KHÁNH THÀNH ĐCV HÀ NỘI CƠ SỞ 2 CỔ NHUẾ: NHÀ ĐỨC MẸ LA VANG |
CHÚA NHẬT 25 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: Am 8, 4-7; 1Tm 2, 1-8; Lc 16,
1-13
MỤC LỤC
1. Tên quản lý khôn khéo
2. Sử dụng tiền bạc
3. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
4. Người quản lý trung tín
5. Trung tín – Lm Giuse Trần Việt Hùng
6. Nhìn rộng thấy xa – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
7. Quản lý trung tín – Lm Giuse Tạ Duy
Tuyền
8. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
9. Giá trị đồng tiền – Lm Antôn Nguyễn
Văn Tiếng
10. Khôn khéo
11. Nhận lãnh để trao ban – Thiên Phúc
12. Không thể làm tôi hai chủ – Veritas
13. Không thể thờ hai chủ – Achille
Degeest
14. Hãy bắt đầu hơn là thế gian
15. Những đồng bạc lẻ
16. Bản năng - McCarthy
17. Tiền bạc - McCarthy
18. Tên quản lý khôn khéo
19. Hai chủ
20. Tiền của
21. Tính cách
22. Khôn ngoan đích thực - Lm. Phạm
Thanh Liêm
23. Suy niệm của JKN
24. Biết khôn ngoan tiên liệu – Lm FX
Vũ Phan Long
25. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
26. Chú giải của R. Gutzwiller
27. Chú giải của Noel Quesson
1. Tên quản lý khôn khéo
Thánh Luca thường hay dùng câu chuyện
để dẫn vào một bài học. Câu chuyện là tuỳ, bài học là chính. Ở đây câu chuyện
là sự khéo léo xoay xở của một tên quản lý bất lương. Vì là điều tuỳ, nên thánh
Luca đã không quan tâm đến những chi tiết, chúng ta chỉ biết anh ta bị mang
tiếng là đã phung phá sản nghiệp của chủ và bị cho nghỉ việc.
Trước cái tin bất ngờ như sét đánh này,
anh đã tính toán, giảm bớt số nợ của những người đã vay mượn ông chủ, biến họ
trở thành người bạn, những kẻ đồng loã, sau này sẽ giúp đỡ anh. Cư xử như vậy
là bát lương đối với chủ, nhưng đó lại là sự khôn ngoan của thế gian. Chúa
Giêsu khen ngợi sự khôn ngoan đó vì Ngài thấy con cái thế gian đã khôn khéo hơn
con cái sự sáng. Ngài không khen ngợi việc làm của hắn, vì hắn là kẻ bất lương,
nhưng Ngài phải nhận rằng hắn là một kẻ khôn khéo và mau lẹ. Ngài đau lòng khi
nghĩ tới bình diện Nước Trời, người ta đã không mau lẹ và khôn khéo như vậy.
Ngài đã đem ơn cứu độ đến trong lời giảng và gương sáng của Ngài, nhưng sao
người ta lại hững hờ và chậm chạp quá vậy. Đó là điều đau lòng và đáng trách.
Nhưng nếu muốn mau lẹ và khôn khéo đối với Nước Trời, thì chúng ta phải làm gì?
Và đây là bài học, là phần chủ yếu Chúa
muốn gởi đến cho chúng ta. Thánh Luca đã không đưa ra một câu trả lời đầy đủ,
vì các công việc phải làm để đón nhận Nước Trời thì nhiều và mỗi lần giảng,
Chúa Giêsu lại nêu lên một góc cạnh nào đó. Điều Chúa muốn giáo huấn chúng ta
hôm nay đó là vấn đề tiền bạc.
Trước hết Ngài muốn khuyên chúng ta hãy
bắt chước óc sáng tạo và sự tích cực của tên quản lý mà lo lắng đến việc Nước
Trời. Đồng thời cũng hãy bắt chước hắn trong việc tìm cách bảo đảm cho tương
lai của mình. Hắn đã tìm cách bảo đảm tương lai đời này thì chúng ta là con cái
sự sáng, cũng phải tìm cách bảo đảm tương lai ở đời sau. Vậy phải làm gì và
tiền của đời này có giúp ích được gì chăng?
Dĩ nhiên là có. Hãy dùng nó mà tậu của
cho mình một kho tàng ở trên trời, nơi đó không có mối mọt và trộm cướp. Ngược
lại nếu chỉ dùng tiền bạc mà làm ăn ở đời này thì khốn cho kẻ ngu ngốc vì khi
chết liệu có mang theo được hay không? Nhưng thế nào là dùng tiền bạc để tậu
cho mình một kho tàng ở trên trời?
Của cải vật chất được ký thác cho chúng
ta không phải để chúng ta giữ làm của riêng và coi đó như thần thượng để tôn
thờ, nhưng để chúng ta chia sẻ với anh em, làm cho không ai còn thiếu thốn. Vậy
chúng ta phải chọn lựa: Hoặc coi tiền bạc là đối tượng mình phải tìm kiếm chất
chứa cho thật nhiều, hoặc coi nó như của ký thác để giúp đỡ lẫn nhau. Quan điểm
trên xem tiền bạc thành thần tượng. Còn quan điểm dưới, coi nó chỉ là phương
tiện xây dựng hạnh phúc chung cho mọi người.
Như thế qua dụ ngôn, Chúa Giêsu đã đi
từ bình diện trần gian sang bình diện Nước Trời. Ngài nói đến sự khôn khéo của
con cái thế gian mà thúc giục con cái sự sáng hãy lanh lẹ hơn đối với công việc
thiêng liêng. Chúa không chấp nhận thái độ tham lam tiền bạc, biến tiền bạc nên
thần tượng, ngược lại Ngài muốn chúng ta dùng tiền bạc để chia sẻ và giúp đỡ kẻ
khác. Thái độ trước coi tiền bạc là một thứ tôn giáo, quan điểm sau nhờ tôn
giáo mà chúng ta thấy cần phải chia sẻ mọi sự với mọi người.
2. Sử dụng tiền bạc
Đoạn Tin Mừng sáng này có vẻ khó hiểu,
vì thế tôi xin bắt đầu bằng một câu chuyện:
Có một anh lính ba gai, không bao giờ
làm hài lòng về cấp chỉ huy của mình là một ông đại tá. Mỗi lần trình diện thì
hoặc là giày còn bẩn, súng chưa lau, hay tới chậm mất mấy phút. Hôm đó anh được
xả trại và được tự do đi chơi cho tới 8 giờ tối. Vào lúc 7g45 anh vẫn còn lang
thang ngoài phố. Bất ngờ anh trông thấy chiếc xe của ông đại tá. Định rẽ vào
một con hẻm nhưng không kịp. Ông đại tá dừng xe trước mặt anh và nói:
- Đúng 8g anh phải trình diện tôi tại
bộ chỉ huy, bằng không sẽ bị 3 ngày cấm cố.
Anh lính suy nghĩ thật mau. Chỉ còn 15
phút nữa. Đi bộ thì không kịp, đón xe thì không có. Lập tức anh chạy theo chiếc
xe của ông đại tá. May thay chiếc cốp phía sau vẫn còn mở. Thế là anh vội nhảy
lên và chui tọt vào trong. Ông đại tá cho xe chạy vòng vòng qua mấy ngã đường
rồi trở về doanh trại. Nhưng khi xe vừa dừng lại thì anh lính cũng nhảy xuống
và trình diện ông đại tá. Ông đại tá bèn khen:
- Anh đã hành động khôn ngoan, tôi tha
phạt cho anh, từ nay trong mọi hoàn cảnh, anh cũng hãy hành động khôn ngoan như
thế.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu
cũng đã kể lại một câu chuyện tương tự như thế. Tên quản lý thực là là một kẻ
trộm cắp. Chúa Giêsu không ca tụng sự gian tham của hắn, nhưng khen ngợi hắn đã
hành động một cách khôn ngoan, và rồi Chúa đi đến kết luận: Không phải chỉ con
cái thế gian, mà cả con cái sự sáng cũng phải tỏ ra thận trọng và khôn ngoan
như vậy. Rồi Chúa cũng chỉ cho chúng ta cách thức để hành động khôn ngoan, đó
là hãy dùng tiền bạc vật chất, hãy dùng tất cả những gì chúng ta có để tạo lấy
những bạn hữu sẽ giúp chúng ta vào Nước Trời.
Để hiểu được điều đó, tôi xin kể tiếp
một mẩu chuyện nữa: Ông chủ vườn chôm chôm giàu có, sáng nọ thấy hai em nhỏ
đứng ngoài cổng nhìn vào một cách thèm thuồng. Ông là người yêu trẻ nên cho gọi
hai em đến và bảo:
- Hai em cứ việc vô vườn ăn, nhưng
không được đem trái nào ra.
Trước khi các em đi về, ông đã khám túi
và hài lòng vì không thấy một trái chôm chôm nào cả. Nhưng ông lấy làm lạ vì
thấy hai em đi theo bờ dậu, cúi xuống như lượm một cái gì đó. Đoán được mưu của
hai em, ông cho gọi lại và hỏi. Hai em bèn phải thú thực rằng mình có ném mấy
quả ra ngoài hàng rào, để rồi sẽ lượm về cho em. Ông khen hai em đã hành động
khôn ngoan và cho phép hai em đem những quả chôm chôm ấy về. Hai em nhỏ là
chúng ta. Ông chủ vườn là Thiên Chúa. Thửa vườn là thế gian. Những trái chôm
chôm là những sự tốt lành chúng ta có được như tiền bạc, cơm gạo, áo quần...
Những sự ấy chúng ta không thể đem theo khi từ giã cuộc sống. Tuy nhiên chúng
ta có một cách để hành động, chúng ta có thể ném ra ngoài hàng rào những cái
chúng ta đang có, nghĩa là chúng ta chia sẻ phần tiền bạc vật chất cho những kẻ
nghèo khó. Điều đó Chúa không cấm mà còn khuyến khích chúng ta nữa. Nếu chúng
ta hành động khôn ngoan, chúng ta sẽ trở thành bạn hữu của Chúa và chúng ta sẽ
tìm thấy ở trên trời tất cả những gì mà trong cuộc sống trần gian chúng ta đã
ném qua hàng rào, bằng cách cho đi để phục vụ và giúp đỡ những người chung
quanh.
Để kết luận, chúng ta có thể nhớ lại
lời Kinh Hoà bình của thánh Phanxico Assie: Vì chính khi hiến thân là khi được
nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, vì chính khi thứ tha là
khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
3. Suy niệm của ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN NGOAN VÀ TRUNG THÀNH
Mạnh Thường Quân nhà giàu, cho vay mượn
nhiều. Một hôm sai Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi đi, Phùng
Nguyên hỏi: "Ngài có muốn mua gì không?". Mạnh Thường Quân trả lời:
"Ngươi xem thứ gì nhà chưa có thì mua". Khi đến đất Tiết, Phùng
Nguyên cho gọi dân tới bảo rằng: "Các ngươi nợ bao nhiêu, Mạnh Thường Quân
đều cho cả". Rồi chẳng tính vốn lời, đem văn tự ra đốt sạch. Khi trở về,
Phùng Nguyên nói với Mạnh Thường Quân: "Nhà ngài không thiếu gì, có lẽ chỉ
thiếu ơn nghĩa. Tôi đã trộm mua ở đất Tiết cho ngài rồi. Tôi chắc là đẹp ý
ngài". Về sau Mạnh Thường Quân bị bãi quan, về ở đất Tiết. Dân ở đấy nhớ
ơn xưa ra đón rước đầy đường. Mạnh Thường Quân ngoảnh lại bảo Phùng Nguyên:
"Đó hẳn là cái ơn nghĩa mà ông đã mua cho tôi ngày trước".
Nghe chuyện này, có lẽ mọi người đều
đồng ý với Mạnh Thường Quân rằng Phùng Nguyên thực là người quản lý trung thành
và khôn ngoan. Trung thành vì ông đã biết cách làm lợi cho chủ. Khôn ngoan vì
ông biết nhìn xa trông rộng, đầu tư vào những chương trình có ích lợi lâu dài.
Nhờ sự khôn ngoan của Phùng Nguyên, Mạnh Thường Quân đã vượt qua được những khó
khăn gian khổ.
Người quản lý trong bài Phúc Âm hôm nay
khôn ngoan nhưng không trung thành. Khôn ngoan nhanh nhẹn, trong một thời gian
ngắn đã tìm ra phương thế chuẩn bị cho tương lai. Nhưng ông ta đã không trung
thành vì ông đã phung phí, làm hại tài sản của chủ.
Khi khen người quản lý này khôn khéo,
Chúa Giêsu không khen ngợi tính gian giảo, thiếu trung thực của ông. Người chỉ
khen ngợi sự thông minh nhạy bén của ông. Người ước mong con cái sự sáng cũng
biết thông minh nhạy bén trong việc tìm kiếm Nước Trời.
Quả thực chúng ta là những người quản
lý của Chúa. Tất cả những gì ta có đều là của Chúa. Sự sống, sức khỏe, tài
năng, tiền bạc... đều không phải của ta. Ta chỉ quản lý chúng.
Hai đức tính quý ở người quản lý là
trung thành và khôn ngoan.
Người quản lý trung thành gìn giữ
nguyên vẹn tài sản của chủ. Không phung phí, không làm mất mát hao hụt. Người
quản lý khôn ngoan sẽ tìm cách sinh lợi cho chủ, làm cho tài sản ngày càng gia
tăng. Tiền bạc có thể sinh lợi ở ba góc độ khác nhau.
Mức độ bình thường nhất là: tiền đẻ ra
tiền. Dùng tiền gởi ngân hàng để lấy tiền lời. Dùng tiền đầu tư vào công việc
thương mại, kinh doanh để kiếm được nhiều tiền hơn nữa.
Mức độ thứ hai cao hơn là: dùng tiền
đầu tư vào chất xám, vào giáo dục, vào nghiên cứu khoa học kỹ thuật. Nhật Bản
và Hàn Quốc là hai nước đầu tư rất nhiều vào giáo dục. Vì thế họ đã đào tạo
được một đội ngũ trí thức đông đảo có kiến thức, có khoa học kỹ thuật. Nhờ thế,
không những họ làm cho đất nước giàu mạnh mau chóng, mà còn nâng cuộc sống nhân
dân lên cao hơn, giàu có sung túc về của cải vật chất và nhất là cao đẹp vì có
văn hóa, đạo đức.
Mức độ thứ ba, cũng là mức độ cao nhất
là: dùng tiền mua hạnh phúc vĩnh cửu. Biến tiền của hay hư nát ở đời này thành
gia sản vĩnh viễn ở trên trời. Để làm được việc này, ta phải vượt qua sự khôn
ngoan, nhạy bén đầy tính toán của người đời để đạt tới sự khôn ngoan nhạy bén
đầy quảng đại theo tinh thần Phúc Âm.
Tạo lập gia sản trên trời khác với tạo
lập gia sản nơi trần gian.
Gia sản nơi trần gian được tạo lập bằng
tích lũy. Gia sản trên trời được tạo lập bằng cho đi. Để tích lũy tài sản nơi
trần gian, ta phải tiện tặt, chắt bóp, nghĩ đến lợi nhuận của bản thân hơn đến
người khác. Để tích lũy gia sản trên trời, ta phải rộng rãi, hào phóng nghĩ đến
người khác hơn bản thân mình. Càng cho đi ở đời này, ta càng giàu có ở trên
trời. Người nghèo là Chúa Giêsu hóa trang. Khi ta giúp đỡ người nghèo là ta
chuyển tiền về thiên quốc. Qua trung gian người nghèo, đồng tiền trần gian hay
hư nát sẽ biến thành tài sản vĩnh cửu trên trời.
Chúng ta là con cái sự sáng. Hãy biết
sống theo con đường sự sáng của Phúc Âm. Hãy xin Chúa ban cho ta sự khôn ngoan
của Phúc Âm. Hãy rèn luyện cho ta có sự nhạy bén đối với những thực tại vĩnh
cửu trên trời. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Con cái đời này khôn khéo hơn con
cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. Bạn nghĩ gì về câu này?
2) Anh em không thể vừa làm tôi Thiên
Chúa, vừa làm tôi tiền của được. Bạn đã coi thường chủ nào và đã yêu mến chủ
nào hơn?
3) Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo
lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh
cửu. Bạn hiểu câu này thế nào? Bạn đã thực hành chưa?
4) Làm sao để trở thành người quản lý
trung thành và khôn ngoan của Chúa?
4. Người quản lý trung tín
(Trích dẫn từ Logos)
Tại Trung Hoa vào thời chiến quốc có
ông Phùng Huyên giúp việc cho ông Mạnh Thường Quân là tướng của nước Tề.
Một hôm, Mạnh Thường Quân nhờ Phùng
Huyên qua đất Tiết để thu các món nợ. Trước khi Phùng Huyên ra đi, Mạnh Thường
Quân dặn: "Xem trong nhà còn thiếu gì thì cứ mua về".
Phùng Huyên đến đất Tiết, cho mời tất
cả những con nợ của chủ đến và tuyên bố: "Mạnh Thường Quân ra lệnh xoá bỏ
tất cả sổ nợ!". Sau đó, ông ta đốt hết giấy nợ. Những người thiếu nợ và
toàn dân đất Tiết vui mừng tung hô vạn tuế Mạnh Thường Quân.
Khi về nhà, Phùng Huyên tường trình
công việc với Mạnh Thường Quân: "Khi đi, tướng quân bảo tôi mua những gì
trong nhà còn thiếu. Tôi nghĩ trong nhà tướng quân dư thừa của cải, không thiếu
vật gì cả, chỉ thiếu "điều nghĩa", nên tôi trộm lệnh mua điều nghĩa
đem về. Mạnh Thường Quân ngạc nhiên hỏi: "Mua điều nghĩa là thế
nào?". Họ Phùng đáp: "Tôi tha cho tất cả các con nợ, đốt các văn khế,
dân chúng vui mừng tung hô tướng quân, đó là tôi mua điều nghĩa cho tướng quân
vậy".
Năm sau, vua Tề không dùng Mạnh Thường
Quân nữa, ông lui về đất Tiết ở. Toàn dân nghe tin, liền ra đón rước và hoan hô
ông nhiệt liệt. Khi ấy, Mạnh Thường Quân quay sang Phùng Huyên nói: "Tiên
sinh vì tôi mà mua điều nghĩa, ngày nay tôi mới trông thấy".
Câu chuyện ông Mạnh Thường Quân mua
"điều nghĩa" làm nổi bật lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng theo thánh
Luca hôm nay: "Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất
hết tiền bạc thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời".
Chúa kể dụ ngôn "Người Quản Lý Bất
Trung" để giải thích lời dạy đó của Ngài.
Vì thâm lạm tài sản của chủ nên người
quản lý đã bị ông chủ cho nghỉ việc. Anh ta đã nghĩ ra cách để có một cuộc sống
an nhàn sung sướng sau khi mất việc: anh ta đã lén chủ giảm số nợ của những
người mắc nợ để dùng tiền bạc của chủ mà mua lấy ân nghĩa và bạn bè.
Chúa Giêsu khen ngợi người quản lý bất
lương đó đã hành động cách khôn khéo. Thật ra, qua dụ ngôn "Người Quản Lý
Bất Trung" Chúa Giêsu có ý dạy hai điều:
a) Hãy dùng tiền bạc trần thế để đầu tư
vào hạnh phúc vĩnh cửu.
Trong thời buổi "kinh tế thị
trường" hôm nay, người ta rất chú trọng đến việc "đầu tư" nghĩa
là bỏ vốn để sinh lời. Đồng tiền được "xoay vòng" là đồng tiền sinh
lợi nhuận. Đó là định luật của kinh tế. Vì thế, nếu biết tính toán khôn ngoan
thì nhờ vốn liếng bỏ ra, người ta có thể trở nên giàu có. Cũng vậy, với
"định luật Nước Trời", người ta có thể dùng của cải trần thế để đầu
tư vào hạnh phúc vĩnh cửu mai sau. Nghĩa là, người ta có thể dùng tiền bạc phi
nghĩa ở đời này để mua lấy kho tàng hạnh phúc Nước Trời. Tuy nhiên, người ta
chỉ có thể mua được hạnh phúc Nước Trời bằng những "đồng bạc biết cho
đi". Chúa ban cho chúng ta của cải đời này dùng làm phương tiện giúp ta
nên thánh và chia sẻ cho tha nhân. Hơn nữa, tiền bạc của cải không phải là cứu
cách cuộc đời chúng ta. Chính Thiên Chúa mới là gia nghiệp mà chúng ta hướng
tới như cùng đích cuộc đời mình, như lời Chúa dạy: "Các con không thể làm
tôi Thiên Chúa mà lại làm tôi tiền của được".
b) Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng
trung tín trong việc lớn.
Người quản lý trong dụ ngôn hôm nay tỏ
ra là người khôn ngoan. Anh ta đã ranh mãnh trong việc dùng tiền bạc của chủ để
mua lấy một tương lai an nhàn sung sướng. Thật ra, anh ta "khôn"
nhưng không "ngoan", vì anh ta đã làm một việc gian dối để thu lợi
một cách bất chính cho mình. Có lẽ vì anh ta đã "không trung tín trong
việc nhỏ nên cũng không trung tín trong việc lớn", vì vậy anh ta đã bị chủ
đuổi việc. Sau này, nếu anh ta cứ sống trong sự gian dối và bất trung, anh ta
cũng không thể tìm được hạnh phúc chân thật.
Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi để
trở thành người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Chúa đã trao cho chúng ta
biết bao ân huệ để chúng ta biết sinh lợi cho phần rỗi đời mình, cũng như làm
lợi cho anh em. Nếu chúng ta biết quản lý cuộc đời mình một cách trung thành và
xứng đáng, chúng ta sẽ được Thiên Chúa trao cho kho tàng hạnh phúc vĩnh cửu.
Nếu chúng ta trở thành một người quản lý bất trung, chúng ta sẽ đánh mất chính
mình và anh em. Nhưng "cái mất" lớn nhất là "đánh mất Thiên
Chúa" là cội nguồn của niềm hạnh phúc mà ta hằng khát khao.
Trong bài đọc I, tiên tri Amos đã mạnh
mẽ lên án tội lỗi của những người giàu: vì mải mê kiếm tiền nên họ bỏ bê những
bổn phận đạo đức, gian lận "giảm đấu đong, tăng giá và làm cân giả",
thậm chí bóc lột cả người nghèo.
Đó chính là lời nhắc nhở để hôm nay
chúng ta biết đồng cảm với những người nghèo khó, chia sẻ tình thương với họ và
tránh xa lòng ganh tỵ, oán hờn và tranh chấp, nhưng biết xây dựng hòa bình (bài
đọc II, trích thư gửi Timôthêô).
Vào một đêm giông bão, có hai vợ chồng
đã lớn tuổi đến một khách sạn ở vùng Philadelphia, nước Mỹ để thuê phòng trọ
qua đêm. Nhưng đáng tiếc, khách sạn hết phòng. Cảm thương hai vợ chồng không có
chỗ nghỉ đêm trong một đêm mưa gió như thế, người quản lý khách sạn nói:
- Tôi sẽ nhường phòng của tôi cho ông
bà.
- Nhưng anh sẽ ngủ ở đâu?
- Đừng lo cho tôi, tôi có thể kiếm được
chỗ.
Sáng hôm sau lúc trả tiền phòng, người
chồng nói với viên quản lý:
- Quả thật, anh xứng đáng làm chủ một
khách sạn lớn nhất nước Mỹ!
Hai năm sau, người quản lý nhận được
một bức thư kèm theo một vé máy bay đi New York và một tấm danh thiếp của ông
khách trọ hai năm trước.
Đến New York, người quản lý được ông
khách trọ dẫn đến đại lộ số 5, đường 34, chỉ một tòa nhà cao tầng nguy nga đồ
sộ mới xây và nói:
- Đây là khách sạn tôi tặng cho anh.
Ông khách trọ đó chính là tỷ phú
William Wadorf Astoria. Ông đã thực hiện lời đã hứa trước đó 2 năm.
Mỗi người chúng ta được Thiên Chúa đặt
làm quản lý trong cuộc sống. Nếu chúng ta trung tín gìn giữ cuộc đời mình trong
ơn thánh Chúa và biết chia sẻ những ân huệ Chúa ban cho tha nhân, chúng ta sẽ
làm giàu cho chính mình trong cuộc sống mai sau.
5. Trung tín – Lm Giuse Trần Việt Hùng
Truyện kể: Ngày xưa có tên lái buôn
gian xảo dùng mạt cưa pha vào cám đem bán. Nhưng có tên bán mướp, còn gian hơn.
Hắn lấy mướp đắng, giả làm dưa leo bán giá đắt hơn. Ngày kia, hai gã gặp nhau.
Cả hai người tưởng hàng của nhau là thật, liền thỏa thuận đổi cám lấy dưa về
dùng. Cả hai người đều hí hửng. Nhưng tới lúc xài mới hay là của giả, rõ ràng
gian lại gặp tham
Sự gian manh đã len lỏi đi vào lòng
người từ rất xa xưa. Với lòng gian xảo, nhiều người tham lam đã dùng đủ mọi
cách để làm lợi cho mình, bất chấp sự thiệt hại của tha nhân. Tiên tri Amos đã
nêu ra những thói đời xấu xa: Các ngươi bảo: "Bao giờ qua tuần trăng mới
để chúng tôi bán hàng? Khi nào hết ngày Sabbat để chúng tôi bán lúa mạch. Chúng
tôi sẽ giảm lường đong, tăng giá và làm cân giả (Am 8, 5). Xưa cũng như nay, xã
hội nào cũng có những người xấu chuyên môn lường gạt, gian dối, lừa lọc, xảo
trá và dùng nhiều thủ đoạn để vun đắp phần lợi về mình. Họ dùng những đồ giả,
đồ nhái hay đồ giả mạo che mắt người khác để bán kiếm lợi lộc cách bất công.
Làm ít mà muốn hưởng nhiều, của giả mà đòi bán giá thiệt.
Mỗi thời đại đều có những tệ nạn xã hội
khác nhau. Nơi đâu cũng có kẻ tốt và người xấu xuất hiện. Người tiểu tâm lại
khéo nói và dễ gây cảm tình. Họ dùng rất nhiều mánh khóe để tìm lợi ích cho
cuộc sống riêng tư. Họ khéo xử dụng miệng lưỡi để mua chuộc nhân tâm. Amos tố
cáo âm mưu của họ. Họ nói: Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép
đổi lấy người túng thiếu. Chúng tôi sẽ bán lúa mục nát" (Am 8, 6). Đối với
họ, đồng tiền là trên hết. Họ có thể dùng tiền bạc đổi chác những gì mà họ ưa
thích. Của cải không còn là phương tiện, mà trở thành chủ nhân và cùng đích
cuộc đời. Cũng thế, khi say mê của cải phù vân ở đời, chúng ta dễ bị lệ thuộc
và làm nô lệ cho của cải. Vì sự tham lam như chiếc túi không đáy. Đã có, lại
muốn có thêm. Chúng ta chẳng khi nào cảm thấy đầy đủ.
Qua bài dụ ngôn Người Quản Lý, Chúa
Giêsu vạch rõ cách cư xử khôn khéo của người đời. Tin rằng đời sống sẽ không
bao giờ bị bế tắc, vì không ra được cửa này và sẽ luồn qua cửa kia. Người quản
lý gian tham và bất tín đã tìm ra cách gian dối để cứu vãn đời mình. Đặt lợi
ích đời sống của mình trước và bất chấp sự thiệt hại cho người chủ. Anh quản lý
đã sửa đổi văn tự, giảm bớt giấy nợ và lấy của chủ cho đi để gây phúc cho mình.
Phải nói rằng anh quản lý đã tính toán rất khôn ranh. Lương tâm của anh trở nên
chai lì không còn nhậy bén về sự công bằng và ngay thật. Khi học biết sự việc
đã xảy ra, ông chủ cũng thầm cảm phục sự khéo tính toán của anh ta: Và chủ khen
người quản lý bất lương đó đã hành động cách khôn khéo: vì con cái đời này khi
đối xử với đồng loại thì khôn khéo hơn con cái sự sáng (Lc 16, 8).
Chúa Giêsu dùng dụ ngôn để dạy chúng ta
bài học về sự trung tín và ngay thẳng. Dù việc tư hay công, một hành động gian
dối nhỏ, cũng sẽ làm thiệt hại lòng tin tưởng. Chúa nói: Ai trung tín trong
việc nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai gian dối trong việc nhỏ, thì
cũng gian dối trong việc lớn (Lc 16, 10). Đúng là một sự bất tín, vạn sự chẳng
tin. Hình như sự gian dối cứ luẩn quẩn quanh cuộc sống của mỗi người chúng ta.
Ở đời có mấy ai thoát khỏi sự dối trá, gian lận to hoặc nhỏ. Nói dối hoặc nói
lối cách này hay cách khác để tránh nói sự thật. Có khi nói dối để tránh sự tò
mò, vô thưởng vô phạt, không hại mình hay hại người. Người ta thường nói: Ra
đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ. Trẻ em thành thật hơn. Chúng ta ghi nhớ Giới răn
Chúa dạy: Thứ Tám là chớ làm chứng dối.
Qua câu truyện trong dụ ngôn, Chúa
Giêsu khuyên dạy chúng ta dùng tiền bạc cách khôn ngoan: Phần Thầy, Thầy bảo
các con: Hãy dùng tiền của gian dối mà mua lấy bạn hữu, để khi mất hết tiền
bạc, thì họ sẽ đón tiếp các con vào chốn an nghỉ đời đời (Lc 16, 9). Tiền bạc
gian dối là của cải trần đời. Tiền được lưu truyền qua tay người này tới người
khác. Đồng tiền lang thang khắp chốn. Chúng ta chẳng biết tiền sạch hay dơ. Nhờ
tín dụng, của cải tiền bạc có giá trị trao đổi. Tờ giấy đồng tiền có giá trị
khi chúng ta biết sử dụng đúng nơi đúng chỗ. Chúng ta có thể dùng tiền bạc đời
này để sắm sửa gia tài đời sau. Với ý thức, tình yêu và lòng muốn, con người
giúp hoán chuyển những giá trị của cải tạm thời hư không trở thành những món
qùa vô giá. Những của cải mà chúng ta dâng cúng làm phúc, làm việc bác ái và
giúp đỡ kẻ khó nghèo đã trở thành gia sản quí báu ở Nước Trời.
Truyện kể: Ngày kia, một cô hội viên từ
thiện chuẩn bị gõ cửa để vào quyền tiền, thì nghe bà chủ nhà cằn nhằn cô tớ
gái: Chị lại đốt phí một que diêm rồi đấy. Cô hội viên thầm nghĩ có lẽ mình sẽ
quyên được rất ít. Tuy vậy, cô gõ cửa và cánh cửa mở ra. Bà chủ nhà tươi cười
nói: Thưa cô, chắc cô vừa nghe tôi cằn nhằn, nhưng nếu tôi không tiết kiệm từng
que diêm, thì ngày nay đâu có 500 quan tiền để giúp Hội Từ Thiện.
Tiền bạc của cải gắn liền với chúng ta
suốt quãng đời trần thế. Của cải chỉ buông tha khi chúng ta nhắm mắt lìa đời.
Biết rằng, cho dù chúng ta có gắng công làm giầu, gom góp và tích trữ của cải
thật nhiều nhưng khi ra đi, chỉ có hai bàn tay trắng chẳng mang theo được gì. Khi
đó của cải của chúng ta sẽ để lại cho người khác hưởng dùng. Nên biết cuộc đời
của con người là một hành trình đi về cùng đích. Khởi đi từ trần thế và lữ hành
về cõi sau. Cuộc sống trần gian chỉ là tạm thời đang hướng về cuộc sống vĩnh
cửu. Chúng ta không thể dừng lại bám víu vào của cải phù hoa thế trần. Chúng ta
cần dứt khoát chọn lựa thái độ sống để hưởng hạnh phúc. Chúa Giêsu nhắc nhở:
"Không đầy tớ nào có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó ghét chủ này và mến
chủ kia; hoặc phục chủ này và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên
Chúa mà lại làm tôi tiền của được" (Lc 16, 13). Dĩ nhiên, chúng ta chọn
làm tôi Thiên Chúa. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, rồi mọi sự Ngài sẽ
ban cho. Có Chúa, chúng ta sẽ có tất cả.
Thiên Chúa quan phòng yêu thương mọi
loài thụ tạo. Kìa xem hoa qủa đồng nội, Thiên Chúa luôn chăm sóc thiên nhiên
cho mưa thuận gió hòa tưới gội. Muông thú nơi rừng xanh và chim trời cá biển
chẳng cần phải gieo vãi thu hoặch, Thiên Chúa vẫn nuôi chúng hằng ngày. Sự sống
của con người đáng giá hơn chim sẻ bội phần. Chúng ta cần nhận biết sứ mệnh làm
người rất là cao cả. Thiên Chúa an bài cho con người cuộc sống an vui đời này
và hạnh phúc đời sau. Thánh Phaolô trong thơ gởi cho Timôthêo viết: Đó là điều
tốt lành và đẹp lòng Đấng Cứu Độ chúng ta là Thiên Chúa. Người muốn cho mọi
người được cứu rỗi và đến nhận biết chân lý (1Tm 2, 3-4). Cùng đích của cuộc
đời là lãnh nhân ơn cứu rỗi và chung hưởng hạnh phúc quê trời. Chính Chúa Giêsu
đã mở lối dẫn đường. Chúng ta không thể chọn lựa con đường nào khác. Một con
đường duy nhất là chọn Thiên Chúa làm chủ và làm gia nghiệp đời chúng ta. Vì
chỉ có một Thiên Chúa và một Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và loài người, là
Đức Giêsu Kitô, cũng là con người (1Tm 2, 5).
Lạy Chúa, rất nhiều khi chúng con đã xả
thân tìm kiếm những của cải phù vân. Chúng con bán lương tâm để gom góp những
của nợ hay hư nát của trần đời. Xin cho chúng con biết tỉnh ngộ, biết buông bỏ
và nhận biết chân lý. Xin Chúa dủ thương dẫn dắt chúng con đến cùng Chúa và
chọn Chúa làm gia nghiệp.
6. Nhìn rộng thấy xa – Lm. Ignatiô Trần
Ngà
Người quản lý trong Tin Mừng hôm nay,
khi biết chủ sắp sa thải mình và biết rằng lúc đó thì anh không còn nơi nương
tựa, không còn cơm ăn áo mặc như xưa nay, nên anh nghĩ ra một diệu kế: Anh khôn
khéo gọi các con nợ của chủ đến, dùng quyền hạn chủ trao cho mình, tha bớt phần
nợ cho họ. Khi làm như thế, anh hy vọng mai đây, khi anh bị đuổi việc, những
con nợ nầy sẽ đền ơn anh và sẽ đón rước anh vào nhà họ.
Hành động khôn khéo nầy cũng đã được
một người khác thực hiện và đã được ghi lại trong sách xưa như sau:
Thời Chiến Quốc, tại Nước Tề có một vị
tướng quốc tài hoa lỗi lạc là Mạnh Thường Quân. Ông là người giàu có, lại có
lòng nghĩa hiệp, hào phóng với hết mọi người. Trong nhà lúc nào cũng tấp nập
khách thập phương thăm viếng, chuyện trò, ăn uống. Danh tiếng Mạnh Thường Quân
vang khắp các lân bang thời ấy.
Một hôm, Mạnh Thường Quân sai một người
bạn tên là Phùng Nguyên sang đất Tiết đòi nợ. Trước khi lên đường, Phùng Nguyên
hỏi Mạnh Thường Quân rằng : "Ngài có muốn tôi mua thứ gì bên đó về cho
ngài không?" Mạnh Thường Quân trả lời : "Ngươi xem thứ gì nhà ta chưa
có thì mua." Khi đến đất Tiết, Phùng Nguyên triệu tập các con nợ của Mạnh
Thường Quân lại và yêu cầu họ xuất trình giấy nợ. Sau khi nắm được số liệu giấy
tờ, thay vì đòi họ thanh toán hết tiền gốc tiền lãi, Phùng Nguyên nhân danh
Mạnh Thường Quân tuyên bố tha hết nợ cho dân và truyền cho các đầy tớ đem tất
cả giấy nợ ra đốt sạch.
Thế là trong phút chốc, bao nhiêu nợ
nần xưa nay biến tan theo làn khói; tất cả các con nợ thở phào nhẹ nhõm và ghi
tâm khắc cốt ân đức của Mạnh Thường Quân.
Mấy hôm sau, thấy Phùng Nguyên trở về
tay không, Mạnh Thường Quân hỏi: "Nhà ngươi đã thu được bao nhiêu tiền nợ?
Đã mua được thứ gì?" Phùng Nguyên trả lời : "Theo thiển ý của tôi thì
trong nhà của ngài chẳng thiếu gì cả, có chăng là thiếu ơn nghĩa dành cho người
túng cực mà thôi. Chính vì thế, tôi đã trộm phép ngài để mua ơn nghĩa cho ngài.
Tôi hy vọng là ngài sẽ rất hài lòng".
Về sau, Mạnh Thường Quân bị hàm oan và
bị bãi quan, phải về nương náu tại đất Tiết. Dân chúng nơi đây nhớ ơn vị đại ân
nhân đã tha nợ cho họ năm xưa, rủ nhau ra đón rước thật tưng bừng và thân mật.
Mạnh Thường Quân vui sướng quay lại nói với Phùng Nguyên: "Nhà ngươi xem,
chắc hẳn đây là cái ơn nghĩa mà trước đây nhà ngươi đã mua giùm cho ta!"
Dù hôm nay tôi cố hết sức bám trụ vào
mặt đất nầy bằng cách củng cố thật vững địa vị của tôi, nắm ghì thật chặt chiếc
ghế của tôi, ra sức thu gom thật nhiều tiền bạc, tài sản, ruộng vườn... thì mai
đây, tôi cũng sẽ bị bứt ra khỏi cuộc đời nầy như chiếc lá lìa cành trong cơn
lốc dữ...
Tất cả những gì tôi mua sắm được hôm
nay, người khác sẽ sử dụng. Những gì tôi đang sở hữu sẽ thuộc về người khác...
Còn lại gì cho tôi?
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy
phải lấy của cải phù du để đổi lấy tài sản muôn đời và biết tận dụng những gì
hiện có để mua sắm cho mình một nơi cư ngụ vĩnh cửu trên thiên quốc. Cụ thể là
hãy dùng những ân huệ Chúa ban như sức khoẻ, thời giờ, tài năng, trí tuệ, tiền
bạc... để mua nghĩa, mua bè bạn, mua lấy một chỗ ở trong Nước Trời.
Người tôi tớ bất lương trong Tin Mừng
hôm nay quả là rất khôn ngoan khi biết lợi dụng tài sản mà anh được người chủ
trao cho quản lý tạm thời để mua lấy bạn hữu và mua lấy nơi ăn chốn ở cho mình
trong những ngày khốn đốn.
Phùng Nguyên cũng đã rất khôn khéo khi
dùng tiền bạc của Mạnh Thường Quân để mua ơn, mua nghĩa cho bạn của mình, nhờ
đó mà sau nầy ông cùng Mạnh Thường Quân được hưởng phúc trong lúc sa cơ.
Phúc thay cho những người có tầm nhìn
xa. Họ như thuyền trưởng phát hiện được tảng băng từ xa, nên có đủ thời giờ
quay mũi tàu thoát hiểm. Họ như người săn tìm ngọc quý, bán đi những gì tầm
thường mình có để mua cho bằng được một viên ngọc tuyệt vời.
Lạy Chúa, xin cho Lời khôn ngoan của
Chúa đánh thức chúng con khỏi mê đắm những thứ phù phiếm đời nầy và biết khôn
ngoan đánh đổi những thứ phù du để thu về những điều vĩnh cửu.
7. Quản lý trung tín – Lm Giuse Tạ Duy
Tuyền
(Trích dẫn từ 'Cùng Nhau Suy Niệm')
Không biết đã từ thuở nào người ta đã
coi "đồng tiền là Tiên là Phật". Đồng tiền có thể thay đổi vận mạng
của một đời người. Từ hèn ra sang. Từ lính quèn lên quan lớn. Đồng tiền còn có
sức mạnh cải tử hoàn sinh. Từ bản án tử hình có thể trắng án vô tội. Đồng tiền
còn làm biến chất một con người. Từ hiền ra dữ. Từ ngay thẳng ra lừa dối gian
tham. Từ con người nết na thuỳ mỵ, trở thành kẻ sa đoạ, trụy lạc. Xem ra đồng
tiền là nguyên do đưa đến những tiêu cực. Xem ra đồng tiền đã làm "hư bột,
hư hồ". Xem ra không thể gọi đồng tiền là tiên là phật được, mà phải gọi
là ma, là qủy. Tiên, Phật theo dân gian là luôn dạy người ta ăn ngay ở lành.
Tiên Phật luôn giúp con người hướng về thiện, luôn gìn giữ, bảo vệ những nét
đẹp của con người và thiên nhiên. Tiên Phật đâu đang tâm gây nên những xáo trộn
cho nhân thế. Tiên Phật đâu khiến con người gian tham, lừa đảo. Chỉ có ma qủy
mới làm biến chất con người. Chỉ có ma qủy mới làm cho con người tha hoá đạo
đức. Chỉ có ma qủy mới làm băng hoại những thuần phong mỹ tục, những nét đẹp
cao qúy của biết bao nền văn hoá nơi các dân tộc.
Thực vậy, đồng tiền luôn có một ma lực
hấp dẫn con người. Nó làm cho con người "hoa mắt vì tiền". Nó mê hoặc
lòng người đến mất cả tính người, và trở thành tay sai cho ma qủy gieo vãi khổ
đau cho nhân thế. Thời xưa, tiên tri Amos đã đau lòng khi nhìn thấy con người
đang đầy đoạ lẫn nhau chỉ vì tiền. Có quá nhiều kẻ tham lam nên đã dùng quyền
để đàn áp và bóc lột người khác. Có quá nhiều kẻ chỉ vì tiền mà chà đạp lên
nhân phẩm của người khác. Họ coi mạng người chỉ là đồ vật để mua bán trao đổi.
Có quá nhiều kẻ vì ham tiền nên đã đang tâm buôn gian bán thiếu để vun quén cho
đầy túi tham. Nhà tiên tri đã nói với họ rằng: "Hãy nghe đây, hỡi những kẻ
đàn áp người nghèo và muốn tiêu diệt những ai bần cùng. Các ngươi tự nhủ: 'Bao
giờ mới hết tuần trăng để chúng tôi buôn bán? Khi nào mới qua ngày nghỉ lễ để
chúng tôi bán lúa mạch. Chúng tôi sẽ giảm lượng đong, tăng giá và làm cân giả.
Chúng tôi sẽ lấy tiền mua người nghèo, lấy đôi dép đổi người túng thiếu' Và
Chúa đã thề rằng: 'Ta sẽ chẳng bao giờ quên một hành vi nào của chúng".
(Am 8,4-7).
Vâng, Thiên Chúa là Đấng công minh
chính trực. Chính Ngài sẽ đòi lại công bằng cho những kẻ bị bóc lột và ức hiếp.
Từng hành vi của kẻ gian ác đều phải trả lẽ công bằng trước toà án Tối Cao.
Thiên Chúa sẽ lau khô những giọt lệ cho người cùng khốn. Và chính Ngài sẽ trừng
phạt những kẻ gian tham vào nơi tối tăm, ở đó chỉ còn tiếng khóc lóc và nghiến
răng.
Lời nguyền dành cho kẻ gian ác được đọc
lên từ thời rất xa xưa, nhưng nó vẫn còn vang vọng cho đến hôm nay. Bởi vì vẫn
còn đó những kẻ lợi dụng sự khó khăn túng thiếu của người khác để chèn ép, tước
đoạt, để cho vay nặng lãi và làm giàu. Vẫn còn đó những kẻ bỏ lễ, bỏ đạo để làm
tôi cho ma qủy, mong được hưởng những bổng lộc trần gian mau qua. Vẫn còn đó
những kẻ chuyên gian dối, lọc lừa, đổi giá, tráo hàng để thu lợi. Và vẫn còn đó
những kẻ sợ có thêm một miệng ăn, một gánh nặng cho vợ chồng nên quyết định phá
thai, giết người. Vẫn còn đó những kẻ dùng tiền để biến người khác thành hàng
hoá, đồ vật để trao đổi và thoả mãn lạc thú. Đồng tiền đã và đang làm cho xã
hội điêu đứng, cho tình con người trở thành thứ yếu vì "tiền là trên
hết".
Lời Chúa hôm nay, phải là lời cảnh tỉnh
cho mỗi người chúng ta: Hỡi những kẻ quản lý của Thiên Chúa. Chúa đã yêu thương
và tin tưởng giao cho chúng ta quá nhiều gia sản của Ngài. Ngài trao cho chúng
ta quản lý tiền của, thời giờ và tài năng. Tất cả những gì chúng ta có đều là
hồng ân Chúa ban. Đó là những nén bạc mà Chúa bảo chúng ta phải sinh lời cho
Chúa. Chúa bảo chúng ta phải sử dụng theo ý Chúa. Là người quản lý, không chỉ
có bổn phận gìn giữ, sinh lời mà còn biết ban phát theo ý Chúa. Chúa tạo dựng
chúng ta giống hình ảnh Chúa để chúng ta tiếp tục thay Ngài làm cho tha nhân
được hạnh phúc, làm cho tình yêu và lòng đại lượng của Ngài trải rộng tới muôn
nơi. Như vậy, người quản lý phải tuyệt đối trung thành với Chúa. Người quản lý
không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi ma qủy. Làm tôi Thiên Chúa thì
không thể để cho ma qủy dẫn dắt vào đường gian dối, tham lam và ich kỷ hưởng
thụ. Cho dù có được những bổng lộc trần gian nhưng mất linh hồn thì được ích
gì.
Ngày xưa, Alexandre Đại đế, một ông vua
đầy uy quyền, đã truyền phải treo ở ngoài quan tài một bàn tay khô và trống
trơn của ông, để nhắc nhở cho mọi người biết rằng: dù là Đại đế uy quyền, thì
cũng chỉ ra đi với hai bàn tay trắng và không thể đem theo bất cứ sự gì. Đó là
sự thật. Bên cạnh đó, sự sống con người không dừng lại ở cái chết. Sự sống vẫn
tiếp diễn. Có khác chăng là con người không còn làm kẻ quản lý gia sản của
Thiên Chúa. Con người chỉ ở một trong hai tình trạng: hưởng hạnh phúc đời đời
vì một đời làm quản lý trung tín hay bị đau khổ muôn đời vì những bất trung
trong đời sống dương gian. Đau khổ hay hạnh phúc đời đời tuỳ thuộc vào cuộc
sống hôm nay. Thế nên, Chúa bảo chúng ta hãy dùng tiền của mà mua lấy bạn hữu
Nước Trời. Hãy can đảm vượt thắng những cám dỗ của tiền tài và lạc thú. Hãy sử
dụng những ân huệ Chúa ban là tiền bạc, thời giờ và khả năng để gieo rắc tình
yêu và hạnh phúc cho nhân thế ngõ hầu, mai sau, chính họ, những con người đã
được chúng ta trao ban giúp đỡ sẽ đón chào chúng ta ở trên quê trời. Giống như
Mạnh Thường Quân năm xưa, khi ông còn tại chức, ông đã dùng quyền của mình để
xoá nợ cho người nghèo, để giúp đỡ kẻ thấp hèn, đến khi ông thôi chức quan, và
trở về quê hương, ông đã trở về giữa muôn tiếng reo hò của vạn dân mà ông đã
từng giúp đỡ. Phải chăng đó cũng là cách hay nhất để chúng ta có được một ngày
trở về nhà Cha giữa muôn tiếng reo hò của bạn hữu Nước trời? Amen.
8. Suy niệm của ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
(Trích dẫn từ 'Nút vòng xoay')
CĂN BỆNH NGUY HIỂM
Tháng 10 năm 1990, ông Nhêbôisa
Bôtrêvích, nhà tiên tri nổi tiếng gốc Nam Tư, người đã tiên báo bức tường Bá
Linh sụp đổ và nước Đức thống nhất, trong cuộc gặp mặt tại nhà văn hóa Liên Xô,
đã buồn rầu thông báo: chẳng bao lâu nữa, trên thế giới sẽ xuất hiện một căn
bệnh nguy hiểm được truyền qua những tờ giấy bạc (x. Sáng Tạo số 44, tháng 10
năm 1990).
Nghe lời thông báo ấy, thú thật ban đầu
tôi không tin. Ba láp! Nhưng khi tổng hợp những sự kiện nước ngoài: Tỷ phú Max
Well chết đột ngột trên du thuyền để lại món nợ bất minh hàng triệu đô la; hàng
loạt chính khách Nhật Bản rớt đài vì dính líu làm ăn với những công ty đa quốc
gia; quan tòa Ý Falcon bị sát hại, tôi nghĩ có thể có một căn bệnh nguy hiểm
truyền qua tiền bạc. Rồi nối kết với một vài sự kiện gần đây trong nước: đường
giây sextour Bambi bị đem ra ánh sáng và băng cướp "quý tử" bị hầu
tòa, tôi nghiệm ra ra thật có một căn bệnh như thế. Để rồi hôm nay tiếp cận với
Phúc Âm, khi Thiên Chúa không chấp nhận cho kẻ tin đặt Ngài đứng chung liên
danh với tiền bạc, xin được chia sẻ về dấu vết của căn bệnh ấy. Phần gọi tên
xin nhường cho cộng đoàn. Chỉ biết rằng một khi mắc phải căn bệnh ấy người ta
khinh thường tất cả: phá đổ đạo đức, khai trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống và
đó là căn bệnh nguy hiểm cho lòng tin tín hữu. Có ba dấu vết:
1. Dấu vết thứ nhất được nhận ra trong
thái độ cần tiền.
Tiền bạc vốn lạnh lùng. "lạnh như
tiền". Tiền chẳng quen ai, nhưng ai cũng quen tiền: trẻ khóc đòi dòng sữa
mẹ, nhưng được người lớn dỗ dành dúi vào tay một tờ giấy bạc, lâu ngày thành
quen, để sau này mỗi lần khóc lại thích nhận lấy tờ giấy bạc thay cho nỗi sầu
nhớ mẹ. Một người nhà quê chẳng biết chữ nhưng trong sinh hoạt hằng ngày đố ai
thấy bác tính toán sai một đồng.
Tiền chẳng có tình cảm, nhưng không
thiếu những tình cảm với tiền: được tiền thì vui cười hỉ hả, mất tiền thì rầu
rĩ xót xa. Ngày tết lì xì tiền thay cho phước thọ và ngày cưới, mừng tiền thế
cho tình thân. Dù Tết hay Cưới, người ta đều chúc: "Tiền vô như nước sông
Đà, tiền ra nhỏ giọt như cà phê phin".
Tiền chẳng cần ai, nhưng ai cũng cần
tiền: chưa sinh ra đã cần tiền để mẹ tròn con vuông và chết rồi vẫn cần tiền để
ma chay tốt đời đẹp đạo. Trẻ cần tiền ăn học, lớn cần tiền để gầy dựng sự
nghiệp và già cần tiền để dưỡng thân. Đời cần tiền để phát triển nhưng đạo cũng
cần tiền để xây dựng mở mang.
Tiền cần nên tiền quý. Người làm ra
tiền là người giỏi, nghề hái ra tiền là nghề trọng, người có nhiều tiền được nể
vì. Cứ như thế đồng tiền ung dung đi vào tư tưởng lời nói và việc làm của con
người. Tình trạng cần tiền lâu ngày ủ mầm có thể dẫn đến nguy cơ lệch lạc trong
cách nhìn con người và sự việc, nhất là lẫn lộn giữa sở hữu và hiện hữu, giữa
tài sản và con người. Người ta tay không có thể bình đẳng, nhưng đồng tiền đặt
lên ai thì cán cân nghiêng về người ấy. Đáng giá trị rốt cuộc là đấu giá cả. Và
nguy hiểm là ở chỗ đó.
Sáng nay quan sát thiếu nhi sinh hoạt,
thấy có một đội không chơi, hỏi ra mới biết đội đó không chơi chỉ vì thiếu vắng
một em đóng tiền nhiều nhất.
2. Dấu vết thứ hai được nhận ra trong
thái độ kiếm tiền.
Đối với nhiều người, kiếm tiền là một
trách nhiệm thuộc bậc sống, bởi lẽ có tiền mới trang trải được những nhu cầu
cơm ăn áo mặc hằng ngày. Nhưng vấn đề không phải là kiếm tiền mà là cách kiếm
tiền.
Kiếm tiền bằng lao động chân tay trí
óc, đó là điều chính đáng, nhưng quá lo lắng đến kiếm tiền để rồi quên đi những
trách vụ khác trong đạo làm người và làm con Chúa thì ở đó căn bệnh đã xuất
hiện ở dạng cấp tính có nguy cơ gây thiệt hại cho chính bản thân và cho những
người lân cận.
Kiếm tiền bằng thù lao phù hợp với công
sức bỏ ra thì đó là lương thiện. Nhưng kiếm tiền bằng cách chỉ đuổi theo tiền
mà không biết đến giá trị đạo đức nào khác, hoặc tự động chấp nhận "thủ
tục đầu tiên", hay "quà biếu trên mức tình cảm" của một thứ
lương đồng nghĩa với sự đút lót hoặc chủ động vi phạm lẽ công bình như làm hàng
giả thuốc giả "sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi" của một thứ kinh
tế mánh mung, thì ở đó căn bệnh đã phát triển ở dạng mãn tính chẳng những gây
thiệt hại mà còn chà đạp lên tiếng nói lương tâm khi ăn trên mồ hôi nước mắt kẻ
khác. Lúc đó lương tâm nhẹ hơn lương lậu, lương thiện nhỏ hơn lương tiền và
lương tri phải nhường cho lương bổng lên ngôi. Thiên Chúa ư? Ngài đi chỗ khác
chơi, để yên cho tôi làm giàu!
Kiếm tiền để sống là đẹp, nhưng thật
thảm hại khi sống chỉ để kiếm tiền. Đồng tiền ở đấy đã xuất hiện là một căn
bệnh nguy hiểm. Thảo nào người ta vẫn bảo "tiền bạc" là đồng tiền đi
liền với bạc bẽo.
Ở đây xin nhường lời cho cụ ông trước
kia giàu nứt đố đổ vách, giờ gặp cảnh khố rách áo ôm quyền chia sẻ kinh nghiệm:
"Khi còn trẻ người ta sẵn sàng phí sức khỏe để kiếm tiền, nhưng khi về già
người ta lại sẵn sàng phí tiền để tìm lại sức khỏe". Mà nào có được đâu!
Mời suy nghĩ.
3. Dấu vết thứ ba được nhận ra trong
thái độ xài tiền.
Cần tiền – kiếm tiền – xài tiền. Không
có gì đáng nói nếu chỉ có thế. Nhưng một khi xem tiền như một phương tiện vạn
năng "có tiền mua tiên cũng được" lâu ngày sẽ trở thành di căn. Hoặc
trong lối sống ghẻ lạnh với những giá trị đạo đức để rồi hóa giá tất cả: phẩm
giá, lẽ phải, tình thương, nhân tính... Lối sống ấy chỉ có câu hỏi "bao
nhiêu?". Ngoài ra chấm hết. Không lạ gì đồng tiền gây nên tệ hại theo kiểu
nói "tiền tệ". Hoặc trong niềm tin dẫn tới hậu quả xem thường đạo
giáo buôn thần bán thánh và hạ bệ Thiên Chúa, để tôn sùng tiền bạc làm thượng
đế của mình như một câu vè truyền miệng đó đây: "Tiền là tiên là Phật,
tiền là sức bật con người, tiền là nụ cười tuổi trẻ, tiền là sức khỏe người
già, tiền là cái đà danh vọng, tiền là chiếc lọng che thân, tiền là cán công
công lý. Hết ý!"
Vẫn biết "đồng tiền đi liền khúc
ruột" theo kinh nghiệm của các bậc tiền bối là một lời dạy khôn ngoan rất
gần với sự tiết kiệm vốn phải có cho mọi kẻ giữ tiền. Nhưng khi cẩn trọng quá
hóa keo kiệt trong những tiêu pha, đến nỗi không dám bỏ ra một đồng cho nhu cầu
vật chất hay tinh thần thì xem ra đồng tiền lúc ấy đã "làm phiền"
khúc ruột không ít. Hoặc khi cẩn trọng quá hóa bịn rịn trong thái độ đối với
tiền như "ra đường chắt bóp tiêu pha, về nhà ngây ngất lăn ra đếm
tiền" thì chừng như đã để đồng tiền "xích xiềng" khúc ruột mà
không ai biết.
Ngược với thái độ cẩn trọng là một sự
hoang phí tiêu xài vung vít. Khi vung vít nhẹ là khi "vung tay quá
trán" con nhà lính tính nhà quan làm một xài hai. Khi vung vít nặng là khi
"vung tiền qua cửa sổ" dấu hiệu của sự vô độ tiêu xài. Rồi khi để cho
đồng tiền len lỏi vào trong tính toán hằng ngày và giấc ngủ hằng đêm theo kiểu
lên sàn thị trường chứng khoán ngợp choáng thời giờ thì lúc ấy khúc ruột đã
nuốt trửng đồng tiền và hậu quả duy nhất chính là đồng tiền "xay
nghiền" khúc ruột.
Làm sao tín hữu có thể dung hòa lòng
tin với những sinh hoạt vốn liên hệ đến tiền? Thưa dựa trên Phúc Âm chỉ cần một
chữ Tín. Nếu giàu, hãy tín trung với Thiên Chúa để biết xài tiền phù hợp với
bác ái, vì tiền là một đầy tớ tốt nhưng lại là một ông chủ xấu. Nếu nghèo, hãy
tín thác nơi Thiên Chúa để từng ngày kiếm tiền mà không vi phạm công bình, vì
chỉ để một đồng xu trên mắt thôi cũng đủ bị che chắn hết tầm nhìn hướng thượng.
Và dẫu giàu hoặc nghèo, hãy tín nghĩa để gần tiền mà chẳng hôi hám mùi tiền.
Tiền bạc như dòng nước, nếu không cẩn thận người ta có thể bị cuốn trôi.
Chữ TÍN ấy là thuốc chủng ngừa căn bệnh
nguy hiểm mà Bôtrêvích đã tiên báo.
9. Giá trị đồng tiền – Lm Antôn Nguyễn
Văn Tiếng
ĐỒNG TIỀN ĐẾN
Đề tài về "tiền của" là đề
tài dễ "bàn luận" nhất, vì đó là thứ gần gũi nhất đối với con người.
Người ta gọi những người thân yêu là "bà con ruột thịt", đồng thời
người ta cũng thường nói "đồng tiền đi liền khúc ruột", xem thế, ta
thấy đồng tiền có quan hệ "máu mủ" với con người đến mức nào!
Cái gì người ta càng cần đến, thì cái
đó càng quan trọng. Cái gì càng quan trọng thì cái đó càng được nhiều người
muốn sở hữu. Cái gì càng có nhiều người muốn sở hữu thì cái đó càng quý. Người
nào sở hữu nhiều thứ đồ quý , thì đó là dấu hiệu người đó giàu có. Người đó có
sức mạnh. "Miệng người sang có gang có thép".
Tiền là rất cần. Giới trẻ có những câu
định nghĩa "tóm gọn sức mạnh đồng tiền" nghe vui vui, tỉ như:
"Tiền là tiên là Phật, là sức bật lò xo, là thước đo lòng người, là nụ
cười tuổi trẻ, là sức khỏe tuổi già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân,
là cán cân công lý, tiền là... hết ý !".
Tiền là rất cần, nên người ta phải tìm
cách có tiền. Không có cách làm ra tiền, thì làm ra tiền bằng mọi cách!
Vấn đề là chính là ở chỗ này! – Làm ra
đồng tiền bằng mọi cách, không trừ những cách bất chính!- "Một nhà phú hộ
kia có một người quản gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của
cải nhà ông. Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: 'Tôi nghe người ta nói gì về anh
đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì từ nay anh không được làm
quản gia nữa!'" (Lc.16,1-2).
Biết bao người đã vấp ngã vì đồng tiền.
Để có được đồng tiền, nhiều người đã đánh đổi cả danh dự, nhân phẩm, và cả niềm
tin thiêng liêng nữa.
Họ trở thành nô lệ của Đồng Tiền! Hơn
thế nữa, họ thờ Tiền! Họ bị Đồng Tiền trói buộc!
Những cách làm ra tiền bất chính thì
rất đa dạng, muôn thứ. Có cái sờ sờ ra trước mắt, như ăn trộm, ăn cướp, mua
gian bán lận... nhưng có thứ tinh vi, khó mà biết - nhưng muốn biết cũng không
khó - nhiều khi vì lý do này, lý do kia, người ta không muốn biết, hay chưa nên
biết, như: tham nhũng, lương lẹo, móc ngoặc, cắt xén công quỹ...
Trong Cổ Học Tinh Hoa có kể câu chuyện
"Lấy của ban ngày" như sau:
Nước Tấn có kẻ hiếu lợi một hôm ra chợ
gặp cái gì cũng lấy. Anh ta nói rằng: "Cái này tôi ăn được, cái này tôi
mặc được, cái này tôi tiêu được, cái này tôi dùng được". Lấy rồi đem đi.
Người ta theo đòi tiền. Anh ta nói:
"Lửa tham nó bốc lên mờ cả hai con
mắt. Bao nhiêu hàng hóa trong chợ tôi cứ tưởng của tôi cả, không còn trông thấy
ai nữa. Thôi, các người cứ cho tôi, sau này tôi giàu có, tôi sẽ đem tiền trả
lại".
Người coi chợ thấy càn dở, đánh cho mấy
roi, bắt của ai trả lại cho người ấy. Cả chợ cười ồ. Anh ta mắn:
"Thế gian còn nhiều kẻ hiếu lợi
hơn ta, thường dụng thiên phương, bách kế ngấm ngầm lấy của người. Ta đây tuy
thế, song lấy giữa ban ngày so với những kẻ ấy thì lại chẳng hơn ư? Các ngươi
cười ta là các ngươi chưa nghĩ kỹ!" (Long Môn Tử).
ĐỒNG TIỀN ĐI
Tích trữ nhiều tiền của thì phải có mục
đích. Mục đích phổ thông nhất là "hưởng thụ". Trong Tin Mừng, chúng
ta gặp rất nhiều ông Phú hộ sống kiểu "hồn ta hỡi ... vui chơi cho
đã". (Lc.12,16-21; 16,19-31).
Trong đời thường, chúng ta càng thấy rõ
hơn nữa. Những nơi giàu có, mức độ hưởng thụ "ăn chơi" càng "cao
cấp", càng "sang trọng", và thú vui chơi thể hiện thiên hình vạn
trạng và cực kỳ tốn kém.
Sự hưởng thụ nếu không có ánh sáng Tin
Mừng soi dẫn, sẽ đi dần đến mức sa đọa, khi mục đích của nó là thỏa mãn những
niềm vui nhất thời và vật chất. Hạnh phúc lúc bấy giờ chỉ giới hạn trong những
thứ vui chơi thỏa mãn khuynh hướng tầm thường, và chỉ còn là niềm vui của riêng
mình. Sự ích kỷ sẽ đưa con người đến vô trách nhiệm với tha nhân và trở nên độc
ác.
Thường tình người ta vẫn nghĩ cuộc sống
cần phải vươn lên, và vì thế, người ta có quyền hưởng thụ ở mức độ cao nhất như
có thể, miễn là người ta làm ăn chính đáng, không hãm hại ai, không làm thiệt
hại ai, không đá động tới ai.
Nhưng chúng ta vẫn nghe trong lòng một
cái gì đó rất xót xa, khi có những người mua những chiếc du thuyền, những chiếc
xe con, những phương tiện giải trí hàng tỷ đồng, và bên cạnh đó, biết bao người
đói ăn, đói học, đói những mái nhà đơn sơ đủ để che mưa che nắng qua ngày! Có
người thở dài: biết làm sao, bàn tay có năm ngón ngắn dài khác nhau là vậy!
Chuyện ấy thời nào cũng có! Chẳng có ranh giới nào để định mức đâu là trách
nhiệm đối với xã hội. Chỉ có tiếng gọi của Tình Thương. Trong Phúc Âm, câu
chuyện ông Phú hộ và La-gia-rô là một thí dụ. (Lc.16,19-31).
Có những người tung tiền ra để mưu cầu
danh vọng. Có những người tung tiền ra để mua quan bán chức. Có một câu chuyện
khoa học giả tưởng về một thành phố của ngàn năm về sau, lúc đó, con người đã
chế tạo ra những "người máy" tinh xảo. Đi giữa lòng thành phố, người
ta không thể phân biệt được ai là "người máy" ai là người thật! Hay
nói một cách khác, ai là người "giả", ai là người "thật"!
Ngày nay, nhiều khi cũng khó biết ai là "nhân tài" thật, ai là
"nhân tài" giả. Có nơi, người ta rao bán "bằng cấp" trên
Internet giống như người ta rao bán chè ở vĩa hè!
Đi xa hơn nữa, sự giàu có dễ quyến rũ
người ta say mê thế lực. Cá nhân rồi đến tập thể, Đất Nước. Những Nước giàu có
thì chế tạo và mua nhiều vũ khí. Những nước lớn và giàu có bao giờ cũng nói
chuyện bằng sức mạnh và quyền lợi của họ trước tiên. "Tiền đẻ ra
Tiền". Làm ăn với tư thế "kẻ mạnh" thì bao giờ cũng có lợi, thậm
chí còn bóp chết cả địch thủ cạnh tranh, cho dù là cạnh tranh lành mạnh. Vì
rằng "thương trường cũng như chiến trường", có "chết" và có
"sống". Không có quy luật đạo đức nào cụ thể được áp dụng ở đây.
"Mạnh được yếu thua". "Cá lớn nuốt cá bé". Ngôn ngữ ngoại
giao thì rất đẹp, mà trên thực tế nằm mơ cũng không thấy!
Cứ nơi nào có nhiều mỏ dầu, nhiều tài
nguyên thiên nhiên, thì nơi đó có nhiều tranh chấp. Nơi nào có tranh chấp, thì
nơi đó thường có những cuộc "tập trận", phô trương vũ khí, sức mạnh
quân sự của những bên liên hệ.
ĐỒNG TIỀN ĐEM LẠI
Đồng tiền giúp chúng ta thể hiện tình
thương đối với đồng loại.
"Tiền của là một đầy tớ tốt, nhưng
là một ông chủ xấu". Nếu con người nô lệ vào tiền của, thì rõ ràng, con
người gặp phải nhiều hậu quả thật tồi tệ cho cá nhân và cộng đồng nhân loại.
Nếu con người làm chủ đồng tiền, thì con người sẽ cải thiện thế giới và con
người sẽ hạnh phúc hơn.
Con người chỉ có một chủ là Thiên Chúa,
và Thiên Chúa dạy con người biết làm chủ Tiền Của bằng Giới Luật Yêu Thương.
"Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu
chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa
làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được" (Lc.16,13).
Mẹ Têrêsa khi nhận giải Nobel, mẹ nghĩ
ngay đến xử dụng đồng tiền để giúp đỡ những người bất hạnh. Thánh Phanxicô
Assisi đã bỏ cuộc đời giàu có để dành trọn cuộc đời mình lên tiếng nói bênh vực
và nâng đỡ người nghèo...
Thật may mắn, trong đời thường vẫn còn
đó những trái tim biết chia sẻ một cách chân thành.
Chia sẻ chân thành là chia sẻ những gì
mình có. Không phải cách "lương lẹo" của tên quản lý bất lương. Anh
ta tỏ ra "nhân từ" bằng đồng tiền của chủ mình với ý đồ được có nơi
nương tựa và tìm cơ hội cho tương lai. Thương người kiểu đó là một cách ăn trộm
mà vẫn được người ta thấy mình đạo đức. Nó cũng giống như những người cho vay
ăn lời cắt cổ thiên hạ, thỉnh thoảng vào ngày rằm, mua năm mười giạ gạo bố thí
cho một số người nghèo; hay mấy công ty bốc lột sức lao động công nhân bằng
đồng lương chết đói, thỉnh thoảng tặng tiền cho những chương trình thuộc dạng
"vòng tay nhân ái" để được vinh danh và quảng cáo thương hiệu của
mình trên TV !
Trong Giới Luật Yêu Thương, Chúa Giêsu
không hề bảo con người phải sống nghèo nàn, lạc hậu, nhưng là dạy con người
biết cách"cho đi". (Vì xưa ta đói các ngươi đã cho ăn...Mt.25,31-46).
Vì "không ai cho cái mình không
có". Nên trước tiên ta phải có mới cho được. Do đó, làm việc không chỉ là
trách nhiệm đối với xã hội, mà hơn thế nữa, còn là bổn phận đối với Thiên Chúa.
(Ông giao cho người này năm nén, người kia hai nén, người khác nữa một nén...
Mt. 25,14-29).
Trong Khổng Tử Gia Ngữ có câu chuyện
thế này:
Khổng Tử nói rằng: Cho mình là hạng phú
quí mà biết hạ mình với người với mọi người, thì người nào mà không tôn trọng
mình?
Cho mình là hạng phú quý mà biết yêu
người, thì người nào mà không thân với mình?
Nói ra mà không ai trái lại, thì có thể
cho là hạng người biết nói vậy.
Nói ra mà mọi người đều hướng theo cả,
thì có thể cho là hạng người biết thời vậy.
- Cho nên kẻ giàu có, mà lại biết làm
cho người giàu có, thì dẫu có muốn nghèo, cũng không thể nào nghèo được.
- Kẻ sang trọng mà biết làm cho người
sang trọng, thì dẫu muốn hèn hạ, cũng không thể hèn hạ được.
- Kẻ phát đạt, mà biết làm cho người
phát đạt, thì dẫu có muốn khốn cùng, cũng không thể khốn cùng được.
Đồng tiền giúp chúng ta về đến Nước
Trời.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có một quyển
sách được nhiều người yêu thích mang tên "Cho tôi xin một vé đi tuổi
thơ".
Chúa Giêsu bảo chúng ta hãy dùng tiền
để mua những gì "không hư nát". Hãy biết dùng tiền để tìm về chốn
vĩnh cửu, nơi hạnh phúc vĩnh hằng. "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết:
hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ
sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. (Lc.16,9).
Nếu cuối cùng, ta nằm xuống. Tất cả
những gì hưởng thụ qua đi. Tất cả những gì gom góp cũng bỏ lại. Ta nghe văng
vẳng bên tai lời chúa từng giảng dạy: "Đồ ngốc! nội đêm nay, người ta sẽ
đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai ?" (Lc.12,
20), ta chới với và tiếc rẻ làm sao! Bằng đó những thành đạt cuộc đời không đổi
lấy được gì ư?
Có một kim chỉ nam để chúng ta định
hướng đời mình. Để suy nghĩ và hành động. Đề gạn lọc và chọn lựa. Để làm phong
phú đời mình. Để nuôi sống đời mình. Để đời mình không phải chỉ là một giấc mơ
chóng qua và vô nghĩa. Đó là Lời Chúa. Lời Hằng Sống. Lời dẫn đưa chúng ta đến
sự sống đời đời.
"Cho tôi xin một vé đi Thiên
Quốc".
Để khi tôi nhắm mắt, là bước vào một
cuộc hành trình mới. Tuyệt vời và hạnh phúc!
Lạy Chúa, xin cho con biết tận dụng tất
cả những gì con có, để sinh lợi và làm giàu cho Chúa, chứ không phải cho riêng
con. Vì tất cả là của Chúa. Amen.
10. Khôn khéo
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Cuộc đời này tươi hơn nhờ có người say
mê nó.
Các vận động viên chịu khổ luyện để phá
một kỷ lục. Các nhà khoa học tận tụy để tìm ra một phát minh. Các văn nghệ sĩ
nhọc nhằn cưu mang một tác phẩm. Các nhà kinh doanh bù đầu với chuyện nắm bắt
thị trường.
Phía sau một tấm huy chương, một bằng
khen, một giải thưởng, có bao là mồ hôi nước mắt.
Say mê cuộc đời này chẳng có gì đáng
trách.
Người Kitô hữu cũng sống hết lòng với
cuộc đời này, nhưng họ không say mê như thể chỉ có nó.
Đúng ra họ say mê đời này vì họ say mê
đời sau.
Đời này chỉ là con đường dẫn đến mục
đích tối hậu.
Sau khi kể xong dụ ngôn về người quản
gia khôn khéo, Đức Giêsu phàn nàn vì chúng ta, những con cái ánh sáng, lại
không khôn bằng những người chỉ biết có đời này.
Người quản gia khôn vì ông dám đối diện
với thực tế, đó là chuyện ông bị chủ cho thôi việc.
Ông khôn vì ông biết giới hạn của mình:
Không đủ sức cuốc đất, không đủ mặt dầy mặt dạn để đi ăn xin.
Ông khôn vì ông biết xoay sở, tìm ra
phương án tốt nhất, biết tận dụng quyền hành còn lại của mình để đem đến cho
tương lai bấp bênh một bảo đảm.
Đức Giêsu không dạy ta bất lương như
người quản gia. Ngài dạy ta biết khôn khéo như ông khi gầy dựng cho đời mình
tương lai vĩnh cửu.
Có vẻ đời sau thì xa xôi, không có sức
thu hút, không làm chúng ta say mê và dám đánh đổi tất cả.
Chúng ta thừa sôi nổi để xây dựng tương
lai đời này, nhưng lại thiếu táo bạo để xây đắp tương lai đời sau.
Chúng ta biết xoay sở để việc làm ăn
khỏi thua lỗ, nhưng chúng ta lại thiếu cương nghị và dứt khoát để đầu tư mọi sự
mình có cho Nước Trời.
Cái giằng co của đời sống Kitô hữu nằm
ở chỗ vừa say mê cuộc đời này, vừa say mê vĩnh cửu.
Họ say mê cuộc đời này không thua bất
kỳ ai, bởi vì giữa cái mau qua, họ gặp được vĩnh cửu.
Kitô hữu làm việc, vui chơi như mọi
người, nhưng vẫn có cái gì rất khác nơi họ.
Không phải vì họ dành cho Chúa một thời
gian ít ỏi để đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ... nhưng vì họ đã để Chúa đi vào toàn
bộ đời mình.
Chúng ta cần giữ một sự thăng bằng
trong cuộc sống. Sự thăng bằng này lại nằm ở chỗ chúng ta nghiêng về phía Chúa
và để Ngài làm chủ đời mình. Tiền bạc, của cải không phải là điểm tựa, dù ta
rất cần tiền và phải kiếm tiền để sống.
Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa
làm tôi tiền của, không thể phụng sự hai chủ như nhau, trong cùng một lúc.
Tôi tự hỏi những chủ nào đang thống
lĩnh đời tôi.
Ước gì tôi được tự do nhờ biết làm tôi
cho Thiên Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
Đồng tiền là tiên, là phật, và cũng có
thể là vị chúa đầy hấp dẫn quyền uy. Bạn có kinh nghiệm gì về sức mạnh của đồng
tiền? Bạn có thấy ai đánh mất mình vì nô lệ cho tiền bạc không?
Người Kitô hữu cũng dễ mất hút giữa
những bon chen của đời thường. Theo ý bạn, nếu sống chân thật lương thiện,
người Kitô hữu có hy vọng thành công không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, ai trong chúng con cũng
thích tự do, nhưng mặt khác chúng con thấy mình dễ bị nô lệ.
Có nhiều xiềng xích do chính chúng con
tạo ra. Xin giúp chúng con được tự do thực sự: tự do trước những đòi hỏi của
thân xác, tự do trước những đam mê của trái tim, tự do trước những thành kiến
của trí tuệ.
Xin giải phóng chúng con khỏi cái tôi
ích kỷ, để dễ nhận ra những đòi hỏi tế nhị của Chúa, để nhạy cảm trước nhu cầu
bé nhỏ của anh em.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được
tự do như Chúa.
Chúa tự do trước những ràng buộc hẹp
hòi, khi Chúa đồng bàn với người tội lỗi và chữa bệnh ngày Sabát.
Chúa tự do trước những thế lực đang
ngăm đe, khi Chúa không ngần ngại nói sự thật.
Chúa tự do trước khổ đau, nhục nhã và
cái chết, vì Chúa yêu mến Cha và nhân loại đến cùng.
Xin cho chúng con đôi cánh của tình yêu
hiến dâng, để chúng con được tự do bay cao.
11. Nhận lãnh để trao ban – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ 'Như Thầy Đã Yêu')
Có một nhà kia tính mời vài đạo sĩ tới
lập đàn giải trừ tai nạn. Một đạo sĩ nọ tham lam, muốn một mình hưởng trọn số
tiền chủ nhà trả ông, liền nhận bao thầu hết việc lập đàn cúng bái.
Ông ta chẳng kể ngày đêm. Làm việc luôn
tay luôn chân, không hề ngơi nghỉ. Cứ như thế đến ngày thứ ba thì kiệt sức, ngã
vật ra đất. Chủ nhà sợ ông ta chết, mang họa, liền thuê người khiêng ông về
miếu. Đạo sĩ nghe vậy, cố ngước đầu lên thì thào:
Ông hãy đưa tiền thuê người cho tôi,
tôi tự mình lần về miếu cũng được.
Những người coi đồng tiền to lớn hơn
mạng sống của mình, rốt cuộc cũng chẳng được gì. Thấu hiểu lòng ham mê tiền bạc
của con người. Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người quản gia khôn khéo. Người khen
ông quản gia khôn khéo không phải vì hành động bất lương của ông, nhưng vì ông
biết lo xa cho tương lai của mình. Ông khôn khéo vì ông biết dùng tiền của tạm
bợ để mua lấy bạn hữu.
Nếu "con cái đời này" biết
phải làm gì và làm cách nào đối với tiền của để lo liệu cho ngày mai, thì tại
sao "con cái sự sáng" lại không biết sử dụng ơn Chúa ban trong hiện
tại để lo cho phần rỗi của mình ở tương lai?
Nếu người quản gia bất lương biết dùng
tiền của bất chính để mua lấy bạn hữu, sao người tín hữu lại không biết sử dụng
của cải phù du, chia sẻ cho người nghèo khó để mua lấy bạn hữu Nước Trời.
Nếu người ta căn cứ vào cách dùng tiền
của để biết được lòng người có trung tín hay không, thì tại sao chúng ta lại
không "trung tín trong việc nhỏ" là sử dụng tiền của để bảo đảm cho
ta của cải chân thật đời sau?
Thật vậy, chúng ta không trở nên giàu
có với những điều mình đã nhận lãnh, mà là với những điều mình đã trao ban. Tác
giả Augier còn viết: "Trong dự tính của Thiên Chúa, người giàu chỉ là viên
thủ quỹ của người nghèo". Vì thế, chỉ khi nào biết quảng đại trao ban cho
những kẻ thiếu thốn, chúng ta mới thực là những quản gia biết làm theo ý chủ,
những quản gia trung tín và khôn ngoan. Chỉ khi nào biết coi tiền của là phương
tiện phục vụ cho cùng đích là Nước Trời chúng ta mới thực sự "làm tôi
Thiên Chúa".
Lạy Chúa, trong khi chúng con đang bôn
ba tìm kiếm những của cải tạm bợ đời này, xin cho chúng con cũng biết khôn
ngoan tích trữ cho mình gia tài vĩnh cửu là hạnh phúc Nước Trời. Amen.
12. Không thể làm tôi hai chủ – Veritas
(Trích dẫn từ 'Hãy Ra Khơi')
Một nhật báo bằng tiếng Pháp đã có một
bài bình luận như sau về đời sống của những người Kitô: Phúc âm của các người
là một vũ khí mạnh sức hơn triết lý Các-mác của chúng tôi. Tuy nhiên, nếu cứ
theo tình trạng này về lâu về dài, chúng tôi sẽ chiến thắng trên các người. Vì
làm sao người ta có thể tin vào Phúc âm được, nếu các người không thực sự sống
Phúc âm đó. Trong cuộc sống hằng ngày, nếu các người không chịu hy sinh thời
giờ, tiền bạc cho chính nghĩa Phúc âm thì làm sao có người tin vào Phúc âm; nếu
các người không chịu cực, các người không chịu xắn tay lên hành động cho Phúc
âm.
Những nhận xét trên không khỏi đánh
động chúng ta và làm chúng ta xét lại chính nếp sống của mình. Dụ ngôn Chúa
Giêsu kể về người quản lý bất trung được nhắc lại trong bài Phúc âm Chúa nhật
hôm nay mà chúng ta vừa đọc lại cũng tích chứa cùng một sứ điệp thức tỉnh chúng
ta. Chúa Giêsu không khen người quản lý bất trung, không đề cao nếp sống của
người quản lý bất trung cho chúng ta noi theo, nhưng Ngài cảnh tỉnh chúng ta
phải tránh thói khôn ngoan tinh xảo của người đời.
Nội dung chính của Lời Chúa dạy qua dụ
ngôn trên hệ tại ở điểm so sánh. Người quản lý bất trung đã vận dụng những khả
năng của anh như trí óc, khôn khéo, chịu khó nghiên cứu kế hoạch để mưu cầu
điều lợi cho bản thân anh. Cuộc đời của anh chỉ hướng duy nhất về điều này mà
thôi là "sống vì tiền của". Chịu làm nô lệ cho tiền của, vận dụng mọi
khả năng của mình để tôn thờ tiền của, đó là con cái đời này khôn ranh, siêng
năng, chịu khó hơn con cái sự sáng. Chúa Giêsu không khen người quản lý khôn
ranh, nhưng qua lối so sánh, Chúa Giêsu muốn chúng ta, những người đồ đệ của
Ngài, những con cái sự sáng biết tích cực dấn thân phụng sự Chúa với sức hăng
say, với sự hy sinh. Hy sinh thời giờ, tiền của với việc kiên trì làm điều tốt
để thực thi Phúc âm Chúa.
Chúng ta có Phúc âm, có sự thật được
Chúa mạc khải, nhưng nếu chúng ta có thái độ ù lì, không tích cực xắn tay áo
lên chịu cực, chịu hy sinh để thi hành Lời Chúa thì chúng ta đáng Chúa trách là
thua xa người quản lý bất trung trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay.
Một cách cụ thể hơn, hôm nay tôi muốn
nhắc lại nơi đây một điểm trong nội dung của bức thư mục vụ của Hội Đồng Giám
Mục Việt Nam. Bức thư trình bày đường hướng mục vụ trong bối cảnh mới là đối
thoại. Yêu thương và phục vụ anh chị em. Một đường hướng rất hay, nhưng đòi hỏi
nhiều can đảm dấn thân thi hành thực sự những gì cần được trình bày trong đó.
Nói theo ngôn ngữ của tờ báo vừa được trích dẫn trên thì đây là thứ vũ khí mạnh
hơn triết lý của Các-mác. Đây là tinh thần Phúc âm cần được mỗi người đồ đệ của
Chúa tại Việt Nam trước tiên noi theo. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lưu ý rằng,
để thực hiện chương trình đối thoại, yêu thương và phục vụ anh chị em thì mọi
thành phần dân Chúa, mỗi người cần phải kiên trì, can đảm đổi mới. Các Giám Mục
Việt Nam đã viết như sau: "Đổi mới bản thân là điều căn bản để có thể yêu
thương và phục vụ". Ở đây, chúng tôi muốn nói đến đổi mới lòng đạo, nội
lực của chúng ta là lòng tin, lòng mến được Thiên Chúa ban cho. Lòng đạo đức
thật theo thánh Giacôbê là yêu thương phục vụ người nghèo khổ và giữ mình đừng
vướng vào những thói xấu của thời đại. Thánh Phaolô cũng cho thấy ý Chúa là yêu
thương, là phục vụ nhau. Lời Chúa, những bí tích và đời sống cầu nguyện là
những phương thế hữu hiệu giúp đổi mới bản thân. Chuyên tâm đọc, suy niệm và
thực hành Lời Chúa, chuyên cần lãnh nhận các bí tích một cách sốt sắng, cầu
nguyện kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa sẽ thanh luyện ta khỏi thói ích kỷ, đem
lại cho ta nguồn sức mạnh để quảng đại phục vụ quên mình theo gương Chúa Giêsu
Kitô.
Để thực hiện những điều này mà thôi
theo lời dạy của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trong bức thư chung này chúng ta
cần phải cố gắng, cần phải vận dụng hết sức mình lên.
Hôm nay, trong thánh lễ này chúng ta
hãy xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta có được nội lực, có được sự khôn ngoan
và tích cực dấn thân thực hành Lời Chúa. Xin Chúa giúp mọi người chúng ta trở
thành những người quản lý tốt ân sủng mà Chúa ban cho chúng ta. Xin Chúa đồng
hành với chúng ta trong giai đoạn mới của lịch sử tại Việt Nam, để chúng ta mỗi
ngày một trưởng thành hơn trong đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin mà giờ đây
chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua Kinh Tin Kính.
13. Không thể thờ hai chủ – Achille
Degeest
(Trích dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật')
Dụ ngôn viên quản lý bất lương đòi hỏi
người đọc đừng nghĩ lan man khi tìm cách giải thích các chi tiết. Chủ ý dụ ngôn
cho thấy, trước hết người ta phải quan tâm đến tương lai vĩnh cửu của mình,
phải sử dụng hết tâm cơ tài trí ít nhất cũng như trong việc lo toan của cải vật
chất. Một lần nữa Đức Giêsu lưu ý các môn đệ về vấn đề thiết yếu vượt trên mọi
vấn đề, ai ai cũng phải dốc tất cả nghị lực, sức lực vào vấn đề cơ bản đó.
Những vấn đề còn lại là phụ, sẽ giải quyết sau. Vấn đề cơ bản ấy là bổn phận
phục vụ Thiên Chúa, nó trùng hợp với hạnh phúc con người. Từ ngữ 'của bất
lương' phải hiểu theo nghĩa nào?
1) Căn bản sự sở hữu những của cải thế
gian luôn luôn chứa đựng một nguy cơ bất công. Tuỳ theo mức giàu có vật chất,
một câu hỏi ít hay nhiều nghiêm trọng được đặt ra: Khởi từ lúc nào việc sở hữu
kéo theo một sự tước đoạt quyền lợi kẻ khác? Ai cũng biết, bình đẳng tuyệt đối
về của cải là một ảo tưởng, và bất bình đẳng mau chóng biến thành bất công.
Dưới mắt Đức Giêsu, giàu về vật chất là một hiểm hoạ. Rất nhiều lần Chúa trở
lại vấn đề này, lúc thì bài xích, lúc thì thương hại cảnh giác. Qua từ ngữ 'của
bất lương' chúng ta phải phát giác nguy cơ bất công đàng sau sự sở hữu vật
chất.
2) Của bất lương là thứ của cải thế
gian nào khiến cho tâm hồn quay ra phía khác chứ không hướng về Thiên Chúa. Tội
bất công nặng nhất là tội không thờ kính Thiên Chúa hết lòng như bổn phận phải làm
đối với Đấng Thượng Đế. Dồn hết tâm trí vào việc làm giàu mà quên Thiên Chúa là
phạm tội biển thủ bởi lẽ để cho của cải thế gian chiếm đoạt tâm hồn đã được tạo
dựng cho Thiên Chúa.
3) Người ta băn khoăn: vậy có lối xử
trí nào để con người có thể tha thiết với của cải đời này mà không xa lìa Thiên
Chúa? Đức Giêsu đáp: không thể cùng một lúc phục vụ hai chủ. Thật vậy, khi lao
mình vào phục vụ tiền bạc thì chung quy con người phục vụ ông chủ nào? Trong
trường hợp ấy, ông chủ chính là bản thân con người để lộ ra cái chất gì xấu
nhất, nó là tư lợi, là lòng ích kỷ. Dung hoà hai sự thờ phụng –tôn thờ bản thân
và tôn thờ Thiên Chúa- là việc không thể làm được.
4) Nếu vậy, phải khinh chê tiền bạc ư?
Đồng tiền kiếm bằng mồ hôi nước mắt, cần để sinh sống, có thể san sẻ giúp đỡ
tha nhân vì lòng thương, đồng tiền ấy không bị Đức Kitô bài xích. Đồng tiền nào
nuôi dưỡng lòng ích kỷ, gây thiệt hại cho đức công bằng, khiến cho con người
quên mất Thiên Chúa, đồng tiền ấy bị kết án trầm luân.
14. Hãy bắt đầu hơn là thế gian
(Trích dẫn từ 'Mở Ra Những Kho Tàng' -
Charles E. Miller)
Vào thời điểm này, những đội bóng rổ
chuyên nghiệp đang dự định vào vòng cuối của giải thế giới. Đặc biệt là những
đội đang bị chia rẽ thì họ đang mong chờ một cuộc trao đổi, chuyển nhượng các
cầu thủ, các đội nghĩ rằng vào mùa chuyển đổi cầu thủ này, họ có những gì họ
cần và họ có thể đạt được điều đó. Họ sẵn lòng trải qua những cuộc trả giá tiền
lương và chuyển nhượng để có được cầu thủ đó. Họ đã có một cùng loại khởi đầu
mà Chúa Giêsu đã nhắc nhở trong ngày hôm nay về người quản lý bất lương.
Phúc Âm có vẻ như muốn nói Chúa Giêsu
đã minh chứng và trình bày về vẻ bất lương của người quản lý. Một số nhà chú
thích cắt nghĩa rằng, người quản lý đã thật sự giao lại công việc của mình và
không lừa đảo chủ của mình ngay cả khi anh ta đã làm một việc có vẻ như thiệt
hại cho công việc của chủ. Người chủ đã không tỏ một dấu hiệu nào cho thấy là
ông ta bị lường gạt. Thật ra, ông đã dự định công việc của mình một cách táo
bạo và làm một sự khởi đầu.
Quan điểm của Chúa Giêsu về việc này
là: người đàn ông ở đây đã muốn bảo đảm cho tương lai của ông sau khi ông mất
việc. Ông ta không ngồi đó than khóc về số phận của mình, ông ta đã làm một
điều gì đó để tranh thủ cảm tình với những con nợ của chủ. Chúa Giêsu trong bài
Phúc Âm này thì không có ý nói về sự khởi đầu một việc kinh doanh hay là Ngài
có ý nói đến sự chuẩn bị cho chiến thắng của những đội bóng rổ chuyên nghiệp,
nhưng Ngài hy vọng rằng chúng ta sẽ để ý tới sự cứu rỗi đời đời của chúng ta.
Hơn nữa, Ngài trông đợi chúng ta hãy làm việc khó nhọc cho những giá trị thiêng
liêng như một số người đã làm và coi việc đó như là mục đích cuối cùng.
Thánh Kinh ngày hôm nay đề nghị hai
điều, mà trong đó chúng ta sẽ tăng trưởng đời sống thiêng liêng. Họ sẽ cầu
nguyện cho những người có nhu cầu và đòi sự công bằng cho người nghèo. Điều thứ
hai là một sự nối kết thân mật, bài đọc thứ hai ngày hôm nay là một trong những
nguồn mạch lời nguyện của chúng ta phải phản ảnh một bản tính rộng lớn của lời
cầu nguyện được nhắc nhở trong thư của thánh tông đồ gởi cho Timôthê. Chúng ta
cần bao gồm tất cả mọi người trong lời cầu nguyện của chúng ta, và chúng ta cần
nhấn mạnh đặc biệt đến những người nghèo, những người bị xã hội ruồng bỏ và
khinh khi.
Lời cầu nguyện phải dẫn đến hành động.
Đặc biệt là loại hành động cầu bầu như tiên tri Amos, vị tiên tri của công bằng
xã hội. Ngài đã kết án những kẻ đã dẫm đạp lên những nhu cầu và hủy diệt người
nghèo nơi quê hương. Ngài đã khuyên nhủ những người này hãy nghĩ đến mục đích
tối hậu của đời mình. Tiên tri Amos không thích quan điểm của Canvil Coolidge,
ông đã nói: Công việc của người Mỹ là công việc"". Chúng ta thì không
như vậy được. Công việc của chúng ta sẽ là chia sẻ với những người khác, những
người đang có nhu cầu, những người đang cần lời cầu bầu hơn những phê bình,
những người đang sống trong hoạn nạn và nhận biết rằng Thiên Chúa kêu gọi chúng
ta chia sẻ những khả năng và ân phúc của chúng ta cho những người khác.
Người Công Giáo phải luôn được nhận
biết như là những người sát cánh với người nghèo và những người quảng đại trong
việc giúp đỡ họ. Chúng ta được kêu gọi để trở nên một người: "Làm bạn với
những người nghèo qua việc chúng ta dùng những hàng hóa, đặc sản của thế giới
này". Chúng ta có quyền trông đợi trở nên những người mà Thiên Chúa có thể
tin tưởng để trao phó tài sản, vì chúng ta biết chia sẻ nó cho những người
khác.
Trên hết, những người Công Giáo sẽ
trình bày sự khởi đầu và táo bạo không chỉ trong lời cầu nguyện cho người có
nhu cầu, nhưng cũng vươn đến giúp đỡ họ cách tốt nhất như chúng ta có thể. Đó
là điều sẽ bảo đảm rằng chúng ta chỉ có một vị Thầy lớn lao tốt lành, một người
cha quảng đại, là Cha của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
15. Những đồng bạc lẻ
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một người Đức giàu có nọ đến nghỉ mát
tại một ngôi làng nhỏ bên cạnh bờ biển, dân chúng đa số là các ngư dân nghèo
nàn chất phác. Chiều đến người khách lạ đi vào các hàng quán để đổi tiền hầu
mua thức ăn và chi trả các thứ cần thiết. Ông vào một quán nhỏ và nhờ người chủ
quán đổi cho một tờ giấy bạc 1.000 Đức mã. Đây là lần đầu tiên người chủ quán
nhìn thấy một tờ giấy bạc to như thế. Ông lắc đầu và nói với người khách lạ:
"Với tờ giấy bạc nầy ông sẽ không mua được bất cứ cái gì ở đây. Ở đây
chúng tôi chỉ trao đổi với nhau bằng những đồng bạc nhỏ mà thôi".
Nhiều người dân làng bu lại để nhìn tờ
giấy bạc 1.000 Đức mã. Họ cười nói với nhau: "Làm gì có giấy bạc 1.000 Đức
mã". Những người đánh cá cũng đứng lại biểu đồng tình. Họ nói rằng đồng
bạc lớn nhất mà họ chỉ thấy năm ba lần trong đời là tờ 100 Đức mã. Thế là dân
làng bắt đầu nghi ngờ về thành tích bất hảo của người khách lạ. Đêm hôm đó, từ
cửa sổ của nhà trọ ông nghe có tiếng bàn tán như sau:
"Hắn ta phải là một tên bịp bợm.
Trước hết là phải tìm cách tống hắn đi khỏi làng của chúng ta".
Sáng hôm sau, trước khi mặt trời lên,
người đàn ông giàu có đã vội vã ra khỏi phòng trọ. Ông đi đến một đô thị nhỏ
cách đó gần một ngày đàng và đổi giấy bạc 1.000 Đức mã ra những đồng bạc nhỏ.
Với hai bao tiền đầy cộm, ông thuê xe trở lại ngôi làng. Lần nầy dân chúng tin
rằng ông thực sự có tiền và họ đã tiếp đón ông rất tử tế.
Người khách lạ giàu có đã xoay xở khôn
khéo và kịp thời để thoát khỏi sự nghi ngờ niềm nở tiếp đón khi ông đổi tờ giấy
bạc 1.000 Đức mã thành những đồng bạc nhỏ. Tờ giấy bạc 1.000 Đức mã của ông nhà
giàu chẳng có giá trị gì đối với dân nghèo mà còn trở nên nguy cơ cho chính bản
thân ông nhà giàu. Cũng thế, thái độ của chúng ta đối với tiền của chỉ đáng tin
cậy khi được thể hiện bằng những việc làm cụ thể của bác ái, chia sẻ cho những
người nghèo khổ và như thế chúng ta sẽ mua được nhiều bạn hữu.
Hôm nay, khi kể câu chuyện người quản
lý biết dùng tiền của để mua chuộc bạn bè, Chúa Giêsu cũng muốn kêu gọi chúng
ta hãy dùng tiền bạc mà mua lấy bạn bè, để bảo đảm cho tương lai hạnh phúc. Đây
là chuyện khéo léo xoay xở của một người quản lý bất lương. Anh đã lợi dụng cơ
hội biển thủ tiền của hoa lợi của ông chủ. Ông chủ cho đòi người quản lý tới
tính sổ và sau đó sẽ cho anh ta thôi việc. Thât là một tin bất ngờ như sét
đánh. Mất việc làm, anh sẽ đi đâu? Sinh sống như thế nào? Cuốc mướn thì không
nổi, ăn xin thì xấu hổ. Vậy chỉ còn một cách là tìm được người để nhờ vả. Anh
vội vàng gọi các con nợ của chủ đến. Anh làm ơn cho họ để sau nầy họ sẽ giúp đỡ
anh. Anh biến họ nên những kẻ đồng lõa. Và thấy lợi trước mắt, họ đã làm theo
anh.
Cứ xử như vậy, đối với chủ bất lương.
Nhưng đó là khôn ngoan theo kiểu thế gian. Chúa Giêsu khen sự khôn ngoan đó vì
Ngài thấy con cái đời nầy khôn khéo hơn con cái sự sáng. Chúa không khen các
việc làm của người quản lý kia, vì anh ta lả kẻ bất lương. Nhưng Ngài phải nhận
rằng anh ta không khéo và mau lẹ tháo vát, xoay xở. Và Ngài tỏ ra đau lòng khi
nghĩ đến phương diện Nước Trời, ở đây người ta không mau lẹ và khôn khéo như
vậy: Chúa Giêsu đã đem ơn cứu độ đến qua lời giảng dạy và gương sáng của Ngài,
nhưng sao người ta hững hờ và chậm chạp đến như vậy! Người ta không lanh lẹ mau
trí xoay xở đối với Nước Trời như người quản lý bất lương kia mau trí lanh lẹ
xoay xở đối với việc ở đời nầy. Đó là điều đau lòng và đáng trách!
Nhưng nếu muốn lanh trí, khôn khéo xoay
xở đối với Nước Trời thì phải làm gì? Và đây là điểm chủ yếu của Tin Mừng hôm
nay.
Phải bắt chước anh quản lý trong việc
khôn khéo tìm cách bảo đảm cho tương lai của mình. Anh quản lý tìm bảo đảm
tương lai ở đời nầy, còn con cái sự sáng phải tìm bảo đảm tương lai ở đời sau.
Vậy phải làm gì? Tiền của đời nầy có giúp ích được gì không? – Có chứ! Hãy dùng
tiền của mà mua sắm kho tàng cho mình ở trên trời mai ngày, nơi không có mối
mọt đục khoét và không trộm cướp nào lấy mất được (x. Mt 6,19-21). Ngược lại,
nếu chỉ dùng tiền mà tích trữ cho riêng mình ở đời nầy, thì như có lần Chúa đã
nói: "Khốn cho kẻ ngu ngốc như vậy, vì khi chết y có thể mang theo được
ghì không?" (Lc 12.16-21).
Nhưng thế nào là dùng tiền của để mua
sắm kho tàng cho mình ở trên trời?
Theo giáo huấn của Chúa và như các kitô
hữu tiên khởi đã thi hành, thì của cải vật chất được ký gởi cho chúng ta không
phải để chúng ta giữ làm của riêng và coi nó như thần tượng để tôn thờ, nhưng
là để chúng ta san sẻ với anh em, làm cho không ai còn thiếu thốn. Tất cả vất
đề nằm trong quan điểm nầy. Người ta phải lựa chọn: hoặc là coi tiền của hoặc
là coi nó như của ký gởi để san sẻ giúp đỡ nhau. Nói cách khác, hoặc coi tiền
của như thần tượng để tôn thờ, hoặc coi tiền cả như phương tiện để xây dựng
hạnh phúc chung cho mọi người.
Cũng như ngôn sứ Amos (Bđ.1), Chúa
không chấp nhận được thái độ tham lam tiền của, chỉ biết làm giàu cho mình và
không sợ bóc lột người khác. Và tham lam như vậy là chứng tỏ đã coi tiền của là
thần tượng, là một thứ tôn giáo. Đúng như lời Chúa dạy: "Không thể làm tôi
Thiên Chúa và tiền của được".
Tiền của, vàng bạc là những thứ đem lại
giàu sang, sung sướng, nhưng cũng là nguyên do của những phản bội, tráo trở,
thất nhân thất nghĩa, bôi đen lòng người. Vì thế, người Kitô hữu xác tín có một
đời sau, có một kho tàng thực đang chờ đón chúng ta, chúng ta không thể chấp
nhận và sống theo tôn giáo thờ Thần Mammon-ngày nay là Thần Đô-la - tôn đồng
tiền làm thần tượng, coi đồng tiền là tất cả, là vạn năng.
Chúng ta hãy đặt tiền bạc trở về đúng
vị trí của nó là một tên nô lệ chứ không phải là một chủ nhân ông thì mới hy
vọng có một thái độ, một cách cứ xử đúng mức đối với tiền của trong tương quan
với tha nhân. Với lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu qua dụ ngôn hôm nay, chúng ta
hãy kiểm điểm lại thái độ của mình, đồng thời thành khẩn xin Chúa ban cho chúng
ta một nghị lực dứt khoát và can đảm để luôn chế ngự được hấp lực của đồng
tiền, biết cách sử dụng tiền bạc, của cải trần gian cho tình thương yêu, bác ái
và chia sẻ. Như thế là chúng ta gởi vào kho tàng bất diệt trên trời.
Hãy đầu tư tất cả cho cuộc sống mai
sau. Hãy hướng tất cả mọi sự vào cùng đích của cuộc sống. Hãy coi trọng con
người hơn tiền bạc của cải và trong tình bạn hơn sự giàu sang phú quý. Bởi vì
cái gì sẽ tồn tại mãi mãi? Không phải là tiền bạc hay giàu sang mà là tình bạn
của con người. Hãy cư xử thế nào để ngày sau luôn có đông đảo bạn hữu chân
thành đón rước chúng ta và Cửa Trời hạnh phúc.
16. Bản năng - McCarthy
Nhiều loài chim có một bản năng quay về
nhà rất mạnh mẽ. Những con chim hải âu ở xứ Manx là một ví dụ hay. Người ta bắt
một con ở xứ Wales và đeo vòng cho nó, rồi đem nó đến Boston, cách đó ba ngàn
dặm và thả nó ra. Hai tuần lễ sau, nó bay trở về xứ Wales tại chính nơi mà nó
bị bắt. Bản năng quay về nhà (hướng về quê hương) cũng có nơi con người – không
chỉ theo ý nghĩa thể chất. Con người đã biết quay về nhà sau những kinh nghiệm
đau thương, không chỉ về ngôi nhà cũ của mình, mà về bản thân khi xưa của mình.
Họ quay về để thu nhặt những mảnh vụn của cuộc đời họ trước đây. Bản thân bẩm
sinh của họ hầu như bị thương tổn. Dĩ nhiên, có những người trở về khi đã trở
nên giàu có.
Nhà văn Ý Primo Levi đã sống qua một
năm ở Auschwitz. Ông là một trong ba người trên chuyến tàu trở về so với con số
123 người ra đi. Sau này ông nói: "Nếu tôi không vào một nơi như thế, có
lẽ tôi sẽ sung sướng hơn và thanh thản hơn, nhưng tôi không phong phú như thế
này". Dĩ nhiên ông không nói về tiền bạc.
Nói chung bản năng quay về nhà mình là
một yếu tố tích cực. Tuy nhiên, nó cũng có thể tiêu cực. Sự thôi thúc quay về
nhà mình cắt đứt những cơ hội tốt và khả năng tốt và làm cho việc canh tân đời
sống trở nên khó khăn và vất vả. Người ta buộc phải quay về khi muốn giũ bỏ đời
sống nông cạn và tầm thường hoặc cả đời sống lỗi lầm và tội ác. Chúng ta thấy
một ví dụ nơi người quản gia trong câu chuyện của Đức Giêsu. Khi anh ta bị cho
nghỉ việc, lẽ ra đó phải là thời điểm nhục nhã và đau đớn cho anh ta. Nhưng đó
cũng là một thời điểm cứu chuộc. Bởi vì nó chỉ cho anh ta thấy thực tại bất
lương của cuộc đời anh ta và có thể trở thành một khúc quanh trong cuộc đời anh
ta. Nhưng điều gì đã xảy ra? Anh ta vẫn tiếp tục đi theo con đường bất lương
trước đây của mình, không hề có một thay đổi nhỏ nào trong tính cách của anh
ta.
Hoặc bản năng quay về nhà mình là một
sự hỗ trợ hoặc là một trở lực thì nó còn tùy thuộc vào cái nhà chân thực của
mình nằm ở đâu. Những người quen sống trong ánh sáng sẽ quay về ánh sáng. Nhưng
những người quen sống trong bóng tối thì hầu như quay về với bóng tối.
Một cây có bộ rễ vững chắc và mọc thẳng
sẽ trở lại bản chất cũ đứng thẳng của nó sau khi cơn bão đã đi qua, còn một cây
có thân vặn vẹo trở lại bản chất vặn vẹo của nó. Khi chúng ta làm tổn thương
đến sự chính trực của mình, chúng ta không làm mất nhân tính của mình, nhưng
chúng ta đánh mất ý thức về sự nguyên vẹn, ý thức về mình lúc nào cũng là một
con người như thế.
Đức Giêsu không lấy người quản gia xấu
xa làm một gương mẫu. Người nói rằng con cái của ánh sáng có thể học đôi điều
từ con cái của bóng tối. Những người xấu thì khéo léo, theo đuổi một mục đích,
sẵn sàng hy sinh để hoàn thành những mục tiêu xấu xa của họ. Những người tốt
lành, trái lại thường chỉ ngồi đó không làm gì. Và kẻ xấu sở dĩ thắng thế chỉ
vì người tốt không chịu làm gì.
17. Tiền bạc - McCarthy
Lòng tham tiền bạc đã đưa nhiều người
đến chỗ suy sụp. Hầu như ngày nào trên báo chí chúng ta đều đọc thấy một vài
viên chức cấp cao, hoặc một vài nhà điều hành cấp cao bị buộc tội tham nhũng.
Một trong những trường hợp nghiêm trọng gần đây là Nicholas Leeson, người đã
làm sụp đổ một đế quốc ngân hàng – Ngân hàng Barings ở Luân Đôn.
Là con trai của một người thợ hồ ở vùng
Watford ngoại ô Luân Đôn, Leeson chưa từng học đại học. Ông ta làm việc ở ngân
hàng Barings như một nhân viên bình thường nhưng nhanh chóng lên chức và được
giao phụ trách việc kinh doanh tại Ngân hàng Singapore. Ông ta làm việc vất vả
và có rất nhiều tham vọng. Tiền lương hàng năm của ông ta là 350.000 quan cùng
với những món tiền thưởng khổng lồ.
Nhưng ông ta vẫn không thỏa mãn. Ông
bắt đầu mua bán các nguồn tài chính. Lúc đầu ông ta đem lại cho ngân hàng những
khoản lời lớn. Càng ngày ông ta càng trở nên tham lam. Ông lén lút thực hiện
những giao dịch tài chính không cho các ông chủ biết. Sau cùng ông đã thực hiện
những vụ đầu cơ lớn không có tiền trả nổi và làm cho toàn bộ ngân hàng bị phá
sản.
Trong những hoàn cảnh như thế, người ta
trả giá cho việc làm sai lầm trong tiền bạc những cái còn quí giá hơn tiền bạc.
Họ trả giá bằng sự đánh mất lòng tự trọng, nhân phẩm và niềm hy vọng. Dĩ nhiên,
lúc nào cũng có một cơ may được trả tiền bởi việc bán một câu chuyện của mình
cho một bài báo. Nhưng ở đây cũng thế, có cái giá phải trả. Bất cứ nhân phẩm
nhỏ nhoi nào mà người ta trước đây, sau này người ta cũng sẽ mất hết.
Leeson làm chúng ta nhớ đến đôi điều về
dụ ngôn của người quản gia. Xem ra người quản gia giống với Leeson đã bị tiền
bạc làm cho hư hỏng. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà tiền bạc được coi
là quan trọng nên nó cũng dễ dàng trở thành thần linh của chúng ta. Chúng ta có
thể đặt nó đứng trước tính lương thiện, công bằng và trước cả đời sống gia
đình. Người ta đã bị tiêm nhiễm bởi não trạng càng có nhiều tiền càng tốt. Một
con người bình thường trở nên mù mờ đến nỗi không còn nhìn thấy điều gì thật sự
quan trọng nữa.
Ngôn sứ A-mốt đã lên án những người
phục vụ Chúa bằng môi miệng trong ngày sa-bát nhưng bóc lột người nghèo những
ngày khác trong tuần. Đức Giêsu nói chúng ta không thể phục vụ Thiên Chúa lẫn
tiền bạc. Bạn cũng không thể phục vụ những người khác lẫn tiền bạc.
Một lần kia có một người giàu có nhưng
keo kiệt đến gặp vị giáo trưởng của ông và xin giáo trưởng ban phép lành cho
ông. Vị giáo trưởng đón tiếp ông nhà giàu một cách thân thiện và đưa vào phòng
khách. Rồi giáo trưởng dẫn ông đến cửa sổ nhìn xuống đường phố và nói:
"Ông hãy nhìn ra kia và nói cho tôi biết ông thấy gì".
"Tôi thấy người ta đi qua, đi
lại", ông nhà giàu đáp.
Rồi giáo trưởng đem ông ta ra khỏi cửa
sổ, dẫn ông ta đến trước một tấm gương to và nói: "Ông hãy nhìn vào tấm
gương này và ông thấy gì".
"Tôi thấy chính tôi", ông nhà
giàu đáp.
"Thế đấy, ông bạn, hãy để tôi giải
thích ý nghĩa điều ấy cho ông. Cửa sổ làm bằng kính cũng giống như tấm gương
này. Tuy nhiên, kính của tấm gương có tráng lên một lớp bạc. Khi ông nhìn qua
kính thường, ông thấy người khác. Nhưng khi ông tráng bạc, ông không còn thấy
người khác nữa mà chỉ thấy chính ông. Khi ông chỉ quan tâm đến tiền bạc, ông
không còn thấy người khác nữa mà chỉ thấy chính ông".
Chúng ta không tìm thấy sự thỏa mãn và
ý nghĩa cuộc sống trong của cải. Nhưng khi chúng ta sốt sắng phục vụ người
khác, điều này đem lại cho chúng ta mục đích và ý nghĩa cuộc đời. Cho người
khác là điều làm cho chúng ta cảm thấy mình sống mãi.
"Tiền bạc có thể mua vỏ ngoài của
các sự vật nhưng không thể mua mua cái cốt lõi của chúng. Nó đem đến cho bạn
thức ăn nhưng không đem đến sự ngon miệng; thuốc men nhưng không phải sức khỏe,
sự quen biết nhưng không phải bạn bè, tôi tớ nhưng không phải lòng trung tín,
những ngày đầy lạc thú nhưng không phải sự bình an và hạnh phúc". (Henrik
Ibsen)
18. Tên quản lý khôn khéo
Nghe xong dụ ngôn này chúng ta không
khỏi thắc mắc tại sao Chúa Giêsu lại khen ngợi một kẻ xấu xa và bảo chúng ta
nên bắt chước cách xử sự của hắn. Và nếu để ý chúng ta sẽ nhận thấy không phải
chỉ lần này mà còn trong nhiều lần khác, Chúa Giêsu đã đề cập tới cách thức cư
xử của người xấu kẻ ác:
Chẳng hạn như khi so sánh việc phân xử
của Thiên Chúa với một ông quan tòa bất chính, hoặc bảo chúng ta phải khôn
ngoan như con rắn. Dĩ nhiên Chúa không bảo chúng ta noi theo lối sống bất công,
hung dữ, xảo trá và lừa đảo, nhưng Chúa chỉ nói tới sự khéo léo của tên quản lý
này mà thôi.
Điều chính yếu là bài học mà Ngài nhằm
tới: Hãy khéo léo phục vụ nước trời như con cái thế gian phục vụ các công việc
của họ. Từ đó Chúa đưa chúng ta sang việc xử dụng tiền của cho phải phép. Tên
quản lý được nói tới ở đây là một người quan trọng, giữ chức vụ lớn trong một
nông trại, hắn được chủ trao phó cho việc xử dụng gia tài, nhưng hắn phải làm
theo ý chủ. Việc phung phá tiền bạc là điều trái với ý chủ và phải được điều
chỉnh lại.
Ở đây, chủ không còn tín nhiệm hắn nữa
vì hắn bị tố là kẻ bất lương, gian trá, lừa đảo và không đán tin cậy nữa. Trước
sự kiện xảy ra, hắn đã suy nghĩ về tương lai và đã đưa ra những tính toán khéo
léo. Hắn tỏ ra mình là một kẻ khéo làm, khéo xoay sở cả về phương diện tốt lẫn
phương diện xấu. Chính sự khéo léo này lại làm cho hắn thêm bất lương hơn. Hắn
giảm số nợ của những người vay mắc ông chủ: một trăm thùng dầu thì chỉ còn phải
trả năm mươi thôi. Một trăm giạ lúa thì chỉ còn phải trả tám mươi thôi. Từ lề
lối hành động của tên quản lý bất trung, Chúa nhận xét về thái thế nhân tình:
- Con cái đời này khi đối xử với đồng
loại thì khôn ngoan hơn con cái sự sáng.
Con cái đời này là những kẻ chỉ biết
đến cuộc sống hiện tại và hoạt động nhằm đến những của cải vật chất mà thôi.
Trái lại, con cái sự sáng là những người đón nhận tinh thần của Chúa, con cái
đời này đã xử dụng mọi cách thức để đạt tới mục tiêu, vậy con cái sự sáng cũng
phải biết xử dụng sự vật đời này một cách khôn khéo để chiếm lấy niềm hạnh phúc
nước trời.
Một sự vật đời này gần gũi và căn bản
nhất, đó là tiền của. Tiền của, nếu không biết xử dụng, nó sẽ trở nên một ông
chủ hà khắc, bóp chết những tình cảm kính mến đối với Thiên Chúa và yêu thương
đối với tha nhân.
Trái lại, nếu biết xử dụng đúng mực, nó
sẽ đem lại nhiều lợi ích, chẳng hạn dùng tiền của để làm phúc bố thí cho kẻ
nghèo, để tạo lấy những người bạn chân thành, một mai sẽ bênh vực cho chúng ta
trước ngai tòa của Chúa.
Đằng khác, tiền của còn là một vật trắc
nghiệm lòng trung tín của các môn đệ đối với Chúa. Căn cứ theo cách thức xử
dụng để biết các ông là những người trung tín hay phản bội, chân thành hay gian
dối, vì ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng trung tín trong việc lớn, ai gian
dối trong việc nhỏ thì cũng gian dối trong việc lớn. Vậy nếu các con không
trung thành trong việc tiền của gian dối, thì ai sẽ trao phó của chân thật cho
các con...
Nên nhớ rằng, chúng ta chỉ là những
người quản lý, còn Chúa mới là chủ. Vậy chúng ta phải biết xử dụng tiền bạc và
những phương tiện vật chất cho phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Để kết luận, tôi xin nhắc lại nơi đây
một câu danh ngôn Tây phương, như một lời khuyên trong vấn đề xử dụng tiền bạc:
- Tiền bạc là một tên đầy tớ tốt, nhưng
cũng là một ông chủ hà khắc.
19. Hai chủ
Bài đọc I của Chúa nhật hôm nay được
trích từ sách tiên tri Amos và bài Tin Mừng trình bày cho chúng ta hai mẫu
người, hai nếp sống trái ngược nhau. Mẫu sống của con cái thế gian, tức là con
cái của sự tối tăm và mẫu người sống của những con cái Thiên Chúa, con cái sự
sáng. Nếp sống của con cái thế gian, những kẻ làm nô lệ cho của cải vật chất,
tôn thờ tiền tài được nhắc đến nơi bài đọc I. Họ muốn đề cao tiền tài và coi
thường tha nhân, chỉ nghĩ đến việc buôn bán kiếm lợi.
Trong ngày nghỉ, ngày dành cho Giavê
Thiên Chúa thì họ không nghỉ ngơi mà âm mưu làm sao để khi ra bán hàng họ sẽ
kiếm lợi thêm nữa, nên họ dùng thời gian nghỉ lễ, dùng ngày của Chúa để giảm
lường đong, tăng giá, làm cân giả. Họ là những con người chỉ nghĩ đến tiền bạc lợi
lộc.
Mẫu sống của con cái thế gian còn được
làm nổi bật hơn nữa trong bài Phúc âm kể về dụ ngôn người quản lý bất trung,
mánh mung, phung phí tài sản của chủ để làm lợi cho bản thân. Trong cuộc đời,
họ chỉ nhận điều gì làm lợi cho họ mà thôi, do đó Thiên Chúa không còn trong tư
tưởng, trong tâm hồn, trong nếp sống của họ nữa.
Kể lại dụ ngôn về người quản lý bất
trung này, Chúa Giêsu không có ý đề cao nếp sống của người quản lý bất trung
cho các môn đệ noi theo, nhưng là để cảnh tỉnh các môn đệ qua một lời trách
khéo: "Con cái thế gian khôn lanh hơn con cái sự sáng". Chúa có ý
cảnh tỉnh các môn đệ của Ngài không được ù lì làm biếng và thụ động. Con cái
thế gian tìm đủ mọi cách để có danh vọng, làm sao giây phút hiện tại có lợi cho
tương lai sắp đến, và để đạt đến mục tiêu này họ không ngại dùng những thủ đoạn
mánh mung để làm lợi cho mình.
Phần Chúa Giêsu, Ngài nhắc khéo cho các
môn đệ như sau: "Chúng con không được làm tôi hai chủ, tức là vừa làm tôi
Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của". Môn đệ Chúa cần dứt khoát chọn Chúa,
sống theo giáo huấn của Ngài với hết sức dấn thân và nhiệt tâm. Cần phải chọn
Thiên Chúa trước hết và mọi sự khác như của cải vật chất hoặc ngay cả mạng sống
cũng cần phải sử dụng theo mục tiêu là để giúp chiếm đoạt được Chúa, đạt được
cùng đích cuối cùng của đời sống con người: "Được lời lãi cả thế gian mà
mất linh hồn nào được ích gì, người ta lấy gì mà đổi được linh hồn mình".
Hãy tìm nước Thiên Chúa trước và tìm
với hết sức mình, hết sức nhiệt tâm, hết nghị lực và hết tinh thần, không được
ù lì thụ động. Phải ước mong Chúa làm khát vọng duy nhất cho cuộc đời mình.
Thiên Chúa muốn chúng ta làm người quản lý tốt của cải, dùng hết khả năng Chúa
ban để làm sinh lợi những khả năng, những nén bạc Chúa trao cho, sao cho sáng
danh Chúa và mưu ích cho anh chị em.
Trong dụ ngôn được Chúa Giêsu kể và ghi
lại nơi Phúc âm thánh Luca hôm nay chúng ta nhận thấy rằng, người quản lý xấu
dùng tài trí của mình và tiền của của chủ để tạo ra bạn bè mới. Liên kết với
của cải trong mục đích hưởng lấy những lợi lộc trần gian, đó là lối hành xử của
con cái thế gian. Con cái sự sáng cần phải có lòng hăng say, sử dụng tốt những
gì Chúa ban cho để làm cho đời sống con người được cứu rỗi, được nâng cao, xứng
đáng với phẩm vị làm con cái Thiên Chúa.
Nếu sống vì tiền bạc, danh vọng, tìm
cách lạm dụng và khử trừ người nghèo, tránh xa người nghèo, làm như thế là họ
không phải là con người, không phải là con cái Thiên Chúa nữa. Bởi vì, con cái
sự sáng không bao giờ được làm như vậy. Ngược lại, họ cần phải sử dụng tài năng
Chúa ban, kể cả của cải vật chất để làm sáng danh Chúa và mưu ích cho anh chị
em, phục vụ kẻ nghèo chứ không loại trừ người nghèo.
Người quản lý tốt không lợi dụng cũng
không phung phá tài sản của chủ: "Ai trung tín trong việc nhỏ thì cũng
trung tín trong việc lớn". Trong tất cả mọi sự hãy tìm gặp Chúa trước hết.
Chính trong viễn tượng này mà chúng ta nhớ lại lời cầu nguyện sau đây được
trích lại trong sách giáo lý mới: "Lạy Chúa, xin ban cho con tất cả những
gì giúp con đến gần Chúa. Xin hãy cất khỏi con tất cả những gì làm con xa Chúa.
Xin hãy giải thoát con khỏi cái tôi ích kỷ, tham lam tiền của để con biết dâng
toàn thân cho Chúa". Chúng ta hãy cầu nguyện như vậy hằng ngày và xin Chúa
giúp chúng ta sống được như vậy để luôn trung thành với đức tin vào Chúa.
20. Tiền của
Dụ ngôn của bài Tin Mừng khá dí dỏm và
linh động, kể chuyện một người quản lý đang đứng trước một tương lai đen tối:
sắp bị đuổi việc, nên ông ta đã nghĩ ra một kế hoạch rất khôn khéo, có thể nói
là láu cá, mánh mung hay gian xảo để thủ lợi khi thất nghiệp sẽ có người trả ơn
mình, giúp đỡ mình. Khi kể dụ ngôn này, Chúa Giêsu không có ý dạy chúng ta gian
xảo như người quản lý ấy, nhưng Chúa muốn chúng ta phải nhanh trí khôn, biết
ứng phó kịp thời với hoàn cảnh, nhất là tìm được những bảo đảm cho tương lai,
mà tương lai quan trọng nhất là cuộc sống đời sau. Vì thế, sau khi kể xong dụ
ngôn, Chúa Giêsu đã đưa ra những giáo huấn của Ngài về vấn đề tiền của.
Tất cả những tiền của trần gian chỉ là
những thứ vô tri giác, Thiên Chúa ban cho con người hưởng dùng để xây dựng,
thăng tiến mức sống, đồng thời phát triển tình người, liên kết yêu thương. Nên
tiền của trần gian chỉ là một thứ trung gian, là phương tiện con người phải
biết sử dụng cho đúng, hợp tình hợp lý, khôn khéo và hữu ích để được ấm no, hạnh
phúc ở đời này và nhất là để đạt tới kho tàng đích thực là Nước Trời.
Tiền của, vàng bạc là những thứ đem lại
giàu sang, sung sướng nhưng đồng thời cũng là nguyên do những phản bội, tráo
trở, thất nhân, thất đức, bôi đen lòng người, như câu trong sách nho:
"Hoàng kim hắc thế tâm". Nhưng trong thực tế, thường con người lại có
những quan điểm trái ngược, đề cao giá trị đồng tiền, coi đồng tiền là tất cả,
là vạn năng:
- Có tiền mua tiên cũng được.
- Tiền không chân xa gần đi khắp.
- Có tiền chán vạn người hầu.
- Có bấc có dầu chán vạn người khêu.
- Mạnh vì gạo, bạo vì tiền...
Shakespeare cũng đồng ý rằng:
"Tiền đi trước thì mọi con đường đều rộng mở".
Hoặc như tục ngữ Pháp có câu: "Một
người không tiền là một con sói không răng". Ngày nay người ta nói:
"Đồng tiền là tiên là phật. Là sức bật của thanh niên. Là sức khỏe của
tuổi già. Là cái đà của danh vọng. Là cái lọng để che thân".
Tuy nhiên, trên đây chỉ là những nhận
định phiến diện về giá trị của đồng tiền. Những quan niệm xuất phát từ những
giao tế, những công ăn việc làm do thiếu đồng tiền, cũng có thể do những yếu tố
khác, nhưng người ta không nhận ra mà phải đón nhận những tráo trở, thất bại, ê
chề. Nhưng còn trường hợp con người sa đọa, tội lỗi, hư hỏng, vì dưa thừa tiền
bạc, phủ phê vật chất thì sao? Hoặc những gia đình giàu có nhưng sống ngột
ngạt, bất hòa thường xuyên, chúng ta giải thích thế nào? Bởi vì tiền là bạc.
Bạc không chỉ là một loại quí kim, mà còn có nghĩa là bạc bẽo, bạc tình, bạc
nghĩa. Vì tiền mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất bạn hữu, mất họ hàng.
Nguyễn Du trong thi phẩm Kim Vân Kiều đã phải thú nhận: "Trong tay đã sẵn
đồng tiền, dẫu lòng đổi trắng thay đen khó gì". Nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm
cũng chua xót nói rằng: "Còn tiền, còn bạc, còn đệ tử. Hết cơm hết gạo,
hết ông tôi".
Cho nên, đầy đủ và trung thực nhất,
phải là một nhận định hai chiều: "Tiền bạc chỉ là tên đầy tớ tốt, chứ
không thể là ông chủ tốt được". Và xa hơn, hỏi rằng đau khổ, cái chết,
đồng tiền có chiến thắng được không? "Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng. Thác
xuống âm phủ chẳng mang được gì". Vì thế, là những Kitô hữu xác tín có một
đời sau, có một kho tàng đích thực đang chờ đón, chúng ta có thể chấp nhận và
sống theo châm ngôn: "Đồng tiền là vạn năng"? Cũng bị ràng buộc, nô
lệ cho đồng tiền không?
Chúng ta hãy đặt tiền của trở về đúng
vị trí, khả năng của nó, chứ đừng phóng đại lên thì mới hy vọng có một thái độ,
cách cư xử đúng mức đối với tiền của trong tương quan với tha nhân. Vấn đề vô
cùng phức tạp và qui mô. Ở đây, chúng ta thử nêu vài nhận xét, ví dụ nho nhỏ trong
phạm vi gia đình. Kinh nghiệm cho thấy trong gia đình, thường xuyên xảy ra
những cãi cọ, xích mích chỉ vì mất mát, hư hỏng, những chia sẽ không đều. Vì
tiền bạc, vợ chồng xào xáo lẫn nhau. Vì tiền bạc, anh em xa cách nhau do cha mẹ
phân biệt đứa này làm nhiều tiền, đứa kia làm ít tiền. Ra đến xã hội, vấn đề
còn phức tạp hơn nhiều. Không lạ gì mà người ta cứ quay cuồng lên vì đồng tiền,
sẵn sàng làm tất cả vì đồng tiền. Tiền của đã trở thành một cực hút rất mạnh
như một khối nam châm khổng lồ, bề thế như một vị chúa tể dõng dạc ngự trị trên
trái tim mù quáng của con người. Chính trong bối cảnh như thế mà lời Chúa đã
vang lên thức tỉnh lòng người: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa
vừa làm tôi tiền của được". Phải lựa chọn một trong hai.
Qua lời Chúa dạy hôm nay, chúng ta hãy
kiểm điểm lại thái độ của mình: chúng ta kiếm tiền của như thế nào? Chúng ta
chi tiêu tiền bạc như thế nào? Đồng thời thành khẩn cầu xin Chúa ban cho chúng
ta một nghị lực dứt khoát và can đảm để luôn chế ngự được hấp lực của đồng
tiền, biết cách sử dụng tiền bạc của cải trần gian để đem lại ấm no, hạnh phúc
đời này và cả đời sau nữa.
21. Tính cách
Người quản gia trong câu chuyện của Đức
Giêsu không đáng tin cậy và bất lương. Rõ ràng có những lúc anh ta hoàn toàn
như thế. Có lẽ bắt đầu là những việc bất lương nhỏ, nhưng dần dần trở thành một
cách sống. Anh ta phải biết rằng mình sống trong nguy hiểm. Nhưng anh ta tránh
né được sự phán xét của dư luận và của bản thân một thời gian dài. Tuy nhiên,
dù có quỷ quyệt, anh ta cũng có lúc bị phát hiện và ông chủ của người quản gia
bắt anh ta phải tính sổ.
Đây quả là một thời điểm rất nhọc nhằn
và đau đớn cho quản gia. Anh ta không chỉ mất việc làm mà còn mất danh tiếng,
anh ta rước lấy xấu hổ và sỉ nhục cho mình và gia đình mình nếu anh có một gia
đình. Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm của chân lý và sự thật được tiết lộ. Nó
cho anh ta một cơ hội để bỏ lại sau lưng mình ảo tưởng và dối trá. Do đó, thời
điểm ấy có thể là một khúc quanh trong cuộc đời anh ta.
Nhưng điều gì đã xảy ra? Anh ta không
học hỏi được gì từ điều đó. Cả sau khi bị cho thôi việc, anh ta tiếp tục sống
theo con đường bất lương trước đây. Không hề có một thay đổi nào dù rất nhỏ
trong tính cách của anh ta. Không hề có vết trầy xước nào trên bộ áo giáp của
anh ta. Anh ta từ chối nhận lãnh trách nhiệm về loại người mà anh ta đã trở
thành.
Thay đổi thói quen của một cuộc đời rất
khó. Dostoevsky nói: "Nửa sau của cuộc đời một người thường được tạo thành
bởi những thói quen được thủ đắc trong suốt nửa đầu của cuộc đời ấy". Đây
là một tư tưởng hay nhưng đáng sợ.
Dường như đến một lúc nào đó trong cuộc
đời chúng ta khi thể chất quí giá mà chúng ta được tạo thành đã trở nên khô
cứng và chai đá đến nỗi từ lúc đó trở đi chúng ta không thể đảm nhận một hình
thể mới. Con người bất lương vẫn cứ bất lương mãi cho đến cùng. Con người tham
lam sẽ cứ tham lam mãi cho đến cùng. Một minh họa.
Một lần kia, một người thánh thiện vừa
đi dạo trong rừng vừa giáo huấn các môn đệ. Ông chỉ vào một cây sồi con và yêu
cầu một môn đệ nhổ nó lên. Dù với sự giúp đỡ của tất cả các bạn, anh ta cũng
không thể nhổ lên được.
Và ông thầy kết luận: "Những đam
mê và các thói quen cũng thế. Lúc ban đầu, trước khi chúng đâm rễ sâu xuống,
người ta dễ dàng trừ khử chúng. Nhưng nếu chúng ta để cho chúng đâm rễ sâu rồi,
thì hầu như chúng ta không thể thoát khỏi chúng".
Điều đó hầu như đã xảy đến với người
quản gia trong câu chuyện của Đức Giêsu. Anh ta đã quá quen với cách sống bất
lương đến nỗi không thể thay đổi được. Tuy nhiên, điều gì chúng ta không thể
làm được trở thành có thể với sự giúp đỡ của ân sủng Thiên Chúa.
Trong khi câu chuyện cho chúng ta thấy
sự nguy hiểm của thói quen xấu nó cũng chỉ ra tầm quan trọng của việc hình
thành những thói quen tốt. Bởi lẽ sự bất lương cũng có thể trở thành một cách
sống như sự lương thiện. Sự lương thiện có thể trở thành tập quán, tự phát và
bản tính thứ hai.
Làm thế nào để một người đạt đến tình
trạng hạnh phúc ấy? Nó không thể được hoàn thành trong một sớm, một chiều. Nó
phải được học tập và thực hành lâu dài. Nó không hoàn thành bởi một ít công
trình vĩ đại nhưng bằng nhiều công việc nhỏ. Phần thưởng thật sự cho một việc
làm tốt là nó làm cho việc làm tốt kế tiếp sau đó được dễ dàng hơn. Mỗi hành
động nhỏ của ngày thường tạo nên hoặc không tạo nên tính cách.
22. Khôn ngoan đích thực - Lm. Phạm
Thanh Liêm
Có người khôn "lỏi". Có người
khôn mà không "ngoan", khôn mà không được người khác thương. Có người
ngây thơ như thể là dại, nhưng lại được nhiều người thương. "Ai khôn thời
dại, ai dại thời khôn". Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu?
Khôn theo kiểu thế gian
Người quản lý trong dụ ngôn Đức Yêsu
kể, thật là khôn theo kiểu thế gian. Anh ta toan tính và cư xử rất khéo và có
lợi cho anh ta. Anh ta được lợi ngay trước mắt, sẽ được người ta đón tiếp một
khoảng thời gian nào đó; nếu tiếp tục để tồn tại, anh ta phải toan tính làm
những điều không lương thiện tương tự, để có thể sống mà không cần phải làm
việc. Nhưng, anh ta có thật sự hạnh phúc không? Một người lương thiện có thể
coi anh ta là người bạn chân thành không? Nếu tất cả mọi người đều lợi dụng lẫn
nhau, và khi không còn lợi cho mình nữa, thì chấm dứt mọi tương quan. Nếu cuộc
sống chỉ là vậy, có chi là hạnh phúc!
"Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết
cơm hết gạo hết ông tôi". Những người khôn kiểu này, người Việt Nam mình
gọi là khôn lỏi, khôn mà không ngoan, khôn mà dại. Có nhiều người trong cuộc
sống, vẫn chọn và hành xử theo kiểu khôn ngoan này. Họ vẫn chọn tiền bạc, mua
bán đổi chác trong mọi chuyện, kể cả tình yêu. Có nhiều bậc cha mẹ vô tình hay
hữu ý vẫn khuyến khích con mình khôn ngoan theo kiểu "dại" như vậy.
Khôn ngoan đích thực
Người khôn ngoan đích thực, phải là
người thấy được điều lợi không phải ngay lúc này, nhưng còn cả ở tương lai xa
nữa. Thứ ba vừa qua khủng bố đã xảy ra ở New York làm chết trên dưới năm ngàn
người. Sống trong một nước văn minh, con người làm chủ những luật lệ thiên
nhiên, biết thời tiết nắng mưa, nóng lạnh gần như chính xác, thấy được những
biến chuyển của những cấu trúc và thiết bị nhân tạo. Con người gần như cảm thấy
an toàn, làm chủ tất cả. Biến cố ngày 11 tháng 9 năm 2001, làm con người run
sợ. Cái chết có thể xảy đến bất cứ lúc nào. Con người run sợ trước sự dữ con
người làm cho nhau. Sự khôn ngoan đích thực hệ tại đâu? Được gì nếu cái chết
xảy đến ngay cả khi mình giầu sang quý phái nổi tiếng? Ở trên ngôi nhà cao, nổi
tiếng, vẫn là điều làm người ta vinh dự; lúc tai nạn xảy ra, toà nhà nổi tiếng
đó trở thành mối hoạ, sống trên đó lại là cái hại khủng khiếp.
Khôn chết, dại chết, biết cũng chết. Sự
khôn ngoan đích thực không phải chỉ toan tính cho ở đời này. Nếu chết là hết,
toan tính ở đời này là đủ; nhưng chết không phải là hết, mà là khởi đầu một đời
sống mới vĩnh cửu, mà nếu không chuẩn bị cho cuộc sống đó, mà chỉ lo cuộc sống
đời này, thì quả là dại. Khôn ngoan đích thực, là sống theo luật yêu thương của
Đức Yêsu trong cuộc sống thường ngày. Khôn ngoan đích thực, làm con người sống
hạnh phúc trong đời sống mai hậu và ngay trong cuộc sống này.
Thiên Chúa muốn mọi người được cứu độ
Thiên Chúa là Đấng muốn mọi người được
cứu độ và nhận biết chân lý. Thiên Chúa muốn mọi người nhận biết Ngài yêu
thương con người, để khi nhận biết Ngài yêu thương con người, con người được tự
do và hạnh phúc. Thiên Chúa không muốn sự dữ, không muốn con người đau khổ.
Đau khổ và sự dữ do con người gây ra
cho nhau. Biến cố cướp máy bay và cố tình gây ra thật nhiều cái chết, làm nhiều
người đau khổ. Và sự dữ này kéo theo sự dữ khác, chẳng hạn muốn báo thù, muốn
hủy diệt sự dữ bằng sự dữ khác.
Khôn ngoan đích thực, là chính thái độ
sống yêu thương mà Đức Yêsu đã dạy con người bằng chính cuộc sống của Ngài. Sự
khôn ngoan đích thực không phải là bài học lý thuyết con người có thể học được
trong vài phút, nhưng là chính cuộc sống của mỗi người. Trên thập giá, Đức Yêsu
cầu nguyện: "xin Cha tha cho chúng vì chúng lầm chẳng biết". Đức Mẹ
đứng dưới chân thập giá, kiên nhẫn chịu đựng những bất công người ta gây ra cho
con mẹ. Cách sống của Đức Yêsu và Đức Mẹ, là cách sống làm con người sống bình
an hạnh phúc. Sự dữ kéo theo sự dữ, làm con người luôn sống trong bất bình an.
Tha thứ, cầu nguyện cho người ghét mình, làm con người được bình an tận trong
lòng, và giúp kẻ làm ác có cơ hội thống hối. Đức Yêsu và những môn đệ của Ngài
đã không lấy ác báo ác, nhưng lấy tình thương đáp trả sự dữ. Đây là cách hành
xử của những người tuyệt vời. Khôn ngoan đích thực được thể hiện trong cuộc
sống với những hành vi cụ thể cho dù nhỏ bé.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Điều gì làm cho bạn khổ nhất? Tại
sao vậy?
2. Con người có thể sống hạnh phúc
không? Khi nào?
3. Đức Yêsu và Đức Mẹ có hạnh phúc ở
đời này không? Xin trình bày quan điểm của bạn cho người khác!
23. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn nghĩ gì về một người nghèo được
người ta đồng ý cho "đổi giấy lấy tiền" (cứ một tờ giấy thường nhỏ
lấy một tờ giấy bạc 10.000đ, hay 50.000đ VN, hoặc lấy tờ 10 hay 50 USD), mà lại
không chịu đổi, cứ nhất định khư khư giữ lại những tờ giấy tầm thường cho mình?
Bạn có bao giờ nghĩ mình cũng đang làm tương tự như thế trên bình diện tâm linh
không?
2. Một người thường tỏ ra bất tín trong
chuyện tiền bạc, hay lỗi hẹn, hay thất hứa, v.v... thì bạn có dám giao cho họ
một công việc gì lớn không? Tại sao? Bạn có những kinh nghiệm nào cụ thể về
việc này?
Suy tư gợi ý:
1. Theo khôn ngoan thế gian, phải biết
lo liệu trước tương lai
Ta thử đặt mình vào địa vị tên quản gia
bất lương kia để xem mình nên làm gì hầu "sau khi mất chức quản gia, sẽ có
người đón rước mình về nhà họ". Nếu không lo liệu trước, thì coi chừng
chết đói, vì ngoài chức quản gia ra, anh ta chẳng biết làm gì khác để sinh
sống, "cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi". Tốt nhất là nên
lợi dụng ngay quyền hạn của chức quản gia mà mình còn giữ được trong thời gian
ngắn ngủi một tuần hay một tháng này để lo liệu chuyện đó. Bây giờ cần phải đầu
tư tình cảm nơi mọi người. Cách tốt nhất và hữu hiệu nhất để gây tình cảm là
lợi dụng chức quản gia để làm ơn cho họ. Anh ta nghĩ: ông chủ có rất nhiều con
nợ, mình giảm nợ cho họ tất nhiên họ phải mang ơn mình, có tình cảm với mình,
nhờ đó, khi mình thất nghiệp, họ sẽ tôn trọng và giúp đỡ mình. Thế là "anh
ta liền cho gọi từng con nợ của chủ đến, và hỏi người thứ nhất: "Bác nợ
chủ tôi bao nhiêu vậy?" (6) Người ấy đáp: "Một trăm thùng dầu
ô-liu". Anh ta bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống
mau, viết năm chục thôi". (7) Rồi anh ta hỏi người khác: "Còn bác,
bác nợ bao nhiêu vậy?" Người ấy đáp: "Một ngàn giạ lúa". Anh ta
bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác đây, viết lại tám trăm
thôi"".
Như thế, anh ta đã dùng những tiền của
không phải của mình để làm lợi cho mình: dùng tiền của của người khác do mình
tạm thời quản lý để mua lấy tương lai cho mình về sau. Nhân câu chuyện này, Đức
Giêsu khuyên chúng ta: "Hãy dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn bè,
phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu".
Điều ấy có ý nghĩa gì? Cần phải hiểu câu nói của Đức Giêsu thế nào?
2. Áp dụng sự khôn ngoan ấy vào việc lo
hạnh phúc vĩnh cửu
Chúng ta ai nấy đều có một thời gian
rất ngắn ngủi ở trần gian này trước khi bước vào đời sống vĩnh cửu đời sau. So
với đời sống mai hậu, đời sống này rất là ngắn ngủi trong đó mọi sự đều chóng
qua, giả tạm, không bền. Thật vậy, tất cả mọi sự ta đang có trong tay – trí
tuệ, khôn ngoan, sức khỏe, cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng vườn, của
cải, v.v... – có thể mất đi bất cứ lúc nào. Chỉ một cơn bệnh nặng hay một tai
nạn ở đầu có thể làm ta mất hết trí tuệ, sức khỏe, làm ta điên loạn, không còn
biết gì. Một cuộc đổi đời có thể làm ta mất hết địa vị, quyền lực và tiền bạc.
Như thế tất cả những gì ta đang có trong tay, dù là tinh thần hay vật chất, đều
không phải là của ta, mà chỉ để ta quản lý một thời gian thôi. Ta chỉ quản lý
nó nhiều lắm là 100 năm ở đời này. 100 năm đó so với sự hiện hữu vĩnh cửu của
ta thì cũng tương tự như một phút so với cả cuộc đời trần thế của ta. Tới khi
chết, tất cả những của cải ta đang quản lý, dù nhiều tới đâu, cũng đều phải để
lại cho người khác quản lý, và ra đi với hai bàn tay trắng. Chỉ những gì ta có
được ở đời sau, mới là của ta đích thật, nó sẽ ở với ta mãi mãi.
Tuy nhiên, một điều rất lạ lùng và hết
sức đáng mừng là ta có thể dùng những thứ giả tạm chóng qua mà ta đang quản lý
ở đời này để tạo nên của cải đích thực và vĩnh cửu cho ta ở đời sau. Vì thế,
xét về mặt này, hoàn cảnh của ta giống y hệt hoàn cảnh của viên quản lý trong
dụ ngôn của Đức Giêsu. Vậy thì dại gì ta cứ giữ khư khư lấy những của giả tạm
đó cho mình, mà không lợi dụng thời gian quản lý quí báu những của cải ấy để
mua sắm lấy Nước Trời, tức hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của mình. Vì thế,
những kẻ chỉ lo làm giàu ở đời này mà không màng đến việc lo liệu cho hạnh phúc
đời sau, thì đúng là bỏ mất những cơ hội hết sức quí báu để "đổi giấy lấy
tiền". Cơ hội này mất đi sẽ không bao giờ trở lại.
Người quản lý trong dụ ngôn đã dùng
tiền mà mình đang quản lý để làm ơn làm phúc cho người này người nọ, nhờ đó khi
không còn quản lý nữa, ông vẫn được người khác quí trọng, tiếp đón, hậu đãi.
Đức Giêsu khuyên chúng ta cũng nên "dùng tiền của bất chính mà tạo lấy bạn
bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu".
Nghĩa là hãy dùng những của cải tạm bợ – tinh thần cũng như vật chất – mà Chúa
trao cho ta quản lý, để sắm lấy những của cải vĩnh viễn trên trời. Bằng cách
nào? bằng cách sử dụng những của cải ấy để thực hiện những hành động yêu
thương: gây hạnh phúc hay làm lợi cho tha nhân, làng xóm, xứ đạo, quê hương đất
nước, xã hội, Giáo Hội... Ta có thể dùng tiền của, tài năng, trí tuệ của mình –
vốn giả tạm, chóng qua, nay còn mai mất – để đầu tư cho sự hạnh phúc của tha
nhân, sự phát triển của xã hội, sự thánh thiện của Giáo Hội, v.v... Nhờ vậy, tự
nhiên ta có một kho tàng vĩnh cửu không thể hư mất ở trên trời. Như thế chẳng
phải là ta đã "đổi giấy lấy tiền", "đổi đồ giả lấy đồ thật"
sao? Vậy dại gì mà không đổi?
3. Hãy trung tín trong mọi việc hằng
ngày
Đã là người, ai cũng muốn mình trở
thành người có giá trị, được mọi người tín nhiệm. Sự tín nhiệm và giá trị của
ta một phần nào được đo bằng việc người khác có dám giao cho ta đảm trách những
việc lớn lao hay không. Nhưng làm sao người khác có thể dám giao cho ta việc
lớn, khi họ thấy ngay cả việc nhỏ ta cũng không chu toàn được? Đức Giêsu đã đưa
ra một nguyên tắc: "Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín
trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc
lớn". Sự khôn ngoan đòi buộc người ta, khi giao việc cho ai mà muốn thành
công, thì phải thử xem người ấy có đủ khả năng và đức độ để chu toàn việc ấy
không. Đức độ và khả năng là hai yếu tố quan trọng để căn cứ vào đó mà tín
nhiệm một người. Nói về việc thử người, trong dân gian có câu: "Lấy lửa
thử vàng, lấy vàng thử đàn bà, và lấy đàn bà thử đàn ông". Tôi nghĩ câu ấy
cũng rất chí lý.
Riêng tôi, theo kinh nghiệm cá nhân rất
hạn hẹp của tôi thì chỉ nên tín nhiệm những ai tỏ ra trung tín trong việc sử
dụng tiền bạc hoặc của cải của người khác. Và đó cũng là điều Đức Giêsu nói
trong bài Tin Mừng hôm nay: "Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử
dụng tiền của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho
anh em? Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người
khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em?" Kinh nghiệm
hạn hẹp của tôi cho thấy người nào không trung tín trong chuyện tiền bạc, của
cải vật chất, thì cũng thường – tôi chỉ dám nói "thường" mặc dù tôi
chưa thấy có luật trừ – không trung tín hay không đáng tín nhiệm trong những
chuyện khác. Còn ai trung tín trong chuyện tiền bạc, của cải vật chất, thì cũng
thường trung tín hay đáng tín nhiệm trong những việc khác. Theo quan niệm của
tôi, một người không giữ được sự công bằng – dù về tinh thần hay vật chất – thì
cũng khó có thể là một người bác ái đích thật hay một người thánh thiện được.
Vậy, ta không nên sợ rằng mình không
được tín nhiệm, mà hãy sợ rằng ta chưa có thái độ đúng đắn trong những việc
nhỏ, trong sự công bằng, trong cách sử dụng tiền bạc hay của cải không phải là
của mình.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý thức rằng mọi sự
con có trong tay, dù là tinh thần hay vật chất, không phải là của con mà là của
Cha. Cha giao cho con quản lý chứ không phải làm chủ. Con phải sử dụng chúng
theo ý Cha chứ không phải theo ý con. Xin cho con biết sử dụng những thứ Cha
giao cho con quản lý để tạo nên kho tàng vĩnh viễn cho con ở trên trời. Xin cho
con biết trung tín trong mọi việc nhỏ nhặt của đời sống thường ngày, để con
đáng được Cha và mọi người tín nhiệm trong những việc lớn lao hơn.
24. Biết khôn ngoan tiên liệu – Lm FX
Vũ Phan Long
Của cải được trao vào tay chúng ta là
để chúng ta dùng mà phục vụ anh chị em.
1.- Ngữ cảnh
Với chương 16, Tin Mừng Luca thêm vào
những dụ ngôn và những lời nói khác của Đức Giêsu. Tuy nhiên, trong khi đề tài
của ch. 15 là niềm vui vì tìm lại được những gì đã mất, trong ch. 16 này, đề
tài là thái độ đối với của cải và cách sử dụng chúng. Dù thế, vẫn có thể cho
rằng đề tài mới này đã được báo trước ở ch. 15 bằng truyện đứa con thứ phung
phí của cải. Bây giờ, chúng ta có hai dụ ngôn, Người quản lý bất lương (cc.
1-8a) và Ông nhà giàu với Ladarô (cc. 19-31), triển khai rõ ràng đề tài mới
này. Ta cũng thấy có những lời Đức Giêsu được gắn vào dụ ngôn thứ nhất (cc.
8b-13) và những lời khiển trách người Pharisêu ham tiền (cc. 14-15). Chỉ có hai
lời không liên hệ đến đề tài, đó là lời nói về Lề Luật (cc. 16-17) và lời nói
về ly dị (c. 18).
Về bài dụ ngôn Người quản lý bất lương,
cho đến nay bài này vẫn là một crux interpretum ("thập giá của các nhà chú
giải"). Để hiểu dụ ngôn và các áp dụng, điều chủ yếu phải làm sáng tỏ là
bản chất luân lý của hành động của người quản lý liên hệ đến các biên nhận của
các con nợ của ông chủ. Ý kiến vẫn được đa số chấp nhận là người quản lý, đã
bất lương trong quá khứ, khi làm thất thoát tài sản của chủ, nay làm thêm một
hành vi bất lương nữa khi sửa lại các biên nhận, khiến tài sản của chủ càng hao
hụt thêm. Nhưng nếu đây là ý nghĩa của bản văn, ta khó mà hiểu được là vì sao
ông chủ có thể khen ngợi người quản lý là khôn khéo, và vì sao Đức Giêsu có thể
rút từ cách hành động này một kết luận chấp nhận được. Dĩ nhiên, về phương diện
luận lý, ta có thể tách sự tiên liệu và khôn khéo ra khỏi những phương diện
khác của hành động của người quản lý. Nhưng những phân biệt như thế thì không
dễ nắm bắt đối với những tâm trí không quen kiểu làm việc này, còn đám đông
Kitô hữu thì hẳn là vẫn cảm thấy lúng túng khi đọc thấy sự song đối Đức Giêsu
thiết lập giữa người quản lý và các môn đệ Người. Không lẽ Đức Giêsu, là người
vẫn quen ngỏ lời với các con tim, lại thật sự đề ra một dụ ngôn hàm hồ như thế
trong một vấn đề đụng chạm đến sự vô luân, bị mọi người phản đối?
Ngoài ra, cứ cho đi là người quản lý đã
giả mạo các biên nhận nợ, thì anh ta chỉ càng làm cho hoàn cảnh của mình thêm
trầm trọng, mà cũng chẳng giữ được kín, vì anh sắp phải báo cáo sổ sách, với
lại bản văn cho thấy là ông chủ biết rất nhanh chuyện vừa xảy ra. Và cũng khó
mà hiểu vì sao anh lại được khen là khôn khéo. Nếu thế, dụ ngôn này nói về một
hành động khó có thật.
Chúng ta đừng quên rằng Đức Giêsu không
hề đánh giá hành vi của người quản lý về mặt luân lý, mà chỉ nói là anh khôn
khéo thôi. Chính câu 8 gọi anh là "bất lương", nhưng đó là trong quá
khứ, trước khi anh ta làm hành động được bài dụ ngôn kể ra, còn hành động này
không nhất thiết là bất lương (x. Dụ ngôn ông quan tòa bất chính đã xử công
bình cho bà góa: Lc 18,2-8). Xin coi trong phần chú giải.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Dụ ngôn Người quản lý bất lương
(16,1-8a);
2) Ba áp dụng của Dụ ngôn (16,8b-13):
a) Áp dụng 1 (cc. 8b-9),
b) Áp dụng 2 (cc. 10-12),
c) Áp dụng 3 (c. 13).
3.- Vài điểm chú giải
- một người quản lý (1): Danh từ Hy Lạp
oikonomos thường là một người nô lệ sinh ra tại nhà chủ (x. St 15,3: ben bayit,
"một người con của nhà"; St 14,14: yelid bayit, "người sinh ra
của nhà"), nhưng không nhất thiết là như thế. Tại Paléttina, người quản lý
không được trả lương; anh toàn quyền thay mặt chủ để giao dịch làm ăn. Nếu anh
ta biển thủ, thì không có một hành vi pháp lý nào có thể giúp chủ thu hồi của
cải cả; ông chủ chỉ có thể phạt bằng cách trách mắng, tiết lộ hành vi bất lương
của anh ta để làm anh mất tiếng tốt, rồi thải hồi anh thôi. Sau khi đã biết
quyết định của chủ, người quản lý phải tính sổ, nhưng vẫn đại diện của chủ. Vì
không có lương, người quản lý có thể cho vay lấy lãi. Thật ra Luật Môsê cấm cho
vay lấy lãi (x. Xh 22,25; Lc 25,36; Đnl 23,20-21), nhưng người Do Thái có cách
xoay sở: người ta bảo là Luật nhắm che chở những người túng cực khỏi bị bóc
lột. Do đó, nếu chứng minh được là người vay mượn đã có một phần của cải anh
muốn mượn, và như vậy phần vay mượn không là cấp bách, thì có thể lấy lãi.
Chẳng hạn dầu và lúa (đó là lý do khiến hai thứ này được đưa ra làm ví dụ ở
đây): ai mà chẳng có đủ dầu để đốt một cái đèn? Ai lại không có đủ lúa để làm
một cái bánh? (Mishna). Ở đây, anh quản lý tha phần lãi (quá đáng) để trả lại
nguyên vốn cho chủ[1].
- tố cáo (1): Động từ Hy Lạp diaballein
thường có sắc thái vu khống.
- phung phí của cải (1): Động từ Hy Lạp
diaskorpizein cũng được dùng trong dụ ngôn Người con phung phá (15,13) để mô tả
một cách sử dụng hoang phí các của cải. Bản văn không nói rõ anh "phung
phí của cải" trong những chuyện gì.
- Một trăm thùng dầu ô-liu (6): Danh từ
Hy Lạp batos phiên âm từ tiếng Híp-ri bat, "thùng" tương đương với
khoảng 45 lít (theo sử gia Gioxép, một batos = 72 xestai Hy Lạp hoặc 72
sextarii Rô-ma).
- viết năm chục (6): Câu này không có
nghĩa là anh ta giả mạo số nợ người ta mắc với ông chủ của anh. Điều này có
nghĩa là con nợ hiện mắc nợ ông chủ chỉ năm mươi thùng dầu, còn năm mươi thùng
kia là hoa hồng của người quản lý. Như thế số lãi là 50%. Bên Cận Đông những
món nợ về lương thực thường có lãi cao như thế thật.
- Một trăm bồ lúa (NTT- 7; "Một
ngàn giạ lúa": CGKPV): tức là một trăm kor lúa. Từ Hy Lạp koros phiên âm
từ từ ngữ Híp-ri kor, tương đương với 10 bats, hoặc 450 lít (bên Hy Lạp có đơn
vị đo lường medimnos = 1,5 kor).
- viết tám trăm (7): Trong trường hợp
này, hoa hồng là 25% (trên tám mươi bồ/giạ lúa). Lãi 1/3 hay 1/4 là chuyện bình
thường.
- Và ông chủ khen (8): Ho kyrios có thể
hiểu là "Chúa (Đức Giêsu )" hay "ông chủ". Ở đây, ta hiểu
là "nhà phú hộ kia" (c. 1) hay "ông chủ" (cc. 3.5). Vì các
lý do: (1) "Nhà phú hộ" rất có thể là một chủ đất thường xuyên đi
vắng, nên đã giao việc quản lý công việc làm ăn cho một người quản lý
(oikonomos). Anh này không phải chỉ là một người tôi tớ được đặt đứng đầu những
tôi tớ khác (như ở 12,42), mà là một nhân viên của ông chủ, được huấn luyện,
được tin tưởng và được giao quyền thay chủ. Anh này có thể hành động nhân danh
chủ trong những giao dịch: theo cách thông thường, anh này cho những người khác
mượn của cải của ông chủ với một phần hoa hồng hoặc lãi được cộng thêm vào biên
nhận; trong biên nhận này thường chỉ ghi số nợ, nghĩa là phần vốn cộng với phần
lãi. Đây là tập tục rất thông dụng bên vùng đông Địa Trung Hải, Ai-cập dưới
thời Hy Lạp và Rô-ma, Paléttina, Xyri, Átxyri, và Babylon.
Vậy tại sao ông chủ lại khen người quản
lý? Tuy không biết số hoa hồng người quản lý có được, chắc chắn ông chủ biết là
anh có làm theo thói tục lúc đó. Nhưng nếu người quản lý cố tình giả mạo biên
nhận, hẳn là khó mà cho rằng ông chủ lại khen anh. Ở đây, ông chủ khen người
quản lý là vì thấy anh khôn khéo, vì thấy anh này chấp nhận loại bỏ phần hoa
hồng khỏi những biên nhận trước đây, trong đó có phần cho vay nặng lãi. Như
thế, anh đã biến những con nợ của chủ thành người chiu ơn anh, mà không làm
thiệt hại gì đến chủ.
- con cái ánh sáng (8): Đây là một cách
gọi các môn đệ Kitô hữu (x. 1 Tx 5,5; Ep 5,8; Ga 12,36).
- nơi ở vĩnh cửu (9): dịch sát là
"các lều vĩnh cửu". Có lẽ hình ảnh này lấy từ lễ Lều, vì lễ này được
coi như một tiền ảnh của thời đại cứu độ (Dcr 14,16-21).
- Tiền của bất chính (9): Danh từ
mamonas là dạng hy-hóa của danh từ Híp-ri mamôn hoặc danh từ A-ram mamôna'.
Cách giải thích hợp lý nhất là cho rằng từ này là một dạng của ngữ căn 'mn, và
có nghĩa là "điều mà người ta đặt tin tưởng vào", từ đó chuyển sang
nghĩa là "tiền bạc, của cải". Đây là tiền của thủ đắc hợp pháp, tức
theo luật lệ của loài người, nhưng hư hỏng dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Dụ ngôn Người quản lý bất lương
(1-8a)
Bản văn dường như mô tả một sự cố đã
thật sự xảy ra. Người quản lý bị tố cáo là bất lương, nhưng chúng ta không được
biết đích xác trong chuyện gì. Chúng ta chỉ biết là bây giờ, khi thấy hoàn cảnh
của anh đã thành bấp bênh, vì ông chủ đã quyết định sa thải anh, anh biết phản
ứng nhanh và dứt khoát.
Người quản lý biết rằng có nhiều người
đang nợ chủ anh những món nợ kếch sù. Anh gọi các con nợ đến, rồi hỏi người thứ
nhất: "Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy ?" Người ấy đáp: "Một trăm
thùng dầu ô-liu". Người quản lý bảo: "Bác cầm lấy biên lai của bác
đây, ngồi xuống mau, viết năm chục thôi". Món nợ đã được giảm từ 4.500 lít
dầu ô-liu xuống còn 2.250 lít, tương đương với tiền công nhật một năm.
Anh ta gọi người thứ hai đang mắc nợ
một trăm bồ lúa, tức là khoảng 35 tấn (kết quả thu hoạch của hơn 42 mẫu ruộng
tốt). Nay món nợ của ông giảm xuống còn 80 bồ thôi, tức là bớt đi khoảng 7 tấn!
"Ông chủ" (c. 8), dù là Đức
Giêsu hay là ông phú hộ, đã khen ngợi sự khôn khéo và sáng suốt của anh. Người
ta vẫn giải thích hành vi anh ta hướng dẫn những người làm biên nhận là một
hành vi bất lương: thay vì bảo các con nợ viết đủ số nợ thì lại bảo họ viết bớt
đi. Có một cách giải thích khách hợp lý hơn: Vào thời Đức Giêsu, các quản lý
không có lương, nên họ được phép lấy hoa hồng từ món nợ (25-50%). Như thế, ở
đây, người quản lý không làm thiệt hại cho chủ, nhưng chỉ bớt món hoa hồng lẽ
ra anh được hưởng. Anh hy sinh một món lợi nhuận ngắn hạn như thế để mong được
người ta tiếp đón lâu dài. Vì thế, anh ta mới được khen là sáng suốt và biết
khôn ngoan tiên liệu.
Cho dù chọn cách giải thích nào, các
độc giả vẫn phải nhớ điểm nhắm của dụ ngôn là: sự thông minh của một người khi
nhìn đến tương lai của mình, hoặc nói bằng ngôn ngữ tôn giáo hơn, các chọn lựa
thận trọng khi nhìn đến việc cứu độ bản thân. Các môn đệ của Đức Giêsu cũng
phải hành động với một sự minh mẫn và khôn ngoan như thế. Đức Giêsu bảo họ rằng
họ có thể học được nhiều nơi các con cái thế gian trong việc phân tích kỹ lưỡng
hoàn cảnh, suy nghĩ chín chắn và có một cách ứng xử thích hợp.
* Ba áp dụng của Dụ ngôn (8b-13)
Thế rồi Đức Giêsu đã chuyển từ ngôn ngữ
kinh tế của dụ ngôn sang ngôn ngữ phù hợp với Do Thái giáo Ba áp dụng chứng tỏ
cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã sớm mặc cho dụ ngôn một bộ áo luân lý. Cả ba
thuộc về những ngữ cảnh khác nhau
Áp dụng thứ nhất (cc. 8b-9) mang màu
sắc Sê-mít rõ ràng, có lẽ có một bối cảnh Paléttina, với những thuật ngữ
"con cái thế gian" , "con cái ánh sáng", "Tiền Của bất
chính", "nơi ở vĩnh cửu". Áp dụng này đặt con cái thế gian ngang
hàng với người quản lý (c. 8a). Do sự "khôn khéo" của họ, họ hơn các
"con cái ánh sáng", tức các môn đệ của Đức Giêsu, trong cách dàn xếp
với thế hệ này. Như thế, các Kitô hữu có thể học được điều gì đó từ sự khôn
khéo của họ. Câu 8b là một lời bình tổng quát hóa về kết luận của bài dụ ngôn,
nhấn mạnh trên sự khôn khéo trong đời sống Kitô hữu. Câu 9 nêu ra khía cạnh
cánh chung của lời khuyên. Các Kitô hữu phải khôn khéo trong cách sử dụng của
cải vật chất, bây giờ được gọi là "tiền của bất chính", để tạo lấy
những bạn bè sẽ đón họ vào nơi cư ngụ vĩnh cửu. Như vậy, quyết định khôn khéo
của người quản lý (c. 4) được ẩn-dụ-hóa để trở thành một khuyến khích sử dụng
khôn khéo của cải vật chất.
Áp dụng thứ hai (cc. 10-12) rút một bài
học từ bài dụ ngôn như là một toàn thể và hệ quả về cách quản lý có trách
nhiệm. Khía cạnh cánh chung của c. 9 biến mất, để nhường chỗ cho ý tưởng về
trách nhiệm và sự trung tín ngày qua ngày. Áp dụng gồm ba câu ở thể song đối
đối nghĩa: câu 1 là câu tuyên bố (tương phản giữa trung tín trong việc rất nhỏ
và trung tín trong việc lớn) ; câu 2 và 3 ngắn hơn, là câu hỏi (tương phản giữa
trung tín trong việc sử dụng những của cải thông thường và những của cải chân
thật; tương phản giữa việc sử dụng của cải của người khác và của cải của chính
mình). Như thế, cả ba tương phản tóm tắt vai trò của sự trung tín trong đời
sống Kitô hữu.
Áp dụng thứ ba (c. 13) được đặt ở đây
do từ móc "tiền của" ở cc. 9,11 và 13d. Áp dụng này không liên hệ với
bài dụ ngôn, nhưng tóm một thái độ tổng quát đối với của cải. Có thể nói áp
dụng này bình luận cc. 10-12 dể đưa ra câu hỏi cho Kitô hữu: Anh em muốn phục
vụ ai?
+ Kết luận
Bài dụ ngôn không lưu ý về bản tính độc
hại của của cải, cũng không chuẩn nhận cho sự bất lương của người quản lý (cc.
1-2), hoặc chuẩn nhận cho việc anh ta giả mạo các biên nhận khiến gây thiệt hại
cho chủ. Câu chuyện nhắm đến sự khôn khéo của ngưởi quản lý biết cách sử dụng
phần của cải thuộc về mình để lo cho tương lai. Như thế, "người quản lý
bất lương" trở thành điển hình cho các Kitô hữu về sự sáng suốt, khôn
khéo. Đứng trước một tình trạng khủng hoảng do sự bất cẩn và những lầm lạc
trong phán đoán thuộc quá khứ, anh biết khôn ngoan đánh giá tình hình và xoay
sở hợp lý. Các Kitô hữu cũng đang phải đối diện với đòi hỏi của Nước Trời đang
đến, nên cũng cần biết sử dụng của cải để có thể ứng phó với hoàn cảnh này.
Với ba áp dụng thêm vào, bài dụ ngôn
đưa tới chỗ khuyến cáo các Kitô hữu phải biết sử dụng của cải với tinh thần
trách nhiệm và sử dụng để phục vụ hạnh phúc của người khác.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Đức Giêsu đã đến như ánh sáng thế
gian. Ai theo Người, thì có ánh sáng, với điều kiện phải để cho ánh sáng hướng
dẫn. Muốn sống như là "con cái ánh sáng", các môn đệ Đức Giêsu phải
để cho Người hướng dẫn. Các môn đệ Đức Giêsu thỉnh thoảng phải nghĩ đến tương
lai của họ, để không bị bắt chợt mà trắng tay. Họ phải quan tâm không những đến
tương lai gần, mà cả tương lai ở bên kia cái chết. Đó là nhắm đạt được những
"cái lều vĩnh cửu", túc sống hiệp thông bền vững với Thiên Chúa.
Tương lai ấy, người ta đạt được hay bị mất, là do cách hành động trong hiện
tại. Tương lai này, Đức Giêsu giúp các con cái ánh sáng đạt được, nhưng họ phải
chuẩn bị bản thân bằng một cách sống biết tiên liệu. Chính họ cũng phải biết sử
dụng của cải vật chất cách khéo léo và sao cho có thể đảm bảo tương lai, nhờ
biết tạo cho mình những bạn hữu. Họ phải chứng tỏ họ là những người quản lý
được tin cậy và trung tín trong những điều nhỏ nhất. Họ chỉ đạt được như thế
nếu họ phục vụ Thiên Chúa chứ không phải tiền của.
2. Các Kitô hữu sống như "con cái
ánh sáng" là có trái tim thuộc về Thiên Chúa. Người phải là Đức Chúa mà họ
yêu mến và họ hướng tới. Chỉ khi đã khởi đi từ một quan hệ như thế với Người,
họ mới có thể có một tương quan đúng đắn với của cải trần thế và là tương quan
bảo đảm tương lai cho họ. Ai nhìn nhận Thiên Chúa là Chúa tể thì cũng nhìn nhận
Người là Chúa tất cả của cải vạt chất và biết rằng bản thân mình không phải là
chủ tuyệt đối các của cải đó, nhưng chỉ là người quản lý.
3. Một người quản lý lệ thuộc chủ mình
và chịu trách nhiệm trước mặt chủ. Anh không điều hành một của cải của riêng
anh, nhưng một của cải của người khác, của cải được Thiên Chúa ký thác. Anh là
người trung tín và đáng tin nếu anh biết đi theo ý muốn của chủ mình, chứ không
cư xử theo tính ngẫu hứng. Tất cả các ý tưởng của anh phải nhắm đảm bảo sao cho
chủ không bị thiệt hại gì cả, không có gì xảy ra ngược ý muốn của chủ. Qua
tương quan với các của cải của chủ, người quản lý chứng tỏ giá trị của tương
quan của mình với chủ. Như thế, các của cải trần thế đã được ký thác cho chúng
ta là để thử lòng chúng ta. Như những người quản lý, qua các của cải ấy, chúng
ta phải chứng tỏ tương quan của chúng ta với Thiên Chúa; chúng ta phải chứng tỏ
lòng trung thành và khả tín của mình.
4. Chúng ta chứng tỏ mình biết sử dụng
đúng dắn các của cải khi biết dùng của cải mà tạo cho mình những bạn hữu, do
dùng của cải mà phục vụ người thân cận. Các của cải không được ban cho chúng ta
để chúng ta hưởng thụ cách ích kỷ, nhưng là để chúng ta dùng trong chiều hướng
nhắm đến tương lai, thể theo ý muốn của Thiên Chúa. Đức Giêsu nói đến của cải
vật chất, nhưng điều Ngài nói cũng có giá trị cho mọi thứ của cải trần thế
khác, như các khả năng tinh thần, các tài năng, kiến thức, học vấn...
5. Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta phải sáng
suốt và biết tiên liệu. Như thế, không thể phung phí của cải trần thế vào việc
hưởng thụ trong hiện tại. Đàng khác, ai cho rằng mình có quyền bố trí các của
cải theo ý mình, là sai lầm. Chúng ta được liên kết trước tiên vào Chúa. Chúng
ta không phải là chủ nhân tự trị, nhưng chỉ là những quản lý các của cải của
chúng ta. Và của cải được trao vào tay chúng ta là để chúng ta dùng mà phục vụ
anh chị em. Chỉ khi đó, chúng ta mới đảm bảo được tương lai của mình.
-----------------------------------------------
[1] Xem J.D.M. Derrett, Law in the New
Testament (London 1970) 48-77; « "Take Thay Bond ... and Write Fifty"
(Luke xvi,6): The Nature of the Bond » (JTS 23 [1972]) 438-440; P.W. Pestman,
"Loans Bearing No Interest", Journal of Juristic Papyrology, 16-17
(1971) 7-29.
25. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
DỤ NGÔN VỀ NGƯỜI QUẢN LÝ KHÔN KHÉO
SUY TƯ VỀ TIỀN BẠC
Ở đây cử toạ khác với cử toạ thù nghịch
ở chương trên: Chúa Giêsu nói với các môn đệ, điều mà Ngài đã không làm từ
12,22-53. Lập tức Ngài kể một câu chuyện (16,1-8) và Ngài bổ túc phần giải
thích bằng đôi lời ()cc.9-13. Dụ ngôn này có lẽ được gợi lên bởi một vài sự
kiện khác nhau, thuộc vào số những dụ ngôn mà người ta hiểu rất sai; lấy làm
gai hướng, người ta tự hỏi làm sao Chúa Giêsu có thể tán đồng những hành xử
gian dối khi khen tên lừa đảo giả mạo giấy tờ. Chúng ta sẽ thấy đó không phải
là cao điểm của câu chuyện, trong đó Chúa Giêsu xác định rõ ràng là tên quản lý
bất lương (c.8). Nhưng để tránh mọi sự hiểu lầm như thế mà câu chuyện được tiếp
tục bằng một giáo huấn về tiền bạc.
Một nhà phú hộ có một đồn điền rộng lớn
nghe được báo cáo bất lợi về người quản gia; ông gọi người này lại, bảo ngưng
việc và trình sổ sách. Người quản gia lâm vào tình trạng bế tắc vì ông phải
thất nghiệp, mà cuốc đất thì không nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Nhưng ông biết
xoay sở để bảo đảm tương lai; ông ta sẽ hành động cách khôn khéo để sẽ có người
đón rước mình về nhà họ. Phần đầu này (cc. 1-4) làm ta phải nín thở chờ đợi xem
người quản lý sẽ biết làm gì.
Và đây, ông ta gọi các con nợ của chủ
đến và đề nghị họ bớt những khoản nợ quan trọng. Khi người ta nợ 3.700 lít dầu
mà được giảm 50% thì quá ngon rồi... Vài nhà Kinh Thánh nghĩ rằng: người quản
gia chỉ bớt tiền lời, những món tiền hoa hồng, vốn thuộc về anh ta một cách khá
hợp pháp; một cách giải thích như thế sẽ đi đến chỗ bào chữa cho cách hành xử
của anh ta và luân lý hoá dụ ngôn rồi. Nhưng Luca không nghĩ như vậy: nếu người
quản lý bất lương, gian dối (c.8) là vì anh ta tỏ ra hào phóng mà gây thiệt hại
cho người thuê mướn anh ta! Và ông chủ khen anh ta, đó có lẽ là Chúa Giêsu chứ
không phải người điền chủ đâu: Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là Chúa Giêsu
chấp nhận việc giả mạo chứng từ; phần cuối của câu 8 nói rõ rằng việc khen ngợi
hướng về tính cách khôn khéo trong việc xử trí chứ không khen tính chất bất
lương của hành động. Còn về tính cách khôn khéo trong những quan hệ hỗ tương,
thì những con cái ánh sáng –các Kitô hữu thích gọi nhau như thế, sau khi đã trở
nên rạng sáng nhờ nghe Lời Chúa (?Tx 5,5; x. Lc 11,34tt)- có thể rút kinh
nghiệm từ con cái đời này, những kẻ không hề lo nghĩ đến chiều kích siêu việt
của cuộc sống con người. Ngay cả khi những kẻ này hành động một cách bất lương,
người tín hữu đích thực cũng biết rút ra một vài giá trị có thể hữu ích cho
cuộc sống của mình.
Bài học của dụ ngôn ở câu 8 lại được
Chúa Giêsu giải thích qua lời kết luận thứ hai ở câu 9. Đó là một lời khuyên
cho các môn đệ biết cách sử dùng tiền của một cách khôn khéo trong viễn tuợng
Nước Trời. Nếu người quản lý bất công đã biết sử dụng của cải đời này để có bạn
hữu và chuẩn bị cho tương lai của mình ở đời này, thì các Kitô hữu càng phải
chuẩn bị tương lai vĩnh cửu của họ bằng cách chia sẻ với người nghèo bằng việc
bố thí; như thế, các kẻ này sẽ tiếp nhận họ (x.14,14) vào thành đô của Chúa
–tại đây những kẻ nghèo như đang ở trong nhà họ, phù hợp với các mối phúc
6,20tt. Như vậy, tỏ ra khôn khéo là xem Tiền bạc như một phương tiện chứ không
như mục đích. Tiền bạc là bất công, lường gạt –người quản lý cũng được đánh gía
như thế ở câu 8, bởi vì nó có thể trở nên thần tượng và bởi vì, so sánh với của
cải Vương Quốc là của đích thực và bất diệt (x.12,33), nó có một giá trị bấp
bênh và tạm thời: tất yếu nó sẽ vắng mặt vào ngày mà mỗi người chúng ta phải
chết. Vương Quốc của Tiền bạc sẽ chấm dứt.
Là kết luận thứ hai của câu chuyện
người quản lý bất lương, câu 9 đưa ra hai áp dụng mới mà liên hệ với dụ ngôn có
phần lỏng lẻo hơn. Áp dụng thứ nhất dùng để loại trừ mọi hiểu lầm và một cách
dứt khoát ngăn cản người ta coi câu chuyện như một lời mời gọi thực hành thói
xảo quyệt (cc.10-12). Trái với sự bất chính của người quản lý và Tiền bạc, áp
dụng này đòi hỏi phải có sự trung tín được thực hiện từng ngày để quản lý của
cải thiêng liêng cũng như vật chất. Nhờ ba điều tương phản, lời khuyên này có
lẽ ưu tiên nói với những người có trách nhiệm trong các cộng đoàn Kitô hữu: sự
trung thành phải có nơi những kẻ quản lý của cải vất chất lại càng cần thiết
hơn đối với những kẻ có trách nhiệm về tài sản thiêng liêng của anh em mình.
Được viết từ một dụ ngôn nhỏ và phần áp dụng (c.13) một giáo huấn cuối cùng còn
nói đến những liên hệ với tiền bạc. Ai thờ nó và làm nô lệ nó không thể là con
cái ánh sáng được. Từ khi Thiên Chúa đột nhập vào trần gian, con người được đặt
trước một chọn lựa triệt để; qua việc sử dụng của cải người Kitô hữu phải tỏ ra
mình chỉ thuộc về Thiên Chúa mà thôi.
26. Chú giải của R. Gutzwiller
DỤ NGÔN NGƯỜI QUẢN LÝ
Trong các diễn từ tiếp theo, Chúa Giêsu
nói đến việc sở hữu của cải.
1. Người quản lý tinh khôn
Dụ ngôn này thường gây nhiều vấp phạm
và người ta đang cố đề phòng gương mù trong khi lại trình bày thái độ của người
quản lý tinh khôn như là được phép. Theo luật lệ thời đó, một chủ trại có thể
làm gì tuỳ ý. Con cái sự sáng, trong vấn đề này, phải xử sự khéo léo như con
cái trần gian: đây là điểm chính đích thực của dụ ngôn.
Người quản lý không làm theo ý của chủ
hay phục vụ quyền lợi của chủ, mà làm hại cho chủ. Xét về ích kỷ, thì đường lối
người quản lý thật là tinh khôn. Y xử sự một cách quỷ quyệt, dầu hết sức giận
dữ vì bị thiệt, người chủ vẫn phải khen hắn.
Người quản lý sắp mất chức, không muốn
làm việc tay chân vất vả, cũng không muốn đi hành khất. Cho nên y đành phải
dùng mưu: lừa bịp ông chủ và gây thiện cảm với các con nợ. Những người này phải
giúp lại hắn, ít là tạm thời, cho đến khi hắn kiếm được một địa vị tương tự. Sự
khéo léo có tính toán đó có tính cách quan trọng.
Con người được Thiên Chúa trao của cải
vật chất để quản lý chúng. Họ phải sử dụng làm sao để khi gặp khó khăn, sa sút,
sẽ có bạn bè trợ giúp. Hoàn cảnh đó chính là lúc chết. Khi đó, con người phải
bỏ lại tất cả những gì lúc đó là sống còn đối với họ. Họ sẽ có những bạn hữu,
nếu trước đó họ đã dùng của cải vật chất để giúp đỡ, biện hộ cho họ trước mặt
Thiên Chúa, để họ được 'đón tiếp vào chốn an nghỉ đời đời'.
Đường lối sử dụng của cải khéo léo (dám
nói được là xảo quyệt) không phải ở chỗ tăng thêm của cải bất cứ cách nào, hay
ham lợi lộc, nhưng là thích cho đi hơn là nhận vào, giúp đỡ hơn là cậy nhờ
người khác giúp đỡ. Càng sử dụng tốt của cải, người ta càng dùng nó để mưu cầu
đời sau.
'Bố thí', một từ ngữ mà ngày nay chúng
ta không thích và một cách nào đó lại diễn tả đúng sự kiện. Người thợ đòi hỏi
công bằng chứ không xin bác ái. Tâm thức xã hội bừng tỉnh thì ý thức xã hội
càng tinh tế... Người ta đòi phải có thù lao tương xứng với công việc chứ không
xin bố thí với mục đích trợ giúp hay do lòng thương xót.
Tuy nhiên, người sở hữu phải dùng của
cải để làm việc thiện ngay cả khi họ không bị bắt buộc làm và chẳng mang lại
lợi ích cho mình. Theo nghĩa này, thì bố thí cũng có giá trị của nó.
Đức Kitô còn đưa ra một áp dụng khác.
Ngài cho biết ai từng trung tín trong việc nhỏ, cũng sẽ trung tín trong việc
lớn.
2. Quản lý thanh liêm.
Người ta có thể sai lầm khi kết luận
con người có quyền quản lý tài sản không theo ý chủ muốn. Một cách rõ ràng, Đức
Kitô khẳng định ngược lại. Sự gì đã nhận lãnh từ nơi Thiên Chúa thì phải sử
dụng theo ý Chúa. Cả trong trường hợp nhận ít, lòng tín trung của chúng ta cũng
được tưởng thưởng và Ngài sẽ ban thêm cho ta.
Tài sản nhỏ nhoi dành cho con người
quản lý là những sự vật ngoại tại và phàm trần: phương tiện sử dụng, sức mạnh
thân thể và sức khoẻ, năng lực trí tuệ và các ơn thiêng liêng. Không nên đặt vấn
đề: cái gì tôi ưa thích? Ước vọng của tôi thế nào? Tính khí và sở thích sẽ lôi
cuốn tôi về đâu? Thiên hạ mong muốn gì, họ làm gì? Mối quan tâm duy nhất của
tôi là: 'điều nào hợp vơí ý Chúa, Đấng đã ban cho tôi những ơn đó để quản lý?'
Nếu biết hành động như vậy, người ta sẽ
nhận được những điều cao trọng, siêu nhiên, đạo đức, những kho tàng ân sủng và
ơn huệ Thánh Thần.
Tuy nhiên, có ít người biết hướng đời
sống và dùng các ơn siêu nhiên cũng như các năng lực để tìm Thánh ý Thiên Chúa!
Rất ít người ý thức mình là người quản lý. Họ tưởng mình là chủ nhân, cho nên
xử sự theo ý mình. Họ làm theo sở thích. Hành động của họ độc đoán.
Trái lại, thái độ đạo đức phải có là
lời chúng ta vốn cầu xin trong kinh Lậy Cha: 'Ý Cha thể hiện', đó là quy tắc xử
thế của con người. Chỉ có như vậy, cuộc sống mới đổi thay được để nhằm mục tiêu
phục vụ Thiên Chúa.
Tiền bạc là một trong những cám dỗ lớn
lao đối với con người, nó càng nguy hiểm hơn khi có sự trợ lực của ý muốn tự
quyền và tình dục. Đó là lý do Đức Giêsu đòi hỏi một yêu sách bất khả nhượng và
không thể châm chước.
27. Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu còn nói với các môn đệ rằng
Dụ ngôn về "người quản gia bất
lương" là một trong các câu chuyện gây tai tiếng mà người ta tìm thấy
trong Tin Mừng, và các tín hữu chờ đợi với một nụ cười khẩy để biết nhà thuyết
giáo làm thế nào để xoay xở với bài học về sự lừa bịp đó.
Nhưng đó là một dụ ngôn, một
"mâchâl", một "câu đố ". Chứ không phải là một câu chuyện
xây dựng trong mọi chi tiết của nó. Chúng ta, nhưng người chịu ảnh hưởng của
tinh thần duy lý Tây Phương, chúng thích những chứng minh họp luận lý và đơn
giản. Đức Giêsu lại hoàn toàn thoải mái sử dụng văn phong điển hình của những
người kể chuyện phương Đông. Họ nháy mắt ra hiệu cho cử tọa, để yêu cầu người
nghe đừng bỏ mất óc phê bình: "Nào, các bạn sáng suốt nhé! Hãy hiểu sự
tinh tế ẩn giấu dưới nghĩa đen! Tôi làm bạn khó chịu, hẳn là thế, nhưng đó là
cố ý: Các bạn đã bị nhiễm độc và mê man về đề tài quan trọng mà tôi đề cập đến
thế sao...!
Một nhà phú hộ kia có một người quản
gia. Người ta tố cáo với ông là anh này đã phung phí của cải nhà ông
Một quản gia phung phí! Tất cả dụ ngôn
sẽ diễn tiến trên ý tưởng "quản lý" này. Trong Luật Rôm, cũng như
trong tâm thức thông thường, quyền "sở hữu" là "quyền sử dụng và
lợi dụng cái gì thuộc về mình": "Bởi vì cái đó thuộc về tôi, nên tôi
làm gì tùy thích". Trong quan niệm Kitô giáo, quyền tư hữu tư nhân thì
khác hẳn: Chúng ta không thật sự là chủ sở hữu, nhưng chỉ là những "người
quản lý" của cải vốn vẫn thuộc về tất cả mọi người? Học thuyết truyền
thống này trực tiếp đến từ Đức Giêsu (chứ không phải từ chủ nghĩa cộng sản) và
vừa qua đã được Công đồng Vatican II nhắc lại: "Thiên Chúa đã trao trái
đất và mọi vật chứa trong đó cho con người sử dụng (Gaudium ét Spes, số 69).
Ông mới gọi anh ta đến mà bảo: 'Tôi
nghe người ta nói gì về anh đó? Công việc quản lý của anh, anh tính sổ đi, vì
từ nay anh không được làm quản gia nữa!'
Tất cả những gì tôi phải "quản
lý": tài sản, đức tính, sự phong phú tâm linh, trì thục, đạo đức, những
khả năng tình cảm của tôi. Người sẽ yêu cầu tôi phúc trình về chúng. Tôi không
có quyền "phung phí" những ơn mà Thiên Chúa đã giao cho tôi và chúng
vẫn luôn là các công việc "của Người". Thiên Chúa không thích
"sự phung phí", đó là một sự xúc phạm những người đang thiếu thốn.
Người quản gia liền nghĩ bụng: 'Mình sẽ
làm gì đây? Vì ông chủ đã cất chức quản gia của mình rồi. Cuốc đất thì không
nổi, ăn mày thì hổ ngươi. Mình biết phải làm gì rồi, để sau khi mất chức quản
gia, sẽ có người đón rước mình về nhà họ!'
Cuộc độc thoại nội tâm này bộc lộ rõ
ràng sự bối rối của người quản gia. Anh ta phải có quyết định mau lẹ: Ngày mai
sẽ quá muộn? Có lẽ trong một hoặc hai giờ nữa, anh ta sẽ bị "sa
thải". Phải hành động thật mau lẹ. Chúng ta đoán được đàng sau sự vội vàng
ấy là sự khẩn cấp của thời mạt thế mà Đức Giêsu không ngừng nhắc nhở, quấy rầy
những người đồng thời với Người. Chúng ta hãy hiểu cơ may của mình khi còn thời
gian, nếu không chúng ta sẽ không có thới gian để "lật lại" như người
ta vẫn nói, để thú thật bằng công thức lạ lùng là Người ta tiến tới trước nhưng
đi ngược lại mục đích thật sự của chúng ta! Chúng ta phải khẩn cấp hoán cải, và
quay về.
Anh ta liền cho gọi từng con nợ của chủ
đến, và hỏi người thứ nhất: 'Bác nợ chủ tôi bao nhiêu vậy?' Người ấy đáp: 'Một trăm
thùng dầu ô-liu.' Anh ta bảo: 'Bác cầm lấy biên lai của bác đây, ngồi xuống
mau, viết năm chục thôi.' Rồi anh ta hỏi người khác: 'Còn bác, bác nợ bao nhiêu
vậy?' Người ấy đáp: 'Một ngàn giạ lúa.' Anh ta bảo: 'Bác cầm lấy biên lai của
bác đây, viết lại tám trăm thôi.'
Sự gian lận này khéo léo đến ba lần:
Không mất gì cả không để lại dấu vết, nó là bảo đảm chống lại mọi khám phá đột
xuất bởi có thể có những lời đe dọa tố giác. Con người đã chẳng thay đổi kể từ
Đức Giêsu.
Về phần hai món nợ: bằng dầu và bằng
lúa mì cũng rất điển hình ở Palestine. "Một trăm thùng dầu", là thu
hoạch trung bình của 150 cây ô-liu, tương đương với 365 lít dầu? "Một trăm
bao lúa" là thu hoạch của 42 hecta ruộng sa, tương đương với 364 hecto lít
lúa mì! Theo các chuyên gia, sự giảm nợ trong cả hai trướng hợp tương đương 500
ngày công trung bình. Ngày nay mỗi người có thể tính ra bằng tiền tổng số tiền
gian lận.
Về điểm này của câu chuyện, người nghe
hẳn phải chờ đợi một sự kết án một cách mạnh mẽ và thích đáng từ phía Đức
Giêsu. Chúng ta hãy nghe tiếp...
Và ông chủ khen tên quản gia bất lương
đó đã hành động khôn khéo. Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh
sáng khi xử sự với người đồng loại
Chúng ta ngạc nhiên. Đức Giêsu ngợi
khen người quản gia xảo trá ấy. Chốc nữa, chúng ta sẽ thấy lý do tại sao trong
lời giải thích mà Người sẽ đưa ra.
Tuy nhiên, chúng ta ghi nhận rang Đức
Giêsu không tán thưởng sự lừa bịp của "người quản gia lừa gạt" hoặc
người quản gia bất công" như bản văn Hy Lạp đã nói.
Thật vậy, theo Đức Giêsu, anh ta thuộc
về thế giới "bóng tối" mà thủ lãnh là Xatan (Ga 12,31) phải phân biệt
với các con cái của "ánh sáng" (1 Thêxalônica 5,4-5).
Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết:
hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ
sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu
Tạo lấy bạn bè! phát triển tình bạn!
Đấy là lý lo của lời khen ngợi.
Trong công thức này ở trọng tâm của bài
dụ ngôn, Đức Giêsu đem lại cho chúng ta một bài học chủ yếu: Cách sử dụng tốt
sự giàu có là dùng nó để tạo lấy bạn bè, đặt tình yêu thương vào các mối quan
hệ. Đó còn là một quan niệm thật sự cách mạng về tiền bạc.Dùng tiền bạc như một
phương tiện để chia sẻ và sống tình bằng hữu. Tiền bạc tự nó không xấu. Nó có
thể tạo ra mềm vui cho những người khác, và do đó là niềm vui cho người nào đã
góp phần vào niềm vui ấy khi "ban tặng"! Luca trong Tin Mừng của Ngài
đã nhấn mạnh đến Đấng Mêsia của những người nghèo, nhiều hơn các thánh sử khác.
Nước Thiên Chúa hầu như thuộc về họ đến nỗi những người giàu có chỉ vào được đó
nhờ sự bảo trợ và giới thiệu của những người nghèo mà những người giàu có sẽ
làm bạn.
Bạn làm gì với tiền bạc của bạn? Câu
hỏi đáng ngại. Tại sao không! Nhưng tốt hơn là "Tin Mừng" cho những
người giàu có giờ đây biết mình có thể được cứu và bước vào "nơi ở vĩnh
cửu" như thế nào, khi mà ở nơi đó tiền bạc của họ không còn nữa".
Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì
cũng trung tín trong việc lớn, ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất
lương trong việc lớn
Để kết luận cho câu chuyện cụ thể này,
đây là những châm ngôn về tiền bạc mang tính mạc khải cao cả của tư tưởng Đức
Giêsu. Và trước tiên, đối với Đức Giêsu tiền bạc là một "việc nhỏ"
khi so sánh với "việc lớn" là Nước Thiên Chúa vĩnh cửu. Chúng ta có
chấp nhận quan điểm đó không?
Vậy nếu anh em không trung tín trong
việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân
thật cho anh em?
Trong khẳng định thứ hai này Đức Giêsu
nói với chúng ta rằng tiền bạc thì "bất lương". Đó là một cái bẫy chỉ
đem lại sự an toàn giả tạo. Không nên tin vào tiền bạc (I Timôthê 6,17). Tính
từ "bất lương" trở đi trở lại năm lần trong trang này. Đức Giêsu đã
chới chữ. Người nói về "người quản gia bất lương" rồi giờ đây, Người
nói về "tiền bạc' bất lương". Từ này cũng thường được dịch là
"người quản gia bất chính, bất hảo, bất công"... và "tiền bạc
bất chính, bất hảo, bất công.. Trong linh hồn và trong ý thức, mỗi người được
mời gọi để trả lời về tiền bạc của mình: Có bất hảo, bất công, bất chính không?
Tiền bạc rất ích lợi, có thể được sử dụng một cách có lợi để tạo thành bạn bè
cho mình, nhưng nó cũng có thể là một quyền lực của sự ác.
Và nếu anh em không trung tín trong
việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành
riêng cho anh em?
Khẳng định thứ ba này có một cung cách
hiện đại rất đáng kinh ngạc. Trước cả Các Mác, Đức Giêsu đã lên án "tha
hóa" của con Người: Tiền bạc không phải là điều tốt lành thật sự cho chúng
ta. Sự giàu sang không làm cho một người nên tốt lành, thông minh, hạnh phúc.
Giá trị thật sự ở chỗ khác. Tiền bạc làm "tha hóa" chúng ta, nếu
chúng ta để nó "chiếm đoạt" chúng ta.
Không gia nhân nào có thể làm tôi hai
chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà
khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của
được
Chữ 'Tiền Của' viết với một chữ hoa ở
đây để dịch từ 'Mam-mon', một từ đáng khinh bỉ để chỉ một thần tượng vì nó mà
người ta trở thành nô lệ. Bạn có là tù nhân bị tiền bạc xiềng xích, chiếm đoạt,
đánh đòn với những lo âu về công việc. Đối với Đức Giêsu, không thể có bất kỳ
thỏa hiệp nào: Hoặc là Thiên Chúa, hoặc là tiền bạc. Chúng ta hãy thú nhận
chúng ta thường bị cám dỗ phục vụ luân phiên cả hai ông chủ: Thiên Chúa ngày
Chúa nhật, cho phần rỗi của chúng ta và Thiên Chúa của các thương vụ, của hầu bao,
lợi lộc sáu ngày còn lại trong tuần.
Trong câu tiếp theo sau, Luca đã viết
"Người Pharisêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo
Đức Giêsu Còn tôi? Có phải tôi cũng mặt sang mày sỉa?
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét