CHÚA NHẬT
26 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa:
Am 6, 1a.4-7; 1Tm 6,11-16; Lc 16, 19-31
MỤC LỤC
1. Tiền
2. Tiền bạc
3. Liên đới –
ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Cho thì có
phúc – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
5. Suy niệm của
Vinh Sơn Dương Văn Đức
6. Bạn hữu của
Thiên Chúa – Pm. Cao Huy Hoàng
7. Hãy nghe các
ngài
8. Khoảng cách –
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
9. Giấy thông
hành Nước Trời – Thiên Phúc
10. Ông Dives và
anh Lazarô – Vincent Travers
11. Người phú hộ
giàu có và Ladarô nghèo khổ
12. Niềm hy vọng
của nhân loại
13. Có một vực
thẳm – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
14. Hai khuôn mặt
trái ngược nhau
15. Môi trường
đức tin – Achille Degeest
16. Lazarô sẽ
không bao giờ tự mãn
17. Giàu có và
nghèo khó – McCarthy
18. Bác ái bắt
đầu từ nhà mình - McCarthy
19. Chú giải của
R. Gutzwiller
20. Tôi có đọc
Kinh Thánh hay không?
21. Dại dột
22. Suy niệm của
Lm. Phạm Thanh Liêm
23. Chúa nhật 26
Thường Niên
24. Suy niệm của
JKN
25. Cuộc sống
trần thế không phải là tất cả
26. Chú giải của
Noel Quesson
27. Chú giải của
Fiches Dominicales
1. Tiền
Cách đây mấy năm,
một nguyệt san xuất bản tại Luân Đôn có yêu cầu độc giả đưa ra một định nghĩa
về tiền bạc và cho biết độc giả nào đưa ra câu định nghĩa hay nhất sẽ được
trọng thưởng. Toà soạn đã nhận được hàng ngàn câu định nghĩa khác nhau và đây
là câu định nghĩa đã trúng giải nhất: Tiền bạc là giấy thông hành đại đồng, với
nó chúng ta có thể đi bất cứ nơi đâu trên thế giới này ngoại trừ lên thiên đàng
là không được. Với nó, chúng ta có thể mua sắm mọi sự, trừ hạnh phúc là không
thể được.
Thật là một câu
định nghĩa chí lý, nó diễn tả một sự thật mà chúng ta thường quên, hay biết mà
giả điếc làm ngơ không muốn nghĩ tới và cũng không muốn nghe nói tới. Nó cũng
giúp giải thích lý do tại sao người giàu tiền bạc và của cải vật chất lại khó
được ơn cứu độ hay thường đánh mất đi ơn cứu độ của mình.
Từ câu định nghĩa
trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay và chúng ta nhận thấy: Ladarô không
phải vì nghèo mà được vào thiên đàng, còn ông phú hộ không phải vì giàu mà bị
sa hoả ngục. Đúng thế, Ladarô được hạnh phúc chắc hẳn là vì anh đã không oán
trách và mất đi niềm tin của mình vào Thiên Chúa, dù phải sống trong cảnh khốn
cùng. Còn ông phú hộ đã đánh mất ơn cứu độ chỉ vì ông ta đã sống ích kỷ, chỉ
biết nghĩ đến mình và ăn chơi hưởng thụ đến độ không còn nhìn thấy hay giả bộ
không nhìn thấy để khỏi phải trợ giúp cho Ladarô.
Và như thế tư
tưởng và đường lối của Thiên Chúa hoàn toàn khác xa với tư tưởng và đường lối
của người đời, bởi vì người đời coi danh vọng, tiền bạc và thành công là bảo
đảm của ơn cứu độ để rồi không cần và không trông đợi gì nơi Thiên Chúa nữa.
Trong khi đó, đối với Thiên Chúa thì chỉ có người nghèo, người biết sống theo
quan niệm của Ngài, người có được cái nhìn của Ngài mới là những cộng sự viên
cần thiết mà thôi. Chỉ có người biết sống theo tình thần nghèo khó, nghĩa là
luôn ý thức những hạn hép và bất toàn của mình, không tự cứu rỗi được, nên phải
mở rộng cõi lòng đón nhận ơn Chúa, cậy dựa vào lòng thương xót của Ngài là được
cứu rỗi.
Và trong ý nghĩa
đó, người có nhiều tiền của cũng có thể là người nghèo và được cứu độ vì đã
biết sống theo tinh thần của Chúa, liêm chính trong công ăn việc làm, quảng đại
chia sẻ tiền bạc vật chất cũng như tinh thần cho anh em. Đồng thời kẻ không có
một đồng xu dính túi cũng vẫn có thể là người giàu vì tâm hồn bất chính, ích kỷ
và kiêu căng, cậy dựa vào sức riêng của mình không cần đến Chúa và ơn thánh của
Ngài. Bởi đó hãy hoán cải ngay từ bây giờ bởi vì giây phút hiện tại mới thực là
quan trọng, nó chính là thời điểm duy nhất chúng ta có thể sống như chúng ta muốn
và xây dựng cho tương lai vĩnh cửu một cách hữu hiện nhất, vì ngày mai phải
được bắt đầu từ ngày hôm nay.
2. Tiền
bạc
Tại sao ông phú
hộ lại bị trầm luân trong hoả ngục?
Câu trả lời thật
đơn sơ: sở dĩ như vậy vì con tim ông đã trở thành chai đá. Mặc dù sống trên
nhung lụa, ăn sang mặc quý, thế mà ông lại không hề biết ra tay giúp đỡ cho
Lagiarô, là kẻ bần cùng, luôn ngồi trước cửa nhà ông, để trông mong một chút
của bố thí dư thừa.
Xem thế, chúng ta
thấy: tiền bạc cũng như vật chất là những ơn huệ Chúa tặng ban. Chúng ta được
phép sử dụng trước hết là để bảo đảm một cuộc sống ấm no, xứng đáng với phẩm
giá con người, cho chính bản thân, cũng như những người thân yêu. Thế nhưng
ngoài mục đích đó ra chúng ta còn có bổn phận phải chia sẻ và giúp đỡ những người
chung quanh, nhất là những kẻ bần hàn túng thiếu, như người xưa đã bảo: Hữu lộc
bất khả hưởng tận. Có tiền bạc không nên hưởng một mình. Chính những hành động
bác ái yêu thương này sẽ có một giá trị vô song vì khi chúng ta thương giúp
người khác là chúng ta thương giúp cho chính Chúa. Khi chúng ta làm phúc bố thì
là chúng ta hành động một cách khôn ngoan, tạo cho mình một kho tàng ở đời sau.
Để giúp chúng ta
hiểu điều đó, tôi xin kể lại một câu chuyện. Ý nghĩa của câu chuyện này, là hãy
biết dùng tiền bạc vật chất để tạo cho mình những bè bạn, sẽ bênh vực và giúp
đỡ chúng ta bước vào quê trời:
Ông chủ một thửa
vườn chôm chôm nọ, sáng hôm ấy thấy hai em nhỏ đứng ngoài cổng, đưa mắt nhìn
vào những trái chôm chôm chín đỏ mà thèm thuồng. Ông là một người yêu thích trẻ
nhỏ, nên cho gọi hai em lại và bảo: Hai em cứ việc vô vườn mà ăn, nhưng không
được đem trái nào đi. Trước khi hai em ấy về, ông đã khám qua các túi và hài
lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào. Nhưng sau đó ông lấy làm lạ vì thấy
hai em cứ đi dọc theo hàng rào, rồi thỉnh thoảng lại cúi xuống lượm một cái gì
đó. Đoán được cái mẹo vặt của hai em, ông cho gọi hai em lại và vặn hỏi. Hai em
đành phải thú nhận rằng mình có ném mấy quả ra ngoài hàng rào, để rồi sau đó sẽ
lượm và đem về cho em. Ông chủ khen hai em đã hành động khôn ngoan và cho phép
hai em được mang những quả chôm chôm ấy đi.
Hai em nhỏ là mỗi
người chúng ta. Ông chủ là Thiên Chúa. Còn thửa vườn là thế gian, nơi chúng ta
đang sống. Những trái chôm chôm là những sự tốt lành chúng ta có được, chẳng
hạn như tiền bạc, cơm gạo, áo quần. Những sự tốt lành ấy chúng ta không thể đem
theo khi giã từ cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta có một phương cách hành động, để
ném vào đời sau những cái chúng ta đang có, đó là chúng ta hãy biết chia sẻ
phần tiền bạc vật chất ấy cho những người nghèo khổ và giúp đỡ cho những người
túng thiếu...
Điều này Chúa
không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa, bởi vì trong ngày phán xét Chúa sẽ
nói với chúng ta: Khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn; khi Ta khát các ngươi đã cho
uống; khi Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc; khi ta đau yếu và bị cầm tù, các
ngươi đã viếng thăm... Nếu hành động khôn ngoan như thế, chúng ta sẽ xứng đáng
là những người con cái Chúa và chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa ân thưởng bội
hậu. Bởi vì giúp đỡ người khác chính là cách thức chúng ta đầu tư cho cuộc sống
mai sau.
3. Liên
đới – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Toàn cầu hóa đã
giúp nhân loại phát triển tình liên đới. Nhân loại trở nên một cộng đồng sinh
mệnh. Sự an nguy không còn của riêng ai mà là của tất cả mọi người. Cứu người
chính là cứu mình. Vì một thảm họa nếu không sớm được ngăn chặn, sẽ mau chóng
lan tràn khắp thế giới. Liên đới đang trở thành đức tính không thể thiếu được
trong đời sống hiện tại. Nó không chỉ là một việc làm thiện nguyện mà còn là
một nhiệm vụ cấp bách của mọi công dân trên hành tinh. Biết sống liên đới, nhân
loại đang đi vào con đường Phúc Âm.
Trong Phúc Âm,
Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắc đến tình liên đới. Phải liên đới vì mọi người đều
là anh em với nhau. Phải liên đới vì đó là điều kiện vào Nước Trời.
Bài Phúc Âm hôm
nay cho ta thấy điều đó. Có lẽ khi đọc bài dụ ngôn này, có nhiều người bất mãn
tự hỏi: "Ông nhà giàu đâu có tội gì mà phải xuống hỏa ngục. Ông không gian
tham, trộm cắp, bóc lột. Tiền của do công sức mồ hôi nước mắt ông làm ra, ông
có quyền ăn xài chứ? Giàu có đâu phải là tội?".
Vâng, giàu có đâu
phải là một tội. Tuần trước Chúa Giêsu đã cho ta thấy giá trị tích cực của tiền
bạc khi dạy ta hãy dùng tiền của mua lấy bạn hữu để họ đưa ta vào cuộc sống
vĩnh cửu. Tiền bạc, nếu biết sử dụng, sẽ có giá trị tích cực. Nhưng nếu không
biết sử dụng, sẽ trở thành nguy cơ.
Nguy cơ thứ nhất
là: tiền bạc có thể mê hoặc tâm hồn.
Khi đó tiền bạc
sẽ trở thành sợi dây trói buộc. Tâm hồn mê tiền bạc giống như con chim bị cột,
không cất cánh bay cao, bay xa được. Đó là trường hợp chàng thanh niên đạo đức
trong Phúc Âm. Anh đến hỏi Chúa Giêsu làm thế nào để được sống đời đời. Anh
muốn vươn lên, muốn tiến bộ trên đường đức hạnh. Nhưng tiền bạc đã ngăn cản
bước tiến của anh. Chúa Giêsu cất tiếng gọi anh. Nhưng tiền bạc đã trói buộc
bước chân. Và anh bỏ cuộc quay về. Đành cam chịu với nếp sống tầm thường xưa
cũ.
Nguy cơ thứ hai
là: tiền bạc dễ làm cho trái tim thành xơ cứng, chai đá.
Người có nhiều
tiền bạc dễ rơi vào tình trạng tự mãn. Tự mãn với những gì mình có, người giàu
sẽ không cần tới ai khác và vì thế sẽ không chú ý đến những người chung quanh.
Đó là trường hợp ông nhà giàu trong bài Phúc Âm hôm nay. Ông có nhà cao cửa
rộng, mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Chỉ mải mê hưởng
thụ, ông không có thời giờ nghĩ đến người khác. Ladarô nằm thoi thóp bên cửa
nhà mà ông không nhìn thấy. Ladarô có rên rỉ vì đau đớn, đói khát ông cũng
không nghe thấy. Tự mãn đã khiến trái tim ông khép chặt lại, biến ông thành vô
cảm trước những đau khổ của tha nhân. Những mẩu bánh dư thừa, ông đâu có tiếc
gì. Thế nhưng ông chẳng có thời giờ nghĩ đến Ladarô. Và người ta vất những mẩu
bánh dư thừa vào thùng rác trong khi Ladarô mơ ước được những mẩu bánh dư ăn
cho đỡ đói. Tự mãn đã biến ông nhà giàu thành ích kỷ, thiếu tình liên đới.
Nguy cơ lớn nhất
mà tiền bạc có thể dẫn tới: đó là làm cho ta mất hạnh phúc đời đời.
Hạnh phúc trên
Nước Trời là một cuộc sống hiệp thông trong tình yêu của Chúa Ba Ngôi. Tình yêu
của Chúa Ba Ngôi là một tình yêu dâng hiến trọn vẹn. Cho đi tất cả để nhận lãnh
được tất cả. Những người ích kỷ không biết cho đi, không biết chia sẻ, không
thể tham dự vào sự sống hiệp thông này. Vì thế, người ích kỷ là người tự chọn
con đường xuống hỏa ngục. Kẻ khép cửa lòng trước nỗi khốn cùng của tha nhân, là
người tự đào huyệt chôn mình. Người sống thiếu tình liên đới là người tự trục
xuất mình ra khỏi Nước Trời.
Bây giờ thì chúng
ta hiểu tại sao ông nhà giàu lại bị đày đọa trong hỏa ngục. Ông nhà giàu không
có tội gì. Ông chỉ có tội thiếu sót: thiếu sót tình liên đới, thiếu sót sự chia
sẻ. Trước đây ông đóng kín cửa để tự ngăn mình với Ladarô. Nay cánh cửa đó biến
thành vực sâu thăm thẳm chia cắt hai người. Trước kia ông chỉ cần xoay nắm mở
cửa là gặp được Ladarô. Nay ông không tài nào vượt qua được vực thẳm ngăn cách.
Trước kia ông nghĩ sẽ không bao giờ cần tới Ladarô. Nay ông biết mình cần
Ladarô cho mình một giọt nước thì đã trễ. Tình liên đới nếu không tạo lập ở thế
gian, khi chết rồi sẽ không còn cơ hội nữa.
Qua dụ ngôn này,
Chúa muốn dạy ta biết: Ta sống trong cuộc đời không đơn lẻ, nhưng sống với
người khác. Người ta không phải là những đường thẳng song song không bao giờ
gặp nhau. Trái lại vận mệnh chúng ta đan xen vào nhau. Vì thế trách nhiệm liên
đới là không thể thiếu được. Do đó cần phải quan tâm đến những người chung
quanh mình. Sự quan tâm này không phải tự nhiên có được, nhưng phải tập luyện
hằng ngày. Phải rèn luyện một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh ngộ
bất hạnh. Phải rèn luyện một trái tim quảng đại sẵn sàng chia sẻ với những anh
em thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở
mắt con để con nhìn thấy Chúa trong những anh em sống chung quanh con. Xin mở
tai con để con nghe được tiếng họ đang than van đau khổ. Xin mở trái tim con để
con biết chia sẻ với mọi người những niềm vui, nỗi buồn của họ. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI
SỐNG
1) Tôi có quan
tâm đến những người sống chung quanh tôi, đặc biệt những người nghèo khổ không?
2) Đời sống tôi
cần đến người khác cả về phương diện tự nhiên lẫn phương diện siêu nhiên. Tôi
có ý thức điều đó không?
3) Một đời sống
quá đầy đủ có thể là nguy cơ cho đời sống thiêng liêng. Tôi làm cách nào để
tránh rơi vào nguy cơ này?
4) Tại sao ông
nhà giàu phải vào hỏa ngục?
4. Cho
thì có phúc – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền
(Trích dẫn từ
'Cùng Nhau Suy Niệm')
Có một cậu bé
thuộc dòng dõi quí tộc đang đi dạo với người giám hộ dọc theo một bờ ruộng, bên
cạnh đó, một người tá điền đang cày ruộng cho cha cậu. Người tá điền cởi đôi
ủng để trên bờ ruộng, cậu bé tinh nghịch muốn dấu đôi ủng ấy để chọc giận người
nông dân, nhưng người giám hộ nói với cậu rằng: "Con chớ làm cho người tá
điền nghèo khổ này buồn phiền, hãy làm cho ông ta vui lên thì tốt hơn. Ta
khuyên con hãy bỏ tiền vào mỗi chiếc ủng, chúng ta sẽ núp ở đằng sau, và xem
thử ông ta sẽ làm gì?"
Cậu bé đã làm như
lời dạy của thầy mình. Chờ cho người nông dân không để ý, cậu đã mon men đến
gần đôi ủng và bỏ vào mỗi chiếc một đồng bạc.
Một lát sau,
người nông dân đã trở lại với đôi ủng của mình. Vừa khám phá ra tiền trong đó
ông đã vội qùy xuống và ngước mắt lên trời để cảm tạ Chúa đã cứu giúp ông trong
lúc túng cực. Ông cũng xin Chúa chúc lành và trả công cho vị ân nhân vô danh.
Nhìn được tất cả
những gì người nông dân đã cầu nguyện, cậu bé cảm động muốn khóc. Đó là ngày
đầu tiên cậu cảm thấy hạnh phúc nhất đời mình.
Vâng, có ai đó
nói rằng: "Cho thì có phúc hơn nhận lãnh". Phúc đức được tích luỹ nhờ
trao ban. Trao ban càng nhiều, phúc đức càng dầy. Thế nên, người có phúc là
người biết cho đi. Người có phúc là người giầu lòng quảng đại, biết chia sẻ cho
người cùng khốn. Cậu bé con nhà quyền quý một lần biết cho đi, cậu mới hiểu
được đâu là hạnh phúc của sự trao ban. Cậu đang ở thế giới của những kẻ quyền
qúy, những kẻ sống trong nhung lụa nên cậu đâu hiểu được cái khổ đau của cuộc
đời "bán lưng cho trời" nơi giai cấp nông dân nghèo hèn. Cậu càng
không cảm nghiệm được niềm vui khi kiếm được một đồng tiền ít ỏi do công khó
mình làm ra. Có lẽ, lần đầu tiên cậu chiêm ngưỡng khuôn mặt rạng ngời của người
nông dân khi nhận được đồng tiền bố thí. Lần đâu tiên cậu mới hiểu được giá trị
của sự trao ban. Có trao ban mới có hạnh phúc. Có trao ban mới tích lũy được
phúc đức cho đời này và đời sau. Và như thế, cuộc đời vô phúc là cuộc đời không
có sự trao ban. Kẻ vô phúc thường ích kỷ tham lam. Kẻ vô phúc chỉ biết nghĩ cho
mình và sống cho mình. Kẻ vô phúc không có cơ hội nhận lãnh niềm vui của sự
trao ban. Kẻ vô phúc sống không có hậu, vì không biết tích lũy phúc đức cho
cuộc đời bằng hành vi bác ái yêu thương.
Bài Phúc âm hôm
nay nói về hai cảnh đời khác nhau. Người phú hộ và anh Lagiaro nghèo khó. Người
phú hộ hạnh phúc đời này nhưng bất hạnh đời sau. Lagiaro nghèo khó thì ngược
lại, anh phải chịu biết bao cay đắng trong cuộc đời ô trọc thiếu vắng tình
người này, nhưng anh lại được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau. Cuộc đời của họ tuy
cùng chung một thời gian và không gian, nhưng xem ra họ lại qúa cách biệt với
nhau. Kẻ ăn không hết, người tìm không ra. Người sống trong nhung lụa, kẻ đói
rách bần cùng. Bài phúc âm không đả phá về sự giầu sang, và cũng không khuyến
khích sống nghèo đói. Bài Phúc âm chỉ nói đến trách nhiệm liên đới với anh em.
Giầu có không phải là tội. Cái tội của người phú hộ là dửng dưng với mảnh đời
bất hạnh của đồng loại. Phúc âm không nói đến việc ông xua đuổi người nghèo khó
trước cửa nhà ông, nhưng chắc chắn ông phải đi qua cuộc đời của họ với thái độ
bàng quang lạnh lùng. Người nghèo đói nằm ở trước cửa nhà ông, nhưng ông đã làm
lơ khi đi ra đi vào. Ông đã không áy láy lương tâm và cũng không một chút chạnh
lòng thương đối với bất hạnh của tha nhân. Tội của ông là sự dửng dưng, coi như
không có sự hiện diện của Lazarô. Một sự mù quáng đến thiếu trách nhiệm liên
đới với tha nhân. Ông có nhiều cơ hội để làm việc lành phúc đức, thế mà ông đã
bỏ lỡ cơ hội mua lấy phúc đức đời sau.
Song le, Lagiarô
không phải vì nghèo mà lên thiên đàng, điều quan yếu là anh không thất vọng về
cuộc đời. Anh không oán trời oán đất. Anh vẫn bình thản với cuộc sống vốn dĩ
đầy khó khăn đối với anh. Cho dù anh đã bị đẩy xuống đến tột cùng, làm bạn với
những con chó, anh cũng vui lòng chấp nhận thân phận mình. Chính vì thái độ
chấp nhận đó mà anh đã được đền bù xứng đáng, anh được giải thoát khỏi khổ đau
đời này và an hưởng hạnh phúc đời đời trong hạnh phúc thiên đàng.
Người xưa có câu:
"Phú nhân bất nhân - Bần bất nghĩa". Giầu có hay khinh người, và
nghèo khó thiếu tử tế. Xem ra giầu nghèo đều khó mà vào nước thiên đàng nếu
không biết vượt qua những trở ngại trong phận số đời mình. Vì thế mà cha ông ta
đã từng khuyên con cháu mình "đói cho sạch rách cho thơm", và
"không ai giầu có ba đời", thế nên cần phải biết sống có đức, để đề
phòng khi sa cơ thất thế vẫn còn có nhiều người hỗ trợ và giúp đỡ mình.
Là người kytô hữu
phải biết thể hiện đức ái trong đời sống hằng ngày của mình. Dù giầu hay nghèo
mỗi người đều phải biết sống vì người khác, và cho người khác. Dù sang hay hèn
vẫn phải toả lan đức ái trong cuộc sống của mình. Đức ái mà như thánh Phaolô
tông đồ đã nói: "Đức ái thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không
vênh vang, không tự đắc. Đức ái tha thứ tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất
cả". Đức ái sẽ giúp chúng ta sống tốt với anh em và đảm bảo cho hạnh phúc
Nước Trời mai sau. Đức ái sẽ là nhịp cầu để ta đến với tha nhân và tiến vào bến
bờ hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Và như thế, ở đời sau, Chúa sẽ thưởng phạt chúng
ta tùy theo mức độ thể hiện đức ái trong cuộc đời hôm nay. Amen.
5. Suy
niệm của Vinh Sơn Dương Văn Đức
Có một đứa trẻ bị
khuyết tật bẩm sinh, hằng ngày đi học, cậu thường bị chúng bạn chế nhạo, bắt
nạt, đó là điều khiến cậu trở nên lạnh lùng và khép kín. Một hôm cha cậu nhặt
được một con chó sắp chết rét từ trong đống tuyết... con chó được đặt nằm xuống
gần chân cậu bé, nó run cầm cập. Cậu bé không thích con chó dơ dáy này, cậu
dùng chiếc nạng của mình đuổi nó đi, nó không biết đi đâu, nên nằm ngoài cửa
kêu ăng ẳng thảm thiết.
Cha cậu nghe
tiếng chó kêu thì biết chuyện. Vì thế, ông đến phòng để trò chuyện với cậu bé.
Khi nghe cậu bé kể ở trường cậu thường bị bạn bè bắt nạt, ông nói: "Tại
sao những đứa trẻ ấy lại bắt nạt con?". Cậu bé nói: "Bởi vì chân con
có tật, con không thể chơi lại chúng nên chúng mới bắt nạt con". Người cha
lúc đó mới ôn tồn nói: "Chúng khỏe mạnh, còn con yếu, cho nên chúng bắt
nạt con. Còn bây giờ thì con rất mạnh, con chó lại rất yếu, vậy tại sao con lại
không biết thương cảm nó?". Nghe xong, cậu bé ngân ngấn nước mắt, một lúc
sau cậu ẵm con chó vào đặt cạnh lò sưởi và vuốt ve nó... Sau này cậu bé trở
thành vị bác sĩ nổi tiếng nhân hậu, được mọi người yêu thương và kính trọng.
Câu chuyện cho
thấy người cha ở đây đã thật khéo léo để biết cách dạy con mình trở thành người
biết yêu thương và nhờ đó người con đã thành nhân và được mọi người quí mến.
Quả thực tình yêu
thương, lòng trắc ẩn là những đức tính làm cho chúng ta trở thành con người
đúng nghĩa. Khi tâm hồn thiếu vắng tình yêu thì phải thấy rằng chúng ta đang
tụt hậu. Còn ai biết sống yêu thương thì lại là những người đang cùng nhau tiến
nhanh trên hành trình của ơn cứu độ. Đây chính là những người mà Chúa Giêsu nói
đến trong bài giảng trên núi: "Phúc thay ai có lòng thương xót vì họ sẽ
được Thiên Chúa xót thương".
Trong bài Tin
Mừng hôm nay, sở dĩ người phú hộ không được vào Nước Trời, vì ông đã không tỏ
lòng thương xót đối với Ladarô, cho dù đó chỉ là một chút nhỏ nhoi dành cho con
người khốn khổ ngày ngày lê lết ăn mày trước cổng nhà ông.
Người phú hộ phải
"chịu cực hình" không phải vì ông còn nhiều của cải, nhưng vì ông đã
không biết "sử dụng của cải mà mua lấy bạn hữu Nước Trời", mà bạn hữu
ở đây không ai khác là chính Lazarô nghèo khó mà ông gặp hang ngày. Thực sự,
tiêu chuẩn để vào Nước Trời không phải ở chỗ giàu hay nghèo, nhưng hệ tại nơi
việc sống bác ái với anh chị em.
Tội của người phú
hộ chính là tội vô tâm, làm ngơ, phớt lờ, không nhìn, không nghe, không thấy
người nghèo, Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn đói khổ. Tội của người phú
hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải làm cho
người đang cần mình trợ giúp. Sẽ có một ngày tất cả chúng ta bước vào một thế
giới mà giấy thông hành không phải là tiền của nhưng chính là tình yêu. Chỉ có
những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh em mới được bước vào.
Thánh Augustinô
có lần đã nói rằng tất cả chúng ta đều là những người ăn mày đang cần đến hồng
ân Thiên Chúa: "Anh em giàu có với những của cải tạm bợ, nhưng anh em cần
những thứ vĩnh cửu. Điều mà anh em làm với những ai khẩn cầu anh em thì Thiên
Chúa cũng sẽ thực hiện như thế với anh em... Hãy đong đầy cho những người anh
em đang túng thiếu, để sự túng thiếu của anh em cũng được đong đầy".
Là những người
cần đến lòng thương xót và nhân từ của Thiên Chúa, những người cầu nguyện với
đôi bàn tay mở ra như những cái bát của người ăn mày, tôi và bạn đến lượt mình,
ta phải cố gắng sống nhân từ, quảng đại và thương xót những người khác, bởi vì
mức độ ta cho sẽ trở thành mức độ mà ta nhận.
Có một bạn sinh
viên đã tâm sự trên Tuổi Trẻ Online như sau: "Dưới cái nắng của buổi trưa
tháng 3, tôi đang vội vã đi bộ từ trường Đại học Nhân văn ra Thư viện Trung tâm
Đại học Quốc gia. Trên đường, một cô bé chừng 16-17 tuổi kéo tôi lại với bịch
tăm tre nhỏ xíu và nói: "Đây là sản phẩm của các em khuyết tật trường Chu
Văn An, mời chị mua ủng hộ". Chẳng cần suy nghĩ, tôi khoát tay từ chối và
vội bước đi, tự nhủ: "Mình lạ gì mấy trò này nữa, chủ yếu là xin tiền chứ
mua bán gì". Tôi đã không ít lần bị lừa ở phòng trọ, cũng như được bạn bè
cảnh báo về mấy người "giả mạo" này. Nhưng đi rồi, tôi vẫn cố ngoái
lại nhìn xem cô bé đó còn ở đó không? Nắng giữa trưa, tôi bịt hai lớp khăn che
mặt vẫn còn thấy rát, vậy mà cô bé tiếp tục đứng đầu trần và mời một bạn sinh
viên khác và người ấy đã mua. Tôi thấy mình xấu hổ. Tôi nhớ thầy tôi từng nói:
"Biết có thể bị lừa vì những người giả bộ bị móc túi, lỡ đường để xin tiền
nhưng thầy vẫn cho. Biết đâu gặp người cần giúp đỡ, có vậy lòng mình mới thanh
thản...". Tôi định quay lại mua cho cô bé bịch tăm nhưng lại ngại, đành
tiếp tục đi, lòng suy nghĩ bứt rứt. Chắc cô bé là học sinh tình nguyện hay đang
là tình nguyện viên cho mái trường ấy. Vậy mà tôi..."
Tâm trạng của
người bạn trẻ này chắc cũng phản ánh thái độ vô cảm mà chúng ta đôi khi vướng
phải trong cuộc đời, khi chúng ta dửng dưng trước những con người đáng thương.
Đó cũng là thực trạng nơi trái tim chai cứng của nhân loại thời nay trước những
đau khổ của đồng loại quanh mình. Suy nghĩ của bạn sinh viên một lần nữa lại
gợi lên trong chúng ta hình ảnh của Tin mừng Lc 16, 19-31: Người phú hộ giàu
có, ngày ngày yến tiệc linh đình, cao lương mỹ vị, nhưng ngay bên lại tồn tại
một anh Lazarô nghèo nàn chết trong đói khổ, không được trợ giúp.
Ở đây cho thấy,
không phải chỉ có làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng
là tự đưa mình xa rời Thiên Chúa và ngăn cách với anh em. Khi mắt ta không để ý
sự đau khổ, tâm hồn ta không chút xót thương đến những người phận nhỏ, lòng
trắc ẩn không hề rung động trước bi thương của anh em đồng loại sẽ tạo nên hố ngăn
cách sâu thẳm giữa ta với tha nhân và với nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa.
Và như cành nho không gắn liền với thân nho, nó sẽ bị khô héo mà chết đi, mất
đi sự sống thần linh, sự sống viên mãn.
Lạy Chúa, Chúa đã
dạy cho chúng con biết số phận con người sẽ được hạnh phúc viên mãn hay bị luận
phạt muôn đời tùy theo chúng con có biết yêu thương tha nhân hay không. Xin
Chúa dắt chúng con luôn đi trên con đường dẫn tới ơn cứu độ: Biết nghe lời
hướng dẫn của Môisê, các ngôn sứ, đặc biệt là Lời Chúa để sám hối, hoán cải và
yêu thương mọi người nhất là những anh chị em nghèo khổ. Vì chúng con biết
Thiên Đàng không dành riêng cho một mình con. Nhưng con chỉ có thể tiến vào
cùng với anh chị em trong tình yêu thương – Amen.
6. Bạn
hữu của Thiên Chúa – Pm. Cao Huy Hoàng
Chúa thương người
giàu
Tôi không bênh
vực cho những người giàu có, nhưng thiết nghĩ, trong Tin Mừng theo Thánh Luca
16,19-31 hôm nay, Chúa Giêsu không lên án người phú hộ, nhưng lên án lòng ích
kỷ, không bác ái, không thương người của người phú hộ. Ngài có thương những
người giàu có đấy chứ. Vì thương, Ngài mới dùng dụ ngôn để cảnh cáo họ, để dạy
họ cách sống bác ái để được sống đời đời trong lòng tổ phụ Abraham, theo cách
người Do Thái thường suy nghĩ.
Tiên tri Amos
cũng đã từng được Thiên Chúa sai đến miền Bắc nước Do Thái, lên tiếng cảnh cáo
một xã hội phân hóa trầm trọng giữa giàu và nghèo, mà những người giàu có toa
rập với những người có chức có quyền "đang nằm trên giường ngà, thõng
thượt trên sạp gụ" "ăn chiên cừu bê để sẵn, nghêu ngao theo cung điệu
Davit, uống rượu tô, xức dầu thượng hạng thơm nức". (Am 6,4-6). Họ đang
sống cảnh phong lưu sa đọa mà như một thứ tôn giáo trá hình, thứ tôn giáo mượn
danh nghĩa ích nước lợi dân để thu quén bao thành quả của dân nghèo vào tay
những ông to ông lớn và ông tư sản. Cái cho đi của họ là một thứ đạo bác ái cho
dân nước theo kiểu "hòn đất ném đi hòn chì ném lại", hoặc "thả
con tép bắt con tôm". Thực ra, Tiên tri Amos trách họ chẳng màng đến vận
mệnh của đất nước, của dân tộc, của đồng bào nhân dân. Họ chỉ biết tiệc tùng
say xỉn "chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ" (Am 6,6).
Lời cảnh cáo của Amos thật nặng nề dành cho những kẻ giàu có và quyền chức ăn
chơi "Chúng sẽ bị lưu đày, đi đầu những kẻ lưu đày. Thế là tan tác bè lũ
quân phe phởn".Lời cảnh cáo của Tiên tri Amos, như vẫn còn nghe đâu đây
trong thế giới hôm nay:"ngàn năm mây trắng vẫn bay, mấy ngài lãnh đạo có
ngày lãnh đao". Người giàu có hôm nay cũng giống như thời tiên tri Amos,
tập trung hầu hết vào những người có chức có quyền. Bởi vậy ngàn xưa đã có câu:
"nhất thế, nhì thân, tam cần, tứ đức". Giàu nhờ cậy quyền cậy thế
nhiều hơn giàu nhờ đức.
Nhưng, dù thế nào
đi nữa, thì tôi vẫn cho rằng, đây là những lời tình từ lòng yêu thương của
Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa không muốn mất đi một con người nào. Thiên Chúa muốn
con người làm giàu cách chân chính, vì những cách làm giàu bất lương, giàu trên
xương máu, mồ hôi của kẻ khốn cùng là thứ giàu có tội lỗi, là con đường dẫn đến
diệt vong. Người làm giàu chân chính thì cảm thông với người cùng khổ. Còn
người làm giàu bất lương, thì tự họ đã bất lương trước khi làm giàu. Nói như
Thánh Nicolas: "họ có thể đốt nhà bạn để luộc cho mình một quả
trứng", cũng vậy, "họ có thể hy sinh một dân tộc, miễn là họ được an
thân". Chúa yêu cầu người giàu thay đổi cách sống: bỏ đi tính ích kỷ nhỏ
nhoi, hướng đến tha nhân với tương quan đồng vị, cùng sống với cuộc sống của
tha nhân trong bất cứ tình huống nào.
Quả vậy, trong dụ
ngôn Tin Mừng, không lẽ người giàu "lụa là gấm vóc, ngày ngày yến
tiệc", có mắt mà không thấy "Lazaro nghèo khó,mụn nhọt đầy mình nằm
trước cổng nhà ông" ấy sao? Con chó nhà ông còn trông thấy chạy đến liếm
ghẻ chốc cho anh ta kia mà! Quả thực người giàu có có thấy, nhưng không động
lòng trắc ẩn, vì ông không có lòng trắc ẩn để động. Người nghèo không
"khóc than kêu cứu" hay "làm đơn xin" gì cả, nhưng anh ta
chỉ nằm đó thôi, đã đủ là một lời xin thống thiết; anh ta cũng không gõ cửa hay
kêu gào, nhưng người giàu nếu giàu lòng quảng đại bác ái, giàu lòng trắc ẩn thì
đã thấy cảnh tượng thương tâm, đã nghe tiếng gõ nhức nhối tận thâm sâu cõi
lòng.
Vậy tôi có thể
kính thưa với những người giàu có hôm nay rằng: Chúa không bỏ các bạn đâu, Chúa
muốn các bạn làm giàu chân chính. Chúa không kết án các bạn đâu, nhưng qua lời
Tiên tri Amos và dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa đang cho các bạn một cơ hội để
mở mắt nhìn những bạn hữu nghèo khó của Thiên Chúa, để mở tai nghe nỗi đau của
họ đang kêu gào mà nghẹn ngào không thành tiếng, để mở lòng đón nhận họ như đón
nhận chính Đức Kitô, để mở bàn tay ra mà chia sẻ cho họ một cuộc sống đồng nhân
vị ở đời nầy, để chính họ sẽ chia cho bạn một chỗ trong lòng tổ phụ Abraham và
trong lòng Thiên Chúa mai sau.
Chúa cứu người
nghèo
Với những người
nghèo, nghe đoạn Tin Mừng hôm nay, những người nghèo khổ túng thiếu trong cuộc
đời, những cái bang, hiệp khách ăn mày, những người ở đất nước nghèo đội sổ như
chúng tôi, thường phấn khởi lắm- phấn khởi vì được Chúa ủi an, nhưng cũng không
thiếu cái phấn khởi do tâm lý thỏa mãn lòng ganh ghét bấy lâu nay với những
người giàu có, quyền lực. Vì thế, tôi nghĩ trong dụ ngôn nầy, không chỉ những
người giàu, mà cả những người nghèo cũng cần phải cảnh giác. Vì điểm chính của
Lời Chúa dạy, không phải là giàu hay nghèo, mà là biết chia sẻ hay không biết
chia sẻ, quảng đại hay ích kỷ, bác ái vị tha hay hà tiện vị kỷ.
Cái thói quen trả
thù của người nghèo cơm áo gạo tiền, nghèo chữ nghĩa "thấy ai hoạn nạn thì
vui mừng", nhất là những người giàu có, quyền thế, thiếu đạo đức gặp hoạn
nạn thì càng mừng hơn- cho là "ông trời có mắt", "lưới trời lồng
lộng" hoặc "Chúa phạt nhãn tiền" là không hợp với tinh thần bác
ái Kitô Giáo. Hơn nữa, dụ ngôn Người Phú Hộ và Lazaro nghèo khó hôm nay, rất dễ
đẩy chúng ta vào một xu hướng lạc đề: "chấp nhận cảnh nghèo khổ túng thiếu
ở đời nầy để được hạnh phúc ở đời sau", mà quên một điều quan trọng là:
"chính trong cảnh nghèo khổ túng thiếu ấy, chúng ta cũng có bổn phận phải
chia sẻ cho nhau". Không đợi người giàu thực thi đức bác ái, mà chính
người nghèo phải giúp đỡ người nghèo, người khuyết tật giúp cho người khuyết tật,
người tù lo cho người tù, người ổ chuột thương người ổ chuột... như thế mới là
đúng tinh thần dụ ngôn Tin Mừng hôm nay. Người giàu có, có cách chia sẻ của
người giàu có, người nghèo khổ cũng có cách giúp đỡ chia sẻ cho nhau; miễn là
có một tấm lòng nghĩ đến tha nhân. Một điểm tâm lý khôi hài nữa là: ai cũng
nghĩ mình nghèo, không thể giúp đỡ người khác. Họ chỉ có thể giúp đỡ tha nhân
khi họ cảm thấy họ dư thừa. Đối với Chúa thì không phải như thế: đồng bạc cuối
cùng của bà góa là đồng bạc giá trị. Vì bà đã cho đi chính sự sống còn của bà,
và giao phó sự sống còn của bà cho Thiên Chúa. Vì những suy tư trên đây, tôi
nghĩ, chúng ta nên sợ cảnh "nghèo lòng bác ái", vì nghèo lòng bác ái
cũng đồng nghĩa với nghèo ba nhân đức quan trọng "Tin Cậy Mến".
Từ "Lazaro"
tiếng Do Thái có nghĩa là "Thiên Chúa cứu giúp". Nhân vật Lazaro là
nhân vật hư cấu trong dụ ngôn, đại diện cho những người nghèo khổ, túng thiếu.
Nhưng, qua hình ảnh Lazaro, không nên lầm tưởng rằng người nghèo được vui mừng
hả dạ vì mấy người giàu "khó vào nước trời" hoặc bị phạt xuống hỏa
ngục đời đời.. Ngược lại, là những người nghèo, hãy tạ ơn Chúa cho chúng ta
sống trong cảnh nghèo khổ khốn khó, có cơ hội dễ cảm thông và sẻ chia với những
người nghèo khổ khốn khó, có cơ hội nhận ra chính chúng ta và những con người
nầy là Bạn Hữu Của Thiên Chúa. Hãy chia sẻ với các bạn của Chúa, như Đức Kitô
đã chia sẻ đến tận cùng cuộc sống mình. Và khi không còn gì để chia sẻ, chúng
ta sẽ là một Lazaro được "Thiên Chúa cứu giúp", được ngồi gần các tổ phụ,
giữa lòng Abraham và trong cung lòng của Thiên Chúa. "Thiên Chúa cứu giúp
người nghèo"- không phải những người nghèo vì họ nghèo- nhưng là những
người nghèo vì họ đã cho đi tất cả những gì mình có. Những người cho đi tất cả
là Bạn Hữu của Thiên Chúa, được "Chúa thương cứu giúp", được Thiên
Chúa đền bù xứng đáng trong Nước Vinh Hiển của Người.
7. Hãy
nghe các ngài
(Suy niệm của Lm.
Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)
Đoạn nầy có thể
chia thành ba phần: - Cuộc sống của người giàu có và Lazarô trên trần gian
(16,19-21); - Số phận của hai người sau khi chết (16,22-23); - Tình trạng cực
hình của người giàu có (16,24-31). Ngoài việc chia sẻ chủ đề chung về việc sử
dụng của cải, đoạn nầy bàn thêm về hậu quả của việc sử dụng ấy khi cuộc đời nầy
qua đi. Số phận của người giàu có và Lazarô đảo ngược trong cuộc đời bên kia.
Luca nhấn mạnh rất nhiều về việc Thiên Chúa đảo ngược số phận giữa người khiêm
hạ và người quyền thế (1,46-55), giữa các Phúc Thật và Chúc Dữ (6,20-26), và ở
đây giữa người giàu và người nghèo (16,19-31).
Cuộc sống của
người giàu có và Lazarô trên trần gian
Trong hai câu dẫn
nhập Luca mô tả hai con người với hai cuộc sống hoàn toàn tương phản nhau: một
người giàu có (c. 19.21) và Lazarô nghèo khó (c. 20). Sự giàu có của người nầy
được mô tả qua cách ăn mặc: áo đỏ tía, porphyra, chỉ dành cho vua (x. Mc
15:17.20; Kh 18:12) và hàng mịn, byssos. Cả hai thứ nầy được kể là những đồ quí
giá chung với vàng bạc, đá quý và ngọc ngà (Kh 18:12). Động từ "mang"
ở thì quá khứ chưa hoàn thành cho thấy ông thường ngày mang áo quần nầy, chứ
không phải chỉ một dịp lễ lạc trọng thể nào đó. Việc ông "làm yến
tiệc", euphrain#, cũng kiên tục, và việc nầy nhắc đến thái độ tự hài lòng
của người giàu có trên của cải ông đã kiếm được, ăn uống, hưởng thụ và chỉ dừng
lại ở đó (12:19).
Tương phản với
người giàu có là người nghèo Lazarô. Khi Luca dùng cách nói "tên là"
(1:5.13.26.27.31...), ông muốn ám chỉ đó là người được ưu ái trước mặt Thiên
Chúa. Hơn nữa, tên "Lazarô" có nghĩa là "Thiên Chúa trợ
giúp". Sự nghèo khốn của Lazarô được diễn tả qua tình cảnh bệnh tật của
ông: nằm liệt do bệnh, ball#, và nhức nhối (c. 20) do những vết thương lở loét
của ông (c. 21). Đến lúc nầy, dụ ngôn không nêu lên một lỗi phạm nào của người
giàu có. Chỉ trong câu 21, tình cảnh của Lazarô được mô tả thêm và sai lỗi của
người giàu có mới được hình dung ra. Lazarô nằm ở trước cửa nhà người giàu có:
đói lả và muốn được ăn no như tình cảnh của người con hoang đàng (15:16). Động
từ "ước muốn" nầy ở thể phân từ hiện tại diễn tả tình trạng kéo dài.
Như thế, Lazarô ở đó mỗi ngày và chờ đợi những mẩu bánh vụn từ trên bàn rơi
xuống. "Cái bàn" gợi lên yến tiệc của người giàu có; qua đó, cho thấy
người giàu có không nghĩ gì khác ngoài việc hưởng thụ cuộc sống giàu có của
ông. Ông chỉ sống cho mình và không biết đến Lazarô nghèo khó trước cửa nhà
ông. Bởi lỗi phạm đó mà ông sẽ chịu hậu quả sau nầy.
Số phận của hai
người sau khi chết (16:22-26)
Đoạn nầy và đoạn
kế tiếp (16:27-31) được trình bày dưới hình thức đối thoại giữa người giàu có
và Abraham. Những gì được nói đến trong hai đoạn nầy không nhằm mô tả cuộc sống
sau khi chết, mà sự khác biệt tận căn và sự đảo ngược giữa cuộc sống của người
giàu có và Lazarô. Câu 22 là câu chuyển tiếp: người giàu có cũng như người
nghèo khó đều chết như nhau (c. 22), nhưng số phận họ lại khác nhau. Lazarô
được các thiên thần đem vào lòng Abraham; trong khi người giàu có "được
chôn cất". Abraham, tổ phụ của dân Do thái (1:55.73; 3:8). "Lòng
Abraham" là phần trước ngực. Ngồi vào lòng ai có nghĩa là nằm dựa đầu vào
ngực người ấy. Đây là vị trí cận kề và thân thiết (x. Gio 1:18; 13:23). Hình
ảnh nầy gợi lên bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa, trong đó có Abraham và tất cả
các tổ phụ khác và các tiên tri (13:28). Như thế, Lazarô nghèo khó và thiếu
thốn của ăn nuôi sống trên trần gian, nay được thông hiệp với Abraham. Và Thiên
Chúa của Abraham là Thiên Chúa của sự sống (20:37-38). Trong khi đó, người giàu
có "được chôn cất", ám chỉ ông nằm giữa những kẻ chết (x. 9:59-60).
Điều nầy được xác định rõ hơn trong cách nói "trong âm phủ" (c. 23).
"âm phủ" là giang sơn của người chết và nơi của sự hủy diệt (x. Cv
2:27.31), hình phạt (Kh 20:14). Đối nghịch với "âm phủ" là trời, nơi
cư ngụ của Thiên Chúa (x. 10:15).
Tình cảnh khốn
khổ của người giàu có (16:24-31)
Nội dung của phân
đoạn nầy được trình bày qua hình thức đối thoại với ba lần thỉnh cầu của ông
(cc. 24.27-28.30) và ba lần từ chối của Abraham (cc.25-26.29.30). Qua cuộc đối
thoại ngắn nầy, tình cảnh khốn khổ của người giàu có được trình bày thêm.
Lời thỉnh cầu thứ
nhất (c. 24): "xin thương xót tôi" (c. 24). Lời nầy trong Luca chỉ
xuất hiện trong trình thuật người mù thành Giêricô (18:38.39), và mười người
phong cùi. Người giàu có đang ở trong tình trạng vô phương cứu chữa như những
người nầy. Hai yếu tố khác cho thấy tình cảnh của ông đã bị đảo ngược. Trước đây
ông chỉ mặc áo đỏ tía và lụa là, giờ đây ông đang chịu cực hình, odynaomai,
giữa lửa cháy bao quanh ông, trong khi Lazarô ở nơi mát mẻ. Trước đây, ông nằm
trên giường tiệc, Lazarô bên dưới và chờ mong những mảnh bánh vụn rơi xuống từ
bàn tiệc của ông. Giờ đây, ông phải nhìn lên mới thấy Lazarô, và nài xin một
giọt nước từ ngón tay của Lazarô nhỏ vào liệng lưỡi ông.
Trong câu trả lời
của Abraham (cc. 25-26) Luca nhắc lại quá khứ "hãy nhớ lại". Ông nói
đến "điều tốt" và điều xấu", như là sự tương phản giữa hai người
(c. 25). "Điều tốt" ở đây là của cải đời nầy (6:45; 12:18.19). Sau
đó, Luca khẳng định điều đang xảy ra, "bây giờ" hai người. Động từ
"an ủi" (c. 25) nhắc lại lời "Khốn cho các người giàu có, vì các
người đang được an ủi" (6:24). Người giàu có đã được an ủi đời nầy, thì
đời sau chịu khốn khổ; trong khi Lazarô được an ủi đời sau. Đây là một trong
những cách hành động của Thiên Chúa (1:52). Tiếp theo Abraham nói đến sự phân
cách tuyệt đối và khách quan giữa hai người (c. 26). Một "vực thẳm"
"được đặt ra" (ở thể thụ động); không thể có hiệp thông giữa hai bên.
Không thể qua lại với nhau được. Như thế người giàu có bị loại hẳn khỏi sự hiệp
thông với Abraham.
Lời thỉnh cầu thứ
hai (cc.27-28.29): trong lời thỉnh cầu nầy, ông không nghĩ đến bản thân nữa, vì
ông đã ý thức tình trạng khốn khổ không thể cứu vớt của mình. Bởi đó, ông kêu
xin Abraham hãy nghe lời ông xin. Ông nghĩ đến những người anh em của ông đang
còn sống trên trần gian, và muốn tránh cho họ khỏi rơi vào nơi khốn khổ như
ông. Lời đáp của Abraham là chỉ cho thấy phương thế cứu khỏi nơi ấy, chính là
nghe lời Môsê và các ngôn sứ (c. 29; 24:44). Mệnh lệnh "Hãy nghe"
phải dẫn đến việc làm theo điều đã nghe. Mệnh lệnh nầy cho thấy cách gián tiếp
là người giàu có đã không nghe lời Môsê và các ngôn sứ nên đã không để ý đến
những người nghèo (Lv 19:9-10; Đnl 14:29; 15:7-11). Ông đã không quan tâm nghe
lời của Thiên Chúa, nên không biết ý muốn của Người. Ông chỉ quan tâm đến sự
giàu có và sự thụ hưởng của ông.
Lời thỉnh cầu thứ
ba (cc. 30.31): người giàu có cố gắng nài xin thêm một lần nữa cho anh em nhà
của ông. Ông nghĩ anh em của ông sẽ "hoán cải" nếu như được người
chết hiện ra. Tuy nhiên sự hoán cải không được thực hiện bởi phép lạ, mà bởi
lời rao giảng về Chúa Giêsu (x. 11:32; Cv 2:36-38; 3:18-19). Hoán cải là mở
lòng đón nhận, tin vào Thiên Chúa và thay đổi cuộc sống. Do đó, nếu không nghe
lời Môsê và các ngôn sứ, không thể hoán cải được. Người chết có hiện ra chỉ vô
ích mà thôi.
Luca sẽ không
dừng lại ở việc mô tả hậu quả của việc sử dụng của cải không đúng theo ý Thiên
Chúa. Ông sẽ nói đến cách hành động tích cực đối với của cải. Đó là phân phát
cho người nghèo (4:18; 18:22; 19:8; 21:3). Cuộc sống ở trần gian không là tất
cả. Số phận đời sau tùy thuộc cuộc sống hôm nay. Muốn được an ủi đời sau, phải
thi hành ý Thiên Chúa hôm nay.
8. Khoảng
cách – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Dụ ngôn người phú
hộ và Lazarô mô tả một bức tranh tương phản, một khoảng cách rất gần mà lại rất
xa, hai con người với hai cuộc đời, hai hoàn cảnh trái ngược nhau.
1. Khoảng cách
đời này
Người phú hộ dư
ăn dư mặc, Lazarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc,
Lazarô rách nát tả tơi. Người phú hộ nhà cao cửa rộng, Lazarô lê lết bên cổng
ăn xin. Người phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Lazarô không có một chút bánh
để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Hai con người ấy
thật gần nhau trong khoảng cách, chỉ cách nhau có cái cổng, một cái cổng luôn
khép kín như lòng người giàu có. Nhưng họ lại thật xa nhau trong tình người.
Thánh Luca với
ngòi bút sắc bén, linh hoạt, đầy thương cảm đã nói lên một nghịch lý cuộc đời.
Đọc dụ ngôn ai cũng cảm thấy xót xa chua chát, xót xa cho người giàu và chua
chát cùng kẻ nghèo. Khoảng cách giữa hai người thật xa vời vợi trong một lối so
sánh đầy ấn tượng: người phú hộ sống trong nhung lụa, hưởng thụ mê say đang khi
kẻ bất hạnh nằm chờ chút bánh rơi xuống từ bàn ăn mà chẳng có, chỉ có mấy con
chó đến liếm ghẻ chóc. Phú hộ giàu có của cải nhưng lại nghèo nàn tình người.
Lazarô nghèo khổ mà chẳng được xót thương. Cả hai đều nghèo tình thương, kẻ
không ai thương, người không thương ai.
2. Khoảng cách
đời sau
Cái chết đến làm
đổi thay tất cả. Cái chết đồng đều cho mọi người nhưng số phận sau cái chết lại
khác nhau. Một cuộc hoán đổi thật thú vị. Lazarô từng lê lết dưới chân bàn ăn
được đưa lên mây trời, còn người ngồi nơi cao sang với mâm cao cỗ đầy bị đày
xuống vực thẳm. Lazarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả
ngục. Một lần nữa, dụ ngôn mô tả khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên
này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể.
Lazarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin
với Abraham "sai Lazarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho
mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt."
3. Khoảng cách
đời này và đời sau
Khoảng cách nơi
cuộc sống trần gian sẽ được hoán đổi vị trí sau cái chết. Vậy phải chăng dụ
ngôn muốn trình bày vấn nạn: hễ sung túc giàu có ở đời này thì bất hạnh cực
hình ở đời sau? Hôm nay khốn khổ đói nghèo thì mai sau được hạnh phúc sung
sướng? Có phải đó là lối an ủi ru ngũ, là thuốc phiện xoa dịu những người nghèo
hãy chấp nhận, hãy an phận? Đời này cùng khốn, rách rưới thì đời sau sẽ hưởng
phúc thiên đàng?
Chắc chắn Thánh
Kinh không bao giờ trình bày như thế. Giàu có không phải là tội lỗi và nghèo
khổ không là giấy thông hành vào Nước Trời. Trình thuật dụ ngôn rất ăn khớp với
toàn bộ tác phẩm, trong đó Luca thường đề cập đến người giàu kẻ nghèo để khuyến
cáo hay khích lệ tuỳ trường hợp. Dụ ngôn nằm trong chủ đề của chương 16 giáo
huấn về việc sử dụng tiền bạc của cải làm sao để đạt tới ơn cứu độ.
Người phú hộ bị
luận phạt hoả ngục không phải vì ông ta giàu có mà vì ông đã khép cửa khép
lòng, sống dửng dưng, làm ngơ trước nổi khổ đau của người khác. Cái tội phú hộ
mắc phạm là phớt lờ người nghèo, là "mackeno" (mặc kệ nó) trước sự
cùng khốn của tha nhân. Phú hộ không la mắng chửi bới, không đuổi Lazarô ra
khỏi nhà, nhưng điều đáng trách là ông ta không thèm ngó nhìn người ăn xin van
lơn. Tội của người phú hộ chính là tội hững hờ. Ở cạnh bên nhau mà không thấy
nhau, không biết nhau, không giúp đỡ nhau thì thật là quá vô tình, quá hờ hững.
Hoàn cảnh của Ladarô quá khốn khổ thế mà người phú hộ vẫn hững hờ đến nỗi
Ladarô phải chết vì đói đang khi ông ta lại quá dư thừa, thành ra tội hững hờ
của người phú hộ trở thành tội nặng làm cho ông ta đáng phạt trong hỏa ngục.
Trong bài đọc 1,
Tiên tri Amos với lối nói cay độc chua chát đã tiên báo những sự trừng phạt
khủng khiếp dành cho những kẻ giáu có đang hưởng thụ xa hoa mà không biết xót
thương người khốn khổ. Của cải vật chất đã trở thành bức tường khép kín, người
giàu có sống an toàn mãn nguyện trong không gian riêng mình. Chính họ đã tạo ra
khoảng cách vực thẳm. Họ không cần Thiên Chúa cũng chẳng cần biết đến tha nhân,
khoảng cách đó lớn dần và kéo dài đến đời sau. Vực thẳm ngăn cách con người ở
đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này.
Lazarô không phải
vì nghèo khổ mà được trọng thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ
Abraham, nhưng vì biết chấp nhận số phận hẩm hiu và đặt niềm cậy trông phó thác
nơi Thiên Chúa. Danh xưng Lazarô theo Luca có nghĩa là "Thiên Chúa là Đấng
phù trợ tôi". Người nghèo biết tin tưởng và phó thác, điều đó mới mang lại
cho họ ơn phúc làm con tổ phụ Abraham, cha những kẻ tin.
Con người đi đến
vong thân khi sống thiếu tình thương và thiếu tình người. Khi khép kín lòng
mình với Thiên Chúa, chỉ bằng lòng với của cải trần gian mà quên đi cuộc sống
vĩnh cữu; và khi khép kín lòng mình với tha nhân, mắt không xót thương, lòng
không xúc động trước các nghịch cảnh thì chính họ ngày càng nghèo nàn tình
thương. Dụ ngôn phú hộ và Lazarô là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật
chất, hưởng thụ trần gian mà quên đi tình Chúa tình người. Dụ ngôn còn là lời
kêu gọi ý thức trách nhiệm xây dựng tình liên đới với tha nhân, nhất là người
nghèo.
Chúa Giêsu đã
dùng tình thương để xoá bỏ khoảng cách giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con
người khi Ngài làm người, một người nghèo giữa những người nghèo. Ngăn cách
giữa người giàu kẻ nghèo, giữa nô lệ và tự do giờ đây không còn nữa, tất cả là
anh em của nhau, là con cùng một Cha trên trời. Mọi người được mời gọi sống Tin
Mừng, sống liên đới với nhau và với người nghèo.
Lý tướng Kitô
giáo không phải là yêu mến sự khó nghèo mà là yêu thương người nghèo khó. Chúa
Giêsu là Đấng giàu có đã trở nên nghèo khó, Ngài luôn yêu thương và sống liên
đới với người nghèo. Vì vậy người môn đi theo Chúa Giêsu chính là để trở nên
giống Ngài. Tông huấn Giáo Hội Á Châu dạy rằng: Người đời dễ tin hơn tình liên
đới với kẻ nghèo, nếu chính Kitô hữu biết sống giản dị theo gương Chúa Giêsu.
Sự đơn sơ trong cách sống đức tin sâu xa và tình yêu không giả vờ đối với mọi
người, nhất là người nghèo và bị bỏ rơi, đó là những dấu chỉ Tin mừng trong
hành động (GHAC số 34).
Vẫn còn quá nhiều
người nghèo vật chất, nghèo tình thương, nghèo văn hoá. Người Kitô hữu được mời
gọi sống quãng đại, liên đới giùp nhau thăng tiến. Hãy mở rộng lòng cho yêu
thương, cho chia sẽ trong cuộc sống hàng ngày. Đừng sống hững hờ, cần rèn luyện
một trái tim nhạy bén biết cảm thương những cảnh đời bất hạnh, biết quãng đại
chia sẽ với những người thiếu thốn.
Lạy Chúa, xin mở
mắt mở, mở tai vả mở trái tm con để con thấy, con nghe, con biết sẽ chia niềm
vui nổi buồn, hạnh phúc đau khổ với hết mọi người. Amen.
9. Giấy thông
hành Nước Trời – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ
'Như Thầy Đã Yêu')
Ngày xưa, bên Tàu
có một ông vua tự cho mình là người yêu nước thương dân, nhưng lại chẳng bao
giờ để ý đến cảnh khổ của dân chúng. Trái lại, ông chỉ biết đến yến tiệc linh
đình, trang hoàng cung điện, xây cất dinh thự, sưu tầm những kỳ hoa dị thảo, để
mong được nở mày nở mặt với lân quốc.
Một hôm, nhà vua
nghe nói ở một ngôi chùa trong nước có một loại hoa hồng quí hiếm, từng bông
hoa to đẹp rực rỡ, bao phủ cả một khu vườn. Nhà vua báo tin cho vị sư trụ trì
là ông sẽ đến thăm để biết thứ hoa hồng quí lạ. Khi được tin báo và được biết
giờ vua sẽ đến, vị sư liền cắt tất cả những đóa hồng xinh tươi đổ vào hố rác
chỉ để lại một bông duy nhất đang thắm nở.
Vào đến vườn, nhà
vua lấy làm lạ vì thực tế khắc hẳn với tin đồn. Khi biết được sự việc, nhà vua
hỏi vị sư tại sao làm như thế. Vị sư từ tốn trả lời:
- Thưa bệ hạ, nếu
thần để tất cả các hoa nở rộ trên cành, bệ hạ sẽ không thưởng thức được vẻ đẹp
của từng bông hoa. Vì thần biết bệ hạ chỉ có thói quen nhìn đám đông chứ không
để ý đến từng cá nhân.
Thiên Chúa của
chúng ta không có thói quen chỉ nhìn đám đông, nhưng Người quan tâm đến từng
con người. Thiên Chúa yêu thương con người không có tính cách chung chung,
nhưng Người chăm sóc cho từng người một. Mỗi một con người là một nhân vị, có
nhân phẩm cao quí. Mỗi một con người là một tác phẩm tuyệt vời của Người, với
những ơn riêng mà người khác không có được. Mỗi một con người là một bông hồng
rực rỡ sắc mầu, thơm ngát hương hoa.
Người phú hộ
trong bài Tin Mừng hôm nay sở dĩ phải trầm luân muôn kiếp, vì ông ta đã không
nhìn người nghèo khó Ladarô với cái nhìn ấy. Thậm chí ông cũng chẳng thèm nhìn
con người khốn khổ ngày ngày lê lết bên cổng nhà ông.
Người phú hộ phải
"chịu cực hình" không phải vì ông nhiều của cải, nhưng vì ông đã
không san sẻ của cải cho người thiếu thốn, ngay cả những của thừa thãi trên bàn
tiệc cũng chẳng đến tay người nghèo.
Người phú hộ phải
tống xuống biển lửa không phải vì ông đã làm ra nhiều của cải, nhưng vì ông đã
quá cậy dựa vào tiền của, trong khi người nghèo khó chỉ biết cậy dựa vào Chúa;
Ladarô có nghĩa là "Thiên Chúa giúp đỡ".
Vậy tội của người
phú hộ chính là tội làm ngơ, tội phớt lờ, tội không nhìn, không nghe, không
thấy những Ladarô đang van xin cứu giúp trong cơn túng quẫn cùng cực. Tội của
người phú hộ chính là tội thiếu sót, tội đã không làm những gì lẽ ra mình phải
làm cho một ai đó đang cần trợ giúp. Bác sĩ Albert Schweitzer, người đã bán hết
gia tài kếch xù của ông, xây một bệnh viện và dấn thân cứu giúp những con người
cùng khổ nhất Châu Phi đã đặt ra câu hỏi cho chính mình: "Làm sao chúng ta
có thể sống hạnh phúc trong khi có biết bao người đang đau khổ?"
Sẽ có một ngày
tất cả chúng ta bước vào một thế giới mà giấy thông hành không phải là tiền của
nhưng chính là tình yêu. Chỉ có những ai yêu mến Thiên Chúa và thương yêu anh
em mới được bước vào.
Sẽ có một ngày
người phú hộ chẳng còn yến tiệc linh đình, chẳng còn trận vui tới sáng, trận
cười suốt đêm, nhưng sẽ phải đuổi khỏi bàn tiệc và lao xuống hỏa hào muôn kiếp.
Sẽ có một ngày
người Ladarô nghèo khó chẳng còn lê lết dưới đất đen, không còn nhặt những
miếng bánh vụn nơi bàn tiệc người phú hộ, nhưng sẽ được nâng lên "trong
lòng Abraham" vui hưởng hạnh phúc muôn đời.
Lời giảng của Đức
Thánh Cha Gioan Phaolô II trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ lần đầu tiên ngày
2.10.1979 đáng cho chúng ta suy nghĩ: "Chúng ta không thể thờ ơ vui hưởng
của cải và tự do của chúng ta nếu bất cứ ở vùng nào đó, người nghèo khó Ladarô
của thế kỷ 20 vẫn còn đang đứng chờ chúng ta ngoài cửa... Các bạn đừng bao giờ
bằng lòng với hành vi chỉ cho họ những mẩu bánh vụn nơi bàn tiệc. Các bạn chỉ
nên lo lắng cho đủ phần chính yếu của cuộc sống mà thôi chứ đừng tìm cách sống
cho sung túc dư dật, để nhờ đó các bạn có thể giúp đỡ những người nghèo khổ. Đồng
thời, các bạn hãy đối xử với họ như những thực khách trong gia đình các
bạn".
Lạy Chúa, thánh
Tôma Aquinô đã dạy: "Những người giàu có đã đánh cắp của người nghèo khó
khi họ tiêu xài phung phí những của cải dư thừa". Xin cho chúng con biết
san sẻ cho nhau, để trái đất này trở nên sung túc và yêu thương, vì giàu có
thật là yêu thương và nghèo nàn thật là ích kỷ.
Xin dạy chúng con
bí quyết làm giàu bằng cách chia sẻ cho nhau những của cải Chúa ban. Amen.
10. Ông
Dives và anh Lazarô – Vincent Travers
Có hai nhân vật
trong câu chuyện này. Trước hết là người giàu có, tạm gọi là Dives.
"Dives" tiếng La-tinh, có nghĩa là "giàu có". Ông ta sống
trong sự giàu sang. Ông ăn uống no say mỗi ngày trong một đất nước mà thường
dân may mắn lắm mới có được một bữa no bụng mỗi tuần.
Nhân vật thứ hai
là anh Lazarô nằm trước cổng, ngửa tay xin của ăn dư thừa. Anh rất đau yếu bệnh
hoạn. Mình mẩy anh đầy ghẻ chốc. Anh yếu đuối cho đến nỗi không đủ sức chống đỡ
những con chó ngoài đường đến quấy phá, liếm ghẻ chốc của anh.
Thời đó trên bàn
ăn không có dao nĩa và khăn lau, bởi vì người ta ăn bằng tay. Trong những gia
đình phong lưu, những miếng bánh mì rẻ tiền được vứt bỏ sau bữa ăn. Họ rửa tay
bằng cách lau chùi tay trong bánh mì và bánh mì dơ bẩn được thu nhặt cho vào
thùng đựng rác. Chính đó là những mảnh vụn bánh mì mà người nghèo khổ Lazarô
đang mong đợi để nuôi sống mình.
Câu chuyện anh
Lazarô và ông Dives nhắc tôi nhớ lại mẩu chuyện một người đàn bà đĩ thoã và ông
trưởng giả đi chung trong một chuyến tàu. Người đàn bà nói: "Ông ơi,ông
sặc mùi hôi." Ông kia đáp lại: "Thưa bà, tôi xông mùi thối, còn bà
đánh hơi."
Do đó, anh Lazarô
là hình ảnh của sự nghèo nàn khốn khổ, còn ông nhà giàu là hình ảnh của sự bê
tha ăn uống. Nên để ý điểm này là ở đây người ta nhắc đến tên người đàn ông
nghèo khó nhưng người giàu sang thì lại không có tên. Trong nền văn hoá ngày
nay, người giàu sang cũng như người nổi tiếng thì đều có danh xưng, còn người
nghèo hèn thì vô danh tiểu tốt.
Điều đó cho thấy
Chúa Giêsu chú trọng đến những người mà xã hội ruồng bỏ. Ngài đã dành nhiều
thời giờ cho những kẻ bị bỏ rơi, những người vô danh tiểu tốt, chứ không phải
với những người nổi tiếng.
Vai trò đảo ngược
Rồi cả hai người
đều chết. Người giàu có rơi xuống hoả ngục, còn anh Lazarô lên thiên đàng, ở
trong lòng tổ phụ Ápraham. Câu chuyện đã diễn tiến theo cuộc đối thoại giữa ông
nhà giàu với tổ phụ Ápraham.
Từ dưới vực sâu
hoả ngục, người giàu có đã kêu lên: "Lạy tổ phụ Ápraham, xin thương xót
con và sai anh Lazarô nhúngđầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì
ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm!" (Lc 16, 24).
Tổ phụ Ap-ra-ham
đã trả lời: "Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của
con rồi; còn Lazarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Lazarô được
an ủi nơi đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và
các con đã có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không
được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được." (Lc 16, 25-26)
Ông nhà giàu lại
thưa: "Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con,
vì con hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại
cũng sa vào chốn cực hình này!" (Lc 16, 27). Ông Ápraham đáp: "Môsê
và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe thì người chết có sống lại, họ cũng
chẳng chịu tin." (Lc 16, 31)
Khỏi phải nói ra,
ai cũng rõ là người giàu có đã đối xử có phần nào tàn nhẫn với anh Lazarô.
Nhưng xét theo nhiều khía cạnh, ông nhà giàu không phải là một người xấu. Ông
đã không bạo hành đối với anh Lazarô bằng lời nói, như nhiếc mắng anh đáng
xuống hoả ngục. Ông cũng không xua đuổi anh Lazarô, không cho nằm trước cổng
nhà mình. Ông cũng không báo cáo với cảnh sát, hoặc với những người kiểm tra vệ
sinh về anh ta như là một nguy cơ đối với sức khoẻ của công chúng.
Ông không chống
đối việc anh Lazarô chìa tay ra xin thức ăn thừa và cũng không chỉ thị cho đầy
tớ ném bánh mì dơ ở nơi khác. Vấn đề là mỗi lần Dives đi ra hay đi vào nhà thì
đều phải đi qua nơi anh Lazarô nằm trước cổng.
Tội lơ là chểnh
mảng
Ông Dives không
bao giờ nhận ra anh Lazarô. Ông không để ý tới anh Lazarô trong những năm tháng
đó, khi anh ngồi ăn xin trước cổng nhà ông và ngay cả khi ở dưới hoả ngục, ông
cũng không đếm xỉa đến anh. Ông vẫn không thay đổi. Những người ở trong hoả
ngục không thay đổi bao giờ.
Phần người giàu
có, ông nghĩ về anh Lazarô không khác gì hơn ngoài một sứ giả, qua câu nói:
"Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Lazarô đến nhà cha con, vì con
hiện còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào
chốn cực hình này!" (Lc 16, 27).
Anh Lazarô chỉ là
một con người tùy tiện đối với ông phú hộ, chỉ là một thứ khí cụ được sử dụng
mà thôi. Anh không phải là một con người đáng được kính trọng. Lazarô chỉ là
một đồ vật được sử dụng và đó là lý do tại sao ông Dives đã xuống hoả ngục.
Tội lỗi của người
giàu có đối với anh Lazarô là tội lơ là chểnh mảng – thứ tội quên làm! Những
tội lỗi tệ hại nhất của chúng ta thường khi chính là những tội lơ là chểng mảng
và đó là những tội mà chúng ta không bao giờ xưng ra. Nhưng đó chính là những
tội của ông Dives. Có thể đó là những tội mà chúng ta không chút ý thức vì
không gây nên thương tổn hay chết chóc cho ai.
Chúng ta có thể
là ông Dives đối với người phối ngẫu, đối với cha mẹ, anh chị em, người làng
giềng, đối với những trẻ nít non dại trong lớp học, đối với những bạn đồng
nghiệp trở thành trò cười cho bất cứ cuộc đùa cợt nào. Không phải chúng ta cố ý
tàn nhẫn. Điều đó hiếm khi xảy ra, vì chúng ta không đần độn hơn những người
khác. Nhưng có những người trong cuộc sống chúng ta đangchết dần chết mòn về
mặt thể xác, tình cảm, tinh thần và cả tâm linh nữa, bởi vì có những việc chúng
ta có thể làm cho họ, nhưng đã không làm.
Tôi có dịp trò
chuyện với một người láng giềng đã ra vào nhà thương như cơm bữa trong nhiều
năm. Tôi hỏi cảm tưởng của ông như thế nào mỗi khi ra vào nhà thương như vậy.
Ông trả lời: "Khi cha liên hệ với nhà thương lâu dài như con đây, cha sẽ
nhận thấy điều khác biệt lớn lao giữa những kẻ đối xử với cha như một con người
và những kẻ đối xử với cha như một trường hợp y khoa trong bệnh viện."
Lòng trắc ẩn
Rồi đây khi tôi
gặp gỡ một người ăn xin hay người nghiện ngập, tôi sẽ để ý đến họ. Tôi sẽ nhận
ra họ như một con người và tỏ ra kính trọng họ. Đồng thời, một việc thật chính
đáng, có thể làm được là tôi sẽ hỏi tên họ. Tôi có thể trả lời
"không" khi họ xin tiền, nếu tôi nói một cách dịu dàng, bởi vì tôi
biết rằng tiếng "không" cũng là một từ ngữ của yêu thương!
Bài học của Thánh
Luca nhấn mạnh điểm này: chỗ đứng của chúng ta để được cứu rỗi tùy thuộc nơi
chỗ đứng của lòng trắc ẩn chúng ta trước mặt anh chị em chúng ta.
11. Người
phú hộ giàu có và Ladarô nghèo khổ
(Trích dẫn từ
'Hãy Ra Khơi' – Veritas)
Một câu chuyện kể
rằng, có một em thiếu nhi con nhà giàu, học giỏi và đạo đức đến cầu nguyện với
Chúa rằng, con chúc tụng và tạ ơn Chúa đã cho con sinh ra trong một gia đình
đạo đức và hạnh phúc. Nhưng tại sao Chúa lại cho người bạn thân của con phải
cực khổ, gia đình nghèo khó, bố hắn là lao động chính trong gia đình nay bị đau
nặng. Mấy anh chị em vừa phải bán vé số, bán báo vừa đi học nay phải nghỉ vì
không đóng học phí. Chúa không thưởng bạn của con sao?
Chúa trả lời: Con
thật là một thiếu nhi ngoan, một người bạn tốt biết quan tâm đến người khác,
biết nghĩ đến người bạn kém may mắn hơn mình. Nhưng này con, con hãy nhớ rõ
điều này là chính vì Ta thương nó mà Ta đã dựng nên con và cho nó kết bạn với
con.
Đã có lần Chúa
Giêsu tuyên bố: "Người nghèo khó thì luôn luôn ở với các ngươi". Bài
Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn về người phú hộ giàu có và Ladarô
nghèo khó là một thực tế của cuộc sống trong xã hội trần gian, và đó cũng là
phần nào hệ quả của Nước Trời mai sau. Hai hình ảnh trái ngược nhau luôn đi kèm
với nhau, một bên là giàu có sống trên nhung lụa, ngày ngày yến tiệc linh đình,
còn một bên là cùng khổ, ghẻ lác và nghèo đói. Một bên là quằn quại trong lửa
hỏa ngục, còn một bên là hạnh phúc ngồi trong lòng Abraham trên thiên đàng. Nếu
chỉ đọc bài Tin Mừng này với bài đọc I trích sách tiên tri Amos chúng ta tưởng
có dị ứng sai lạc với những người giàu có và an phận trong sự khốn nạn của bần
cùng. Đừng nghĩ rằng, Nước trời chỉ dành cho những người nghèo, còn những người
giàu phải trầm luân dưới hỏa ngục. Chúng ta hãy đọc kỹ lại bài đọc II trích thơ
thứ nhất của thánh Phaolô tông đồ gởi cho Timôthêu thì chúng ta mới thấy rõ ý
nghĩa của bài Tin Mừng này.
Giàu có chưa phải
là hạnh phúc đích thực của con người. Có biết bao nhiêu người giàu có đã chẳng
được bình an đó sao? Thậm chí có người phải vào tù ra khám, có những gia đình
phải tan nát đó sao? Và cũng đừng nghĩ rằng, người giàu có đương nhiên là bị
loại ra khỏi Nước Trời. Thực tế lịch sử đã chứng minh cho chúng ta rằng, như
thánh nữ Elizabeth, hoàng hậu nước Bồ Đào Nha; thánh Louis, vua nước Pháp. Họ
là những vua chúa, hoàng hậu sống trên nhung lụa và đầy quyền lực, vậy mà họ đã
nên thánh. Chúng ta cũng không nên cực đoan một chiều hiểu Nước Trời chỉ dành
cho những người nghèo khổ để rồi chúng ta trở nên lười biếng, sống mãi trong sự
bần cùng, nghèo đói, khổ đau. Nhưng Nước Trời và hạnh phúc đích thực như thánh
Phaolô đã xác tín chính là kiên vững trong đức tin và sốt sắng trong lòng mến.
Nó hệ tại ở việc lắng nghe Lời Chúa và tuân giữ giới răn của Ngài. Điều này đẵ
được lặp đi lặp lại nhiều lần bằng nhiều cách trong các thời đại qua những ngôn
sứ, đặc biệt qua Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Chúa chúng ta. Chúng ta không
thể nào an phận trong khó nghèo, chờ đợi được như Ladarô ngồi vào lòng Abraham
để nhìn cảnh cực kỳ nhốn nháo nơi âm phủ. Chúng ta lại càng không thể như anh
em nhà phú hộ trong Tin Mừng chờ đợi một phép lạ mới chịu tin và sống giới răn
của Chúa. Nhưng phải biết đón nhận và tạ ơn những hồng ân Chúa ban, để ta sống
trở nên thánh thiện và công chính hơn.
Thánh thiện chính
là tin tưởng vào lòng yêu thương của Thiên Chúa, là biết quan tâm và quảng đại
chia sẻ với người khác một cách vô vị lợi, không tính toán, không đòi hỏi,
không lợi dụng.
Quả thật, không
có cái giàu nào cho bằng cái giàu về tình thương và cũng không có cái nghèo nào
cho bằng cái nghèo về tấm lòng. Tuy nhiên, ơn Chúa không phải lúc nào cũng dễ
chịu, nhưng đòi hỏi chúng ta biết can đảm đón nhận và tạ ơn. Cũng như thánh
thiện không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng chúng ta phải cố gắng kiên trì tập
luyện và thi hành. Vì đó chính là con đường đưa đến với Chúa và được hạnh phúc
không những cho đời sau mà cho cả đời này nữa. Còn có biết bao nhiêu người như
Ladarô nghèo khó xung quanh chúng ta, đang chờ đợi chúng ta yêu thương đón nhận
và chia sẻ. Và rồi còn có biết bao cái nghèo cõi lòng mà chúng ta phải tích lũy
làm giàu, đó là lòng yêu thương, lòng quảng đại, sự nhẫn nại và hiền hòa.
Xin Chúa cho mỗi
người chúng ta trở nên người nghèo của Tin Mừng, để chúng ta khiêm tốn trước
tình thương của Thiên Chúa và đón nhận ân sủng của Ngài, cho mỗi người chúng ta
trở nên giàu có về lòng nhân ái, để chúng ta quảng đại với hết mọi người.
Xin mọi người
chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin.
12. Niềm
hy vọng của nhân loại
(Suy niệm của Lm.
Bùi Quang Tuấn)
"Kẻ đói
nghèo Chúa ban của đầy dư; người giàu có lại đuổi về tay trắng" (Lc
1:52-53). Lời kinh Magnificat của Đức Maria trong ngày thăm viếng chị họ
Elisabet đã được Chúa Giêsu làm rõ nét hơn qua dụ ngôn "Phú ông và
Lazarô."
Hai con người rất
gần nhau trong không gian, nhưng lại rất xa nhau trong cảnh sống. Phú ông mặc
toàn gấm vóc, lụa là; người ăn mày Lazarô nghèo nàn, rách nát. Phú ông ở nơi
nhà cao cửa rộng; Lazarô lê lết bên cổng nhà giàu. Phú ông ngày ngày yến tiệc
linh đình; Lazarô không một chút bánh cầm hơi. Phú ông sống trong thiên đàng
dương thế; Lazarô chịu cảnh hoả ngục trần gian.
Thế giới của hai
người chỉ cách nhau bằng một chiếc cổng, ấy thế mà vẫn như xa nhau vô cùng.
Người nhà giàu chẳng khi nào bước qua chiếc cổng đó để đi vào thế giới người
nghèo. Ông ta chôn mình trên nhung lụa và hưởng thụ mê say. Đang khi kẻ bất
hạnh nằm chờ chút bánh rơi mà không được; anh ta thèm thuồng nhìn những miếng
bánh "lau tay" đi vào miệng bầy chó. Mấy con chó này còn "có
lòng" hơn phú ông khi không "cắn gậy ăn mày," nhưng đến liếm các
mụn ghẻ cho anh ta.
Thời xưa, trên
các bàn ăn của người Do thái chưa hề có dao, muỗng, nĩa và khăn lau tay như
ngày nay. Người ta dùng tay để lấy và cầm thức ăn. Tại nhiều nhà sang trọng hay
trong những nơi quyền quí, người ta có thói quen lau tay ngay trên những miếng
ruột bánh mì mà sau bữa ăn sẽ được vứt đi. Đây là thứ bánh "lau tay"
mà Lazarô khao khát trông chờ. Song hoài công! Phú ông vẫn làm ngơ, vô tình.
Nhưng rồi cái
chết ập đến làm đổi thay tất cả. Kẻ từng lê lết dưới chân bàn ăn thì được đưa
lên mây trời; còn người ngồi nơi cao ráo lại bị tống xuống vực sâu. Lazarô được
hưởng phúc thiên đàng; còn Phú hộ thì trầm luân hoả ngục. Phải chăng Kinh thánh
muốn nói: hễ sung túc đời này sẽ bất hạnh đời sau và khốn khổ hôm nay sẽ được
hạnh phúc ngày mai? Không hẳn thế, vì giàu sang không phải là tội và nghèo khổ cũng
chưa chắc là tấm vé thiên đàng.
Ân phúc là việc
người nghèo biết tựa nương, cậy trông Thiên Chúa. Lazarô là danh xưng duy nhất
mà Thánh Luca đã đặt cho nhân vật "ăn mày" trong dụ ngôn trên. Lazarô
có nghĩa là "Thiên Chúa là Đấng phù trợ tôi." Như thế, kẻ ăn mày này
đã biết tin tưởng và phó thác đời mình cho Thiên Chúa dù đang nghèo rớt mồng
tơi. Chính niềm tin tưởng và phó thác này đã mang lại cho anh ta ơn phúc làm
con tổ phụ Abraham--cha những kẻ tin.
Còn người phú hộ,
ông ta đâu có bóc lột hay ngược đãi gì kẻ khác; ông đâu có ra lệnh tống cổ tên
ăn mày khỏi cổng nhà mình; ông cũng chẳng đánh đập hay ăn chận gì của Lazarô,
vậy cớ sao lại bị đoạ đày trong chốn cực hình như vậy?
Thái độ đáng
trách của Phú ông là đã làm ngơ trước nỗi thống khổ của người bên cạnh. Tội của
ông là sự dửng dưng, coi như không có sự hiện diện của Lazarô. Chẳng phải vì
người phú hộ đã làm điều gì thất nhân ác đức, nhưng vì ông ta đã không làm gì
cả cho kẻ khốn cùng.
Không phải chỉ có
làm điều xấu mới là tội, nhưng tránh không làm điều tốt cũng là tự đưa mình xa
cách Thiên Chúa và tha nhân. Mắt không chút xót thương, lòng không hề vương vấn
đã làm cho hố sâu ngăn cách giữa ông và Lazarô rộng lớn đến nỗi không thể qua
được.
Người nghèo phải
đau khổ vì sự bần cùng đã đành, nhưng người giàu cũng sẽ phải khốn nạn vì sự
giàu sang, nếu trong đó không có tình yêu và xót thương.
Một nhà tư tưởng
đã chỉ ra hai nguy cơ của sự giàu có thiếu tình thương như sau:
Một là nó khép
kín lòng mình với Thiên Chúa: người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà
quên đi đời sống vĩnh cửu là điều tối quan trọng.
Hai là nó khép
kín lòng mình với tha nhân: người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm ngay
bên cổng nhà mình.
Hoả ngục chính là
sự kéo dài của tình trạng khép kín này: người ta vẫn mãi xa cách Thiên Chúa và
tha nhân. Hố ngăn cách càng được đào sâu và rộng bao nhiêu, đời sau người ta sẽ
hết phương trở về bấy nhiêu. Thế nên thật chí lý khi nói rằng: "Con người
đã tự phán xử chính mình ngay ở đời này"(Noel Quesson).
Nếu tôi yêu mến
và liên kết với Thiên Chúa qua tha nhân, ngày kia tôi sẽ hiệp hoan Nước Trời.
Trái lại, nếu tôi ích kỷ trong hưởng thụ riêng tư, chẳng hề quan tâm đến việc
chia sẻ phúc lộc mình có, thì nỗi đơn độc và khổ đau sẽ là sản nghiệp đời đời
cho tôi.
Dụ ngôn "Phú
ông và Lazarô" là lời cảnh báo những kẻ chỉ biết tôn thờ vật chất, say
hưởng trần gian, quên đi tình Chúa tình người. Nó còn là lời kêu gọi ý thức
trách nhiệm xây dựng liên đới với tha nhân, nhất là người nghèo.
Mẹ Têrêsa
Calcutta có nói: "Ngay trong giờ phút lâm chung, bạn và tôi, bất kể chúng
ta là ai, đã từng sinh sống nơi nào, Kitô hữu hay là lương dân, tất cả chúng
ta, những người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa bằng bàn tay yêu
thương của Ngài, chúng ta sẽ phải đứng trước nhan Giavê và được xét xử tuỳ theo
những gì đã sống và làm cho người nghèo. Chính lúc này các cân lượng mẫu mực
cho việc phán xét sẽ được đưa ra."
"Chúng ta
phải càng ngày càng ý thức hơn rằng người nghèo chính là niềm hy vọng của nhân
loại, bởi vì chúng ta sẽ được xét xử theo cách thức mà chúng ta đã cư xử với
họ. Chúng ta sẽ đối đầu với thực tế khi được triệu về trước ngai Thiên Chúa. Và
Ngài sẽ nói: "Xưa ta đói, ta trần truồng, ta không nhà cửa. Và những gì
ngươi đã làm cho một trong những kẻ bé mọn chính là đã làm cho Ta."
"Kẻ bé mọn"
không chỉ là những người đang nghèo nàn về vật chất, nhưng còn là những ai đang
thiếu thốn về tinh thần. Có người nghèo cơm ăn áo mặc, nhưng cũng không ít
người nghèo giáo lý, kiến thức, cảm thông, an ủi, thứ tha. vì chẳng ai trao
ban.
Thế nên, hôm nay,
sau khi nghe tiếng Chúa, bạn và tôi, chúng ta đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy
rộng mở cho yêu thương và sẻ chia.
13. Có
một vực thẳm – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu
(Trích dẫn từ
'Manna')
Suy Niệm
Tài sản của ba
người Mỹ giàu nhất thế giới còn lớn hơn tài sản của 48 nước kém phát triển.
Bill Gates giàu
hơn 100 triệu người Mỹ nghèo nhất. Chỉ cần 40 tỉ đô la của ông, Liên Hiệp Quốc
đủ chi tiêu cho giáo dục cơ bản, sức khỏe, nước sạch và vệ sinh cho cả thế giới
trong một thời gian dài.
Khi nhìn sự chênh
lệch giữa ông nhà giàu và Ladarô, chúng ta thấy bức tranh hiện thực của thế
giới.
Hố sâu ngăn cách
giữa giàu nghèo ở đô thị, giữa đô thị và nông thôn, càng lúc càng lớn.
Có 800 triệu
Ladarô đang đói nghèo cùng cực. Hơn một tỉ Ladarô bệnh tật không được chăm sóc.
Vẫn có bao người chết đói mỗi ngày, vì không được hưởng gì từ các bàn tiệc rơi
xuống.
Ông nhà giàu
trong dụ ngôn có thấy, có biết Ladarô, nhưng thấy mà như không thấy có Ladarô
trên đời. Tiện nghi vật chất đã thành bức tường kín. Ông sống an toàn mãn
nguyện trong khoảng không gian riêng. Chính ông đã tạo ra một vực thẳm ngăn
cách.
Không cần Chúa,
cũng chẳng cần biết đến anh em. Có thể nói vực thẳm đó lớn dần và kéo dài mãi
đến đời sau.
Hỏa ngục là sự tự
cô lập mình không thể đảo ngược được. Chẳng ai có thể cho tôi một giọt nước.
Vực thẳm ngăn
cách con người ở đời sau là do chính con người đã tạo ra từ đời này.
Ông nhà giàu bị
phạt, không phải vì ông đã bóc lột ai, nhưng vì ông không bị sốc chút nào trước
sự chênh lệch ghê gớm giữa ông và Ladarô.
Từ sốc mới nẩy sinh
thức tỉnh, và dẫn đến hoán cải.
Nhiều nước giàu
vẫn trợ giúp các nước nghèo, nhưng không muốn loại bỏ sự bất bình đẳng.
Các nước nghèo
vẫn bị bóc lột về tài nguyên, nhân công, và bị nô lệ cho những món nợ không sao
trả hết.
Ông nhà giàu bị
phạt không phải vì ông đã nhận nhiều, nhưng vì ông đã không san sẻ những gì
mình nhận.
Giàu không phải
là một tội, của cải tự nó không xấu.
Có bao người giàu
tốt như Dakêu, Nicôđêmô, Giuse Arimathia.
Nhưng giàu sang
có thể dẫn đến cám dỗ nguy hiểm: Tích trữ, tham lam, hà tiện, khép kín, tự mãn,
hưởng thụ, bị ám ảnh bởi đồng tiền, bị mê hoặc bởi lợi nhuận.
Chúng ta có thể
nghèo của cải, nhưng giàu có về các mặt khác: giàu kiến thức chuyên môn, giàu
thế lực ảnh hưởng, giàu sức khỏe, giàu tình bạn tình yêu, giàu niềm vui, ơn
Chúa.
Hãy tập nhìn
xuống để thấy bao người dưới mình.
Chia sẻ là lấp
vực thẳm, nâng người khác lên bằng mình.
Ước gì chúng ta
để cho Lời Chúa hoán cải, để thấy trách nhiệm của mình trước những Ladarô nằm
ngay nơi cửa, trong khu xóm... Chỉ cần bớt chút dư thừa, xa xỉ của chúng ta
cũng đủ làm nhiều người no nê hạnh phúc.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu
là những nguyên nhân đưa đến sự chênh lệch lớn lao giữa kẻ giàu người nghèo? Có
cách nào làm giảm bớt sự chênh lệch đó không?
Nếu bạn là Bill
Gates, với tài sản 50 tỉ đô la, bạn có muốn làm gì cho người nghèo trên thế
giới không?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, xin cho
con ý thức rằng tấm bánh để dành của con thuộc về người đói, chiếc áo nằm trong
tủ thuộc về người trần trụi, tiền bạc con cất giấu thuộc về người thiếu thốn.
Lạy Cha, có bao
điều con giữ mà chẳng dùng, có bao điều con lãng phí bên cạnh những Ladarô túng
quẫn, có bao điều con hưởng lợi dựa trên nỗi đau của người khác, có bao điều
con định mua sắm dù chẳng có nhu cầu.
Con hiểu rằng
nguồn gốc sự bất công chẳng ở đâu xa.
Nó nằm ngay nơi
sự khép kín của lòng con.
Con phải chịu
trách nhiệm về cảnh nghèo trong xã hội.
Lạy Cha chí nhân,
vũ trụ, trái đất và tất cả tài nguyên của nó là quà tặng Cha cho mọi người có
quyền hưởng.
Cha để cho có sự
chênh lệch, thiếu hụt, vì Cha muốn chúng con san sẻ cho nhau.
Thế giới còn
nhiều người đói nghèo là vì chúng con giữ quá điều cần giữ.
Xin dạy chúng con
biết cách đầu tư làm giàu, nhờ sống chia sẻ yêu thương. Amen.
14. Hai
khuôn mặt trái ngược nhau
(Trích dẫn từ
'Manna' – Lm Antôn Nguyễn Cao Siêu)
Suy Niệm
Dụ ngôn cho ta
thấy hai khuôn mặt trái ngược nhau: một ông nhà giàu dư ăn dư mặc, một anh nhà
nghèo bệnh tật nằm đói lả, không đủ sức xua đuổi những con chó đến quấy rầy.
Hai người ở gần
nhau, chỉ cách nhau một cái cổng vẫn thường khép, nhưng lại thật xa nhau.
Ông nhà giàu biết
mặt, biết tên anh nhà nghèo, nhưng ông chẳng mảy may quan tâm, vì ông bận tổ
chức tiệc tùng và mời quan khách.
Ladarô đã chết
trong cảnh đói nghèo và bệnh tật. Ông nhà giàu cũng chết.
Cái chết đồng đều
cho mọi người, nhưng số phận sau cái chết lại khác nhau.
Không phải chỉ vì
giàu mà ông nhà giàu bị phạt, nhưng vì ông đã khép cửa và khép lòng, đã ung
dung hưởng thụ quyền sở hữu "hợp pháp", đã không chấp nhận chia sẻ
điều mình có dư thừa.
Ông nhà giàu hẳn đã
thấy Ladarô, nhưng đã sống như thể không có anh ta, vì ông loay hoay vun quén
cho hạnh phúc của mình.
Không phải chỉ vì
nghèo mà anh nhà nghèo được thưởng, được hạnh phúc ngồi trong lòng tổ phụ
Abraham, nhưng vì anh chấp nhận số phận hẩm hiu của mình, và trông cậy vào sự
trợ giúp của Thiên Chúa.
Thế giới văn minh
lại càng đào sâu hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo, giữa thiểu số người
giàu và đa số người nghèo.
Chính tôi cũng
giàu về một mặt nào đó: giàu trí tuệ, giàu bạn bè, giàu thế lực, giàu chỗ đứng
trong xã hội, giàu đời sống thiêng liêng.
Hố sâu chỉ được
lấp đầy bằng cách mở tung cánh cửa yêu thương và chia sẻ, nhìn nhận tài nguyên
thế giới là của mọi người, nhìn nhận quyền sống của từng người, sống như một
nhân vị, sống như con cái Thiên Chúa, sống như anh chị em tôi.
Mỗi người chúng
ta đều có một Ladarô chờ ngoài cửa, nếu chúng ta mở cửa và mời người đó đồng
bàn, thì chúng ta sẽ trở nên người giàu có thực sự, và trưởng thành viên mãn
trong nhân cách.
Dù người chết
hiện về, dù kẻ chết sống lại cũng chẳng làm chúng ta hết chai đá.
Chỉ Lời Chúa mới
khiến chúng ta sám hối ăn năn, mở lòng trước tha nhân và Thiên Chúa (x. 1Ga
3,17).
Gợi Ý Chia Sẻ
Con người chỉ
trưởng thành khi biết quên mình và quảng đại hiến mình phục vụ tha nhân. Bạn có
đo được sự trưởng thành của mình dựa trên nguyên tắc đó không?
Ai cũng giàu có
về một phương diện nào đó. Bạn thấy mình giàu có về mặt nào? Bạn có nghĩ rằng
cho đi sẽ làm bạn thêm giàu có không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin cho
con nhìn thấy những người nghèo ở quanh con, ở trong gia đình con, đang cần đến
con.
Bất cứ ai đang
cần đến con đều là người nghèo, xin cho con thấy Chúa trong họ.
Dần dần con hiểu
rằng cả người giàu cũng nghèo, nghèo vì cần thấy đời họ có ý nghĩa.
Dần dần con chấp
nhận rằng cả bản thân mình cũng nghèo và cần đến người khác.
Lắm khi con cần
một nụ cười, một ánh mắt, một lời thăm hỏi đỡ nâng.
Cám ơn Chúa vì đã
dựng nên chúng con ai cũng nghèo về một mặt nào đó và ai cũng cần đến người
khác. Như thế là chúng con được mời gọi sống cho nhau, làm cho nhau thêm giàu
có.
Cám ơn Chúa vì
Chúa cũng nghèo, vì Chúa rất cần đến chúng con để hoàn thành công trình cứu độ.
Xin cho con khiêm
tốn nhận mình nghèo để nhận lãnh, can đảm nhận mình giàu để hiến trao. Amen.
15. Môi
trường đức tin – Achille Degeest
(Trích dẫn từ
'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Phần đầu dụ ngôn
người phú hộ xấu trình bày dưới một hình thức bóng bảy lời giảng dạy mà các
ngôn sứ nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Nhờ thế chúng ta biết rõ hình phạt cuối
cùng nào chờ đợi những kẻ sống trong xa hoa mà tuyệt nhiên không động lòng bố
thí cho kẻ cùng khổ nằm dưới mái hiên nhà mình. Dụ ngôn nhấn thêm vào khía cạnh
thảm hại một cuộc sống ích kỷ vật chất, vào sự bất lực không mở rộng được tâm
hồn đón nhận đức tin. Đó là phần kết của dụ ngôn. Đức Kitô dạy rằng cuộc sống
vĩnh cửu được chuẩn bị ngay từ đời này. Nếu cách sinh hoạt ở thế gian khiến cho
tâm hồn khép kín đối với đức tin, thì mai ngày sẽ không thể đón nhận hạnh phúc
vĩnh cửu. Vấn đề nghiêm trọng nhất bây giờ là có sẵn sàng đón nhận đức tin hay
không –chắc hẳn dụ ngôn muốn chúng ta quan tâm đến việc ấy. Đức tin nảy rễ
trong những tâm hồn tự do, khiêm hạ, khao khát yêu thương.
1) Tự do của tâm
hồn.
Đây là sự tự do
quyết định thái độ trước những cơ hội hưởng thụ dễ dàng mà thế gian và tiền bạc
hiến cho một số người. Khi tiền bạc từ địa vị kẻ tôi tớ nhảy lên địa vị chủ
nhân ông, nó trở nên ám ảnh người ta không lúc nào ngơi. Cái hại căn bản của
tiền bạc là nó ngăn chặn chuyển động của tâm hồn đi tìm Nước Thiên Chúa trước
hết mọi sự. Tiền bạc là công cụ cho hưởng thụ, uy quyền và chiếm đoạt; tiền bạc
làm đồi bại những tâm hồn nào không biết tự vệ, chịu để nó sai khiến. Khi con
người buông mình theo sức cuốn hút của tiền bạc, con người đâm ra mù quáng về
hai diện. Trước hết, mất ý niệm về Thiên Chúa và không nghe thấy tiếng gọi của
đức tin –mất luôn cả ý niệm về chính mình và không nghe thấy những đòi hỏi của
đức công bằng. Trong một thế giới đóng kính như thế, nếu có những lúc thấy vắng
thiếu Thiên Chúa, thấy anh em đau khổ thì cũng thản nhiên cho là thường, chẳng
đáng bận tâm. Sa đoạ tới mức ấy chính vì đã mất hết quyền tự do làm một con
người thật sự, mất quyền tự do cao quý để có thể chấp nhận đức tin.
2) Tâm hồn khiêm
hạ dễ chấp nhận.
Sự thể tiến trình
mặc khải phải qua những trung gian nhân loại. Một số người xử sự như mấy người
Do thái xưa kia đối với Đức Kitô, họ muốn Thiên Chúa tỏ mình ra cho họ trong
ánh hào quang chói loà của một quang cảnh hiển linh không ai chối cãi được. Họ
chẳng hiểu gì hết. Trước nhất, chẳng ai thấy được Thiên Chúa mà không chết vì thế.
Tiếp đến, nhìn thấy sự thật hiển nhiên, người ta vẫn có thể không tin. Rất
nhiều người Do thái chứng kiến Đức Giêsu làm phép lạ cho con bà goá ở Naim và
ông Ladarô ở Bêtania sống lại. Vậy mà tất cả đám đông ấy có tin vào Đức Kitô
không? Tại sao họ vẫn cứng lòng? Họ không tin vì tâm hồn họ không có đức khiêm
hạ, họ không đầu hàng sự thật trước mắt. Tâm hồn khiêm hạ thì chấp nhận những
định chế nhân loại (ví dụ Giáo Hội) do Đức Kitô lập ra để truyền thông đức tin.
3) Đức tin sống
động thì có tình yêu thương.
Luật truyền lớn
nhất của Đức Kitô là kính mến Thiên Chúa trên hết mọi sự và thương yêu kẻ khác
vì Thiên Chúa. Nếu chẳng may tâm hồn sa đoạ, trở nên khô cằn, thậm chí khả năng
yêu thương bị tê bại, thì làm sao có thể đón nhận một đức tin đồng thời cũng là
một tình yêu? Thửa đất cơ bản thiết yếu cho đức tin bám rễ và lớn mạnh chính là
môi trường của một tâm hồn trong sạch tươi mát, vì chỉ những tâm hồn như thế
mới có khả năng thật sự yêu thương.
16. Lazarô sẽ không bao giờ tự mãn
(Trích dẫn từ 'Mở
Ra Những Kho Tàng' - Charles E. Miller)
Trong suốt Thánh
Lễ, chúng ta thường nghe Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của những dụ ngôn. Điều đó
có thể đã giúp cho chúng ta tự hỏi: "Tôi là ai trong dụ ngôn đó?".
Chúa Nhật này, Chúa Giêsu nói môt câu chuyện rất mạnh mẽ về người giàu có không
hề chú ý đến người ngheo trước cửa nhà mình. Người phú hộ trong câu chuyện
không có tên (ông ta có biệt danh là "Dives" từ này trong từ Latinh
có nghĩa là giàu có). Có lẽ việc thiếu tên là một dấu hiệu để cho chúng ta suy nghị
xem chúng ta là người nào và người đó là người tự mãn, thỏa mãn với những gì
mình đang có và vì thế mà ông ta đã không chú ý tới Lazarô nơi cổng nhà mình,
ngay khi Lazarô bị ốm rất nặng, mình bao bọc đầy những mụn, rất đói và ông ta
thèm thuồng nhìn những miếng bánh vụn rơi từ bàn người phú hộ xuống đất nhưng
không có mà ăn.
Cũng có một cách
khác để thấy chúng ta trong dụ ngôn ngày hôm nay. Trước đây chúng ta đồng ý
rằng chúng ta được cảnh báo để nhìn thấy và chăm sóc những người có những nhu
cầu khẩn thiết, chúng ta có thể làm tốt hơn để nhận biết rằng tất cả chúng ta
là Lazarô. Hay chính xác hơn chúng ta có thể là như thế trong phạm trù thiêng
liêng chứ không theo một cách thể lý.
Không có sự cứu
chuộc bởi Đức Kitô thì chúng ta tồi tàn hơn Lazarô. Chúng ta không có những mụn
nhọt bên ngoài nhưng bên trong chúng ta thì đầy tội lỗi. Chúng ta đã thiếu
những của ăn không chỉ là những bánh vụn nhưng là Mình Thánh và Máu Thánh của
Chúa. Chúng ta ở ngoài cổng của Giáo Hội, nếu không có Đức Kitô chúng ta sẽ
không bao giờ bước qua ngưỡng cửa nhà của Người ở trên mặt đất này, để một ngày
kia chúng ta bước vào ngôi nhà đời đời ở trên trời.
Thiên Chúa đã
thương xót chúng ta. Người đã gửi Con của Người là Thượng Tế tối cao, là Đấng
trung gian của chúng ta, Đấng đã băng qua khoảng cách lớn lao của vực thẳm tội
lỗi mà Abraham đã nói với người giàu có khi bị tách riêng ra khỏi Thiên đàng.
Thiên Chúa đã cho chúng ta đức tin để tin vào quyền năng cứu chuộc của sự chết
Đức Kitô, và để âu yếm chân lý về sự Phục Sinh của Ngài và sự Phục Sinh đó là
nguồn mạch bảo đảm cho niềm hy vọng vững chắc của chúng ta. Thiên Chúa đã trao
cho chúng ta sự khôn ngoan để trân trọng và yêu mến Thánh Thể như là Mình Thánh
và Máu Thánh của Chúa đã hiến thân vì chúng ta, Máu quý giá của Ngài đã đổ ra
vì chúng ta.
Cách thiêng liêng
chúng ta có thể giống như Lazarô trong sự khốn khổ thể lý của ông nhưng chúng
ta đã trở thành giống ông khi ông được nâng lên bởi các thiên thần. Chúng ta là
những kẻ đã được chúc phúc thật sự vì Chúa Giêsu đã không đối xử với chúng ta
như là người phú hộ đối xử với Lazarô. Để thực hành ứng dụng mà Chúa Giêsu đã
giới thiệu trong dụ ngôn, hãy để chúng ta tưởng tượng rằng Lazarô trở lại trên
mặt đất này. Thế bạn có nghĩ rằng ông ta sẽ chểnh mảng như người phú hộ, người
đàn ông giàu có đó không? Thế bạn có nghĩ rằng ông sẽ lờ đi với những người bây
giờ có hoàn cảnh khốn khổ như ông ta không? Các bạn có tin rằng Lazarô sẽ làm
bất cứ điều gì để thương xót người khác hơn là những kẻ chỉ có thể cho những
người ăn xin những miếng bánh vụn từ bàn của ông rơi xuống không?
Nhưng không cần
chúng ta tưởng tượng Lazarô đã trở về từ cõi chết. Chúng ta là những Lazarô,
tất cả mọi người chúng ta đều làm như thế. Tất cả những gì mà Thiên Chúa đã làm
cho chúng ta sẽ là sự thúc đẩy cho chúng ta trở nên quảng đại đối với những kẻ
có nhu cầu, tử tế với những người không có sự an ủi và yêu thương hướng đến mọi
người như Thiên Chúa đã hướng đến chúng ta. Trong kinh tiền tụng của Thánh Lễ,
vị linh mục đã tuyên bố nhân danh chúng ta: "Lạy Cha, chúng con xưng tụng
Cha ở mọi nơi, dâng lên Cha lời cảm tạ". Lời kinh phụng vụ tạ ơn của chúng
ta sẽ thúc đẩy chúng ta luôn luôn và ở mọi nơi, để cư xử với mọi người bằng
tình yêu quảng đại mà Thiên Chúa đã trình bày cho chúng ta trong người Con của
Người, vị Tư Tế và là vị Cứu Chuộc chúng ta.
17. Giàu
có và nghèo khó – McCarthy
Ông phú hộ và
Ladarô sống trong những thế giới khác nhau. Ông phú hộ mặc áo dài tía; Ladarô
mặc áo quần rách rưới. Ông phú hộ ăn cao lương mỹ vị mỗi ngày, Ladarô không có
gì để ăn. Ông phú hộ mạnh khỏe, Ladarô mình đầy mụn nhọt. Ông phú hộ sống trong
lâu đài, Ladarô sống trước cổng ông nhà giàu.
Thật vậy, nói
rằng họ sống trong những thế giới khác nhau là một cách nói giảm nhẹ. Họ sống
trong một thế giới trái ngược nhau. Ông phú hộ sống trong một khu vườn; Ladarô
sống trong một sa mạc. Ông phú hộ sống trong một thiên đàng trần gian; Ladarô
sống trong một địa ngục loài người. Và dù thế giới riêng của họ khác nhau như
ngày và đêm, chúng lại ở cạnh nhau.
Ladarô sống ở bên
lề thế giới của ông phú hộ. Và vì anh ở ngoài cổng nhà ông phú hộ nên mỗi ngày
anh nhìn vào thiên đàng mà anh đã bị trục xuất. Dù anh ao ước được đi vào thế
giới của ông, anh cũng không dám ấp ủ hy vọng được ngồi vào bàn. Anh sẽ sung
sướng biết bao khi được làm đầy bụng bằng những mảnh vụn thức ăn từ bàn của ông
phú hộ rơi xuống. Nhưng anh không có được, không phải vì không thể làm được
việc đó mà chỉ vì không ai muốn làm việc đó cho anh.
Dĩ nhiên, người ở
vị trí tốt nhất để giúp đỡ anh Ladarô là ông phú hộ. Ông có thể dễ dàng bước
vào thế giới cô độc và tuyệt vọng của Ladarô để tiếp xúc với anh. Nhưng ông đã
không làm. Ông khép kín, không chỉ lâu đài mà cả tâm trí và tâm hồn ông lại.
Ladarô thuộc vào
hạng người nghèo nhất. Thế nhưng trong một ý nghĩa nào đó, ông phú hộ còn nghèo
hơn. Thế nghĩa là thế nào? Câu chuyện nhỏ sau đây sẽ cho chúng ta hiểu điều đó.
Một nhà doanh
nghiệp đậu chiếc xe đời mới của ông vào lề đường và đi làm một vài công việc.
Khi ông trở lại chiếc xe, ông thấy một cậu bé nghèo khoảng mười một tuổi đang
quan sát chiếc xe với đôi mắt đầy vẻ thán phục và thèm muốn.
- Thưa ông, có
phải chiếc xe này của ông? Cậu bé hỏi.
- Phải. Ông ta
đáp.
- Nó đẹp quá. Ông
phải trả bao nhiêu tiền để mua nó?
- Nói thật với
chú bé là tôi không biết.
- Ông muốn nói
ông mua nó và không thể nhớ đã trả bao nhiêu?
- Này chú bé, tôi
không nói tôi mua nó. Đây là một món quà mà bạn tôi cho tôi.
- Ông muốn nói
bạn ông cho ông và ông không mất một xu nào để mua?
- Đúng thế!
- Tôi ước gì
tôi...
Nhà doanh nghiệp
tin chắc rằng cậu bé sẽ nói tiếp "Tôi ước gì tôi có một người bạn như
thế". Nhưng cậu bé lại nói: "Tôi ước gì tôi có thể là một người bạn
như thế".
Và ông ta kết
luận: "Đây là mình trong bộ áo quần lòe loẹt với chùm chìa khóa và một
chiếc xe đời mới trong tay. Còn kia là cậu bé áo quần rách rưới. Tuy nhiên tâm
hồn cậu có nhiều tình yêu thương hơn mình. Và trong ý nghĩa đó, cậu giàu sang
hơn mình... Tôi thật sự xúc động đến nỗi lấy xe chở cậu và người bạn của cậu bị
chứng sốt tê liệt lúc còn nhỏ làm chân tay co rút lại, cho cả hai đi một vòng
với chiếc xe của tôi. Đó là những giờ hạnh phúc nhất của đời tôi".
Ông phú hộ phải
chịu thứ nghèo nàn tệ hại nhất, đó là sự nghèo nàn của tâm hồn. Tâm hồn ông ta
trống rỗng lòng thương xót và yêu thương.
Ông không muốn
cho Ladarô dù là những mảnh vụn thức ăn trên bàn của ông. Cả những con chó
hoang ngoài phố còn tử tế với Ladarô hơn ông ta.
Người giàu có bị
của cải làm tổn thương cũng như người nghèo bị cái nghèo của họ làm tổn thương.
"Cái xấu lớn nhất trong thế giới ngày nay là thiếu vắng tình yêu – sự thờ
ơ khủng khiếp đối với người lân cận ngày càng phổ biến" (Mẹ Têrêxa).
Khoảng cách giữa
ông phú hộ và Ladarô đang phát triển thành một vực thẳm khổng lồ. Những đứa trẻ
trong thế giới thứ ba biết viễn cảnh nào đang chờ đợi chúng. Một phóng viên hỏi
một thiếu niên: "Cháu muốn làm gì với cuộc đời mình?". "Cháu
muốn sống để nhìn thấy tuổi hai mươi". Câu trả lời là như thế.
18. Bác
ái bắt đầu từ nhà mình - McCarthy
Một tối nọ, một
người giàu có nằm mộng và thấy một giấc mơ khó chịu. Trong giấc mơ, ông thấy
một đám đông người nghèo, bị bệnh tật dày vò, những người đói lả kêu cầu ông
giúp đỡ. Khi ông thức dậy sáng hôm sau, nhớ lại giấc mơ của mình, ông quyết
định bắt đầu dấn thân vào một chiến dịch làm điều thiện. Ngay sáng hôm đó, không
bỏ phí thời gian, ông ngồi vào chiếc xe Mercedes để đi xem cần phải giúp cho
người nghèo cái gì.
Vừa mới đi qua
cổng chính của tòa nhà thì ông thấy một người ăn mày ngồi trên mặt đất, hai tay
đưa ra để cầu xin bố thí. Ông nhà giàu rất bối rối khi nhìn thấy hoàn cảnh khốn
khổ của người ăn mày. Ông lưỡng lự một lúc rồi ra lệnh cho tài xế nhấn ga chạy
tiếp. Ông không muốn dừng xe lại để chỉ gặp một người ăn mày dù hoàn cảnh của
người ăn mày này có khốn khổ đến đâu.
Ông đi dọc ngang
khắp thành phố và nhận thấy rằng vấn đề to lớn hơn và nhu cầu thì nhiều hơn ông
nghĩ. Khi ông quay về nhà lúc chiều tối, đầu óc ông đầy ắp những kế hoạch, lược
đồ, dự án. Vấn đề duy nhất là phải bắt đầu ở chỗ nào. Phải chăng ông sẽ bắt đầu
với một bệnh viện, một trường học, một xí nghiệp hoặc một nơi nào đó?
Khi về đến cổng
tòa nhà, ông nhận thấy người ăn mày vẫn còn ở đó, ngay tại vị trí lúc ban sáng.
"Chỉ cần tưởng tượng con người nghèo khổ này ngồi đây suốt ngày trong cái
nắng cháy da!", ông tự nhủ. Một lần nữa ông cảm thấy động lòng trắc ẩn
nhưng một lần nữa, ông lại đi qua không dừng lại.
Tối hôm đó ông có
một giấc mơ khác. Ông lại nghe thấy những tiếng kêu cứu khác. Nhưng lần này
không phải từ một đám đông, nhưng từ một cá nhân. Cá nhân này là người ăn mày
mà ông đã thấy ở cổng nhà ông. Sáng hôm sau khi thức dậy ông biết rõ mình phải
bắt đầu ở chỗ nào.
Mẹ Têrêxa nói:
"Tôi luôn luôn nói rằng yêu thương bắt đầu từ nhà mình: trước hết ở nhà
bạn rồi đến thị trấn hoặc thành phố của bạn. Yêu thương một người ở xa thì dễ,
nhưng không dễ khi yêu thương những người sống với chúng ta hoặc ở gần chúng
ta. Tôi không đồng ý với cách thức to lớn để thực hiện các công việc – yêu
thương bắt đầu với một cá nhân. Để yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc và
trở nên gần gũi với người ấy. Bạn phải đến tiếp xúc với người nghèo. Khi bạn
làm điều đó, bạn vượt qua con nước to lớn ấy. Không còn những "triệu"
người ấy mà một vài người bạn hiện đang tiếp xúc, gần gũi".
Mẹ Têrêxa kể lại
câu chuyện sau đây: "Một lần nọ ở Bombay có một hội nghị lớn về tình trạng
nghèo khổ. Khi tôi đến nơi, ngay trước cửa của địa điểm trong đó hàng trăm
người đang nói về lương thực và cái đói, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi
đưa người ấy về nhà chúng tôi dành cho người hấp hối. Người ấy chết ở đó. Người
ấy chết vì đói. Trong lúc những người ở bên trong nói về việc làm thế nào để
trong mười lăm năm, chúng ta sẽ có thật nhiều lương thực và thế này thế kia –
còn người đàn ông đó thì đã chết.
"Tôi không
bao giờ coi các đám đông là trách nhiệm của tôi. Tôi nhìn vào cá nhân. Tôi chỉ
có thể yêu thương một người ở mỗi lúc. Tôi chỉ có thể nuôi sống một người ở mỗi
lúc. Tôi nhặt một người. Có lẽ nếu tôi không nhặt một người, tôi sẽ không thể
nhặt đến 42.000 người. Toàn bộ công việc chỉ là một giọt nước trong đại dương.
Nhưng nếu tôi không đặt giọt nước ấy vào, hẳn đại dương sẽ ít đi một giọt. Đối
với bạn, cũng giống thế. Trong gia đình bạn, cũng giống thế".
Người giàu có
không mong cứu vớt thế giới. Nhưng ông ta có thể giúp đỡ người ăn mày trước
cổng nhà mình.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một tu sĩ lang
thang đến một ngôi làng. Ông đang định nghỉ qua đêm dưới một gốc cây thì một
dân làng chạy đến gặp ông và nói: "Xin thầy cho con viên ngọc quý".
- Anh định nói về
viên ngọc nào? Người tu sĩ khẽ hỏi.
- Tối qua con có
một giấc mơ: nếu con đi ra bên ngoài làng lúc chạng vạng tối, con sẽ gặp được
một tu sĩ và vị này sẽ cho con một viên đá quý, làm con trở nên giàu có
mãi".
Tu sĩ lục lọi
trong túi xách, tìm thấy một viên ngọc và lấy ra. "Đây có lẽ là viên ngọc
mà anh nói đến", ông nói và đưa nó cho người dân làng. "Tôi tìm thấy
nó trong rừng, cách đây mấy ngày. Anh hãy nhận lấy nó".
Người đàn ông cầm
viên ngọc và ngắm nghía với vẻ thán phục. Nó là một viên kim cương, viên lớn
nhất mà anh ta chưa bao giờ thấy. Anh ta đem nó về nhà. Nhưng suốt đêm, anh ta
trằn trọc trên giường, không thể ngủ được. Sáng sớm hôm sau anh ta trở lại gặp
vị tu sĩ và nói: "Suốt đêm qua, con đã suy nghĩ nhiều. Thầy hãy lấy lại
viên kim cương này. Thay vào đó, hãy cho con sự giàu có nào làm thầy cho đi
viên kim cương ấy dễ dàng đến thế".
Người giàu có
sống bằng đời sống tinh thần bên trong, người bình thường sống bằng đời sống
bên ngoài – điều mà người kém cỏi lại thấy cần và mong muốn.
19. Chú
giải của R. Gutzwiller
KHÓ NGHÈO và SANG
GIÀU.
Trong Tin mừng
Thánh Luca, các diễn từ về vấn đề 'hư mất' kết thúc đẹp đẽ với dụ ngôn người
con hoang đàng. Các diễn từ về của cải trần gian mà kết thúc là dụ ngôn người
giàu hưởng thụ và Lagiarô khốn khổ.
Ở đây, trình
thuật không có ý nói đến khía cạnh xã hội, dầu sự tương phản giữa người phú hộ và
Lagiarô được diễn tả bằng những nét sâu sắc. Dụ ngôn cũng không có ý (dầu người
ta giải thích như thế) nói đến sự nhẫn tâm thiếu bác ái. Nếu hiểu theo nghĩa
này, người ta ưa thêm thắt những lời không có trong nguyên văn. Khi nói
'Lagiarô ước được ăn những mụn bánh rớt từ bàn ăn' cho đỡ đói. Người ta nghĩ
nên thêm: 'Nhưng không ai thèm cho'. Thực tế câu này đã được thêm vào; Hơn nữa
diễn từ của Abraham cũng ám chỉ không ít ý tưởng đó.
Dụ ngôn trước hết
nhắm ám chỉ đến quan niệm sai lầm của các biệt phái, vì họ coi thịnh vượng đời
này là dấu chỉ ơn lành của Thiên Chúa và nghèo nàn là dấu chỉ bị ruồng bỏ. Dưới
mắt họ, thế giới bên kia chỉ có ích lợi thứ yếu. Những người Saducêo, không tin
đời sau, hành vi đạo đức chủ yếu nhắm tới quyền lợi và công bằng trong tương
quan giữa Thiên Chúa và con người. Nó đòi hỏi mỗi người cố gắng hành động tốt,
tức là giữ giới luật Chúa, lãnh nhận ngay khi còn ở trên dương gian phần thưởng
mà họ có thể được.
Người lành sẽ
được thịnh vượng, kẻ ác gặp bất hạnh. Ở trần gian này nếu mọi sự tốt đẹp, có
nghĩa là con người đã làm hài lòng Thiên Chúa; bằng không thì vì tội lỗi ngự
trị trong lòng họ. Đó là nguyên nhân người Biệt phái chế diễu Chúa Giêsu vì
Ngài đòi hỏi phải từ bỏ lạc thú ở đời này. Yêu sách này mâu thuẫn gay gắt với
xác tín tôn giáo của họ, và dụ ngôn khai triển sự tương phản đó một cách không
kiêng nể.
Hai nhân vật đối
đầu nhau: một người sống trong xa hoa, không thiếu thứ gì và một người nghèo
sống trong cảnh khốn khổ cùng cực, kéo lê cuộc sống đáng thương cho đến lúc chết.
Trong khoảnh khắc, cảnh huống thay đổi hoàn toàn vì ở thế giới bên kia, sự
tương phản đôi bên cũng gay gắt nhưng theo chiều hướng đảo ngược. Người hành
khất được hạnh phúc trong lòng Abraham, còn người giàu có phải chịu muôn vàn
đau khổ.
Thịnh vượng trần
thế không minh chứng giá trị đạo đức và sự hậu đãi của Thiên Chúa; cũng như
nghèo khó không minh chứng sự bại hoại luân lý và việc Thiên Chúa ruồng bỏ.
Người biệt phái đã quan niệm sai lầm. Thiên Chúa phán đoán hoàn toàn khác. Đó
là ý nghĩa của dụ ngôn.
Cho nên không thể
rút ra những hệ luận thiêng liêng căn cứ vào một vài chi tiết trong bài trần
thuật này: chẳng hạn các khổ hình dành cho người phú hộ hưởng thụ là biểu hiệu
những khổ hình của hoả ngục. Đó chỉ là một hình ảnh, việc an nghỉ trong lòng
Abraham cũng thế...
Cũng không thể áp
dụng trên khía cạnh luân lý khi nói đến đức bác ái hay sự từ khước ý muốn của
Thiên Chúa. Thực sự, dụ ngôn không có ý nói người phú hộ cứng lòng và Lagiarô
nhẫn nhục chấp nhận số phận. Chúng ta chỉ nói đến một chủ đích riêng của dụ
ngôn: minh chứng rằng cảnh ngộ trần thế và bên ngoài không liên quan tới trạng
thái tâm hồn. Đó là điều dụ ngôn muốn nói.
Giải thích này,
vào đúng thời của nó, đã đả phá được quan niệm sai lạc của Biệt phái, đòi hỏi
họ phải thay đổi toàn bộ cảm nghĩ... Ngày nay tầm quan trọng của nó vẫn còn.
Người ta luôn luôn đánh giá cuộc đời của mình cũng như của người khác theo tiêu
chuẩn vật sở hữu bề ngoài. Nếu một người có tiền, ăn sung mặc sướng, sẽ được
coi là người biết tổ chức tốt đời của mình.
Vở kịch đời sẽ
thay đổi hoàn toàn ở màn hai khi bước qua thế giới bên kia. Chúng ta không ngại
thán phục người quyền thế, người hùng mạnh, họ đã đạt thành công, 'đã làm được
một cái gì' và chúng ta thương cảm cho người yếu đuối vì cuộc sống của họ đầy
thất bại và không có được may mắn. Ở điểm này, Thiên Chúa cũng không nghĩ như
chúng ta. Không nên xét đoán theo quy tắc nền tảng của Kitô giáo.
Tuy nhiên, con
người tỏ ra xung khắc với giáo lý đó. Cho nên ở cuối dụ ngôn, Đức Kitô quả
quyết họ không muốn nghe Môisen và các tiên tri, và ngay cả một người chết sống
lại đến bảo họ rằng họ đang sống không đúng với đường lối của Thiên Chúa, họ
không thể thay đổi lập trường. Ở đời sau, người trước sẽ thành sau, sau sẽ
thành trước; nghèo sẽ thành giàu và giàu sẽ thành nghèo; hèn kém sẽ thành quyền
thế và ngược lại.
'Chúa hạ bệ những
ai quyền thế và nâng cao mọi kẻ khiêm nhu; kẻ đói khát, Chúa ban của đầy dư,
người giàu có lại đuổi về tay trắng'. Đức Kitô đã đến trần gian và Ngài đã nhắc
đi nhắc lại điều đó một cách hết sức rõ ràng. Nhưng người ta không tin và cũng
không muốn tin Ngài... Sự đời trần gian đối với họ còn hơn của thiêng liêng,
đời sống hiện tại hơn đời sau. Họ thích cuộc sống như người phú hộ hơn là số
phận của Lagiarô, dù họ có biết trong thế giới bên kia sự thể sẽ hoàn toàn thay
đổi.
Thực họ khó xét
lại quan điểm và lề lối suy nghĩ của mình.
20. Tôi
có đọc Kinh Thánh hay không?
Chúng ta có thể
tưởng tượng đang chứng kiến cảnh này. Màn thứ nhất: một người giàu có sung
sướng vui cười và Ladarô nghèo nàn khốn khổ. Màn thứ hai: người giàu có trở nên
rất bất hạnh còn người nghèo kia đang ở cùng với các thiên thần. Luca thích
loại đảo ngược này, và vì ghét những người giàu, ông đã mài sắc ngòi viết và
viết bằng một văn phong xúc tích vô cùng:
"Người nghèo
chết và được thiên thần mang vào lòng Abraham. Người giàu cũng chết và người ta
chôn ông".
Chúng ta không dự
vào quang cảnh đó, chính chúng ta là những người mà Chúa Giêsu muốn đánh động.
Và trước tiên dụ ngôn không nói đến người giàu có "xấu xa", nhưng đơn
giản chỉ là "một người giàu có" và thậm chí sáu người giàu: người
giàu quá cố và năm người anh em của ông ta còn sống. Trong khi tỏ cho chúng ta
thấy họ mù và điếc đến độ nào, Chúa Giêsu cảnh cáo tất cả chúng ta: "Các
ngươi đừng chờ đợi cái chết mở mắt cho mình về sự sống".
Người giàu có
không "thấy" Ladarô. Ông đã không đuổi Ladarô xa ngôi nhà đẹp đẽ của
ông, điều đó không làm ông rầy rà: ông không "thấy" gì cả. Thật là
một sự mù lòa kinh khủng. Một bà già chết vì bị bỏ mặc, những người láng giềng
nói: "Chúng ta đâu có thấy gì!". Không phải tất cả những người sung
sướng, tất cả những người giàu có đều có con tim chai đá, nhưng họ không thấy.
Nhiều người tỏ ra có tình huynh đệ nếu họ thấy rõ hơn sự đau khổ chung quanh
họ. Người giàu có muốn chia sẻ, họ sẽ được cứu sống.
Đối với người
giàu này, quá trễ rồi. Cuối cùng, ông ta "thấy" Ladarô, ông cũng thấy
điều phải trả giá đó là giàu tiền của mà nghèo tình thương yêu. Nhưng sự hiểu
đời này không còn có thể giúp gì cho ông được nữa cả. Luca mô tả hết sức tỉ mỉ
sự vĩnh cửu kinh sợ của kẻ đã từng "hạnh phúc" trước đây: Ông sẽ
không bao giờ có thể vượt qua "vực thẳm lớn lao" được.
Vì không hoàn
toàn xấu xa và rất gắn bó với gia đình, cho nên ông muốn cảnh báo cho các anh
em của ông.
- "Lạy tổ
phụ Abraham,... xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực
hình này!", ông nói với Abraham như thế.
Abraham nói:
"Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó".
Người giàu có có
tính hoài nghi. Ông đã có Lời Chúa, thế mà .... Cần phải khua chiêng gióng trống
nhiều hơn nữa để làm cho người ta ăn năn thống hối.
- Không, Abraham
nói, để ăn năn thống hối, không có gì mạnh mẽ hơn Lời Chúa.
Đó là điều mà
Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta:
Bài học của các
dụ ngôn thường là nằm ở kết cục; nơi mà các nhà chú giải gọi là "mũi
nhọn". Ở đây, chính tầm quan trọng được gán cho Lời Chúa. Chúa Giêsu nói
qua Abraham: "Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ".
Thậm chí tôi có
thể dễ dàng vượt lên trên ích kỷ, tôi vẫn cảm thấy rõ ràng tôi cũng không thấy
những người anh em của tôi và tôi điếc, không nhất quyết đi theo Chúa Giêsu.
Đối với tôi dường như nếu có điều gì khác thường làm cho tôi xáo trộn, một sự
mặc khải, một cuộc hiện ra chẳng hạn...
- Không, Chúa
Giêsu nói, không có gì khác thường hơn là Lời Chúa. Các ngươi đã có Mô-sê và
các Ngôn Sứ.
Tôi phải để cho
mình bị thương thật sâu do mũi tên này. Tôi có Kinh Thánh nhưng Kinh Thánh có
được lật từng trang, được đọc một cách không mệt mỏi hay chăng? Chúng ta có Lời
Chúa tại sao chúng ta còn tìm kiếm điều gì khác nữa?
21. Dại
dột
Bài Tin Mừng Chúa
Giêsu đưa ra hai cảnh đối nghịch nhau một cách chát chúa, đó là số phận của nhà
hộ phú và của người nghèo khổ Ladarô, ở đời này và đời sau. Ở đời này, người
phú hộ ăn sung mặc sướng, lụa là gấm vóc, yến tiệc linh đình mỗi ngày, sống trụy
lạc và danh vọng, còn người nghèo khổ Ladarô thì không ai đoái hoài, một người
hành khất khốn cùng và bất lực, hằng ngày ngồi chầu chực trước cổng nhà người
giàu có kia, hy vọng kiếm được chút gì để độ thân cho qua ngày.
Hai nhân vật này
không phải ở hai chân trời xa cách nhau, nhưng ở kề bên nhau: người nghèo nằm
ngay trước cổng nhà người giàu. Ở kề bên nhau nhưng không có quan hệ với nhau.
Cuộc sống cứ kéo dài như thế cho đến khi người nghèo chết và người giàu cũng
chết. Người nghèo chết, không thấy nói có ai chôn, chỉ có thiên thần đến đưa
người ấy vào thiên đàng. Còn người giàu chết thì được chôn cất đàng hoàng. Chắc
chắn đám tang của ông ta lớn lắm, có nhiều người đi đưa, có nhiều vòng hoa,
vòng cườm, chắc cũng có nhiều người khóc nữa, nhưng không thấy nói có thiên
thần đến đón ông ta. Như vậy, số phận của hai người đã đảo ngược: Ladarô được
thưởng sung sướng, hạnh phúc. Còn nhà phú hộ bị phạt khổ cực, bất hạnh.
Qua dụ ngôn này,
Chúa Giêsu muốn dạy hai điều: thứ nhất, giàu có không phải là một tội và nghèo
khổ cũng chưa hẳn là có phúc, nếu người ta không có tinh thần nghèo khó thực
sự. Thứ hai: mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của đời này và hạnh
phúc vĩnh cửu đời sau.
Trước hết, giàu
có có phải là một tội trọng không và nghèo khó có phải là có phúc không? Chúng
ta thấy dụ ngôn không đề cập tới một tội rõ rệt nào của nhà phú hộ, thế mà ông
ta đã sa hỏa ngục, điều đó làm cho chúng ta có cảm tưởng nguyên việc giàu có đã
là một tội. Không, giàu có tự nó không xấu cũng không phải là một tội, nếu không
ai mà dám làm giàu nữa. Nhưng nếu những người giàu có coi tiền của, thay vì là
đầy tớ đã trở nên ông chủ, thay vì là thụ tạo đã trở nên thần tượng, thay vì là
phương tiện đã trở nên mục đích. Hoặc những người giàu có chỉ biết ăn chơi
phung phí mà không một chút động lòng trắc ẩn trước những người nghèo khổ xung
quanh mình. Hoặc những người giàu coi tiền bạc là trên hết, hơn cả tình nghĩa.
Những người giàu như thế thì tiền của có thể chỉ đem lại cho họ đầy đủ, sung
sướng ở đời này mà không ích gì cho họ ở đời sau. Hơn nữa, lại là một ngăn trở
làm cho họ khó vào nước trời hay không vào được nước trời. Đó là trường hợp của
nhà phú hộ trong dụ ngôn. Ông ta bị phạt, không phải vì ông ta là phú hộ, nhưng
vì ông ta đã không phú hộ cho nên. Mặc dầu chúng ta có thể nghi ngờ về nguồn
gốc tài sản của ông ta. Nhưng tội của ông ta không phải chỉ ở cách làm giàu bất
chính, cũng không phải vì ông ta là người giàu, nhưng vì ông ta đã sử dụng tiền
của một cách xa xỉ, ích kỷ, không biết chia sẻ, thương giúp người hành khất đói
rách, nghèo khổ.
Ngược lại, nghèo
khổ có phải là có phúc không? Có, chắc chắn có và cũng có thể là không. Thực
vậy, nghèo khổ, nhất là nghèo đến cùng cực, có thể trở thành mối tội đầu thứ
tám, thêm vào số bảy mối tội đầu đã có. Bởi vì nghèo túng quá có thể làm cho
người ta mắc nhiều tật xấu và tội ác: nghèo đưa đến tham nhũng, trộm cắp, láo
xược và ngang tàng; nghèo làm cho người ta ghen tuông, bất mãn, xa cách Chúa,
coi nhẹ linh hồn mình... Như vậy, nghèo đâu có phải là phúc. Rồi có biết bao
người, bên ngoài nghèo nàn, túng thiếu, nhưng trong lòng họ mơ ước, tham lam đủ
thứ. Những người như thế chưa chắc đời sau sẽ được hạnh phúc. Do đó, không phải
nguyên tình trạng nghèo khổ đã là công phúc, mà cần phải cóp tinh thần, có tâm
hồn nghèo khó và biết chấp nhận tình trạng đó nữa. Như chúng ta thấy: công phúc
của người hành khất Ladarô nghèo khổ, hệ tại ông ta biết chấp nhận cảnh nghèo
khổ, bệnh tật, tuân theo thánh ý Chúa. Dĩ nhiên, sự chấp nhận này không ngăn
trở người nghèo khổ cố gắng hành động phải lẽ, làm việc chính đáng đề thoát
khỏi cảnh nghèo và bệnh tật.
Đàng khác, dụ
ngôn còn nhằm nói lên mối quan hệ giữa cách chúng ta sử dụng tiền của với hạnh
phúc vĩnh cửu. Tiền của vật chất Chúa ban cho chúng ta hưởng dùng để xây dựng,
thăng tiến cuộc sống của mình, đồng thời phát triển tình người, xây dựng yêu
thươnggiữa người với người. Ai biết sử dụng như thế không những được ấm no hạnh
phúc ở đời này mà còn bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu mai sau nữa trên
nước trời.
Ngược lại, ai khư
khư hưởng dùng một mình, không bao giờ muốn giúp đỡ hay chia sẻ cho người khác,
nhất là những người nghèo khổ, dù là một chút thôi, thì sẽ bị Thiên Chúa xét
đoán nghiêm ngặt. Bởi vậy, nếu ông phú hộ biết đem tiền của chia sẻ cho ông
Ladarô, thì ông đã sắm cho mình kho tàng trên trời, và khi chết ông sẽ được
thiên thần rước vào thiên đàng. Nhưng ông đã không hành động như vậy, nên ông
đã mất tất cả và bị phạt muôn đời.
Lời Chúa hôm nay
nhắc nhở chúng ta hai diều: thứ nhất, Chúa dạy chúng ta hãy sống theo đạo trung
dung của trời. Chúng ta giàu có ư? Chúa bảo chúng ta: đừng coi tiền của trọng
hơn nhân nghĩa. Nếu chúng ta nghèo khổ ư? Chúa bảo chúng ta: đừng lo lắng quá
mà dùng những phương thế bất chính để có tiền của và cũng đừng buồn chán, vì
chúng ta đang ở trong một tư thế thuận lợi để vào nước trời. Thứ hai, Chúa dạy
chúng ta: chỉ có một mục đích cho việc sử dụng tiền của vật chất, đó là sử dụng
để đạt tới sự sống vĩnh cửu; và chỉ có một cách sử dụng đúng là sử dụng để đem
lại hữu ích cho mình và cho người khác. Vì thế, dụ ngôn hôm nay mời gọi mỗi
người chúng ta hãy xét lại cách mình sử dụng tiền của và cách mình đóng góp
tiền của trong việc phụng sự Thiên Chúa và phục vụ tha nhân.
22. Suy
niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm
ĐỜI SỐNG MỚI SAU
CÁI CHẾT ĐƯỢC HÌNH THÀNH TỪ BÂY GIỜ
Nhiều người chê
Ki-tô hữu là dại, vì các Ki-tô hữu không tận hưởng những lạc thú trên đời, lại
còn chuốc vất vả vào thân khi lao vào giúp đỡ người khác. Những người này nghĩ
vậy, vì họ chỉ biết đến họ, và không động lòng trước nỗi khổ của bao anh em
nghèo đói sống bên họ. Thế nhưng, chết đâu phải là hết. Và những người chỉ biết
sống cho mình, chỉ biết sống như thể chỉ có đời sống này, lại trở thành người
dại sau khi chết.
Ai cũng phải chết
Không phải ai
cũng giầu, cũng đẹp, cũng có địa vị. Nhưng có một điều rất công bằng cho mọi
người: ai cũng phải chết. Cái chết làm người ta bình đẳng: chẳng ai mang theo
gì với mình ngoại trừ chính con người của mình: không tiền bạc, không người
thân, không quyền lực, không sắc đẹp, không kiến thức. Sinh ra trần trụi, chết
cũng trần trụi.
Cái chết làm con
người trở lại với con người thực của mình. Cái chết giúp người ta nhận ra sự
thật, và cố gắng sống cho ra người trong đời hiện tại. Trong nhãn quan này, cái
chết không chỉ là mối họa, nhưng còn là một hồng ân cho những ai đang sống, vì
qua nó, con người nhận ra đâu là quê hương thật của mình, đâu là điểm mà mỗi
người sẽ đến. Chỉ lo đi bắt bướm tìm hoa trên đường, mà không lo hoàn tất nhiệm
vụ của mình, thì quả là người dại biết bao.
Cái chết làm
người ta đi vào vĩnh cửu
Thời gian thật là
quý. Vì người ta có thể xây dựng và hoàn thành con người của mình một cách
tuyệt vời. Con người mình như thế nào, tuỳ mình khi sống trên đời này. Khi chết
rồi, mình không còn thay đổi được nữa. Thời gian trên trần thế, là thời gian
của mỗi người, thuộc về mỗi người, mỗi người được quyền định đoạt và hình thành
con người mình theo như mình muốn. Với tự do Chúa ban, không ai hình thành đời
mình, nếu không phải chính mình. Chỉ cần một giây thôi, cũng đủ làm cho người
ta ra khác, được sống hạnh phúc vĩnh cửu hay không. Một giây thôi, quý như thế
nào.
Cũng khó mà diễn
tả tại sao cái chết lại làm người ta thành vĩnh cửu. Theo nhãn quan của thánh
Ynhã Loyola, ma quỷ và những người ở dưới hoả ngục vẫn luôn chống đối và nguyền
rủa Thiên Chúa. Thái độ người ta chọn lúc chết, là thái độ vĩnh hằng của người
đó. Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy như thể người giầu vẫn thương anh em của ông
ta còn đang sống, nên đề nghị Abraham cho người về. Chúng ta biết rằng, bởi vì
đây là dụ ngôn, nên không phải tất cả đều có ý nghĩa và phải được giải thích.
Dụ ngôn trong bài Tin Mừng hôm nay dạy con người hãy sống sao, để khi chết được
hạnh phúc vĩnh cửu. Mỗi người phải chọn lựa ngay trong đời sống của mình, với
những lời dạy dỗ của những người được sai tới với họ. Họ không cần phải chờ
người chết hiện về, hoặc thiên thần tới nói với họ. Như vậy, những người sống
với chúng ta, những người nói Lời Chúa cho chúng ta rất quan trọng. Không ai
thay thế họ cho chúng ta. Đừng đòi người chết hiện về để nói.
Hôm nay là ngày
hồng phúc, hôm nay là ngày cứu độ
Hôm nay, với
những điều kiện tôi có và hoàn cảnh cùng những người xung quanh tôi, tôi phải
sống cho ra người, hình thành con người của tôi. Người nghèo ăn xin, không có
gì, vẫn có thể hình thành con người của anh ta cách trọn vẹn. Những người làm
vệ sinh đường phố, những người quét rác ngoài đường, những giám đốc xí nghiệp
lớn, hay những bác sĩ kỹ sư, đều ngang nhau trong việc hình thành đời mình. Nếu
một bác sĩ không tận tâm cứu giúp bệnh nhân, là bác sĩ dở. Bác sĩ đó cũng tương
tự như người giầu không có lòng thương với người nghèo ăn xin Ladarô. Nếu một
công nhân quét đường mà không làm tròn bổn phận của mình, thì cũng dở như một
giám đốc xí nghiệp không cố gắng để xí nghiệp được trao cho mình phát triển.
"Không có nghề dở, chỉ có người dở". Trước mặt Chúa, bác sĩ và công
nhân vệ sinh trong bệnh viện đều ngang nhau. Và ngay cả trước mặt con người,
một người làm phu vệ sinh nhưng thương yêu và giáo dục con nên người, thì tốt
hơn một bác sĩ hay kỹ sư giầu có mà không dành giờ để thương yêu và giáo dục
con cái họ. Chính trong việc làm, và trong việc giáo dục con cái, hình thành
nhân cách và bản lãnh mỗi người, cũng như hình thành con người vĩnh cửu của
mình trong đời sống mai hậu.
Tài nguyên của
cải, là của Cha trên trời cho tất cả mọi người. Không ai được lợi dụng tài năng
của mình để bóc lột người khác. Tài nguyên, là để cho tất cả mọi người; và tài
năng là để phục vụ mọi người. Một giám đốc đi xe hơi giầu sang, không chắc đã
tốt bằng người công nhân xúc đất bên đường. Tốt hay không, tuỳ thuộc mỗi người
dùng tài năng Chúa ban cho mình, để phục vụ mọi người hay không. Nếu Chúa ban
cho họ 5 nén, họ phải làm lời 5 nén. Nếu Chúa chỉ ban cho tôi một nén, Ngài chỉ
đòi tôi làm lời 1 nén. Đừng đem chôn nén bạc tài năng Ngài ký thác. Nếu không
có người phu quét đường và những người trồng và săn sóc cây trong công viên,
cuộc đời đã không đẹp như đang là. Những công nhân làm sạch đường phố, không
chỉ làm đẹp phố phường, nhưng làm đẹp cả đời tôi, và làm tôi hạnh phúc. Họ có
thể là những người tuyệt đẹp ở đời sống mai hậu.
Câu hỏi gợi ý
chia sẻ:
1. Theo bạn,
Thiên Chúa có công bằng khi để mỗi người đều phải chết không? Tại sao?
2. Người giầu và
người nghèo, ai dễ hạnh phúc hơn? Tại sao?
3. Có ai hình
thành đời bạn giúp bạn không? Bạn hình thành đời bạn mỗi ngày thế nào?
23. Chúa
nhật 26 Thường Niên
** Nhiều người có
ý nghĩ rằng: Thiên Chúa nhân từ vô cùng, thì chắc chắn Ngài không phạt ai mãi
mãi trong hỏa ngục, và do đó, không có hoả ngục! Đó là một ý nghĩ sai lầm! Bài
Tin Mừng trên đây, Chúa Giêsu đã xác quyết có hỏa ngục, nơi giam cầm mãi mãi
những người cố tình phạm trọng tội, nhất là tội thiếu yêu thương, không muốn
chia xẻ những gì mình có cho người túng thiếu, khổ cực! và hình phạt vô cùng
thảm khốc sẽ đến cho họ sau kiếp sống vắn vỏi này!
Chúa Giêsu kể một
dụ ngôn đặc biệt nói đến hai hạng người trong xã hội thời Chúa Giêsu cũng như
ngày nay: Một hạng người trọc-phú, và một hạng người bần cùng khốn khổ nhất
trong xã hội, hạng người rất đáng chúng ta thương xót! Thế nhưng số phận đời
đời của 2 người mà Chúa nói tới, hoàn toàn đảo ngược sau khi họ chết!
Người phú hộ: Ăn
mặc toàn gấm vóc lụa là, quần áo lộng lẫy, ngày nào cũng yến tiệc linh đình, ăn
toàn cao lương, mỹ vị, không thiếu sơn hào hải vị. Ông là một người giầu, một
trọc phú điển hình thời Chúa Giêsu, giầu theo kiểu đại phú gia La-Mã lúc bấy
giờ. Ông quá giầu: Vì ngày nào cũng yến tiệc linh đình, không như những người
giầu vừa vừa, chỉ mở đại tiệc dăm ba lần trong năm!
Lazarô: Một người
cùng khổ nhất trong xã hội, vừa ốm đau, ghẻ lở khắp mình, phải đi ăn xin cơm
thừa canh cặn của những người khá giả để sống qua ngày! Lazarô và nhà phú hộ là
hai hình ảnh hoàn toàn trái ngược: Một người quá giầu còn Lazarô lại ở mức cùng
tận của cái nghèo! Tên Lazarô có nghĩa là Chúa thương giúp. Trong Tin Mừng có 2
người khác nhau cùng có tên là Lazarô: một người mà Tin Mừng Thánh Gioan nói
tới trong đoạn XI, là em của Bà Martha và Maria, được Chúa cho sống lại sau khi
đã chết 4 ngày. Còn Lazarô là người cùng khổ mà Chúa Giêsu nói tới. Ông là
người duy nhất được Chúa đặc biệt nói rõ tên trong các câu chuyện Tin Mừng.
** Giầu không
phải là tội, tuy nhiên, giầu mà không biết chia xẻ, không biết xót thương những
người nghèo khổ, thì đó mới là tội. Người phú hộ, quá dư thừa, ngày nào cũng
yến tiệc linh đình, đồ ăn thừa mứa, trong khi Lazarô chỉ ước ao những mụn bánh
rớt xuống từ bàn ăn của ông phú hộ, nhưng cũng không ai thèm cho! Mà Lazarô có
ở đâu xa, ông nằm ăn xin ngay bên cổng của người phú hộ, thế nhưng ông phú hộ
đã không thèm để mắt tới! Nếu ông ta đã quan tâm thì đâu Lazarô có phải túng
thiếu, khổ sở tận cùng như thế! Ông ta chỉ cần sai đầy tớ đem cho Lazarô chút
cơm thừa, canh cặn thì Lazarô đã hạnh phúc lắm rồi! Nhưng mơ ước quá nhỏ bé đó
đã trở thành ảo vọng, vì ông phú hộ đâu thèm xót thương thân phận hẩm hiu thê
thảm ấy, thê thảm còn hơn con vật nữa! Một cảnh thật thê lương: Lazarô nằm
teo-tóp, chốc lở đầy mình, không một ai thương cảm, chỉ có những con chó đến
liếm những mụn ghẻ chốc của ông mà thôi! Mà sự cảm thông, chia xẻ đây có làm
bớt đi gia tài kếch xù của ông ta đâu! Và sự chia sớt này chỉ cần ông ta để tâm
một chút thì đã dễ dàng đem lại hạnh phúc cho Lazarô, nhưng ông ta đã không
làm!
** Người phú hộ
ăn uống dư thừa, tiêu sài hoang phí cho riêng mình nhưng từ chối chia xẻ cả
những đồ ăn thừa mứa đối với Lazarô, một người đói nghèo, cùng khổ, để làm giảm
bớt một chút nào tình cảnh nghèo khó... Đó là một trọng tội đối với Thiên Chúa.
Ông không thèm để mắt tới một người khốn cùng, túng đói, khốn khổ hơn cả một
con vật, ngày ngày ăn xin ngay trước cổng nhà mình, thì làm sao đáng Chúa xót
thương?
** Trong đoạn Tin
Mừng trên, Chúa Giêsu vẽ ra 2 cảnh hoàn toàn trái ngược: Một cảnh ở trần thế:
đó là cảnh tưng bừng náo nhiệt, ăn sài cao lương mỹ vị dư thừa nơi nhà ông phú
hộ, với cảnh cùng khổ của của Lazarô, thiếu thốn cả những gì cần thiết nhất để
sống còn. Một cảnh khác ở kiếp sau: Đó là cảnh hạnh phúc bất tận nơi Thiên Quốc
mà Abraham, Lazarô và các con Chúa được hưởng sau kiếp sống vắn vỏi này, đối
chiếu với cảnh lửa hồng nung nấu, tuyệt vọng hoàn toàn của người phú hộ bị trầm
luân muôn kiếp.
Bị nung nấu trong
lửa chẳng hề tắt, ông phú hộ chỉ dám xin tổ phụ Abraham sai Lazarô nhúng một
đầu ngón tay vào nước để nhỏ xuống, cho ông ta đỡ khát một chút, nhưng không
được, vì có một vực thẳm ngăn cách 2 bên, không thể có ai còn giúp đỡ nhau được
nữa! Bởi vì đã hết giờ Cứu Độ! Sự chết đã vĩnh viễn đóng kín mọi cánh cửa hy
vọng nơi các linh hồn bị trầm đọa muôn kiếp! Không còn cơ hội để thay đổi số
phận được nữa! Sự ngăn cách giữa Thiện-ác trong kiếp sau là sự ngăn cách vĩnh
viễn, không bao giờ có thể thay đổi được!... Khi còn đang sống, thì bất cứ lúc
nào, chúng ta lắng nghe và thực thi Lời Chúa để sống Yêu Thương, thì số phận
tức khắc thay đổi, nhưng sau khi chết, thì hoàn toàn bất di bất dịch: Hoặc
thiên thu hạnh phúc hay đời đời khốn khổ!
** Ở đời này, có
khi chúng ta cũng gặp nhiều nghịch cảnh, túng thiếu, gian truân... nhưng nếu cứ
bước đi tren đường giáo huấn của Chúa để sống trong tình thương, yêu Chúa và
tha nhân, thì chắc chắn, tương lai tốt đẹp sẽ đến, Thiên Chúa sẽ trọng thưởng
các con của Ngài thiên thu hạnh phúc trên Nước Trời. Muốn thế, chúng ta đừng
nhắm mắt, bịt tai trước những thống khổ, túng thiếu của tha nhân, nhất là những
người cùng khổ bên cạnh chúng ta.
Sự đau khổ túng
thiếu đời này chưa phải là cùng tận, chỉ là một thử thách chóng qua, chúng ta
cứ vững tâm sống trong Thánh Luật Yêu Thương của Chúa, thì tương lai rực rỡ sẽ
đến và thay đổi hoàn toàn số phận chúng ta trong Cõi thiên thu vĩnh hằng!
24. Suy
niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Người giàu có
trong bài Tin Mừng hôm nay có phạm một tội ác nào không? Ông phải chịu hình
phạt nơi âm phủ vì lý do gì? Đó có phải là một tội không?
2. Làm ngơ hay
lãnh đạm trước những đau khổ, cùng quẫn, cảnh áp bức mà người thân mình đang
phải gánh chịu một cách bất công mà không ra tay can thiệp khi có thể, có phải
là tội lỗi không? Đó có phải là thiếu tình yêu? Và như thế, có thể vào được
Nước Trời là nơi chỉ dành cho những người biết yêu thương thật sự không?
Suy tư gợi ý:
1. Chúng ta chỉ
là những người quản lý những gì chúng ta có
Tất cả những gì
chúng ta đang có trong tay, dù là vật chất hay tinh thần (đức độ, tài năng,
chức quyền, địa vị, hay của cải, tiền bạc, v.v...) cũng đều do Thiên Chúa ban.
Ngài muốn chúng ta tạm thời quản lý để làm những việc ích lợi cho Thiên Chúa và
tha nhân, tức làm lợi cho Nước Trời. Chúng không phải là của ta, vì nếu chúng
thật sự là của ta, thì chúng cũng phải theo ta về đời sau. Nhưng trong thực tế,
khi lìa cuộc đời, ta phải để lại tất cả cho người khác. Do đó, xét cho cùng, chúng
ta chỉ là những người quản lý tạm thời những gì chúng ta đang có, và phải sử
dụng chúng theo ý muốn của người chủ đích thực của chúng là Thiên Chúa. Và
chúng ta sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về cách chúng ta quản lý chúng.
Người quản lý nào không sử dụng của cải tiền bạc của chủ đúng theo ý chủ, nghĩa
là không làm lợi cho chủ mà chỉ làm lợi cho mình, sẽ bị đuổi việc hoặc phải
chịu trách nhiệm về cách quản lý sai trái ấy.
Trong dụ ngôn bài
Tin Mừng hôm nay, người phú hộ bị hình phạt dưới âm phủ, chịu lửa thiêu đốt và
khát cháy cổ, không phải vì phạm một tội ác nào, mà chỉ vì sử dụng của cải
Thiên Chúa ban để ích lợi cho một mình mình. Ông ta "mặc toàn lụa là gấm
vóc, ngày ngày yến tiệc linh đình", bỏ mặc người nghèo ở ngay trước cổng
nhà mình "sống chết mặc bay!", phải chịu "mụn nhọt đầy
mình", "mấy con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta", "thèm
được những thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no" mà không hẳn
được ai cho. Người phú hộ ấy – cũng như biết bao người giàu có khác – nghĩ rằng
những gì mình đang có trong tay là của mình, mình muốn sử dụng hay hưởng thụ
thế nào, cho ai hay không cho ai là tùy ý mình. Ông ta nghĩ rằng ông hoàn toàn
vô tội khi không làm thiệt hại gì ai. Đối với những người nghèo khổ đến với
ông, ông nghĩ ông có quyền không cho, và làm như thế ông không có lỗi gì với họ
cả: ông có làm gì khiến họ bị thiệt hại đâu!
Nhưng việc ông
phải chịu phạt dưới âm phủ chứng tỏ cách suy nghĩ như thế là hoàn toàn sai lầm.
Tuy dù ông không có hành động tích cực hay cụ thể nào gây bất công cho ai,
nhưng việc chỉ dùng của cải Thiên Chúa ban để hưởng thụ một mình mình, hay một
mình gia đình mình, đồng thời làm ngơ hoặc không đếm xỉa gì đến những đau khổ
của những người nghèo túng, bị áp bức chung quanh mình, thì ông đã phạm một tội
rất nặng rồi. Vì tiền bạc của cải ông có, thật ra đâu phải là của ông khiến ông
có toàn quyền sử dụng theo ý mình. Ông chỉ là người quản lý, và ông phải quản
lý làm sao để chứng tỏ ông có tình thương, để làm lợi cho Nước Trời, là thứ xã
hội lý tưởng trong đó mọi người luôn yêu thương nhau. Có thế ông mới xứng đáng
được hưởng hạnh phúc trong Nước Trời, vốn chỉ dành cho những con người có tình
yêu thương thật sự. Theo bài Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng (Mt 25,31-46),
rất nhiều người chẳng phạm một tội ác nào tích cực, thế mà chẳng thể vào được
Nước Trời chỉ vì, như Chúa nói, "xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta
khát, các ngươi đã không cho uống; là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước;
Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã
chẳng thăm viếng" (Mt 25,42-43).
2. Của cải vật
chất trên nguyên tắc là để mọi người hưởng dùng
Thiên Chúa tạo
dựng nên của cải vật chất trên thế gian là cho tất cả mọi người hưởng dùng.
Nhưng vì các cơ chế xã hội còn bất toàn, nên sự phân phối của cải chưa hợp lý,
khiến cho xã hội còn nhiều bất công: "kẻ ăn không hết, người lần chẳng
ra". Do đó, để sửa chữa hay giảm bớt bất công trong xã hội, những ai được
cơ chế xã hội ưu đãi khiến mình giàu có hơn người, dù là giàu có một cách rất
hợp pháp, phải biết chia sẻ cho những người nghèo khổ hơn mình, nhất là những
người gặp cảnh cùng quẫn. Đó là nghĩa vụ mà lương tâm tự nhiên của con người
đòi hỏi, không cần phải nại đến luân lý Ki-tô giáo. Cổ nhân ta có những câu như
"Lá lành đùm lá rách", "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác
giống nhưng chung một giàn", "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người
trong một nước phải thương nhau cùng". Việc xây dựng một xã hội công bằng,
trong đó của cải được phân chia hợp lý, hay việc chống bất công, cũng là nghĩa
vụ của mọi người, nhất là những người được Thiên Chúa ban cho nhiều khả năng
làm việc ấy một cách hữu hiệu (những người có tài năng, chức quyền, có địa vị
trong xã hội và Giáo Hội...)
Thiên Chúa của
chúng ta là một Thiên Chúa công bằng và yêu thương, Ngài đã cho Con Một Ngài
xuống thế để loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa hay Nước Trời và khởi đầu xây
dựng nước ấy, trước hết tại trần gian, và sau đó là trên trời. Nước Trời là một
xã hội hay Giáo Hội lý tưởng, trong đó mọi người đều đối xử với nhau không chỉ
hợp với lẽ công bằng, mà còn phải đầy tình yêu thương nữa. Những người ích kỷ,
chỉ biết hạnh phúc một mình, đầy đủ một mình, những người chủ trương ai chết
mặc ai, ai khổ mặc ai, không thể là đối tượng của Nước Trời. Vì thế, những
người theo Ngài, tức các Ki-tô hữu, có nhiệm vụ tiếp nối công việc của Ngài là
làm chứng và xây dựng cho Nước Trời. Làm chứng là chính mình sống đúng tinh
thần công bằng và yêu thương của Nước Trời ngay trong chính môi trường mình
đang sống. Xây dựng là làm sao để trong môi trường mình sống ngày càng có nhiều
người sống tinh thần ấy. Thiết tưởng mọi Ki-tô hữu cần ý thức và quan tâm tới
chiều kích xã hội và giáo hội này.
3. Những người
giàu có, hạnh phúc, cần quan tâm giúp đỡ và chia sẻ với người nghèo túng, đau
khổ
Qua bài Tin Mừng
hôm nay, ta thấy Thiên Chúa không chấp nhận cho vào Nước Trời những người sống
ích kỷ, không biết yêu thương, những người lãnh đạm hoặc làm ngơ trước những
đau khổ, thế cùng quẫn, tình trạng bị áp bức, bóc lột mà những người chung
quanh ta đang phải gánh chịu một cách bất công. Vì thế, một cách cụ thể, chúng
ta cần biết chia sẻ, giúp đỡ họ, và phải làm một cái gì đó khi có thể. Nếu
chúng ta có tình yêu đích thực, tình yêu ấy ắt sẽ khiến chúng ta bức xúc và
không thể im lặng hay bất động trước những đau khổ người khác đang phải chịu
trước mắt mình. Tình yêu đích thực không cho phép chúng ta hành động như anh
nhà giàu trong bài Tin Mừng hôm nay, an tâm "mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày
ngày yến tiệc linh đình" trong ngôi nhà khang trang đầy tiện nghi, không
thèm đếm xỉa đến nỗi cùng quẫn của những "Ladarô, mụn nhọt đầy mình, thèm
được những thứ trên bàn ăn rớt xuống mà ăn cho no" đang nằm trước cổng nhà
mình. Tình yêu đích thực không cho phép chúng ta khoanh tay ngồi nhìn những kẻ
ác tự do gây bất công cho những kẻ thế cô, khi mà chúng ta có thể dùng tài năng
hay địa vị của chúng ta để can thiệp.
Chúng ta sẽ phải
trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về những gì Thiên Chúa ban mà chúng ta lại không sử
dụng để làm lợi cho Ngài và tha nhân. Dụ ngôn về nén bạc cho chúng ta biết điều
ấy (xem Mt 25,14-30; Lc 19,12-27): Kẻ nào đem chôn nén bạc Chúa trao, dù chỉ là
một nén, mà không sinh lợi ích cho Ngài, thì sẽ Ngài bị kết án: "Còn tên
đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc
lóc nghiến răng" (Mt 25,30). Do đó, chúng ta không thể tự hào mình vô tội
chỉ vì mình không hề làm điều gì bất công. Coi chừng chúng ta là kẻ tội lỗi
đáng kết án chỉ vì đã không làm những gì lương tâm và tình yêu thương đòi buộc
phải làm, dù bởi lười biếng hay hèn nhát...
Cầu nguyện
Lạy Cha, con cảm
thấy mình chưa đủ tình thương đối với Cha cũng như với đồng loại, vì con chưa
dám hy sinh một chút danh tiếng, một chút thì giờ, một chút của cải, hay chấp
nhận một chút đau khổ, nhục nhã, khó nhọc để làm cho những người thân đang đau
khổ chung quanh con bớt đau khổ. Con vẫn chỉ nghĩ tới sự an toàn và hạnh phúc
của riêng con, coi sự an toàn và hạnh phúc của con hơn tất cả. Xin ban cho con
có nhiều tình yêu hơn, vì có đủ tình yêu, con sẽ làm được tất cả những gì Chúa
muốn, những gì lương tâm và tình yêu đòi buộc. Amen.
25. Cuộc
sống trần thế không phải là tất cả
(Suy niệm của Lm
Phanxicô Xavie Vũ Phan Long)
Nếu con tim đã
trở nên đui mù và chai cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người
thân cận, thì các phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng
giúp lay tỉnh được.
1.- Ngữ cảnh
Tại đoạn Lc
16,14-18, tác giả đã mô tả người Pharisêu là "vốn ham hố tiền bạc".
Lời mô tả này chủ ý được ghi vào cho khó nghe, bởi vì là một nhận xét bất
thường, không có chỗ nào trong TM III hay Cv sử dụng. Đức Giêsu than trách rằng
điều răn quan trọng nhất, yêu thương người thân cận như chính mình, đã phải hy
sinh cho việc giữ lấy của cải riêng, và lòng yêu thương đối với chính mình, cho
dù phải hy sinh người thân cận, đã được ưa chuộng hơn – và điều này lại rõ ràng
nơi những người Pharisêu đạo đức! Những câu nói về sự ham hố tiền bạc dễ dàng
tuôn ra từ dụ ngôn trước đó nói về việc sử dụng của cải cách bất chính (16,1-8)
và từ những bài học về việc lạm dụng của cải (16,9-13). Vậy bài dụ ngôn
16,19-31 là phần nối tiếp những nhận định lâu dài của tác giả Lc về việc sử
dụng không đúng đắn các của cải (kể từ bài Người con hoang đàng). Bài dụ ngôn
hôm nay giúp làm sáng tỏ hoàn cảnh này. Người Pharisêu chế nhạo Đức Giêsu khi
nghe dụ ngôn của Người đề cập đến tiền bạc; bây giờ, bằng ngôn ngữ rõ ràng và
mạnh mẽ, Đức Giêsu biện luận về cách sử dụng đúng đắn các của cải.
Những lời Đức
Giêsu (16,15-18) tiếp theo lời tác giả giới thiệu người Pharisêu ở c. 14 tập
trung vào những gì Đức Giêsu cùng chia sẻ với cử tọa: hết sức tôn trọng các
giáo huấn của Cựu Ước; chỉ có một con đường duy nhất đưa vào Nước Trời (16,16),
đó là tuân giữ các giáo huấn của Thiên Chúa, và ở đây là giáo huấn liên hệ đến
việc sử dụng đúng đắn các của cải. Lề Luật nói về điểm này, sẽ không bao giờ
qua đi, nhưng luôn hướng dẫn các chọn lựa của con người (16,17). Điều duy nhất
Đức Giêsu thêm vào các giáo huấn đáng kính của Thiên Chúa là làm sáng tỏ cách
người Do Thái hiểu Luật Môsê (x. c. 18 như một ví dụ về cách Đức Giêsu làm sáng
tỏ Lề Luật). Người Kitô hữu, trong khi vẫn nhìn nhận giá trị của Luật Cựu Ước,
lại sống ý muốn của Thiên Chúa theo cách hiểu của Đức Giêsu, là Đấng Cứu thế,
là vị Hướng đạo và Đấng soi sáng mình.
Vì không có một
từ hay một câu nào để nối dụ ngôn với các câu trước, ta có thể hiểu rằng dụ
ngôn thuộc về những câu đi trước nó.
2.- Bố cục
Bản văn có thể
chia thành hai phần:
1) Hoàn cảnh của
ông nhà giàu và Ladarô (16,19-22);
2) Cuộc đối thoại
(16,23-31):
a) Phần một: Cuộc
sống dưới ánh sáng của cái chết (cc. 23-26);
b) Phần hai: Sứ
điệp cho "năm người anh em" và cho các môn đệ Đức Giêsu: lắng nghe
Lời Chúa (cc. 27-31).
3.- Vài điểm chú
giải
- mặc toàn ...
(19): enedidysketo, thì vị hoàn của động từ endidyskô, "mặc", cho
hiểu là đây là một hành động xảy ra thường xuyên.
- lụa là gấm vóc
(19): dịch sát là "gấm tía và vải lanh mịn". Theo ngôn ngữ của Cựu
Ước (Cn 31,22; 1 Mcb 8,14), ta hiểu ông nhà giàu sống như một ông vua.
- Ladaro (20): Do
từ Híp-ri 'El'âzâr, có nghĩa là "Thiên Chúa giúp đỡ".
- được thiên thần
đem (22): Do vế sau nói về ông nhà giàu "cũng chết, và người ta đem
chôn", tức là linh đình và long trọng, ta hiểu anh Ladarô không được loài
người an táng, nên đã được các nhân vật thiên quốc đem đi.
- anh Ladarô
trong lòng tổ phụ (23): Đây là vị trí danh dự khi người ta được dự tiệc đồng
bàn với Abraham tại bữa tiệc thiên sai (Lc 13,28-29; x. Ga 13,22).
- âm phủ (23): Từ
ngữ (h)adês lấy từ thế giới Hy Lạp, để mô tả cuộc sống của người ta sau cái
chết. "Hadês" là tên của vị thần Hy Lạp cai trị âm phủ, và được dùng
để chỉ nơi người ta không thể nhìn thấy, do con chữ alpha có nghĩa là thiếu mất
đứng trước ngữ căn của động từ "nhìn thấy". Đối với người Hy Lạp
không tin có sự sống lại từ cõi chết, dù chấp nhận có sự bất tử, linh hồn của
người chết được mô tả là đi lang thang trong một xứ sở không có mặt trời, trong
một hình dạng bất toàn, như một cái bóng.
- ông ta ngước
mắt nhìn lên (23): Ông đang "ở dưới", tượng trưng cho tình trạng đau
khổ, nhục nhã và thiếu thốn mà ông không tự giải quyết được.
- lòng tổ phụ (23):
biểu tượng người Do Thái dùng để nói về tình trạng sống rất thân tình và rất
được ao ước, khi đó hai con người kết hợp với nhau. Công thức này tương tự với
công thức "lòng kề lòng".
- Ladarô được an
ủi (25): Thái bị động thay tên Thiên Chúa: "Thiên Chúa an ủi" Ladarô.
- đã có một vực
thẳm lớn (26): Dịch sát là "đã cắt ngang định sẵn một vực thẳm"
(NTT). Đây là thái bị động thay tên Thiên Chúa: "Thiên Chúa đã định sẵn
một vực thẳm".
- Chúng đã có
Môsê và các Ngôn sứ (29): "Môsê và các ngôn sứ" là tên gọi bộ Kinh
Thánh Do Thái (tức Cựu Ước). Tổ phụ Abraham khẳng định rằng sứ điệp nòng cốt
của Kinh Thánh Do Thái vẫn còn là một cẩm nang có giá trị để hướng dẫn anh em
ông nhà giàu.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
* Hoàn cảnh của
ông nhà giàu và Ladarô (19-22)
Ông nhà giàu
không có tên, nhưng lại rất giàu; còn Ladarô chỉ có một sự giàu có, đó là cái
tên. Hai người không có tương quan gì với nhau cả.
Ông nhà giàu
không làm điều gì xấu về luân lý cả; ông chưa hề từ chối Ladarô một điều gì, vì
Ladarô cũng chưa xin gì cả. Bản văn chỉ nói rằng ông có một chương trình sống
như chương trình một ông nhà giàu khác đã phác ra, nhưng đã không thể thực hiện
trọn vẹn vì cái chết đến sớm: "Cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho
đã" (Lc 12,19). Y phục thường xuyên của ông là lụa là gấm vóc: mỗi ngày
ông đều mặc "gấm tía và vải lanh mịn", chứ không chỉ vào một số ngày
đặc biệt. "Gấm tía" rất đắt, nên chỉ giới thượng lưu vương giả mới
dám dùng. "Vải lanh mịn" cũng là thứ hàng hiếm, ngay tại Rôma. Thế mà
ông nhà giàu mặc mỗi ngày! Thường mỗi gia đình có một bữa ăn chính mỗi ngày;
còn trong nhà của ông nhà giàu, bữa ăn chính này, mỗi ngày, lại là một yến
tiệc. Chắc chắn ông nhà giàu không ăn mặc và ăn uống sang trọng hào nhoáng như
thế cho riêng ông, ông phải có các khách mời. Ông đã sống như một ông vua.
Các thính giả có
thể khó chịu vì bức tranh này, vì dường như "bôi bác" người nghèo.
Nhưng Đức Giêsu sắp chuyển sang vấn đề cách thức sử dụng của cải và lý do vì
sao của cải không cứu được mà lại tiêu diệt người chủ của. Chính bài học hệ trọng
này cho hiểu vì sao Đức Giêsu giới thiệu quá chi tiết hình ảnh ông nhà giàu,
một hình ảnh ở mức độ nào đó đang có trong mỗi một người, ở dạng hiện thực hay
ở dạng nguyện ước.
Thế rồi Đức Giêsu
đưa ra một hình ảnh đối ngược tối đa với ông nhà giàu: một người nghèo mạt. Bản
văn không nói là anh này sống đúng đắn về luân lý. Anh có một tên,
"Ladarô" có nghĩa là "Thiên Chúa giúp đỡ", một cái tên có ý
nghĩa đối với "những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù" (x.
Lc 14,13.21). Ladarô nghèo khó lại mụn nhọt đầy mình. Phải chăng Thiên Chúa sẽ
giúp đỡ Ladarô qua trung gian ông nhà giàu? Anh không thể đi lang thang đây đó
mà xin ăn. Ladarô cần có bạn bè để giúp anh tìm được thức ăn. Họ đã bỏ anh nằm
trước cổng nhà ông nhà giàu, một vị trí mà một người nghèo khó, tàn tật, què
quặt, đui mù, người không được mời, có thể ở gần chủ nhà nhất. Ông chủ và các
khách mời không thể nào không biết có anh này ở ngoài cổng, và quả thật, ông
nhà giàu đã gọi tên anh khi anh đang ở trong lòng tổ phụ Abraham.
Ladarô đói, anh thèm
được ăn những thứ thừa thãi trên bàn người giàu và các thực khách rơi xuống.
Rất có thể mấy con chó dưới gầm bàn được hưởng những thứ này. Mà nếu vậy, hẳn
là Ladarô mong được không phải ở giữa những thực khách, mà là ở giữa những con
chó. Chỉ có mấy con chó hoang đến liếm ghẻ chốc của anh. Phải chăng chúng săn
sóc anh? Nếu thế, ông nhà giàu không giúp đỡ anh bằng mấy con chó. Nhưng cũng
có thể hiểu việc mấy con chó đến liếm mụn nhọt cho anh như là một tình trạng bị
bỏ rơi, không được ai giúp đỡ, mà còn bị đàn vật tấn công nữa.
Bức tranh Đức
Giêsu phác ra kết thúc tại điểm này: đây là một "kết thúc mở". Tình
trạng mâu thuẫn đã rõ. Đức Giêsu không mô tả thêm gì; điều này có nghĩa là bao
lâu hai nhân vật trên còn sống, không có gì thay đổi cả: mỗi người cứ tiếp tục
như thế cho đến chết. Dù sao, tác giả Lc không hề xác định rằng ông nhà giàu
xấu xa, hay là Ladarô là điển hình của người tốt. Đấy là những vấn đề nằm ngoài
bản văn. Tác giả chỉ mô tả cuộc sống của hai bên: một bên thì ăn tiệc, còn bên
kia thì ăn xin; một bên thì ăn mặc sang trọng, còn bên kia thì gần như trần
truồng.đây là hai kiểu mẫu song đối đang đứng trước mặt nhau, nhưng không có
đối thoại. Mặc dù có sự gần kề thể lý hằng ngày, dụ ngôn lại cho thấy sự xa
cách là có thật. Đàng khác, sự kiện họ không nói với nhau là một yếu tố không
phài không đáng kể, nhất là trong một dụ ngôn kết thúc bằng việc kêu gọi lắng
nghe (16,29.31).
* Phần một của
đối thoại: Cuộc sống dưới ánh sáng của cái chết (23-26)
Nhưng cái tên
"Ladarô", có nghĩa là "Thiên Chúa giúp đỡ", Đức Giêsu cố
tình gán cho anh, là để ta hiểu rằng cái tên của anh phù hợp với hoàn cảnh của
anh: Khi còn sống, anh đã không được người nào giúp đỡ; sau khi chết, anh đã
được Thiên Chúa an ủi.
Đứng trước cái
chết, ông nhà giàu và anh nhà nghèo bình đẳng. Cái chết chiếu cố đến cả hai
người. Nhưng tại điểm này, số phận của họ đảo ngược. Bản văn không nói gì về
phán xét, nhưng chỉ ghi nhận sự đảo lộn các số phận, đồng thời nói đến một tình
trạng bất khả truyền thông giữa hai bên. Những gì được nói ở đây về cuộc sống
sau cái chết không phải là một mô tả chính xác về cuộc sống ấy và không hề có ý
phác ra một địa lý của thế giới bên kia gồm những vùng hoặc những tầng. Nếu Đức
Giêsu chọn nói về đau khổ dành cho những kẻ tội lỗi trong cuộc sống sau cái
chết, Người thường vận dụng kinh nghiệm của các cư dân của một thành phố qua
hình ảnh một ngọn lửa cháy mãi trên một đống rác, liên tục cháy ngày đêm để
thiêu đốt rác rưởi của thành ấy (Mc 9,48; x. Is 66,24).
Các hình ảnh này
chỉ muốn diễn tả sự khác biệt tận căn trong thế giới bên kia của đời sống một
người đã rất giàu có và đời sống của một người đã hết sức nghèo túng. Ladarô
được đưa vào lòng tổ phụ Abraham. Abraham, bạn của Thiên Chúa và tổ phụ của dân
Israel, được coi như người chủ tọa bữa tiệc mừng trong thế giới ấy (x. Mt
8,11). Ladarô, đã từng nằm vạ vật bẩn thỉu trước cổng và chỉ có bầy chó làm
bạn, nay nhận được một chỗ danh dự bên cạnh tổ phụ Abraham, trong sự hiệp thông
thân tình và tin tưởng với ngài (x. Ga13,23). Còn ông nhà giàu, trước đây, ông
ăn mặc tinh tế và xa hoa, nay chỉ có lửa bao quanh ông, khiến ông rất đau đớn.
Trước kia, ông luôn có sẵn những thức ăn thơm ngon và thức uống ê hề, bây giờ
ông phải xin một giọt nước. Trước đây, trong cuộc sống trần gian, Ladarô đói
khát mong ước được ăn những thứ thừa từ bàn chủ rơi xuống, nhưng không được;
bây giờ ông nhà giàu xin Ladarô đưa ngón tay nhúng nước rồi nhỏ cho ông một
giọt nước, mà cũng không được nhận. Trong cuộc sống trần gian, ông đã biết và
chỉ quan tâm đến thú vui, thoải mái, sự xa hoa và những thứ tinh tế. Với của
cải của ông, ông có thể cho phép mình có mọi sự. Nhưng cách thức ông đã sử dụng
của cải và tiêu xài cuộc sống đã đẩy ông vào một tình cảnh trong đó ông phải
chịu đau đớn và dày vò, nhung nhớ và nguyện ước không nguôi; chính ông tự tách
khỏi sự hiệp thông với tổ phụ Abraham và với Thiên Chúa.
Tác giả không
giải thích trong bài dụ ngôn vì sao ông nhà giàu phải chịu đau khổ, còn Ladarô
thì thoát khỏi đau khổ. Các hoàn cảnh sau cái chết của họ chỉ được hiểu ngầm
trong bài là xứng đáng với họ. Tổ phụ Abraham không nói rằng vì ông nhà giàu có
của cải trên trần gian, nên bây giờ phải chịu đau khổ; ngài chỉ muốn khẳng định
rằng ông ấy đã có của cải ở trần gian, nhưng sự giàu có không theo ông vào âm
phủ được. Chúng ta hiểu rằng đời sống trước đây trên mặt đất phải chịu trách
nhiệm và là nguyên nhân của những tình cảnh sau cái chết.
Lời ông nhà giàu
kêu "lạy cha Abraham (của con)" xin giúp đỡ và lời tổ phụ Abraham nói
"con (của ta)" để từ chối cho hiểu quan hệ thân thương này vẫn không
chặn được các ngọn lửa và cơn khát nơi âm phủ. Nhưng lời kêu cứu của ông cũng
cho hiểu là có một dây liên kết cốt thiết giữa ông và Ladarô; mặc dù có những
khác biệt lớn lao giữa hai người, họ vẫn là anh em gần gũi và phải yêu thương
nhau. Thế nhưng bây giờ, "giữa chúng ta đây và các con đã có một vực thẳm
lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà bên đó có qua bên
chúng ta đây cũng không được" (c. 26), nghĩa là không thể thay đổi phần
thưởng hay hình phạt nữa, khi mà cuộc sống đã chấm dứt. Mối quan tâm của ông
nhà giàu cho số phận của năm người anh em sau này gợi ý là sau khi chết, không
còn có thể thay đổi được nữa.
Chúng ta ghi nhận
là không phải là Ladarô đã lập luận để trả lời cho ông nhà giàu, mà là tổ phụ
Abraham, tức Nguồn Mạch của Do Thái giáo. Rất hợp lý là cha của tất cả mọi con
dân Israel giải thích cho hiểu vì sao Ladarô không thể giúp gì cho ông nhà
giàu. Lý do thứ nhất: ông nhà giàu đã có các thứ tốt lành khi còn sống ở đời;
còn Ladarô thì chỉ toàn gặp bất hạnh. Bây giờ ông nhà giàu phải đau khổ còn
Ladarô được an ủi. Điểm nhắm trong lời nói của tổ phụ Abraham là cung cấp lý do
vì sao đau khổ của ông nhà giàu không thể chấm dứt: do sống trong tình trạng bị
dày vò lúc này, ông phải nhớ lại rằng ông đã có các thứ tốt lành trong cuộc sống
trần gian và nhớ là bây giờ ông phải chịu đau khổ. Bên kia, Ladarô không bị
buộc phải từ bỏ tình trạng hạnh phúc của anh; anh đã phải chịu đau khổ suốt
đời, nên nay anh được an ủi. Lời của tổ phụ Abraham chỉ nhắm giải thích một
điều: không phải vì sao mỗi người đang ở nơi họ đang ở, nhưng vì sao không thể
yêu cầu Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
Lý do thứ hai:
theo quan niệm về âm phủ nói trên, có một sự ngăn cách không thể vượt qua giữa
cái tốt và cái xấu: "giữa chúng ta đây và các con", tổ phụ Abraham kể
cả chính ngài vào đó. Vậy, sự ngăn cách này do một Đấng Khác quy định bất di
bất dịch, chứ không do bất cứ thụ tạo nào. Tình trạng bất khả thông thương này
chấm dứt mọi tranh luận về việc Ladarô giúp đỡ ông nhà giàu.
* Phần hai của
đối thoại: Sứ điệp cho "năm người anh em" và cho các môn đệ Đức
Giêsu: lắng nghe Lời Chúa (27-31)
Ông nhà giàu nhìn
nhận rằng chính lối sống của ông trước đây trên mặt đất đã đưa ông đến tình
trạng này. Do đó ông mong muốn là anh em ông được nhắc nhở thay đổi đời sống để
khỏi rơi vào số phận đau đớn như ông. Rất có thể những người này đang sống dưới
một mái nhà với ông, nên ông biết rõ lối sống của họ. Cách thức thực hiện điều
này, như ông đề nghị, là gửi Ladarô về khuyến cáo các anh em ông về mối nguy
hiểm đáng sợ đang ở trước mắt. Tổ phụ Abraham trả lời: "Chúng đã có Môsê
và các Ngôn sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó". "Môsê và các Ngôn
sứ" là tên gọi bộ Kinh Thánh. Như thế, muốn tránh được lộ trình đưa đến số
phận đau đớn thì hãy lắng nghe Lời Chúa. Từ đó, chúng ta hiểu rằng trong khi
còn sống, ông nhà giàu đã không lắng nghe, tức không vâng theo "Môsê và
các Ngôn sứ", Lời Chúa, với luật căn bản là mến Chúa yêu người.
Nhờ trung gian
của Kinh Thánh, Thiên Chúa truyền đạt cho chúng ta biết ý muốn của Ngài, Ngài
ban cho chúng ta những quy luật sống đúng đắn để đưa chúng ta đến đích. Ý muốn
của Thiên Chúa không hề khó tuân giữ, như sách Đệ nhị luật đã khẳng định:
"Quả thế, mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay đây, không vượt quá sức
lực hay ngoài tầm tay anh em. Mệnh lệnh đó không ở trên trời [...]. Mệnh lệnh
đó cũng không ở bên kia biển [...]. Thật vậy, lời đó ở rất gần anh em, ngay
trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành" (Đnl
30,11-14). Trong Kinh Thánh, có chỗ nói rõ ràng về trách nhiệm xã hội đối với
những người nghèo. Nay ta có thể giải thích rõ ràng nhất bức tranh Đức Giêsu đã
vẽ ra trong bốn câu đầu của dụ ngôn: Ông nhà giàu đã bỏ qua ý muốn của Thiên
Chúa, không quan tâm đến Thiên Chúa, đã chỉ tìm kiếm tiện nghi và thú vui cho
riêng mình. Do đó, ông đã phải đi đến đau khổ hiện tại.
Ông nhà giàu
không phủ nhận tính đúng đắn của lời tổ phụ Abraham nói, nhưng ông nghĩ rằng
anh em ông sẽ vâng theo hơn, nếu có người, như Ladarô, từ cõi chết trở về
truyền đạt sứ điệp Môsê. Chắc chắn Ladarô không có gì hơn Môsê mà nói; giá trị
của anh nằm ở chỗ anh có thể làm chứng về thế giới âm phủ. Nhưng câu trả lời
của tổ phụ Abraham là một lời bình luận về trái tim con người. Nếu người ta
không muốn vâng nghe Môsê và các ngôn sứ, thì người từ cõi chết trở về cũng
chẳng lay chuyển được lòng dạ của họ. Lời tổ phụ Abraham phân tích một con tim
sống trong tội rất có thế giá: bài dụ ngôn nhắm điều này, nên đã kết thúc ở đây
với nhận xét của tổ phụ Abraham. Thật khó mà đưa trái tim con người đến chỗ
hoán cải!
+ Kết luận
Trong bài dụ
ngôn, Đức Giêsu cho thấy một cuộc đảo lộn tình thế và nguyên nhân của cuộc đảo
lộn này. Những gì Người loan báo ở đây là nhắm ban cho các "anh em"
(c. 28) ông nhà giàu một lời giáo huấn và khuyến cáo, để họ khỏi mất linh hồn
vì những thú vui do của cải giàu sang, trái lại biết nghiêm túc tìm thánh ý
Thiên Chúa. Các lời này của Đức Giêsu cũng là một an ủi cho người nghèo, vì tuy
trên trần gian họ phải sống một số kiếp đau thương nhưng họ vẫn có thề hoàn
toàn cậy trông vào sự nhân lành của Thiên Chúa.
Đức Giêsu mạnh mẽ
loan báo rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả và các hoàn cảnh hiện
thời trong cuộc đời không đơn giản được lặp lại sau cái chết. Ai không nhìn
sang bên kia cuộc sống trần thế và niềm vui sống, thì sau cái chết sẽ phải gặp
một chuyện kinh ngạc đau đớn. Đối với mọi người, giàu hay nghèo, cần phải quy
hướng cuộc sống mình về ý muốn của Thiên Chúa. Đây là con đường duy nhất để
tránh được diệt vong và đạt được sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa.
Còn có một hướng
suy nghĩ khác: sau khoảng năm mươi năm Đức Giêsu đã ban dụ ngôn này, phải chăng
tác giả Lc muốn ám chỉ rằng người ta cũng sẽ không nghe Đức Giêsu, Đấng đã sống
lại từ cõi chết? Sách Công vụ đã nêu lên nhiều bằng chứng về sự "không
nghe" này. Nếu hiểu như thế, bài dụ ngôn cũng có sức quy chiếu về Đức
Giêsu.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Hai người ở
cách nhau có ít bước, thế mà dường như không gặp nhau. Ladarô cứ việc nằm vất
vưởng đau bệnh trước cửa; ông nhà giàu biết anh, nhưng sống như không hề có
Ladarô. Khi người ta tin tưởng vào tiện nghi, vào của cải, vào "phát
triển", người ta trở thành đui mù, không thấy người khác với các nhu cầu
của họ. Sau này, ông nhà giàu không hề biện minh: Tôi không gây rắc rối gì cho
Ladarô. Tôi tôn trọng quyền tự do của anh. Anh ta đâu có hề xin tôi điều gì!
Ông biết ông đã sai khi không sống những điều Lời Chúa dạy.
2. Ông nhà giàu
có tất cả mọi sự trên đời và dường như ông đã đạt được mục tiêu của cuộc đời.
Nhưng chính cái chết cho hiểu rằng cuộc sống trần gian không phải là tất cả.
Phải sống cuộc sống trần gian, phải sử dụng của cải vật chất thế nào, để sau
khi chết, người ta đạt được cuộc sống viên mãn. Dĩ nhiên Đức Giêsu không muốn
nói đến một vài sai lỗi nhất thời; Người dạy chúng ta về giá trị của chọn lựa
căn bản: có những chọn lựa trong cuộc sống hôm nay rất hệ trọng, bởi vì liên hệ
đến cuộc sống vĩnh cửu sau cái chết.
3. Ông nhà giàu
chết, và phải chịu cực hình. Điều này không có nghĩa là chỉ nguyên vì ông có
của cải trong cuộc sống trần gian, mà dứt khoát ông bị hành hạ trong thế giới
bên kia. Nếu ông bị đau đớn là vì ông đã không biết sử dụng của cải cho khôn
khéo, như đã được nói đến ở cc. 9,14-15. Hôm nay chúng ta cũng được mời gọi xét
lại xem chúng ta có chăng khả năng thấy nơi mỗi con người và nơi các nhóm người
và các dân tộc, một Ladarô nghèo khó đang ở trước cửa nhà chúng ta. Chúng ta có
nhận ra được những nhu cầu của họ chăng? Chúng ta đã và còn sẽ làm gì cho họ?
4. Sau khi chết,
không còn có thể thay đổi được số phận nữa. Chính vì thế Đức Giêsu đã ra sức
thúc bách người ta "thay đổi ngay bây giờ". Không có một giáo huấn
nào của Tân Ước cho thấy là ta còn có thể hoán cải sau khi chết. Lời Chúa có đó
để hướng dẫn chúng ta đạt được cứu cánh của cuộc đời chúng ta. Muốn lắng nghe
Lời Chúa, ta phải có con tim sẵn sàng và rộng mở. Nếu con tim đã trở nên đui mù
và chai cứng vì ích kỷ, không quan tâm đến Thiên Chúa và người thân cận, thì
các phép lạ và các sứ giả từ bên kia thế giới trở về cũng chẳng giúp lay tỉnh
được.
5. Điều mà bài dụ
ngôn lên án, đó là không biết nhận ra tình trạng của bản thân để thay đổi. Có
một cuộc đời để đáp lại các tiếng gọi và có một lúc cuối cùng, vẫn còn có thể
làm được điều gì đó. Người gian phi tại đồi Sọ đã có sự khôn ngoan đúng lúc.
Trong một thoáng chốc, anh đã biết sử dụng Lời như một cái kềm để nhổ các cây
đinh của cuộc sống gian ác của anh và nắm bắt được thiên đàng: "Giêsu ơi,
xin nhớ đến tôi" (Lc 23,43).
26. Chú
giải của Noel Quesson
Đức Giêsu đã nói
dụ ngôn này: "Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày
yến tiệc linh đình"
Đức Giêsu đã
trông thấy điều đó. Bấy giờ đã có những bất bình đẳng... giữa những người quá
giàu, và những người quá nghèo.
Lại có một người
nghèo khó tên là Ladarô, mụn nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu
Chúng ta nhận
thấy rằng ông nhà giàu không có tên: Mỗi người chúng ta chắc hẳn có thể nhận ra
mình nơi ông ta. Còn người nghèo có cái tên "Ladarô". Trước mắt Thiên
Chúa, Ladarô là một con người. Và cái tên mà Đức Giêsu cho anh (đây là lần duy
nhất mà một nhân vật của dụ ngôn có một cái tên cụ thể) có đầy ý nghĩa: Trong
tiếng Do Thái, El'azar có nghĩa là "Thiên Chúa - phù hộ". Chúng ta đi
đoán điều gì nơi ông nhà giàu bị... chê trách. Đó là ông ta đã đặt mọi niềm tin
cậy vào sự giàu cồ của ông, vào nhân tính. Trái lại điều Đức Giêsu thán phục
nơi người nghèo khó là dù thiếu thốn hết mọi sự của trần gian, anh chỉ trông
cậy vào Thiên Chúa sẽ giúp đỡ anh.
Thèm được những
thứ trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con chó cứ đến
liếm ghẻ chốc anh ta
Chúng ta chớ quên
rằng chính Đức Giêsu đã dùng cách mô tả bi thảm này: Bên trong nhà, người ta
chè chén trong cảnh xa hoa; bên ngoài, kế bên là cảnh khốn cùng, giữa hai bên
là một cái cổng. Cái cổng này ví như một "vực thẳm" phân cách giàu
nghèo. Hai vũ trụ song song. Ông nhà giàu sống trong một thế giới khép kín trên
chính mình, và không vượt qua cái cửa của ngôi nhà.
Phải sự giàu có,
tài sản của chúng ta ngăn không cho chúng ta "thấy được" những người
khác. Và người nghèo khó, mình đầy mụn nhọt, nằm bên ngoài trước cổng ông nhà
giàu, dường như cũng không tận mắt nhìn thấy ông nhà giàu mà Đức Giêsu đưa lên
sân khẩu.
Ngày 3 tháng 7
năm 1980 tại Sao Pau-lô ở Braxin, Đức Giáo Hoàng Gioan Phao lô II đã áp dụng dụ
ngôn này vào thế giới hiện đại một cách tập thể: "Những làn sóng di dân
chen chúc nhau trong những khu nhà ổ chuột bất xứng nơi nhiều người mất hết
niềm hy vọng và chết trong cảnh bần cùng. Trẻ em, thanh niên, người lớn không
tìm thấy không gian sống để phát triển đầy đủ các năng lực thể chất và tinh
thần, đi lang thang trong các đường phố nơi nhung làn sóng, xe cộ chạy tấp nập
giữa những tòa nhà bằng bê-tông... Bên cạnh những khu phố ở đó. Người ta sống
với mọi tiện nghi hiện đại, tồn tại những khu phố khác thiếu thốn đủ mọi thứ cơ
bản nhất... Nhiều khi sự phát triển trở thành một sự thuật lại khổng lồ dụ ngôn
ông nhà giàu và Ladarô, sự kề cận của cảnh xa hoa và cảnh khốn cùng càng làm
trầm trọng tình cảm ức chế của những người không may mắn"
Đó đúng là điều
Đức Giêsu đã nói:
Những mô tả ấy có
tác động tôi điều gì không?
Thế rồi người
nghèo này chết, và được thiên thần đem vào lòng ông Abraham. Ông nhà giàu cũng
chết, và người ta đem chôn. "Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình"
Vậy đây là một sự
lật ngược hoàn cảnh tình thế.
Người nghèo đã ở
giữa hỏa ngục trên trần gian. Bởi lẽ có những hoàn cảnh khốn cùng là một hỏa
ngục thật sự. Giờ đây, ngươi ấy được hạnh phúc. Trong khi ông nhà giàu trước
đây không thiếu thứ gì, giờ đây phải khốn khổ. Một trong những điểm đáng lưu ý
của hai dụ ngôn, là Chúa không nói rằng người nghèo sống đức hạnh, và ông nhà
giàu sống xấu xa. Đơn giản người này thì nghèo, người kia thì giàu, thế thôi.
Ông nhà giàu không bị buộc tội đã ăn cắp của Ladarô hoặc đã bóc lột anh bang
một nghiệp vụ khéo léo về bất động sản hay thương mại, hoặc không trả lương
Ladarô cho công bằng, hoặc đã ngược đãi, bóc lột anh. Chúa cũng không nói rằng
ông nhà giàu không bố thí cho Ladarô: Chỉ đơn giản là ông không nhìn thấy anh
ta! ông đã để một vực thẳm khủng khiếp giữa ông và người nghèo. Họ xa nhau,
người này xa cách người kia.
Ông ta ngước mắt
lên, thấy tổ phụ Abraham ở tận đàng xa, và thấy anh Ladarô trong lòng tổ phụ.
Bấy giờ ông ta kêu lên: 'Lạy tổ phụ Abraham, xin thương xót con, và sai anh
Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước, nhỏ trên lưỡi con cho mát; vì ở đây con bị
lửa thiêu đốt khổ lắm!
Dĩ nhiên không nên
tìm kiếm một sự mô tả thế giới bên kia trong những hình ảnh này. Đức Giêsu chỉ
sử dụng những sơ đồ của tư tưởng người đồng thời. Người không thể nói cách khác
để người ta hiểu Người: Thế giới bên kia được hình dung (!) như một âm phủ bao
la ("Shéol") với những thân thể (!), những cái lưỡi, ngón tay, lửa,
nước, ở một nơi mà những kẻ bị kết án nhìn từ xa những người được ưu tuyển cách
mình bằng một vực thẳm. Điều rõ ràng bên kia những hình ảnh bình dân làm sự đảo
ngược những điều kiện ở trần gian. Giờ đây chính ông nhà giàu cần đến anh nhà
nghèo.
Ông Abraham đáp:
'Con ơi, hãy nhớ lại: suốt đời con, con đã nhận phần phước của con rồi; còn
Ladarô suốt một đời chịu toàn những bất hạnh. Bây giờ, Ladarô được an ủi nơi
đây, còn con thì phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã
có một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng không được, mà
bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được'
Đức Giêsu một lần
nữa tái khẳng định "đặc quyền của những người nghèo" bởi miệng của
Abraham. Chúng ta, hãy nhớ lại. Bài Ca Ngợi Khen (Magrificat): "Kẻ đói
nghèo, Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng" (Lc
1,52-53). Chúng ta hãy nhớ lại bài diễn từ phác họa chương trình của Đức Giêsu
ở hội đường Nagiarét: "Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin
Mừng cho kẻ nghèo hèn" (Le 4,18). Chúng ta hãy nhớ lại mối phúc thật và
mối họa: "Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó; khốn cho các ngươi là
những kẻ giàu có (Lc 6,20-24). Chúng ta hãy nhớ lại nhiều lời cảnh báo chống
lại nguy cơ của những giàu có vật chất (Lc 12,15-21 - 16,9-11).
Đối với Đức
Giêsu, sự giàu có bao gồm hai nguy cơ chết người:
1. Nó khép kín
lòng mình với Thiên Chúa: Người ta bằng lòng với những lạc thú trần gian mà
quên đi đời sống vĩnh cửu là điều chủ yếu.
2. Nó khép kín
lòng mình với những người khác: Người ta không còn nhìn thấy người nghèo nằm
ngay cổng nhà mình.
Chúng ta hãy lưu
ý rằng, hỏa ngục dường như chỉ là sự kéo dài của tình trạng này: Xa cách Thiên
Chúa như ở trần gian người ta vẫn thế; xa cách những người khác như ở trần gian
Người ta vẫn thế. Một lần nữa, chúng ta ghi nhận rằng chính con người "tự
phán xử mình ngay từ trần gian này".
Hình phạt khủng
khiếp ấy đơn giản là khoảng cách mà kẻ giàu có đã đặt ở giữa người ấy và Thiên
Chúa, ở giữa người ấy và những người khác. Bởi vì Nước Thiên Chúa là sự hiệp
thông của tình yêu. Kẻ giàu có đã tự kết án chính mình: "cái cổng
nhà" hắn phân chia hai thế giới đã trở thành "vực thẳm".
Tôi có tin chắc
rằng tôi đang kiến tạo thiên đàng hay hoả ngục của tôi, mỗi lần tôi mở lòng tôi
cho Thiên Chúa hoặc cho những người khác, mỗi lần tôi khép kín mình trong chính
mình? Trần gian này là nơi rèn luyện bước đầu của thiên đàng và hỏa ngục.
Người nào không
yêu thương ở trần gian này đã tự loại mình ra khỏi "bữa tiệc của Thiên
Chúa" nơi chỉ có những người nghèo được vào, những người này đã "mở
lòng mình ra cho những người khác". Đức Giêsu đã mạc khải cho chúng ta
thái độ và hữu thể của Thiên Chúa: Người là Tình yêu phổ quát. Một người cha đã
giết con bê béo và tổ chức một bữa tiệc linh đình để đón nhận đứa con hoang
đàng; Thiên Chúa là thế! Một người giàu có chè chén với bạn bè mình để lợi dụng
của cải mình: Khác nhau biết bao!
Ông nhà giàu nói:
'Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh Ladarô đến nhà cha con, vì con hiện
còn năm người anh em nữa. Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào
chốn cực hình này'
Chi tiết này
không thôi, sẽ chứng tỏ khi cần rằng người ta không thể dùng những hình ảnh ấy
để mô tả thực tại đời sau: Nếu Thiên Chúa thấy tình cảm tốt lành nhỏ nhất trong
một Người, thì đương nhiên nơi này sẽ thôi không còn bị kết án nữa. Tình yêu
của Thiên Chúa thì vô tận. Nhưng ở đây, chúng ta có một cảnh dựng để đưa vào
câu trả lời sẽ theo sau.
Ông Abraham đáp:
'Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì chúng cứ nghe lời các vị đó.' Ông nhà
giàu nói: 'Thưa tổ phụ Abraham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ
cõi chết đến với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối'
Vậy một lần nữa,
chúng ta đứng trước một lời yêu cầu làm những đấu chỉ khác thường. Ông hãy làm
cho chúng tôi một phép lạ để tôi tin? ông hãy xuống khỏi cây thập giá, nếu ông
là Con Thiên Chúa! ông hãy gieo mình từ nóc Đền thờ xuống. Một số Kitô hữu luôn
luôn tiếp tục dựa vào các phép lạ và những lần hiện ra. Đức Giêsu từ chối các
dấu chỉ giật gân (Lc 11, 16-29; Mc 8, 11-12; Mt 2,38; 16,1).
Ông Abraham đáp:
'Mô-sê và các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại, họ
cũng chẳng chịu tin'
Thật vậy, sự sống
lại của Ladarô, em trai của Mácta và Maria ở Bêtania, không những không thuyết
phục được những người Pharisêu và các giáo trưởng, mà còn thúc đẩy họ có quyết
định loại trừ Đức Giêsu (Ga 11, 45-53). Con đường chân chính duy nhất đến với
đức tin không phải là một phép lạ nhãn tiền nhất mà là sự khiêm nhường lắng
nghe Lời Chúa (Môsê và các ngôn sứ)... sự khiêm nhường và chú tâm nhìn thấy các
nhu cầu của anh em chúng ta (người anh em đang đau khổ bên cạnh tôi)...
Nhưng Đức Giêsu
xem ra đã khẳng định rằng số phận những người giàu đó đã khô cứng một cách bi
thảm: Tính ích kỷ sự buông thả thái độ vô tôn giáo, thái độ khép kín lòng họ...
sau cùng làm họ "không thể đọc được những dấu chỉ của Thiên Chúa".
Thỉnh thoảng, cái chết theo lẽ tuần hoàn mà đến, nhắc họ rằng sự vô cảm tâm
linh là điều bấp bênh, và sự giàu có không bảo vệ họ mãi mãi. Nhưng tất cả đều
vô ích: tài sản của họ đã làm họ mù mắt trước những nỗi khốn khổ của người khác
và trước sự mỏng dòn của bản thân họ. Họ tự mãn về chính họ... bị giam hãm
trong của cải của họ... Thiên Chúa không cưỡng đoạt. Người không thể ép buộc
một ai yêu mến.
Để kết luận suy
niệm bài Tin Mừng này, chúng ta phải tự hỏi. Ai giàu có? Ai nghèo khó? Thành
hay bại rất nghiêm trọng đến nỗi nếu áp dụng câu chuyện này cho những người
khác sẽ tai hại như khi nói rằng: "Tôi đâu có phải là ông vua dầu
hỏa".
Hãy nhìn kỹ lòng mình...
Nó có mở ra cho Thiên Chúa, cho người khác không?
Bạn có nghèo
không?
27. Chú
giải của Fiches Dominicales
GIỮA CHÚNG TA ĐÃ
CÓ MỘT VỰC THẲM
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Đừng đào thêm
vực thẳm.
Trên hành trình
tiến về Giêrusalem nơi Người sẽ tự nguyện hiến mạng sống cho anh em đồng loại -
Đức Giêsu bắt đầu bằng việc kể cho các môn đệ dụ ngôn người quản gia bất lương.
Trước sự ngỡ ngàng của mọi người, Người kết luận với lời khen tên quản gia ấy
và mời gọi "con cái ánh sáng" phải biết hành động "khôn
khéo" giống như "con cái đời này": "Hãy dùng tiền của bất
chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em nào
nơi ở vĩnh cửu ".
Giờ đây, Người
quay sang ngỏ lời với những người Pharisêu, "vốn ham hố tiền bạc" (họ
quan niệm giàu có như dấu hiệu được Thiên Chúa chúc lành) và "cười nhạo
Đức Giêsu". Trong lúc dụ ngôn trước dạy cho chúng ta biết cách sử dụng của
cải trần gian sao cho đúng, thì dụ ngôn sau trình bày mặt trái, qua câu chuyện
về một người đã sử dụng của cải mình. có cách sai lầm. Đây là dụ ngôn của riêng
Luca, gồm ba cảnh. Mở màn, hai nhân vật xuất hiện: một giàu, một nghèo.
Người thứ nhất,
mặc dù là nhân vật chính, lại không được nêu tên: "một viên phú hộ
kia", thế thôi; nghĩa là mỗi người đều có thể nhận ra chính mình nơi ông.
Kẻ thứ hai thì lại có một cái tên gọi - chuyện hy hữu trong tất cả những dụ
ngôn của Đức Giêsu - và là một cái tên có nghĩa biểu tượng: "Ladarô",
có gốc từ chữ "Ê-lê-a-da", nghĩa là "Thiên Chúa phù trợ".
Không chỗ nào nói
Ladarô là một con người nhân đức; anh chỉ được giới thiệu là "một người
nghèo", "người nghèo" nói chung, không ai thấy không ai nghe.
Cũng vậy, không một chỗ nào nói rằng viên phú hộ kia là một kẻ "ác
ôn", rằng ông đã vơ vét của cải một cách mờ ám, rằng ông đã chiếm đoạt, đã
bóc lột một cách bất chính, đã lợi dụng hay ngược đãi Ladarô. Dụ ngôn trong Tin
Mừng chỉ lưu ý chúng ta ở chỗ ông đã không ngó ngàng gì tới "người nghèo
khó nằm trước cổng nhà mình", thế thôi ở đây chúng ta chứng kiến cảnh trái
ngược trớ trêu của hai thế giới sát bên nhau. Một bên là thế giới cực kỳ xa hoa
dư thừa, với viên phú hộ "mặc lụa là gấm vóc, ngày ngày yến tiệc linh
đình". Bên kia là thế giới thiếu thốn đến thảm hại của người nghèo khó,
"nằm trước cổng, mụn nhọt đầy mình", "thèm được những thứ trên
bàn ăn của viên phú hộ rơi xuống mà ăn cho no cũng chẳng được"; chỉ có mấy
con chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Giữa hai thế giới đó, chỉ có một
"ngưỡng cửa", một ranh giới, ngày càng được đào sâu một cách vô hình,
được nới rộng cho tới một lúc tấm màn của cảnh một được buông xuống với cái
chết đồng thời của cả hai nhân vật: "Thế rồi người nghèo nàn chết... ông
nhà giàu kia cũng chết"
2. Một vực thẳm
không thể vượt qua
Cảnh hai cho thấy
cả hai nhân vật của chúng ta ở thế giới bên kia. Cái chết thay vì làm cho họ
xích gần lại với nhau, lại làm cho khoảng cách giữa họ trở thành vĩnh viễn. Sự
thật cho thấy từ nay tình thế của họ đã hoàn toàn đảo ngược. Ladarô, kẻ ăn xin
xưa kia trên trần gian, nay đã được thiên thần đem vào lòng ông Abraham, hưởng
vinh phúc vô tận. Còn viên phú hộ thì trái lại, trước đây hưởng thụ giàu sang,
chẳng đoái hoài gì đến người nghèo nằm trước cửa nhà mình nay phải ở "dưới
âm phủ, đang chịu cực hình". Ông năn nỉ tổ phụ Abraham sai Ladarô - ông
nêu rõ tên, cái tên mà ông chẳng thèm biết tới khi còn sống trên đời -
"nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát".
Muộn quá rồi.
Cuộc chơi đã mãn! Cả Abraham lẫn Ladarô chẳng ai làm được gì cho ông nữa. Một
cách vô thức, ông đã từng bước đào sâu thêm, giữa sự giàu có ích kỷ của mình và
cái khốn cùng của người nghèo trước cửa nhà một "vực thẳm" mà rốt
cùng cái chết đã làm cho trở thành vĩnh viễn không thể vượt qua. Thua xa sự
"khôn khéo" của người quản gia bất lương của Chúa nhật vừa qua, ông
đã không biết "làm bạn" với Ladarô, để được anh "đón rước vào
nơi ở vĩnh cửu".
Theo nhận định
của H. Cousin: "Vực thẳm" chia cách giữa những người đang được hưởng
hạnh phúc quanh Abraham và những kẻ phải chịu cực hình dưới âm phủ, thực ra chỉ
là sự nối dài của vực thẳm đã được đào sâu giữa cổng nhà nơi Ladarô đã nằm và
bàn tiệc cao lương mỹ vị, mà suốt đời viên phú hộ kia đã chẳng làm gì để lấp
cho đầy
3. Hãy nghe lời
Chúa đừng chần chừ nữa.
Câu chuyện lại
chợt bừng lên với lời năn nỉ của ông phú hộ xin cho năm người anh em còn sống
trên trần.
Họ có thể cũng
đang rơi vào thói ăn chơi hưởng thụ, không quan tâm gì tới người nghèo đang nằm
trước cửa nhà mình. Cả bọn năm người họ cũng đang lơ lửng trước tai hoạ nếu
không có ai đó cảnh báo cho biết. "Xin tổ phụ sai anh Ladarô, ông nài xin,
đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình này". Bởi nếu có sự
can thiệp của ai đó "từ cõi chết" hiện về với họ, "thì họ sẽ ăn
năn sám hối". Ao tưởng thôi - câu trả lời cho ông - nếu nghĩ rằng chỉ cần
có ngươi từ cõi chết hiện về là họ sẽ chịu nghe, nếu "Môsê và các Ngôn sứ
mà họ còn chẳng chịu nghe": Luật Môsê và các Ngôn sứ đã chẳng từng dạy về
việc sử dụng tiền của vật chất sao cho đúng ư'? Các ngài đã chẳng khuyên phải
bác ái đối với người nghèo, chia cơm, sẻ áo với kẻ đói khát, niềm nở đối với
khách lạ, đón tiếp kẻ bất hạnh sao? Sách Đệ Nhị Luật (15,7-11) truyền dạy:
"Nếu giữa anh em có một người nghèo, thì anh em lòng có lòng chai dạ đá
cũng đừng bo bo giữ không giúp người anh em: Hãy mở rộng tay giúp người anh em
khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong niềm đất của anh em". Và cả các
Thánh vịnh cũng đã chẳng không ngừng lặp đi lặp lại rằng mọi kẻ nghèo khó, thấp
cổ bé miệng, bị áp bức, bị bóc lột, đói khát, đều là những người bạn nghĩa
thiết của Thiên Chúa sao? (xem Tv 112 Chúa nhật trước và Tv 145 hôm nay)
Bài học đã quá rõ.
Nó được gởi đến tất cả những ai đang có nguy cơ bị tiền của làm cho điếc tai,
mù mắt. Mong sao đừng chờ cho đến khi có một biến cố nào đó lay động, buộc họ
phải quyết định. Tốt hơn hãy coi Lời Chúa cảnh báo hôm nay là nghiêm trọng.
Đừng chậm trễ. Chậm trễ biết đâu sẽ muộn màng. H. Cousin kết luận: "Đại
diện cho lối suy nghĩ khá phổ biến trong thế giới hôm nay viên phú hộ tưởng
tượng rằng một phép lạ sẽ làm được cái mà Kinh Thánh làm không được. Lầm to!
Một phép lạ, cho dù là phép lạ người chết sống lại, cũng không thể thay lòng
đổi dạ được những kẻ cứng lòng không đón nhận sứ điệp của Lề Luật và các Ngôn
sứ với lòng tin. Người trong Hội Thánh, từng tuyên xưng Đức Giêsu chết và sống
lại, cũng tồn tại một điều như thế. Biết bao phen chính chúng ta chẳng mơ tưởng
giả như được chứng kiến phép lạ Chúa Phục sinh hiện ra, chắc chắn mình sẽ lo ăn
năn sửa đổi đời sống. Trong lúc Tin Mừng đang có đó, ngày cũng như đêm, trong
tầm tay chúng ta!. Chỉ khi biết lắng nghe Lời Chúa, con người mới có thể hoán
cải. Đó chính là sứ điệp lưu truyền lâu đời có sẵn tại trung tâm Lề Luật là các
Ngôn sứ.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Sức mạnh của
Tin Mừng.
"Không mệt
mỏi, Đức Giêsu nhiều lần dề cập đến sự đảo lộn những giá trị khi Nước Thiên
Chúa đến. Trong thực tế, Người đã lừng vấp phải sự cứng lòng của những người
Pharisêu, thánh Luca nói, họ vốn "ham hố tiền bạc là... cười nhạo Đức
Giêsu". Họ như một bức tường trơ trơ do cái vẻ công chính bề ngoài dưới
mắt thiên hạ. Họ không muốn để mình bị lay động. Đức Giêsu cảnh cáo họ: "Thiên
Chúa biết lòng các ông". Không phải tất cả những gì người đời ái mộ, khâm
phục đều thực sự có giá trị. Chỉ có đôi mắt của Thiên Chúa mới thấu suốt được
giá trị đích thực của mọi vật. Ngay cả Lề Luật, vững bền như "đất
trời" vì là Lề Luật của Thiên Chúa, cũng không thể là cái cớ được đưa ra
để khước từ Tin Mừng của Nước Trời: vượt qua cả Lề Luật là sức mạnh của Nước
Trời, đòi con người phải đấu tranh với bản thân để phá vỡ cái vỏ bên ngoài giam
hãm cái tâm tốt lành trong mỗi người.
Đức Giêsu còn
dùng một dụ ngôn nữa để diễn tả sự đáo ngược tình thế mà tin Mừng nước trời đến
loan báo: số phận của viên phú hộ và anh Ladarô là một minh hoạ. Viên phú hộ,
xưa kia sống xa hoa hưởng thụ, nay bị đày xuống âm phủ. Anh Ladarô, xưa bị quên
lãng, khinh thường, nay được đem vào lòng Abraham. Tình thế đà hoàn toàn lật
ngược, vô phương kêu trách. Và Đức Giêsu nhấn mạnh: phải lo tỉnh ngộ sớm. Sẽ
chẳng có dấu hiệu phi thường nào, chẳng có một ai từ cõi chết hiện về để đánh
thức chúng ta khỏi cơn mê. "Chúng ta có Môsê va các Ngôn sứ, thì chúng cứ
nghe lời các vị đó!". Chúng ta còn có hơn nữa: Tin Mừng của chính Đức
Giêsu. Tuy nhiên, giống như những người Pharisêu xưa, chúng ta khó tránh được
thói nô lệ vẻ bề ngoài, khó lột bỏ được những mặt nạ của mình xuống và biết
nhìn mọi hoàn cảnh bằng cái nhìn của Thiên Chúa chúng ta sợ sức mạnh của Tin
Mừng. Cầu xin Thiên Chúa, với tất cả lòng kiên trì của Người, ra sức mở mắt cho
chúng ta, ban cho chúng ta lòng dũng cảm để dấn thân vào cuộc chiến của Tin
Mừng.
2. Trên những nẻo
đường của tình liên đới
(G. Bouche, trong
"Le ciel sur la terre", trg 61).
Nỗi khổ đau của
thế giới vẫn réo gọi chúng ta qua những hình ảnh trên ti vi, với bao hình hài
con người tàn tạ, những bộ mặt thờ thẫn và ánh mắt tuyệt vọng.
Tiếng than đói
khổ của nhân loại vẫn hằng ngày vọng đến chúng la qua tiếng kêu gọi không lời
đáp ứng của những tổ chức nhân đạo đang xin mọi người rộng tay cứu giúp những
con người đang chết lần chết mòn vì thiếu cả những nhu cầu tối thiểu, hiện đang
sống không xa noi ở quá đầy đủ tiện nghi của chúng ta.
Chúng ta thường
xuyên phải chứng kiến hay nghe nhắc đến cái nghèo ở khắp nơi, xa xôi hay sát
bên cửa nhà chúng ta. Chúng ta cảm thấy đau lòng. Chúng ta muốn làm cái gì đó
để vơi nhẹ nỗi khổ đau và lầm than. Nhưng biết làm gì đây?
Giúp tiền giúp
bạc thì lại ngán nạn thất thoát ăn bớt. Trực tiếp hành động qua trung gian một
ai đó chúng ta quen biết và tín nhiệm, thì lại không thấy được những nhu cầu
cấp bách nhất, cũng như không giải quyết tận gốc rễ những bất hạnh.
Cống hiến một
phần đời mình phục vụ trung các tổ chức liên đới và cứu trợ, mặc dù biết rằng
đó chỉ là muối bỏ biển. Bênh vực những phong trào và báo chí đấu tranh cho một
thế giới tốt đẹp hon, cũng như đấu tranh cho các dân tộc nghèo được làm chủ vận
mạng của mình.
Chúng ta có bổn
phận phải can thiệp để ủng hộ những người có uy tín không chịu khoanh tay đứng
nhìn cảnh anh em mình đói khổ, bệnh tật, lấy cớ phải tôn trọng quyền lợi, luật
pháp, công ước.
Góp tiếng nói với
tất cả những ai đang đấu tranh cho một trật tự mới của thế giới, của nền kinh tế
và của các quốc gia. Thành tâm cầu nguyện xin Thiên Chúa cho chúng ta biết mở
rộng đôi mắt và hướng chúng ta đến một trái đất thực sự là mái ấm cho mỗi người
và là nơi Thiên Chúa có thể hiện diện.
Điều nào cũng
phải làm, mỗi thứ một chút! Tuỳ ơn Chúa và phương tiện của mỗi người.
Sau hết, chúng ta
cần có một quan niệm về hạnh phúc phù hợp với hồng ân mà Thiên Chúa muốn ban
tặng cho muôn loài hơn là việc chiếm hữu cho thật nhiều của cải, chỉ làm cho
chúng ta đầy ứ về vật chất nhưng khô kiệt về tâm hồn...
Phải chăng Thiên
Chúa mới đúng là "người từ cõi chết" đến kêu gọi chúng ta như thế?
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét