bắt ta vào việc xây dựng cuộc sống cho mình, cho anh chị em mình, rồi Chúa
sẽ tiếp tay giúp sức chúng ta bằng quyền năng vô biên của Ngài, để hướng dẫn và
biến đổi công việc nhỏ bé của chúng ta trở thành công trình to lớn, vĩ đại, phi
thường. Nếu chúng ta không bắt tay vào việc là dấu chứng tỏ chúng ta chưa tin,
hoặc không tin. Có tin, chúng ta mới dám làm, chưa làm hay không làm là vì chưa
tin hay không tin. Đức tin đòi phải có hành động. Thánh Giacôbê tông đồ đã nói:
"Đức tin không có việc làm là đức tin đã chết rồi" (Gc 2,17). Ngài
lấy ví dụ: "Nào có ích gì, nếu người nào rêu rao mình có đức tin trong khi
chẳng chịu làm gì cả? Nếu có anh chị em nào thiếu ăn thiếu mặc mà một người nào
trong anh chị em lại nói với họ: 'chúc anh chị em đi bình an, ăn no mặc ấm', mà
không cho họ những gì cần thiết để ăn mặc, thì nào có ích gì? Đức tin đó có cứu
được người ấy không? Cũng vậy, đức tin không có việc làm là đức tin đã chết mất
rồi" (Gc 2,14-17). Bởi vì đức tin sống bằng đức ái. Đức tin phải được biểu
lộ trong sự thông cảm, tha thứ, chia sẻ cho nhau cái ăn cái mặc, và nhất là
biểu hiện trong sự phục vụ, làm tôi tớ lẫn nhau một cách vô điều kiện.
Thưa anh chị em,
Sống đức tin là sống phục vụ. Trong Tin
Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dùng một câu chuyện bình dân trong chế độ xã hội phong
kiến ở thời đại Ngài mà dạy chúng ta bài học phục vụ. Chế độ phong kiến là chế
độ có chủ có tớ, có địa chủ và nông nô. Tớ phải hầu hạ chủ như là chuyện đương
nhiên. Chủ không bao giờ mang ơn tớ, cũng là chuyện coi như đương nhiên. Nhưng
Chúa Giêsu công bố một đạo lý Tin Mừng khác hẳn quan điểm phong kiến đó. Chính
Ngài đã "đến không phải để được hầu hạ, nhưng để làm tôi tớ mọi
người" (Mt 20,28), và Ngài đòi hỏi: "Ai lớn nhất trong anh em phải
làm tôi tớ mọi người" (Mc 9,35). Tin Chúa, theo Chúa là đem cả cuộc đời
mình hiến thân phục vụ anh em như một chuyện đương nhiên, không đòi hỏi được
đền ơn, đáp nghĩa, được biểu dương hay khen thưởng. Tin Chúa, theo Chúa không
để chi lo cho phận riêng mình cách ích kỷ, không chạy theo lợi lộc, không tìm
thăng quan tiến chức, nhưng để phục vụ mọi người như lẽ sống đời mình. Thái độ phục
vụ không kể công, không vụ lợi là một yếu tố quan trọng đối với đời sống cộng
đồng Giáo Hội cũng như xã hội. Sự đòi hỏi người khác biết ơn và đền ơn, đó là
hành động của ước muốn thống trị và là bước đầu đưa tới thống trị trên người
khác. Muốn cho tương quan trong cộng đồng xã hội mãi mãi trong sáng là tương
quan huynh đệ, Chúa Giêsu đã dạy cách phục vụ không vụ lợi, không kể công. Có
làm được điều gì tốt lành thì đó là việc phải làm chứ chẳng có gì để mà vênh
vang tự đắc, nghĩa là mình có quyền đòi Chúa hay mọi người biết ơn. Do đó, mỗi
khi hoàn thành nhiệm vụ, mỗi người phải khiêm tốn tự nhận mình chỉ là
"người tôi tớ tầm thường, vì đã làm việc bổn phận đấy thôi."
Anh chị em thân mến,
Nếu nhờ đức tin, mọi người đều lấy mình
làm tôi tớ lẫn nhau thì chắc chắn đức tin ấy sẽ làm được những việc phi thường.
Đó là phép lạ của đức tin có hành động. Và cũng chính hành động nầy sẽ kiểm tra
chất lượng đức tin của chúng ta xem nó bằng bao nhiêu sánh với hạt cải bé nhỏ.
Vì nếu chúng ta có được lòng tin nhỏ bé bằng hạt cải thôi, chúng ta có thể
"chuyển núi dời non", "bứng rừng trồng xuống biển" cũng
được. Đức tin có một sức bật kỳ diệu như vậy. Nhà vật lý Archimède đã nói:
"Nếu có thể tìm được một điểm tựa bên ngoài vũ trụ, thì với một đòn bẫy,
người ta có thể nâng bổng cả vũ trụ lên". Và văn hào Kierkegaard đã nói:
"Điểm tựa ấy chính là đức tin". Đức tin có cả một sức bật như vậy, nó
có khả năng biến đổi cả xã hội, cả thế giới đầy những bất công, bạo lực, chia
rẽ, chiến tranh nầy thành một vương quốc của tình yêu, thành một "Trời Mới
Đất Mới" trong ngày Cánh Chung.
11. Đức tin – McCarthy
(Trích dẫn từ 'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ
Trọng')
Maurice là một người nghiện rượu. Khi
một linh mục đến thăm anh thì anh sống trong tầng hầm với con chó trong khi vợ
anh sống trên căn gác. Về pháp lý, họ đã ly dị và chờ bán xong căn nhà để rồi
chia tay.
Anh ta đã có một cuộc sống gian khổ.
Hầu hết những rối loạn của anh bắt nguồn từ việc uống rượu mạnh. Anh nói hiện
giờ anh uống chừng mực – nhưng nhiều người nghiện rượu vẫn nói thế. Có lần
trong một cơn tuyệt vọng, anh đặt đầu súng vào miệng mình, nhưng khi nhìn thấy
trên ngón tay mình chiếc nhẫn Mân Côi mà em gái anh cho anh, anh không thể bóp
cò.
"Con vẫn còn tin Thiên Chúa"
anh nói. Rồi nước mắt chảy trên khuôn mặt, anh nói tiếp "Nhưng con ao ước
có được đức tin mà con đã có khi còn trẻ".
"Điều gì làm cho đức tin ấy đẹp
đến thế?"linh mục hỏi.
"Khi con còn trẻ, con đã tin tưởng
mọi việc – rất nhiều việc. Con đã chắc chắn về mọi sự. Nhưng thứ đức tin ấy
không kéo dài. Giờ đây, con không tin chắc điều con phải tin. Con tra hỏi mọi
việc. " Anh ngừng lại sau đó buồn bã nói tiếp: "Có thể vợ con và con
sẽ sống chung trở lại. Nhưng con đã làm mất tình cảm mà con đã có với cô
ấy".
"Anh đã đau khổ nhiều phải không
Maurice?" linh mục nói.
"Cha khỏi phải nói điều đó",
anh đáp.
"Anh có cảm thấy Thiên Chúa ở với
anh trong suốt những năm anh say sưa?" linh mục hỏi.
"Con cảm thấy điều đó, có lẽ trừ
lúc con định tự tử. Con đã cảm thấy bị bỏ rơi đến tận cùng".
Ở đây, người ta có thể cảm nhận phần
nào nỗi cô đơn và đau buồn xé ruột nằm sâu trong mỗi con người mà đức tin đã
mất. Tuy nhiên, đức tin của Maurice không hoàn toàn mất. Một vài sự vật bên
ngoài đã bị cắt xén. Nhưng vẫn còn cái lời bên trong, đó là niềm xác tín rằng
Thiên Chúa hiện hữu và chăm sóc anh ta.
Vì thế, anh bám chặt lấy đức tin thời
niên thiếu. Bấy giờ, mọi vật đơn giản, rõ ràng và chắc chắn. Anh không nhận
thấy rằng những thay đổi lớn lao đã xảy ra trong anh. Một vực thẳm đã ngăn cách
anh với tuổi thơ của anh ngày trước.
Chúng ta không thể không cảm thấy có
thiện cảm với anh. Nhiều người bám chặt lấy đức tin có khi còn thơ ấu. Và cũng
đúng thôi – nó là cái gì đẹp. Nhà thơ Emily Dickinson nói:
Chúng ta bắt đầu hiểu rằng chúng ta đã
tin có một lần và trọn vẹn.
Niềm tin không hợp lắm khi thường hay
biến đổi.
Chúng ta thẹn đỏ mặt, nếu chúng ta thực
hiện được thiên đàng, một biến cố khôn tả.
Chúng ta hẳn đã tránh xa, thậm chí xấu
hổ và nhận được phép lạ.
Chúng ta cứ mãi nắm lại ý nghĩa tôn
giáo của thế giới thơ ấu đã qua của chúng ta. Nhưng tất cả chúng ta phải để lại
tuổi thơ đàng sau mình và cùng với nó một thế giới của những điều chắc chắn.
Đức tin tuổi thơ đi qua hoặc ít nhất đã đổi thay. Tuy nhiên, không phải Thiên
Chúa đổi thay mà chính chúng ta thay đổi. Tuy nhiên, cảm thấy như Maurice cảm
thấy không có nghĩa là chúng ta đã mất đức tin. Tất cả điều ấy có nghĩa là
chúng ta đang chiến đấu với đức tin.
Đức tin thơ mộng của tuổi thơ không thể
bám giữ mãi được. Đức Giêsu nói chúng ta phải vào Nước Trời như một trẻ nhỏ,
nhưng Người không nói chúng ta phải có đức tin của đứa trẻ. Đức tin của chúng
ta phải là một đức tin trưởng thành, một đức tin đã vượt qua những sự phức tạp
và mơ hồ của đời sống.
Mọi người chúng ta có thể lấy lại lời
cầu nguyện của các tông đồ: "Lạy Chúa, xin tăng thêm đức tin cho chúng
con", bởi vì giữ gìn đức tin chưa đủ; chúng ta phải trưởng thành trong đức
tin. Đức tin trưởng thành khi nó thực hành. Đức tin cũng trưởng thành nhờ được
nuôi dưỡng đều đặn. Chúng ta nuôi dưỡng đức tin như thế nào? Bằng việc cầu
nguyện và tiếp xúc với cộng đoàn đức tin.
12. Phục vụ Thiên Chúa vì yêu thương
(Trích dẫn từ 'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ
Trọng' – McCarthy)
Trong số những người có đạo, có một xu
hướng nghĩ rằng Thiên Chúa phải ban cho họ một điều gì đó. Họ tưởng tượng Thiên
Chúa như một ông chủ điển hình. Nếu chúng ta thực hiện xong công việc thì theo
lẽ công bằng, ông chủ trả tiền lương cho chúng ta. Thiên Chúa ban cho chúng ta
phần thưởng thiên đàng vì chúng ta đã trung tín phục vụ Người khi ở trần gian.
Đây là thái độ rất dễ hiểu. Nhưng nó đưa ra một thái độ làm thuê, vụ lợi vào
điều mà chủ yếu phải được xem là một việc làm yêu thương giữa Thiên Chúa và
chúng ta. Mặt khác, nó hoàn toàn không giống với Tin Mừng.
Sự thật nổi bật là: chúng ta không bao
giờ có thể đặt Thiên Chúa trong tư thế mắc nợ chúng ta. Đức Giêsu nói rằng dù
khi chúng ta đã làm hết mọi việc mà chúng ta hy vọng làm được (và ai trong ta
dám liều lĩnh xác nhận điều đó?) Chúng ta cũng không thể đưa ra bất cứ đòi hỏi
nào với Thiên Chúa. Trong thời đại của Đức Giêsu, đạo Do thái đã bị ý tưởng
công nghiệp chi phối. Đức Giêsu đã đối đầu với thái độ đó.
Chân lý nền tảng về Kitô giáo là chúng
ta có một tôn giáo của ân sủng chứ không phải một tôn giáo của công nghiệp. Sự
cứu chuộc không thể kiếm được. Chúng ta không bao giờ có thể cho rằng Thiên
Chúa mắc nợ chúng ta. Nhưng chúng ta cũng không nên có quan niệm đó. Thiên Chúa
là Cha chúng ta. Chúng ta là con cái của Người. Con cái không thực hiện ý muốn
của cha mình để được thưởng công. Chúng làm điều đó bởi vì chúng muốn cố gắng
đáp lại tình yêu thương của người cha dành cho chúng.
Quả là một niềm vui lớn khi chúng ta
khám phá rằng không phải chúng ta không cần chứng tỏ mình với Thiên Chúa. Không
phải chúng ta kiếm được tình yêu Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương chúng ta từ
lâu trước khi chúng ta có thể làm một điều gì đó xứng đáng với tình yêu đó. Và
Người yêu thương chúng ta cả khi chúng ta là những tội nhân. Nhiệm vụ của chúng
ta là đáp lại tình yêu Thiên Chúa.
Chúng ta không giữ các giới răn để
Thiên Chúa sẽ yêu thương chúng ta; chúng ta giữ các giới răn bởi vì Thiên Chúa
yêu thương chúng ta. Tin Mừng có thể được tóm tắt như sau: Một Thiên Chúa quảng
đại muốn các môn đệ phục vụ Người vì yêu thương không phải vì bổn phận. Vì thế,
đức tin không đủ; chúng ta cũng cần có tình yêu. Trong khi đức tin làm cho mọi
việc có thể, tình yêu làm cho mọi việc dễ dàng.
Các công việc quảng đại nhất và anh
hùng nhất trong đời sống là những công việc hoàn thành, không phải trong đường
lối của bổn phận hoặc với niềm hy vọng có được tiền bạc hoặc những phần thưởng
nào khác, nhưng chỉ thuần túy vì tình yêu. Chúng ta hãy xem xét tấm gương sau
đây.
Buổi chiều muộn của một ngày mùa đông
giá rét. Mọi người đều vội vã trở về nhà. Thình lình một tiếng kêu vang lên:
"Có một người dưới lòng sông". Người ta chạy đến bờ hè và nhìn xuống
dòng nước đầy bùn, dơ bẩn. Đúng là có một người đàn ông đang dập dềnh trong
nước đen. Tiếng kêu cứu tuyệt vọng đến những người đứng nhìn trong tiếng ồn ào
của xe cộ.
Rồi với một tiếng két của thắng xe, một
chiếc xe hơi quẹo ra khỏi luồng xe và cặp vào chỗ đậu xe sát lề đường. Một
thanh niên nhảy ra khỏi xe, cởi áo và giày rồi leo lên chỗ bờ hè, quan sát thật
nhanh và lao xuống nước bùn. Sau một vài nỗ lực không thành công, anh ta đã túm
được người bị nạn và đưa người này đến chỗ an toàn.
Trên lề đường, một đám đông tụ tập xung
quanh người bị nạn và chờ cho xe cứu thương đến. Ngay lúc đó, xe cứu thương đến
và đưa người ấy đến bệnh viện. Ít lâu sau người ấy khỏe hẳn sau cơn thử thách.
Một phóng viên đi qua, thấy câu chuyện có thể được khai thác, bắt đầu tìm kiếm
thông tin. Nhưng thay vì tìm kiếm sự tôn vinh và tán thưởng của dân chúng,
người cứu nạn đã biến mất.
Điều Thiên Chúa muốn chúng ta làm là
chúng ta phải đến với Người như con cái đến với Cha mình, Người muốn chúng ta
xử sự một cách vinh dự, không phải vì hy vọng được thưởng, mà vì yêu thương
Người và nhiệt thành phục vụ Người.
Sự cứu chuộc là một ơn huệ chứ không
phải là một phần thưởng. Một phần thưởng là một vật to lớn, nhưng nó không thể
so sánh với niềm vui của một người cảm thấy khi nhận được một ân huệ.
13. Đức tin và khiêm nhường – Veritas.
(Trích dẫn từ 'Hãy Ra Khơi')
Linh mục văn sĩ Marlin Dòng Tên mời gọi
những ai đọc đoạn Tin Mừng trên hãy thực hiện hai việc làm tưởng tượng sau đây
để có thể hiểu thêm phần nào về đoạn Phúc âm mà chúng ta vừa nghe. Việc tưởng
tượng thứ nhất là lùi về quá khứ 200 năm. Tác giả đề nghị chúng ta cầm lấy một
nhật báo vừa xuất bản trong ngày, rồi lùi vào trong quá khứ 200 năm, giải thích
những gì được in trong trang đầu tiên của tờ báo mà thôi cho những con người
chúng ta gặp. Thử hỏi những con người đó sống cách chúng ta 200 năm về trước có
tin được chúng ta hay không? Có biết bao điều mà những con người đó không thể
nào thực hiện được, những điều mà đối với chúng ta hôm nay xem ra như quá tầm thường.
Chẳng hạn chiếc Radio, chiếc máy truyền hình v.v..., chúng ta có giải thích
cách mấy đi nữa về chiếc truyền hình như là một kỹ thuật để giúp ta nhìn thấy
và nghe được những gì xảy ra cách ta hàng ngàn dặm. Họ cũng sẽ trả lời chúng ta
rằng, thông thường theo sự hiểu biết của chúng tôi thì chuyện đó không thể nào
có được. Đó là nếu lùi vào quá khứ chỉ cách chúng ta 200 năm mà thôi, và càng
lùi xa hơn nữa thì còn nhiều chuyện khó tin hơn nữa.
Rồi tác giả Marlin mời chúng ta đi
nhanh về tương lai phía trước chúng ta 200 năm. Hãy tưởng tượng như có một
người xa lạ nào đó sống trước chúng ta 200 năm trở lại nói với chúng ta hôm nay
đây rằng, họ đang sống trong thế giới thật là hòa bình, không hận thù, không
chiến tranh, không khổ cực, liệu chúng ta có tin người đó hay không? Hay chúng
ta cũng chỉ trả lời giống như câu trả lời chúng ta nghe trong trường hợp thứ
nhất là nghe thường tình mà nói thì làm sao có chuyện đó được. Vì thường tình
chúng ta đang giận ghét nhau, đang đánh giặc với nhau, đang mưu mô ám hại nhau...
Thường tình chúng ta cảm nhận là như thế thì làm sao có thể tin vào điều khác
được.
Quả thật, giữa con người với nhau trong
cùng một thế giới vật chất hữu hình mà đã là khó tin nhau rồi thì thử hỏi làm
sao ta có thể tin vào một người đến từ thế giới khác để nói cho chúng ta biết
những sự thật khác với sự thật chúng ta thường biết. Điều này hướng dẫn chúng
ta hiểu thêm tâm trạng của các tông đồ khi các ông tha thiết khẩn xin Chúa:
"Lạy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con" mà chúng ta vừa đọc nơi
câu đầu của bài Phúc âm hôm nay.
Trước đó, Chúa Giêsu vừa nói cho các
ông về những sự thật của một cuộc sống cao thượng hơn, một cuộc sống có triển
vọng được triển nở vào trong cõi đời đời. Đừng sống ích kỷ như người giàu có
đối với Ladarô, đừng làm gương mù gương xấu, đừng làm tội, nhưng hãy tha thứ
cho nhau. Đó là những chuyện, những điều dạy khác thường, ngoại thường không
thể tưởng tượng được của một số người sống xa cách Chúa, không tin có Chúa.
Thường tình làm sao có được những chuyện đó.
"Lạy Chúa xin thêm đức tin cho
chúng con". Có thể các tông đồ đã nhìn thấy những điểm này và các ngài cảm
thấy khó tin vào những lời Chúa dạy, nên các ngài đã xin Chúa thêm đức tin cho.
Để tin Chúa và tin những gì Chúa dạy bảo, Chúa không đòi hỏi chúng ta một đức tin
trọn vẹn ngay từ đầu, nhưng một đức tin có thể nói một thiện chí nhỏ ngay từ
đầu, dù nhỏ như hạt cải. Xét về chiều kích vật chất thì hạt cải là nhỏ, nhưng
về tinh thần và sức sống trong hạt cải thì điều đó chắc chắn là không nhỏ. Sự
sống đó đến từ Thiên Chúa, đến từ Đấng Tạo hóa. Chúa chỉ cần chúng ta mở ra cho
Ngài, và như vậy bước đầu tiên là cần một chút thiện chí cố gắng nơi mỗi người
chúng ta để tin vào Ngài, để rồi từ đó Ngài sẽ khai triển đức tin chúng ta trở
nên mạnh mẽ hơn, vững mạnh hơn.
Lời cầu nguyện của các tông đồ:
"Lậy Thày, xin thêm đức tin cho chúng con". Chúng con đang sống giữa
cảnh đời với nhiều thách thức, làm cho chúng con có thể bị lung lay; lung lay
trong đức tin hay lạc mất đức tin.
Bài Phúc âm hôm nay nơi phần hai gợi
lại cho chúng ta một bí quyết thêm nữa, đó là để phát triển đức tin cần phải có
sự khiêm tốn. Khiêm tốn trước nhan Chúa, kể mình như không có công trạng gì để
khoe với Chúa hay để đòi buộc Ngài phải làm điều này điều nọ cho chúng ta.
Nhưng như là người đầy tớ trung tín khiêm nhượng, chu toàn những bổn phận Chúa
trao phó cho chúng ta và nhìn nhận rằng, tất cả trong đời sống chúng ta đều là
ân sủng của Chúa. Chúng ta khiêm tốn đón nhận, dù với những khuyết điểm. Chúng
ta có đón nhận mọi hồng ân Chúa ban cho chúng ta, để rồi từ đó nhờ ơn Chúa
chúng ta phát triển đức tin thêm lên mãi.
Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng
con. Xin Chúa giúp mỗi người chúng con được vững mạnh hơn trong đức tin mà giờ
đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh Tin Kính.
14. Đức tin và khiêm nhường
Có một vị ẩn tu nổi tiếng bên Ai Cập
trong những thế kỷ đầu của Kitô giáo, ngài là một con người luôn lấy sự khiêm
nhượng làm nền tảng cho tòa nhà tu đức. Một hôm, ngài và một số đệ tử cùng đi
dạo trong sa mạc, thình lình có một con rắn lớn xuất hiện như muốn cản đường
họ. Với phản ứng tự nhiên, tất cả mọi người kể cả vị thánh đều bỏ chạy.
Vài năm sau, vị ẩn tu đang hấp hối trên
giường bệnh, các đệ tử hỏi ngài như sau:
- Thưa cha, hẳn cha còn nhớ ngày nọ khi
chúng ta gặp một con rắn rất lớn, tất cả mọi người đều sợ hãi và bỏ chạy. Chúng
con không hiểu tại sao cha cũng bỏ chạy. Phải chăng cha cũng run sợ như chúng
con.
Con người thánh thiện ấy trả lời như
sau:
- Không! Cha không hề sợ hãi trước con
vật ấy. Thế tại sao cha cũng bỏ chạy như chúng con.
Vị ẩn tu đang hấp hối giải thích như
sau:
- Lúc ấy cha nghĩ rằng, thà bỏ chạy còn
hơn là dung dưỡng cho tính kiêu ngạo sẽ chồi lên trong cha sau này.
Kitô giáo đề cao sự khiêm nhượng như
một trong những nhân đức nền tảng mà người tín hữu Kitô phải luôn trang bị cho
mình. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu muốn các môn đệ đề cao cảnh giác
trước tính kiêu ngạo của những người biệt phái và luật sĩ. Họ quan niệm Thiên
Chúa như một chủ chăn hà khắc, chi li, thưởng phạt tùy theo công đức của mỗi
người. Chính vì thế mà họ coi những việc lành phúc đức như ăn chay, cầu nguyện,
hãm mình, bố thí... là những việc lành mà Thiên Chúa ân thưởng bội hậu cho họ.
Sự giàu có và địa vị cao trọng của họ
trong xã hội được họ xem như là một thứ ân thưởng rất công bình và hợp lý mà Thiên
Chúa dành cho họ. Đánh giá như thế về công nghiệp của mình nên những người biệt
phái và giàu có sẽ nhìn những người nghèo khổ bần cùng trong xã hội như những
người tội lỗi bị bàn tay công thẳng của Thiên Chúa đang đè nặng trên họ.
Đối lại với những tính toán khôn lường
và khôn ngoan ấy của những người biệt phái và giàu có, Chúa Giêsu đề ra lòng
tin tưởng vô điều kiện mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Qua hình ảnh
của người đầy tớ sau khi đã vất vả nhọc nhằn suốt ngày ở đồng áng, để rồi khi
về nhà còn phải hầu hạ phục vụ ông chủ, Chúa Giêsu có ý nói rằng, tương quan
giữa con người và Thiên Chúa là một tương quan chủ tớ.
Thiên Chúa mà Chúa Giêsu muốn bày tỏ
cho chúng ta là một người Cha yêu thương, nhân từ. Một Thiên Chúa là Cha yêu
thương chỉ muốn con người luôn đặt tin tưởng phó thác nơi Ngài mà thôi. Sau khi
đã làm hết phận sự của mình, người đầy tớ chỉ có thể thốt lên: "Tôi chỉ là
một đầy tớ vô dụng".
Hình ảnh của người đầy tớ tự cho mình
là người vô dụng mà Chúa Giêsu sử dụng trong mạch văn này có ý nói rằng, con
người không có bất cứ quyền nại đến công nghiệp nào của mình để buộc Thiên Chúa
ban ơn cho mình. Thiên Chúa ban ơn cho con người một cách nhưng không, và để
đáp lại ân huệ của Ngài, con người chỉ có thể nói lên lòng tri ân và phó thác mà
thôi. Tất cả cuộc sống của mình, tất cả những gì mình làm được, con người chỉ
có thể và dâng lên Thiên Chúa như một đáp đền và phó thác.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta điều
chỉnh lại quan niệm về Thiên Chúa mà chúng ta đang có, cũng như cách diễn tả niềm
tin của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không tính toán so đo với Chúa trên
cách sống đạo của chúng ta. Phải chăng chúng ta đã không giơ tay cầu nguyện,
xin lễ, ăn chay, hãm mình, còn làm bao nhiêu những việc lành phúc đức khác để
cốt Thiên Chúa trả công và chúc lành cho những công việc làm ăn và cuộc sống
của chúng ta. Phải chăng có những lúc chúng ta tự phụ rằng, những thành công và
may mắn chúng ta đang có là một ân thưởng mà Thiên Chúa đã ban tặng vì công
nghiệp và hy sinh của chúng ta.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào mối
tương quan yêu thương với Thiên Chúa. Tình yêu đích thực không bao giờ so đo
tính toán hơn thiệt. Tình yêu đích thực luôn mời gọi niềm tin tưởng và phó
thác. Qua đó, con người mới thể hiện được chính lòng khiêm nhượng đích thực của
Kitô giáo. Cùng với thánh Phaolô, chúng ta hãy luôn tâm niệm: "Nếu phải
vênh vang thì tôi chỉ vênh vang về những yếu hèn của tôi mà thôi, nhưng nhờ đó
mà quyền năng của Thiên Chúa được tỏ hiện".
15. Chú giải của Noel Quesson
Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng
Thánh Luca vẫn luôn tả lại "cuộc
hành trình cao cả và sau cùng" lên Giêrusalem của Đức Giêsu. Ơ đây, Luca
dùng một công thức trịnh trọng để dẫn nhập vào câu chuyện sắp kể.
Sau khi đã nói với những người Pharisêu
(Lc 16,1-31) kế đó với các môn đệ (Lc 17,14), Đức Giêsu nói với các "Tông
đồ". Trong các Tin Mừng khác, danh hiệu này chỉ dành cho nhóm Mười Hai và
chỉ nói một lần. Còn Luca dùng sáu lần trong Tin Mừng của ngài và hai mươi tám
lần trong sách Công vụ Tông đồ. Dưới ngòi bút của ngài, chỉ Nhóm Mười Hai mới
có quyền có danh hiệu ấy: Họ là chứng nhân chính thức của Tin Mừng của Đấng
Phục sinh cho đến tận cùng trái đất. "Apostoloi" trong tiếng Hy Lạp
có nghĩa là "những người được sai đi".
Trong đời sống hằng ngày, tông đồ là
một vai trò nặng nề trách nhiệm: Không ai có thể tự ban cho mình chức vụ đó.
Trong Giáo Hội tiên khởi, người ta không thể không ý thức về đặc quyền không
thể chuyển giao và không thể tuyền lại được đặt trên Nhóm Mười Hai: Tính chất
chính thống của "sứ vụ" và của việc "sai đi" do đích thân
Đức Giêsu ban cho. Chính Người đã chọn họ và đã sai họ đi. Họ là các
"chứng nhân" của Người. Họ dã nghe lời Người giảng dạy. Họ có thể nói
lại: Những lời ấy đến trực tiếp từ Người. Họ có những cử chỉ của Người. Họ có
thể lặp lại những cử chỉ ấy. Vẫn luôn là những cử chỉ của Người. Nhất là họ
thấy Người sống động sau khi đã sống lại: Họ không thể không cao rao điều đó
cho đến tận cùng trời cuối đất.
Theo một ý nghĩa loại suy, Giáo Hội
ngày nay yêu cầu mọi Kitô hữu trở thành các "tông đồ". Nhưng những
yêu sách của tính chất chính thống còn mãi trong sự súc tích của chúng: Tôi
cũng thế, tôi được đích thân Đức Giêsu sai đi... để trở thành chứng nhân của
Người, của tư tưởng, lời nói, cử chỉ, sự cứu chuộc và tình yêu của Người.
Các Tông Đồ thưa với Chúa Giêsu rằng:
"Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con"
Danh xưng "Chúa" chỉ xuất
hiện một lần trong Matthêu và Maccô để chỉ Đức Giêsu khi còn sống. Luca dùng
danh xưng ấy mười chín lần trong Tin Mừng ngài. Nhưng từ này không được sử dụng
bởi tình cờ: Ngài luôn luôn muốn chỉ đến vinh quang của Đấng Phục sinh.
Hơn nữa, lời cầu xin của các tông đồ
cũng không tầm thường. Đây là lần duy nhất mà người ta thấy bạn hữu của Đức
Giêsu nói với Người một lời "cầu xin", "như thể" Người là
Thiên Chúa. Bằng một sự tham dự trước, họ cầu xin Đức Kitô trong vinh quang Tin
Mừng, với Đấng mà sau này họ đã khám phá sự đồng nhất mầu nhiệm với Đức Chúa.
Chúng ta chớ quên rằng Đức Giêsu đi lên Giêrusalem, sự kết thúc đến gần.
"Lạy Chúa, xin thêm lòng tin cho
chúng con".
Trở thành tông đồ, không đơn giản là
một quyết định của con người.
Trở thành chứng nhân của sự sống lại
trước tiên không do bởi một sự hiển nhiên duy lý áp đặt như khi người ta đơn
giản thừa nhận một sự kiện lịch sử bắt buộc.
Chỉ có đức tin mới mở ra cho những thực
tại thánh thiêng ấy và do đó siêu nhiên, bên trên mọi thứ duy lý của khoa học.
Và đức tin là một "ơn của nhiên Chúa" "Lạy Chúa, xin thêm lòng
tin cho chúng con!"
Vậy thì ai, nếu không phải là chính
Thiên Chúa đã có thể biến đổi các tông đồ sau sự bỏ trốn và chối bỏ thảm hại
của họ?
Vậy thì ai nếu không phải là Thiên
Chúa, đã làm họ trở thành những "chứng nhân can đảm" đến độ chịu tử
đạo? Không, đức tin không phải là một điều hiển nhiên, một điều chinh phục
được, một sự căng thẳng của trí tuệ và ý chí con người. Đức tin là sự đón nhận
khiêm tốn một ân huệ, một ân sủng. Điều đó không có nghĩa con người không làm
gì cả: "đón nhận" là một hành động tích cực cao độ của con người. Bạn
không phải là ánh sáng. Nhưng nếu bạn khép cửa lại thì mặt trời muốn vào nhà
bạn để chiếu sáng sẽ không bao giờ có thể vào được. Đức tin là một mặt trời.
Một "ơn" luôn luôn được ban tặng cho tất cả mọi người. Nhưng phải mở
cõi lòng mình ra. "Ơn của Thiên Chúa", sáng kiến không mất tiền và
siêu nhiên nên đức tin phải được "cầu xin": Lời cầu nguyện là cánh
cửa sổ của đức tin; phải được mở ra để đón nhận ơn Thiên Chúa. "Lạy Chúa,
xin cho con đức tin. Lạy Chúa, xin thêm đức tin cho chúng con..."
Chúa đáp: "Nếu anh em có lòng tin
lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: 'Hãy bật rễ lên, xuống dưới
biển kia mà mọc', nó cũng sẽ vâng lời anh em
Một hình ảnh khó quên theo đúng kiểu
mẫu Palestine, và rất đạt trong văn phong dùng nghịch lý của Đức Giêsu. Hạt cải
là loài "nhỏ nhất trong các loại hạt" (Mc 4,31). Còn cây dâu là cây
rất khó bật rễ, theo các câu nói của những giáo trưởng Do Thái. Dĩ nhiên, Đức
Giêsu ở đây không khuyên người ta cầu xin những phép lạ giật gân: Người không
bao giờ dời cây dâu xuống biển; và nhiều lần, Người đã từ chối các "dấu
chỉ" kỳ diệu mà người ta yêu cầu Người. Nhưng bằng hình ảnh này, Người
mạnh mẽ nói với chúng ta rằng đức tin mở chúng ta cho điều bất khả, cho Thiên
Chúa.
Một đức tin nhỏ nhất còn mạnh hơn mọi
cộng việc của con Người bởi vì sự tham gia vào chính sức mạnh của Thiên Chúa là
một việc lớn lao. Thật vậy, sau khi Chúa sống lại, hiệu quả đức tin của các
Tông đồ không cân xứng với khả năng nghèo nàn của con người họ. Vốn là những
người không có ảnh hưởng, quyền lực, phương tiện tài chính, tổ chức, báo chí,
truyền hình, tóm lại không gì cả... thế mà họ đã thay đổi dòng lịch sử. Ngày
nay, bởi sự kiện lịch sử này và bởi lời của Đức Giêsu, chúng ta được mời gọi từ
bỏ các phương tiện của quyền lực, không trông cậy vào các phương pháp về phương
tiện tông đồ tinh xảo nhất và được chương trình hóa tốt nhất... để chỉ dựa vào
đức tin và mở lòng ra với đức tin bằng lời cầu nguyện.
"Các bạn hãy nhìn xem: Một trinh
nữ sinh con, một người được sinh ra từ Thiên Chúa; thiên đàng ở giữa chúng ta;
chỉ còn một dân tộc... Chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc
trong biển, những người ăn mày trở thành những ông vua, những kẻ có quyền thế
bị lật đổ, người ta chia sẻ các kho tàng... Các bạn hãy nhìn: nước biến thành
rượu và rươụ trở thành máu, bánh hóa ra nhiều và dân chúng không còn đói nữa...
chỉ cần một chút đức tin và các bạn sẽ thấy cây mọc trong biển, các sa mạc đầy
hoa, người ta gặt lúa vào mùa đông và kho lẫm đầy tràn...". Chỉ cần một
chút đức tin, nhỏ như một hạt cải để thấy những người chán nản lấy lại niềm hy
vọng, những người tội lỗi đứng dậy, những con đường không lối thoát được mở ra,
chiến tranh chấm dứt, tình yêu được tái sinh... vâng, cây mọc trong biển, núi
dời chỗ. Những ngọn núi của sự sợ hãi, ích kỷ và đê tiện. Thế giới đang khủng
hoảng! Giáo Hội đang khủng hoảng? Chỉ cần một chút Đức tin... Gia đình đang
khủng hoảng! Học đường đang khủng hoảng. Kinh tế đang khủng hoảng? Sự chết
chiến thắng, thập giá trống rỗng và trần trụi, nhưng mộ Người trống rỗng, mở ra
và Người đứng đó, bên kia biển! Và "cây cối nhảy múa vui mừng" (Thánh
Vịnh 95).
Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày
hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó: 'Mau vào ăn cơm đi',
chứ không bảo: 'Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong
đã, rồi anh hãy ăn uống sau
Trước tiên chúng ta cứ để cho mình công
phẫn vì sự nghiêm khắc đó. Dĩ nhiên hoàn cảnh của nô lệ ở Palestine vào thời
Đức Giêsu ít khắc nghiệt hơn ở trong thế giới La Hy vào thời của Thánh Luca nơi
mà một hoàn cảnh lệ thuộc của những nô lệ thật bi đát đến nỗi chúng ta khó mà
tưởng tượng tình hình đó lại phổ biến như thế. Người nô lệ là "vật sở
hữu" của ông chủ mà ông chủ không phải trả lương, cũng không biết ơn.
Cần phải nói thêm rằng chúng ta không
có quyền dựa vào những lời nào đó của Đức Giêsu để biện minh cho những thái độ
chống đối lại xã hội ngày hôm nay. Những đoạn Tin Mừng biện hộ cho tình yêu
thương, sự chia sẻ, sự tôn trọng người khác có quá đủ.
Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì
nó đã làm theo lệnh truyền sao?
Lạy Chúa, phải đấy. Phải biết ơn. Chúa
cũng biết vậy mà: Nhưng Chúa có ý đinh nói với chúng con một chân lý rất quan
trọng và để nói với chúng con điều ấy, Chúa dùng những hình ảnh nghịch lý hầu
như khó bênh vực được theo những chuẩn mực của con người như chúng con.
Đối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất
cả những gì theo lệnh phải làm
Lạy Chúa, Chúa muốn nói về điểm này.
Vấn đề không phải là một bài học về các quan hệ xã hội! mà là một bài học về
các quan hệ giữa chúng ta với Thiên Chúa: Đức Giêsu là con người hướng về Thiên
Chúa hoàn toàn và triệt để Người phá bỏ những thói tự phụ nực cười của chúng
ta. Người đặt mọi vật trở về vị trí chân thật của chúng ta. Lừa phỉnh mình làm
gì cho vô ích. Thiên Chúa là tất cả. Tôi không là gì cả trước mặt Người.
Hơn bao giờ hết, ngày hôm nay chúng ta
phải lắng nghe sự thật hiển nhiên đó. Thiên Chúa là "ông chủ"! Hình
ảnh này khắc khổ nhưng chân chính và chúng ta không nên đặt nó đối lập với
nhiều hình ảnh khác qua đó Đức Giêsu nói về Thiên Chúa như một "người
cha", một "người chồng", kể cả một "người phục vụ":
"Chủ nhà sẽ làm gì? Thầy bảo thật anh em: chủ sẽ thắt lưng, đưa họ vào bàn
ăn và đến bên từng người mà phục vụ " (Lc 12,37). Chúng ta phải chấp nhận
những mâu thuẫn bên ngoài đó.
Vâng, lạy Chúa, con chấp nhận đặt mình
trước mặt Chúa như một người đầy tớ hoàn toàn nhỏ bé, chăm lo thực hiện với
lòng trung tín tất cả những gì mà Chúa đã truyền cho con. Như Đức Maria, như
biết bao vị thánh sẵn sàng để "phục vụ". Thánh nữ Jeanne d'Arc đã
nói: "Phải phục vụ Thiên Chúa trước tiên". Đức Maria đã nói:
"Tôi đây là nữ tỳ của Chúa".
Hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô
dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi
Trước khi yêu cầu chúng ta, Đức Giêsu
đã sống điều đó: Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất
quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa nhưng mặc lấy thân nô lệ vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết" (Pl. 2,6).
Những người Pharisêu sau cùng đã tưởng
rằng họ đáng hưởng thiên đàng bới những công phúc của họ: Có qua có lại mà. Vả
lại Thiên Chúa là Đấng Hoàn Toàn Khác, Đấng không tính công để trả lại cho
chúng ta, Đấng mà không một ai có thể sai khiến. Tự phụ rằng mình có một quyền
năng đủ là ma thuật hay không là ở trước mặt một "thần tượng" chứ
không phải trước mặt Thiên Chúa.
Thái độ chân thật duy nhất trước Thiên
Chúa là tuyệt đối không đòi tính công, là hoàn toàn vô tư. Trở thành người đầy
tớ theo cách của Đức Giêsu không phải là nhục nhã: Phục vụ, chính là thống trị!
16. Lòng tin và thái độ sẵn sàng phục
vụ
(Suy niệm của Lm FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn Lc 17,7-9 [10] thường được
trích như là một "dụ ngôn". Kiểu gọi này được biện minh vì dựa trên
một lời hư cấu về một cuộc gặp gỡ tưởng tượng giữa một ông chủ và những người
đầy tớ làm việc ngoài đồng; lời này có tầm quan trọng đối với thế giới tôn
giáo. Trong khi câu chuyện của Đức Giêsu thì hư cấu, nó lại phản ánh tương quan
ông chủ-đầy tớ trong thế giới lúc ấy. Cử tọa rất hiểu những chờ đợi của ông chủ
đối với đầy tớ của ông.
Tác giả Lc đã đặt dụ ngôn này ở cuối
một vài lời nói không liên kết với nhau tại nguồn (cc. 1-6). Tuy nhiên, bài dụ
ngôn của chúng ta bắt đầu với câu hỏi của Đức Giêsu ở c. 7, hẳn là ít ra phải
liên hệ với c. 6, bởi vì câu hỏi của Đức Giêsu đi theo c. 6 mà không có chỗ
nghỉ hoặc một lời dẫn nhập.
Những gì chúng ta đọc được ở cc. 5-6
liên hệ đến đức tin. Các môn đệ xin đức tin, nhưng qua câu hỏi, ta hiểu là họ
đã có đức tin. Nhưng lời của Đức Giêsu dường như lại gợi ý rằng họ có ít đức
tin hơn họ tưởng; thậm chí họ không có đức tin lớn bằng hạt cải, là thứ hạt
giống nhỏ nhất. Lý do khiến các ông xin thêm đức tin là vì nội dung lời rao
giảng trước đó của Đức Giêsu (tha thứ cho người xin tha, bất kể số lần) rất khó
tuân theo. Có thêm đức tin, họ sẽ có thể vâng theo. Đức Giêsu không phủ nhận
giá trị của việc gia tăng đức tin, nhưng Người quả có nghi ngờ là các ông không
có đủ đức tin để vâng lời Thiên Chúa, là Chủ của họ và đối tác ký giao ước với
họ.
Lời than thở này của Đức Giêsu về đức
tin của các môn đệ gợi ý là có một dây liên kết với bài dụ ngôn. Nhận ra rằng
các môn đệ hiểu lầm là các ông đã có đức tin, mà thật ra các ông không có một
đức tin để luôn luôn vâng lời, Đức Giêsu tận dụng khái niệm "vâng
lời" mà đưa ra một dụ ngôn liên hệ trực tiếp đến tư cách môn đệ: họ là
những đầy tớ. Theo một nghĩa nào đó, đối với các đầy tớ, vâng theo các lệnh của
ông chủ thì không khó khăn gì. Nhưng phải nhìn xa đến việc vâng lời chủ trong
cả những hoàn cảnh khó khăn. Thực tại ông chủ-đầy tớ là một ví dụ tốt cho việc
sống đời sống tôn giáo: đầy tớ phải hành động như đầy tớ. Các môn đệ đáng nhận
lời Đức Giêsu chỉ trích về tình trạng thiếu đức tin, nhưng qua bài dụ ngôn, họ
được yêu cầu nhìn đến bản thân để thấy rõ sự thật của họ: họ là những đầy tớ
phải vâng lời Đức Chúa. Những giáo huấn của Đức Giêsu di trước cc. 5-6 rất khó
nghe, nên đòi hỏi tin tưởng vào sự khôn ngoan của Đức Giêsu và qua Người, vâng
lời Thiên Chúa. Có ai nghĩ rằng mình có đức tin mà lại không vâng theo các giáo
huấn của Đức Giêsu? Đúng ra, chúng ta phải lắng nghe Đức Giêsu như là những đầy
tớ, cho dù các khó khăn của các điều răn của Người có thế nào. Hiểu như thế, dụ
ngôn có một đường nối với những gì đi trước: giáo huấn thì cứng rắn (không được
làm bất cứ điều gì làm suy yếu đức tin của người thân cận do không tha thứ),
nhưng đây là ý muốn của Chúa, và chúng ta, những đầy tớ của Người, chúng ta
biết vai trò của mình và vâng phục.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Đức tin (17,5-6);
2) Dụ ngôn Người tôi tớ (17,7-10).
3.- Vài điểm chú giải
- xin thêm lòng tin (5): Câu này có thể
hiểu là: xin thêm đức tin vào niềm tín thác mà chúng con đã có, hoặc thêm tin
tưởng vào những ân huệ khác mà chúng con đã lãnh nhận. Dựa theo văn cảnh, có
thể ưu tiên hiểu theo nghĩa đầu.
- Hạt cải (6): Tiếng Hy Lạp là kokkos
sinapeôs, tiếng Pháp là graine de moutarde, tiếng Anh là mustard seed. Cây
sinapi (ta tạm dịch là "cây cải") là một loại cây thông dụng bên
Paléttina, có thể cao tới ba hoặc bốn thước, dạng mộc với các cành tỏa rộng.
Hạt của nó không phải là nhỏ nhất trong các loại hạt, nhưng nhỏ nhất trong các
loại hạt được người ta gieo trồng, được dùng làm mù-tạc và được tục ngữ Do Thái
dùng mà chỉ những gì nhỏ nhất.
- cây dâu (6): Từ Hy Lạp sykaminos (1 V
10,27; 1 Sb 27,28 ... Bản LXX) để dịch từ Híp-ri shiqmâh; thế mà shiqmâh là
"cây sung" (HL sykomorea, "sycamore"). Vậy hẳn sykaminos ở
đây cũng là sykomorea ở Lc 19,4: tác giả Lc dùng không phân biệt hai từ này. Dù
sao, tác giả muốn nêu ra hình ảnh một cây khá to.
- đầy tớ (7): Tiếng Hy Lạp là doulos:
người nô lệ hoàn toàn lệ thuộc người chủ và đón nhận mọi sự từ người chủ như
những ân huệ (x. Tv 123,2). Vào thế kỷ i, xã hội được phân chia thành các giai
cấp, chủ nhân và đầy tớ. Đa số các công nhân là đầy tớ của một ông chủ thì sống
trong một ngôi làng và ra đi làm việc cho ông chủ, rồi lại trở về làng với một
số tiền nhỏ là công lao động. Đôi khi những người này chờ nơi quảng trướng để
mong có ông chủ nào thuê họ, vào bất cứ lúc nào. Một loại đầy tớ khác, đó là
người sống trong nhà của chủ, nên không có tiền công
- lại bảo nó...? (7): Câu hỏi này chờ
đợi câu trả lời là "không".
- Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn...? (9):
Câu hỏi này chờ đợi câu trả lời là "không".
- vô dụng (10): Từ Hy Lạp là achreios
có nghĩa chữ là "vô ích, vô dụng" (useless), nhưng ở đây, nghĩa thích
hợp hơn, đó là "không sinh lợi lộc" (unprofitable), bởi vì chỉ làm
đúng bổn phận. TOB dịch là quelconque (= bon à rien), NAB dịch là unprofitable,
New International Version dịch là unworthy. Dịch là "vô dụng" dường
như không đúng, vì ba lý do: 1) Người đầy tớ trong dụ ngôn đã tỏ ra có ích vì
làm việc trong cánh đồng suốt ngày; 2) Trong việc chúng ta vâng lời Thiên Chúa,
Người không bao giờ gọi chúng ta là "vô dụng" cả; Kinh Thánh không có
chỗ nào ghi nhận như thế cả; 3) Từ ngữ Hy Lạp achreios này rất hiếm, nên trong
văn chương Hy Lạp, không có ví dụ để giúp xác định ý nghĩa đúng của nó. Dựa vào
ngữ cảnh, co thế hiểu "vô dụng" đây là người đầy tớ không có quyền gì
mà yêu cầu được đối xử khác với những gì tư cách anh cho anh được hưởng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Đức tin (5-6)
Chúng ta không biết động lực nào đã
thúc đẩy các tông đồ xin Đức Giêsu thêm lòng tin cho các ông. Rất có thể đó là
những khó khăn trong cuộc sống của những người đi theo Đức Giêsu, như ta hé
thấy ở Lc 17,1-4. Đức Giêsu đã trả lời các tông đồ không phải bằng cách cho một
định nghĩa về đức tin mà bằng cách ca ngợi sức mạnh của lòng tin, với những
hình ảnh có vẻ phi lý; Người nhấn mạnh hơn nữa tầm quan trọng của đức tin. Nếu
người ta có một lòng tin tưởng chân chính và thực hữu nơi Thiên Chúa, thì sẽ
xảy ra điều không sao làm được theo các tiêu chuẩn loài người. Để diễn tả điều
này, Đức Giêsu dùng các hình ảnh là "chuyển núi dời non" (x. Mt
17,20) hoặc "nhổ bật rễ cây dâu mà trồng xuống biển". Người muốn nói
rằng lòng tin, dù nhỏ bé, luôn luôn là hiệp thông với Thiên Chúa, tức là thông
dự vào quyền lực của Ngài, mà đối với quyền lực Thiên Chúa thì không có gì là
giới hạn cả. Cho dù Thiên Chúa có đặt người môn đệ trước những nhiệm vụ và đòi
hỏi nhìn bề ngoài thì thấy không thể làm được, Ngài vẫn có thể giúp họ có khả
năng thực hiện được. Cho dù Ngài hứa một điều loài người thấy là không thể làm
được, Ngài vẫn có thể làm được: trong dạng triệt để nhất, điều này xảy ra với
việc kẻ chết sống lại. Chính vì thế Đức Giêsu đã nói với những kẻ được Người
giúp đỡ: "Lòng tin của con đã cứu con" (Lc 7,50; 8,48; 17,19; 18,42).
* Dụ ngôn Người tôi tớ (7-10)
Với công thức Người chọn để đưa vào bài
dụ ngôn, Đức Giêsu lôi kéo cử tọa dấn thân ngay; họ được mời gọi hãy phán đoán.
Đây là kỹ thuật thường được Đức Giêsu vận dụng. Họ đều đã trải qua kinh nghiệm
Đức Giêsu mô tả, nên có thể trả lời câu hỏi. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng câu
chuyện, trong khi là một lời mời gọi trực tiếp gửi đến các thính giả, cũng nhắm
đưa tới câu trả lời chính Đức Giêsu cung cấp ở c. 10.
Dụ ngôn được kể trong các câu 7-10 có
thể coi như một xác định lập trường đối lập lại với giáo lý của người Pharisêu
về việc ban thưởng cho các việc lành (x. Lc 18,18: "tôi phải làm
gì?"; Lc 18,11-12: người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện). Nền tảng của
tương quan của chúng ta với Thiên Chúa hệ tại sự kiện Ngài là Chúa của chúng
ta, nên chúng ta phải quan tâm đến và thi hành ý muốn của Ngài. Chúng ta không
phải là những chủ nhân tự do và độc lập, vì Thiên Chúa luôn luôn có điều gì đó
để nói với chúng ta. Tuy nhiên, trước khi yêu cầu chúng ta điều gì, Ngài đã ban
cho chúng ta rất nhiều ân huệ rồi: sự sống, các khả năng... Chúng ta mắc nợ
Thiên Chúa về cuộc sống, nên từ nơi Ngài, phát xuất các bổn phận của chúng ta.
Ngài xác định cho chúng ta đâu là con đường phải theo và đâu là mục tiêu. Chúng
ta chịu trách nhiệm trước nhan Ngài và chúng ta sẽ phải trả lời với Ngài. Đồng
thời, chúng ta cũng phải biết rằng Ngài không yêu cầu chúng ta điều vì võ đoán
và phi lý. Chúng ta phải tôn trọng Ngài và nhìn nhận Ngài là
Đấng tạo hóa và Chúa tể của chúng ta.
Đối với người anh em, chúng ta phải kính trọng và gán cho họ phẩm giá của chính
chúng ta. Như vậy, chúng ta sẽ phải hành động như những người quản lý trung
thành, có trách nhiệm. Khi làm mọi việc, chúng ta phải ý thức rằng mình chỉ làm
các việc bổn phận mà thôi. Tuyệt đối không bao giờ được tưởng rằng mình đã ban
một ân huệ cho Thiên Chúa khi tuân giữ các giới răn của Ngài và chu toàn các
bổn phận của chúng ta.
Dụ ngôn này cũng được các nhà chú giải
hiểu là được ngỏ riêng với các thủ lãnh trong Hội Thánh: Các ngài đừng dừng lại
nghỉ ngơi vì cho rằng mình đã làm đủ rồi. Đức Giêsu gợi lại hoàn cảnh xã hội
thời đó, có chủ nhân và nô lệ với tương quan được xác định rõ ràng. Nô lệ luôn
luôn phải đưa mắt nhìn về phía chủ mà đón nhận mọi mệnh lệnh. Khi thi hành các
mệnh lệnh, nô lệ chỉ làm "việc bổn phận" mà thôi. Tất cả thì giờ, tài
nguyên, sức lực của con người phải được tận dụng mà phục vụ Thiên Chúa. Rồi khi
đã chu toàn công việc, con người không được khoe khoang hoặc đòi hỏi những
quyền lợi hoặc phần thưởng đặc biệt. Tác giả muốn khẳng định rằng nơi người tín
hữu, mọi sự đều là ơn Chúa, lòng tin cũng là một ơn Chúa. Tất cả những gì con
người nhận được đều không hề tỷ lệ với những gì họ đã làm. Mọi sự đều là hồng
ân phát xuất từ lòng nhân lành và từ bi của Thiên Chúa, chứ không do một khoản
hợp đồng giao kèo nào cả.
+ Kết luận
Đức tin là niềm tín nhiệm không lay
chuyển rằng Thiên Chúa có quyền năng vượt mọi múuc độ loài người; Ngài đầy tình
yêu, Ngài không quên chúng ta, Ngài hướng dẫn chúng ta đến chỗ thành toàn. Với
cái nhìn đức tin, chúng ta hiểu mình chỉ là những tôi tớ, lại là tôi tớ "vô
dụng" vì chỉ biết làm những việc phải làm. Hiểu như thế chẳng hề làm chúng
ta nản chí, bởi vì chúng ta biết rằng mọi sự là của Thiên Chúa, là do Ngài.
Người tin vào Đức Giêsu và Thiên Chúa được thúc bách xác định bản than tùy theo
tương quan của mình với Thiên Chúa: người ấy là đầy tớ của Thiên Chúa và phải
vâng phục Ngài, cho dù giáo huấn của Ngài có khó khăn đến đâu. Người ấy không
là gì khác ngoài thân phận đầy tớ, và chỉ được vinh quang vì là đầy tớ. Người
ấy không vô dụng, nhưng luôn luôn là đầy tớ, và không là gì khác, trong tương
quan với các điều răn của Thiên Chúa. Thật ra, được làm việc cho Ngài đã là một
vinh dự rồi, thì sao lại còn chờ đợi có phần thưởng? Và như thế, cuộc sống mai
sau cũng là một hồng ân.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đứng trước các trách nhiệm cũng như
các khó khăn của cuộc đời, chúng ta noi gương các tông đồ, không tránh né,
không tìm cách giảm thiểu, nhưng xin Chúa Giêsu ban thêm đức tin. Chúng ta xin
Người giúp kết hợp sâu xa hơn với Thiên Chúa. Chỉ duy Thiên Chúa mới có thế
giúp đỡ chúng ta làm những việc mà người đời nghĩ rằng sức con người không sao
làm nổi.
2. Nhờ đức tin, người tín hữu mở lòng
ra đón lấy sự giúp đỡ của Đức Giêsu và như thế họ được chính quyền năng của
Người đến hỗ trợ. Cho dù đức tin của họ nhỏ bé, cho dù nó chỉ như một hạt cải,
nếu nó thực sự là đức tin đặt nơi Ngài, thì chính Thiên Chúa sẽ làm cho họ tiến
tới. Điều cần thiết là họ không khép lòng lại với Ngài, ít ra họ giơ bàn tay về
phía Ngài. Thiên Chúa sẽ không để họ phải té ngã. Ngài sẽ nắm chắc bàn tay của
họ và dẫn đưa họ tới đích.
3. Không chỉ khuyên chúng ta tin, Chúa
Giêsu còn cầu nguyện cho niềm tin của chúng ta, như Người đã từng nói với
Phêrô: "Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin" (Lc
22,32). Bằng cách đó, Đức Giêsu đưa lời thỉnh cầu của các môn đệ là được thêm
lòng tin đến chỗ thành toàn viên mãn. Chính Người ngỏ lời với Chúa Cha để gửi
gắm các môn đệ. Chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho mình, cho nhau, đồng thời
chúng ta cậy dựa vào lời chuyển cầu của Chúa Giêsu.
4. Khi đọc Dụ ngôn Người tôi tớ, chúng
ta không nên đi lạc sang đề tài "chủ nô" của triết học Tây phương,
cũng đừng chạnh lòng về mặt luân lý mà cho rằng Thiên Chúa chỉ coi chúng ta như
những nô lệ! Trong Tin Mừng Luca, không thiếu những đoạn văn nói về những tương
quan và thái độ của Thiên Chúa đối với con người với nội dung hoàn toàn khác
(x. Lc 11,5; 15,3-7; 15,11-32; v.v.). Ở đây, tác giả chỉ nhắc lại một hoàn cảnh
quen thuộc với các thính giả để rút ra những bài học thần học. Đó là: người tín
hữu, người môn đệ hoặc người tông đồ phải có thái độ khiêm tốn, mà không nô lệ,
ở trước nhan Ngài, nhất là đối với những đề nghị của Ngài.
5. Bởi vì Chúa Giêsu nhấn mạnh rằng
người môn đệ chỉ là một "tôi tớ" và là tôi tớ "vô dụng",
chúng ta hiểu rằng: chu toàn các nhiệm vụ được giao phó không nhất thiết bảo
đảm cho phần rỗi của mình; khi đã làm tất cả những việc được giao rồi, người
môn đệ vẫn ý thức rằng cuộc sống đang chờ mình ở bên kia thế giới cũng là một
ân huệ. Như thế, quả thật, không có chỗ nào dành cho sự vênh vang, tự hào tự mãn
cả.
6. Đôi khi chúng ta có lối suy nghĩ y
như thể nếu chúng ta cầu nguyện, nếu chúng ta ra sức bước theo nẻo chính đường
ngay, thì Thiên Chúa phải biết ơn chúng ta. Quả thật, Thiên Chúa vui mừng về
những cố gắng của chúng ta, nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể tự hào
rằng chúng ta đã làm cho Ngài vui thích. Thiên Chúa không hề lệ thuộc vào bất
cứ điều gì chúng ta làm cả. Ngài không cần lời cầu nguyện của chúng ta, Ngài
cũng không cần nỗ lực của chúng ta để sống với người khác. Chính chúng ta mới cần
sống cho tương hợp với ý nghĩa của đời sống chúng ta, để trở thành những con
người trung thực. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng Thiên Chúa không bao giờ
thua chúng ta về sự tốt lành và quảng đại. Là Đức Chúa, Ngài sẽ cho các tôi tớ
trung thành ngồi vào bàn ăn và phục vụ họ (Lc 12,37).
Lễ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
1. Quà tặng
Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy: Quà
tặng thường làm dịu lại cõi lòng con người, là một thứ nam châm hút tình cảm
của kẻ khác, là một loại keo dính, là một thứ dây cột chặt người khác lại với
chúng ta. Và Kinh Thánh đã đưa ra những mẩu chuyện điển hình: Giacop đã bảo con
đem dâng hoa trái lên quan đại thần, để người con của Simeon bị quan phạt được
tha thứ. Abigail cũng đã đem nhiều lễ vật dâng cho Đavit, để xin nhà vua xá tội
cho Nabal.
Còn chúng ta thì sao? Bước vào giữa
tháng 10, nhưng chúng ta đã dâng lên cho Mẹ được những gì? Chúng ta nên nhớ
rằng: Dâng kính Mẹ thì không bao giờ chúng ta bị thua lỗ, bị thiệt thòi. Cũng
như cha mẹ ở đời phải hy sinh nhiều vì con cái, chứ mấy khi ngược lại. Cha mẹ
bao giờ cũng yêu thương con cái nhiều hơn là con cái yêu thương cha mẹ.
Với niềm tin đó, chúng ta hãy đến với
Mẹ hôm nay vì không ai đến với Mẹ mà lại phải ra về tay không. Hãy mang theo
một thứ quà tặng đẹp lòng Mẹ nhất, đó là kinh Mân côi.
Như chúng ta đã biết kinh Mân Côi xuất
phát từ lời Chúa. Chẳng hạn kinh Lạy Cha là khuôn mẫu cho mọi tâm tình cầu
nguyện mà chính Chúa Giêsu đã truyền dạy cho chúng ta. Còn kinh Kính Mừng là
lời chào kính của sứ thần Gabriel, của bà Isave hợp với lời kêu xin của cộng
đồng dân Chúa. Rồi những sự việc đều là những biến cố trong cuộc đời của Chúa.
Và chúng ta có thể nói: Kinh Mân côi chính là cuốn Tin Mừng được rút gọn.
Ngoài ra kinh Mân côi là một lời kinh
bình dân, dễ nhớ, dễ đọc và dễ suy gẫm, nhờ đó mà cuộc đời chúng ta được thấm
nhuần tinh thần Phúc Âm, cũng như nhờ đó chúng ta tìm thấy nguồn nghị lực và
niềm hy vọng cho bản thân.
Hơn thế nữa, trải qua dòng thời gian
kinh Mân Côi đã đem lại biết bao nhiêu ơn lành cho cá nhân, cho xã hội, cho dân
tộc cũng như cho toàn thể nhân loại. Đặc biệt là trong phạm vi gia đình, bởi vì
gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội, là vườn ươm trồng cây đức tin cho con
cái. Đức Thánh Cha Piô XII đã diễn tả: Không cảnh nào êm đẹp cho bằng cảnh
tượng gia đình, mỗi khi màn đêm buông xuống, cùng nhau dâng lên những lời kinh
ca tụng Nữ Vương trời đất, nhờ đó mà mọi người trong gia đình sẽ xích lại gần
nhau hơn, cũng như sẽ được gặp nhau trong tình thương của Mẹ.
Từ những điều vừa trình bày chúng ta có
thể đi tới một kết luận: Yêu Mẹ là yêu kinh Mân côi. Bởi vì chỉ trong tình yêu
chúng ta mới thích lặp đi lặp lại một lời bất tận mà không nhàm chán. Vậy chúng
ta có lần hạt mân côi vì tình yêu mến Mẹ hay không? Chúng ta đã thực hiện lời
Mẹ truyền dạy hay chưa. Kinh mân côi phải trở nên như lễ vật Abel chúng ta dâng
tiến Mẹ mỗi khi chiều xuống. Mỗi lời kinh mân côi sẽ là như một hạt ngọc chúng
ta thu tích vào kho tàng thiêng liêng của chúng ta, mỗi lời kinh mân côi sẽ là
như một tấm ván đóng cho chúng ta con thuyền của Noe, để với con thuyền này
chúng ta sẽ vượt qua biển trần gian để tiến tới bờ bến vĩnh cửu là quê trời.
Ước gì lời kinh mân côi sẽ là lễ vật
thường xuyên chúng ta dâng kính Mẹ, hôm nay cũng như mai ngày, nhờ đó mà chúng
ta biểu lộ được lòng tôn sùng kính mến của chúng ta đối với Mẹ.
2. Lễ Mẹ Mân Côi
(Trích dẫn từ 'Sống Tin Mừng')
"Hỡi Maria, xin đừng sợ, vì Bà
được đầy ơn phước trước Thiên Chúa, Bà sẽ cưu mang và sinh hạ một con trai và
đặt tên trẻ ấy là Giêsu" (Lc 1,30-31).
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh
Nữ mà dấu chỉ của lời loan báo trước đây đã được thực hiện một cách sáng tỏ. Đó
là Đức Maria, Đấng làm tâm hồn chúng ta tràn đầy tin tưởng và niềm vui, cùng
thiên thần Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính Mừng Maria, Hãy Vui
Lên".
Qua lời chào và mời gọi của Thiên Chúa:
"Hỡi Maria, hãy vui lên", vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến. Như
vậy, làm sao Mẹ Maria không vui lên được khi biết chính mình đã được chọn để
thực hiện lời Chúa hứa, làm dấu chỉ loan báo hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta
chào Mẹ qua Kinh Kính Mừng, thì chính khi ấy chúng ta được tham gia vào niềm
tri ân và niềm vui của Mẹ đối với Thiên Chúa.
"Mẹ là Đấng Đầy Ơn Phước", vì
chính Mẹ được Thiên Chúa chúc phúc, Mẹ hoàn toàn thuộc về tôi tớ Giavê, như
được loan báo nơi sách tiên tri Isaia: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng Ta tuyển
chọn, Người đẹp lòng Ta mọi đàng" (Is 42,1). Mẹ được đầy ơn phúc vì Đấng
sắp ngự đến nơi Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Mẹ Maria là người được đầy
tràn niềm vui, vì Mẹ đã được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui là Ngôi Lời Thiên
Chúa Nhập Thể trong lòng Mẹ. Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ
mệnh của Mẹ như là dấu chỉ của niềm hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời
hứa của Ngài cho dân Israel. Suốt đời Mẹ là bài ca trung thành của Thiên Chúa,
như Mẹ đã thốt lên nơi nhà ông Zacaria: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài
đã trung tín với lời hứa cho Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà". Đó là
lời Mẹ đã từng suy niệm, khi tiên tri Isaia loan báo trước về biến cố cứu rỗi
sắp đến. Vì vậy, những lời Thiên Chúa ở cùng Bà". Giây phút quan trọng
nhất của lịch sử đã đến, đó là lúc Maria được hay tin Đấng là: "Emmanuel:
Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Mẹ vui mừng vì chính Đấng được gọi là
Emmanuel: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ở trong chính cung lòng Mẹ. Chúng ta hiệp
với Mẹ trong niềm vui mừng và cảm tạ Thiên Chúa, vì Ngài đã đến ở với nhân
loại.
"Hỡi Maria đừng sợ". Kinh
nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình không khỏi làm cho con người
run sợ, không những Mẹ cảm nghiệm, nhưng Mẹ còn được mạc khải cho biết giờ đây
lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Đây là một điều mà không bao giờ Mẹ dám nghĩ đến.
Nhưng Thiên Chúa đã mạc khải chính những ý định của Ngài cho Mẹ. Vì thế, Mẹ rất
vui mừng, nhưng niềm vui mừng ấy đi kèm với niềm run sợ, một sự run sợ thánh.
Kinh nghiệm sống đời Kitô của chúng ta
cũng có hai tâm tình này như Mẹ Maria: "Vui và Sợ". Mẹ Maria nhờ ơn
Chúa giúp để thắng vượt cái sợ và Mẹ đã phó thác tin tưởng hoàn toàn trong
Ngài. Xin Mẹ giúp chúng ta tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ
thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em xung quanh.
Lạy Cha là Chúa trời đất, chúng con
chúc tụng Cha, vì Cha đã không mạc khải những mầu nhiệm cao cả ấy cho kẻ khôn
ngoan kiêu ngạo, nhưng Cha đã mạc khải cho những kẻ bé mọn và khiêm tốn. Cha đã
chọn Đức Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con, nhờ lời cầu khẩn của Đức
Maira và nhân danh Đấng Emmanuel là Đức Giêsu Kitô, Đấng Thiên Chúa ở cùng
chúng con, xin cho chúng con nhận ra sự hiện của Người và tiếp rước Người đến ở
với chúng con.
Lạy Mẹ Maria, chúng con Kính Mừng Mẹ,
Đấng "Đầy Ơn Phước", Mẹ đã lãnh nhận mọi ơn lành của Thiên Chúa để
giúp chúng con chu toàn thánh ý Chúa. Thiên Chúa ở cùng Mẹ để Thiên Chúa ở cùng
với chúng con, chúng con sẽ cảm nhận được điều này như Mẹ nếu chúng con biết
sống trung thành với ơn gọi làm con cái Thiên Chúa.
Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn
sống trong niềm vui như Mẹ, đó là luôn có Chúa hiện diện bên cạnh trong cuộc
sống hằng ngày của chúng con. Amen.
3. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA ĐỨC MARIA
Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta
dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân
thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát
mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô
nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn
hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến,
không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.
Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ
thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ
dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để
Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa
mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa.
Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn
cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động
đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng
cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa "Xin
vâng". Lời thưa 'xin vâng' của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như
Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng
Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để
đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó
thác vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa
gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria
phải gánh chịu nhiều đau khổ.
Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ.
Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không
những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái
chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria
đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh
lặng vâng phục và phó thác.
Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ
Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng
mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.
Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm
giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ
ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác
không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận
tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?
Đối diện với những đau đớn ấy, chắc
chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải
chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó
thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.
Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị
dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là
con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con
ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức
Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.
Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12
tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để
thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã
trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa
Giêsu đã nói: "Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc
cho Cha con ư?". Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy
đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.
Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao
giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không
ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống: "Kẻ nghe
lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta".
Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu
như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái
độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên
hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập
những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.
Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria
phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn
khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa
tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên
Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được
mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức
Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa
Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu,
nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức
Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới
chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho
riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông
cậy vào Thiên Chúa.
Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria
từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất
của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên
Chúa.
Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn
lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy
chiến thắng vinh quang.
Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm
cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria
đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích
điểm của hành trình đức tin.
Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi
gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can
đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của
Đức Mẹ.
2) Tại sao con người phải chịu thanh
luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?
3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ
sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn?
4. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
MARIA, NGƯỜI NỮ THÁNH THỂ
Bài Tin Mừng tường thuật cuộc truyền
tin kết thúc bằng hai tiếng "Xin Vâng" của Đức Mẹ. Với hai tiếng
"Xin Vâng", cuộc đời Đức Mẹ hoàn toàn thay đổi. Từ nay Mẹ không còn
sống cho mình nhưng hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Mẹ kết hiệp chặt chẽ với
Thiên Chúa qua Chúa Giêsu. Và vì thế, Mẹ trở thành gương mẫu của lòng tôn sùng
và thực hành bí tích Thánh Thể.
Thật vậy, với hai tiếng "Xin
Vâng", Mẹ là gương mẫu trong việc đón nhận Thánh Thể. Khi đón nhận Ngôi
Hai Thiên Chúa vào lòng, Mẹ hoàn toàn tin tưởng thịt máu của bào thai Mẹ được
diễm phúc cưu mang trong lòng chính là Thiên Chúa. Như thế, Mẹ khuyên dạy ta
khi đón nhận Mình Thánh Chúa, hãy tin vững vàng ta đã đón nhận Thịt Máu của
Chúa Giêsu.
Với hai tiếng "Xin Vâng", tâm
hồn Mẹ trở nên ngôi nhà chầu đầu tiên được đón tiếp, cất giữ Chúa Giêsu Thánh
Thể. Đây chính là ngôi nhà chầu xinh đẹp nhất vì cung lòng thanh khiết của Mẹ
là một đền thờ nguy nga lộng lẫy. Hơn nữa việc luôn ghi nhớ và suy niệm những
điều thiên thần nói, giúp Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu trong lòng, biến Mẹ thành
một người chầu Mình Thánh liên tục. Như thế Mẹ khuyên dạy ta hãy năng chầu Mình
Thánh Chúa.
Sau khi thưa "Xin Vâng", Mẹ
vội và lên đường đi viếng bà thánh Elizabeth. Đây chính là cuộc rước kiệu Thánh
Thể đầu tiên. Cuộc rước kiệu thật đơn sơ, không kèn trống, không đông đảo,
nhưng đầy sốt sắng, đầy cung kính nên đã đem lại lợi ích phi thường: đem ơn cứu
độ đến cho ông thánh Gioan Baotixita còn trong lòng mẹ, làm cho mọi người tràn
đầy niềm vui. Như thế Mẹ nhắn nhủ ta kiệu Thánh Thể sốt sắng sẽ đem lại nhiều ơn
ích thiêng liêng.
Nhưng cũng với hai tiếng "Xin
Vâng", Mẹ luôn hướng về Chúa Giêsu. Từ khi còn trong bào thai cho đến khi
sinh ra trong hang đá Bêlem. Từ khi ấu thơ cho đến khi hoạt động công khai.
Việc Mẹ tất tả đi tìm Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem nói lên sự gắn bó mật
thiết. Mẹ coi Chúa Giêsu là lẽ sống. Mẹ không thể sống nếu thiếu vắng Chúa. Với
lòng tha thiết tìm kiếm Chúa, Mẹ khuyên dạy ta hãy yêu mến đến khao khát Chúa.
Vì Thánh Thể Chúa chính là nguồn sự sống của ta.
Với hai tiếng "Xin Vâng",
không những Mẹ vâng lời Thiên Chúa hoàn toàn, mà còn dạy mọi người biết vâng
lời Chúa. Nên tại tiệc cưới Cana, Mẹ khuyên nhủ gia nhân: "Người bảo gì
các con hãy cứ làm theo" (Ga 2,5). Thái độ hoàn toàn vâng phục đã được
Chúa thưởng công bằng phép lạ "nước lã hóa thành rượu ngon". Hôm nay
Mẹ cũng nhắc nhủ ta: Nếu Chúa đã dặn dò: "Các con hãy làm việc này mà nhớ
đến Thày" (Lc 22-19), thì hãy vâng lời Chúa, siêng năng tham dự thánh lễ,
chầu MTC, chịu lễ, chắc chắn Chúa sẽ làm phép lạ đổi mới đời các con như biến
nước lã thành rượu ngon.
Với hai tiếng "Xin Vâng", Mẹ
hoàn toàn kết hiệp với Chúa Giêsu, theo Chúa trên đường lên Núi Sọ và đứng dưới
chân thánh giá để nên một với Chúa Giêsu trong việc dâng hiến chính bản thân
mình, dâng những đau đớn khổ cực làm của lễ đền tội cho nhân loại. Ở đây Mẹ đã
sống mầu nhiệm Thánh Thể, mầu nhiệm tự hiến mình cho nhân loại. Như Chúa Giêsu,
tấm lòng tan nát của Mẹ đã trở thành tấm bánh bẻ ra ban cho nhân loại sự sống
mới. Như thế Mẹ dạy ta phải biết hiến thân chịu mọi đau đớn, vất vả trong đời
sống để nên một với Chúa Giêsu Thánh Thể. Việc kết hiệp với Chúa Giêsu Thánh
Thể để hiến dâng thân mình sẽ đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.
Và với hai tiếng "Xin Vâng",
một lần cuối cùng Mẹ vâng lời Chúa, nhận thánh Gioan làm con. Nhận thánh Gioan
là nhận cả nhân loại làm con. Vì thế Mẹ đã sống mầu nhiệm Thánh Thể khi hiệp
nhất với tất cả mọi người, nhận tất cả nhân loại vào gia đình mình, đón tiếp
mọi người vào đồng bàn trong bữa tiệc Thánh Thể, và trong bữa tiệc Nước Trời.
Hôm nay, Mẹ nhắn nhủ ta khi chịu lễ rồi hãy biết yêu thương đoàn kết vì tất cả
chúng ta được đồng bàn với Chúa, cùng ăn một bánh, cùng uống một chén với nhau.
Và tất cả chúng ta đều là các chi thể trong thân thể của Chúa. Tuy năm Thánh
Thể đã kết thúc, nhưng việc yêu mến sùng kính và nhất là việc sống bí tích
Thánh Thể vẫn tiếp diễn. Đặc biệt trong tháng Mân Côi, nếu ta yêu mến Đức Mẹ,
ta càng phải yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì Mẹ chính là mẫu gương yêu mến
Thánh Thể, đến nỗi Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ nhị đã gọi Mẹ là
"Người Nữ Thánh Thể". Nếu chúng ta siêng năng lần hạt Mân Côi, chắc
chắn Đức Mẹ sẽ hướng dẫn ta đến yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể, vì tất cả các mầu
nhiệm trong kinh Mân Côi đều hướng về Chúa Giêsu. Và mầu nhiệm 5 Sự Sáng đưa ta
trực tiếp tới bí tích Thánh Thể. Thật là đẹp khi ta lần hạt trước Thánh Thể. Vì
như Đức Mẹ đã khấn cầu cho tiệc cưới Cana được ơn phúc thế nào, hôm nay, trước
Thánh Thể, Đức Mẹ cũng khẩn cầu ơn phúc cho chúng ta như vậy.
Lạy Mẹ Mân Côi, xin dạy con biết yêu mến
Chúa Giêsu Thánh Thể và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Lời "Xin Vâng" của Đức Mẹ
biểu lộ niềm tin. Bạn có giữ vững được niềm tin trong những lúc gặp thử thách
để thưa "Xin Vâng" với Chúa trong đau khổ không?.
2) Gia nhân đã vâng lời Đức Mẹ
"Người bảo gì các anh cứ việc làm theo" nên đã múc nước lã mà không
hiểu gì. Bạn có sẵn sàng vâng lời Chúa làm những việc mà bạn không hiểu?
3) Khi hiện ra ở Fatima, Đức Mẹ đã mời
gọi ta thực hiện 3 điều. Bạn có sẵn sàng "Xin Vâng" để thực hiện
không?
5. Kinh Mân Côi: Góp phần xây dựng nhân
loại mới
(Suy niệm của Lm Px Đào Trung Hiệu)
Nói đến kinh Mân Côi, tôi nhớ đến mẹ
tôi. Bà là hình ảnh của người tín hữu bình dân Việt Nam: Bà quen dùng kinh mân
côi làm đơn vị đo chiều dài. Khi có người hỏi nhà thờ cách bao xa, bà trả lời:
"Đi được ba chuỗi năm chục". Nghĩa là phải đi bộ độ 45 phút, tính
nhẩm ra khoảng ba cây số. Nếu nguồn gốc của lễ Mân Côi ngày 7 tháng 10, bắt
nguồn từ việc các tín hữu Âu Châu thành công trong việc phòng thủ, trước sức
tiến công như vũ bão của quân đội Thổ Nhĩ Kỳ năm 1571, tại vịnh Lepante thời
thánh giáo hoàng Pio V. Thì cũng từ đó, Giáo hội cổ võ tín hữu dành trọn tháng
mười để đặc biệt cầu nguyện bằng chuỗi hạt quý giá này, và hơn thế nữa, cổ võ
chúng ta cầu nguyện bằng kinh Mân Côi trong suốt cuộc sống.
Kinh Mân côi là một hình thức cầu
nguyện đơn giản nhưng phong phú đã được Giáo hội phổ biến qua nhiều thế kỷ. Đơn
giản, vì bất cứ ai cũng dễ dàng thực hiện, dễ dàng đọc một mình trong mọi tình
huống, ở mọi nơi, mọi lúc, và dễ dàng khi cầu nguyện chung mà ai ai cũng có thể
tích cực tham gia. Nhưng kinh mân côi lại rất phong phú, vì có bao nhiêu sách
viết về kinh Mân Côi đã tìm ra trong các mầu nhiệm nguồn suy niệm dồi dào,
dường như không bao giờ cạn. Kinh Mân Côi chính là nguồn gia tăng sinh lực cho
con người và là lời ngợi ca cuộc sống.
Gương một nhà trí thức...
Mỗi người có thể rút ra một bài học qua
mẩu chuyện sau: Trên chuyến xe lửa đi Paris, có một chàng thanh niên mặt mũi
sáng sủa, trên tay ôm một chồng sách dày. Ngồi đối diện với anh là một cụ già,
đang cầm chuỗi Mân côi lâm râm đọc kinh. Chàng trai thấy chướng mắt lên tiếng
nói: "Bác ơi! thời buổi này mà bác còn đọc thứ kinh của đàn bà trẻ con ấy
nữa à!". Cụ già ngước mắt nhìn anh và trả lời: "Cám ơn cậu, cậu có vẻ
thông thái lắm, cậu giải thích cho tôi nghe đi".
Thế là chàng trai có dịp khoe về mình:
anh đang học năm cuối đại học Bách khoa; anh khuyên cụ già bỏ mấy thứ dị đoan
lẩm cẩm đi, vì rồi đây khoa học sẽ xây dựng một thế giới mới chứ không phải
những tôn giáo ảo tưởng của người xưa. Và chàng trai hăng say thuyết cho cụ
suốt nửa tiếng. Cụ già chăm chú nghe anh nói, đến khi sắp xuống xe, còn mời anh
khi nào rảnh đến nhà hướng dẫn thêm cho cụ và trao cho cậu một tờ danh thiếp.
Chàng trai bỗng thấy mình như từ trên trời rơi xuống, vì trên danh thiếp ghi
tên nhà khoa học mà anh suốt đời thán phục: "Louis Pasteur,Viện Hàn Lâm
Pháp"
Êm đềm mà thấm lâu...
Trong xã hội thực dụng hôm nay, nhiều
người đạo đức coi thường kinh mân côi. Họ nói: điều quan trọng của kitô hữu là
hiểu và sống Lời Chúa, là thực thi công bằng bác ái Phúc Âm. Không sai, nhưng
chưa chính xác. Thế nhưng, họ chưa hiểu ra sức mạnh êm đềm mà thấm lâu của
những lời kinh đơn giản này.
Ta biết các vận động viên và các cầu
thủ, dù thuộc bộ môn nào như bơi lội, đá banh, chạy đua... đều không thể bỏ
những bài tập thể dục căn bản là tập thở. Đọc kinh Mân Côi chính là thực hiện
một việc rất đơn giản như việc hít thở.
Các tôn giáo lớn như Hồi giáo và Phật
giáo đều có xâu chuỗi. Với những lời kinh ngắn gọn, người tín đồ có một khoảng
thời gian và không gian cần thiết để tiếp cận với Đấng tuyệt đối. Dù thiếu tập
trung, Đấng tuyệt đối vẫn làm công việc của Ngài. Chính việc hội ngộ với Chúa
cách thường xuyên này sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm của họ, và đem lại cho mọi
hoạt động của họ một giá trị mới.
Qua 20 mầu nhiệm Mân côi, kitô hữu ngày
càng được gắn bó sâu sắc hơn vào những biến cố chính trong công cuộc cứu độ.
Ngày này qua ngày khác, họ chiêm ngưỡng và học theo gương Đức Kitô nhập thể
trong ngày lễ Truyền Tin, theo gương Đấng Giáng Sinh tại Belem, Đấng bôn ba ra
giảng về Nước Trời, Đấng Hiến tế chính đời mình trên Thập Giá và sống lại vinh
quang. Họ chiêm ngưỡng đức Maria trên thiên quốc như một hứa hẹn cho tương lai
của giáo hội và nhân loại.
Hơn thế nữa, phụng vụ lễ Mân Côi qua
đoạn sách Công vụ Tông đồ (bài đọc II), nhắc cho chúng ta một truyền thống
trong lịch sử giáo hội ngay từ thuở sơ khai. Như các tông đồ xưa trong ngày lễ
ngũ tuần, đã cùng cầu nguyện với đức Maria tại nhà tiệc ly, để đón nhận Thánh Thần
mà ra đi loan báo Tin Mừng phục sinh. Thì nay kitô hữu sẽ cùng với Mẹ Maria để
cầu nguyện và tìm được nguồn nghị lực trên bước đường sứ vụ.
Hướng đến một nhân loại mới
Lời kinh "Kính Mừng" quen
thuộc, chính là lời chào mừng "Ave: Mừng vui lên" của thiên sứ
Gabriel thưa với Đức Maria, mà chúng ta đọc lại trong Tin Mừng Luca hôm nay (1,
28).
Lời chào "Ave" ấy không chỉ
gửi đến cho mình Mẹ Maria. Vì theo truyền thống Giáo hội, lời chào "Đấng
đầy ơn sủng", chính là một chứng nghiệm cho Lời Giavê đã hứa trong vườn
địa đàng xưa, sau khi tổ tông nhân loại sa ngã: về người nữ sẽ đạp dập đầu con
rắn trong vườn địa đàng (bài đọc I). Người nữ ấy tuy xuất thân từ Adam và Evà,
nhưng thoát khỏi vòng kiềm tỏa của tội nguyên tổ. Người nữ ấy được tràn đầy ân
sủng, được hồng ân Vô nhiễm; Người nữ ấy được so sánh như Evà mới của một nhân
loại mới. Người nữ ấy, tên là Maria, là dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa hiện
diện giữa con người. Như lời Thánh Thi trong kinh thần vụ kính Đức Mẹ:
"Chữ E-va Mẹ đảo vần,
Thành A-ve gửi bình an cho đời".
Lịch sử cứu độ đã khởi sự từ lời hứa
tại vườn địa đàng. Thiên Chúa hứa cứu độ nhân loại. Ngài hứa ở cùng nhân loại.
Ngài hứa sẽ gửi đến Đấng Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng". Lời hứa ấy nay
được cụ thể hóa khi Ngôi Lời nhập thể trong cung lòng Đức Trinh Nữ: "Này
đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai và đặt tên là Giêsu". Giêsu có
nghĩa là Chúa Cứu, sẽ được muôn đời nhắc đến trong lời kinh: "Và Giêsu Con
lòng Bà đầy phúc lạ".
Đọc kinh "Kính Mừng", ta có
thể cảm thấy tâm trạng tương tự như các khán giả đang theo dõi các vận động
viên Olympic hoặc Saegames. Họ chờ đón những kỷ lục mới "cao hơn, nhanh
hơn, xa hơn". Khi chúc mừng một vận động viên lãnh huy chương vàng, họ
cũng chúc mừng khả năng của một dân tộc và của cả nhân loại...
Cũng vậy, qua những lời "Kính mừng
Maria đầy ơn phúc", chúng ta chiêm ngưỡng một "kỷ lục tuyệt hảo"
của nhân loại. Chiêm ngưỡng Đức Maria, một tạo vật hoàn hảo của nhân loại mới.
Hơn thế nữa, trong nhân loại mới đó,
chúng ta không chỉ là khán giả, mà còn là thành viên. Nên lời kinh "Kính
Mừng" không chỉ được gửi đến cho đức Maria, mà còn là lời chúc mừng một
nhân loại mới đang được hình thành.
Và như thế, qua kinh Mân Côi, chúng ta
sẽ chìm sâu vào tình yêu và ân sủng cứu độ của Thiên Chúa, sẽ nhận ra lời Ngài
kêu mời chúng ta giữ một vị trí riêng biệt trong lịch sử cứu độ và tìm được sức
mạnh mới để hoàn tất vị trí ấy của mình trong lịch sử.
Nếu được như vậy, chúng ta có thể đi
đến kết luận: Kinh Mân Côi góp phần biến đổi trần gian.
6. Kinh Mân Côi và Đời Sống Đức Tin
(Suy niệm của Lm Đaminh Đinh Viết Tiên)
1. Kinh Mân Côi, bài ca đi cùng năm
tháng
Trong Giáo Hội cũng có những bài ca, có
thể gọi là "đi cùng năm tháng", những bài ca luôn đồng hành với Giáo
Hội qua thời gian, qua những thăng trầm, những sóng gió của lịch sử. Bài ca đó
có tên là "Chuỗi Mân Côi", là những Kinh Kính Mừng. Bài ca này được
vang lên mỗi ngày trong các nhà thờ hay chỗ riêng tư, được lâm râm khẩn cầu nơi
môi miệng của mọi người, kẻ trí thức hay người bình dân, người thanh niên hay
những người tuổi đời đã xế bóng.
Kinh Mân Côi quả là "bài ca đi
cùng năm tháng" đối với Giáo Hội, cũng như đối với mỗi người chúng ta. Ở
đây xin đan cử Đức Gioan Phaolô II, vị Giáo Hoàng luôn cổ vũ mọi người đến với
Mẹ qua Kinh Mân Côi.
Trong tông thư "Kinh Mân Côi"
Ngài chia sẻ như sau: "Từ thuở niên thiếu, lời kinh này đã có một chỗ đứng
quan trọng trong đời sống thiêng liêng của tôi (...) Kinh Mân Côi đã đồng hành
với tôi trong những lúc vui sướng cũng như trong những giai đoạn khó khăn. Tôi
đã giao phó cho lời kinh ấy biết bao lo âu; nơi lời kinh ấy, tôi đã luôn tìm
được sự nâng đỡ (...) Kinh Mân Côi là lời kinh tôi ưa thích. Một lời kinh kỳ
diệu. Kỳ diệu qua vẻ đơn sơ và chiều sâu của nó (...). Con tim của chúng ta có
thể gán vào chục kinh Kính Mừng mọi biến cố của đời sống cá nhân, gia đình,
quốc gia, Giáo Hội và toàn thể nhân loại.
Mối quan tâm của riêng ta và của những
người thân cận, đặc biệt những người thân thiết nhất của ta. Vì thế, lời kinh
Mân Côi đơn sơ ghi dấu ấn lên nhịp sống của con người. Anh chị em thân mến, với
những lời này, tôi đã đặt những năm đầu tiên của triều đại Giáo Hoàng trong
nhịp sống hằng ngày của Kinh Mân Côi. Hôm nay, khi bắt đầu năm thứ 25 phục vụ
trong tư cách người kế vị thánh Phêrô, tôi muốn làm lại cũng một điều đó. Biết
bao ơn lành tôi đã lãnh nhận được trong những năm tháng này từ Đức Thánh Trinh
Nữ qua Kinh Mân Côi".
2. Kinh Mân Côi, lời kinh kết nối
a. Với Đức Maria
Kinh Kính Mừng là sự nối kết giữa lời
chào của Tổng Lãnh Thiên Thân Gabriel trong buổi truyền tin, với lời mừng của
bà Elisabet trong ngày thăm viếng, nên mỗi lần lặp lại đã trở thành lời chào
mừng chính thức cho sự nối kết giữa nhân loại với Đức Maria.
Trong cuộc hội kiến lịch sử giữa Tổng
Thiên Sứ và Đức Maria được khởi đầu bằng lời chào và kết thúc bằng lời thưa xin
vâng. Nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc, nhưng còn ở
trong tiềm ẩn cho đến khi có sự đáp trả bằng lời thưa: Xin vâng.
Xin vâng không chỉ bằng lời nói mà bằng
cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền chí chấp nhận những thử
thách cam go vốn không thiếu trong hành trình đức tin, nhất là dưới chân Thánh
Giá.
"Còn Đức Maria thì ghi nhớ những
sự việc đó và suy niệm trong lòng" (Lc 2, 19.51). Khi đọc và suy niệm Kinh
Mân Côi là ta cùng Mẹ suy niệm các mầu nhiệm trong cuộc đời của Chúa và của Mẹ.
Qua việc cùng Mẹ suy niệm, sẽ giúp ta cảm nhận thật sâu sự đồng hành của Mẹ
trong cuộc đời mỗi người.
b. Với Đức Giêsu
Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh
xưng: Maria và Giêsu được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu.
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc Đức Chúa Trời ở cùng bà, bà có phúc lạ hơn
mọi người phụ nữ và Giêsu con lòng bà gồm phúc lạ". Lời kinh đã kết nối
với Đức Mẹ, để rồi được nối kết với Con của Mẹ. Qua Mẹ Maria đến với Chúa
Giêsu.
Nơi trường học của Đức Maria, chúng ta
được học bài học cơ bản: "Ngài bảo gì, các anh hãy làm như vậy" (Ga
2,5). Như vậy, nếu ta mời Mẹ cùng đồng hành thì từng bước chúng ta sẽ được dẫn
đến đích điểm là kết nối với Đức Giêsu. Lộ trình đức tin cũng là giáo án mà Mẹ
sẽ dạy chúng ta trong hành trình làm môn đệ: Sống đức tin và can đảm bước theo
Chúa. "Phúc cho em vì em đã tin rằng lời Chúa sẽ được thực hiện trong cuộc
đời em" (Lc 1,45) và cũng như Mẹ, chúng ta dám thưa với Chúa trong mọi
tình huống của cuộc đời.
c. Với mọi người trong Chúa Kitô, nhờ
lời chuyển cầu của Mẹ Maria
Thực ra đây là hệ lụỵ của hai mối kết
nối trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức Kitô, tất nhiên
mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau. Nhưng chính từ đây mở ra một nhãn
giới mới đầy lạc quan, tin tưởng, hy vọng cho tất cả những ai đọc và suy niệm
Kinh Mân Côi.
Thói quen của các gia đình Việt Nam là
việc đọc kinh tối gia đình, kết hiệp giữa việc đọc Kinh Mân Côi và suy niệm Tin
Mừng. Việc này đã có một âm hưởng rất tốt và có sức biến cải tình trạng gia
đình.
Mỗi tối khi màn đêm xuống dần, sắp sửa
kết thúc một ngày, không hình ảnh nào đẹp hơn khi mọi người quây quần trước bàn
thờ, cử hành kinh tối gia đình. Bao niềm vui, nỗi buồn đều dâng lên Chúa, những
thất bại đắng cay, cũng như những thành tựu phấn khởi trong ngày đều được trình
bày cho Chúa nghe... tự nhiên tâm hồn cảm thấy ấm hơn và tình thân trong gia
đình được nối kết thắm thiết, vì tất cả được dâng lên Chúa và được sẻ chia cho
nhau, cùng hiệp thông trong lời cầu nguyện.
Nếu Chúng ta đọc Kinh Mân Côi với tất
cả tâm tình, chúng ta cảm thấy mình được biến đổi: lòng tin mạnh mẽ, niềm cậy
trông kiên vững, sống dễ thương hơn với mọi người.
3. Qua Kinh Mân Côi, chúng ta cảm
nghiệm: Mẹ vẫn ở bên ta
Tổng thống George Washington, một trong
những nhà anh hùng của nền độc lập Hoa Kỳ, thường được đề cao như một người con
hiếu thảo đối với mẹ mình. Ông năng về thăm mẹ. Một hôm, thấy con đã vất vả
công việc quốc gia, lại còn mất nhiều thời giờ thăm viếng, an ủi mình, bà mẹ
mới hỏi ông: - Tại sao con lại chịu khó mất hàng giờ như vậy để ngồi bên cạnh
mẹ?
Vị tổng thống vĩ đại của nước Mỹ đã trả
lời:- Thưa mẹ, ngồi bên cạnh để lắng nghe mẹ nói, không phải là một việc mất
thời giờ. Bởi vì, sự thanh thản và lòng nhân hậu của mẹ đã giúp con vui sống.
Mẹ của Tổng thống George Washington đã
không nói nhiều, nhưng sự hiện diện đầy thanh thản và lòng nhân hậu của một
người mẹ đã giúp ông tăng thêm sức mạnh để dấn thân phụng sự tổ quốc, vui sống
trong trách nhiệm nặng nề của một nguyên thủ quốc gia.
Đối với người Kitô hữu, Mẹ luôn hiện
diện âm thầm nhưng rất gần gũi bên cạnh mỗi người chúng ta.
- Sự hiện diện của Mẹ trong gia đình
Giacaria đã củng cố niềm tin của bà Elizabeth, đem lại niềm hân hoan vô bờ cho
trẻ Gioan Baotixita.
- Sự hiện diện của Mẹ tại tiệc cưới
Cana đã làm cho người chủ tiệc mát mặt và mọi thực khách được uống rượu ngon
làm hoan hỉ lòng người.
- Sự hiện diện của Mẹ trên đường Thánh
Giá đã tiếp bước cho Đấng Cứu Thế lên tới đỉnh đồi Canvê.
- Sự hiện diện của Mẹ dưới chân Thập
Giá đã cho Chúa Giêsu an tâm về với Chúa Cha sau khi trối Gioan, đại diện loài
người lại cho Mẹ.
- Sự hiện diện của Mẹ trong nhà tiệc ly
đã giúp các tông đồ sốt sắng cầu nguyện để lãnh nhận Chúa Thánh Thần.
Và chắc chắn sự hiện diện của Mẹ trong
cuộc đời người Kitô đã làm nảy sinh muôn ngàn phúc lộc. Sự hiện diện hiền mẫu
của Mẹ trong cuộc đời chúng ta đã mang lại biết bao niềm vui, sự ủi an, lòng
can đảm giúp chúng ta tiếp tục tiến bước trong cuộc lữ hành đức tin.
Những lúc mệt mỏi rã rời trong cuộc
sống hiện tại, những lúc tối tăm bao phủ, những lúc nặng trĩu u buồn của quá
khứ, những lúc hụt hẫng đến độ không còn biết nương tựa vào ai, chúng ta hãy
chạy đến với Mẹ, qua việc đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, ta sẽ thấy tâm hồn
thanh thản và bình an
Đọc và suy niệm Kinh Mân Côi, là những
giây phút êm ái, ngọt ngào, hạnh phúc bên cạnh Mẹ. Với tấm lòng từ bi nhân hậu
của Mẹ sẽ là nguồn ủi an, nâng đỡ và giúp sức chúng ta trong mọi cảnh huống
cuộc đời đầy thử thách chông gai này.
7. Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu
Duyên
Lịch sử Cứu Độ đã khởi đầu với việc
Thiên Chúa tuyển chọn và kêu gọi Abraham, được tiếp nối và thực hiện trong lịch
sử Israel cho đến khi như lời thánh Phaolô viết "Khi đến thời đến buổi,
Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và lệ thuộc vào
lề luật Do thái". Về Người Con ấy, Sứ Thần Gabriel đã nói "Người sẽ
nên cao cả, và Thiên hạ sẽ gọi Người là Con Đấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho
Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn
đời, và vương quyền của Người sẽ vô tận". Như thế lịch sử Cứu Độ phải được
đón nhận như là lịch sử vương quyền của Đức Kitô trong dân Người: trước hết nơi
Israel và bây giờ là nơi Giáo Hội của Người.
Qua cơ cấu diễn biến của lịch sử cứu độ
chúng ta thấy cốt lõi là một cuộc đối thoại không ngừng giữa Thiên Chúa với con
người. Cuộc đối thoại không nhằm cách ly con người khỏi cuộc sống thường ngày
với những lo âu và hy vọng của họ, nhưng ngược lại cuộc đối thoại nhằm mở cánh
cửa đời sống, cánh cửa gia đình, cánh cửa dân tộc và xã hội để Thiên Chúa, và
đích xác hơn là để Con của Người bước vào và đổ tràn Thánh Thần Người, để mỗi
cuộc sống, mỗi gia đình, mỗi dân tộc và toàn thể xã hội tự thẳm sâu đáy lòng
mình có thể thốt lên "Abba, Cha ơi" đối với Thiên Chúa, và như thế,
mỗi cuộc sống, mỗi gia đình, mỗi dân tộc và xã hội trở nên "người thừa
tự" gia sản của "Cha" trên trời.
Abraham đã dần dần khám phá ra được
chân lý ấy khi ông ra khỏi xứ Ur. Từ biến cố này qua biến cố khác, cuối cùng
ông được mời gọi tiến lên ngọn núi Thiên Chúa chỉ định, ở đấy ông đã khẳng định
được với tất cả tự do và yêu mến: chính Thiên Chúa sẽ lo liệu mọi sự cho ông và
con cái ông.
Ở bình minh của Tân Ước, không phải nơi
Đền Thánh Giêrusalem, mà ở trong chính mái nhà nhỏ bé nghèo nàn của Mẹ, Đức
Maria được mời gọi trở về với chính mình, với vấn đề thiết thân nhất của Mẹ:
"Làm sao có chuyện ấy được, vì tôi không biết đến người nam!" Để rồi
Mẹ được mời gọi để xác tín với tất cả sự tin yêu tự do Thiên Chúa sẽ đến, sẽ
đảm nhận lấy cuộc sống Mẹ cho nó trở nên cảnh vực Thần Linh. Đó là điều thánh
Phaolô cũng nói như thế trong mấy câu thư vắn tắt chúng ta vừa nghe.
Vì thế, khi đón nhận công việc thiết
lập vương quyền của Đức Kitô như là sứ mạng riêng biệt của mình, Giáo Hội Đức
Kitô qua các tông đồ đã ý thức về trọng tâm thiết yếu của sứ vụ là trở về
"nơi các ông thường trú ngụ để "đồng tâm nhất trí, siêng năng cầu
nguyện". Cầu nguyện từ đó đã là hơi thở và sức sống của Giáo Hội, của công
cuộc loan báo tin mừng Cứu Độ.
Thật khác với biết bao suy nghĩ và hành
động của chúng ta ngày nay: chúng ta bị lôi kéo vào sức hấp dẫn và tính hiệu
quả của những tổ chức, cơ cấu và phương tiện, đã gạt qua một bên nỗ lực
"Đối Thoại với Thiên Chúa" "nỗ lực cầu nguyện liên lỷ". Gia
đình Kitô Giáo nơi chúng ta thường trú không còn là "nhà cầu nguyện",
thậm chí ngay cả "Nhà Cầu Nguyện" cũng trở thành những trung tâm
trình diễn, tiếp thị, kỹ thuật. hơn là nơi con người đối thoại với Thiên Chúa!
Bài sách Công Vụ Tông Đồ tuy thật vắn
gọn, nhưng đã gợi nhớ một yếu tố nền tảng của cuộc đối thoại cứu độ: Các Tông Đồ
đã cầu nguyện với Đức Maria và cùng với anh em của Đức Giêsu. Sở dĩ các ông đã
cầu nguyện cùng với Đức Maria, là vì duy mình Đức Maria mới có kinh nghiệm trọn
vẹn về "đối thoại cứu độ" này. Với Đức Maria đây là đối thoại do sáng
kiến của Thiên Chúa, được "Thánh Thần bao bọc chở che" và chính Thiên
Chúa hoàn thành. Giáo Hội phải nhờ Mẹ để thực hiện sự cầu nguyện.
Trong viễn ảnh đó mà chúng ta hiểu được
tại sao Giáo Hội khắp nơi, và cách riêng Giáo Hội Việt Nam vô cùng yêu mến và
trân trọng Kinh Mân Côi. Chính đây là lúc mỗi người như được sống lại khung
cảnh Nhà Tiệc Ly với các Tông Đồ, để bên gối Mẹ, Giáo Hội và mỗi người được Mẹ
dẫn dắt qua mọi biến cố đời sống, Mẹ khám phá ra sự mời gọi của Thiên Chúa và
bằng cách nào để Thiên Chúa đảm nhận lấy cuộc sống nhỏ bé của mình, mà thực
hiện nên những điều kỳ diệu. Trong cũng cái nhìn đức tin ấy, chúng ta mới thấu
hiểu được tại sao chỉ là những lời kinh thật đơn giản, không đòi hỏi sự thông
thái khôn ngoan, lời kinh chất phác của những tâm hồn thật quê mùa, lời kinh
phản ánh rất trung thực lời "Xin Vâng" của người con gái Xion làng
Nazaret xưa, lại có thể có quyền lực giải thoát con người trong mọi tình huống
khó khăn nhất, và đem lại có khi cho cả một dân tộc niềm hoan lạc hạnh phúc.
Chỉ vì lời kinh ấy là ân tình trao ban kinh nghiệm về Thánh Thần của Mẹ.
Trong tháng Mân Côi và trong đời sống,
khi trở về với Kinh Mân Côi, người Kitô hữu phải cảm nhận được niềm vui được
trở về mái nhà Tiệc Ly xưa, để một lần nữa họ được Đức Mẹ cho thấy Chúa Thánh
Thần đã đến với Mẹ bằng ngõ ngách nào, và làm sao Ngài đã hoàn thành sứ mạng
của Ngài trong mỗi biến cố đời Mẹ: Sứ Mạng làm cho Chúa Giêsu hình thành và lớn
lên trong lòng dạ và cuộc sống Mẹ. Đây qủa thực là một viễn cảnh bao la và kỳ
diệu chờ đợi chúng ta trong Kinh Mân Côi. Ước gì những suy nghĩ này giúp chúng
ta có thêm nhiệt tình và sốt sắng lần chuỗi Mân Côi.
8. Phương thuốc thần diệu – Lm Ignatio
Trần Ngà
Mọi tội lỗi của con người đều do một
cội rễ mà sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người
là Ađam và Evà bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết,
để lại hậu quả tai hại cho con cháu đời sau... là vì hai ông bà đã không vâng
lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Sự bất tuân nầy cũng giống như
tàu đi trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy, cả đoàn
tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao vào vực thẳm. "Thật vậy, vì một người
duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân..."
(Rm 5, 19)
Vậy muốn cứu loài người khỏi tội, khỏi
đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên
gây nên tội, đó là tình trạng bất phục tùng Thiên Chúa.
Tràng chuỗi mân côi được xem là phương
thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi mân côi dạy
ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giêsu.
* Gương vâng phục của Mẹ Maria
Lắm khi chúng ta muốn Thiên Chúa thi
hành ý muốn của mình hơn là mình phải thi hành ý Chúa.
Khi đau bệnh, chúng ta muốn Thiên Chúa
chữa chúng ta mau lành; khi đói khát, chúng ta muốn Thiên Chúa lo liệu cho
chúng ta cơm ăn nước uống; khi sắp đi thi, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng
ta thi đậu; khi làm việc, chúng ta muốn Thiên Chúa giúp chúng ta thành công;
khi hết tiền, chúng ta muốn Thiên Chúa cho chúng ta đầy túi...
Nếu Thiên Chúa không mau mắn nghe lời
chúng ta xin, chúng ta sẽ hờn giận Chúa, chúng ta hăm bỏ đạo, có khi chúng ta
hạ bệ Chúa xuống khỏi bàn thờ...
Thế nhưng, dù Mẹ Maria được Thiên Chúa
đưa lên địa vị cao vời làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình
là người nữ tỳ hèn mọn, không hề đòi hỏi Thiên Chúa điều gì mà chỉ biết vâng
theo lệnh Chúa truyền. "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi
như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua
mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn
của người nữ tỳ nơi Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn
vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng)
rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của
Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng chói của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm
thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn
xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất... (Lc 22,
44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà làm
theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù
phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng
chịu đựng và xin thưa với Cha: "Xin cho ý Cha thể hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như
một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng,
nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng chịu đựng và
xin thưa với Cha: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại
phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Canvê như một tên tử tội
khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giêsu vẫn xin vâng: "Xin
đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu
chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại
thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và
xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)
Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ
năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa Giêsu.
Tấm lòng vâng phục vô bờ bến đó đã được thánh Phaolô khắc hoạ lại trong bài ca
gửi tín hữu Philíp:
"Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên
Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm
nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng
lòng chịu chết, chết trên cây thập tự..." (Pl 2, 6-8)
Sự vâng phục đến mức tuyệt đối của Chúa
Giêsu rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống
lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn
Chúa Giêsu vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban
cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Pl 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt
đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư
mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy
nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ
một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ
thành người công chính.(Rm 5, 19)
Như thế, chuỗi mân côi chứa đựng bài
học vô giá về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ tận
gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa; vâng lời là phương thế
giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa nhân loại về cõi trời.
Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ
Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước
gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để diệt trừ tận căn mầm mống
tội lỗi ngay trong lòng mình.
9. Bài học quan trọng của kinh Mân Côi
(Trích dẫn từ 'Cùng Đọc Tin Mừng' của
Lm. Ignatio Trần Ngà)
Mọi tội lỗi của loài người đều do một
cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Ngay từ khởi thuỷ, tổ tông
loài người là Ađam và Evà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối
Người, nên đã bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết,
để lại hậu quả tai hại cho con cháu về sau.
Sự bất tuân nầy cũng giống như tàu đi
trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu đi trật đường rầy thì cả đoàn tàu
là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu tội lỗi. "Thật vậy, vì một
người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân...
" (Rm 5, 19)
Vì thế, muốn cứu chuộc loài người hư
vong vì đi trệch đường lối Thiên Chúa thì phải có một đầu tàu khác lôi kéo đoàn
tàu trở lại theo đúng đường rầy. Chúa Giêsu chính là "đầu tàu" nầy:
"Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà
muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (là Chúa Giêsu) đã vâng
lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính". (Rm 5, 19)
Tràng chuỗi Mân Côi chính là một lời
động viên liên lỉ kêu mời mọi người theo gót Chúa Giêsu và Mẹ Maria, đi theo
con đường vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria để được tiến vào nơi hạnh phúc
muôn đời.
* Theo gương vâng phục của Mẹ Maria
Bà E-và xưa đã nghe lời dụ dỗ của
Sa-tan, không tuân giữ lời Thiên Chúa truyền dạy, nên đã lôi kéo dòng dõi của
mình vào cõi chết.
Đức Maria là E-và mới đã uốn nắn lại
những sai trật của E-và xưa, bằng đời sống vâng phục Thiên Chúa tuyệt đối nên
Mẹ được đưa lên trời hưởng phúc muôn đời vinh hiển. Đó là một nét lớn trong nội
dung của kinh Mân Côi.
Dù được Thiên Chúa đưa lên địa vị làm
mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, Đức Maria vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn
của Thiên Chúa và suốt đời vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với sứ thần
Gabrien trong ngày truyền tin rằng: "Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa
cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói". Đó là bài học vâng phục mà Mẹ dạy
chúng ta qua mầu nhiệm vui.
Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn
của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho
Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (là nội dung gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi
lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (là nội dung gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).
* Theo gương vâng phục của Chúa Giêsu
Song song với tấm gương vâng phục của
Mẹ Maria là tấm gương vâng phục chói ngời của Chúa Giêsu trong mầu nhiệm
thương.
Trong Vườn Dầu, dẫu phải "lâm cơn
xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất... (Luca
22, 44) thì Chúa Giêsu cũng xin thưa với Cha: "Xin đừng làm theo ý Con, mà
làm theo ý Cha!" (gẫm thứ nhất năm sự thương)
Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù
phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn cắn răng
chịu đựng trong tinh thần vâng phục thánh ý Chúa Cha: "Xin cho ý Cha thể
hiện".
Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như
một thứ 'vương miện', chụp lên đầu Người, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng,
nhạo cười... (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giêsu vẫn bằng lòng uống cạn chén
đắng Cha trao: "Xin đừng theo ý Con, mà làm theo ý Cha".
Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại
phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội
khốn cùng nhất, bị kiệt sức và phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa
Giêsu vẫn đi cho đến cùng con đường Chúa Cha đã định: "Xin đừng theo ý
Con, mà xin theo ý Cha".
Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu
chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại
thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giêsu vẫn một lòng vâng theo ý Cha và
xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Lc 23, 34)
Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu
rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Người đã cho Chúa Giêsu từ cõi chết sống lại và
lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giêsu
vượt bậc: "Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người
một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu..." (Pl 2, 9)
Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt
đối của Chúa Giêsu, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu Ađam tưởng đã phải hư
mất đời đời nay lại được cứu rỗi: "Thật vậy, cũng như vì một người duy
nhất (Ađam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ
một người duy nhất (Chúa Giêsu) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành
người công chính. (Rm 5, 19)
Như thế, chuỗi Mân Côi là lời mời gọi
chúng ta vâng phục Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Vâng theo ý
Thiên Chúa là con đường đã đưa Chúa Giêsu và Mẹ Maria vào cõi trời vinh hiển và
cũng là con đường duy nhất dẫn chúng ta vào chốn hạnh phúc đời đời như lời Chúa
Giêsu dạy: "Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: "Lạy Chúa! lạy
Chúa!" là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha
Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi" (Mt 7,21).
10. Mân Côi, bản tóm lược Tin Mừng
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Trên một chuyến xe lửa về Paris, một
sinh viên trẻ tuổi ngồi bên một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển
bánh, cụ già rút trong túi áo ra một chuỗi tràng hạt và từ từ chìm đắm trong
cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Sau một
hồi lâu, xem chừng như không còn đủ kiên nhẫn nữa, anh ta mới lên tiếng:
- Thưa ông, nếu tôi không lầm thì ông
vẫn còn tin những chuyện nhảm nhí ấy chứ?
Cụ già điềm nhiên trả lời?
- Đúng thế, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu
không tin sao?
Người sinh viên cười một cách ngạo mạn
và quả quyết:
- Lúc nhỏ tôi tin, nhưng bây giờ làm
sao tôi có thể tin những chuyện ấy nữa. Khoa học đã thực sự mở mắt cho tôi. Ông
cứ tin tôi đi, hạy quăng chuỗi tràng hạt ấy đi, và hãy học hỏi những khám phá
mới. Ông sẽ thấy rằng những gì ông tin từ trước đến giờ đều là mê tín dị đoan
cả.
Cụ gì bình tĩnh hỏi người sinh viên:
- Cậu vừa nói về những khám phá mới của
khoa học. Cậu có cách nào giúp tôi hiểu được điều nầy không?
Người sinh viên hăng hái đề nghị:
- Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi
đến cho ông một quyển sách. Ông sẽ tha hồ đi vào thế giới của khoa học.
Cụ già từ từ rút trong túi áo ra một
thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng
xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy
có ghi: "Louis Pasteur viện nghiên cứu khoa học Paris".
Anh chị em thân mến,
Louis Pasteur là một nhà bác học thời
danh của viện nghiên cứu khoa học Paris. Cuộc đời nghiên cứu khoa học của ông
gắn liền với việc cầu nguyện và cầu nguyện với tràng chuỗi mân côi. Ngược lại,
con người sống trong thời đại khoa học kỹ thuật ngày nay chỉ đề cao tính thực
dụng, đề cao những gì mang lại hiệu quả cụ thể, tức thời, giải đáp những nhu
cầu cuộc sống. Vì thế, người ta dễ lơ là với việc cầu nguyện, cho rằng cầu
nguyện chẳng mang lại cái gì cụ thể cho cuộc sống, chỉ thấy mất thời giờ, nếu
không cho là chuyện nhảm nhí, mê tín dị đoan.
Nếu việc cầu nguyện nói chung bị quên
lãng như thế, thì hình thức cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi lại càng khó khăn
nhiều hơn nữa. Nhất là chuỗi Mân Côi được thực hành với niềm tin tưởng có vẻ ma
thuật, phù phép sẽ không còn thu hút nổi người ngày nay, nhất là giới trẻ. Họ
chỉ thấy đó là công việc tẻ nhạt, mất thời giờ và hoàn toàn máy móc. Có người
lại còn mặc cảm khi lần chuỗi Mân Côi, vì nghĩ rằng đó là việc đạo đức của các
bà già và con nít!
Chính vì vậy, cần phải đổi mới việc lần
chuỗi Mân Côi. Việc đổi mới nầy hệ tại ở chỗ khám phá nội dung và giá trị Tin Mừng
của tràng chuỗi Mân Côi. Trong Tông huấn "Lòng sùng kính Đức Maria"
(Marialis Cultus), Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã không ngừng nhắc đến kinh Mân
Côi là một kinh bản chất Tin Mừng, là kinh Tin Mừng, là bản tóm lược Tin Mừng.
Tin Mừng ở đây là Tin Mừng Cứu Độ. Tin Mừng ấy không nơi nào được vang lên với
tất cả niềm hân hoan phấn khởi cho bằng lời kinh "Ave Maria" mà chúng
ta đọc là "Kính Mừng Maria" thay vì trong nguyên ngữ Hy Lạp có nghĩa
là "Hãy vui lên, Maria!" khi thiên sứ loan báo Tin Mừng cứu độ. Tin
Mừng cứu độ mà bao đời hằng ấp ủ trong hy vọng, giờ đây được thực hiện nơi
người thiếu nữ Sion mang tên Maria, vì Maria đã được Thiên Chúa tuyển chọn để
trở thành Mẹ của Con Ngài, Mẹ của Đấng mà nơi Ngài ơn cứu độ được hoàn thành.
Vì thế, Maria được ban một tên mới: "Hãy vui lên, Người đầy ơn phúc"
là tên mới của Đức Mẹ. Đọc lên lời kinh "Kính mừng Maria" là reo lên
niềm vui ơn cứu độ. Ơn cứu độ mà chúng ta được hội nhập vào, khởi đi từ lòng
Thiên Chúa thương xót và thông qua thái độ đầy tin tưởng, cậy trông của Đức
Maria.
Nội dung Tin Mừng cứu độ là chính Đức
Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, từ khi giáng sinh đến cuộc sống, lời rao giảng, cái
chết và sự phục sinh của Ngài. Thế mà chuỗi Mân Côi là bản tóm lược cuộc đời
của Chúa Giêsu với những biến cố chính yếu nhất: "Từ khi thụ thai và những
mầu nhiệm của thời thơ ấu cho đến giờ phút cao điểm của biến cố Vượt Qua cuộc
Tử Nạn hồng phúc và Phục Sinh vinh quang – và cho đến hồng ân tuôn đổ xuống
trên Giáo Hội ngày lễ Ngũ Tuần cũng như trên Đức Trinh Nữ trong ngày kết thúc
cuộc hành trình trần gian đã được đưa cả xác hồn về quê hương thiên quốc"
(MC số 45). Vì vậy có lạ gì khi nói chuỗi Mân Côi là bản tóm lược Tin Mừng.
Anh chị em thân mến,
Khi lần chuỗi Mân Côi cùng với lời kinh
Kính Mừng Maria được lặp đi lặp lại như một điệp khúc vui, chúng ta được mời
gọi đi vào tâm tình của Mẹ Maria, dọc theo những biến cố của cuộc đời của người
Con yêu dấu: những tâm tình khiêm nhu, nghèo khó, yêu thương, vâng phục, tín
thác... Đây là những giá trị của Tin Mừng. Chúng ta phải quay về với Tin Mừng,
phải đọc lên trong lòng bản hiến chương Nước Trời, nơi đó, những kẻ nghèo khóc,
hiền lành, đau khổ, trong sạch, biết xót thương, biết xây dựng hòa bình... được
công bố là kẻ có phúc, là con Thiên Chúa, là kẻ chiếm lãnh Nước Trời. Chỉ khi
đó, chúng ta mới hiểu được cuộc đời của Đức Maria, mới nhận ra vẻ đẹp sáng ngời
vốn chỉ là tăm tối đối với thế gian. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria và
qua Ngài thêm một lần xác tín lại hằng ngày những giá trị của Tin Mừng, những
giá trị mà tất cả những ai xưng mình là môn đệ Đức Kitô không thể không biết
đến và lấy làm lẽ sống cho đời mình.
Nói rằng chuỗi Mân Côi là Kinh Tin
Mừng, ngay lập tức chúng ta đi đến hệ luận: không thể lần chuỗi Mân Côi cách
máy móc và chỉ chú trọng đến số lượng. Bởi một lẽ đơn giản và minh bạch là Tin
Mừng không chấp nhận thái độ đó. Chính Chúa Giêsu đã nói: "Khi cầu nguyện
thì các ngươi chớ lãi nhãi như người ngoại. Họ tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được
nhận lời" (Mt 6,7). Thái độ phải có là lần chuỗi Mân Côi với tinh thần của
Tin Mừng, cũng chính là tâm tình của Đức Maria: "Người giữ kỹ mọi điều ấy
và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng" (Lc 2,19; 2,51). Đó là biết lắng nghe
Lời Chúa, suy niệm và thi hành.
Thưa anh chị em,
Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria
làm lại cuộc hành trình của cuộc sống. Cùng với Đức Maria nhìn lại những biến
cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ, và qua những biến cố đó, nhìn vào
những biến cố hôm nay, của cá nhân, gia đình, xã hội và Giáo Hội trong ánh sáng
Tin Mừng. Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Đức Maria đi tìm một lời đáp trả cho
những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy
vọng và dám chấp nhận dấn thân trong hành động cụ thể, trong những lựa chọn đầy
can đảm như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì Nước Trời.
Không có lời cầu nguyện đích thực khi
chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời mình vào mối liên hệ với Thiên
Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi đích thực khi chưa dấn mình cùng
với Đức Maria vào nẻo đường của Thiên Chúa.
11. Nhờ Mẹ Đến Với Chúa
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Sau khi phản bội Chúa bằng một cái hôn,
Giuđa cảm thấy chán nản thất vọng đến độ không còn tin tưởng vào tình thương
tha thứ của Chúa nữa. Ông cầm lấy 30 đồng bạc là giá bán Chúa đi vào đền thờ và
nám trả lại cho các Thượng tế và Kỳ lão. Sau đó ông đi thắt cổ tự tử. Câu
chuyện này đã đi vào lịch sử của dân làng Oberammergau ở Đức. Cứ 10 năm một lần
theo lời thề của cha ông để lại từ mấy trăm năm qua, người dân làng diễn lại
cuộc tử nạn của Chúa Giêsu. Trong cảnh Giuđa ra ngoài ngồi than thở: "Tôi
đã phản bội Thầy tôi. Tôi không biết chạy đến với ai nữa!"
Khán giả ở dưới im lặng theo dõi, một
em bé ngồi bên cạnh mẹ, thông cảm cho số phận của kẻ chìm đắm trong thất vọng,
em muốn tìm cách để cứu vớt con người khốn khổ ấy. Em quay sang mẹ và nói lớn
đến nỗi tất cả khán giả trong hội trường đều nghe thấy:
"Mẹ ơi, sao ông ta không chịu chạy
đến với Mẹ Maria?".
Thưa anh chị em,
Phải chi Giuđa mà biết chạy đến với Mẹ
Maria, hẳn là ông đã không thắt cổ tự tử. Hãy nhờ Mẹ Maria mà đến với Chúa
Giêsu. Chúa Giêsu cũng có một người mẹ như mọi người, và nhất là Ngài cũng trải
qua một thời thơ ấu như mọi người. Kỷ niệm của những giây phút ngồi trên gối
mẹ, những lần sà vào lòng mẹ, hẳn phải luôn đậm nét trong ký ức của Chúa Giêsu.
Có lẽ chính kinh nghiệm bản thân ấy đã trở nên bài học mà Ngài muốn nhắn gởi
chúng ta: "Hãy chạy đến với Mẹ Maria".
Tràng chuỗi Mân Côi là một phương thế
giúp chúng ta chạy đến với Mẹ Maria. Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia
đình Công giáo: "Khi gia đình không được an vui hòa thuận, hãy lần chuỗi
Mân Côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hòa thuận yêu thương. Khi gặp người chồng
thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chuỗi Mân Côi, để xin Mẹ cảm
hóa bạn mình. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân Côi, xin Mẹ tạo sự
cảm thông...".
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, ngay
trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện
diện tại quãng trường Thánh Phêrô khi đọc Kinh Truyền Tin rằng: "Chuỗi Mân
Côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt
vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần
những lời Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlizabeth nói
với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy. Người ta có thể
nói rằng: Kinh Mân Côi là kinh chú giải chương cuối cùng của Hiến Chế Tín Lý về
Giáo Hội (Lumen Gentium) của Công Đồng Vatican II, chương bàn đến sự hiện diện
tuyệt vời của Đức Mẹ trong mầu nhiệm Chúa Kitô diễn ra trước mắt chúng ta.
Những biến cố ấy bao gồm toàn bộ các mầu nhiệm Vui, Thương, Mừng và chúng ta
hiệp thông sống động với Chúa kitô nhờ Mẹ Maria. Đồng thời, chúng ta có thể đưa
kinh Mân Côi vào tất cả những biến cố trong cuộc sống hằng ngày của từng cá
nhân, từng gia đình, xã hội, Giáo Hội và toàn thể nhân loại, những biến cố của
chính bản thân của anh chị em chung quanh, nhất là với người thân yêu sống gần
gũi với chúng ta. Như thế, kinh Mân Côi đơn sơ này sẽ rập theo nhịp sống của
con người" (Gioan Phaolô II, 29.10.1978).
Trong Tông Huấn "Lòng sùng kính
Đức Maria" (Marialis Cultus), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã nói: "Kinh
Mân Côi là kinh Tin Mừng". Là kinh Tin Mừng không chỉ ở chỗ lời kinh Lạy
Cha, Kính Mừng được chấp nối bằng những lời lẽ trong Thánh Kinh, nhưng nhất là
vì lời kinh ấy đưa chúng ta vào nội dung chính yếu của Tin Mừng là mầu nhiệm
Chúa Giêsu.
Vì thế, đối tượng cốt yếu của chuỗi Mân
Côi không phải là mầu nhiệm Đức Maria, nhưng là mầu Chúa Giêsu, trải dài từ
tiếng khóc Bêlem đến nỗi đau thập giá và niềm vui phục sinh, đến ân huệ Thánh
Thần. Cùng với cuộc sống ấy là những giá trị căn bản của Tin Mừng được xác
quyết: yêu thương, nghèo khó, khiêm nhường, từ bỏ... những giá trị "nên
xác thịt" nơi con người Chúa Giêsu và là tiếng mời gọi được gởi tới cho
tất cả mọi người.
Trên nẻo đường Tin Mừng ấy, lại có sự
hiện diện của Đức Maria, một người Mẹ đầy tình mẫu tử và cũng là người môn đệ
ấy đã thông điệp trọn vẹn với Chúa Giêsu, Đấng cứu độ trong suốt cuộc đời: từ
khi sinh ra đến khi chứng kiến cái chết trên thập giá, sống lại và lên trời.
Chuỗi Mân Côi đưa người tín hữu vào suy niệm về những đoạn đường Chúa đã đi qua
với sự hiện diện của Mẹ Maria trong những đoạn đường ấy.
Như thế, thưa anh chị em,
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ
Maria và qua Mẹ Maria, chúng ta thêm một lần xác tín và xác tín lại hằng ngày
những giá trị của Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ
Maria nhìn lại những biến cố cơ bản trong chiều dài lịch sử cứu độ và qua những
biến cố ấy, chúng ta nhìn lại những biến cố hôm nay của cá nhân, gia đình, xã
hội và Giáo Hội trong ánh sáng Tin Mừng.
* Lần chuỗi Mân Côi là cùng với Mẹ
Maria đi tìm một lời đáp trả cho những vấn đề của cuộc sống hôm nay, lời đáp
trả thấm nhuần lòng tin, niềm hy vọng và dám chấp nhận dấn thân trong những lựa
chọn can đảm, trong hành động cụ thể như Mẹ Maria đã dấn thân cả cuộc đời vì
Nước Trời.
Chính như thế đó, Thánh Đaminh đã biến
chuỗi Mân Côi thành phương thế loan báo Tin Mừng. Nhờ đó nhiều người đã thoát
khỏi sự lầm lạc do bè rối Albigeois gây ra và đã trở về với Giáo Hội.
Cũng chính như thế đó, Đức Gioan XXIII
đã lần chuỗi Mân Côi như phương thế nuôi dưỡng đời sống mục tử của ngài.
Đối với chúng ta cũng thế, không có lời
cầu nguyện đích thực khi chưa dám sáp nhập toàn bộ con người và cuộc đời chúng
ta vào mối liên hệ với Thiên Chúa. Cũng không thể có việc lần chuỗi Mân Côi
đích thực khi chưa dấn mình -cùng với Mẹ Maria- vào nẻo đường của Thiên Chúa.
Hãy chạy đến với Mẹ Maria để nhờ Mẹ dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu.
12. Kinh Mân Côi – Lời kinh kết nối (Lc
1,26-38)
(Trích trong 'Nút Vòng Xoay' - ĐGM. Vũ
duy Thống)
Chiều qua ghé mừng bổn mạng Phanxicô
Khó Khăn của một người bạn là cha của một gia đình một vợ ba con. Đúng lúc gia
đình vừa đi lễ về. Đang khi tay bắt mặt mừng, đứa gái út đã nhanh nhẩu chỉ cho
tôi chiếc áo mới màu xanh nước biển đang mặc và khoe rằng hôm nay nó là Việt
kiều Úc Châu đấy. Tôi còn chưa hiểu ất giáp gì thì nó đã liến thoắng đố tôi hôm
nay trong gia đình nó có gì lạ. Tôi đảo mắt nhìn một vòng nhưng chẳng thấy có
gì khác nên đành chịu. Con bé lí lắc đã chẳng giữ kín được câu đố của mình nên
đã nhanh chóng bật mí cho tôi. Nó nói: gia đình nó hôm nay mỗi người mặc một
màu áo: bố màu trắng người Châu Âu, mẹ màu vàng người Châu Á, chị hai màu đỏ
người Châu Mỹ, còn anh ba màu xanh lá người Châu Phi. Cả gia đình là năm châu,
là thế giới.
Thấy tôi vẫn ngẩn người chưa hiểu, anh
bạn tôi đã phải giải thích: chả là vào tháng Mân Côi, má xấp nhỏ muốn làm một
chuỗi kinh sống trong gia đình nên phân bổ mỗi người mỗi ngày đọc một chục, năm
người thành năm chục, năm chục năm màu năm châu là sáng kiến của Đức Giám Mục
Fulton Sheen đã lâu ở bên Mỹ, còn năm màu áo minh họa là sáng kiến của con út
nhà này. Con bé đỏ mặt hãnh diện, mọi người cười vui. Và khởi đi từ niềm vui
ấy, tôi miên man suy nghĩ: Kinh Mân Côi là lời kinh kết nối.
1) Kết nối với Đức Maria.
Bởi Kinh Kính Mừng là nối kết lời thiên
thần Gabriel chào Đức Maria trong buổi Truyền Tin với lời mừng của bà Êlisabet
trong ngày Thăm Viếng, nên mỗi lần được lặp lại đã trở thành lời chào mừng
chính thức cho sự kết nối giữa con người với Đức Maria.
Sự kết nối ấy là kết nối với một cá
nhân khi đối diện với mầu nhiệm của Thiên Chúa chỉ dám nhận mình là một tôi tớ,
nhưng đã được cất nhắc lên vinh quang làm Mẹ Thiên Chúa. Đó là một dung hòa
tuyệt hảo giữa một đàng là hồng ân của Thiên Chúa và đàng khác là nỗ lực của
con người, nghĩa là nơi Đức Maria, người ta hiểu rằng tất cả khởi đi từ ơn phúc
Chúa ban nhưng còn ở trong tình trạng tiềm ẩn, chỉ đến khi có sự đáp trả cộng
tác bằng lời "xin vâng" thì ơn phúc kia mới lộ hiện.
Nhưng "xin vâng" không chỉ
bằng lời mà là bằng cả một đời đánh đổi: vừa bền lòng thực thi ý Chúa, vừa bền
chí chấp nhận những thử thách cam go vốn không thiếu trên hành trình đức tin
bên cạnh Chúa Giêsu.
Sự kết nối ấy là một sự "nối
mạng", nghĩa là kết nối vào một vận mạng. Đức Maria trong vinh quang hiện
tại không những không xa cách mà còn gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Mẹ là Mẹ
Thiên Chúa đã nên Mẹ Giáo Hội để qua Kinh Kính Mừng, một tâm tình hiệp thông
gắn bó nảy sinh, rất linh động như dòng chảy hai chiều đi đi về về giữa Đức
Maria xuống với con người và giữa con người lên với Đức Maria, rất tự nhiên như
tình mẫu tử, đằm thắm khi yên ổn nhưng cũng đầy trách nhiệm những khi kêu cầu.
2) Kết nối với Chúa Giêsu.
Nếu đối tượng trực tiếp của Kinh Mân Côi
là kết nối với Đức Maria qua những chặng đường mầu nhiệm đời Mẹ, thì hành trình
cùng với Mẹ, từng bước, người ta sẽ được dẫn tới đích điểm là kết nối với Chúa
Giêsu.
Có một điều ngạc nhiên đến thú vị là
nếu có ai hỏi ta Đức Maria có lần hạt không, ta sẽ trả lời khẳng định: Đức
Maria cũng lần hạt. Hiện ra ở Lộ Đức hoặc ở Fatima, Mẹ đều lần hạt với con cái
mình. Điều này cho thấy người ta không chỉ lần hạt kết nối với Mẹ nhưng còn
cùng với Mẹ lần hạt kết nối với Chúa Giêsu nữa.
Chính kết cấu của Kinh Kính Mừng cũng
muốn nói lên điều ấy. Trong Kinh Kính Mừng chỉ có hai danh xưng Maria và Giêsu
được xướng lên, mở đầu bằng Maria và kết thúc bằng Giêsu: "Kính mừng Maria
đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ và Giêsu
con lòng Bà gồm phúc lạ", nghĩa là kết nối với Mẹ để được nối kết với Con
của Mẹ, kết nối với Đức Maria để rồi nối kết với Chúa Giêsu. Qua Mẹ Maria đến
với Chúa Giêsu.
Nhưng kết nối với Chúa Giêsu được thấy
rõ nhất là qua những mầu nhiệm Mân Côi mùa Vui, Thương, Mừng như cách gọi
truyền thống: Vui trong mầu nhiệm Nhập Thể Đức Giêsu xuống thế làm người sống
cho mọi người; Thương trong mầu nhiệm Tử Nạn Đức Giêsu chịu chết chuộc tội cho
cả nhân loại và Mừng trong mầu nhiệm Phục Sinh Đức Giêsu bước vào vinh quang mở
ra tương lai cho mọi sinh linh.
Đây là sự kết nối nền tảng và là đỉnh
cao. Thiếu nó, kết nối với Đức Maria dẫu có vẫn còn lỏng lẻo, chưa có nó kết
nối dẫu đậm đà vẫn chưa vươn tới đẫy đà cần thiết.
3) Kết nối với mọi người trong Chúa
Kitô nhờ lời chuyển cầu của Mẹ Maria.
Thực ra đây là hệ lụy tất nhiên của hai
mối kết nối nói trên. Một khi liên đới với Đức Maria để hiệp thông với Đức
Kitô, tất nhiên mọi người là anh chị em hiệp thông với nhau, nhưng chính ở đây
lại mở ra một nhãn giới đầy lạc quan tin tưởng hy vọng cho tất cả những ai lần
hạt Mân Côi.
Với Kinh Mân Côi, tín hữu nhận biết
người Ấn Độ là anh em của mình, người Châu Âu sung túc cũng nhận ra người
Somali đói nghèo là chi thể của mình, người Kinh cảm nhận hơn nữa người Thượng
gần gũi với mình. Tại sao ta lần hạt ở nhà thờ, gia đình, trên đường......? Tại
sao ai cũng lần hạt được, từ giáo sĩ đến giáo dân, từ trí thức đến nông dân, từ
em thơ đến các cụ? Thưa bởi vì Kinh Mân Côi bình đẳng phổ cập, chẳng những phù
hợp với mọi người mà còn củng cố hiệp thông với mọi người. Buồn hay vui người
ta đều lần hạt, đám cưới thì lần hạt xin hạnh phúc đời này, còn đám tang thì
lần hạt xin hạnh phúc đời sau.
Nếu Kinh Mân Côi có được xem là vũ khí
thì vũ khí ấy lại là tình thương san sẻ có sức mạnh gắn hàn liên kết hiệp thông.
Bằng Kinh Mân Côi, người ta san sẻ cho nhau sứ điệp Tin Mừng như lễ Mân Côi hôm
nay theo lịch sử là ghi dấu chiến thắng Lépante năm 1571 giữa Hồi Giáo và Công
Giáo, nhưng theo tinh thần lại là ghi dấu một sức mạnh khi mọi người hiệp thông
trong Kinh Mân Côi.
Trình bày Kinh Mân Côi là lời kinh kết
nối không có tham vọng đem lại cái gì mới mà chỉ muốn lặp lại ý muốn của Đức
Maria và Giáo Hội ở một hòa âm mới hơn trong mối hiệp thông. Để với những ai đã
quen lần hạt hằng ngày, xin được kiên trì. Kinh Mân Côi giúp nối mạng tâm linh
cho tâm tình bộc bạch thành tâm sự dễ dàng, nhanh chóng. Kinh Mân Côi còn là
người bạn chân tình, dễ tính, trung thành luôn sẵn sàng hiện diện mọi lúc, mọi
nơi.
Một lần làm phép xâu chuỗi cho bà cụ và
cô gái, thấy họ kính cẩn trong cách trao và nhận, tôi chỉ vào túi mình và nói
với hai người: tôi cũng có chuỗi kinh. Tất cả đều cười vui. Mong rằng không chỉ
có chuỗi kinh để lần hạt chu toàn nhiệm vụ, mà còn có chuỗi kinh biết hiệp
thông nối kết với nhau và cầu nguyện cho nhau.
13. Mẹ Mân Côi – Mẹ chiến thắng
(Trích trong 'Với Cả Tâm Tình' - ĐGM.
Vũ duy Thống)
Lễ Đức Mẹ Mân Côi gợi nhớ về một trận
chiến. Năm 1571, trước sức mạnh đe dọa của Hồi Giáo trên phần đất nước Ý, Đức
Giáo Hoàng Piô V đã kêu gọi con cái mình chung sức bảo vệ. Các vua chúa Công
Giáo Châu Âu đáp lời. Đạo binh Thánh Giá lên đường ra tiền tuyến. Hậu phương
yểm trợ bằng Kinh Mân Côi. Ngày 7 tháng 10, kết thúc binh lửa ở vịnh Lépante,
với phần thắng nghiêng về phía Công Giáo. Người ta mở lễ ăn mừng. Mẹ Mân Côi từ
đó có thêm danh hiệu là Mẹ Chiến Thắng.
Ngày nay, cuộc chiến mang màu tôn giáo
ấy đã lùi xa vào dĩ vãng. Đạo binh Thánh Giá cũng chẳng còn. Nhưng vẫn còn đó
danh hiệu Mẹ Chiến Thắng. Vì thế, vấn đề không phải là mặc cảm để mà nhức nhối,
hoặc háo thắng với nhiều hời hợt, mà chính là bình tĩnh chiêm ngắm chân dung
Đức Maria Chiến Thắng đã được ghi dấu hiền hòa qua Kinh Mân Côi.
1) Mẹ chiến thắng trên chính phận mình.
"Kính mừng Maria đầy ơn
phúc". Lời thiên sứ truyền tin ngày nào được đưa vào phần đầu của Kinh Kính
Mừng như muốn làm nổi bật lên sáng kiến của Thiên Chúa đã thương chuẩn bị Mẹ từ
thuở ban sơ cho mầu nhiệm Con Chúa làm người. Điều này thật quan trọng và chính
yếu. Nhưng ở phần chìm của Kinh Kính Mừng, như bài Phúc Âm ghi lại, là một thái
độ đáp ứng không kém quan trọng của Đức Maria đối với thánh ý Chúa. Phần chìm
ấy là tiếng "Xin Vâng".
"Xin Vâng" là tiếng nói của
một tâm hồn rộng mở vốn đã quen tìm trong suy niệm tiếng nói muôn thuở của
Thiên Chúa. "Xin Vâng" là tiếng vắn gọn như phản ứng xuất thần, mà
thực ra là cả một tiến trình đòi hỏi hy sinh chính bản thân mình để đánh đổi.
"Xin Vâng" là tiếng một lần dâng lên sẽ không bao giờ rút lại, một
lần đoan hứa sẽ có giá trị suốt đời, một lần cúi đầu đáp tiếng là sẽ cúi đầu
chấp nhận tất cả, cho dẫu đó là bất trắc của dịp Giáng Sinh hay là lưỡi gươm
của ngày Dâng Con, hoặc là đắng cay nghiệt ngã nhất của chiều Tử Nạn. "Xin
Vâng" là tiếng hiền hòa của người khiêm nhường, chỉ dám nhận mình là tôi
tớ, nhưng lại là tiếng vinh quang đưa người khiêm nhường ấy bước lên thiên chức
làm Mẹ Thiên Chúa.
Rõ ràng tiếng "Xin Vâng" đã
thay đổi phận đời Đức Maria. Và ở đây, xin được gọi đó là một chiến thắng:
chiến thắng của thánh ý Chúa trên cuộc đời Đức Maria đã trở nên chiến thắng của
Đức Maria trên chính số phận đời thường của mình.
Vì thế, hôm nay, nếu đọc lên kinh
"Kính mừng Maria đầy ơn phúc", thì hãy vui mừng thêm nữa để nhận ra
rằng ơn phúc của Thiên Chúa dẫu đã tiềm ẩn nơi Đức Maria, nhưng chỉ thực sự tỏ
hiện qua tiếng "Xin Vâng", để nhớ mãi hình ảnh Đức Mẹ chiến thắng
trên chính phận mình.
2) Mẹ chiến thắng trên mỗi phận người.
"Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời,
cầu cho chúng con là kẻ có tội". Phần sau của Kinh Kính Mừng là lời cầu
nguyện xem ra độc lập với phần trước, mà thực ra chỉ là một tâm tình duy nhất.
Nếu phần trước là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến Thắng trên chính phận mình để trở
nên "Đức Mẹ Chúa Trời", thì phần sau là lời kính mừng Đức Mẹ Chiến
Thắng trên mỗi phận người tín hữu, qua mẫu gương trinh trong thánh đức. Do đó,
danh hiệu "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời" chính là lời kính mừng trang
trọng và cao quý Giáo Hội dành cho Đức Maria. Đó cũng là chiến thắng chung cuộc
Đức Maria đã đạt được trong đời mình.
Nhưng chiến thắng vinh quang ấy chẳng
những không đẩy Đức Mẹ lên cao để xa cách cuộc đời dương thế, mà ngược lại, còn
đem Mẹ đến gần gũi nhân loại hơn cả bao giờ. Vì thế, không lạ gì khi kính mừng
Đức Mẹ trong vinh quang, tín hữu bỗng dưng nghĩ về đời mình, không phải để xót
xa phận mình tội lỗi cho bằng cảm nhận mối tương quan "Mẹ Thiên Chúa – Mẹ
Giáo Hội" một cách chân tình với lòng trông cậy.
Bên kia lời "cầu cho chúng con là
kẻ có tội" là cả một tình mẫu tử thiêng liêng. Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ có dư
thánh đức để mà chiến thắng tội lỗi, nhưng là Mẹ Giáo Hội, Mẹ vẫn liên hệ với
đời tín hữu như là phần đời của Mẹ. Nếu tín hữu nhận mình là kẻ có tội mà vẫn
dám cầu xin "Thánh Maria", và nếu ngước trông lên Mẹ thánh đức mà vẫn
không ngại trình bày cuộc đời tội lụy, thì đó là vì đã tín nhiệm và cậy trông
vào tấm lòng người mẹ.
Mẹ đã chiến thắng phận mình, Mẹ cũng sẽ
chiến thắng trên mỗi phận người tín hữu bằng cách khơi lên sự thánh thiện cho
lui xa dần những phần tội lụy.
3) Mẹ Chiến Thắng – Mẹ Mân Côi
Phác vẽ chân dung Đức Mẹ Chiến Thắng
qua Kinh Mân Côi như trên, thiết tưởng cũng một phần nào đó khơi lối đi vào ngày
lễ hôm nay, đồng thời muốn xác tín về vị trí Đức Maria trong mầu nhiệm Hội
Thánh, và nhắc nhở gián tiếp về vai trò của Kinh Mân Côi trong đời sống mọi kẻ
tin.
Mừng lễ Mẹ Mân Côi không còn là mừng về
một chiến thắng quân sự nào, mà chính là mừng về một chiến thắng còn lớn lao và
cốt thiết hơn ở trong tấm lòng của Đức Maria và ở trong nỗi lòng của mỗi người
con của Mẹ. Đó là chiến thắng của ơn thánh trên tội lỗi, để gợi mở những chiến
thắng khác của những điều thiện hảo tốt lành trong đời sống mọi người. Mừng lễ
Mẹ Mân Côi cũng không chỉ mừng cho Mẹ mà thực ra là mừng cho mọi kẻ tin, bởi lẽ
Đức Mẹ trong mầu nhiệm Giáo Hội chính là kẻ đi trước bước lên chiến thắng và vì
thế, trong Chúa Kitô, Mẹ trở thành Đấng che chở cầu bầu, phù trợ cho mọi tín
hữu biết cậy nhờ Mẹ khi khao khát chiến thắng của ơn cứu độ trên chính phận
mình.
Và mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay chính là
khẳng định mối liên hệ sâu bền giữa hai danh hiệu "Mẹ Mân Côi – Mẹ Chiến
Thắng", để thấy được rằng muốn có chiến thắng không thể xao lãng lần hạt
Mân Côi; và nếu yêu mến lần hạt Mân Côi, sẽ có ngày bước vào chiến thắng. Kinh
Mân Côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực.
Ai yếu đuối, Kinh Mân Côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân Côi dắt về ơn
thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân Côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai
khô khan, Kinh Mân Côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong
những đám tro tưởng như nguội lạnh. Chỉ vì một lẽ, trong Kinh Mân Côi là hiện
diện của Đức Mẹ Chiến Thắng.
Có một truyện kể lâu lắm rồi: hai thôn
đạo tranh chấp nhau về một mảnh đất giáp ranh mà thôn nào cũng nhận là của
mình. Chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng nổ ra. Khối kẻ u đầu sứt trán. Cuối
cùng cha xứ phải giải hòa và đem miếng đất giáp ranh ấy vào làm của chung gọi là
"đất Đức Bà", đồng thời cho dựng một tượng đài Đức Mẹ ở đấy. Hết
tranh chấp, thôn trên thôn dưới mỗi tối quây quần lần hạt vui vẻ. Người ta gọi
đó là đài Đức Mẹ Hòa Bình, nhưng cha xứ lại rất tâm đắc: đó là đài Đức Mẹ Chiến
Thắng: thắng chia rẽ, thắng hận thù, thắng tội lỗi.
Lạy Đức Mẹ Chiến Thắng, xin cầu cho
chúng con. Amen.
14. Kinh Mân Côi – Lời kinh kỳ diệu
(Trích trong 'Từng Bước Một Thôi' -
ĐGM. Vũ Duy Thống)
Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần
xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô
II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi
cho toàn thế giới như là "lời kinh diệu kỳ".
Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp
mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư "Kinh Mân Côi", một lần nữa
ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là
lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không
đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là
sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.
Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho
hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào,
nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?
1) Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria
trong tình mẫu tử.
Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức
Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống
cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt
kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu
bằng chữ "Mẹ ơi" từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng
thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả,
riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.
Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc
Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm
thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm
người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô
Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong
mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào
với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa
Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.
Nếu "nải chuối buồng cau, đường
mía lau xôi nếp một" là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian
Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử
thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ
luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì
xét cho cùng chỉ là kẻ có tội "khi nay và trong giờ lâm tử". Chính vì
thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.
2) Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa
Kitô.
Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp
dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu
trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự
Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong
Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là "cuốn Phúc Âm rút
gọn", rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong
bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc
Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi
qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục
Sinh.
Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa
Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp
người..., nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là
độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải
là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ
trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là "lưu
giữ và suy niệm trong lòng", tức là "khẩu tụng" đều đều lời kinh
Đức Mẹ và "tâm suy" dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.
"Ad Jesum per Mariam" chính
là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân
Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi,
người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt,
nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên
Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.
3) Kinh Mân Côi là phương thế giúp
người người vững bước trên đường nên thánh
Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh
Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên
gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi
của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh
nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ
hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981
kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói
bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù "ma quỷ, thế gian, xác
thịt", và là sinh tố tăng cường ba việc "nên thánh, mến Chúa, yêu
người".
Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập
tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là
một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ
và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm
ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh
nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều
kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.
Những nhà thông thái có sách vở chữ
nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn
định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà "tu hành"
nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải
đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh
Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện "bỏ túi" (hoặc đeo tay
đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa
này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống
thiêng liêng.
Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu
nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức
Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với
cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết
tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an
hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là
từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.
15. Đức Chúa ở cùng Bà
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng
thẳng, vội vã. Chuỗi Mân Côi làm lòng ta lắng xuống, thanh thản bình an để
chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.
Kính Mừng Maria đầy ơn phúc.
Đây là lời sứ thần chào Mẹ lúc truyền
tin, lời mời Mẹ vui lên vì ơn cứu độ nay đã đến.
Mẹ đầy ơn phúc vì được Thiên Chúa đặc
biệt yêu thương. Tình thương Chúa chở che Mẹ ngay từ lúc chưa chào đời, và tình
thương ấy còn bao bọc Mẹ mãi mãi.
Mẹ được tuyển chọn làm Mẹ Đấng Cứu Thế,
nên Mẹ được giữ gìn khỏi vết nhơ nguyên tội.
Chúng ta được dự phần vào niềm vui và
ân phúc của Mẹ vì chúng ta cũng được Thiên Chúa tuyển chọn, yêu thương được tẩy
xóa nguyên tội để trở nên thụ tạo mới.
Đức Chúa Trời ở cùng Bà.
Trong Cựu Ước, có bao người được Thiên
Chúa ở cùng, để rồi được Ngài sai đi phục vụ Dân Chúa. Nhưng Thiên Chúa ở cùng
Mẹ một cách độc nhất vô nhị.
Khi được đầy tràn Thánh Thần và cưu
mang Ngôi Lời, Mẹ trở nên như Hòm Bia, như Đền Thánh, nơi vinh quang Thiên Chúa
hiện diện giữa con người.
Nhiều lần trong mỗi Thánh Lễ, vị linh
mục chúc chúng ta: Chúa ở cùng anh chị em.
Kitô hữu là người có Đức Kitô ở cùng và
được mời gọi đem Ngài đến cho thế giới.
Bà có phúc lạ hơn mọi người nữ.
Đó là lời bà Êlisabét ca ngợi Mẹ (Lc 1,
42) vì chỉ mình Mẹ được diễm phúc sinh hạ Đấng Mêsia. Mẹ đã cưu mang Người và
cho Người bú mớm (Lc 11, 27).
Nhưng sau đó bà Êlisabét còn ca ngợi Mẹ
có phúc vì đã tin Chúa sẽ thực hiện điều Ngài nói với Mẹ (Lc 1, 45).
Tin là dám buông đời mình trong tay
Chúa và để Ngài dẫn đi trong đêm tối của lòng tin.
Mọi tín hữu đều được mời sống hành
trình đức tin như Mẹ, để được cùng Mẹ chung hưởng hạnh phúc: "Phúc cho ai
không thấy mà tin" (Ga 20, 29)
Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa Trời.
Chỉ Thiên Chúa là Đấng Thánh và là
nguồn mọi sự thánh thiện.
Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện ấy cách
tuyệt vời, vì Mẹ được chọn làm Mẹ Đức Giêsu, Mẹ Thiên Chúa, và vì chẳng ai thực
thi ý Chúa trọn vẹn như Mẹ.
Chúng ta chẳng được diễm phúc sinh ra
Đức Giêsu, nhưng chính Ngài lại mời gọi ta làm mẹ của Ngài: "Mẹ tôi và anh
em tôi là những ai nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" (Lc 8,21).
Khi thực thi Lời Chúa trong cuộc sống,
chúng ta sinh Đức Giêsu cho nhân loại hôm nay. Ngài vẫn cần những người mẹ để
có mặt đến tận thế.
Chẳng có gì Đức Maria được hưởng cách
viên mãn, mà Hội Thánh và từng người lại không được dự phần.
Xin Mẹ cầu cho ta khi này và trong giờ
lâm tử.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn có khi nào lần chuỗi không? Bạn có
biết lần chuỗi không? Bạn có thấy lần chuỗi là một cách cầu nguyện nhẹ nhàng và
lắng đọng không?
Bạn nghĩ gì về Đức Mẹ? Đức Mẹ có phải
là Đấng ở trên cao và xa lạ với bạn, hay là Đấng rất gần bạn trong cuộc sống
đức tin?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào
chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh
Đức Giêsu. Mẹ đưa con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm con bị lạc và
đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối
cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống. Chẳng phải con đường nào cũng là thảm hoa.
Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường
mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn
tuyệt chia ly.
Xin giữ chúng con luôn đi trên
Đường-Giêsu để chúng con trở thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến
gặp gỡ Thiên Chúa.
16. Tôi là nữ tỳ của Chúa
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Nhân vật chủ yếu mà thánh Luca muốn
trình bày trong bài Tin Mừng trên đây là chính Đức Giêsu. Ngài là Con Đấng Tối
Cao, là Vua Mêsia (c.32-33). Ngài là Đấng Thánh, là Con Thiên Chúa (c.35).
Thiên Chúa muốn Con Ngài vào đời làm người, nên đã chuẩn bị cho Con một người
mẹ tuyệt hảo. Maria là người được Thiên Chúa đặc biệt mến thương. Thiên thần
gọi cô là Đấng đầy ân sủng, là người được Đức Chúa ở cùng (c.28), là người đẹp
lòng Thiên Chúa (c.30). Maria đã là một thụ tạo tuyệt vời ngay từ trước khi làm
mẹ Đức Giêsu. Nhưng Thiên Chúa vẫn tôn trọng tự do của cô Maria. Ngài cần sự
ưng thuận của một thụ tạo nhỏ bé trước khi trao cho Maria chức vụ làm Mẹ Đấng
Cứu Thế. "Thánh Thần sẽ ngự xuống trên cô và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ
rợp bóng trên cô" (c.35). Maria hẳn đã phải suy nghĩ trước khi chấp nhận
làm mẹ theo một cách thức lạ lùng đến thế.
Lời mời gọi nào của Thiên Chúa cũng gây
xáo trộn những dự định và tính toán riêng tư. Nếu Maria đã khấn sống khiết
tịnh, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô làm mẹ và sinh con. Nếu Maria đã muốn sống
bậc hôn nhân một cách bình thường với ông Giuse, thì nay Thiên Chúa lại muốn cô
có một người con, không phải với Giuse, và tương quan giữa cô với Giuse hẳn
phải thay đổi.
Maria không hiểu hết con đường mình sắp
đi. Có biết bao trắc trở, khó khăn, mờ tối. Nhưng cô tin vào Thiên Chúa đang
mời gọi. Cô buông mình để tay Chúa dẫn đưa, vì xác tín rằng chẳng có gì Ngài
không làm được. Maria đã xin vâng trong niềm tin yêu phó thác. Tiếng xin vâng
này mở đầu cho một chuỗi xin vâng làm nên cuộc đời người nữ tỳ của Chúa.
Lắm khi chúng ta thấy Đức Maria quá cao
xa vì tràn đầy những ơn chúng ta không hề có. Chúng ta quên rằng Mẹ cũng là một
tín hữu bước những bước gập ghềnh qua sa mạc cuộc đời. Nói tiếng xin vâng khi
mọi sự dường như sụp đổ, chuyện đó cần đến lòng tin. "Phúc cho em là kẻ đã
tin..." (Lc 1,45).
Tiếng xin vâng khó khăn nhất của Mẹ
Maria là tiếng xin vâng dưới chân thập giá. Những lời thiên thần nói ngày xưa
có còn đáng tin không? Chỉ khi Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với Mẹ tất cả những
tiếng xin vâng trong đời mới bừng sáng trọn vẹn và rực rỡ ý nghĩa.
Chúng ta có dám liều xin vâng như Mẹ
không?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa đã nói với Đức Maria qua vị
thiên sứ. Còn bạn, có khi nào Chúa nói với bạn và mời bạn cộng tác không? Bạn
có khi nào nghe Chúa nói qua giờ cầu nguyện, qua một người hay một biến cố
trong cuộc sống không?
Để xin vâng, cần phải tin. Để tin, cần
phải liều. Có khi nào bạn dám bỏ mọi chỗ dựa nơi người đời để dựa vào Chúa
không?
Cầu Nguyện
Lạy Mẹ Maria, khi đọc Phúc Âm, lúc nào
chúng con cũng thấy Mẹ lên đường.
Mẹ đi giúp bà Isave, rồi đi Bêlem sinh
Đức Giêsu. Mẹ đưa Con đi trốn, rồi dâng Con trong đền thờ. Mẹ tìm Con bị lạc và
đi dự tiệc cưới ở Cana. Mẹ đi thăm Đức Giêsu khi Ngài đang rao giảng. Và cuối
cùng Mẹ đã theo Ngài đến tận Núi Sọ.
Mẹ lên đường để đáp lại một tiếng gọi
âm thầm hay rõ ràng, từ ngoài hay từ trong, từ con người hay từ Thiên Chúa.
Chúng con thấy Mẹ luôn đi với Đức Giêsu
trong mọi bước đường của cuộc sống.
Chẳng phải con đường nào cũng là thảm
hoa. Có những con đường đầy máu và nước mắt.
Xin Mẹ dạy chúng con đừng sợ lên đường
mỗi ngày, đừng sợ đáp lại những tiếng gọi mới của Chúa dù phải chấp nhận đoạn
tuyệt chia ly. Xin giữ chúng con luôn đi trên Đường-Giêsu để chúng con trở
thành nẻo đường khiêm hạ đưa con người hôm nay đến gặp gỡ Thiên Chúa
17. Lá sầu riêng – Lm. Jos. Tạ Duy
Tuyền
(Trích dẫn từ 'Cùng Nhau Suy Niệm')
Ở đời tình mẹ là thiêng liêng nhất, cao
cả nhất. Nếu không có tình mẹ, có lẽ chúng ta khó có thể cảm nghiệm được thế
nào là một tình yêu tinh ròng, thanh khiết, không một toan tính ích kỷ nhỏ nhoi
nào. Tình mẹ là một tình yêu vô vị lợi, sống hết mình vì con. Ca dao đã nói rất
nhiều về những hy sinh của mẹ như: "Nuôi con chẳng quản chi thân, Chỗ ướt
mẹ nằm, chỗ ráo con lăn". Và rồi khi trái gió trở trời, lòng mẹ cũng quặn
đau vì con: "Con ho lòng mẹ tan tành, Con sốt lòng mẹ như bình nước
sôi".
Có lẽ chúng ta đều biết đến câu chuyện
"Lá sầu riêng" của sân khấu cải lương đã từng trình diễn. Đó là câu
chuyện thật cảm động về tình thương của người mẹ hết mình vì tương lai và hạnh
phúc của con. Truyện kể về một người mẹ nhà quê, nghèo nàn. Cuộc đời cơ cực với
cảnh mẹ goá con côi. Cuộc sống bữa no bữa đói, khiến bà lo sợ cho tương lai của
đứa con. Bà đã chấp nhận gửi con cho một gia đình giầu có trong làng, và rồi bà
tình nguyện ở bên đứa trẻ để chăm sóc nó với tư cách là một vú nuôi. Năm tháng
trôi qua, khi bà đã già yếu, và đứa con do tay bà chăm sóc đã thành danh giữa
đời. Bà nghĩ rằng đã tới lúc nói cho con biết sự thật về nguồn gốc của nó, và
chắc chắn nó sẽ vui mừng lắm, vì có một người mẹ đã quên cả bản thân mình để lo
cho con. Bà nghĩ rằng, lúc đó những giọt nước mắt sung sướng của hai mẹ con
nhận ra nhau sẽ dạt dào lắm! Nhưng tiếc thay, điều đó đã không xảy ra! Đứa con
không chấp nhận sự thật ấy. Nó đã xua đuổi bà. Nó không dám nhận bà là mẹ. Nó
sợ điều này sẽ ảnh hưởng đến công danh sự nghiệp nó ở đời. Thay cho những giọt
nước mắt sung sướng là những giọt nước mắt tủi nhục đắng cay. Bà đã thốt lên
trong tiếng nấc nghẹn ngào: "Con ơi! Ngày con còn bé, mẹ cho con một cục
kẹo, con đã theo mẹ cả ngày, bây giờ mẹ cho con cả cuộc đời, sao con nỡ lòng
xua đuổi mẹ hở con?".
Tình thương của mẹ trần thế đôi khi cũng
quặn đau vì sự đoạn tình, đoạn nghĩa của con. Tình thương của người Mẹ thiên
quốc càng quặn đau hơn khi con đang xa lìa vòng tay che chở của Mẹ. Người Mẹ
thiên quốc cũng đau khổ vì những đứa con đã không nhìn nhận sự trợ giúp của Mẹ.
Người Mẹ thiên quốc vẫn đang bị xúc phạm bởi chính thái độ khước từ của con.
Tháng Mân Côi, Giáo hội mời gọi chúng
ta hướng về Mẹ Maria là mẹ của Chúa Giêsu cũng là mẹ của chúng ta. Xưa bên cây
thập giá Chúa đã trao phó thánh Gioan cho Mẹ. Qua Gioan, Mẹ Maria đã nhận làm
mẹ của cả nhân loại. Từ nay Mẹ là mẹ của từng người chúng ta. Từ nay Mẹ sẽ bao
bọc chúng ta như mẹ đã từng bao bọc hài nhi Giêsu. Từ nay Mẹ Maria sẽ chăm sóc
chúng ta như xưa đã chăm sóc cho Chúa Giêsu con Mẹ. Từ nay Mẹ Maria sẽ đứng bên
cuộc đời chúng ta như Mẹ đã đứng kề bên thánh giá Chúa. Từ nay cái đau của
chúng ta cũng là nỗi đau của Mẹ. Vì tình mẹ mãi mãi là thế. Hết mình vì con.
Chấp nhận khổ vì con. Một tình yêu quên cả chính mình để hết lòng chăm sóc đoàn
con như tình mẹ trần thế mà ca dao đã từng nói: "Đêm mùa thu mẹ ru con ngủ
- Năm canh dài thức trọn năm canh".
Thế nhưng, Mẹ Maria đã được gì khi làm
mẹ chúng ta? Mẹ có vui khi làm mẹ nhân loại hay không? Nếu vui tại sao mỗi khi
Mẹ hiện ra ở nơi này, nơi kia Mẹ đều khóc, đều trầm ngâm, đều lo lắng cho sự an
nguy của con cái? Mẹ đều khóc cho nhận thế tội tình. Mẹ đều khóc vì những đứa
con sa đàng tội lỗi nhưng không chịu quay trở về. Phải chăng mẹ cũng đang đau
khổ khi nhìn thấy những người con vì danh vọng ở đời, vì vinh hoa phú quý mà
đánh mất tình mẹ? Phải chăng kịch bản "lá sầu riêng" đang diễn tả nỗi
lòng của Mẹ thiên quốc? Nếu đúng vậy, Mẹ cũng đang bảo chúng ta: "Con ơi!
Chẳng lẽ chỉ vì một chút bổng lộc trần gian mau qua mà con đã vội quên tình mẹ?
Và không lẽ chỉ vì những vinh hoa trần thế mau qua mà con đã từ chối mẹ sao?
Hãy nhận mẹ làm mẹ để mẹ tiếp tục yêu con, để mẹ tiếp tục hy sinh cho con, và
để mẹ tiếp tục che chở bảo vệ con".
Xin cho mỗi người chúng ta biết nhận ra
tình thương của mẹ để sám hối ăn năn về những lỗi lầm của mình. Xin giúp chúng
ta đừng vì vinh hoa phú quý mà lạc xa tình mẹ. Ước gì chúng ta luôn trân trọng
tình mẹ, luôn gắn bó với mẹ, luôn cậy dựa vào mẹ để nhờ Mẹ và qua Mẹ chúng ta
lãnh nhận được muôn vàn ơn lành hồn xác của Chúa. Amen.
18. Mẹ đầy ơn phước – Veritas
(Trích dẫn từ 'Mỗi Ngày Một Tin Vui')
Thời gian viên mãn đã đến, người trinh
nữ, dấu chỉ của lời hứa được loan báo trước kia giỡ đây được chỉ định rõ ràng
cho chúng ta biết và chúng ta biết rõ đó là Đức Maria, Đấng làm cho tâm hồn ta
tràn đầy tin tưởng và niềm vui khi nghe đến tên Ngài. Cùng với thiên thần
Gabriel, chúng ta cất lên lời chào: "Kính mừng Maria, hãy vui lên,
Maria". Qua lời chào của thiên thần, Thiên Chúa mời gọi Maria hãy vui lên
vì thời giờ thực hiện lời hứa đã đến và làm sao Mẹ Maria không vui lên được,
khi biết chính mình đã được chọn để thực hiện lời hứa, để làm dấu chỉ loan báo
hoàng tử hòa bình sắp đến. Mỗi lần chúng ta chào chúa Mẹ Maria qua kinh Kính
Mừng "Kính Mừng Maria đầy ơn phước" chúng ta tham dự vào niềm vui và
niềm tri ân của Mẹ đối với Thiên Chúa.
Mẹ là Đấng đầy ơn phước, Đấng được
Thiên Chúa chúc phúc. Mẹ thuộc hoàn toàn về người tôi tớ của Đức Giavê như được
loan báo nơi sách tiên tri Isaia chương 42 câu 1: "Đây là tôi tớ Ta, Đấng
Ta chọn và đẹp lòng Ta mọi đàng. Mẹ được đầy ơn phước vì Đấng sắp đến ngự nơi
Mẹ là Con yêu dấu của Thiên Chúa". Mẹ Maria được đầy tràn niềm vui. Mẹ là
người đầu tiên được Thiên Chúa cho nếm trước niềm vui vì Thiên Chúa nhập thể.
Nhờ Thiên Chúa mạc khải, Mẹ Maria hiểu được sứ mệnh của Mẹ như là dấu chỉ niềm
hy vọng, dấu chỉ Thiên Chúa chu toàn lời hứa của Ngài cho Israel, và suốt đời
Mẹ sẽ là bài ca chúc tụng lòng trung thành của Thiên Chúa, như Mẹ đã thốt lên
nơi nhà ông Dacaria: "Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, Ngài là Đấng trung tín
như lời đã hứa Abraham và con cháu ông".
"Thiên Chúa ở cùng Bà", Mẹ
Maria đã từng suy niệm lời tiên tri loan báo trước về biến cố cứu rỗi sắp đến,
nên giờ đây từng lời thiên thần nói ra cho Mẹ đều mang một ý nghĩa sâu xa.
"Thiên Chúa ở cùng Bà", giây phút quan trọng nhất của lịch sử đã đến,
đó là lúc trinh nữ Maria hay tin và hiểu rõ thực tại Thiên Chúa ở cùng chúng
ta, Emmanuel, một cách thật độc nhất vô nhị. Mẹ vui mừng gọi Thiên Chúa là
Emmanuel, là Đấng ở cùng chúng ta. Mẹ vui mừng trước sự hiện diện của Thiên
Chúa và chúng ta hiệp với Mẹ trong niềm vui và hết lòng cảm tạ Thiên Chúa.
"Hỡi Maria, đừng sợ", kinh
nghiệm sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, không khỏi làm cho con người
run sợ. Không phải Mẹ Maria cảm nghiệm Thiên Chúa hiện diện, nhưng Mẹ còn được
mạc khải cho biết giờ đây, đến lúc lời hứa thành sự thật nơi Mẹ. Không bao giờ
MẹMaria đã nghĩ đến việc cả thể này, Thiên Chúa mạc khải chính Ngài và ý định của Ngài cho Mẹ. Mẹ vui mừng lên như một niềm vui mừng đi kèm với sự run sợ, một sự run sợ thánh. Kinh nghiệm sống đời Kitô, chúng ta cũng thấy hai tâm tình này như Mẹ Maria, vừa vui và vừa sợ. Mẹ Maria nhờ ơn Chúa giúp đã thắng vượt cái sợ và phó thác tin tưởng hoàn toàn vào Chúa.
Xin Mẹ Maria giúp chúng ta được tham dự vào niềm vui của Mẹ, được trở thành dấu chỉ để Thiên Chúa thực hiện ơn cứu rỗi của Ngài nơi anh chị em chung quanh. Đặc biệt, trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa Cha:
"Lạy Cha là Chúa tể trời đất, Chúng con chúc tụng Cha
Vì Cha đã không mạc khải cho những kẻ khôn ngoan, kiêu ngạo, nhưng cho những kẻ bé nhỏ khiêm tốn. Cha đã chọn Mẹ Maria để thực hiện lời hứa cứu rỗi chúng con.
Nhờ lời cầu khẩn của Mẹ Maria, đặc biệt trong ngày lễ của Mẹ hôm nay, và nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Đấng Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng con". Xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người và vui mừng tiếp rước Người đến ở với chúng con. Và lạy Mẹ Maria, chúng con kính mừng Mẹ, Đấng đầy ơn phước. Mẹ đã lãnh nhận mọi phúc lành của Thiên Chúa để giúp chúng con. Thiên Chúa ở cùng Mẹ; Ngài cũng đến ở với chúng con. Chúng con cũng sẽ cảm nghiệm được điều này như Mẹ, nếu chúng con biết sống trung thành với ơn gọi như Mẹ. Xin Mẹ cầu bầu cho chúng con được luôn sống trong niềm vui vì được Chúa hiện diện bên cạnh, và đặc biệt trong chính chúng con.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét