CHÚA
NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN - C
Lời
Chúa: 2V 5,14-17; 2Tm 2,8-13; Lc 17,11-19
MỤC LỤC
1. Phong cùi
2. Biết ơn
3. Dòng suối ân tình –
Thiên Phúc
4. Đón nhận ơn cứu độ –
ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
5. Tạ Ơn Chúa – Logos
6. Thể hiện của tự do
thực sự
7. Đức tin của con đã
cứu con – Veritas
8. Suy niệm của Lm.
Giuse Nguyễn Hữu Duyên
9. Lòng biết ơn – Lm
Ignatio Trần Ngà
10. Lòng biết ơn - Lm.
Trần Việt Hùng
11. Chín người kia đâu?
12. Ưu tiên cho việc tạ
ơn - Achille Degeest
13. Hãy dâng lời ngợi
khen và tạ ơn Thiên Chúa
14. Tất cả là hồng ân
15. Lòng biết ơn
16. Mười người phong
hủi - McCarthy
17. Đức tin đích thực -
R. Gutzwiller
18. Lòng biết ơn
19. Biết ơn
20. Cám ơn
21. Suy niệm của Lm.
Phạm Thanh Liêm
22. Suy niệm của JKN
23. Gặp gỡ để bày tỏ
lòng biết ơn
24. Chú giải mục vụ của
Hugues Cousin
25. Chú giải của Noel
Quesson
1. Phong cùi
Người phong cùi trong
xã hội Do Thái thời Chúa Giêsu là kẻ bất hạnh, không phải chỉ mang một nỗi đau
nơi thân xác mà còn mang cả một nỗi đau trong tâm hồn.
Thực vậy, sau khi mắc
phải chứng bệnh nan y này, thì lập tức, họ bị khai trừ khỏi xã hội. Đi đâu cũng
phải ra dấu để mọi người xa tránh. Đây không phải chỉ là một biện pháp vệ sinh
nhằm ngăn chặn sự lây lan, mà hơn thế nữa trong bầu khí tôn giáo, người ta có
thói quen coi bệnh này như là một hình phạt Thiên Chúa giáng xuống trên những
kẻ tội lỗi. Nếu không phải do chính tội của bệnh nhân, thì cũng do tội của cha
mẹ họ. Vì thế người bệnh bị xã hội coi là kẻ tội lỗi.
Chúa Giêsu thì khác,
Ngài không thể không xót thương họ, nhất là khi họ đã lên tiếng van xin. Và tất
cả 10 người phong cùi đều được khỏi. Chúa Giêsu bảo họ tới trình diện với hàng
tư tế để được chứng thực là mình đã khỏi và nhờ đó mà trở về với xã hội loài
người. Đây là lần thứ nhất họ được chữa lành.
Nếu phép lạ của Chúa Giêsu
làm chỉ là việc chữa lành chứng bệnh hiểm nghèo này thì có thể kết thúc ở đây.
Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ muốn chữa lành về phần xác, mà hơn thế nữa,
còn muốn chữa lành về phần hồn. Vì thế mà câu chuyện được tiếp nối: Sau khi
thấy mình được khỏi, thì một người đã quay trở lại tìm Chúa Giêsu để tạ ơn
Ngài. Và đây cũng chính là một dịp để Chúa Giêsu tỏ lộ cho chúng ta thấy Ngài
không phải chỉ là một thầy thuốc bình thường như mọi thầy thuốc khác, mà hơn
thế nữa, Ngài còn là Đấng Cứu Thế, Đấng tha thứ và xoá bỏ mọi tội lỗi, bắc lại
nhịp cầu cảm thông giữa trời và đất, đưa con người vào trong liên hệ thương yêu
với Thiên Chúa. Chính vì thế mà Ngài đã nói với anh ta: Đức tin của con đã cứu
chữa con. Người phong cùi thứ mười này không phải chỉ được Chúa chữa lành về
phần xác mà hơn thế nữa còn được Chúa chữa lành về phần hồn và đó là lần thứ
hai anh được chữa lành.
Thế nhưng điều làm cho
chúng ta sửng sốt đó là người phong cùi được chữa lành và quay trở lại với Chúa
Giêsu lại là người xứ Samaria. Dân Samaria vốn bị người Do Thái liệt vào hàng
ngoại đạo, không xứng đáng với ơn huệ cua Thiên Chúa. Sự kiện này buộc chúng ta
phải suy nghĩ: Phải chăng kẻ bị coi là ngoại đạo này lại nhận biết tình thương
và ơn sủng của Chúa, trong khi đó những người vốn tự hào là có đạo, đạo dòng
hay đạo gốc, lại tỏ ra vô ơn và bạc bẽo. Và phải chăng đó cũng chính là thái độ
của chúng ta, những người có đạo, đối với Chúa và đối với những người đã từng
góp công xây dựng cuộc đời của chúng ta.
2. Biết ơn
Trong cuốn "Nói
với chính mình" Đức Cha Bùi Tuần có viết: Tôi rất thích chó vì chó biết
ơn. Dầu chỉ nhận được một cục xương, chó cũng tỏ vẻ biết ơn. Chủ đi đâu về, chó
cũng vẫy đuôi mừng rỡ. Trong khi đó, con người vô ơn lãi là chuyện bình thường.
Một sự kiện khác cũng
khiến chúng ta phải ngạc nhiên không ít: một số người Việt Nam từ hải ngoại trở
về thăm quê hương đã đưa ra nhận xét như sau: Dầu cố gắng che giấu đến đâu cái
tông tích Việt kiều của mình, thì cái tông tích ấy vẫn cứ bị lộ ra. Và oái oăm
thay, cái tông tích ấy được thể hiện không phải qua cách mua sắm tiêu xài hay
qua cách phục sức, mà gắn liền với một chi tiết rất tầm thường. Người ta nhận
ra họ bởi vì họ là những người luôn miệng nói lên hai tiếng "cám ơn".
Nếu quả thực hai tiếng cám ơn đã trở thành quý hiếm trên môi miệng người Việt
Nam hiện nay, thì điều này hẳn phải là một báo động đáng lo ngại. Đó có thể là
dấu hiệu của sự khô cạn tình người trong xã hội chúng ta đang sống.
Thực vậy, khi ơn nghĩa
đã bị chối bỏ, thì dĩ nhiên sự ràng buộc và tình liên đới cũng trở thành mong
manh. Một khi tình người bị chối bỏ, thì tất nhiên niềm tin tôn giáo cũng sẽ
chỉ là chuyện thừa thãi mà thôi.
Tin Mừng hôm nay mời
gọi chúng ta đào sâu ý nghĩa của lòng biết ơn trong cuộc sống con người. Trong
số mười người được chữa lành, thì chỉ có một người quay lại ngợi khen Thiên
Chúa, rồi đến sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài. Chúa Giêsu hẳn đã
chua xót trước sự vô ơn của con người khi thốt lên: Chớ thì không phải cả mười
người được lành sạch sao? Còn chín người kia đâu sao không thấy ai trở lại tôn
vinh Thiên Chúa mà chỉ có người ngoại này mà thôi. Tỷ lệ quá thấp, chỉ có một
phần mười. Và một phần mười ấy theo Chúa Giêsu nhận xét lại là thành phần ngoại
giáo. Mặc dù là goại giáo theo nghĩa tôn giáo, nhưng lại rất có đạo theo nghĩa
đạo làm người. Mà bởi đạo làm người cũng là thể hiện của đạo Chúa, cho nên
người ngoại giáo Samaria này, theo cái nhìn của Chúa Giêsu, hẳn phải là người
có đạo hơn chín người Do Thái kia, bởi vì người này đã thực thi cái nhân đức
cao quý nhất của con người là lòng biết ơn.
Con người không thể là
người một cách sung mãn mà không cần đến người khác. Nói lên hai tiếng cám ơn
là nói lên tình liên đới thâm sâu giữa người với người. Tôi không thể là tôi
nếu không có người khác. Tôi cần có người khác để sống hoàn thiện, để được hạnh
phúc. Từ cha mẹ tôi, gia đình tôi, những người thân thích của tôi cho đến cả
những kẻ thù của tôi...Tất cả đều đã đóng góp vào sự trưởng thành của tôi.
Không ai nghèo đến độ không có gì để trao tặng. Cuộc đời là một chuỗi những lãnh
nhận, từ sự sống cho đến những thành đạt. Không có gì chúng ta đang có mà không
do lãnh nhận từ người khác. Do đó biết ơn là một đòi hỏi thiết yếu nhất của
trái tim con người. Không có lời rủa sả nào thậm tệ bằng ba tiếng: Đồ vô ơn.
Hơn nữa, lòng biết ơn còn là con đường dẫn chúng ta đến gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng
là cội nguồn mọi ơn huệ.
Người Samaria được chữa
lành, đã ngợi khen Thiên Chúa và sấp mình dưới chân Chúa Giêsu mà tạ ơn Ngài.
Như vậy, lòng biết ơn chính là nẻo đường dẫn anh đến gặp gỡ với Thiên Chúa.
Sống cho ra người, sống cho có tình nghĩa, đó là con đường bảo đảm nhất dẫn
chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Vô thần, xét cho cùng, cũng chỉ là vô ơn, bởi vì
kẻ chối bỏ Thiên Chúa thì dĩ nhiên cũng sẽ chối bỏ người đồng loại của mình.
3. Dòng suối ân
tình – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ 'Như Thầy
Đã Yêu')
Trong một chuyến bay từ
Rôma về Nữu Ước, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen chăm chú nhìn cô tiếp viên hàng
không đang đi lại phục vụ quí khách. Thấy cử chỉ lạ của Đức Tổng, cô tiếp viên
mạnh dạn đến gần và hỏi:
- Thưa Đức Cha, có
chuyện gì mà Đức Cha lại nhìn con như thế?
Vị Tổng Giám Mục nhoẻn
miệng cười đáp:
- Vì đôi mắt của con
rất đẹp!
- Vậy con phải làm gì
để cám ơn Chúa đây?
- Con ạ! Chúa đã lấy
tất cả sắc đẹp của từng người phong trong trại cùi Di Linh mà đem tặng cho con.
Vậy con hãy đến đó chăm sóc cho họ mà đền đáp ơn Chúa.
Quả thật, chỉ ít lâu
sau người ta đã thấy người phụ nữ xinh đẹp này ngày đêm tận tụy băng bó những
vết thương lở loét cho các bệnh nhân phong, tại trại cùi Di Linh dưới lớp áo
dòng nữ tu.
Phong cùi là một bệnh
nan y khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào thời Chúa
Giêsu nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn, vì người ta cho
rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị ruồng
bỏ, bị coi là nhơ nhớp, phải sống cách ly trong một làng cùi xa mọi người, xa
cả người thân. Phải mặc áo rách, để đầu trần, lấy áo che miệng và phải hô lên
rằng mình có bệnh truyền nhiễm và nhơ nhớp để cho người lành biết mà tránh xa.
Thế mà, trong bài Tin
Mừng hôm nay kể lại chỉ một lời Chúa Giêsu phán ra thì vết thương của thể xác
và nỗi đau trong tâm hồn bao năm đè nặng bỗng tan biến hết. Căn bệnh quái ác mà
họ cứ tưởng phải gánh chịu suốt cả cuộc đời, nỗi ô nhục mà họ cứ tưởng sẽ vĩnh
viễn theo họ sang bên kia thế giới, thì nay đã được hoàn toàn tẩy xóa. Chỉ nhờ
quyền năng và lòng thương xót của Thiên Chúa mà họ như đã chết nay được hồi
sinh, niềm vui rộn rã như vỡ òa trong tim.
Trớ trêu thay trong
mười người được hưởng ơn chữa lành vô cùng lớn lao ấy, chỉ có một người biết
dâng lời tạ ơn, mà người ấy lại là người Samari ngoại đạo. Còn những người vẫn
tự hào là dân Thiên Chúa, dân riêng Chúa chọn lại sống vô ơn.
Chúa Giêsu phải thốt
lên lời quở trách: "Không phải cả mười người được sạch cả sao? Thế thì
chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có
người ngoại bang này?" "Sở dĩ Chúa Giêsu xem trọng lòng biết ơn cũng
là vì ích lợi của kẻ được ơn mà thôi. Người Samari trở lại tạ ơn Thiên Chúa đã
ban cho anh ơn phần xác, thì Người lại ban thêm cho anh ơn phần hồn là củng cố
niềm tin và xác định tư cách tôn giáo của anh. Người nói: "Đứng dậy về đi!
Lòng tin của anh đã cứu chữa anh". Như thế, cám ơn lại là cơ hội để nhận
được thêm ơn.
Cuộc sống là một chuỗi
những ân huệ nối tiếp theo nhau. Những ân huệ này đan xen với những ân huệ
khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ con người. Vậy
nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không hề biết nói
hai tiếng cám ơn, hoặc chẳng bao giờ bày tỏ tấm lòng tri ân! Thú vật còn biết
vẫy đuôi cám ơn khi ném cho nó cục xương, còn người vô ơn khi nhận được ân huệ
chỉ biết trố mắt nhìn và câm lặng.
Một đứa trẻ mới bập bẹ
tập nói trong một gia đình có giáo dục, thì tiếng "cám ơn" luôn nằm
sẵn trên bờ môi. Một người có nhân cách thực sự là một người có lòng biết ơn.
Một người luôn thể hiện lòng biết ơn mới đích thực là con người. Lòng biết ơn
là nét cao đẹp nhất của con người. Biết ơn là nhận ra thân phận bất toàn của
mình. Biết ơn là ý thức về tình liên đới với người khác. Biết ơn là thể hiện
niềm tin vào Thiên Chúa yêu thương và quan phòng. Vì thế, lòng biết ơn chính là
bông hoa rực rỡ, điểm tô cho cuộc sống con người. Một tiếng nói "cám
ơn" với tất cả chân thành, một cữ chỉ biết ơn sâu xa sẽ làm cho chúng ta
nên người hơn, và thể hiện niềm tin sâu sắc hơn.
Cả cuộc sống của Chúa
Giêsu là một "bài ca tạ ơn". Người tạ ơn Cha trước khi cho Ladarô
sống lại, trước khi làm phép lạ hóa bánh và cá ra nhiều, trước khi lập Phép
Thánh Thể. Người không chỉ là mẫu mực về lòng biết ơn mà còn dạy chúng ta thể
hiện lòng biết ơn ấy: "Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy". Kể
từ đó, mỗi thánh lễ mà Giáo Hội cử hành được gọi là thánh lễ tạ ơn.
Thánh Phaolô luôn dâng
lời tạ ơn lên Chúa: "Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân
huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Kitô". Ngài cám ơn tất cả những ai
giúp ngài trong công việc mục vụ: "Quà anh em tặng cho tôi đó, chúng khác
nào hương thơm, lễ vật đẹp lòng Thiên Chúa và được Người chấp nhận". Như
vậy, câu ngạn ngữ Anh nói rất chí lý: "Cho người có lòng biết ơn chính là
cho vay".
Lạy Chúa, suốt cuộc đời
chúng con ngụp lặn trong đại dương ân huệ của Chúa, suốt đời chúng con được tắm
mát trong dòng suối ân tình của anh em.
Xin cho chúng con luôn
biết sống có tình nghĩa, luôn thể hiện lòng biết ơn, luôn quí trọng những hồng
ân mà Chúa đã thương ban, và những gì mà anh em đã làm cho đời chúng con thêm
tươi đẹp và hạnh phúc hơn.
4. Đón nhận ơn
cứu độ – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.
Chúa Giêsu đang trên
đường lên Giêrusalem để chịu khổ hình, hoàn thành việc cứu độ. Chính lúc đi
ngang qua Samaria, nhất là qua việc cứu chữa mười bệnh nhân phong, Chúa cho
thấy một vài đặc điểm của ơn cứu độ.
Ơn cứu độ là phổ quát.
Chúa muốn cứu độ hết
mọi người không loại trừ ai. Nên Chúa đi qua Samaria. Samaria là vùng đất cấm
kỵ đối với người Do Thái. Đó là vùng đất ngoại đạo. Đó là vùng đất ô uế. Người
Do Thái và người Samaria không giao thiệp với nhau. Nhưng Chúa đã vượt qua ranh
giới cấm kỵ đó. Chúa muốn đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Tại Samaria Chúa còn
gặp gỡ mười người phong cùi. Lại một cấm kỵ nữa. Người phong cùi vốn bị coi là
hạng người tội lỗi, ô uế. Ai gặp họ đều trở nên ô uế. Họ bị loại trừ ra khỏi
đời sống xã hội. Tại Samaria, những người phong cùi là những người ở tầng lớp
cuối cùng của xã hội. Chúa đem ơn cứu độ cho mọi người, kể cả những người bị
khinh miệt nhất, bị quên lãng nhất, bị hất hủi nhất. Ơn cứu độ Chúa ban cho tất
cả mọi người. Trước mặt Chúa mọi người đều bình đẳng.
Ơn cứu độ là nhưng
không.
Không ai dám nghĩ đến
việc mời Chúa xuống trần gian. Không ai có công trạng gì khiến Chúa phải xuống
trần gian để tưởng thưởng hay để đền đáp. Chúa xuống trần gian hoàn toàn do
lòng nhân từ yêu thương của Chúa. Cũng thế, người Samaria hoàn toàn bất ngờ khi
Chúa đến miền đất của họ. Những người phong cùi lại càng không bao giờ dám mơ
tưởng tới. Bản thân họ đã bị lên án, bị loại trừ rồi. Ngay việc gặp một người
bình thường đã không được phép, huống chi là gặp gỡ Chúa. Nhưng Chúa đã đến gặp
gỡ họ, ban ơn cứu chữa họ. Hoàn toàn nhưng không. Họ chẳng có công gì. Họ chẳng
có quyền đòi hỏi gì. Họ chỉ có nỗi đau khổ tột cùng. Chính nỗi đau khổ đó đã
khơi dậy lòng yêu thương của Chúa. Vì Chúa là tình yêu thương.
Ơn cứu độ phải được đón
nhận với niềm tin.
Tuy ơn cứu độ được ban
rộng rãi và nhưng không, nhưng để đón nhận đòi phải có niềm tin. Những người
phong cùi hôm nay đã bày tỏ niềm tin qua hai thái độ. Thái độ thứ nhất là đồng
thanh lớn tiếng kêu cầu danh Chúa Giêsu: "Lạy Thày Giêsu, xin cứu chúng
tôi". Danh Thánh Giêsu có nghĩa là Thiên Chúa cứu. Từ cùng tận nỗi đau
khổ, những người phong cùi đã kêu van bằng tất cả tấm lòng tha thiết và với
niềm tin vững chắc. Chỉ có Chúa mới thương xót họ. Chỉ có Chúa mới đủ quyền
năng cứu chữa họ. Thái độ thứ hai là đi trình diện với thày tư tế. Chúa không
chữa họ ngay nhưng bảo họ đi trình diện với thày tư tế. Dù chưa được khỏi,
nhưng họ vẫn tin tưởng lên đường. Đang khi đi đường thì họ được khỏi. Đức tin
đã chữa họ.
Ơn cứu độ phải được đón
nhận với niềm vui.
Đây là niềm vui trong
mối tương giao giữa Thiên Chúa với con người. Cốt lõi của ơn cứu độ là thiết
lập mối tương giao, cho con người được trở nên con cái Thiên Chúa, đồng hưởng
hạnh phúc với Chúa. Đó là cội rễ của niềm vui, niềm hạnh phúc. Chín người bệnh
không trở lại chỉ có niềm vui được khỏi bệnh, nhưng không có niềm vui trong mối
tương giao với Thiên Chúa. Họ có đức tin cầu xin nhưng thiếu đức tin gặp gỡ với
Thiên Chúa. Niềm vui được khỏi bệnh rồi cũng sẽ nhạt phai. Chỉ có một người trở
lại tạ ơn. Anh trở lại vì mối tương giao. Anh nhận biết nguồn gốc niềm vui của
mình. Anh sụp lạy Chúa vì biết nguồn gốc hiện hữu của mình. Anh đã tìm thấy
nguồn cội ý nghĩa đời mình. Niềm vui của anh sẽ còn mãi mãi. Đời anh sẽ là một
đời tạ ơn không ngừng.
Lạy Chúa, xin cho con
biết tìm đến gặp gỡ Chúa để tạ ơn Chúa. Chính niềm vui tạ ơn này đem đến cho
con hạnh phúc suốt đời con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Vì sao Chúa ban ơn
cứu độ cho ta và ta phải đón nhận với thái độ thế nào?
2) Đức tin cầu xin và
đức tin gặp gỡ Chúa khác nhau thế nào? Bạn đã tiến đến đâu trong đời sống đức
tin?
3) Có những miền đất,
những con người nào mà bạn coi là cấm kỵ khiến bạn chưa dám tiếp cận không? Với
gương Chúa Giêsu hôm nay, bạn sẽ làm gì?
4) Biết ơn rất cần
trong đời sống tự nhiên. Bạn có biết ơn trong đời sống siêu nhiên không?
5. Tạ Ơn Chúa –
Logos
Vào ngày 07/9/2004, hai
người phụ nữ Ý tên Toretta và Pari đã bị một nhóm người vũ trang bắt cóc khi họ
đang làm công tác từ thiện tại Irắc. Hai người phụ nữ này đều thuộc gia đình
Công Giáo rất sùng đạo. Cả nước Ý đã lo lắng cho số phận của 2 con tin. Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã đưa ra lời thỉnh cầu với nhóm người bắt cóc xin
hãy vì lòng nhân đạo mà thả 2 người phụ nữ ra. Vơí mọi cố gắng của chính phủ Ý
trong việc đối thoại và thương lượng với nhóm người bắt cóc, cuối cùng 2 người
phụ nữ đã được thả tự do vào ngày 28/9/2004, sau 3 tuần bị giam giữ.
Vào ngày 05/10/2004 vừa
qua, cô Toretta và Pari đã cùng gia đình đến Vatican xin triều yết Đức Thánh
Cha. Họ quỳ gối trước mặt ngài để cám ơn ngài đã cầu nguyện và lên tiếng can
thiệp để họ được trả tự do. Trước tin vui này, Đức Giáo Hoàng đã cùng với gia
đình 2 người phụ nữ dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.
Hai người phụ nữ đã cám
ơn Đức Giáo Hoàng và tạ ơn Thiên Chúa vì những ân huệ đã lãnh nhận. Đó cũng là
thái độ của mọi người trước những hồng ân cao cả của Thiên Chúa. Nhưng đáng
tiếc, nhiều người đã quên nói lời cám ơn trước những ơn lành mình nhận được.
Bài Tin Mừng theo thánh
Luca hôm nay thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành mười người phong cùi,
nhưng chỉ có một người trở lại để tạ ơn Chúa. Và thật trớ trêu, đó lại là một
người xứ Samaria, một người dưới mắt người Do thái là một kẻ ngoại giáo! Đó là
một điều đáng buồn, đến nỗi Chúa Giêsu phải thốt lên: "Chớ thì không phải
cả mười người được lành sạch cả sao? còn chín người kia đâu?". Có lẽ đó
cũng là lời chất vấn dành cho những ai không nhận biết ơn Thiên Chúa để cảm tạ
Ngài. Hơn ai hết, chính Chúa Giêsu đã nên mẫu mực cho chúng ta về lòng biết ơn
Thiên Chúa và cả cuộc đời của Ngài luôn vang lên lời tạ ơn Thiên Chúa Cha.
Cuộc đời Chúa Giêsu là
bài ca tạ ơn.
Chúa Giêsu thường tìm
đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Nhưng khi biểu lộ tâm tình tạ ơn
thì Ngài lại thực hiện công khai trước mặt mọi người. Chúa muốn dạy mọi người
bài học về lòng biết ơn đối với Thiên Chúa.
Trước khi làm phép lạ
hóa bánh ra nhiều, Chúa cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn rồi phân phát cho mọi
người (Ga 6, 11). Trong bữa Tiệc Ly, khi lập bí tích Thánh Thể, Ngài cầm lấy
bánh, dâng lời tạ ơn, bẻ ra và trao cho các môn đệ (Lc 22, 19). Đứng trước nấm
mồ Lazarô, trước khi làm cho anh ta sống lại, Chúa Giêsu đã dâng lời cảm tạ
Thiên Chúa (Ga 11, 41).
Cả cuộc sống của Chúa
Giêsu là một lễ tạ ơn liên lỉ. Ngài đã hy sinh mạng sống làm hy tế dâng lên Đức
Chúa Cha. Vì thế, ngày hôm nay, khi dâng lễ tạ ơn mỗi ngày, chúng ta cử hành
mầu nhiệm cuộc đời Chúa, chúng ta sống lại tâm tình tạ ơn của Chúa, là tâm tình
của Người Con dâng lên Chúa Cha.
Cuộc đời của Chúa là
bài ca tạ ơn luôn vang lên những giai điệu vui tươi trong những giây phút hân
hoan và trong cả những giờ khắc bi thảm. Bài ca tạ ơn đó đã ngân lên từ môi
miệng của Mẹ Maria (Magnificat), ông Zacaria (Benedictus) và vẫn tiếp tục ngân
vang trong tâm hồn những người tín hữu hôm nay.
Lời cám ơn, bông hoa
đẹp của cuộc sống.
Ngạn ngữ Pháp nói:
"Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim". Đúng vậy, lời tri ân cảm tạ
là lời nói của con tim. Lòng biết ơn là nghĩa cử của tâm hồn. Chỉ có những trái
tim gỗ đá mới không nhận biết ân huệ được trao tặng. Vì vậy, lòng biết ơn là
bông hoa đẹp tô điểm cho cuộc đời. Chính những lời cám ơn sẽ làm cho cuộc sống
tăng thêm hương vị ngọt ngào và làm cho cuộc đời này thêm ý nghĩa vì mọi người
biết liên đới với nhau hơn.
Ngạn ngữ Anh nói:
"Cho người có lòng biết ơn là cho vay". Quả thật, cuộc sống hiện tại
của mọi người sẽ đẹp biết bao khi mọi người biết chia sẻ tình thương cho nhau.
Mỗi cử chỉ yêu thương sẽ được đánh dấu bằng lời "cám ơn", sẽ làm giàu
thêm tình người. Mọi người sẽ sống trong tình huynh đệ với những "món nợ
tình thương" trao trả cho nhau.
Lời tạ ơn Thiên Chúa
của chúng ta còn là những bông hoa đẹp đẽ nhất của tấm lòng mà chúng ta dâng
cho Chúa mỗi ngày. Những bông hoa ấy trang điểm cho tâm hồn chúng ta thêm xinh
đẹp nhờ những ân sủng Thiên Chúa tặng ban. Vì "thật ra, Chúa không cần
chúng ta ca tụng, nhưng được tạ ơn Chúa lại là một hồng ân cao cả, vì những lời
ca tụng của chúng ta chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng ta ơn cứu
độ muôn đời" (Kinh Tiền Tụng Chung, IV). Đúng vậy, những lời tạ ơn của
chúng ta như làn hương tỏa bay lên cao và kéo thêm nhiều cơn mưa hồng phúc xuống
cuộc đời chúng ta, vì thế, khi người Samaria quay trở lại tạ ơn Chúa, Chúa nói:
"Ngươi hãy ra về, vì lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi". Người
Samaria không những được ơn lành bệnh mà còn được ơn cứu rỗi nữa. Cũng thế, sau
khi được tiên tri Êlisê chữa khỏi bệnh cùi, tướng Naaman người xứ Syria đã trở
lại để tạ ơn và tôn vinh Thiên Chúa. Từ đó, ông nhận được niềm tin vào Thiên
Chúa (bài đọc 1, trích sách Các Vua Quyển thứ hai).
Một ngày kia, có hai
thầy trò đi dạo trên con đường miền quê. Đang đi, họ chợt nhìn thấy một đôi
giày cũ kỹ để bên vệ đường. Đó là đôi giày của người nông dân nghèo khó đang
làm ruộng bên cạnh. Cậu học trò tinh nghịch định giấu đôi giày đi để trêu chọc
người nông dân, nhưng ông thầy đã ngăn cản cậu: con đừng tìm niềm vui qua việc
trêu chọc một con người nghèo khổ như thế, nhưng hãy tìm niềm vui khác to lớn
hơn: con hãy bỏ vào mỗi chiếc giày một đồng tiền xem ông ta phản ứng ra
sao?". Sau khi bỏ tiền vào đôi giày, hai thầy trò trốn vào một bụi cây để
xem người nông dân xử sự thế nào. Khi xỏ chân vào đôi giày để ra về, người nông
dân phát hiện ra hai đồng tiền. Ông ta rất ngạc nhiên nhìn chung quanh, nhưng
không thấy ai, ông ngắm nghía hai đồng tiền thật lâu rồi bỏ vào túi. Với sự xúc
động tràn ngập trong lòng, người nông dân quỳ xuống, ngước mặt lên trời dâng
lời tạ ơn Thiên Chúa đã dùng bàn tay vô hình nào đó đem đến cho ông một món quà
thật đúng lúc trong hoàn cảnh khốn khó hiện tại của gia đình ông.
Chúng ta bắt chước
người nông dân kia luôn cảm tạ Thiên Chúa trước những ân huệ Ngài ban. Chúng ta
cũng hãy học lấy hành động yêu thương của hai thầy trò: hãy luôn biết cho đi
bằng những "bàn tay vô hình" đầy ắp tình thương. Đó là cách tạ ơn
Chúa tốt đẹp nhất của chúng ta.
6. Thể hiện của
tự do thực sự
(Trích dẫn từ 'Mỗi Ngày
Một Tin Vui' – Radio Veritas Asia)
Trong suốt nhiều thế
kỷ, người Do thái đã phải còng lưng dưới sức nặng của lao động khổ sai bên Ai
Cập. Dưới sự lãnh đạo của Môsê, Thiên Chúa đã giải phóng họ và đưa họ vào vùng
đất tự do. Để đánh dấu cuộc giải phóng khỏi các thứ khổ sai đó, Thiên Chúa đã
thiết lập một ngày trong tuần như ngày Hưu Lễ. Đó là lý do tại sao người Do
thái đã trân trọng tuân giữ ngày Hưu lễ. Nó chính là biểu trưng của tự do, bởi
vì thời nô lệ, bẩy ngày trên bẩy ngày, người Do thái không thể có được một ngày
nghỉ ngơi. Như vậy, nghỉ ngơi là dấu chỉ của tự do, và đó là ý nghĩa nguyên
thủy của ngày Hưu lễ.
Thế nhưng, dần dà qua
dòng thời gian các nhà thần học Do thái đã thay đổi ý nghĩa ấy của ngày Hưu lễ:
thay vì là biểu tượng của tự do, họ đã biến ngày Hưu lễ thành một gánh nặng đầy
đọa và trói buộc con người; họ đã kéo dài ngày Hưu lễ thành một bản kê khai tỉ
mỉ những gì không được phép làm trong ngày Hưu lễ và như vậy dấu chỉ của tự do
giờ đây chỉ còn là một hình thức nô lệ mới đối với người Do thái: thay vì là
dấu chỉ của tự do đưa con người vào gặp gỡ với Thiên Chúa, ngày Hưu lễ đã trở
thành một gánh nặng chồng chất trên vai con người, nhất là làm cho con người xa
cách Thiên Chúa.
Đó cũng là tình trạng
của lề luật nói chung thời Chúa Giêsu. Luật lệ không còn là vì con người, nghĩa
là giải phóng con người, mà trở thành gánh nặng đè bẹp con người và tách lìa
con người khỏi Thiên Chúa; con người chú tâm thi hành lề luật hơn là yêu mến
Thiên Chúa và yêu thương tha nhân. Thái độ của 9 người phong cùi người Do thái
trong Tin Mừng hôm nay phản ánh tâm thức chung của người Do thái thời đó. Chúa
Giêsu chữa lành 10 người phong cùi, trong đó chỉ có một người Samari không phải
tuân hành luật Do thái. Theo đúng đòi hỏi của lề luật, Chúa Giêsu đã yêu cầu 9
người Do thái đến trình diện các tư tế để được xác nhận là đã khỏi bệnh, riêng
người Samari không phải tuân giữ điều đó, nhưng đây lại là người duy nhất trở
lại cám ơn Chúa Giêsu và ngợi khen Thiên Chúa.
Câu truyện trên cho
chúng ta thấy luật lệ đã cản trở con người đến gặp gỡ Chúa Giêsu và cảm tạ
Thiên Chúa. Người Samari vì không bị chi phối bởi lề luật, nên đã được tự do để
nói lên tình cảm chân thật của mình, người này gần với tôn giáo đích thực bởi
vì ông có tự do hơn. Thiên Chúa thi ân một cách nhưng không thì con người cũng
phải đáp trả một cách tự do. Một tương quan như thế không thể có được trong một
xã hội lề luật, trong đó con người chỉ biết tính toán theo thứ công bình hoán
đổi. Người Do thái vốn quen thuộc với tâm thức ấy, họ tính toán chi ly về công
đức của mình, họ lượng giá phần thưởng dựa trên công nghiệp của mình. Chúa
Giêsu đã đánh đổ một quan niệm như thế về tương quan giữa con người và Thiên
Chúa: ơn cứu rỗi mà Ngài loan báo và thực hiện là ơn cứu rỗi nhưng không, đến
độ con người chỉ được cứu độ nhờ lòng tin vào lòng từ bi của Thiên Chúa, đến độ
những kẻ tội lỗi là những người đầu tiên được vào Nước Chúa.
Ngày nay, có lẽ nhiều
người chúng ta cũng giống như 9 người phong cùi Do thái trong Tin Mừng hôm nay.
Họ đã bị lề luật giam hãm trong Đền thờ để không còn có thể nói lên lời tạ ơn
đối với Đấng đã thi ân cho mình; họ xem lề luật trọng hơn điều thiết yếu của
niềm tin là lòng biết ơn và niềm tín thác. Cũng như họ, có lẽ chúng ta đã tỏ ra
trung thành một cách chi ly với luật Hội Thánh, nhưng nhiều lúc chúng ta vẫn
còn tự hỏi: Tôi phải đọc bao nhiêu kinh? Tôi phải lần bao nhiêu chuỗi? Tôi phải
ăn chay bao nhiêu lần? Tôi phải bố thí cho bao nhiêu người nghèo khó? Tính toán
như thế là quên rằng Thiên Chúa như Chúa Giêsu mạc khải là Thiên Chúa Tình Yêu.
Ngài ban ơn cho chúng ta hơn cả những gì chúng ta chờ đợi và tính toán. Một
Thiên Chúa như thế, con người không thể có một tâm tình nào xứng hợp hơn là
lòng tri ân, niềm tín thác. Đó là sự thể hiện của một tâm hồn tự do đích thực,
nhờ đó con người có thể vượt qua bốn bức tường nhà thờ để không ngừng gặp gỡ
Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.
7. Đức tin của
con đã cứu con – Veritas.
(Trích dẫn từ 'Hãy Ra
Khơi')
Có câu chuyện kể rằng,
một hôm Chúa sai hai thiên thần xuống trần gian đi làm nhiệm vụ, đúng hẹn hai
thiên thần trở về, một vị đeo cái giỏ nặng trĩu, thấy vị kia đeo cái giỏ nhẹ
tênh, hầu như không có gì bèn nói: Chúa sai tôi xuống trần gian thâu tất cả
những lời cầu xin, nhưng nhiều quá nên cái giỏ của tôi rất nặng. Còn ngài, ngài
đã làm gì mà sao cái giỏ của ngài nhẹ quá vậy? Vị kia trả lời: Tôi xuống trần
gian để thu tất cả những lời tạ ơn, nhưng chẳng có bao nhiêu.
Câu chuyện phần nào nói
lên một thực tế của con người và giúp chúng ta hiểu được bài Tin Mừng mà chúng
ta vừa nghe đọc, thì ra người ta hầu như biết cầu xin hơn là biết đón nhận và
tạ ơn. Thánh Luca thuật lại sự kiện có mười người phong cùi đến gặp Chúa Giêsu
và khẩn khoản cầu xin Chúa thương xót, Chúa đã chữa lành bệnh cho họ, nhưng chỉ
có một người quay lại để tạ ơn Chúa. Người quay trở lại tôn vinh Thiên Chúa lại
là một người ngoại, vậy thì chẳng lẽ những người kia không được lành bệnh sao?
Đọc bài Tin Mừng này
tôi nhớ lại một sự kiện tôi đã gặp mà tôi nhớ rất rõ, đó là trưa ngày mùng 3
tháng 11 năm 1995 tại một nhà thờ của Dòng Đaminh, có một phụ nữ ôm một bó hoa
tươi đang phân vân đi đi lại lại trước các tượng thánh Đaminh, thánh Vinh sơn
Liêm và thánh Martinô trong khuôn viên nhà thờ. Tôi tiến lại gần và hỏi hình
như bà muốn đặt hoa trước vị thánh nào đó phải không? Bà thú nhận bà là người
ngoại đạo, bà làm việc này theo yêu cầu của đứa con trai của bà. Nhưng thật
đáng tiếc, bà không biết đâu là thánh Martinô, rồi bà tiếp tục tâm sự: gia đình
bà đều ngoại giáo, cách đó nhiều năm đứa con trai của bà học lớp 9, theo các
bạn bè Công giáo đến khấn xin thánh Martinô cho học hành tốt đẹp và tất cả
chúng đã đạt được như ý. Kể từ đó, hàng năm vào ngày 3/11 lễ thánh Martinô nó
vẫn mang bông đến tạ ơn thánh nhân, nhưng bởi vì năm nay nó đi xa, nó vẫn nhớ
việc này và nhờ bà làm giúp cho nó.
Một người ngoại đạo họ
không biết Chúa, không đón nhận Phép Rửa, không cùng tuyên xưng đức tin với
chúng ta nhưng họ đã nhận ra nguồn hạnh phúc thật của sự sống. Họ ý thức rất rõ
và xác tín những gì họ đã đón nhận. Họ hiểu ra rằng tất cả cuộc đời của họ đều
là hồng ân. Họ chưa bao giờ tuyên xưng đức tin, nhưng họ đã luôn sống và thể
hiện đức tin: "Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi". Có thể nói, người
biết tạ ơn đó là người có thái độ biết cầu xin và biết đón nhận, hay là người
có thái độ tạ ơn Thiên Chúa, đó là người có đức tin.
Mỗi người chúng ta khi
cầu nguyện, chúng ta thường hay nhắm đến cầu xin và luôn luôn cầu xin cho chúng
ta, cho nên chúng ta đã quên mất rằng, tạ ơn là một trong những yếu tố quan
trọng trong đời sống cầu nguyện. Cùng với chúc tụng, sám hối, chúng ta cầu nguyện
hình như là để cầu xin Thiên Chúa thực hiện theo ý của chúng ta hơn là để chúng
ta nhận ra thánh ý Chúa và thực hành ý Ngài.
Chính thái độ đó mà
chúng ta cứ quay quắt trong ý định riêng tư và dằn vặt trong tính toán nên
không thể nào nhận ra được hồng ân cao cả đầy yêu thương của Thiên Chúa đang
thực hiện trong cuộc đời của mình. Nếu chúng ta ý thức một chút, chúng ta sẽ
nhận ra cuộc đời của chúng ta là cả một cuộc đời đầy những hồng ân. Vì vậy,
chúng ta phải chúc tụng, tạ ơn cả cuộc đời và cả một cuộc đời của chúng ta phải
là một cuộc đời tạ ơn liên lỉ.
Xin cho mỗi người chúng
ta vững mạnh trong đức tin để nhận ra trên thế giới này Thiên Chúa vẫn đang
sống, vẫn đang hành động, đang ở với chúng ta, để chúng ta chúc tụng và tạ ơn.
Giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin và xin cho mỗi người chúng ta
cũng sống trọn vẹn đức tin để chúng ta chúc tụng, tạ ơn Chúa.
8. Suy niệm của
Lm. Giuse Nguyễn Hữu Duyên
Những bài Thánh Kinh
hôm nay ít nhiều đều đề cập tới một tâm tình tự nhiên của con người: lòng biết
ơn. Tướng Naaman sau khi được khỏi bệnh đã quay trở lại gặp người của Thiên
Chúa với một lễ vật tạ ơn. Người phong hủi Samaria thấy mình được khỏi bệnh
liền quay trở lại tạ ơn Đức Giêsu. Những câu chuyện như thế không có gì đáng
nói, vì là lẽ thường tình trong xã hội. Nhưng ở đây tâm tình biết ơn có một
điểm nổi bật khiến cho Đức Giêsu phải ngạc nhiên và trân trọng: sự biết ơn phát
xuất từ lòng tin và là lời diễn tả lòng tin.
Trong một chỗ khác
trong Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói về Naaman "Cũng thế, trong thời tiên tri
Êlisêô có nhiều người bị phong cùi trong Israel, nhưng không ai trong họ được
chữa lành, chỉ có Naaman, người dân ngoại.", để ca ngợi lòng tin của viên
sỹ quan A-ram này. Cũng như ở đây, Đức Giêsu không khỏi đau đớn khi lên tiếng
hỏi "Không phải cả mười người đều được khỏi bệnh sao? Thế thì chín người
kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại
quốc này?" Và Người dã đưa ra kết luận "Đứng dậy và đi! Lòng tin của
con đã cứu con". Rõ ràng, lòng biết ơn là điều thường tình, nhưng biết ơn
bởi lòng tin thì là một điều thật họa hiếm. Sự biết ơn trong cuộc sống xã hội
thường chỉ phát xuất từ quyền lợi bản thân: muốn người làm ơn có một cái nhìn
thiện cảm và vui lòng. Ngay cả trong tôn giáo, thường cũng chỉ gặp được những
lời tạ ơn như thế.
Tiên tri Êlisêô, và cả
Đức Giêsu nữa khi bắt người bệnh của mình phải đi tắm ở sông Giođan hay đi
trình diện với các tư tề là để họ phải đặt mình trước ngưỡng cửa đức tin.
Naaman, và người phong hủi thời Đức Giêsu qủa thực đã phải đấu tranh với bản
thân mình để có sự vâng phục trong đức tin. Đức tin không cắt đứt người tin
khỏi những tương quan trong cuộc sống, nhưng giúp con người biết nhìn mỗi tương
quan ấy trong cái nhìn của Thiên Chúa. Naaman muốn dâng lễ vật cho Êlisêô, điều
đó sẽ làm cho đức tin vừa chớm nở nơi Naaman bị tổn thương, nên người của Thiên
Chúa đã trả lời "Trước mặt Đức Chúa hằng sống là Đấng tôi phục vụ, tôi thề
sẽ không nhận gì cả". Naaman đã hiểu để tạ ơn ông phải làm cho chính trọn
vẹn đời sống trở thành Lễ Tế cho Thiên Chúa. Người phong hủi Samaria cũng nhận
được một lệnh truyền tương tự "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu
anh." Lời tạ ơn phải là cả hành trình đời sống thường ngày trong lòng tin.
Chúng ta sẽ không hiểu
đúng tâm tình tạ ơn theo đức tin, nếu không cùng thánh Phaolô chiêm ngưỡng Lễ
Tạ Ơn của chính Đức Giêsu. Bằng một gợi nhớ thật vắn gọn, nhưng thánh Phaolô đã
cho thấy Lời Tạ Ơn của Đức Giêsu xuất phát từ đâu, và đi về đâu "Con hãy
nhớ đến Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chỗi dậy từ cõi chết, Đấng xuất thân từ dòng
dõi Đavít." Lời Tạ Ơn đi từ nhập thể, ngang qua sự chết và sống lại vinh
hiển. Đó là sự VÂNG PHỤC ĐỨC TIN toàn hảo của Đức Giêsu đối với LÒNG TRUNG TÍN
tuyệt đối của THIÊN CHÚA trong GIAO ƯỚC của Ngài "Người vẫn một lòng trung
tín, vì Người không thể nào chối bỏ lời hứa của mình." Lời tạ ơn như thế,
đòi hỏi người tin "cùng chết với Người" "cùng kiên tâm chịu đựng
với Người". Lễ Tạ Ơn bắt nguồn và hình thành trong chính cuộc sống.
Người Kitô hữu chúng ta
ngày nay thường muốn đóng khung lễ tạ ơn của mình trong nhà thờ, nơi đền đài. ở
đó họ đôi khi cũng rất quảng đại, nhưng cuộc sống của họ lại là nơi của những
thần tượng khác. Thật đau lòng thay.
Cuộc sống hôm nay thật
qúa nhiều khó khăn: nhiều gia đình phải bươn trải từng ngày cũng không đủ sống.
Lại thêm bị ám ảnh chiến tranh, người ta bắt đầu có khuynh hướng thu gom và
tích trữ, và dường như cố quên đi những mảnh đời đau khổ. Lời Tạ Ơn không còn
là "cùng cam chịu chết, cùng cam chịu đựng". Đức Giêsu "hôm
qua,hôm nay và mãi mãi" vẫn là "đồng hình đồng dạng" với những
con người lam lũ đễ làm thốt lên trong lòng họ NIỀM TIN vào lòng Thương Xót của
Thiên Chúa, và biến cuộc đời những con người cùng khổ thành Lời Tạ Ơn và Chúc
Tụng, bằng sự hiến thân đến cùng cho họ. Lễ tạ ơn của chúng ta phải là "lễ
tạ ơn" của những con người đang bị khủng bố, bị bom đạn dày xéo, bị lũ lụt
cuốn trôi. Chính trong thời điểm khó khăn của chính mình, sự hiến tặng tình
thương của mỗi người mới là của lễ mà Thiên Chúa chờ đợi.
Từ quan điểm ấy, một
lần nữa tôi tha thiết mời gọi sự giúp đỡ đặc biệt cho anh em bị lũ lụt của
chúng ta. Sự khó khăn của chúng ta không thể là lý do để chúng ta khép lại Tình
Thương Trung Tín của Thiên Chúa.
9. Lòng biết ơn
– Lm Ignatio Trần Ngà
(Trích dẫn từ 'Cùng Đọc
Tin Mừng')
Sau một trận động đất
dữ dội hoặc một vụ khủng bố tựa như đã xảy ra tại Trung Tâm Thương Mại NewYork
tháng 11 năm 2001, một số người bị vùi dưới hàng khối bê tông và gạch đá, nhưng
không bị chết ngay vì được nằm lọt vào một khoang trống. Trong khoảng không
gian chật khít người, vừa tối tăm vừa ngột ngạt đó, họ dùng điện thoại di động
gọi về gia đình, gọi cho nhân viên cứu hộ đến cứu giúp. Mạng sống của họ chỉ
được tính từng giây!
Trong những giờ phút
kinh hoàng như thế, người ta cảm nhận rằng được sống thêm mươi phút nữa, dù chỉ
thêm mươi phút nữa thôi, cho đến khi toán cấp cứu đến kịp, là cả một hồng ân vô
cùng lớn lao. Và đang lúc gần như bị chôn sống dưới cả một núi bê tông như thế,
họ nghiệm thấy rằng được tự do hít thở như bao nhiêu người khác bên ngoài là
một ân huệ vô cùng quý báu; được uống vài ngụm nước lúc nầy thì thật sung sướng
không gì bằng...
Mươi phút sống... một
chút không khí trong lành... mấy ngụm nước... là những gì mà những người lâm
nạn hết lòng khao khát và ước mơ, nhưng những ước mơ giản dị đó đã không đến
được với nhiều nạn nhân bị chôn vùi ở nhiều nơi vì tai nạn hầm mỏ, vì nạn khủng
bố hay động đất... nhưng những ân huệ đó đang ở trong tầm tay chúng ta cách dồi
dào và dư dật. Chúng ta có thừa những gì mà những người lâm nạn đang mơ ước.
Thế mà chúng ta không xem đó là ân huệ, mà chỉ xem đó là chuyện thường tình.
Nước, không khí, ánh
nắng mặt trời... chỉ là một vài trong vô vàn ân huệ Thiên Chúa rộng ban cho mọi
người. Đếm sao cho xiết những ân huệ Chúa ban. Vậy mà số người nhận ra và tỏ
lòng tri ân Thiên Chúa thì vô cùng khan hiếm.
Khi Chúa Giêsu đi qua
biên giới Samaria thì gặp mười người phong cùi. Họ là những người mang số phận
bi đát. Vì mắc bệnh truyền nhiễm đáng sợ, họ bị xã hội Do-thái thời bấy giờ xua
ra khỏi gia đình, làng mạc, cách ly với tất cả mọi người. Những con người bất
hạnh nầy tụ tập với nhau, sống trong các hang hốc ngoài đồi núi, áo quần tả
tơi, đầu tóc bù xù và buộc phải để đầu trần, đi đâu phải lấy tay che miệng và
hô lên báo hiệu cho người qua lại biết mà lánh xa. Vì thế, họ không được phép
lại gần Chúa Giêsu để xin Ngài cứu chữa. Họ phải đứng đằng xa kêu lên:
"Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi".
Theo luật quy định, nếu
có người nào mắc bệnh phong có cơ duyên lành bệnh, thì phải đến trình diện với
các tư tế, để khám xét lại. Nếu thực sự được lành bệnh thì họ mới được cho hoà
nhập với cộng đồng. Chúa Giêsu bảo mười người phong đến trình diện với các tư
tế là vì lý do đó. Họ đã đi trình diện, đã được chứng nhận là khỏi bệnh, nhưng
chỉ có một người xứ Samari, người được xem là thuộc phường rối đạo, biết quay
trở lại tôn vinh Thiên Chúa và cảm tạ Chúa Giêsu. Còn chín người kia thì không.
Chưa được ơn thì van vái cầu xin, được ơn rồi thì nín thinh như hến.
Chuyện kể rằng có hai
thiên thần được Thiên Chúa sai xuống trần, một vị có nhiệm vụ thu gom những lời
cầu khẩn van xin của con người; còn vị kia thì đi thu nhặt những lời tạ ơn
người ta dâng lên Chúa. Chỉ vài giờ sau, vị thiên thần có nhiệm vụ thu gom lời
cầu nguyện van xin của nhân loại vội vã trở về vì hai va-li lớn của ngài đầy
cứng và nặng trịch vì những lời cầu khẩn, khiến ngài hầu như không cất cánh nổi
để bay về. Chờ mãi không thấy thiên thần kia trở lại, Thiên Chúa lại sai một vị
thiên thần khác xuống thế kiếm tìm, thì mới hay là thiên thần thứ hai đang rảo
khắp phố phường, khắp hang cùng ngõ hẻm suốt cả tháng trời mà chẳng gom góp
được bao nhiêu lời tạ ơn nên còn phải lặn lội đến những nơi xa xôi hiểm trở may
ra có thể kiếm thêm được ít gì nữa chăng!
Dấu hiệu để nhận ra
người có văn hoá là biết nói tiếng cám ơn. Trong xã hội văn minh, dường như hai
tiếng cám ơn liên tục được phát ra làm ấm lòng người nghe và làm tăng thêm giá
trị của người nói. Người biết nói tiếng cám ơn, khi được người khác làm ơn cho
mình, cả trong những điều nhỏ nhặt, được đánh giá là người văn hoá, văn minh.
Ước gì trong tương quan
với Chúa, mỗi người chúng ta cũng không thua kém những người khác trong xã hội
thế trần, biết nhận ra hồng ân Thiên Chúa bao phủ đời mình và luôn dâng lời cảm
tạ Thiên Chúa vì hồng ân Ngài tuôn ban trong suốt dòng lịch sử đời mình. Và lời
tạ ơn đẹp nhất, xứng hợp nhất, là cùng với Chúa Giêsu dâng hy tế tạ ơn Thiên
Chúa Cha qua mỗi thánh lễ hằng tuần.
10. Lòng biết
ơn - Lm. Trần Việt Hùng
Có một vở kịch, nhan đề
'Phố Của Chúng Tôi' (Our Town), nơi đó có một người phụ nữ trẻ bị chết. Việc
xảy ra là cô ta được Chúa cho phép trở lại dương thế để sống lại một ngày của
đời cô. Cô chọn ngày sinh nhật của tuổi 12. Trở lại thế gian, mới vài giờ trôi
qua, cố ta la lớn 'Tôi không thể, tôi không thể tiếp tục. Thời gian trôi qúa
mau. Tôi không có thời gian để ngắm nhìn nhau... Ôi dương gian quá tuyệt vời
cho bất cứ ai nhận ra nó. Rồi, với dòng lệ tuôn rơi, cô hỏi, 'Con người có cảm
nhận được đời sống, trong khi họ đang sống ở trần gian không? Tiếng thầm trả
lời cô, 'Không'. Các thánh và các thi sĩ có thể – đôi khi họ nhận ra.
Trong sách Các Vua kể
câu truyện ông tướng Naaman được tiên tri của Chúa chữa lành bằng cách bước
xuống sông Giođan tắm bảy lần. Naaman được thanh sạch các dấu vết của bệnh tật.
Ông đã tỏ lòng tôn kính Thiên Chúa và trở lại dâng lời tạ ơn vị tiên tri của
Chúa: Sau đó, ông và đoàn tuỳ tùng trở lại gặp người của Thiên Chúa. Đến nơi,
ông đứng trước mặt người của Thiên Chúa và nói: "Thật tôi biết không có
Thiên Chúa nào khác trên hoàn vũ, ngoài một Thiên Chúa ở Israel. Vì thế, tôi
xin ông nhận lấy phần phúc của tôi tớ ông" (2V 5, 15). Trước khi được rửa
sạch tì vết phong cùi, Naaman là người dân ngoại. Ông chưa bao giờ nhận ra hồng
ân sự sống và cuộc sống. Vâng lời người của Chúa, bước xuống dòng sông và bảy
lần ngụp lặn dưới dòng nước, Naaman được hoàn toàn đổi mới. Từ ân huệ nhỏ được
chữa lành, ông nhận ra ân huệ của sự sống và Đấng ban sự sống.
Naaman đã thay đổi tận
tâm can. Ông đã hoàn toàn đổi hướng. Giờ đây, ông đã chọn Chúa làm gia nghiệp
cuộc đời: Naaman nói thêm rằng: "Tuỳ ý ông, nhưng tôi xin ông ban phép cho
tôi, là đầy tớ của ông, được chở một ít đất vừa sức hai con la chở được, vì từ
nay ngoài Chúa, tôi tớ của ông sẽ chẳng dâng của lễ toàn thiêu hoặc hy lễ cho
thần minh nào khác" (2V 5, 17). Qua sự khiêm cung và lòng thành tín,
Naaman đã được Thiên Chúa chữa lành. Ông đã nhận lãnh hồng ân thanh tẩy cả hồn
lẫn xác. Với lòng tri ân, ông đã trở lại tìm đến người của Chúa. Ông đã xưng
tụng danh Thiên Chúa và tôn thờ Chúa. Một thái độ khôn ngoan tuyệt vời. Cũng
thế, đã nhiều lần Chúa chữa lành tâm hồn thể xác của chúng ta. Mấy khi chúng ta
nhận diện ra lòng thương xót và tình yêu của Chúa để dâng lời tạ ơn.
Biết rằng mọi sự trên
thế gian này đã qua, đang qua và sẽ qua mau. Mỗi ngày chúng ta sống là mỗi giây
phút rút bớt đời sống của chúng ta. Chẳng mấy ai nói rằng cuộc sống như thế là
qúa đủ hay quá dài. Cho dù người thượng thọ cao niên vẫn muốn sống thêm, dù một
ngày vắn gọn. Chúng ta cần trân quí món qùa của sự sống. Mỗi giây phút sống là
hồng ân Chúa ban. Nếu buông bỏ giữa chốn hoang địa, chúng ta đã biến mất từ
lâu. Ngay từ lúc được thụ thai trong lòng mẹ, chúng ta đã tùy thuộc vào người
khác. Cha mẹ sinh chúng ta vào đời trần trụi. Từng giây phút, chúng ta bắt đầu
nhận lãnh và chịu ơn suốt dọc cuộc sống. Hồng ân sự sống là cao trọng nhất.
Thiên Chúa đã an bài môi trường chung quanh để đón nhận chúng ta vào đời. Xã
hội con người đã gầy dựng và dọn sẵn sàng để đáp ứng nhiều nhu cầu cuộc sống.
Chúng ta chỉ cần cố gắng bỏ công sức để đón nhận, góp phần và hoàn thành sứ mệnh.
Sự liên đới trùng điệp
ân phước trong cuộc sống có một giây truyền nối tiếp. Kẻ đến trước, người tới
sau. Ai cũng nhận ơn và cần có thái độ biết ơn. Biết ơn, cám ơn, tạ ơn, tri ân,
mang ơn và trả ơn nói lên tính ưu việt của con người. Càng biết ơn, chúng ta
càng sống làm người hơn. Chúng ta biết rằng không có sự gì là tự nhiên mà có.
Phàm bất cứ sự gì đều có nguyên nhân và hậu qủa. Điều quan trọng là chúng ta
nhận diện ra những hoa trái mà chúng ta đang thụ hưởng, cả tinh thần lẫn thể
chất. Người đời rất đau lòng vì sự vô ơn, bạc nghĩa và phản phúc. Người ta nói
là: Ăn cháo đái bát. Còn ngại hơn nữa khi thiên hạ nói: Cứu vật, vật trả ân.
Cứu nhân, nhân trả oán. Cho dù sự giúp đỡ rất nhỏ nhoi lúc khởi đầu, nhưng đó
chính bậc thang để giúp chúng ta tiến lên: Có bột mới gột nên hồ là thế. Tha
nhân chính là ân nhân. Ai cũng có vô số các ân nhân ẩn danh trong cuộc sống.
Tất cả những kiến thức và của cải chúng ta đang hưởng dùng, đều có sự đóng góp
công sức của người khác. Thái độ biết ơn phải được trải dài mọi nơi và mọi lúc.
Trong bài phúc âm tường
thuật câu truyện mười người phong cùi được Chúa chữa lành, nhưng chỉ có một
người ngoại giáo trở lại dâng lời tạ ơn Chúa. Câu truyện làm cho chúng ta phải
tự vấn lương tâm. Có thể chúng ta là những người tín hữu rất chân thành, nhưng
bị loại tên ra ngoài. Thánh Luca tường trình: Một người trong bọn họ thấy mình
được lành sạch, liền quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Thiên Chúa, rồi đến sấp
mình dưới chân Chúa Giêsu và tạ ơn Người, mà người ấy lại là người xứ Samaria (Lc
17, 15-16). Qua các Bí Tích trong Hội Thánh, chúng ta được rửa sạch tội nguyên
tổ, được tha thứ các tội riêng, được nhận lãnh các ân sủng và nhận của ăn chữa
lành và dưỡng nuôi hồn xác, bấy nhiêu cũng đủ để chúng ta luôn nhớ dâng lời tạ
ơn Chúa.
Chúa Giêsu không trách
cứ những người đã được ơn chữa lành phong cùi. Chúa ngạc nhiên không thấy họ
trở lại tôn vinh Thiên Chúa: Không thấy ai trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ
có người ngoại bang này (Lc 17, 18). Người làm ơn không đòi phải trả ơn. Nhưng
người nhận ơn, có bổn phận cám ơn. Chúa nhắc nhở mỗi người chúng ta đừng bao
giờ quên tạ ơn vì những ân phúc đang được vui hưởng. Truyện kể: Bob Evans, một
người bị mù từ khi mới sanh. Năm 50 tuổi, nhờ cuộc giải phẫu, mắt của ông đã
được nhìn thấy lần đầu tiên. Ông đã vui sướng một cách ngoại thường. Thế giới
của ông đã thay đổi ngoài sức tưởng tượng. Qua bài phỏng vấn trong tờ báo, ông
chia sẻ vài điều rất phấn khởi, "Tôi không thể đợi tới buổi sáng thức dậy
để nhìn xem những cái tôi có thể nhìn thấy. Mọi sự qúa kinh ngạc trong thế
giới. Ban đêm, tôi ngắm nhìn các vì sao lấp lánh...tôi như bay bổng trên cao.
Bạn không nhận biết mọi sự mà bạn nhìn thấy là qúa tuyệt vời sao!
Chúng ta trải nghiệm
cuộc sống với biết bao hồng ân. Thời gian sống thật quí báu. Chúng ta đã hoang
phí biết bao thời gian trong đời một cách vô ích. Đôi khi chúng ta than rằng
sao mà ngày dài thế, thời gian chán nản quá và tìm mọi cách để quên và giết
thời gian. Thiệt là uổng phí! Thảm kịch của đời sống là chúng ta cố đạt tới
cùng đích và chẳng bao giờ sống thực sự. Chúng ta chạy theo thời gian để hoàn
thành hết ước mơ này sang ước mơ khác. Ít khi chúng ta dừng tâm lại để nhận
biết sự hiện hữu thực sự trong tâm tình biết ơn. Biết ơn có nghĩa là chúng ta
nhận diện và chạm tới cuộc sống. Tôi đang sống trong giây phút tuyệt đẹp này,
đang hít thở thật đầy, ngắm nhìn thật kỹ và an hưởng tất cả những gì hiện diện
chung quanh.
Thánh Phaolô trong thơ
gởi cho Timôthêô đã khuyên răn một cách rất chân tình: Nếu chúng ta kiên tâm
chịu đựng, chúng ta sẽ cùng thống trị với Người. Nếu chúng ta chối bỏ Người,
thì Người cũng sẽ chối bỏ chúng ta (2Tm 2, 12). Ngài vạch rõ con đường phải đi
để được lãnh nhận ơn cứu độ. Chúng ta không có con đường nào khác ngoài sự tin
tưởng và phó thác vào Đức Kitô. Tất cả những sự khổ đau đời này rồi cũng sẽ qua
mau. Những khổ đau của chúng ta ở thế gian này chẳng là chi, so với hạnh phúc
Nước Trời mà Chúa đã hứa ban.
Lạy Chúa, hồng ân Chúa
bao la tuyệt vời. Từng hơi thở, từng nhịp sống và từng giây phút trong đời là
những ân huệ Chúa thương ban. Chúng con chỉ biết cúi đầu tạ lễ và xin ơn phúc
lành của Chúa. Cảm tạ ơn Chúa và tri ân đồng loại suốt cả đời.
11. Chín người
kia đâu?
Suy Niệm
Mười người phong đón
gặp Đức Giêsu. Họ chỉ dám đứng xa, nài xin Ngài thương xót. Đức Giêsu không
chữa cho họ ngay, Ngài muốn thử thách lòng tin của họ. Ngài bảo họ hãy đi trình
diện với các tư tế như thể họ đã được khỏi bệnh rồi. Mười người phong đã vâng
phục lên đường, và chính trên đường đi, tất cả được khỏi bệnh.
Niềm vui bất ngờ ùa vào
lòng mọi người. Cả nhóm tiếp tục cuộc hành trình, trừ một người phong ở vùng
Samari.
Lòng biết ơn đối với
Đức Giêsu khiến anh quay lại, sấp mình dưới chân Ngài mà tạ ơn.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu ngạc nhiên
đặt câu hỏi.
Chắc họ đã đi trình
diện các tư tế như lời Đức Giêsu, nhưng họ quên Đấng mới ban ơn cho họ.
Họ vui mừng ngừng lại ở
quà tặng, nhưng không vươn tới người tặng quà.
Họ đã có lòng tin nên
được khỏi bệnh, nhưng họ lại thiếu lòng biết ơn cần thiết.
Lòng biết ơn khiến lòng
tin trở nên sâu xa hơn, vì là gặp lại chính Đấng đã ban tặng.
Chín người kia đâu?
Đức Giêsu không làm
phép lạ để được biết ơn. Ngài mong những người kia trở lại để gặp họ, và trao
cho họ chính con người Ngài. Điều này còn quý hơn cả ơn được khỏi bệnh.
Ơn lành bệnh chỉ là
nhịp cầu để ta gặp gỡ Đấng ban ơn, và lớn lên trong niềm tin cậy mến.
Chín người kia đâu?
Có khi tôi thường thuộc
về nhóm chín người. Tôi quá quen với những ơn Chúa ban, đến độ thấy đó là
chuyện bình thường, đến độ không thấy cần phải tỏ lòng biết ơn.
Thật ra, biết ơn phải
là tâm tình chủ yếu chi phối lời cầu nguyện và cuộc sống của tôi.
Toàn bộ đời tôi là một
hồng ân, một quà tặng. Tôi muốn sống đời tôi như một lời tạ ơn không ngừng.
Tạ ơn là mãn nguyện về
những gì đã lãnh nhận, là thấy mình được bao bọc bởi Tình Yêu, và muốn làm mọi
sự để đáp lại Tình Yêu đó.
Người phong vùng Samari
đã trở lại tôn vinh Thiên Chúa, vì Ngài đã chữa anh lành bệnh qua Đức Giêsu.
Chúng ta cũng đã nhận
được biết bao ơn Chúa từ tay những người xa lạ hay thân quen.
Xin cám ơn cuộc đời,
cám on mọi người.
Đời tôi là quà tặng của
Chúa cho tôi. Ước gì nó thành quà tặng của tôi cho mọi người.
Gợi Ý Chia Sẻ
Ngày nay người ta nói
nhiều về lòng biết ơn đối với thầy cô, cha mẹ. Theo bạn, tại sao nhiều bạn trẻ
vẫn sống một cách lãnh đạm, vô ơn?
Có khi nào bạn tạ ơn
Chúa vì những khó khăn và vấp ngã trong cuộc sống không? Bạn có thấy những mảng
tối trong đời bạn cũng có thể là một ơn không?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì những
ơn Cha đã ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là
ơn.
Con biết rằng con đã
nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau khổ vì
những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng ân sủng.
Tạ ơn Cha vì những gì
Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha muốn ban
cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững tin
vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
12. Ưu tiên cho
việc tạ ơn - Achille Degeest
(Trích dẫn từ 'Lương
Thực Ngày Chúa Nhật')
Theo lề luật Do thái,
bệnh phong hủi phải được một tư tế kiểm chứng và kẻ bất hạnh bị tuyên bố là 'ô
uế', bị gạt ra ngoài lề xã hội, nói với ai phải đứng đàng xa. Tên bệnh ấy thời
xưa chỉ nhiều chứng bệnh ngoài da. Lâu lâu có người khỏi bệnh, họ cũng phải
được một tư tế kiểm chứng, sau đó được trở về sinh hoạt bình thường. Như vậy,
chúng ta hiểu tại sao Đức Giêsu dạy mười kẻ tật phong hãy đi trình diện các tư
tế để được nhìn nhận lành bệnh. Trong số mười bệnh nhân, chỉ có mỗi một kẻ trở
lại tạ ơn Thiên Chúa. Sau khi nêu rõ sự vô ơn của chín bệnh nhân kia, Chúa nhấn
vào ba điểm: Kẻ biết ơn quê xứ Samaria, nghĩa là một kẻ ngoại giáo đối với
người Do thái –kẻ ấy công khai tôn vinh Thiên Chúa– và được chữa lành vì có đức
tin. Một số người nghĩ rằng, Chúa giải thích như vậy, phải chăng Người muốn
gián tiếp xác nhận thần tính của Người. Dẫu sao chúng ta có thể nêu ra hiểm họa
tội vô ơn nấp trong lòng người ta, nó là hình thức gớm ghiếc nhất của tính ích
kỷ. Chúng ta cũng nhấn thêm vào bổn phận cảm tạ Thiên Chúa.
1) Tại sao chín kẻ
phong hủi không nghĩ đến việc phải làm trước hết là trở lại tạ ơn Đức Giêsu?
Chắc hẳn họ hấp tấp
muốn được xác nhận khỏi bệnh thật sự để sớm trở về trong xã hội. Họ quan tâm
trước nhất đến việc đó, họ chỉ biết nghe theo tư lợi mà quên bẵng việc tạ ơn,
hoặc giả nghĩ rằng tạ ơn sau cũng được, nghĩa là sẽ tạ ơn vào lúc quá muộn.
Giữa một bên là quyền lợi về mặt xã hội vì khỏi bệnh, bên kia là tâm tình muốn
tạ ơn tức khắc, họ đặt ưu tiên cho quyền lợi của họ. Đức Giêsu tỏ thái độ bằng
cách lên án chủ nghĩa hình thức, nó bóp nghẹt tâm hồn. Chúa còn lên án như vậy
nhiều lần nữa, nhất là khi nói đến ngày Hưu lễ. Không bao giờ Chúa coi rẻ Lề
Luật, nhưng Người cho biết tín hữu nào tuân thủ Lề Luật mà thiếu đức tin sống
động thì chẳng còn giữ được tình nghĩa con người. Chúng ta kết luận: Nếu vì
tuân thủ Lề Luật, dẫu là Lề Luật Kitô giáo, mà quên mất những đức tính tự nhiên
hoặc không nhớ đến sự khẩn thiết trước tiên của đời sống nội tâm –con người lúc
đó không còn giữ được tinh thần tuân thủ đích thực.
2) Bổn phận tạ ơn.
Theo định nghĩa tôn
giáo; tạ ơn là tâm tình biết ơn, thán phục, tôn vinh, sùng kính, dâng lên Thiên
Chúa. Phúc Âm và Tân Ước trình bày Đức Giêsu là hiện thân của sự tạ ơn. Phúc Âm
cho thấy con người ít có xu hướng tạ ơn không vị lợi, trong khi Đức Giêsu thì
thường xuyên trong trạng thái tạ ơn Cha Người. Theo lời khuyên của thánh
Phaolô, thái độ gương mẫu của Đức Giêsu phải là thái độ tất nhiên của người
Kitô hữu. "Anh em hãy để cho lòng chan chứa niềm tri ân cảm tạ" (Cl
2,7) – vì nhiều lẽ: vì ân huệ đức tin, vì ơn cứu chuộc, vì đức ái của Đức Kitô
tràn đầy tâm hồn, vì Thánh Thần ngự trong Kitô hữu. Sống kết hợp với Đức Kitô
là sống trong niềm tạ ơn Thiên Chúa.
13. Hãy dâng
lời ngợi khen và tạ ơn Thiên Chúa
(Trích trong 'Mở Ra
Những Kho Tàng' - Charles E. Miller)
Thánh Lễ lớn lao là
hành động trung tâm tôn giáo của chúng ta là những người Công giáo. Bởi vì
Thánh Lễ là hành động của Đức Kitô Thượng Tế và Thân Thể Ngài là Giáo Hội, đó
là một tác động thánh vượt trên hết cả mọi cái khác. Không có gì có thể ngang
với sức mạnh quyền năng của Thánh Lễ, có thể thay thế sự quan trọng của Thánh
Lễ (x. Hiến chế về phụng vụ, đoạn 7).
Thánh Lễ thì giàu có
phong phú mà chúng ta không có thể nào lưu lại hoặc nghĩ về trong một dấu hiệu
đơn độc. Thánh Lễ là một hy tế không đổ máu của thánh giá, đó là bữa ăn tối của
chúng ta, đó là việc tưởng nhớ sống động về mầu nhiệm Vượt Qua, và bí tích của
sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, đó là Thân Mình thật của Ngài đã được tuôn
đổ vì chúng ta, đó là bữa tiệc thánh mà trong đó Đức Kitô đã tiêu hủy Mình hoàn
toàn, đó là những lời nài xin và lời hứa từ sự Phục Sinh và cuộc sống đời đời.
Giữa những chỉ định rực rỡ này của Thánh Lễ, nhiều vị tư tế và dân chúng kể từ
Công đồng Vatican II đã thường sử dụng một từ, từ đó là"hy tế Thánh Thể,
Euchris".
Euchris là một từ Hy
lạp được dùng trong Tân Ước mà chúng ta đã chuyển dịch sang là: "Dâng lời
tạ ơn". Dâng lời tạ ơn có liên quan đến sự biết ơn mà chúng ta mắc nợ
trong thời gian nơi bạn bè, cũng như nơi liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa;
vì lý do này vị linh mục đọc: "Hãy để chúng ta dâng lời tạ ơn Chúa là
Thiên Chúa chúng ta". Đáp lại: "Thật chính đáng để dâng lên Ngài lời
tạ ơn và ngợi khen" và thêm lời"ngợi khen" là để chúng ta biết
mình phải dâng lời tạ ơn lên Thiên Chúa. Chúng ta nhận biết rằng quan hệ của
chúng ta với Cha trên trời, Đấng là Chúa và là Thiên Chúa chúng ta.
Hãy nhớ dâng lời tạ ơn
là việc tốt đẹp, đừng để cho việc đó trở nên xấu xa. Khi một người trong mười
người bị bệnh hủi đã được chữa lành trở lại ngợi khen Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã
hỏi: "Còn chín người kia đâu?". Chúng ta hầu như có thể nghe lại câu
hỏi thất vọng của Ngài. Chúng ta cũng không cần làm thất vọng Chúa Giêsu và Cha
của Người. Hãy nhớ rằng Thánh Lễ là hy tế tạ ơn của chúng ta là lời tạ ơn của
chúng ta dâng cho Thiên Chúa.
Tất cả chúng ta đều có
lý do để dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trong Thánh Lễ. Hôm nay chúng ta có thể ước
ao cám ơn Chúa vì đặc ân sự sống nơi một em bé sơ sinh, hoặc chúc sức khỏe đã
được phục hồi nơi một người già lão bệnh hoạn. Chúng ta cũng có thể dâng lời tạ
ơn Thiên Chúa về công việc sau một thời gian dài thất nghiệp, cho một giải pháp
nơi một gia đình đang tranh cãi, hoặc cho một sự độ lượng của một người bạn
tốt. Mỗi Chúa Nhật chúng ta cần hồi tâm lại về những động lực cá nhân của chúng
ta để dâng lời cám ơn. Tiếp đó, chúng ta hãy nhớ rằng luôn luôn ở mọi nơi, mọi
lúc là phải tạ ơn Thiên Chúa, đơn giản bởi vì Chúa là Thiên Chúa của chúng ta.
Dâng lời tạ ơn diễn tả quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa.
Tạ ơn là một điều mà
Naaman người Syria đã muốn dâng lên Thiên Chúa. Ông đã được tẩy sạch bệnh phong
cùi sau khi đã tắm bảy lần trong dòng nước của sông Giođan. Ông đã yêu cầu lấy
hai thúng đất của Israel để xây nên một Đền Thờ trên Syria, nơi quê hương của
ông, để từ nơi đó ông có thể dâng lời tạ ơn với Thiên Chúa. Kinh nghiệm của ông
như là một dấu hiệu của phép rửa chúng ta. Chúng ta đã rửa sạch trong phép rửa
và đã được thông dự vào chức tư tế của Đức Kitô. Phép rửa kêu gọi chúng ta trở
thành một dân thờ lạy Thiên Chúa, dâng cho Ngài lời tạ ơn và ngợi khen. Nhưng
chúng ta không cần đất đặc biệt, không cần một vị trí đặc biệt, để dâng lời tạ
ơn cho Thiên Chúa. Bất cứ khi nào Thánh Lễ cử hành, đó là lễ dâng đẹp nhất của
lời cám ơn và ngợi khen Thiên Chúa. Đối với chúng ta luôn luôn mọi nơi và mọi
lúc đều có thể dâng lời cám ơn Thiên Chúa và chúng ta làm điều đó khi cử hành
hy tế Thánh Thể.
14. Tất cả là
hồng ân
(Trích trong 'Niềm Vui
Chia Sẻ')
Đầu tháng 10 năm 1962,
chiếc phi cơ hàng không PanAm (Mỹ), chở mấy trăm Giám mục người Mỹ đi họp Công
Đồng chung Vatican II. Trong hai cô tiếp viên hàng không phục vụ hành khách, có
một cô kiều diễm tuyệt vời. Đức Cha Fulton Sheen, Tổng Giám Mục giáo phận New
York đồng thời là một nhà văn và một nhà hùng biện nổi tiếng Nước Mỹ, đã lưu ý
đến sắc đẹp của cô tiếp viên nầy.
Thế rồi, khi phi cơ hạ
cánh, hai cô đứng bên cửa xuống cầu thang chào từ biệt và hành khách đáp lại
hai tiếng cám ơn. Nhưng đến lượt Đức Cha Fulton Sheen, người ta thấy ngài đưa
miệng ghé vào tai cô tiếp viên xinh đẹp kia mà nói nhỏ một câu gì không ai nghe
được.
Bốn tháng sau, khi khóa
I Công Đồng chung Vatican II kết thúc, các Giám Mục được về nước nghỉ. Một hôm,
cô chiêu đãi viên xinh đẹp nọ tìm đến gặp Đức Cha Fulton Sheen: "Thưa Đức
Cha, Đức Cha còn nhớ con là ai không?" – "Tôi còn nhớ lắm, Đức Cha
còn đáp. Cô là tiếp viên trên chiếc hàng không đưa chúng tôi đến Rôma". –
"Nhưng Đức Cha còn nhớ Đức Cha đã nói gì với con không?" – "Tôi
đã nói: có khi nào cô đã tạ ơn Chúa vì Ngài đã ban cho cô sắc đẹp tuyệt vời
không?" – "Thưa Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà hôm nay con đến hầu
chuyện Đức Cha, chính vì câu hỏi đó mà Cha nghĩ con phải làm gì để tạ ơn
Chúa?". Trước câu hỏi đột ngột, Đức Cha Fulton Sheen lúng túng không biết
trả lời làm sao. Ngài trấn tỉnh, chấp tay lên ngực, rồi ngước mắt lên trời như
thể xin ơn soi sáng. Trong chốc lát, ngài nói: "Cha vừa mới được một tin
từ Việt Nam: đó là Đức Cha Jean Cassaigne, một người Pháp đang là Giám Mục giáo
phận Sài Gòn, đã xin từ chức để đi phục vụ một trại phong cùi ở miền núi Di Linh
– Lâm Đồng. Nhưng người phong cùi ở đó khốn khổ lắm con ạ! Họ đang chờ cái chết
đến với họ. Vậy theo ý cha, cách tạ ơn Chúa đẹp lòng Ngài hơn cả và có ý nghĩa
hơn cả là con hãy hy sinh một thời gian, đem nụ cười xinh tươi, đem tiếng nói
dịu dàng, đem duyên sắc mặn mà của con để an ủi họ". Mặt cô tiếp viên tái
dần đi. Cô đứng lặng yên trong mấy phút. Đột nhiên cô cúi đầu tạm biệt không
nói một lời. Rồi từ đó không biết hai người còn gặp nhau hay thư từ liên hệ gì
nữa chăng. Nhưng đầu năm 1963, đài phát thanh cũng như báo chí ở Sài Gòn loan
tin: "Một nữ tiếp viên rất xinh đẹp của hãng hàng không Panam tình nguyện
đến Di Linh – Lâm Đồng để sống với những người phong cùi trong sáu tháng".
Thưa anh chị em,
Cái nhìn đức tin thúc
đẩy chúng ta tạ ơn Chúa là như thế đó. Nhận được ơn thì phải biết chia sẻ cho
người khác, để nói với Thiên Chúa và anh em mình rằng: "Tất cả đều là hồng
ân". Biết bao ơn lành lớn nhỏ Chúa tuôn đổ xuống trên cuộc đời chúng ta.
Có bao giờ chúng ta nhận ra những hồng ân ấy để dâng lên những lời cảm tạ mỗi
ngày không? Những điều chúng ta đang có tưởng rằng tầm thường, nhưng thật ra
lại rất phi thường. Đừng đợi khi mắt mù, tai điếc, cụt tay, què chân chúng ta
mới nhận ra có thân thể lành lặn là quý giá vô cùng. Nếu chúng ta biết cám ơn
những gì mình đang có, chúng ta sẽ biết cám ơn suốt đời vì tất cả những gì Ngài
đã ban cho.
Chúa Giêsu đã hỏi:
"Không phải cả mười người được khỏi phong cùi sao? Thế thì chín người kia
đâu, sao không trở lại tạ ơn Chúa, mà chỉ có một người ngoại giáo nầy
thôi?" Đối với người Do Thái, người bị phong cùi được coi như bị Thiên
Chúa chúc dữ và còn bị luật coi là người mắc ô uế nhơ bẩn, bị xã hội khai trừ,
phải sống biệt lập trong bãi tha ma, đi đâu thì phải lắc chuông lên tiếng báo
động cho người ta xa tránh.
Nhưng Chúa Giêsu không
xa tránh họ. Họ đã đến với Chúa như Chúa đến với họ. Vì Ngài là tình thương cứu
chữa. Chỉ có tình thương mới tìm đến với những con người bị bỏ rơi, bị loại
trừ. Trên đất nước chúng ta có hàng chục trại phong cùi. Một số trại do các tu
sĩ, nữ tu đảm nhận điều hành, chăm sóc các bệnh nhân. Nếu ở Việt Nam tên tuổi
của Đức Cha Jean Cassaigne gắn liền với trại phong cùi Di Linh thì danh tiếng
của Đức Cha Đamien còn vang vọng giữa hải đảo Milokai – Thái Bình Dương, người
mà nhà ái quốc Gandhi đã ca ngợi và nói: "Nên tìm hiểu đâu là nguyên do
phát sinh một cuộc sống anh hùng như vậy". Nguyên do của cuộc đời hy sinh
ấy là tình yêu mến Chúa như Chúa đã yêu thương chúng ta cho đến tận cùng.
Vậy khi chúng ta được
Chúa ban ơn, được mọi ơn lành hồn xác thì đừng quên cám ơn Chúa và đừng kiêu
hãnh khinh miệt kẻ khác. Thánh Inhaxiô nói: "Tội lớn lao hơn cả là tội vô
ơn". Trong nhóm 10 người phong cùi được Chúa chữa lành, chỉ có một người
đã trở lại cám ơn Chúa và người đó lại là người ngoại giáo. Nhiều khi chúng ta
được ơn Chúa, nhưng không biết cám ơn Chúa. Khi hoạn nạn thì khấn vái bốn
phương, khi được như ý thì quên lời đã nguyện hứa. Tệ hơn nữa, còn tự kiêu tự
phụ khinh miệt những người xấu số, bệnh tật, nghèo khó, phong cùi.
Cám ơn là dấu chỉ của
lòng tin. Chúa nói với người phong cùi biết ơn đang sụp lạy dưới chân Ngài:
"Anh hãy đứng dậy mà về, vì lòng tin của anh đã cứu chữa anh". Chính
lòng tin đã thúc giục người Samari phong cùi trở lại tạ ơn Chúa trước hết, đang
khi chín người Do Thái kia lo đi trình diện các tư tế để được xác nhận và được
hội nhập vào cộng đoàn. Trong bài đọc I hôm nay, quan Naaman sau khi dược lành
sạch phong cùi, cũng vì lòng tin đã tìm đến Ngôn sứ Êlizê và tuyên xưng lòng
tin vào Thiên Chúa: "Thật tôi biết, không có Thiên Chúa nào khác trên hoàn
vụ ngoài một Thiên Chúa của Israel".
Anh chị em thân mến,
Tạ ơn Chúa là dấu chỉ
của niềm tin. Tạ ơn Chúa không chỉ là chuyện lễ nghĩa, nhưng là nét đặc trưng
của những tâm tình mà con người phải có trước các ơn thiêng đã lãnh nhận từ
Thiên Chúa. Việc bẻ bánh ngày xưa cũng như Thánh lễ ngày nay là gì? Phải chăng
là tâm tình tạ ơn mà người Kitô hữu khiêm tốn và hân hoan dâng lên Thiên Chúa
là Cha vì hồng ân Ngài đã ban cho chúng ta trong Đức Giêsu? Phải chăng là
phương thế tuyệt hảo để chúng ta nhận thức lại sự phong phú đích thực của mình
và tìm lại bình an của niềm tin giữa những lắng lo cuộc sống?
Cũng chính trong tâm
tình tạ ơn đó, chúng ta họp nhau chung quanh Bàn Tiệc Thánh nầy để cử hành
Thánh Thể – Bí Tích Tạ Ơn. Ước chi lễ tế tạ ơn nầy đem lại cho chúng ta bình an
và niềm vui sướng vô hạn. Bình an và niềm vui của một đức tin đã gặp được Đấng
Cứu Độ.
15. Lòng biết
ơn
(Trích dẫn từ
'Vietvatican.org' - bài viết của Nguyễn Hiền Nhu)
Tin Mừng Lc 17, 11-19,
thánh sử Luca thuật lại câu chuyện xảy ra khi Chúa Giêsu đang trên đường tiến
lên Giê-ru-sa-lem. Có mười người phong hủi đón Ngài để xin Ngài chữa lành. Họ
không dám tiến tới gần Ngài nhưng chỉ đứng đằng xa. Họ cất tiếng thưa rằng:
"Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi". Ngài bảo họ đến trình diện
với tư tế, và họ đã vâng lời Ngài. Trên đường đi, tất cả mười người đều được
sạch. Trong mười người đó, có một người đã quay trở lại cám ơn Ngài.
Được sạch là một niềm
mong mỏi bấy lâu trong họ. Đã lâu lắm rồi, họ hằng khao khát được lành lặn,
được sống gắn bó với những người mình thương yêu. Nhìn thấy người ta áp má chúc
lành nhau, bắt tay hỏi han sức khỏe của nhau, họ ao ước được một lần như thế.
Sách Lê-vi viết rằng: "Người mắc bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc,
che râu và kêu lên: 'Ô uế! Ô uế!' Bao lâu còn mắc bệnh, thì nó ô uế; nó ô uế:
nó phải ở riêng ra, chỗ ở của nó là một nơi bên ngoài trại." (Lv
13,45-46).
Người bị bệnh phong bị
xem là ô uế. Họ bị tước quyền chung sống với những người thân quen; họ phải
sống riêng ra. Họ bị đẩy ra bên lề xã hội. Tôi còn nhớ thời gian tôi được gởi
đến sống với người phong tại Trại Phong Bến Sắn ở Bình Dương. Có một bệnh nhân
phong thuật lại với tôi câu chuyện của chị: một ngày kia, trên đường về nhà,
chị bước vào quán ăn để mua ít thức ăn cho con. Có một người phát hiện chị đến
từ trại phong, thế là người đó la lên, và tất cả lần lượt bỏ bàn ăn đi nơi
khác, cách xa chị. Thế đó, xã hội ngày nay, những bệnh nhân phong đang bị hất
hủi. Xã hội ngày xưa đối xử với người phong còn tệ hơn thế. Để bảo vệ những người
khác, họ buộc các bệnh nhân phong tự mình thốt lên "Ô uế! Ô uế!" (Lv
13,45) để người ta biết và tránh xa. Không ai dám đến gần bệnh nhân phong,
không ai dám làm bạn với họ. Họ bị cô lập. Có lẽ nỗi đau thể xác do đặt tính
của bệnh phong mang lại sẽ không nặng bằng nỗi đau tinh thần do sự kỳ thị của
xã hội gây ra cho họ.
Hơn thế nữa, xã hội Do
Thái thời bấy giờ quan niệm bệnh tật là do tội lỗi, người bị bệnh là người phạm
tội và bệnh là án phạt của Thiên Chúa. Như vậy, người phong hủi còn bị hao mòn
tinh thần từng ngày do mặc cảm tội lỗi.
Thấu cảm được vết
thương khốn cùng của những bệnh nhân, Chúa Giêsu đã chữa lành bệnh cho họ. Việc
chữa lành của Chúa không đơn thuần chỉ là việc chữa lành của một bác sỹ. Có lẽ
hơn ai hết, Chúa đã hiểu những khát khao sâu kín trong lòng của họ. Chúa bảo họ
đi trình diện tư tế, đi đến với người có thẩm quyền về phương diện xã hội cũng
như tôn giáo thời bấy giờ để được kiểm chứng đã thanh sạch. Theo luật Lê-vi,
một bệnh nhân phong khi được lành bệnh, phải đi trình diện với tư tế. Sau khi
được tư tế khám xét, nếu như họ đã được lành bệnh, thì sẽ được tư tế tuyên bố
là sạch. Khi được tuyên bố thanh sạch rồi, họ mới được quyền sống chung với xã
hội, mới được hưởng những gì cơ bản nhất của một thành viên trong cộng đồng (x.
Lv 13).
Từ thân phận người bị
xã hội đẩy ra ngoài, giờ đây, họ được đón nhận. Chính Chúa đã mang lại cho họ
niềm vui đó. Giờ đây, họ hoàn toàn có thể được sống chung với người thân, hoàn
toàn có thể sánh bước cùng người họ thương yêu trên con đường làng vào mỗi buổi
chiều. Họ sẽ không còn mặc cảm tội lỗi nữa. Quá khứ đã qua đi, và chính Chúa đã
mở ra cho họ một cuộc sống mới. Nỗi đau trước đây bây giờ đối với họ sẽ là một
kinh nghiệm quý giá; kinh nghiệm ấy đưa họ tới yêu quý cuộc sống họ đang có
hơn.
Tuy nhiên, khi thấy
mình được sạch, một người trong số họ đã quay trở lại để cám ơn Chúa. Một việc
làm nhỏ bé nhưng tuyệt vời. Anh đã tạm quên con đường đi nhanh đến trình diện
vị tư tế để được tuyên bố thanh sạch. Anh đã tạm quên đi niềm mơ ước bấy lâu
của mình để quay trở lại cám ơn Đấng đã mang lại cho anh niềm vui. Niềm vui của
anh đã trở nên trọn vẹn hơn khi anh được chính Chúa tuyên bố "con hãy đứng
dậy mà về: vì lòng tin của con đã cứu chữa con". Chúa khen ngợi lòng tin
của anh. Quà tặng chỉ là phương tiện để dẫn đưa con người tới gặp Đấng tặng
quà. Niềm vui của anh giờ đây trọn vẹn hơn vì không chỉ anh được thanh sạch, mà
còn được gặp Đấng Chữa Lành anh. Tâm hồn anh giờ đây tràn ngập hân hoan.
Có lẽ trong tương lai,
khi gặp lại Chúa, chín người kia sẽ cám ơn ngài. Có lẽ trong thâm tâm của họ
đang mang một niềm tri ân nào đó mà họ chưa ý thức hoặc chưa có cơ hội diễn tả.
Phải chăng niềm vui đó đã đến với họ quá bất ngờ, quá lớn lao, khiến họ quên
cám ơn ân nhân của họ. Dường như có một chút gọi là vô ơn nơi họ, một chút vô
tâm khi họ xem trọng ân huệ hơn là Đấng ban ơn. Họ đã không đủ nhạy bén để nhận
ra rằng mình đã bỏ qua một cơ hội quý giá để đếp gặp Đấng đã ban ơn cho mình.
Họ hân hoan vui mừng và đi tiếp con đường để hòa mình vào xã hội; đó là điều
tốt đẹp, nhưng sẽ tốt đẹp hơn biết bao nếu họ không chỉ dừng lại với niềm vui
hiện tại của bản thân để dành giây lát tri ân Đấng ban cho họ niềm vui đó. Chúa
không hề hẹp hòi với họ, không hề vì một chút vô ơn của họ mà rút lại quà tặng.
Cho dù họ có quay trở lại cám ơn Ngài, hoặc cho dù họ đã quên Ngài đi chăng
nữa, thì chính Ngài là Đấng đã khôi phục quyền được sống như một con người của
họ. Hy vọng rằng sẽ có một dịp nào đó họ sẽ nhận ra sự thiếu sót này và quay
trở lại tri ân Ngài.
Một lời trách nhẹ nhàng
của Chúa "còn chín người kia đâu?" như một lời nhắc nhớ những người
nghe lời này của Ngài ý thức được lòng biết ơn của mình. Có khi tôi cũng thuộc
về nhóm chín người kia. Hằng ngày, tôi vẫn nhận biết bao ơn lành từ Ngài; nhận
nhiều đến độ tôi cảm thấy là bình thường và không cần thiết phải cám ơn. Chúa
ơi, xin đừng để con vô cảm trước những ân huệ của Chúa. Từng giây từng phút
trong đời con được bao bọc bởi tình yêu vô biên của Ngài. Hãy biến đổi tâm hồn
con để cuộc đời con trở nên một lời tri ân Ngài.
16. Mười người
phong hủi - McCarthy
Suy niệm 1: ĐIỀU ẤY XẢY
RA NHƯ THẾ NÀO?
Vào thời đại của Đức
Giêsu, bệnh phong hủi không có thuốc chữa. Khi một người mắc phải bệnh ấy, có
sống cũng như chết. Thế mà tại sao chín người phong hủi đã không trở lại để cám
ơn Đức Giêsu vì Người đã chữa lành cho họ? Chúng ta không lạm dụng trí tưởng
tượng của chúng ta khi vẽ lại những gì đã xảy ra. Chúng ta giả sử điều đó xảy
ra trong thời đại của mình.
Người thứ nhất là
Miriam, vợ của một người bán hàng. Khi về lại nhà, bà thấy nhà mình bừa bãi,
lộn xộn. Không phải do lỗi của chồng bà. Ông phải tất bật với công việc. Trở
lại gặp Chúa không còn là vấn đề nữa – ít ra là trong lúc này.
Người thứ hai là Aaron,
một nông dân. Mùa hè này là một mùa tồi tệ, và toàn thể mùa màng có nguy cơ bị
mất trắng. May mà dự báo thời tiết đã nói rằng thời tiết tốt, có mưa nhiều đúng
vào những ngày ông có thể trở lại.
Người thứ ba là Saul.
Khi ông ta trở lại nhà, gia đình ông đã mở tiệc mừng ông. Họ không muốn nghe
ông nói đi đến nơi nào đó. Ông đã không xa nhà đủ rồi hay sao? Chính họ đã ngăn
cản ông trở lại gặp Chúa.
Martha là người thứ tư.
Khi chị trở về nhà thì chương trình Tivi chị ưa thích vẫn còn, trong thời gian
sống cách ly vì bệnh phong hủi, chị luôn thèm khát được xem chương trình đó.
Giờ đây chị mải mê với chương trình ấy. Chị muốn ngày mai trở lại gặp Chúa.
Nhưng ngày mai không bao giờ đến.
Người thứ năm là
Daniel. Trước khi ông bị phong hủi, ông rất thành công trong kinh doanh, khi
ông về đến nhà, ông thấy việc kinh doanh hoàn toàn suy sụp. Trở lại gặp Đức
Giêsu không nằm trong các ưu tiên của ông. Chẳng bao lâu sau, ông hoàn toàn
quên việc đó.
Amos, người thứ sáu
không có nhà để về. Anh đã cảm thấy rất cay đắng về căn bệnh phong hủi của mình
và về cuộc sống chung. Khi anh trở về, anh gom góp được ít tiền bạc mà người ta
cho anh, về đến thành phố, anh uống rượu. Việc trở lại không bao giờ có trong
đầu anh.
Peter là người thứ bảy.
Khi anh về nhà, anh không có việc làm. Vì thế khi nghe nói về một cuộc phỏng
vấn để được nhận vào một chỗ làm tốt, anh đến ngay. Trong lúc này, anh không
thể trở lại.
Anna là người thứ tám.
Lúc đó nhiên liệu đang bị khan hiếm. Chị hiện đang trên đường về nhà thì thấy
một trạm xăng còn mở cửa. Chị phải xếp hàng ba giờ liền để được đổ đầy bình xăng.
Sau đó chị đi thẳng về nhà. Thật đáng thương khi muốn phung phí xăng cho một
cuộc hành trình thật sự không cần thiết.
Người thứ chín là
Joseph. Khi ông ta về nhà, ông ta quyết định bán câu chuyện của ông ta cho một
tờ báo. Không để mất thời gian. Một người khác có thể có cùng ý tưởng ấy và sẽ
phỗng tay trên. Quay lại không có chỗ trong kế hoạch của ông.
Sau cùng, đó là Simon.
Ông có mấy lý do để không quay trở lại. Một lý do đặc biệt thuyết phục. Ông là
người Samari lại được một người Do Thái chữa lành. Một người Samari cám ơn một
người Do Thái không phải là chuyện dễ. Nhưng là một người nhân ái, ông gạt bỏ
những lý lẽ ấy và quay lại để cám ơn.
Xin lỗi! Những lý lẽ ấy
xem ra nguỵ biện, đê tiện, trơ trẽn và rác rưởi. Nhưng có hiệu lực trong chín
trên mười trường hợp. Chúng ngăn cản chín người ấy làm một việc mà có lên trời
người ta cũng phải làm.
"Chúng ta viết
trên cát những ơn ích mà chúng ta nhận được, nhưng viết trên đá cẩm thạch những
tổn thất" (Thomas More).
Chín người phong hủi
không thể diễn tả lòng biết ơn. Sự vô ơn ấy nói với chúng ta điều gì? Điều đó
nói lên rằng họ chỉ lành lặn ở ngoài da. Bệnh phong hủi đã hết, nhưng không có
gì khác nơi họ đã thay đổi. Sau kinh nghiệm cay đắng ấy, họ trở về với những
thái độ cũ, những tập quán, mục tiêu của họ và sự nông cạn của cuộc đời. Họ đã
không học được gì từ đau khổ của họ. Đây là một bi kịch thật sự.
Nhưng rõ ràng người
Samari đã học được từ kinh nghiệm đau thương của mình. Kể từ đó, ông đã trở
thành một con người hoàn toàn đổi khác, như Naaman sau khi được Êlisa chữa lành
phần xác. Naaman và người Samari được chữa lành cả xác lẫn hồn.
Trong những lúc tốt
đẹp, chúng ta quên mất Thiên Chúa, dù rằng chúng ta vẫn tiếp tục phục vụ Người
bằng môi miệng. Nhưng rồi một cơn bệnh đến bắt chúng ta phải quỳ gối xuống, và
bất ngờ chúng ta đối diện với sự nghèo nàn, yếu đuối và tính dễ chết của chúng
ta. Tuy nhiên, nếu điều ấy đưa chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn và làm cho chúng
ta sống tâm linh hơn thì nó đúng là một ơn lành trong bộ áo cải trang. Dường
như trong mười người phong hủi, chỉ có một người được đưa đến gần Thiên Chúa
hơn qua bệnh tật và sự bình phục của người ấy.
Suy niệm 2: CÁI NHÌN
SÂU XA HƠN
Câu chuyện mười người
bị phong hủi có một bài học rất rõ ràng, đó là tầm quan trọng của việc bày tỏ
lòng biết ơn. Nhưng nó có một bài học khác: Tìm thấy Thiên Chúa qua đau khổ.
Đau khổ có thể đưa con người rời xa Thiên Chúa hoặc có thể đem họ đến gần Thiên
Chúa. Nhiều người trở lại đạo là những tân tòng của Ngày Thứ Sáu Tốt Lành: họ
vào Nước Chúa qua những cái cổng của đau khổ. Naaman là một gương tốt.
Vào một giai đoạn của
đời mình, ông ở đỉnh cao của ngọn sóng. Ông có một công việc danh giá: chỉ huy
trưởng đạo quân hùng mạnh của nước Syri. Ông được nhà vua kính nể có quyền lực
và danh tiếng. Ông ta không cần Thiên Chúa. Tôn giáo không có vai trò nào trong
đời sống của ông. Ông là kiểu mẫu của một số người thành công hôm nay. Họ dường
như không dành chỗ cho Thiên Chúa trong đời họ.
Tuy nhiên, khi ông đã
đạt đến đỉnh cao của quyền lực, ông mắc một chứng bệnh kinh khủng: bệnh phong
hủi. Thình lình, thế giới của ông bắt đầu tan rã.
Một phút trước, ông ở
đỉnh cao của thế giới. Một phút sau ông rơi xuống vực thẳm.
Tuyệt vọng về việc chữa
trị, ông phải nuốt trửng lòng tự hào và tìm kiếm sự giúp đỡ của ngôn sứ Êlisa ở
Do Thái, một quốc gia nhỏ bé mà ông đã từng cướp bóc và khinh miệt. Tuy nhiên
điều ông tìm kiếm là một "thứ thần dược" để ông có thể sớm quay về và
đảm nhận đời sống cũ giống như trước đây.
Nhưng ông đã mau chóng
nhận ra rằng không có thứ thần dược ấy; không có sự chữa lành mau chóng và
không đau đớn. Vì thế ông phải học để trở nên khiêm nhường và nhẫn nại. Ông đã
học tuân lệnh để thay đổi. Nhưng thời gian ông bỏ ra không uổng công bởi vì ông
không chỉ được chữa lành bệnh phong hủi mà còn được hoán cải. Ông tìm thấy
Thiên Chúa chân thực. Vì thế sau cùng ông có lý do để cám ơn bệnh phong hủi của
ông, bởi vì qua đó ông đã nhận được ơn đức tin.
Người ta tự hỏi chín
người phong hủi thu được gì từ kinh nghiệm khủng khiếp của họ. Khi họ không tạ
ơn Thiên Chúa thì không chắc họ đã rút ra được lợi ích tâm linh nào từ kinh
nghiệm ấy.
Giống với ông Naaman
trước khi mắc bệnh, trong những thời kỳ tốt đẹp, chúng ta bỏ quên Thiên Chúa,
dù rằng chúng ta vẫn tiếp tục phục vụ Người bằng môi miệng. Nhưng rồi một bệnh
tật hoặc một cái gì tương tự bắt chúng ta phải quỳ gối, và chúng ta bất ngờ đối
diện với sự nghèo nàn, yếu đuối và phải chết của chúng ta. Chúng ta nhận ra nền
móng mà trên đó chúng ta đã xây dựng bao nhiêu niềm hy vọng sao quá mong manh,
nông cạn.
Nếu điều ấy đưa chúng ta
đến gần Thiên Chúa hơn và làm cho chúng ta sống tâm linh hơn thì đó là một sự
chúc lành trong bộ y phục cải trang. Dường như chỉ một trên mười người phong
hủi đã được đưa đến Thiên Chúa gần hơn qua bệnh tật và sự bình phục của người
ấy.
Chúng ta không phải lúc
nào cũng làm chủ những gì xảy đến với chúng ta, nhưng chúng ta phải làm chủ
phản ứng của chúng ta khi sự việc xảy đến. Ví dụ như, có hai người bị thương
nặng trong một tai nạn. Một người chọn cách sống cay đắng kinh nghiệm ấy và bị
nó huỷ hoại. Người kia sống kinh nghiệm ấy với lòng biết ơn. Người này tin rằng
dù sự việc xảy ra là gì, dù nó có đau khổ thì nó vẫn có thể đem lại một điều
tốt. Vấn đề không phải là quên nó đi mà nhớ đến nó và hội nhập nó vào trong đời
sống của mình.
Ước muốn đền đáp lại
một điều gì là một dấu chỉ cao cả của lòng biết ơn. Khi bạn có đầy lòng biết
ơn, bạn sẽ không có chỗ cho sự cay đắng hoặc căm giận. Mọi người hạnh phúc đều
biết ơn. Những người bội bạc không thể có hạnh phúc.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Một ngày nọ, David bố
thí cho một người nghèo mà ông gặp trên đường phố. Khi ông tiếp tục bước đi ông
bắt đầu cảm thấy một niềm vui thoả mãn bừng lên trong ông. Nhưng rồi một bóng
tối lướt qua ông – ông nhớ lại người nghèo đó đã không cám ơn ông. Sau đó, ông
kể lại sự cố cho vị giáo trưởng của ông. Vị giáo trưởng kiên nhẫn lắng nghe,
sau đó ông này nói: "Ông cảm thấy thế nào khi ông bố thí?"
"Tôi cảm thấy rất
vui" David đáp.
"Điều đó không đủ
là phần thưởng cho ông sao?"
"Con vẫn nghĩ rằng
hắn ta phải cám ơn con", David nhấn mạnh.
"Chắc chắn ông
không muốn được cám ơn vì đã có hành động như một người theo đạo phải có? Vậy
thì ông đã cám ơn Thiên Chúa chưa?".
"Về điều gì?"
David ngạc nhiên hỏi.
"Vì Người đã ban
cho ông cơ hội trở nên một công cụ để tình yêu của Người đến với một người đồng
loại của ông", câu đáp là như thế.
17. Đức tin
đích thực - R. Gutzwiller
1. Niềm tin bất toàn.
Mười người phong cùi
hình như đã có một niềm tin lớn lao. Họ nghe nói về Đức Kitô và tin rằng Ngài
có thể chữa lành họ. Chính vì niềm tin đó, mà họ đã vượt qua những luật lệ
cưỡng bách họ sống tách biệt.
Họ đến một làng nhỏ,
tiến gần đến Đức Giêsu và xin Ngài thương họ. Họ đã thất vọng hoàn toàn đối với
khả năng của con người, chỉ còn tin tưởng vào sự cứu giúp của Đức Kitô thôi.
Niềm tin đó đã bị thử
thách và rồi được giữ vững, vì Chúa Giêsu không chữa cho họ ngay, Ngài gửi họ
tới trình diện với các tư tế, đó là lệ thường đối với những người được chữa
khỏi: nhưng đây họ đâu đã được khỏi. Do đó, người ta có thể đoán được rằng họ
sẽ đứng im, không nhúc nhích cho tới khi Chúa giải thoát họ khỏi cơn bệnh ghê
tởm.
Thế mà, họ lại đã tin,
chỉ dựa vào có một lời của Ngài thôi. Và rồi đang khi đi, họ thấy mình được
khỏi, họ có niềm tin đích thật, dầu vậy, đó cũng chỉ là niềm tin bất toàn. Họ
còn bám víu vào ngoại cảnh, nhắm vào tật bệnh và sự lành lặn của họ.
Vì thế, họ không khám
phá được Đấng chữa lành họ là ai. Họ chưa đi sâu vào cái chính yếu. Ngoài sức
khoẻ thể xác, Ngài còn ban cho họ sức khoẻ của tâm hồn.
2. Đức tin hoàn toàn.
Chỉ có một người, lại
là người ngoại quay lại tìm gặp Chúa Giêsu, tuyên xưng đức tin vào Thiên tính
của Ngài và phục lạy để tỏ lòng cảm tạ tri ân.
Chỉ có người này có
được đức tin hoàn toàn. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã nói với anh ta: 'Hãy chỗi
dậy mà về, lòng tin của anh đã chữa anh'. Cả xác lẫn hồn được giải phóng, được
chữa bệnh và thánh hoá một lượt.
Anh ta không còn bị bận
trí vì cái thân xác phong cùi vây hãm. Đức tin hoàn toàn không dừng lại ở việc
chữa trị mà phải dừng lại ở người chữa mình; không phải ở công việc mà là ở tác
giả của công việc đó. Đức tin chân thực vượt lên trên mọi dấu chỉ, để được gặp
gỡ Thiên Chúa hằng hữu.
18. Lòng biết
ơn
Nhờ có cuốn sách
Sehirdler's Ark và cuốn phim Schindler's List, tên của Oskar Schindler được
hàng triệu người trên thế giới biết đến. Schindler là một nhà công nghiệp người
Đức. Trong suốt Thế chiến II, ông đã cứu hàng ngàn người Do thái ở Ba Lan khỏi
các trại tập trung. Khi chiến tranh chấm dứt, quân Đức rút khỏi Ba Lan và người
ta chờ đợi quân Liên Xô đến. Ngay trước khi quân Liên Xô đến, Schindler cũng đã
quyết định trốn qua phương Tây.
Khi những công nhân
người Do Thái, giờ đây đã được tự do nghe tin ông ra đi, họ họp lại để xem có
thể bày tỏ lòng biết ơn ông như thế nào. Phải bắt tay ngay để làm một món quà
bằng kim loại. Rồi một người gợi ý một cái gì tốt hơn. Ông ta mở miệng mình ra
và chỉ chiếc răng vàng.
"Hãy lấy cái
này", ông nói, "Nó mà còn là nhờ có Oskar, bọn mật vụ SS muốn chiếm
lấy các vật dụng bằng mọi cách. Cái răng của tôi lẽ ra cũng đã ở trong đống đồ
trong nhà kho của SS, giữa những chiếc răng vàng của những người khác".
Ban đầu, những người
khác phản đối đề nghị ấy, nhưng vì người ấy nài nỉ mãi nên người ta nhận. Một
tù nhân trước kia là nha sĩ ở Cracow đã lấy cái răng vàng đó ra khỏi hàm răng.
Một thứ kim hoàn trong số họ nấu chảy vàng và tạo thành một chiếc nhẫn. Vòng
bên trong của chiếc nhẫn, người ta ghi những lời lấy từ Kinh Talmud:
"Người nào cứu sống chỉ một mạng người, người ấy cứu sống toàn bộ thế
giới".
Đó là một cử chỉ bày tỏ
lòng biết ơn làm người ta ngạc nhiên và cảm động sâu xa. Đó là một trong những
việc kỳ diệu về lòng biết ơn –nó làm cho chúng ta muốn đền đáp một điều gì.
"Lòng biết ơn là ký ức của tâm hồn" (Tục ngữ Pháp). Nhưng rồi người
ta phải nói rằng đó là điều tối thiểu mà người ta có thể làm khi người ta mang
ơn Schindler về cuộc đời của họ.
Mười người phong hủi
trong Tin Mừng cũng mang ơn Đức Giêsu về cuộc đời của họ. Tuy nhiên, chỉ có một
người trở lại để cảm ơn Người.
Dường như cũng kỳ lạ
khi người quay trở lại để cảm ơn là một người ngoài cuộc –một người Samari.
Nhưng điều đó không thường xảy ra đó sao? Người trong cuộc cho rằng mọi sự là
đương nhiên và chính người ấy cũng được coi là đương nhiên. Trái lại, người
ngoài cuộc nhìn mọi sự vật là một ân huệ. Chúng ta thấy bài đọc I cũng một ý
tưởng. Người nước ngoài Naaman trở lại để cảm ơn Êlisa vì đã chữa cho ông khỏi
bệnh phong hủi.
Chúng ta đòi người khác
biết ơn mình hơn là tỏ lòng biết ơn người khác. Điều này chỉ ra lòng ích kỷ của
chúng ta khi chúng ta thi ân. Nếu có người nào nhận thấy người anh em mình vô
ơn, bội bạc thì người ấy không tìm kiếm hạnh phúc cho người khác mà tìm kiếm
hạnh phúc cho chính mình.
Đức Giêsu đòi hỏi lòng
biết ơn, không phải cho chính Người. Điều Người nói là: "Sao không thấy họ
trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?". Qua đó rõ
ràng Người không nghĩ đến chính mình. Người nghĩ đến những người phong hủi.
Người nhận một ân huệ có thể bày tỏ lòng biết ơn là một điều tốt và cần thiết.
Chúng ta biết bày tỏ
lòng biết ơn là một việc rất quan trọng. Trước tiên điều ấy tốt cho chúng ta,
nó bắt buộc chúng ta phải biết món nợ mà chúng ta còn mắc người khác. Lòng tri
ân dĩ nhiên cũng tốt cho người khác ấy –nó làm cho người làm ơn cảm thấy được
đánh giá cao. Người không cảm ơn điều nhỏ, sẽ không cảm ơn điều lớn. Vì thế điều
quan trọng là biết ơn và đánh giá cao các ơn huệ nhỏ mà người khác làm cho
chúng ta cũng như các dịch vụ mà chúng ta nhận được mỗi ngày.
Về việc thể hiện lòng
biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần những lời cảm ơn của chúng ta
nhưng chúng ta cần cảm ơn Thiên Chúa. Điều ấy nhắc chúng ta rằng mọi sự mà
chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cảm ơn Thiên Chúa về điều xảy đến cho
chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố gắng biết ơn về trọn cả cuộc đời
mình: điều xấu cũng như điều tốt, những niềm vui và nỗi buồn, những thành công
và thất bại. Đó không phải là một việc dễ dàng. Chúng ta chỉ thật sự gọi mình
là những người có lòng biết ơn khi chúng ta có thể nói lời cảm ơn về mọi việc
đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri ân này làm chúng ta có khả năng cải
tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta và coi nó như là con đường cụ thể trong đó
Thiên Chúa dẫn đưa chúng ta đến giây phút này.
Khi chúng ta nhìn lại
đời sống của mình, chúng ta thấy rằng những điều làm tổn thương chúng ta và
những điều giúp đỡ chúng ta không thể tách rời nhau. Chúng ta hãy cố gắng nhìn
ra bàn tay hướng dẫn của Thiên Chúa yêu thương trong mọi việc đã đưa chúng ta
đến nơi chúng ta đang có mặt hiện nay.
19. Biết ơn
Thái độ vô ơn của chín
người Do Thái được chữa lành, phải chăng cũng chính là thái độ của mỗi người
chúng ta?
Rải rắc trên đường đời,
chúng ta đã nhận lãnh biết bao nhiêu ơn lành của Chúa, từ những ơn làn phần
xác, đến những ơn lành phần hồn, thế nhưng chúng ta cho rằng mình được quyền
hưởng dùng những ơn lành ấy và chẳng bao giờ chúng ta nghĩ tới việc phải cảm tạ
Ngài.
Khi gặp gian nan thử
thách, chúng ta khẩn cầu cùng Chúa, chúng ta thú nhận những sai lỗi, những vấp
phạm của mình và chúng ta hứa với Ngài điều nọ điều kia. Thế nhưng, khi tai qua
nạn khỏi, chúng ta dường như không còn nhớ gì nữa và chẳng bao giờ biết cám ơn
Ngài.
Nếu thái độ vô ơn của
chín người Do Thái đã làm cho Chúa Giêsu phải buồn phiền, thì chắc chắn thái độ
vô ơn của chúng ta cũng sẽ chẳng hơn gì. Làm sao chúng ta có thể kể ra cho hết
những ơn lành Chúa đã ban, bởi vì tình thương của Ngài thì dạt dào như biển
khơi, không bờ không bến.
Thân phận chúng ta chỉ
là tro bụi, thế nhưng, Chúa đã dựng nên, đã trao tặng sự sống phần xác, đã
chiếu dõi ánh sáng đức tin phần hồn và đã hứa ban niềm hạnh phúc vĩnh cửu làm
sản nghiệp, vậy mà chúng ta lại không biết cảm tạ Ngài hay sao?
Lòng biết ơn là một
bông hoa tươi xinh của tình bác ái. Trái lại, sự vô ơn chính là một phép lạ vĩ
đại của ma quỉ. Tôi xin đưa ra một thí dụ.
Chẳng hạn sức khỏe là
một điều quí giá mà không một quà tặng trần gian nào có thể đánh đổi được. Một
ông tỷ phú, trong cơn hấp hối, dù có bỏ ra hằng triệu đô la cũng không thể nào
mua về cho mình sự sống, bởi vì đó là một hồng ân của Chúa. Thế mà biết bao
nhiêu lần chúng ta đã hoang phí cho những cuộc nhậu thâu đêm, cho những canh
bài suốt sáng. Đáng lẽ chúng ta phải dùng cuộc sống để làm đẹp tâm hồn và nâng
tâm hồn lên cùng Chúa mà cảm tạ Ngài, thì chúng ta lại sử dụng nó để làm nô lệ
cho những đam mê dục vọng xấu xa, cho những ý đồ đen tối và bất chính...
Vì thế, thánh Bernađô
đã nói:
- Sự vô ơn là một bức
tường ngăn cách giữa Thiên Chúa và tạo vật, là một chiếc đập ngăn chặn nguồn
suối với dòng sông.
Bởi đó, phải biết cảm
tạ Chúa vì tâm tình biết ơn cũng chính là một lời kinh tuyệt vời chúng ta dâng
lên Chúa, một cách không so đo, không tính toán.
Với những người biết
ơn, chắc chắn Chúa sẽ ban cho họ những sự cần thiết, mặc dù họ không kêu xin.
Vì biết ơn là một nhân đức đẹp đẽ nhất của người Kitô hữu. Chúng ta hãy cảm tạ
Chúa, không phải chỉ trong những giờ phút may mắn và gặp được những sự tốt
lành. Trái lại, chúng ta còn phải cảm tạ Chúa ngay cả trong những khi buồn
phiền với những tai ương hoạn nạn xảy ra.
Có một chàng thanh
niên, cha mẹ chẳng may bị giết chết trong một cuộc thảm sát. Tuy buồn, nhưng
anh vẫn thầm thĩ kêu lên cùng Chúa:
- Lạy Chúa, con xin quì
gối cảm tạ Chúa vì sự đau khổ con đang phải chịu cũng là một ơn huệ Chúa ban,
để con biết chia sẻ với những khổ đau của Chúa.
Lòng biết ơn cũng chính
là một dấu chỉ để phân biệt người đạo đức thật với kẻ đạo đức giả. Kẻ đạo đức
giả thì trong những hoàn cảnh đen tối thường kêu trách Chúa. Còn người đạo đức
thật, thì luôn khám phá ra bàn tay yêu thương của Chúa trong mọi tình huống, vì
đối với họ: mọi sự đều là hồng ân.
Lời kinh cảm ta tuyệt
vời nhất, theo tôi nghĩ, đó là lời kinh chúng ta thường hát trong thánh lễ:
- Chúng con cảm tạ Chúa
vì vinh quang cao cả Chúa.
Hay như trong kinh tiền
tụng, chúng ta vốn thường đọc:
- Lạy Chúa, chúng con
cảm tạ Chúa thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu rỗi cho chúng con.
Và sau cùng, ở mọi nơi
và trong mọi lúc, hãy sống một cuộc sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu
thương, nhờ đó bản thân chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân cho tình thương
của Chúa và cuộc đời chúng sẽ trở thanh một hiến lễ tạ ơn dâng lên Chúa.
20. Cám ơn
Một trong những tiếng
được kể là đẹp nhất trong kho tàng ngôn ngữ con người, từ đông sang tây, từ bắc
tới nam, tức là khắp mọi nơi. Một tiếng rất ngắn nhưng đưa đi rất xa, nếu chúng
ta biết sử dụng nó một cách trọn vẹn, chân tình. Đó là tiếng "cám
ơn". Nhưng trong thực tế, dường như người ta còn quá dè dặt và tiết kiệm
tỏ lòng biết ơn nhau và cám ơn nhau.
Bài Tin Mừng Chúa Giêsu
lưu ý chúng ta về lỗ hổng trầm trọng ấy. Chúa đã làm phép lạ chữa lành cho cả
mười người phong cùi. Thế là họ ra đi sung sướng, thỏa mãn, chỉ có một người
nghĩ tới việc trở lại cám ơn Chúa. Chúa hỏi người ấy: "Không phải cả mười
người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?" Chỉ là vì họ quên
cám ơn. Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta quên: cố tình quên hoặc vô tình
quên như thế.
Có phải chúng ta vẫn
thường coi việc người khác làm cho chúng ta hay phục vụ chúng ta như là những
chuyện đương nhiên, những việc họ phải làm? Chẳng hạn khi có người lưu ý một
ông giám đốc hay một ông chủ về sự tận tâm của người thừa hành hay người giúp
việc, thì các vị này đã tỉnh bơ trả lời: "Họ đã được trả lương để làm việc
ấy mà". Người ta trả tiền công và tưởng thế là sòng phẳng.
Chúng ta nên suy nghĩ
tới đức bác ái Kitô giáo, tới tình người được gói ghém trong tiếng "cám
ơn", dù khi đã trả tiền công. Thực vậy, có biết bao nhiêu chuyện mà người
ta không thể thanh toán được bằng tiền bạc, nhưng bằng một nụ cười, một thoáng
quan tâm, một tiếng cám ơn. Những người bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy
hàng của họ thế này: "Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông
hoa". Cũng vậy, chúng ta phải diễn tả tâm tình của mình ra nhờ những cái
gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền "puộc boa", tiền trà nước, đó
là lời cám ơn. Có cả một nghệ thuật bày tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để
biết sử dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.
Chúng ta phải biết cám
ơn những người sống chung quanh mình, bắt đầu từ những người gần gũi nhất, đó
là những người trong gia đình. Người ta nói: hạnh phúc của mái gia đình tùy
thuộc một phần không nhỏ vào bổn phận nhớ ơn nhau. Cuộc sống của chúng ta được
dệt thành bởi trăm ngàn điều nhỏ mọn chẳng đáng kể gì, thế mà hạnh phúc gia
đình phần lớn lại lệ thuộc vào những điều chẳng đáng kể gì đó, là tiếng
"cám ơn" bé nhỏ nói cho đúng lúc.
Thực vậy, hạnh phúc
thay gia đình nào có những người con biết nói cám ơn người cha người mẹ vẫn tận
tâm tận lực lo lắng cho chúng và suốt ngày tảo tần mưu ích cho chúng. Và cũng
thật hạnh phúc cho gia đình nào người chồng biết nói cám ơn đối với người vợ và
người vợ biết nói cám ơn đối với người chồng. Tiếng cám ơn người chồng nói với
người vợ đáng giá hơn tất cả mọi thứ vật chất, vì nó chứng tỏ người chồng lưu ý
tới những gì người vợ làm cho mình. Cũng vậy, tiếng cám ơn người vợ nói với
người chồng sẽ động viên cho ông thêm nghị lực, thêm can đảm, thêm sức mạnh để
hăng say với công việc đều đều cực nhọc vất vả hằng ngày.
Sau hết nhưng trước hết
và trên hết, chúng ta phải biết cám ơn Thiên Chúa, vì tất cả những gì chúng ta
đang có, đang sử dụng: về ngôi nhà đang che chở chúng ta, cái bàn kia, cái
giường ấy, chiếc tủ này, những quyển sách đó, cái đèn đang cháy sáng kia, những
người bạn chúng ta gặp tình cờ trong cuộc sống, và hàng trăm hàng ngàn điều
khác đang ở trong tầm tay chúng ta... Chính Thiên Chúa ban cho chúng ta những
điều ấy xuyên qua những nguyên do phụ thuộc. Vì thế, chúng ta phải luôn dâng
lên Thiên Chúa tâm tình cảm tạ tri ân như đối với nguyên nhân tối hậu, từ đó
phát xuất ra mọi điều thiện hảo cho chúng ta.
Có một người cha trong
gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây: Một đêm kia, trong lúc
đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói: "Bố ơi, con sẽ đếm
xem trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé". Sau đó, tôi nghe giọng nói êm
đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4... Rồi tôi chăm chú vào việc đọc báo, không
để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài báo, tôi chú
ý lắng tai và nghe tiếng nó vẫn tiếp tục đếm 123, 124, 125...Đến đây nó bỗng
ngừng lại, không đếm nữa, rồi quay sang nói với tôi: "Bố ơi, con không dè
trên trời lại có nhiều sao đến thế". Nghe con gái nhận xét như vậy, tôi
chợt nhớ là thỉnh thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa: "Chúa ơi, để con
thử đếm xem con đã nhận lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban", và càng đếm,
trái tim tôi hình như càng cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị
quá nhiều hồng ân Chúa đè nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái
tôi: "Lạy Chúa, con không dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của Chúa đến
thế".
Hôm nay, mỗi người
chúng ta hãy nhìn lại thời gian đã qua, nghĩ lại quá khứ cuộc đời mình và gia
đình mình: có phải chúng ta đã lãnh nhận được rất nhiều ơn lành của Chúa mà rất
ít khi chúng ta để ý cám ơn Chúa và tri ân Ngài không? Đó là một thiếu sót lớn
lao đấy. Cuộc đời chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa, từ mọi người thực là nhiều:
từ một đồng bạc đến một sản nghiệp, từ một nụ cười đến một tình thương, từ một
lời chào đến những lời an ủi, khích lệ, trao đổi, gặp gỡ... tất cả và bất cứ sự
gì chúng ta lãnh nhận được đều là những viên gạch xây dựng đời chúng ta và gia
đình chúng ta. Nên chúng ta phải luôn tạ ơn Chúa và cám ơn mọi người. Tạ ơn
Chúa là chúng ta đem các ơn mình đã lãnh nhận được trình bày với Chúa, để rồi
Chúa sẽ ban lại nhiều hơn, như người ta thường nói: "Một lần cám ơn là hai
lần xin ơn".
Xin Chúa cho chúng ta
luôn biết sống trong tâm tình tạ ơn Chúa như thánh Phaolô đã khuyên bảo giáo
dân Côlôsê: "Anh em hãy luôn sống trong tâm tình tạ ơn Chúa và biết ơn
Chúa". Đồng thời, chúng ta cũng phải luôn biết cám ơn mọi người, vì có thể
nói, tất cả những người có liên hệ xa gần với chúng ta, đều là những ân nhân
của chúng ta.
21. Suy niệm
của Lm. Phạm Thanh Liêm
TÌNH YÊU THIÊN CHÚA
ĐƯỢC DIỄN TẢ QUA TRUNG GIAN CON NGƯỜI
Thiên Chúa là tình yêu.
Ai ở trong tình yêu, thì ở trong Thiên Chúa. Ai nói mình yêu Thiên Chúa mà ghét
anh em mình, đó là người nói dối. Tình yêu đối với Thiên Chúa được diễn tả qua
tình yêu con người đối với nhau. Thiên Chúa cũng yêu thương con người qua những
trung gian của Ngài, cụ thể qua những con người sống chung quanh chúng ta.
Thay đổi con người, để
có thể lãnh nhận hồng ân
Naaman trước khi xuống
tắm bảy lần ở sông Jordan, đã phẫn nộ với tiên tri Êlisa vì ông tưởng rằng tiên
tri sẽ đứng trước ông, giơ tay cầu khẩn cùng Thiên Chúa, và chữa ông khỏi. Đằng
này, tiên tri chỉ sai người nói với Naaman: "đi tắm bảy lần ở sông Jordan,
thì sẽ được sạch". Naaman nghĩ: "Nước sông ở Đa-mát chẳng sạch hơn
nước sông ở Jordan sao?" Và Naaman đã không muốn xuống tắm.
Naaman đòi người của
Thiên Chúa phải làm theo suy nghĩ và cách thế của mình. Nhưng Thiên Chúa không
muốn thế, và người của Thiên Chúa lại không muốn vậy. Đòi hỏi để được khỏi bệnh
quá đơn giản đến độ Naaman không thể tin được, và không muốn tin. Nếu Naaman
không khiêm tốn bỏ mình để làm theo lời sứ giả của tiên tri, thì chắc ông chẳng
khỏi bệnh. Trong cuộc sống, người ta cũng thường đòi Thiên Chúa phải làm theo ý
người ta, theo điều kiện người ta đặt cho Chúa. Trường hợp của Naaman cho thấy,
nếu người ta không bỏ mình, e rằng người ta khó có thể đón nhận hồng ân của
Thiên Chúa.
Bao nhiêu yếu tố xảy
đến giúp Naaman đón nhận hồng ân: người tớ gái "quá thơ ngây" suýt
gây họa cho cả nhà vua nước mình, những đầy tớ của Naaman khuyên ông nên vâng
lời vị sứ giả của tiên tri, và cả dòng sông nước không được sạch dưới con mắt
của Naaman. Trong cuộc sống của mỗi người, dường như cũng được đan dệt bằng bao
nhiêu lời, bao nhiêu biến cố nhỏ nhỏ, để làm nên mỗi người như hiện tại. Chúng
ta có nhận ra đó là những hồng ân để tạ ơn Thiên Chúa không?
Đức Giêsu- tình yêu của
Thiên Chúa cho con người
Người phong cùi, theo
luật Do Thái, không được tiếp xúc với người lành. Chính vì vậy, họ đứng đàng xa
và kêu xin Đức Giêsu thương xót, chữa lành họ. Họ đáng thương, không chỉ vì con
bệnh hành hạ làm họ đau đớn thể xác, nhưng họ còn đau khổ hơn khi phải tách biệt
với xã hội con người, với những người thân yêu: cha mẹ, vợ chồng, con cái của
họ. Đức Giêsu giúp con người giao hoà với Thiên Chúa và giao hoà với nhau.
Đức Giêsu nói với những
người phong cùi: "đi trình diện với các tư tế". Luật Do Thái dạy
những người phong cùi thấy mình khỏi bệnh, phải đi trình diện thầy tư tế, để
được xác nhận là đã khỏi bệnh. Đang khi họ đi, họ được khỏi. Niềm tin phó thác
biểu lộ qua thái độ vâng lời Đức Giêsu, làm những người phong cùi được khỏi
bệnh. Thiên Chúa đòi con người tin tưởng và phó thác tất cả nơi Ngài. Tin tưởng
phó thác tất cả nơi Thiên Chúa, đó là dấu chỉ của những người được thương và
được cứu độ.
Chỉ có mỗi người ngoại
trở lại để tạ ơn Thiên Chúa. "Chín người kia đâu? Không phải cả mười người
được khỏi sao?" Chín người kia chắc chắn được khỏi bệnh phong cùi, còn
người ngoại này không chỉ được khỏi bệnh thân xác, nhưng còn được nhiều ơn
thiêng liêng khác nữa. Nhận ra hồng ân Thiên Chúa trong đời mình, là một dấu
chỉ của người đang sống hạnh phúc.
Thiên Chúa vẫn muôn ngàn
đời thành tín
"Nếu chúng ta cùng
chết với Đức Kitô, chúng ta sẽ cùng sống với Ngài". Đi theo Đức Giêsu, đòi
chúng ta phải bỏ mình, bỏ những ham muốn của thế gian và xác thịt. Không chiều
theo những ham muốn của xác thịt và thế gian, là một cách chết cho thế gian,
cùng chết với Đức Kitô. Thiên Chúa vẫn muôn ngàn đời thành tín: nếu chúng ta
chết cho thế gian cùng với Đức Kitô, chúng ta sẽ được cùng sống lại với Ngài.
"Nếu chúng ta chối
Ngài, Ngài cũng chối chúng ta". Sở dĩ vậy, vì nếu chúng ta cứng lòng và cố
tình chối Ngài, đứng đối nghịch với Ngài. Ngài không thể làm khác được. Thiên
đàng không thể có đối với người không muốn "lên thiên đàng". Về phía
Thiên Chúa, Ngài luôn luôn yêu thương con người, Ngài muốn con người ở trong
tình yêu của Ngài, Ngài muốn họ "lên thiên đàng" nhưng Ngài không
buộc họ phải lên thiên đàng. Nếu một người cố tình thù nghịch Ngài, Ngài phải
chịu vì Ngài đã cho con người tự do.
"Nếu chúng ta bất
trung, thì Ngài vẫn trung thành". Nếu vì yếu đuối, chúng ta bất trung, thì
Thiên Chúa vẫn thành tín, Ngài chờ đợi chúng ta trở lại với Ngài. Tình yêu
Thiên Chúa đối với con người được cụ thể qua bí tích hoà giải, mỗi khi con
người trở lại với Thiên Chúa, đều được lãnh ơn hoà giải với Ngài qua trung gian
thừa tác viên của Giáo Hội. Hơn nữa, hối hận hay muốn trở lại, đã là hồng ân
của Thiên Chúa cho tội nhân rồi.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Xin bạn cho một vài
thí dụ cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người qua các trung gian!
2. Đức Giêsu có là diễn
tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người không? Xin bạn chia sẻ quan điểm
lập trường của bạn.
3. Với kinh nghiệm bản
thân, thay đổi bản thân nên có thể đón nhận hồng ân, hay, đón nhận hồng ân nên
thay đổi chính mình? Xin bạn chia sẻ kinh nghiệm!
22. Suy niệm
của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Có thể tín nhiệm vào
lương tâm của những người thường tỏ ra vô ơn với những ân nhân của mình không?
Tại sao?
2. Người Kitô hữu có
nhiều tâm tình biết ơn hơn những người khác không? Nếu không thì bạn nghĩ thế
nào?
3. Trong đời sống Kitô
hữu, chúng ta cần phải biết ơn những ai? Và phải làm những gì để tỏ lòng biết
ơn đối với những người ấy?
Suy tư gợi ý:
1. Làm ơn đừng nên nhớ,
chịu ơn chớ nên quên
Bài đọc I đưa ra cho ta
một hình ảnh rất đẹp. Tướng của Sy-ri là Na-a-man bầy tỏ lòng biết ơn của mình
đối với ngôn sứ Ê-li-sa một cách cụ thể bằng lễ vật mà ông tha thiết xin ngôn
sứ nhận cho. Còn ngôn sứ Ê-li-sa thì cương quyết từ chối, mặc dù lễ vật ấy chắc
chắn sẽ giúp ngài sống đỡ thiếu thốn, và nhất là – theo cách suy nghĩ bình
thường của người đời – có thể tạo cho ngài nhiều phương tiện hơn để thi hành sứ
mạng của mình.
Cả hai thái độ tốt đẹp
trên có thể làm chúng ta suy nghĩ và xét lại thái độ của chúng ta khi hàm ơn ai
hoặc làm ơn cho ai. Thông thường người ta có tâm lý hay quên hoặc không nhận ra
những điều tốt người khác làm cho mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình
làm được cho người khác. Không những thế, mình còn mong họ nhớ ơn và trả ơn
mình. Nếu họ vô tình quên ơn, thì ta buồn phiền, oán trách, thậm chí sẵn sàng
lên tiếng chê bai.
Đức Giêsu cũng như các
bậc cổ nhân xưa dạy ta thái độ nhớ và biết ơn đối với những người hy sinh cho
ta, những người làm những điều tốt lành cho ta. Không phải chỉ nhớ và biết ơn,
mà còn phải đền đáp lại ơn đó khi nào có thể. Nhưng đối với những người mà ta
làm ơn cho, thì trái lại, không nên nhớ, cũng không nên đòi hỏi họ phải biết ơn
hay trả ơn ta. Trang Tử, một triết gia Trung Hoa, khuyên ta nên "vô kỷ, vô
công, vô danh" trong các việc làm của ta, nghĩa là không làm vì mình, làm
rồi không cậy công, cũng không mong được khen ngợi, biết ơn.
2. Suy nghĩ về lòng
biết ơn
Một trong những nguyên
nhân hay động lực quan trọng của tình yêu thương là lòng biết ơn. Không phải
tình yêu thương nào cũng phát xuất và đặt nền móng trên lòng biết ơn: Thiên
Chúa hay cha mẹ yêu thương ta không phải vì mang ơn ta. Nhưng rõ ràng là tình
thương của ta đối với Thiên Chúa, cha mẹ và nhiều ân nhân khác phát sinh và đặt
nền tảng trên lòng biết ơn. Thiên Chúa và cha mẹ yêu thương ta trước, sinh
thành tạo dựng, nuôi dưỡng giáo dục ta. Tình thương đó, công ơn đó làm nẩy sinh
nơi ta lòng biết ơn, khiến ta đáp lại tình thương đó bằng chính tình yêu thương
của ta đối với các Ngài. Lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và cha mẹ lại là tiêu
chuẩn nền tảng để đánh giá mọi thứ biết ơn khác. Một người vô ơn đối với Thiên
Chúa và cha mẹ, thì khó mà biết ơn thật sự đối với người khác.
Khi làm ơn cho ai, giúp
ai việc gì, mà về sau người đó vô ơn, tự nhiên ta cảm thầy buồn, có khi đau
khổ. Khuynh hướng tự nhiên của mọi người là mong muốn hoặc đòi hỏi người thụ ơn
mình phải biết ơn (mặc dù khi làm ơn cho ai, tính cao thượng đòi hỏi ta vượt
khỏi khuynh hướng tự nhiên ấy). Do đó, lòng biết ơn là một đức tính rất cần
thiết trong giao tế xã hội, trong tư cách một con người. Trong xã hội, tiếng
"cám ơn" luôn luôn nở trên môi những con người có giáo dục, lịch
thiệp, lễ độ. Lòng biết ơn, tiếng cám ơn xuất phát từ đáy lòng luôn luôn làm
vui lòng những người tốt bụng, khuyến khích họ tiếp tục thi ân làm phúc. Trong
đời sống tâm linh, tinh thần hay tôn giáo, lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và
các ân nhân cần phải được biểu lộ trong các kinh nguyện, lễ nghi, trong tâm
tình và cử chỉ của các tín hữu.
Trong bài Tin Mừng hôm
nay, ta thấy 10 người được Đức Giêsu chữa lành, nhưng chỉ có một người trở lại
cám ơn Ngài. Và mỉa mai thay, người biết ơn đó lại là một người ngoại giáo!
Điều này làm ta phải tự hỏi: người Kitô hữu có nhiều tâm tình biết ơn hơn các
tín đồ tôn giáo khác không? Nếu ta không tốt bằng họ hoặc không hơn họ, thì
việc ta nỗ lực truyền giáo cho họ quả thật có phần nào nực cười! Việc Đức Giêsu
– với tư cách là thầy dạy về tâm linh – đã trách móc 9 người vô ơn kia không
biết tạ ơn Thiên Chúa cho thấy: rõ ràng là lòng biết ơn không thể nào thiếu
được trong đời sống tu đức, đời sống hướng về sự toàn thiện. Không những thế,
nó có thể là căn bản cho một lương tâm đứng đắn. Một người vô ơn, thường xuyên
vô ơn, khó có thể có một lương tâm tế nhị và đúng đắn. Nhưng mỉa mai thay, biết
bao người mang danh theo Chúa lại tỏ ra vô ơn với những người làm ơn cho mình
nhiều hơn người thường!
3. Biết ơn ai? – Bốn
trọng ân trong đời sống con người
Trong Phật giáo, có bốn
trọng ân mà người Phật tử thường được các sư tăng nhắc nhở, nhất là vào dịp lễ
Vu Lan (rằm tháng 7 âm lịch): ơn cha mẹ, ơn tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), ơn tổ
quốc xã hội, và ơn thầy bạn. Chúng ta thử khai triển bốn trọng ân ấy trong
chiều hướng Kitô giáo.
• Ơn cha mẹ: Cha mẹ
trước tiên của chúng ta là Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã tạo dựng và sinh
thành chúng ta, cho ta sự sống siêu nhiên lẫn tự nhiên, đồng thời ban cho ta đủ
mọi ơn để duy trì và phát triển sự sống ấy. Kế đến là cha mẹ ruột thịt của ta,
là người sinh ra ta, nuôi dưỡng giáo dục ta nên người. Công ơn của cha mẹ ta to
lớn biết bao! Ca dao có câu: "Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra". Người trần gian mà ta phải biết ơn nhất là cha mẹ.
• Ơn tam bảo: là công
ơn của những người đã đem lại cho ta đời sống tâm linh, làm cho đời sống tâm
linh ta phát triển và trở nên phong phú.
– Người đầu tiên mà ta
phải nói tới là Đức Giêsu, Đấng chủ chốt đem lại đời sống tâm linh cũng là vị
Thầy lớn nhất về đời sống này cho mọi người Kitô hữu. Ngài cũng là Đấng cứu
chuộc để ta có lại đời sống thần linh, siêu nhiên của Thiên Chúa đã bị mất từ
thời nguyên tổ, trước khi ta sinh ra. Bên cạnh Đức Giêsu có Mẹ của Ngài là Đức
Maria. Theo niềm tin của người Công giáo, tất cả mọi ơn Thiên Chúa ban, đều nhờ
Mẹ và qua tay Mẹ.
– Kế đến là Lời Chúa,
hay Kinh Thánh và Tin Mừng, là phương tiện hữu hiệu nhất Thiên Chúa dùng để soi
sáng cho ta đi đúng đường, hầu phát triển đời sống thần linh và tâm linh của
ta. Ta cần phải biết ơn bằng cách năng đem ra suy gẫm để thực hành những gì Lời
Chúa chỉ dạy.
– Giáo Hội các cấp
(toàn cầu, địa phương, giáo xứ, cộng đoàn cơ bản), là yếu tố nhân sự để tiếp
nối công trình của Đức Giêsu, đồng thời là môi trường đào tạo và nuôi dưỡng đời
sống tâm linh của ta. Nói một cách cụ thể hơn đó là các tông đồ, các vị chủ
chăn các cấp mà gần nhất là cha xứ, những người dạy dỗ ta về mặt tâm linh (các
nhà thần học, tu đức, các giáo lý viên, các huynh trưởng hội đoàn, v.v...)
Đó là Tam Bảo của Kitô
giáo, là các đại ân nhân của chúng ta, mà chúng ta phải luôn luôn yêu mến và tỏ
lòng biết ơn.
• Ơn tổ quốc và xã hội:
Chúng ta không chỉ sống trong gia đình và Giáo Hội, mà còn sống trong lòng quốc
gia dân tộc nữa. Quốc gia xã hội đã tạo cho chúng ta những điều kiện dễ dàng để
có một đời sống ấm no, yên vui, hạnh phúc, một cách bao trùm, tổng quát, vượt
khỏi khả năng hạn hẹp của cha mẹ, gia đình ta. Chúng ta được sống trong an vui,
là do công sức của biết bao người đã từng hy sinh xương máu để bảo vệ tổ quốc,
đã vắt óc ra để đưa ra những chính sách sáng suốt hầu phát triển xã hội về kinh
tế, văn hóa, v.v... làm cho đời sống của ta tươi đẹp. Để thấy được công lao của
quốc gia xã hội, ta thử tưởng tượng nếu mình sống một mình trong rừng, ta sẽ
thấy thiếu thốn và không được bảo vệ như thế nào!
• Ơn thầy bạn: Trong
đời sống của ta, ta còn biết bao người phải mang ơn, trước hết là những vị thầy
đem lại cho ta đời sống tri thức, những người giáo dục ta nên người. Sau là
những bà con thân thuộc, bạn bè, những người quen biết... Biết bao người đã vô
tình hoặc cố ý làm ơn cho ta trong tất cả mọi lãnh vực mà ta có thể biết hoặc
không biết. Chúng ta có bổn phận phải biết ơn và tìm cách trả ơn những người
ấy.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin cho con ý
thức được rằng lòng biết ơn chính là thước đo của tình yêu đối với Thiên Chúa,
nhân loại, Giáo Hội, xã hội, và tha nhân, và cũng là tiêu chuẩn đánh giá lương
tâm và tư cách một con người. Xin giúp con ý thức được những hồng ân mà Chúa
ban cho con từng giây từng phút, để con nhận ra được hạnh phúc Chúa ban hầu cảm
tạ Chúa. Xin cho con luôn nhạy bén nhận ra tình thương, sự hy sinh, những ơn
huệ, những cử chỉ yêu thương của những người chung quanh đối với con, để con
cảm thấy hạnh phúc vì được yêu thương, đồng thời biết đáp trả bằng chính tình
yêu chân thành và sự hy sinh của con. Xin cho con biết luôn cầu nguyện và mong
ước những sự tốt lành cho các ân nhân của con. Amen.
23. Gặp gỡ để
bày tỏ lòng biết ơn
(Suy niệm của Lm. FX.
Vũ Phan Long)
1.- Ngữ cảnh
Với giai thoại Đức
Giêsu chữa mười người phong này (17,11-19), tác giả bắt đầu phần thứ ba
(17,11–18,14) của bài tường thuật hành trình lên Giêrusalem: tại c. 11a, độc
giả gặp lời nhắc về hành trình này lần thứ ba (hai lần trước: 9,51; 13,22). Cho
dù c. 11b tạo ra một điểm khó giải thích ("thập giá của các nhà chú
giải") do có những lời quy chiếu về Samari và Galilê, độc giả vẫn không
quên rằng mối bận tâm thần học của Lc là đưa Đức Giêsu về thành định mệnh, để
tại đó công cuộc cứu độ loài người được vĩnh viễn hoàn tất.
Đây là giai thoại chỉ
có trong Tin Mừng Luca.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành bốn phần:
1) Địa điểm (17,11);
2) Đức Giêsu chữa lành
mười người phong (17,12-14);
3) Người Samari trở lại
cám ơn Đức Giêsu (17,15-18);
4) Liên hệ giữa đức tin
và cứu độ (17,19).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu đi qua giữa
hai miền Samari và Galilê (11): "Đi qua giữa (dia meson) hai miền Samari
và Galilê" có thể có nghĩa là đi trong giải đất làm thành biên giới giữa
hai miền. Nếu thế, hẳn là Đức Giêsu đi theo con đường này để đến thung lũng
Giođan phía Sythopoli và từ đó đi xuống tới Giêrikhô (18,35), rồi từ đó Người
sẽ đi lên Giêrusalem. Từ ngữ meson (mesos, "giữa") được dùng ở
đối-cách, thay vì thuộc-cách (Đối-cách: accusative; thuộc-cách: genitive) và
không có mạo từ dường như hỗ trợ cho cách giải thích này. Cả về mặt địa lý,
cách giải thích này cũng chắc chắn hơn, bởi vì nếu Đức Giêsu đi về Giêrusalem,
thì Người đi từ bắc xuống nam; nhưng nếu Người "đi qua Samari và
Galilê" (theo một cách dịch), thì dường như Người đi từ nam lên bắc! Phải
chăng chi tiết địa lý này có một ý nghĩa thần học? Trong trường hợp này, chắc
là Lc viết "đi qua Samari và Galilê", mà mắt nhìn lui về phía sau để
ngó lại đoạn đường đã đi qua. Con đường và hoạt động của Đức Giêsu luôn luôn
được hướng dẫn bởi Giêrusalem, nên bây giờ Người như đứng tại Giêrusalem mà
nhìn ngược lại. Ta chỉ có thể hiểu được lộ trình, cuộc tiến bước và tất cả hoạt
động của Người nếu khởi đi từ Giêrusalem, nơi số phận bi thương đang chờ Người.
Phần tường thuật cuộc hành trình đã bắt đầu với một sự cố nhắc đến Samari, nay
Samari cũng bắt đầu chặng cuối của cuộc hành trình. Như thế, Samari là cái cầu
chuyển Lời Chúa từ Galilê đến Giêrusalem, rồi từ Giêrusalem đến với Dân ngoại.
Sau khi sống lại, Đức Giêsu sẽ giao cho các môn đệ sứ mạng này: "Anh em sẽ
là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp miền Giuđê và miền Samari và
cho đến tận cùng trái đất" (Cv 1,8). Như thế, con đường Đức Giêsu theo hôm
nay phác ra trước con đường Giáo Hội sẽ theo sau này: con đường của Giáo Hội là
hoa trái của con đường Đức Giêsu.
Chúng ta ghi nhận rằng
về phương diện ngữ học, cách giải thích thứ hai có thể chấp nhận được: cách
dùng dia trong thể thơ với từ ngữ chỉ nơi chốn ở đối-cách, dù chỉ có ở đây
trong Tân Ước, ta thấy có trong hy-ngữ sau này.
Cũng khó có thể chọn
lựa dứt khoát cách giải thích nào. Theo N. Guillemette, nếu Lc đã muốn nói
"ở biên giới của Samari và Galilê" như BJ ("aux confins de la
Samarie et de la Galilée") hoặc "dọc theo biên giới Samari và Galilê",
hẳn ông đã nói. Về phương diện này, dường như cách dịch của TOB ("Người đi
băng qua Samari và Galilê", "il passa à travers la Samarie et la
Galilée") tự nhiên hơn. Mặc dù cách giải thích thứ hai có thể khiến ta có
ấn tượng là hơi ép về mặt thần học, nó lại hài hòa với các bận tâm thần học và
địa lý của tác giả Luca. Vì thế, trong khi chờ đợi những khám phá mới,
Guillemette nghiêng về cách giải thích này.
- mười người mắc bệnh
phong (12): Rất có thể con số "mười" chỉ có nghĩa là một con số tròn.
- Hãy đi trình diện các
tư tế (14): Đức Giêsu không chữa lành họ, mà bảo họ cứ đi gặp các tư tế trong
tình trạng bệnh tật. Người gợi đến quy tắc Lv 13,49. Các "tư tế" đây
có lẽ nói chung là giới chức phục vụ thánh điện, chứ không nhất thiết là tư tế
Do-thái đang làm việc tại Đền Thờ Giêrusalem hoặc tư tế Samari đang phục vụ tại
Núi Garidim.
- Anh sấp mình dưới
chân Đức Giêsu mà tạ ơn (16): Hành vi phủ phục cho hiểu là anh ta nhìn nhận Đức
Giêsu là người của Thiên Chúa.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Địa điểm (11)
Vị trí địa lý cũng như
ngôi làng đều không được xác định. Điều quan trọng là Đức Giêsu đang tiến về
Giêrusalem; trên đường, Người đi qua cả Samari, là khối dân bị coi là bội giáo,
và Người đã có những khám phá độc đáo.
* Đức Giêsu chữa lành
mười người phong (12-14)
Vào thời Đức Giêsu, có
câu tục ngữ nói rằng: "Có bốn hạng người có thể được coi như người chết,
dù vẫn sống, đó là những người nghèo, người phong cùi, người mù và người không
có con". Mọi chứng bệnh đều bị coi như hình phạt của Thiên Chúa để trừng
phạt tội lỗi, nhưng bệnh phong cùi được coi như là chính biểu tượng của tội.
Người Do-thái nghĩ rằng Thiên Chúa dùng bênh phong cùi để trừng phạt kẻ ghen
tị, kiêu căng, quân trộm cướp, giết người, thề gian và loạn luân.
Hôm nay Đức Giêsu gặp
mười người phong. Đôi khi số phận cướp mất sự tự do hành động của con người,
buộc con người phải sống một kiểu sống rất giới hạn. Ai mắc bệnh phong là rơi
vào tình trạng đó. Người ấy bị dứt khoát loại khỏi gia đình và làng quê và phải
sống bên lề cộng đồng nhân loại. Người ấy chỉ được sống chung với những người
cũng mắc chứng bệnh đó. Vì sợ bị lây nhiễm, xã hội bắt họ phải la to hoặc rung
chuông mà báo cho biết là họ đang đến; họ sống nhờ xin bố thí, nhưng luôn phải
ở cách những vùng dân cư; họ được vào một làng, nhưng không được vào một thành
có tường lũy bao quanh. Như thế, vì chứng bệnh này, họ phải sống một kiếp sống
thê thảm bên lề xã hội. "Mười" có thể có nghĩa là "toàn
vẹn". Như thế, "mười người phong" tượng trưng cho tình trạng tội
lỗi, là biểu tượng của tội, của tình trạng bần khốn của con người, của tình
trạng xa lìa Thiên Chúa và người thân cận. Đức Giêsu đã gặp mười người đúng với
hoàn cảnh của họ: họ đứng đàng xa và kêu lớn tiếng xin Đức Giêsu giúp đỡ. Đáng
ghi nhận là nhóm này gồm cả người Do-thái lẫn người Samari. Hẳn là bệnh tật và
sự bần khốn đã giúp xóa đi những tị hiềm giữa Do-thái và Samari (x. Lc 9,53; Ga
4,4-9). Sự bất hạnh đã đưa họ lại với nhau và làm cho họ thành bạn bè. Mười
người phong cùi này không tách riêng nhau ra mà xin giúp đỡ từng người một; họ
cùng đi với nhau mà gặp Đức Giêsu. Lời cầu xin của họ là lời thỉnh cầu của cộng
đoàn: "Lạy thầy Giêsu, xin rủ lòng thương chúng tôi!" (c. 13).
Trong trường hợp bà goá
Nain (7,11-17) và người phụ nữ còng lưng (13,10-17), Đức Giêsu đã lấy sáng
kiến, đến gần và thương xót cứu giúp các bà. Trong trường hợp những người phong
này, Người lại để cho họ có sáng kiến, họ cầu khẩn Người. Người cũng chẳng đến
gần họ, mà lại bảo họ đi xa Người, như thể Người muốn tránh né họ. Người phái
họ đến gặp các tư tế mà bề ngoài chưa hề làm gì để chữa họ cả. Theo quy định
của Cựu Ước (Lv 13–14), các tư tế có thẩm quyền tuyên bố về các chứng bệnh này.
Các vị phải xác nhận rằng một người phong đã thật sự khỏi bệnh. Nhờ phán quyết
này mà một người đã hết bệnh được tái nhập xã hội. Mười người phong này cần
được chữa lành đã, thì việc họ đi trình diện các tư tế mới có ý nghĩa. Đức
Giêsu lại bảo họ cứ việc đi, vì Người đòi hỏi họ có lòng tin để hiểu rằng việc
ra đi do Người truyền lệnh có một ý nghĩa và đưa đến một cùng đích. Trong khi
đi đường, họ đã được khỏi bệnh.
* Người Samari trở lại
cám ơn Đức Giêsu (15-18)
Cho tới lúc này, mười
người phong được giới thiệu như một nhóm. Tất cả đều sống như nhau; tất cả đều
sống một biến cố như nhau. Bây giờ có một người tách khỏi nhóm và quay lại với
Đức Giêsu. Tại sao chỉ có một người trở lại bày tỏ lòng biết ơn? Tại sao Đức
Giêsu than thở về chín người kia khi chính Người đã truyền họ đi và trình diện
trước tiên với các tư tế? Phải chăng người Samari đã không vâng lời Người? Có
lẽ những người khác cũng sẽ trở lại cám ơn Đức Giêsu, nhưng lúc này họ vội vã
đến gặp các tư tế vì họ muốn được tuyên bố là sạch bệnh càng sớm càng tốt và
thế là bỏ được số phận bi đát. Họ mong muốn được trở vào cộng đồng nhân loại
càng sớm càng tốt, như là những thành viên có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ. Họ
nhìn tới tương lai, chứ không nhìn lui về Đấng đã kéo họ thoát khỏi số phận bi
thương. Chỉ có một người duy nhất đã "quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh
Thiên Chúa". Chỉ có người Samari này đã nhận ra được Đức Giêsu là ai và
muốn nhìn nhận tư cách đặc biệt của Đức Giêsu như là trung gian của Thiên Chúa.
Chín người kia làm các công việc theo cách quy ước và đi theo những cách hành
đạo truyền thống, họ không nhận thấy là một trật tự mới đã được thiết lập. Điều
này đã xảy ra cho dân Israel. Những kẻ laic đạo, những người ngoại giáo là
những người đầu tiên nhận ra rằng Đức Giêsu là Đấng trung gian đưa ơn cứu độ
của Thiên Chúa đến cho trần gian.
* Liên hệ giữa đức tin
và cứu độ (19)
Người Samari này ca
ngợi Thiên Chúa và cám ơn Đức Giêsu. Anh coi điều Đức Giêsu đã làm cho anh là
một ân huệ của Thiên Chúa. Tất cả mười người đều đã được lành. Nhưng chỉ đối
với anh Samari này, cuộc chữa lành không những là dịp khôi phục sức khoẻ và đời
sống chung với loài người, mà còn trở thành dịp gặp gỡ Thiên Chúa và Đức Giêsu.
Chứng nan y đã đưa anh đến một tiếp xúc đầu tiên với Đức Giêsu, một cuộc gặp gỡ
từ đàng xa. Sau khi được chữa lành, anh không chạy xa Đức Giêsu, nhưng đã trở
lại với Người mà ca ngợi Thiên Chúa. Với lần thứ hai này, anh có thể gặp Người
gần kề hơn, như Đấng đã tỏ lòng thương xót anh. Không những trong tư cách là
người đã chữa bệnh phong, mà còn trong tư cách là người có ơn ban thường trực
là kinh nghiệm này, Đức Giêsu chỉ cho anh lộ trình sau này. Tất cả giai thoại
kết thúc bằng câu nói: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa
anh".
Đức Giêsu không nói:
"Tôi cứu chữa anh", mà lại nói: "Lòng tin của anh đã cứu chữa
anh". Anh đã nhận biết hoạt động của Đức Giêsu là Đức Chúa, anh đã đón
nhận, nay anh dâng trả lại cho Người. Những người khác nhận được sự chữa lành
như là một món nợ được trả, họ giữ ân huệ của Thiên Chúa lại cho mình. Chỉ có
anh Samari này "quay trở lại", "hoán cải" và nhận biết rằng
anh ta mắc món nợ phải trả. Vì thế, chỉ có anh này mới thật sự "được
cứu".
Bằng việc quay trở lại
với Đức Giêsu, người Samari cho chúng ta thấy rằng anh đã hiểu tại sao lúc đầu
anh lại được sai đến với các tư tế. Anh phải nói cho họ biết tin này: Thiên
Chúa đã sai đến Đấng từng được các ngôn sứ loan báo, Đấng làm cho người mù được
thấy, kẻ điếc được nghe, kẻ què được đi, người chết trỗi dậy và người cùi được
lành (x. Lc 7,22). Anh làm chứng rằng Thiên Chúa ở gần mọi người, kể cả người
phong cùi. Từ nay sẽ không còn chia cách giữa người khỏe mạnh và người phong
cùi, giữa người công chính và lẻ tội lỗi.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã chiếu cố
đến cả mười ngươi phong cùi, dù họ là người Do-thái hay là người Samari. Tuy
nhiên cách Người chữa lành đòi hỏi sự cộng tác nghiêm túc của con người. Trước
tiên, các bệnh nhân phải đi trình diện với các tư tế, y như thể họ đã lành: họ
phải chứng tỏ đức tin bằng cách vâng lời Người mà đi đến với các vị lãnh đạo có
quyền cho họ được tái tháp nhập vào trong cộng đồng. Sau đó, điều mà Đức Giêsu
chờ đợi chứ không truyền lệnh: họ phải chứng tỏ đức tin vào Người bằng cách nói
lên tâm tình biết ơn. Chỉ có một người bị coi là bội giáo, coi như kẻ ngoại, là
người Samari, đã quay trở lại mà cám ơn, tức là nhìn nhận rằng điều tốt lành
mình có được là do một Đấng khác. Chỉ khi thực hiện được cả hai điều này, vâng
lời và cám ơn Thiên Chúa, người ta mới thực sự được lành mạnh trọn vẹn. Đức tin
phát sinh từ việc nhận biết ân huệ Thiên Chúa ban và được diễn tả ra bằng một
tiếng "cám ơn" không ngừng. Khi nhìn nhận người Samari đã được đức
tin chữa lành, Đức Giêsu đã công nhận chỉ có anh này mới được chữa lành hoàn
toàn.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Mười người phong cùi
được lành bệnh đang khi họ đi đường với nhau. Tân Ước vẫn so sánh đời sống Kitô
hữu như một hành trình dài, mệt nhọc. Sự lành mạnh thiêng liêng của chúng ta
không xả ra tức khắc. Nếu chúng ta đã sống nhiều năm như một người "phong
cùi", chúng ta sẽ không được chữa lành đột ngột. Chúng ta phải đi với
nhau, và trên đường đi, chúng ta sẽ nhận ra rằng tất cả chúng ta đã được chữa
lành.
2. Nghĩ về thân phận
người phong, chúng ta phải đặt ra cho mình câu hỏi: Ai là những người đang sống
một cuộc sống bên lề cộng đồng chúng ta? Họ đang phải sống kiểu sống nào? Hôm
nay, có những dạng bệnh và tật mới, hoặc một sự sa cơ thất thế, cũng khiến
người ta có thể bị đẩy ra bên lề xã hội. Phải chăng chúng ta coi đó là chuyện
đương nhiên, dễ hiểu?
3. Thông thường khi
nhận được một sự trợ giúp, người ta mau quên người đã giúp đỡ mình. Người ta
say sưa với viễn tượng tương lai đang mở ra. Đối với Thiên Chúa, có khi ta còn
đối xử tệ hơn. Bởi vì Người thường xuyên ban cho chúng ta qua nhiều ơn lành,
chúng ta chẳng nghĩ rằng mọi điều ta có đều là do Thiên Chúa xót thương ban
tặng. Chúng ta cứ lao tới trước, bỏ lại đàng sau chúng ta Đấng liên tục ban ơn
để chúng ta có thể lao tới phía trước.
4. Khi chúng ta nhận
được một điều tốt lành, chúng ta nên đặt ra cho mình câu hỏi: Điều gì đáng giá
hơn đối với chúng ta, ân huệ hay là người ban ơn? Cần phải đặc biệt đặt ra câu
hỏi này cho mọi ơn lành nhận được từ Thiên Chúa. Nếu chúng ta chỉ chú ý đến ân
huệ (quà tặng), nghĩa là đến các của cải vật chất, đến sức khoẻ, v.v., thì trái
tim của chúng ta còn giới hạn, còn ích kỷ. Nếu đi từ quà tặng, chúng ta chú ý
đến tình yêu và lòng nhân ái của ân nhân, thì kinh nghiệm về ân huệ trở thành
gặp gỡ mới mẻ và riêng tư với người ban ơn. Ân ban có thể là một sự trợ giúp
lớn lao. Nhưng điều làm cho chúng ta sung sướng hơn nữa là có thể nhận biết sự
tốt lành của Đấng ban và có thể cám ơn Ngài về điều đó. Không phải là Thiên
Chúa nhận được gì từ lời cám ơn của chúng ta. Nhưng chúng ta sẽ nên nghèo nàn
hơn nếu không cám ơn Ngài. Nếu chúng ta chỉ ích kỷ nhìn vào tặng phẩm, chúng ta
đang mất khả năng thấy, trải nghiệm và nhận biết tình yêu của Đấng ban ơn.
5. Cám ơn Thiên Chúa là
dâng trả ân huệ về cho Ngài, là nhìn nhận Ngài là nguồn mạch tuôn trào ra ân
huệ chúng ta đã lãnh nhận. Cám ơn là đi vào luồng tương giao tình yêu phát xuất
từ Thiên Chúa đến với chúng ta và trở lại với Ngài. Người vô ơn là người chặn
đứng luồng tương giao này lại, không cho nó trở về với nguồn mạch, và sẽ làm cạn
khô tương giao đang có. Công trình cứu độ của Đức Giêsu chỉ thực sự sinh hiệu
quả nếu chính chúng ta cởi mở để cho mọi sự quay trở lại với Người.
24. Chú giải
mục vụ của Hugues Cousin
TRONG MƯỜI NGƯỜI PHONG
CÙI ĐƯỢC CHỮA LÀNH, CHỈ MỘT NGƯỜI SAMARI BIẾT ƠN
Lần thứ ba, một điệp
khúc về cuộc hành trình lên Giêrusalem làm giai đoạn trình thuật (c.11). Thay
vì tiếp tục con đường xuống phiá Nam, dường như Chúa Giêsu rẽ qua hướng Đông,
giữa Galilê và Samari, để đến thung lũng sông Giođan. Ghi chú này làm cho dễ
chấp nhận việc có mặt của một người Samari trong nhóm người Do Thái bị phong
cùi.
Trình thuật về việc
chữa lành (cc. 12-14) rất ngắn và giống với 5,12-16, trong đó lần đầu tiên Chúa
Giêsu đối diện với một trong những kẻ tiện dân bị loại khỏi cộng đoàn. Chắc hẳn
ở đây họ không phục lạy nhưng họ chào kính Chúa Giêsu như một vị Thầy –như các
môn đệ gọi Ngài. Họ kêu xin Ngài, mà không xin rõ được chữa lành (so sánh với
5,12) cũng không xin của bố thí. Chúa Giêsu báo họ đi đến các tư tế, là những
người đúng theo luật lệ của Lv 14,1tt, có nhiệm vụ nhận xét về việc lành bệnh.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không làm một cử chỉ gì để chữa bệnh và như thế việc lành
không xảy ra ngay tức khắc (so sánh với 5,13).
Khi nghe lời Chúa Giêsu
chỉ dạy, mười người này chứng tỏ có lòng tin tưởng, một niềm tin trái ngược với
niềm tin của đại tướng Naaman người Syri (x.4,27), thoạt tiên ông này từ chối
làm theo lời báo của của ngôn sứ Êlisê (2V 5,10-12). Như vậy, việc chữa lành
xảy ra từ xa.
Cho tới đây, trình
thuật đề cao quyền lực lớn lao của lời Chúa Giêsu và, do đó, chuẩn bị cho câu
giải đáp mà Ngài sắp nói với các người Pharisêu (17,21). Nhưng cao điểm của lời
giải đáp này nằm ở những gì xảy ra sau khi chữa lành và sẽ minh hoạ khoảng cách
giữa việc chữa bệnh và ơn cứu độ. Trong các câu 15-19, một trong các người
phung cùi được chữa lành quay trở lại ngay cả trước khi vâng lệnh Chúa Giêsu và
Lề Luật: vừa tôn vinh Thiên Chúa, anh vừa sấp mình –điều đã bị bỏ ở các câu
12-13, và nhất là tạ ơn Chúa Giêsu. Và điều đáng ngạc nhiên là chỉ tới đây, một
khi thái độ của anh gây ấn tượng tốt cho ta, ta mới biết anh thuộc về chủng tộc
nào: đó là một người Samari. Sự tương phản giữa lòng biết ơn của người này và
sự vô ơn của chín người khác vẽ nên một đường ranh phân biệt giữa những người
Do Thái và người mà chính Chúa Giêsu nói đến như một người ngoại bang (người
Samari cũng như người Do Thái nhìn nhận uy thế của Luật Môsê, và như vậy nhìn
nhận uy thế của những quy luật trong sách Lêvi về bệnh phong). Như trong dụ
ngôn về người Samari tốt lành (10,30tt) và khi rao giảng ở Nagiaret (4,24-27).
Trình thuật nhấn mạnh đến tình yêu mà các người ngoại bang bày tỏ. Do đó, Chúa
Giêsu bác bỏ cái nhìn theo chủ nghĩa dân tộc quá khích, theo đó Thiên Chúa chỉ
tỏ mình ra cho người biết trong các thể chế văn hoá: chính bên cạnh Chúa Giêsu
mà người ta tôn vinh Thiên Chúa.
Lúc nào cũng nghĩ đến
Thiên Chúa trong những mối bận tâm của mình nên Chúa Giêsu trách cứ chín người
tật phong khác vì đã không tôn vinh Thiên Chúa. Nhưng chính lời Chúa Giêsu nói
về đức tin (c.19) mới là đỉnh cao của trình thuật. Mười người phong cùi được
chữa lành, nhưng duy nhất chỉ có người Samari biết ơn mới được tuyên bố là được
cứu độ. Như vậy ơn cứu độ là điều cao quý hơn việc chữa lành thể xác. Và niềm
tin trọn vẹn của kẻ quay trở lại thì cao quý hơn niềm tin tưởng đã thúc đẩy cả
mười người đi trình diện với các tư tế trước khi được chữa lành. Việc chữa lành
chỉ khai mở cho ơn cứu độ trọn vẹn khi con người nhận ra sáng kiến nhưng không
của Thiên Chúa đối với mình và nếu họ đáp lại bằng cách dấn thân vào một liên
hệ thật sự với Chúa Giêsu: đó là niềm tin trọn vẹn.
25. Chú giải
của Noel Quesson
Trên đường lên
Giê-ru-sa-lem, Đức Giêsu đi...
Một lần nữa, Luca nhắc
chúng ta biến cố đang được chuẩn bị. Đức Giêsu đang sống những tuần lễ cuối
cùng. Trước tiên tôi cần dành thời gian để dừng lại trên từng chữ đó: Đức
Giêsu... đi... lên... Giêrusalem. Chúng ta hãy thử hình dung cảnh tượng. Hãy
thử tưởng tượng những tư tưởng của Đức Giêsu lúc Người đang tiến bước.
Giêrusalem! Mục tiêu của cuộc hành trình sau cùng.
Đức Giêsu đi qua biên
giới giữa hai miền Samari và Galilê
Luca nhấn mạnh rằng Đức
Giêsu đi qua miền Samari. Người không theo các quan điểm về chủng tộc của những
người đồng thời: Người không ngần ngại đi qua miền đất ấy mà người dân ở
Giêrusalem đã tuyệt thông. "Quả thế, người Do Thái không được giao thiệp
với Người Samari" (Ga 4,9).
Khi vương quốc ở miền
Bắc sụp đổ và dân bị đi đày năm 722 trước công nguyên. Quân đội chiến thắng
Át-xi-ri đã đưa những đám nô lệ về định cư lại trên miền Samari. Những đoàn dân
ấy thuộc mọi chủng tộc từ mọi miền chuyển về tạo thành một sự pha trộn về chủng
tộc và tôn giáo. Các hội đoàn tôn giáo ở Giêrusalem vẫn coi họ như những người
dị giáo.
Quan điểm phóng khoáng
của Đức Giêsu phải tra vấn chúng ta. Chúng ta đã không giữ lại những hơi hướng
khinh thị đối với một số hạng Người, một số chủng tộc, một số môi tường đó sao?
Điều lý thú mà Luca
mang lại cho miền Samari là nó chứa đựng một ý nghĩa tượng trưng sâu sắc: Chính
trong tỉnh này mà "sứ vụ Tin Mừng hóa" đã thực hiện những bước đầu
tiên bên ngoài vùng Giu-đê. Khúc dạo đầu của việc phát triển to lớn của Giáo
Hội trong những vùng đất của dân ngoại.
Đối với những Kitô hữu,
phải có những con người khác ngoài con đường mà Đức Giêsu đã mở đầu. Ngày hôm
nay, có phải tôi tránh xa những "miền Samari".
Lúc Người vào một làng
kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Người.
Trong miền đất bị chúc
dữ này; đây là những người bị chúc dữ nhiều nhất. Ở đây cũng vậy, tôi phải dám
tưởng tượng ra cảnh tượng đó. Dưới từ ngữ "phong hủi", trong tâm thức
của Kinh Thánh (Lv 13 và 14); người ta gọi chung mọi bệnh tật trên da thịt, bề
ngoài rất ghê tởm và không chỉ bệnh phong hủi theo nghĩa y học hiện đại.
Hơn thế nữa, Kinh Thánh
nhìn trong bệnh phong hủi một hình phạt của Thiên Chúa, hình ảnh của chính tội
lỗi làm hư hỏng con người.
Còn Đức Giêsu, Người
không sợ. Là sự dịu dàng của Thiên Chúa. Người đã đến vì những người nghèo hèn
nhất. Ngày hôm nay cũng thế, Đức Giêsu đã không ghê tởm tội lỗi của tôi, tội
lỗi của những người gớm ghiếc nhất. Đức Giêsu đã đến vì điều đó để cứu chuộc,
để chữa lành.
Họ dừng lại đằng xa và
kêu lớn tiếng.
Tôi tưởng tượng tiếng
kêu của mười cái cổ họng ấy.
Ngay khi họ nhận ra có
người nào đó ở đằng xa, họ có thói quen kêu lớn tiếng, một điều bắt buộc. Luật
của Môsê thật hà khắc nhằm đóng khung dịch bệnh lan truyền: "Người mắc
bệnh phong hủi phải mặc áo rách, xõa tóc, che râu và kêu lên; "ô uế! ô
uế!" (Lv 13,45). Không cần phải nói thêm rằng họ đương nhiên phải bị cấm
đến ở những nơi có dân cư, và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phụng.
Những người nghèo ấy thuộc về hạng nghèo nhất.
Lạy Thầy Giêsu, xin dủ
lòng thương chúng tôi!
Họ gọi Đức Giêsu bằng
tên Người, một sự kiện tương đối hiếm thấy trong các sách Tin Mừng. Trong ngôn
ngữ Aramêen, Jéshouah có nghĩa là "Thiên Chúa cứu". Kitô hữu Phương
Đông gọi "kinh cầu Chúa Giêsu" chính là lời cầu xin ấy được lặp lại
nhiều lần: Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con. Lạy Chúa Giêsu, xin thương
xót. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót. Chúng ta, cũng rất thường lăp lại kinh này
trong thánh lễ: Kyrie eleison. Lạy Chúa, xin thương xót!
Thấy vậy, Đức Giêsu bảo
họ: "Hãy đi trình diện với các tư tế.
Cũng theo Luật (Lv
14,2). Các tư tế là những Người duy nhất có tư cách xác nhận sự lành bệnh. Vậy
mệnh lệnh này của Đức Giêsu phải được họ hiểu như một lời hứa chữa lành.
Người ta không khỏi
ngạc nhiên bới sứ cứng rắn bề ngoài của Đức Giêsu. Thay vì chữa lành họ ngay
tức khắc, người đòi hỏi những người tội nghiệp khẳn khổ ấy ra đi như thế. Và
chúng ta thấy họ ra đi, vẫn còn chứng bệnh phong hủi gớm ghiếc ở trên người.
Mọi sự xảy ra như thể
Đức Giêsu muốn thử thách Đức tin của họ, có thể nói như thế. Và chúng ta nghĩ
đến cùng một thử thách đức tin mà ngôn sứ Êlisê bắt ông Na-a-man, gốc Xyri phải
chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình thực hiện một biện pháp; điều này làm ông
Na-a-man nổi giận!
Ngày nay đối với chúng
ta cũng thế, đức tin thường là một thử thách đi qua đêm tối và không thấy,
không hiểu chúng ta phải trông cậy vào lời Người. Chúng ta cầu xin Chúa để được
giải thoát. Người hứa một ngày nào đó sẽ giải thoát chúng ta. Và chúng ta phải
tiếp tục đi theo con đường của chúng ta với chỉ lời hứa của Người.
Đang khi đi thì họ được
sạch
Một lần nữa, phép lạ
hoàn thành trong sự kín đáo, ở một khoảng cách xa Đức Giêsu. Khía cạnh
"giật gân" lạ lùng mà chúng ta rất thích đã cố tình bị làm cho mờ
nhạt.
Chúng ta cũng ghi nhận
những cộng hưởng tôn giáo của việc chữa lành này, một việc chữa lành không được
mô tả dưới khía cạnh y học: Đấy là một sự "thanh luyện". Lời cầu xin
của các bệnh nhân hầu như là lời phụng vụ: "Xin thương xót chúng
con". Đức Giêsu đã yêu cầu họ "trình diện với các tư tế".
Xuyên qua sự chữa lành
đặc biệt này, chúng ta được mời gọi nhận ra một dấu chỉ. Đức Giêsu có thể thanh
luyện tôi. Đức Giêsu có thể cứu tôi nữa.
Trước tiên chúng ta chớ
xin Người những lợi ích vật chất "Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin hãy chữa lành
tâm hồn con người hôm nay bằng Mình và Máu Chúa".
Một người trong bọn,
thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta
sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn
"Vinh quang của
Thiên Chúa! Hãy "cao giọng lên để" ca ngợi vinh quang của Thiên
Chúa!"
"Sấp mình xuống
dưới chân"! Một cử chỉ mà những Người phương Tây no nê không bao giờ làm
nữa, trừ một vài người trẻ tuổi. Chúng ta có cái bụng quá căng khó mà sấp mình
sát đất được. Chúng ta tưởng rằng chúng ta chỉ mang ơn chính mình, khả năng và
công việc của mình, những tài sản mà chúng ta thừa mứa. Chúng ta không ngạc
nhiên khi thấy những người Hồi giáo có thể gập mình làm đôi đến độ trán họ chạm
vào mặt đất đó sao? Một ngày nào đó, bạn hãy thử làm ở nhà bạn không cần ai
thấy. Và trong tư thế đó của thân thể, hóa ra không, bạn hãy để cho tư tưởng
của bạn thoát đi đến những điều mà tư thế ấy hầu như bắt buộc bạn thực hiện:
Con không là gì cả con đã nhận tất cả. Lạy Chúa, con đang ở trước mặt Chúa. Con
chỉ là một kẻ quê mùa bẩn thỉu, một "Ađam". Con chỉ là cát bụi trên
mặt đất cát bụi này.
Trong Kinh Thánh, sự
sấp mình xuống tận đất là một cử chỉ mà người ta chỉ làm trước Thiên Chúa. Ở
đây, người phong hủi được chữa lành đã sấp mình sát đất "trước mặt Đức
Giêsu". Đức Giêsu tham dự vào vinh quang và sự vô cùng của Thiên Chúa: Một
mầu nhiệm còn ẩn giấu đằng sau nhân tính rất người của Đức Giêsu!
"Mà tạ ơn!"
"eucharistôn!", "trong khi tham dự vào Thánh Thể "...
Ngày nay cũng thế,
trong tiếng Hy Lạp hiện đại, "cám ơn" thì nói "efkaristo".
Thật là tai hại khi sự chuyển thể của ngôn ngữ đã làm chúng ta mất dần ý nghĩa
của các từ. Ai trong chúng ta khi nói "tôi đến với Thánh Thể" thì một
cách tự phát nghĩ rằng "tôi đến tạ ơn"... tôi sẽ nói lời tạ ơn Thiên
Chúa! Thánh lễ trước hết chính là Giáo Hội bước vào một hành động cao cả,
"hành động tạ ơn" Đức Giêsu khi "Người ra khỏi thế gian này để
về với Chúa Cha".
"Người cầm lấy
bánh, người cầm lấy rượu, tạ ơn và nói: "này là Mình Ta, này là Máu Ta,
chịu nộp vì các con". Mọi bữa ăn của người Do Thái và đặc biệt là bữa ăn
lễ Vượt qua đều bắt đầu bằng một bài "berakha" "kinh tạ
ơn". Đức Giêsu được đào tạo trong tín ngưỡng của dân tộc Người, đã không ngừng
tạ ơn Thiên Chúa vì sự dịu dàng và lòng nhân hậu của Người dựng nên thế giới
bao la và xinh đẹp và cho chúng ta biết bao điều tốt lành đặc biệt là lương
thực để sống: (bánh và rượu). Người còn giải thoát và cứu chuộc chúng ta. Chúng
ta hãy biết ơn Người. Chúng ta không còn biết cám ơn Thiên Chúa.. Chúng ta luôn
miệng nói tiếng cám ơn vì lịch sự về mọi việc, do thói quen mà không cần suy
nghĩ ở bàn ăn, cửa hàng, trên đường phố; cũng không để nó tạo ra một quan hệ
với một ai. Vả lại việc nói cám ơn phải làm chúng ta hiệp thông với một con
người: thật ra, đó là một lời bộc lộ tình yêu thương. Nói cám ơn, thông thường
phải nhìn thẳng vào người đã làm cho chúng ta hạnh phúc? Người phong hủi tội
nghiệp của Tin Mừng, khi nhận được hạnh phúc của mình, đã đi được một khoảng
xa. Trong sự vui mừng ngây ngất, người ấy muốn tìm lại khuôn mặt của Đức Giêsu.
Anh ta đi ngược trở lại con đường. Anh trở về với Người để nói với Người lời
cám ơn! Và giờ đây, tôi thử tưởng tương những cử chỉ, giọng nói và khuôn mặt
của anh ta.
Anh ta lại là người Sa-ma-ri.
Vậy ra Người ngoại
quốc, người dị giáo, người đáng khinh nhất đó đã có cử chỉ nhân bản nhất, tự
nhiên nhất.
Đức Giêsu mới nói:
"Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu?
Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang
này?" Rồi Người nói với anh ta: "Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã
cứu chữa anh.
Đối với Đức Giêsu, phép
lạ này là một thất bại; bởi vì nó không tạo ra hiệu quả mà Người có quyền chờ
đợi: Đối với chín Người kia, phép lạ này không tạo ra "đức tin". Điều
thật sự đáng kể đối với Người. Và vì thế Đức Giêsu rất buồn.
Người Kitô hữu thật sự
phân biệt với tất cả các "tín đồ khác không phải vì họ cầu nguyện, họ xin
ơn và họ được ơn. Mà chính vì họ "cảm tạ" Thiên Chúa qua Đức Giêsu
Kitô. Cần phải đi từ đức tin sơ đẳng chỉ biết cầu xin đến đức tin phát triển
biết hướng về Đấng Khác (Tha Thể Tuyệt Đối) để gặp gỡ thật sự Khuôn Mặt của
Người.
Sưu tầm
ĐC CHỦ TỊCH UB CÔNG LÝ VÀ HÒA BÌNH HĐGMVN |
ĐC PHAOLÔ BÙI VĂN ĐỌC TÂN PHÓ TỔNG GIÁM MỤC SÀI GÒN |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét