ĐC PHÊRÔ NGUYỄN VĂN KHẢM BA BÍ TÍCH THÊM SỨC TẠI GX. BÌNH THUÂN;
ĐỨC CHA PHÊRÔ TRẦN ĐÌNH TỨ BAN BÍ TÍCH THÊM SỨC TẠI GX. TÂN THÁI SƠN
CHÚA NHẬT 16 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: St. 18, 1-10a; Cl. 1, 24-28;
Lc. 10, 38-42
MỤC LỤC
1. Phần tuyệt hảo
2. Chọn phần tốt nhất – Thiên Phúc
3. Phục vụ trong trật tự – ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
4. Phần tốt nhất
5. Chỉ có một điều cần
6. Để cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời
7. Chúa viếng thăm – Lm. Jos. Tạ Duy
Tuyền
8. "Con lo lắng bối rối nhiều
chuyện" – André Sève
9. Chỉ có một việc cần mà thôi –
Veritas
10. Một sự hiện diện thiết yếu –
Achille Degeest
11. Sự cân bằng
12. Ngồi dưới chân Chúa Giêsu – Charles
E. Miller
13. Mời Chúa vào nhà
14. Mácta và Maria – McCarthy
15. Martha và Maria
16. Những mẫu gương sáng ngời
17. Yêu theo cách của người mình yêu
18. Phúc cho ai sẵn sàng đón nhận Chúa
19. Một sự cần thiết
20. Điểm dừng
21. Việc cần
22. Lắng nghe
23. Suy niệm của JKN
24. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
25. Chú giải của Noel Quesson
26. Matta và Maria – R. Gutzwiller
27. Người khách muốn gì? – Lm Vũ Phan
Long
1. Phần tuyệt hảo.
Có một thời người ta đã dựa vào đoạn
Tin Mừng này để đề cao đời sống chiêm niệm, như là phần tối hảo mà Maria đã
khôn ngoan giành lấy cho mình. Còn đời sống bôn chôn hoạt động của Martha là
phần ít giá trị hơn. Thực ra Chúa Giêsu không thể bênh vực cho thứ chiêm niệm
lười lĩnh cũng như thứ hành động múa may. Điều Ngài đòi hỏi là lắng nghe và
thực thi lời Chúa.
Ngày kia, có lẽ bất ngờ, Chúa Giêsu đến
thăm viếng gia đình ba chị em Martha, Maria và Lagiarô. Đối với người Do Thái,
thì được tiếp đón một người khách đến thăm là một ơn huệ Chúa ban và cũng là
dịp để tưởng niệm cuộc xuất hành của dân Chúa trên đường tiến tới miền đất Hứa.
Việc đón tiếp khách được tổ chức một cách tỉ mỉ và ân cần. Khách vào nhà được
rửa chân vì đi đường bụi bậm. Thường thì người nhỏ nhất trong nhà có phận sự
rửa chân cho khách.
Trong đoạn Tin Mừng này, chúng ta có
một vài dấu hiệu cho biết Maria là người được phân công rửa chân cho khách.
Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu và xem ra Maria cũng đóng vai trò tiếp chuyện
khách. Bà ngồi bên chân Chúa để lắng nghe lời Ngài. Trong khi đó Martha nắm giữ
địa vị của một người nội trợ bận rộn với công việc bếp núc. Bà muốn cho việc
tiếp đón phải thật chu đáo. Nhưng Chúa Giêsu thì lại nghĩ khác. Việc đón tiếp
chu đáo và đúng nghĩa nhất đối với Ngài là đón nghe lời Ngài. Còn tất cả chỉ là
phụ thuộc. Martha đã bị Chúa quở trách vì bà đã quá chú trọng vào những cái phụ
thuộc, để mình chìm nghỉm trong mọi thứ công việc khiến không còn thời giờ và
sức lực để nghe và đón nhận lời Ngài. Người khách như Chúa Giêsu đến với gia
đình Bêtania, hẳn không phải là để được hạ, tiếp rước, mà là để ban phát, để
thiết tiệc lời hằng sống. Do đó ưu tiên số một không phải là việc cho Ngài ăn
gì, uống gì mà là lắng nghe lời Ngài vì của ăn đích thực của Ngài là rao giảng
Tin Mừng Nước Trời.
Chúng ta còn nhớ một lần kia bên bờ
giếng Giacóp, Ngài đã xác quyết: Của ăn của Ta là làm theo ý Đấng đã sai Ta. Và
ý của Đấng đã sai Ngài chính là việc rao giảng Tin Mừng cứu độ cho muôn dân. Vì
thế, những ai muốn theo Ngài, cũng phải lắng nghe và thực hiện những lời Ngài
truyền dạy.
Vào một dịp lễ trọng như lễ Chúa Giêsu
chẳng hạn, cả giáo xứ để hết tâm trí vào việc dọn dẹp và trang trí nhà thờ, làm
hang đá, treo đèn kết hoa, khiến cho không còn thời giờ, không còn lòng trí để
tìm hiểu và đào sâu ý nghĩa của việc Con Thiên Chúa làm người. Giáo xứ ấy đã đi
theo vết chân của Martha và bỏ mất phần tối hảo.
Bởi đó chúng ta đã kiểm điểm đời sống
xem chúng ta đã thực sự đầu tư một cách đầy đủ cho điều chính yếu, là lắng nghe
và thực thi lời Chúa, hay vẫn còn đang lẩn quẩn ở những vòng ngoài, ở những cái
phụ thuộc.
2. Chọn phần tốt nhất – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ 'Như Thầy Đã Yêu')
Federic Ozanam, nhà hoạt động xã hội
nổi tiếng của Giáo Hội Pháp vào cuối thế kỷ 19 đã trải qua một cơn khủng hoảng
đức tin trầm trọng lúc còn là một sinh viên đại học.
Một hôm, để tìm một chút thanh thản cho
tâm hồn, anh bước vào một ngôi thánh đường cổ ở Paris. Đứng cuối nhà thờ, anh
nhìn thấy một bóng đen đang quì cầu nguyện cách sốt sắng ở dãy ghế đầu. Đến
gần, chàng sinh viên mới nhận ra người đang cầu nguyện ấy không ai khác hơn là
nhà bác học Ampère. Anh đứng lặng lẽ một lúc để theo dõi cử chỉ của nhà bác
học. Và khi vừa đứng lên ra khỏi giáo đường, người sinh viên đã theo gót ông về
cho đến phòng làm việc của ông.
Thấy chàng thanh niên đang đứng trước
cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, nhà bác học liền lên tiếng hỏi:
- Anh bạn trẻ, anh cần gì đó? Tôi có
thể giúp anh giải một bài toán vật lý nào không?
Chàng thanh niên đáp một cách nhỏ nhẹ:
- Thưa thầy, con là một sinh viên khoa
văn chương. Con dốt khoa học lắm, xin phép thầy cho con hỏi một vấn đề liên
quan đến đức tin!
Nhà bác học mỉm cười cách khiêm tốn:
- Anh lầm rồi, đức tin là môn yếu nhất
của tôi. Nhưng nếu được giúp anh điều gì, tôi cũng cảm thấy hân hạnh lắm?
Chàng sinh viên liền hỏi:
- Thưa thầy, có thể vừa là một bác học
vĩ đại, vừa là một tín hữu cầu nguyện bình thường không?
Nhà bác học ngỡ ngàng trước câu hỏi của
người sinh viên, và với đôi môi run rẩy đầy xúc cảm, ông trả lời:
- Con ơi, chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng
ta cầu nguyện mà thôi!
Chúa phán: "Marta, Marta! Chị lo
lắng và lăng xăng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria
đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi". Phần tốt nhất ấy chính là ở
bên cạnh Chúa, lắng nghe Chúa nói, và cầu nguyện với Chúa.
Nhà bác học đại tài Ampère, với công
việc nghiên cứu của ông về điện tử học, về nam châm điện đã đem lại biết bao
lợi ích cho nền văn minh của nhân loại. Thế nhưng, ông không cho đó là vĩ đại,
mà ông nói: "Chúng ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện mà thôi".
Mẹ Têrêxa Calcutta, một nữ thánh giữa
đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống "địa ngục Calcutta" để chăm
sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào "nhà hấp hối" để an ủi các kẻ
liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì cầu nguyện trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ
để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ.
Hoạt động tông đồ là mang tình yêu Chúa đến với anh em, tại sao chúng ta lại
không kín múc nơi Chúa là suối nguồn yêu thương. Cho dù là hoạt động truyền
giáo, hoạt động từ thiện bác ái, hay sinh hoạt hằng ngày theo bổn phận, chúng ta
cũng đừng quên "chọn phần tốt nhất" này. Hãy nhớ lời Chúa:
"Không có Ta, chúng con không làm gì được".
Các triết gia Phương Tây có khuynh
hướng hoạt động cho rằng Chúa không làm gì, con người làm hết. Các triết gia
Phương Đông trái lại ưa thích thuyết tĩnh học, để Chúa làm hết và con người
không làm gì. Nhưng khuôn vàng thước ngọc của chúng ta là: "Cầu nguyện và
hoạt động", Marta phải đi đôi với Maria. Cầu nguyện là linh hồn của hoạt
động, và hoạt động là kết quả của cầu nguyện. P.Graef có một câu nói rất thâm
thúy: "Hoạt động mà không có cầu nguyện là thiếu nguyên tắc căn bản, cầu
nguyện mà không có hoạt động là thiếu đất gieo hạt". Tuy nhiên, có một cám
dỗ khiến chúng ta khó thoát khỏi. Đó là nhiều khi chúng ta tưởng mình phục vụ
Chúa, nhưng hóa ra chúng ta phục vụ chính mình. Nhìn Marta lăng xăng dọn bữa
ăn, chúng ta thấy dáng dấp của chính mình. Chúng ta hoạt động để được tiếng
khen, để gây chú ý: "Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không
để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con một tay". Chúng ta mời gọi kẻ khác
cộng tác, cũng là để phục vụ cho chương trình của chính mình. Đôi khi chúng ta
cầu nguyện cũng là để kéo Chúa về phe mình, xin Chúa ủng hộ để cá nhân mình sớm
được vẻ vang. Chúng ta muốn mình luôn được thành công. Chúng ta không chấp nhận
thất bại. Chúng ta mãn nguyện với những hoạt động tông đồ của mình. Chúng ta
hài lòng với công cuộc từ thiện của chúng ta. Chúng ta đi tìm chính mình!
3. Phục vụ trong trật tự – ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
Thoạt nghe bài Tin mừng hôm nay, có
người đã trách móc: Sao Chúa quá mâu thuẫn. Mới tuần trước, Chúa kể truyện
người xứ Samaria nhân hậu để dạy phải phục vụ. Vậy mà hôm nay, Chúa lại trách
móc, tuy có nhẹ nhàng, nhưng vẫn đau đau, bà Martha đã lăng xăng phục vụ đón
tiếp Chúa. Tại sao thế?
Nếu đọc kỹ bài tường thuật hôm nay cũng
như toàn bộ Tin mừng, ta sẽ thấy phục vụ tuy được Chúa đề cao, nhưng vẫn phải
nằm trong một trật tự toàn bộ của đời sống đạo.
Trật tự thứ nhất: Phục vụ phải biết
quên mình.
Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến
khoe khoang tự mãn. Ta hãy nhớ lại chuyện hai người lên đền thờ cầu nguyện. Ông
Biệt phái đứng giữa đền thờ, lớn tiếng kể công: "Lạy Chúa, con ăn chay mỗi
tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con" (Lc
18,12). Thái độ khoe mình của ông không được Thiên Chúa chấp nhận vì ông phục
vụ mà không biết quên mình.
Phục vụ mà không quên mình sẽ đi đến
ganh ghét, dòm ngó, lườm nguýt, loại trừ người khác. Về điểm này, Đức cha Bùi
Tuần có đưa ra một hình ảnh rất ý nhị. Trên bàn thờ có ngọn nến và bông hoa. Cả
hai cùng phục vụ bàn thờ. Nhưng nếu ngọn nến đốt cháy bông hoa thì thật đau
lòng. Phục vụ mà không quên mình sẽ đưa đến loại trừ lẫn nhau. Điều Chúa muốn
là phục vụ quên mình. Phục vụ quên mình là phục vụ kín đáo: "Tay trái
không biết việc tay phải làm" (Mt 6,3). Phục vụ quên mình chỉ cố ý làm vui
lòng Chúa chứ không so sánh hơn thua với anh em. Vì thế phục vụ quên mình sẽ
rất khiêm tốn. "Sau khi đã làm tất cả thì hãy nói: Tôi chỉ là đầy tớ vô
dụng, tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi" (Lc 17,10).
Trật tự thứ hai: Phục vụ phải biết lắng
nghe.
Trước hết phải biết lắng nghe lòng mình
xem có đức bác ái không. Nếu không có đức bác ái thì mọi việc phục vụ dù có lớn
lao cũng trở thành vô ích như lời thánh Phao-lô nói: "Giả như tôi có đem
hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, nếu
tôi không có đức bác ái, cũng chẳng ích gì cho tôi" (1 Cr 13,3).
Thứ đến phải biết lắng nghe đối tượng
phục vụ. Một phục vụ tốt phải đúng lúc, đúng nơi, đúng cách, đúng nhu cầu.
Nhưng trên hết phục vụ phải biết lắng nghe Lời Chúa. Việc phục vụ của ta chỉ
tốt và có ý nghĩa khi ta làm đúng ý Chúa muốn. Muốn biết ý Chúa, phải lắng nghe
tiếng Chúa trong Tin mừng, qua cầu nguyện và tiếp xúc tâm sự với Chúa trong bí
tích Thánh Thể. Lời Chúa là đèn soi bước chân ta, là ánh sáng hướng dẫn ta
trong mọi hoạt động. Lắng nghe Lời Chúa làm cho hoạt động được vững vàng. Đó là
xây nhà trên đá (cf. Lc 6, 47).
Trật tự cuối cùng: Phục vụ phải biết
nghỉ ngơi.
Cuộc sống văn minh hiện đại ngày càng
cuốn con người vào cơn lốc hoạt động đến ngộp thở. Người ta không còn thời giờ
cho gia đình, cho bạn bè, và nhất là cho đời sống tâm linh. Tại các nước phương
Tây, con người đang biến thành những cỗ máy làm việc, làm việc không ngừng. Đó
là một đời sống mất quân bình, rất nguy hiểm.
Trong Phúc âm, Chúa Giêsu nhiều lần
nhắc nhở chúng ta: "Đừng quá băn khoăn lo lắng". Hôm nay Chúa nhắc
lại với bà Martha một lần nữa: "Đừng băn khoăn lo lắng quá". Chúa
không chê trách công việc bà làm, nhưng Chúa chê trách thái độ lăng xăng, lo
lắng thái quá. Chúa mời gọi bà hãy biết nghỉ ngơi, biết giữ bình an nội tâm
trong một đời sống quân bình bằng cách biết cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi
bên Chúa. Cầu nguyện tạo cho ta một khoảng không gian và thời gian, nhờ đó đời
sống tâm linh phát triển. Chính nhờ những giây phút cầu nguyện bên Chúa mà sinh
lực ta được phục hồi. Và ta có thể phục vụ tốt hơn.
Lời Chúa kêu gọi bà Martha, Chúa cũng
muốn nói với mỗi người chúng ta hôm nay: "Con đừng quá băn khoăn lo lắng
cho cuộc sống. Hãy biết đến bên Cha mà nghỉ ngơi. Cha sẽ bổ sức cho con. Hãy
chọn lấy phần tốt nhất như Maria. Đó là một kho tàng bền vững mãi mãi".
Xin cho mỗi người chúng ta biết lắng
nghe tiếng Chúa mời gọi, hãy đến bên Chúa nghỉ ngơi. Để nhờ Chúa hướng dẫn,
việc phục vụ của chúng ta sẽ theo đúng ý Chúa muốn và để đời sống tâm linh ta
được phát triển toàn diện trong một nếp sống quân bình. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Cầu nguyện là lắng nghe Chúa nói với
mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Hiện nay bạn cầu nguyện thế nào? Có
sốt sắng không? Có nhiều thời gian cầu nguyện không?
2- Bạn đọc kinh nhiều, nhưng bạn có cầm
trí không, hay chỉ đọc như máy?
3- Khi phục vụ, bạn có thực sự quên
mình, hay phục vụ để được tiếng là người đạo đức, để hơn người?
4- Muốn việc phục vụ thực sự tốt đẹp,
ta cần có thái độ nào?
4. Phần tốt nhất
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Nếu dựa trên bài Tin Mừng về người
Samari tốt lành, hẳn chị Mácta phải nhận được một lời ca ngợi, vì chị đã làm,
đã phục vụ Đức Giêsu. Thế nhưng ở đây, Ngài chỉ dành cho chị lời trách móc.
Đức Giêsu có đối xử bất công không?
Chúng ta cần nhìn ngắm chị Mácta tất
bật dưới bếp. Chị thấy còn bao việc phải làm ngay cho kịp. Lòng chị lo lắng bồn
chồn về việc tiếp đãi Chúa. Vậy mà cô em Maria lại ngồi không... Mácta không
thể nén được nữa. Chị ngắt lời lúc Đức Giêsu đang trò chuyện với em. Hơn nữa,
chị muốn Ngài ra lệnh để em mình xuống bếp. Câu nói của chị có nguy cơ phá vỡ
cuộc trò chuyện. Cả Đức Giêsu và Maria đều bị coi là những người vô tâm, thản
nhiên trò chuyện khi mà công việc đang ngập đầu.
Câu trả lời của Đức Giêsu đầy cảm
thông, trìu mến. Ngài hiểu nỗi bối rối của Mácta khi tiếp đãi Ngài, nhưng Ngài
cho thấy ngồi nghe cũng là một cách tiếp đãi, thậm chí một cách tiếp đãi tuyệt
vời.
Trong một thế giới thực dụng, coi trọng
hiệu quả, Hội Thánh có khá nhiều Mácta và rất ít Maria.
Lắng nghe Lời Chúa, cầu nguyện bị coi
là xa xỉ phẩm, là những điều vô ích, mất thì giờ, ù lì, thụ động. Nhưng có hành
động nào hiệu quả bằng ngồi nghe Chúa? Tiếp xúc với Đấng Toàn Năng cho ta sức
mạnh để làm mọi sự.
Một Hội Thánh quân bình khi có cả Mácta
và Maria.
Một Kitô hữu quân bình khi coi trọng
việc ngồi bên Chúa.
Không phải chỉ là làm cho Chúa, mà còn
sống với Ngài trong một tương quan mật thiết bền chặt. Đừng đợi lúc rảnh, lúc
lắng mới đến gặp Chúa. Lúc cần gặp Chúa hơn cả là lúc bận bịu, lo âu.
Con người hiệu năng là con người cầu
nguyện.
Khi được hỏi về bí quyết của mình, Mẹ
Têrêsa đáp: "Bí quyết của tôi rất đơn giản: tôi cầu nguyện."
Có ai trong chúng ta muốn chọn phần tốt
hơn như Maria?
Khi nhìn Mácta, chúng ta thấy khuôn mặt
của mình.
Lúc đầu, chị chỉ muốn phục vụ Chúa.
Nhưng dần dần, điều chi phối chị không phải là Chúa nữa, mà là sự thành công
rực rỡ của bữa ăn do chị nấu. Chị huy động mọi người để phục vụ cho dự tính của
chị, thay vì phục vụ Chúa. Chị đi đến chỗ nghi ngờ cô em lười biếng, trách Đức
Giêsu vô tâm. Cuối cùng không rõ chị tìm Chúa hay tìm mình, tìm làm vui lòng
Chúa hay thành công cá nhân.
Có khi chúng ta cũng bắt Chúa đứng vào
phe mình để cho công việc mình chóng thành tựu.
Làm thế nào để chúng ta phục vụ mà
không thấy mình phục vụ, không ngắm nghía, nhâm nhi sự quảng đại của mình?
Làm sao tôi có thể yêu một cách trong
suốt như Maria?
Gợi Ý Chia Sẻ
Cầu nguyện là lắng nghe Chúa nói với
mình, là gặp gỡ Chúa trong tình con thảo. Bạn nghĩ gì về đời sống cầu nguyện
của bạn hiện nay? Chất lượng và thời gian ra sao?
Cái khó và cái dễ khi bạn cầu nguyện
trong một xã hội công nghiệp hiện đại?
Cầu Nguyện
Lạy Ngôi Lời Thiên Chúa rất đáng mến,
xin dạy con biết sống quảng đại, biết phụng sự Chúa cho xứng với uy linh Ngài,
biết cho đi mà không tính toán, biết chiến đấu không ngại thương tích, biết làm
việc không tìm an nghỉ, biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào ngoài
việc biết mình đã chu toàn Thánh Ý Chúa. Amen.
5. Chỉ có một điều cần
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Trên dặm đường rao giảng Tin Mừng,
thỉnh thoảng Đức Giêsu và các môn đệ gặp được một chỗ nghỉ chân chan chứa tình
người.
Mácta là chủ nhà đón tiếp Đức Giêsu.
Chị tất bật lo việc tiếp đãi nấu nướng, chị lo lắng trước bao việc phải làm
ngay để có được một bữa ăn thịnh soạn hầu tỏ lòng kính trọng đối với vị khách
quý. Trong khi đó cô em Maria lại vô tư và bình thản, ngồi dưới chân Chúa mà
nghe Lời Người.
Maria say mê nghe Lời Chúa, Lời mở tâm
tư cô ra trước những chân trời mới mẻ. Cô thấy chẳng có gì hạnh phúc hơn giây
phút này, được ngồi nghe Thầy giảng như một môn đệ thực thụ.
Mácta không hiểu được cô em gái, chị
cũng không hiểu được Đức Giêsu, nên cuối cùng chị đã đến thưa với Chúa: Thầy
không để ý tới sao? Mácta muốn Thầy để ý đến việc mình đang làm, muốn Thầy nhận
ra sự vất vả mình phải chịu. Em con để mình con phục vụ. Mácta tưởng chỉ có
mình mới là người phục vụ. Chị không nhận thấy rằng Maria cũng đang tiếp khách
và ngồi nghe Chúa cũng là một cách phục vụ.
Xin Thầy bảo em giúp con một tay.
Mácta kéo Đức Giêsu vào cuộc, kéo Ngài
đứng về phía mình, phía đúng, để gây áp lực trên cô em. Chị muốn Maria phải vào
bếp với mình, phải phục vụ theo kiểu của mình. Ngấm ngầm, Mácta không chấp nhận
kiểu phục vụ của Maria. Có lẽ chị nghĩ đó là một hành vi vô ích, trong khi có
biết bao việc quan trọng khác cần làm.
Đức Giêsu không ghét Mácta, không coi
nhẹ việc phục vụ của chị, nhưng buộc lòng Ngài phải lên tiếng. Ngài muốn giải
phóng Mácta khỏi nỗi bồn chồn quá mức. Ngài muốn giải phóng chị khỏi cái tôi,
khỏi lối nhìn hẹp hòi, để nhận ra điều duy nhất cần thiết.
Ngài gọi tên chị hai lần: Mácta! Mácta!
Con lo lắng và xao động vì nhiều chuyện quá, dù chuyện ấy là chuyện con lo cho
Thầy.
Cần thanh lọc lòng mình khỏi những tìm
kiếm vị kỷ, khỏi những ganh tị nhỏ mọn và tự mãn ngấm ngầm, để có thể làm việc
cho Chúa trong bình an thư thái, dù có gặp thất bại hay bị lãng quên.
Chỉ có một chuyện cần mà thôi.
Coi chừng nỗi lo lắng về nhiều chuyện
phụ lại làm ta quên mất chuyện chính, một chuyện cần hơn cả, đó là an tĩnh gặp
gỡ và lắng nghe Chúa mỗi ngày trong tư thế khiêm hạ của người môn đệ.
Cuộc sống dồn dập hôm nay dễ biến chúng
ta thành Mácta: xao động, âu lo, căng thẳng, mất kiên nhẫn. Cả người làm việc
cho Chúa cũng bị cuốn hút. Có lẽ cần bớt việc và thêm giờ cầu nguyện, cần để
cho Chúa làm việc nơi tôi và qua tôi thay vì tự mình bươn chải một mình.
Phải chăng đời Kitô hữu là kết hợp giữa
Mácta và Maria, giữa tất bật và an tĩnh, giữa lăng xăng và ngồi yên, giữa hoạt
động và cầu nguyện?
Để rồi giữa tất bật, tôi tìm thấy an
tĩnh, - giữa lăng xăng, tôi thấy mình ngồi yên, - giữa hoạt động, tôi thấy mình
chiêm niệm.
Gợi Ý Chia Sẻ
Có khi nào những khúc mắc của cuộc sống
đưa bạn đến ngồi dưới chân Chúa không? Bạn nghĩ gì về sự cân đối giữa cầu
nguyện và hoạt động trong đời bạn? Bạn cầu nguyện có đủ và sâu không?
Cầu nguyện là gặp gỡ và lắng nghe như
cô Maria. Có khi nào bạn có kinh nghiệm như Maria không? Bạn có khi nào nghe
Chúa nói tự thẳm sâu cõi lòng không?
Cầu Nguyện
Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,
xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.
Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,
xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.
Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu
lo, xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe Lời Người.
Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng, xin
cho con thoát được lên cao nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.
Lạy Chúa, ước gì tinh thần cầu nguyện
thấm nhuần vào cả đời con.
Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được
con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.
6. Để cho Lời Chúa soi dẫn cuộc đời
(Trích dẫn từ 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm
Ignatiô Trần Ngà)
Hôm ấy, các đệ tử của Thầy hăng say
thảo luận về nguyên nhân đau khổ của nhân loại.
Người thì nói là do lòng tham vô đáy
của con người thúc đẩy, kẻ thì cho là do tính ích kỷ thâm căn cố đế hoặc tính
kiêu căng và óc thống trị xui khiến, một số khác cho là do sự chia rẽ chủng tộc
hay tôn giáo phát sinh...
Sau cùng, các đệ tử quay sang hỏi ý
kiến Thầy, Thầy nói: "Mọi đau khổ đến từ việc con người thiếu khả năng
ngồi yên lặng một mình để lắng nghe..." (Phỏng theo Cha Anthony de Mello)
* * *
Yên lặng để lắng nghe! Để nghe Chúa
nói, để nghe lời khôn ngoan... Đó cũng là điều mà Cô Maria thể hiện qua đoạn
Tin Mừng hôm nay.
Hôm ấy, Chúa Giêsu đến thăm gia đình
Mácta. Mácta tất bật lo việc nấu dọn để hầu hạ Chúa, hy vọng Chúa sẽ rất hài
lòng về sự tiếp đãi ân cần, chu đáo và tận tình như thế.
Vậy mà Chúa Giêsu lại đề cao thái độ
chăm chú lắng nghe của Maria hơn và trách Mácta:
"Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo
lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần
tốt nhất và sẽ không bị lấy đi." (Lc 10, 41-42)
Nhiều lần trong Tin Mừng, Chúa Giêsu
khẳng định với mọi người rằng lắng nghe và thi hành Lời Chúa là điều tối cần
thiết và quan trọng nhất.
Lắng nghe Lời Chúa là chuyện cần thiết
nhất vì Lời Chúa là đèn soi cho loài người tiến bước trong đêm tối và vượt qua
bao giông tố của cuộc đời. "Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh
sáng chỉ đường con đi." (Thánh vịnh 119,105). Nhờ ngọn đèn nầy, người lầm
lạc thấy được chân lý, người tội lỗi được hoán cải để sống đời thánh thiện,
người thất vọng được tìm thấy niềm tin và hy vọng tràn trề... Thiếu Lời Chúa,
nhân loại như đang chìm trong tối tăm.
Một chiếc xe vượt qua nhiều đoạn đường
đèo quanh co, cheo leo hiểm trở trong đêm tối mà xe lại chạy không đèn thì chắc
chắn sẽ lao xuống vực. Đời người với bao nhiêu thăng trầm thách thức của cuộc
sống khác gì chiếc xe vượt đèo kia, nếu không được ánh sáng của Lời Chúa soi
dẫn, thì sẽ không thoát khỏi tai ương.
Đối với những ai biết đón nhận Lời Chúa
và nhận lấy ánh sáng Lời Chúa soi dẫn cho hành động, người ấy sẽ đạt được những
thành quả tốt đẹp trong đời mình.
Lời Chúa thật sự đã mang lại giải pháp
tối ưu cho mọi vấn đề của cuộc sống.
Trong thời kỳ đất nước Việt Nam của
chúng ta bị đặt dưới ách đô hộ của người Pháp thì tại nam Á, một quốc gia khác
to lớn hơn nhiều cũng bị đặt dưới ách thống trị của người Anh. Đó là quốc gia
Ấn-độ. Đế quốc Anh cũng hùng cường không thua kém gì đế quốc Pháp. Cả nhân dân
Việt Nam cũng như nhân dân Ấn đều đứng lên để lật đổ chế độ thực dân và giành
độc lập cho xứ sở mình.
Trong cuộc đấu tranh nầy, nhân dân Việt
Nam phải dùng đến bạo lực, đến khí giới và đã trả giá cho nền độc lập bằng vô
vàn sinh mạng và máu xương!
Trong khi đó, tại Ấn-độ, dưới tài lãnh
đạo của thánh Gandhi, vị anh hùng của nhân dân Ấn và là người được dân Ấn gọi
là thánh, người dân Ấn đấu tranh bằng đường lối ôn hoà bất bạo động mà thánh
Gandhi học được từ Tin Mừng của Chúa Giêsu: "Hãy yêu thương kẻ thù và làm
ơn cho kẻ ghét các ngươi... Ai vả má bên nầy thì hãy chìa má bên kia
ra..."
Bằng đường lối bất bạo động học từ Tin
Mừng của Chúa Giêsu, Gandhi và nhân dân Ấn-độ đã lật đổ được đế quốc Anh, bẻ
gảy ách thống trị của người Anh, giành lại độc lập cho quê hương xứ sở mà không
cần đến khí giới.
Vài chục năm, tại đất nước Hoa-kỳ, Mục
sư Martin Luther King cũng đã dùng Lời Chúa soi sáng cho cuộc đấu tranh bất bạo
động của mình, và ông đã đạt được thắng lợi vẻ vang, buộc người da trắng nhìn
nhận, tôn trọng quyền lợi và phẩm giá của người da đen mà không cần đến khí
giới.
Như thế, Lời Chúa quả đã đem lại những
giải pháp tối ưu cho mọi vấn đề và thách thức trong cuộc sống.
Hôm nay, Chúa Giêsu lại đem Tin Mừng
của Ngài trao tặng miễn phí cho chúng ta để làm đèn soi cho chúng ta trong cuộc
sống nhiều mây mù u tối nầy.
Cuộc đời chúng ta như những chuyến xe
phải vượt những chặng đường đèo cheo leo hiểm trở giữa màn đêm. Lời Chúa vẫn
mãi mãi là đèn soi dẫn. Ước gì chúng ta đón nhận Lời Chúa để soi sáng cho hành
trình còn lại trong cuộc đời chúng ta.
7. Chúa viếng thăm – Lm. Jos. Tạ Duy
Tuyền
Người Việt Nam thường có câu: "lời
chào cao hơn mân cỗ". Vì cái tình quý hơn là cái ăn cái mặc. Người ta bị
bỏ đói một bữa chẳng sao nhưng sẽ cay đắng cả đời khi bị người đời bỏ rơi, hay
bị đối xử ngược đãi xem thường. Thực vậy, cái qúy giá ở đời là được anh em yêu
thương, tôn trọng và nhất là luôn được anh em chia sẻ, cảm thông. Dù cuộc đời
có đau khổ. Dù cuộc đời có gặp bất hạnh hay đói khổ nhưng được anh em đùm bọc,
cảm thông, an ủi thì vẫn cảm thấy lạc quan và bình an.
Người ta kể rằng thời Ông Abraham
Lincoln làm Tổng Thống của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, ông vẫn thường có thói quen
đến thăm các nhà thương để có dịp chuyện vãn với các anh em thương binh trong
thời nội chiến.
Một hôm, bác sĩ dẫn Tổng Thống tới
phòng các thương binh đang được điều trị và đến bên một bệnh nhân rất nặng. Với
giọng nhẹ nhàng, ôn tồn ông hỏi:
- Tôi có thể làm chút việc gì giúp anh
được không?
Có lẽ không nhận ra người khách đến
thăm mình là ai, nên bệnh nhân gắng gượng nói:
- Xin ông làm ơn viết lá thư cho mẹ
tôi.
Người ta trao bút giấy cho Tổng Thống,
và ông bắt đầu viết xuống những gì bệnh nhân có thể nói lên được.
"Mẹ rất yêu dấu của con! Con bị
thương nặng trong khi thi hành nghĩa vụ quốc gia. Có lẽ con sẽ không bao giờ
bình phục được nữa. Xin mẹ đừng khóc nhiều vì con. Xin mẹ hôn hai em Mary và
John dùm con. Nguyện xin Chúa chúc lành cho mẹ, cho ba và hai em."
Nói tới đây, người thương binh ngừng vì
không còn sức để nói tiếp nữa, nên ông Lincoln ký thay cho anh ta và thêm:
"Viết thay cho con trai của bà. Ký tên: Abraham Lincoln."
Bệnh nhân xin cho xem lại những gì
người khách đã viết thay cho mình, anh ta sửng sốt khi nhận ra người đã tới
thăm mình. Anh hổn hển hỏi với giọng ngạc nhiên:
- Ông thật là Tổng Thống của Hoa Kỳ ư?
Abraham Lincoln trả lời cách âu yếm.
- Phải chính tôi đây.
Tổng Thống hỏi thêm xem mình còn có thể
giúp anh thương binh được việc gì nữa chăng. Gương mặt anh bỗng chốc bừng lên,
anh sung sướng nói:
- Xin Tổng Thống cầm tay tôi, và giúp
tôi đi đến cùng.
Trong căn phòng bé nhỏ, ông Tổng Thống
với tâm hồn của người cha, âu yếm cầm lấy tay chàng thương binh trẻ trong tay
mình và tiếp tục nói với anh những lời khích lệ thân mật cho tới khi anh ta
trút hơi thở cuối cùng.
Lời Chúa hôm nay cũng gợi lại một cuộc
viếng thăm đầy tình người mà Chúa Giêsu đã dành cho gia đình ở Betania. Ngài đã
đến với gia đình Matta và Maria. Cả hai cô đều vui mừng vì có Chúa viếng thăm.
Kẻ thì bận rộn rót nước, nấu ăn. Người thì ríu rít chuyện trò bên Chúa. Thật là
hạnh phúc cho gia đình côi cút nay lại được ấm áp vui tươi vì có Chúa hiện
diện. Thế nhưng, Matta lại quá chú trọng đến việc thiết đãi tiệc tùng. Cô muốn
làm một bữa ăn thật thịnh soạn cho Chúa. Cô còn muốn cả em cô hãy ngưng tâm sự
với Chúa để cùng giúp cô chuẩn bị bữa ăn. Cô đã mạnh dạn đề nghị với Chúa: xin
Thầy hãy nói với Maria giúp con một tay. Lời đề nghị xem ra không được chấp
nhận. Vì Chúa đến đây không vì miếng ăn. Vì Chúa không đến để được phục vụ. Con
đường Chúa đến với tha nhân là để yêu thương và phục vụ. Chúa không muốn trở
thành gánh nặng cho tha nhân. Sự hiện diện của Chúa nơi ngôi nhà này là để nói
lên sự quan tâm, tình liên đới và cảm thông. Thế nên, Chúa đã nói với Matta:
"Matta, con lo lắng nhiều chuyện, điều quan yếu không phải là việc phục vụ
Chúa, mà hệ tại ở việc lắng nghe lời Chúa dạy bảo".
Cuộc sống hôm nay cũng thật tất bật.
Người ta ít có thời giờ để tâm sự với nhau. Người ta càng ít có thời giờ để
viếng thăm nhau. Không có tâm sự sẽ không có sự hiểu biết, cảm thông lẫn nhau.
Không có những cuộc viếng thăm tình người sẽ phôi phai theo thời gian. Ðôi khi
những người trong gia đình cũng chẳng có thới giờ viếng thăm nhau, hay chuyện
trò với nhau. Thiếu sự viếng thăm tình người như xa dần. Thiếu sự đối thoại sẽ
đánh mất sự cảm thông. Vì tình yêu đích thực không dừng lại ở đầu môi chóp
lưỡi. Tình yêu không dừng lại ở việc chạnh lòng thương xót mà phải dấn thân để
xoa dịu những nỗi đau của đồng loại, để băng bó những thương tích của anh em.
Tình yêu đích thực luôn đòi hỏi sự gần gũi, sự cảm thông và nâng đỡ. Chính nhờ
sự gần gũi người ta mới hiểu nhau, thông cảm với nhau và nâng đỡ cho nhau.
Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết dành
thời giờ cho nhau qua những việc viếng thăm, qua những việc giúp đỡ, qua sự săn
sóc đầy tình người, Ước gì mỗi người chúng ta hãy biết quên đi cái tôi của mình
để lo cái lo của anh em, để biết sống mình vì mọi người, để cùng nhau xây dựng
một thế giới đầy ắp tình yêu thương. Amen.
8. "Con lo lắng bối rối nhiều
chuyện" – André Sève
(Trích dẫn từ 'Tin Mừng Chúa Nhật')
Tôi thèm muốn được ở với Mácta, người
phụ nữ độ lượng, hiếu khách. Hạnh phúc biết bao khi được tiếp đón Chúa Giêsu!
Thế nhưng hơi thất vọng, Ngài đã rầy chị, một lần nữa Ngài mến Maria hơn.
Mến Maria hơn sao? Chắc chắn rằng Ngài
quý mến tấm lòng tự do hoàn toàn lắng nghe Ngài của chị. Ngài không khinh dể
Mácta, Ngài khó chịu do sự ân cần của chị. Phải hiểu sự lắng nghe và sự ân cần
được nói đến ở đây.
Trong khi biết rằng những lo lắng không
ngừng rơi xuống trên chúng ta. Chúa Giêsu không muốn chúng ta để cho những lo
lắng ấy chiếm quá nhiều chỗ. Vì như thế là nghi ngờ Thiên Chúa, là mỉa mai kinh
"Lạy Cha", lời kinh của sự không lo lắng, của tấm lòng tự do. Chỉ có
một ước muốn lớn lao duy nhất: "Xin cho Nước Cha trị đến!" và một
niềm tin cũng lớn lao không kém: "Xin cho chúng con hôm nay lương thực
hàng ngày". Thánh Têrêxa nói: "Chỉ cho ngày hôm nay mà thôi".
Đúng như ý tưởng của Chúa Giêsu:
"Đừng băn khoăn chi cho ngày mai, ngày mai sẽ lo cho ngày mai... Trước
tiên hãy tìm Nước Trời, còn mọi điều khác sẽ ban thêm cho các ngươi" (Mt.
6, 33-34). Nhưng chính cái phần cho thêm này làm chúng ta quá bận lòng, và Chúa
Giêsu tuyên chiến với những nỗi lo xấu xa này của chúng ta: "Các ngươi lo
ăn gì, mặc gì... Các ngươi đừng lo phải nói gì trước toà án... Các ngươi đừng
để cho những cây gai lo lắng bóp chết Lời Chúa... Các ngươi đừng để cho những
lo toan đè nặng tấm lòng các ngươi...". Chắc Ngài đã phải kinh ngạc vì
thấy nhiều người lo lắng đến thế, mà Ngài thì Ngài đòi cần phải có tinh thần
hoàn toàn tự do.
Không thể lui tới với Ngài nếu chúng ta
không luôn luôn chú ý giữ gìn sự tự do của chúng ta. Để lắng nghe hoặc để phục
vụ Ngài, chúng ta cần loại bỏ các lo lắng thái quá. Chúng ta đã phá hoại rất
nhiều sự lắng nghe của chúng ta, mọi người đều dễ dàng nhận ra điều đó.
Chúng ta ít chú ý đến việc các lo toan
xâm nhập vào sự phục vụ. Sự lo lắng thái quá thì không tốt, nó có thể làm hỏng
sự ân cần, người tận tuỵ trở thành hay càu nhàu, nô lệ cho sự bận rộn của mình
và nhanh chóng ghen tị với những người khác vì "họ chẳng làm gì cả".
Chúng ta muốn làm cho vui vẻ thế nhưng lại tạo nên một bầu khí phản kháng, khó
chịu.
Đây là điều đã xảy đến với Mácta đáng
thương. Chị cũng cần phải có những giây phút đẹp đẽ để lắng nghe và những giây
phút cao cả để phục vụ. Ngày hôm đó chị đã không biết hài lòng về tất cả trong
sự độ lượng. Chúa Giêsu đến, bữa ăn ngon phải chuẩn bị, niềm vui được thấy
Maria hạnh phúc.
Ôi Mácta, chị đã bắt đầu một ngày tốt
đẹp biết bao! Chị có thể vừa làm vừa hát. Nhưng chị lo lắng, nóng lòng và không
còn tấm lòng tự do nữa. Chính sự tự do này là phần tốt nhất.
9. Chỉ có một việc cần mà thôi –
Veritas
(Trích dẫn từ 'Hãy Ra Khơi')
Có một câu chuyện vui kể rằng, trên một
chiếc phi cơ du lịch loại nhỏ có bốn người và một phi công, một thương gia, một
linh mục nhà truyền giáo và một hướng đạo sinh. Phi cơ đang bay, bỗng một động
cơ bị trục trặc, ngưng hoạt động, viên phi công cố gắng mãi mà động cơ vẫn
không hồi phục và cũng không thể đáp khẩn cấp ở đâu được. Cuối cùng, ông phải
tuyên bố một giải pháp là nhảy dù để thoát hiểm.
Ông mang ra ba cái dù và nói: Tôi là
phi công, tôi còn có vợ và ba đứa con, nên tôi cần phải sống. Thế là ông ta đeo
một chiếc dù rồi nhảy xuống. Liền sau đó vị thương gia tuyên bố: Tôi là một kỹ
sư và là một thương gia, hiện thân của trí tuệ và giàu có của nhân loại nên tôi
cần phải sống, rồi ông vội vã khoác tay vào dây đeo, lao đầu ra cửa nhảy xuống.
Vị linh mục hốt hoảng nhìn chàng hướng đạo sinh và nói: Này con, con còn trẻ,
tương lai đầy hứa hẹn, con cần phải sống và để giúp ích mọi người, con hãy mang
cái dù còn lại mà thoát hiểm đi. Nhưng chàng hướng đạo sinh thưa với vị linh
mục: "Tất nhiên ai cũng cần sống, cha hãy bình tĩnh lúc này hãy còn một
cái dù cho cha và một cái cho con. Vì ông thương gia hiện thân của trí tuệ và
giàu có của nhân loại đã đeo cái ba lô của con nhảy xuống mất rồi".
Ai cũng cần phải sống, đó là lẽ tự
nhiên, nhưng điều quan trọng hơn hết là biết cách làm thế nào để sống. Trong
bài Tin Mừng hôm nay, chị em Mattha và Maria đón tiếp Đức Giêsu vào nhà, Mattha
tất bật lo phục vụ, cô bận rộn đến nổi cáu kỉnh như vẻ trách cô em Maria không
biết chia sẻ gánh nặng và thầm trách Đức Giêsu chưa quan tâm đủ đến sự tất bật
của mình.
Nhiệt tình đón tiếp vị khách, nhất là
khách quí như Chúa Giêsu, đó là lẽ thường tình, nhưng Đức Giêsu lại nói với
Mattha: "Chị băn khoăn và lo lắng nhiều chuyện quá, chỉ có một điều cần mà
thôi, Maria đã chọn phần tốt nhất".
Có người xem ra đồng tình với Mattha và
phản kháng Đức Giêsu khi đưa ra câu nói: "Có thực mới vực được đạo".
Đúng! Có thực mới vực được đạo, nhưng đáng tiếc có người chỉ hiểu được có một
nửa của câu nói. Họ không biết rằng bên cạnh cái thực còn có đạo; bên cạnh của
ăn vật chất còn có của ăn thiêng liêng. Ngoài cuộc sống đời này còn có cuộc
sống đời sau, và người ta còn nói: "Sống không phải để ăn, nhưng ăn để
sống". Cho nên trong khi lo lắng kiếm cái thực, cái ăn để sống thì cũng
phải biết lo lắng cho cái đạo để sống cho ra sống và để sống được trọn vẹn.
Đức Giêsu không phủ nhận giá trị công
việc phục vụ của Mattha cũng như không từ chối sự đón tiếp của gia đình cô,
nhưng Ngài đề cao việc Maria nghe lời Người. Đức Giêsu đã chẳng từng quan tâm
đến những sinh hoạt đời thường và chia sẻ những khổ đau bệnh tật của dân chúng
sao? Ngài đã từng làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi dân chúng, đã từng hóa
nước thành rượu để niềm vui tiệc cưới được trọn vẹn. Ngài đã từng chăm sóc cứu
chữa các bệnh nhân, cho người què đi được, người điếc được nghe, người mù được
thấy, người chết sống lại, nhưng Ngài vẫn nhắm đến điều cần thiết hơn hết là
cho mọi người được nghe, được lãnh nhận Lời Hằng Sống.
Có lần Người tuyên bố: "Người ta
sống không chỉ nhờ cơm bánh mà còn bởi Lời của Thiên Chúa". Con người sống
không phải chỉ có vật chất, chỉ lo bơn chải những vấn đề cơm bánh mà còn phải
có đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng nữa.
Đây chính là điều cần thiết hơn hết mà
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Đây
cũng chính là điều chúng ta cần phải sống và sống hạnh phúc. Tất nhiên, Lời
Chúa không phải là cái dù, chỉ cần đến khi nguy biến để thoát hiểm, nhưng chính
Lời Thiên Chúa, Lời Chân Lý hằng sống làm cho những sinh hoạt hàng ngày của
chúng ta có hiệu quả và có ý nghĩa hơn.
Thật khó hiểu khi một người cho mình là
Kitô hữu mà không bao giờ biết lắng nghe và đón nhận Lời Thiên Chúa. Càng khó
hiểu hơn khi một người làm việc tông đồ mà không được Lời Chúa nuôi dưỡng và
hướng dẫn.
Thánh Phêrô và các tông đồ đã cho chúng
ta một cái nhìn khi thưa với Đức Giêsu: "Bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy
mới có Lời ban sự sống đời đời". Và có một lần khi Đức Giêsu đang giảng
trong hội đường thì giữa đám đông có một phụ nữ lên tiếng thưa với Người:
"Phúc thay dạ đã cưu mang và cho Thầy bú mớm. Nhưng Đức Giêsu đáp lại,
đúng hơn phải nói rằng, phúc thay kẻ đã lắng nghe và tuân giữ Lời Thiên Chúa".
Ước gì mỗi người chúng ta ý thức rằng,
mình đã được mời gọi để sống hạnh phúc và luôn sẵn sàng đón nhận Lời ban sự
sống. Lời của Thiên Chúa chính là điều tôi cần phải sống. Giờ đây mỗi người
chúng ta cùng tuyên xưng đức tin.
10. Một sự hiện diện thiết yếu –
Achille Degeest
(Trích dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật')
Tĩnh từ 'tốt hơn' chỉ một trạng thái
trội hơn một trạng thái tốt khác. Có thể nói rằng phần tốt hơn của Maria không
giảm giá trị cái phần tốt của Martha. Cả hai bà tiếp đón Đức Kitô, chăm chú săn
sóc Chúa. Martha cư xử đúng vai chủ nhà lịch thiệp hiếu khách, nấu ăn bày bàn
rất cầu kỳ. Đức Giêsu nhã nhặn vui vẻ, bảo bà chớ quá bận rộn làm chi. Tuy
nhiên bao giờ cũng vậy, Chúa nhắm xa hơn cái hiện tại trước mắt. Chúa cho hai
chị em cảm thấy sự quan trọng của chuyến viếng thăm. Điều quan trọng là không
nên để các sự việc (phục vụ, hành động, ...) dầu có giá trị và cần thiết hết
sức, rút cuộc chiếm hết trí khôn, cản trở hoạt động của trái tim. Theo nghĩa
trong Kinh Thánh, trái tim là tâm tình hướng về Đức Giêsu, cảm biết Chúa là sự
Tuyệt Đối; chỉ có Chúa là hằng hữu, đáng kể, đáng chú ý. Do đó đương nhiên mọi
sự phải giảm xuống mức tối thiểu. Khi Chúa đến thăm, Người chú ý đến chúng ta
nhiều hơn là đến cách tiếp đón. Chúa ao ước chúng ta để ra thời giờ dừng lại
tâm sự với Người, hơn là bận rộn sửa soạn lễ vật. Cách cư xử nào cũng có giá
trị, cũng có mức tuyệt hảo. Bổn phận sửa soạn đãi khách không được làm giảm bớt
sự săn sóc tiếp đón. Trái lại không nên vì quá săn sóc tiếp đón mà lơ là việc
đãi đằng. Người ta thường căn cứ vào truyện hai bà Martha và Maria để so sánh
hành động với chiêm niệm, điều thiết yếu là mỗi người phải sinh lợi ân huệ của
Thiên Chúa. Ở đây chúng ta nêu ra hai điểm:
1) Đức Giêsu đến thăm gia đình Bêtania.
Điều cần là sự hiện diện thiết yếu của
Chúa trong nhà chúng ta, tức là trong tâm khảm chúng ta, nơi xuất phát ý nghĩ
và hành động. Giọng văn trong bài tường thuật, sự thân thiết tự nhiên của
Martha, tất cả cho thấy Đức Giêsu được tiếp đãi như một người bạn thân. Đó là
điểm đáng chú ý trong bài Phúc Âm hôm nay. Nói chung, trong tâm hồn chúng ta,
Chúa phải cảm thấy dễ chịu như trong Nhà Người.
2) Trong nội bộ Giáo Hội, chúng ta phải
tôn trọng ơn thiên triệu của giới này cũng như của giới kia.
Có thể là giới hành động không hiểu
được đường lối tu trì 'bất hành động' của giới chiêm niệm, cho nên dễ đi đến
chỗ muốn thưa với Chúa: 'Lạy Chúa, xin Chúa xét xem có nên phối hợp tu sĩ các
đan viện chẳng hạn, đưa họ vào công cuộc Phúc Âm hoá quá lớn lao không?'. Chắc
chắn Chúa không trả lời. Nói đúng ra, Chúa trả lời, Chúa bảo không nên quan
trọng hoá những phương thế bề ngoài của hành động. Hiệu năng công cuộc Phúc Âm
hoá phát xuất từ sự hiện diện tác động của Thiên Chúa, tuỳ theo cường độ mạnh
yếu, trong hành động cũng như trong kinh nguyện của chúng ta.
11. Sự cân bằng
Có một ông bố đã tâm sự với thầy giáo
đang dạy cho các con ông như sau: Các con tôi mặc dầu không còn sống với tôi
nữa, nhưng tôi vẫn yêu thương chúng và muốn biết chúng hiện đang học hành ra
sao? Rồi ông kể cho thầy giáo hay việc vợ và bốn đứa con của ông đã lìa bỏ ông
như thế nào. Ông vốn là một nhà thầu khoán nên nhiều lúc rất bận rộn. Có ngày
ông phải làm việc tới 16 tiếng đồng hồ. Ông thường xuyên vắng mặt trong gia
đình, nền dần dần những người thân yêu cũng trở nên xa cách. Ông buồn bã cho
biết: Tôi rất ao ước sắm sửa cho vợ con tôi mọi thứ mà tôi từng mơ ước. Nhưng
vì quá mải mê với công việc làm ăn, nên tôi đã quên mất một điều mà vợ con tôi
đang cần đến, đó là họ cần một người cha, một người chồng để yêu thương và nâng
đỡ họ.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào
đoạn Tin Mừng sáng hôm nay. Chủ đích của đoạn Tin Mừng ấy là như thế này: Chúng
ta có thể vì quá mải mê công việc làm ăn, đến nỗi quên mất lý do khiến chúng ta
phải vất vả như thế. Chúng ta có thể vì quá mải mê khiếm sống đến nỗi quên mất
chính mục đích của cuộc đời. Chúng ta trang bị những vật dụng mà đồng tiền có
thể mua sắm được, để rồi quên mất tất cả những gì mà đồng tiền không thể mua
sắm được.
Đây cũng chính là sự lầm lẫn của Martha
được ghi lại qua đoạn Tin Mừng vừa nghe. Cô quá lăng xăng lo chuyện nấu nướng
bữa ăn cho Chúa Giêsu đến nỗi đã quên mất rằng Chúa đến nhà cô là vì tình
thương chứ đâu phải vì bữa ăn miễn phí.
Thực vậy con người chúng ta gồm có hồn
và xác. Phục vụ vật chất cho thân xác là điều tốt. Thế nhưng con người còn có
những nhu cầu, cần đến những phục vụ thiêng liêng cho linh hồn. Chẳng hạn, một
người bạn đến chơi không phải chỉ cần đãi đằng họ là đủ, mà nhiều khi cần phải
lắng nghe những tâm sự để chia sẻ những khó khăn họ gặp phải. Chính vì thế Chúa
Giêsu đã khen Maria đã chọn phần tốt nhất bởi vì cô đã ngồi dưới chân Chúa để
đón nhận những điều Ngài giảng dạy.
Còn chúng ta thì sao? Hiện thời chúng
ta đang sống trong một thế giới rất dễ mất cân bằng, chúng ta vì bận rộn với
công việc làm ăn, vì mải mê tìm kiếm tiền bạc, để rồi quân mất mục đích của đời
mình, quên mất cái nào là ưu tiên số một trong cuộc sống, quên mất sự sáng suốt
để lựa chọn, quên mất điều mình đang làm và lý do khiến mình làm điều đó.
Chúng ta giống như chú bé vẽ voi, đáng
lẽ phải vẽ: con vỏi con voi với cái vòi đi trước, hai chân trước đi trước, hai
chân sau đi sau, còn cái đuôi thì đi sau rốt. Thì chú bé lại vẽ: con vỏi con
voi, cái đuôi đi trước, hai chân sau đi trước, hai chân trước đi sau, còn cái
vòi thì đi sau chót.
Và quan trọng hơn nữa, đó là chúng ta
quên mất phần rỗi của linh hồn chúng ta. Bởi vì như lời Chúa đã phán: Được lời
lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích lợi gì?
12. Ngồi dưới chân Chúa Giêsu – Charles
E. Miller
Tôi nghĩ rằng khi nghe câu chuyện về
Matta và Maria, nhiều người trong chúng ta có khuynh hướng cảm thấy đáng tiếc
cho Matta. Maria đã bỏ mặc tất cả mọi công việc cho Matta, trong lúc cô ta vui
hưởng cuộc nói chuyện với Chúa Giêsu. Khi Matta đến phàn nàn, Chúa Giêsu có vẻ
như gắt gỏng cho dù Ngài gắt gỏng nhẹ nhàng, có lẽ Ngài đã lắc đầu và nói:
"Matta, Matta con lo lắng nhiều chuyện, Maria đã chọn phần tốt nhất".
Nhưng chính xác là Maria có chọn phần tốt nhất không? Có phải đơn giản là vui
hưởng ân sủng và là bà chủ đáng yêu trong lúc Matta thì tất bật trên bếp lò
nóng?
Khi Thánh Luca viết rằng Maria ngồi nơi
chân Chúa Giêsu, Ngài không miêu tả tư thế nhưng là mối liên hệ giữa Maria với
Chúa Giêsu. Cụm từ"ngồi nơi chân" của một người nào có nghĩa là môn
đệ của người đó. Trong văn hóa Do Thái thời Chúa Giêsu, không nghe nói có một
người phụ nữ nào làm môn đệ của một thầy Rabbi. Theo trong tôn giáo hoặc ít
nhất là quan sát bên ngoài thì các môn đệ đều là những người đàn ông. Chúa
Giêsu đã phá vỡ cái truyền thống kéo dài từ xa xưa bởi vì truyền thống không
đúng. Ngài đã đến để kêu gọi tất cả mọi người, người phụ nữ cũng như người đàn
ông, con nít cũng như người trưởng thành, ngay cả những kẻ được xem như là
người tội lỗi để trở thành môn đệ của Ngài. Ngài đã nhấn mạnh rằng Maria đã
chọn phần tốt nhất. Cô ta đã hiểu sự mời gọi của Ngài, đã chấp nhận nó. Matta
cảm thấy buộc phải duy trì khuôn mẫu của cô ta và đồng ý rằng chỗ của cô ta là
trong bếp. Chúa Giêsu đủ thực tế để nhận biết rằng thực phẩm đã được sửa soạn
và như thế Ngài có thể đã nói với Matta rằng chỉ cần một đĩa, một cái gì đơn
giản là đủ. Tiếp đó, Ngài thêm không chỉ cho Matta mà cho tất cả mọi người
trong mọi thời: "Maria đã chọn phần tốt nhất và cô ấy sẽ không bị ai cướp
mất". Chúa Giêsu đã muốn Matta làm một chọn lựa đó.
Maria đã được giới thiệu với mọi người
nữ trong Giáo Hội nhưng trong một ý nghĩa lớn hơn cô đã trở nên kiểu mẫu cho
mọi người. Chúng ta được kêu gọi để trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, để dâng hiến
cho Ngài sự ấm áp mà Ngài đã cảm nghiệm nơi nhà Bêtania, để lắng nghe Người với
tất cả sự chú ý như Maria đã làm, đặt Người lên hàng ưu tiên trước mọi việc
trong cuộc sống của chúng ta, và không cho phép điều gì hoặc người nào có thể
dứt chúng ta ra khỏi mối liên hệ của Người. Abraham đã dâng hiến sự hiếu khách
cho các thiên thần như là những sứ giả của Thiên Chúa. Chúng ta cũng được khẩn
nài dâng hiến sự hiếu khách cho Chúa Giêsu, Đấng là Con Thiên Chúa.
Chúng ta sẽ hiểu trong một ý nghĩa sâu
xa, chúng ta ngồi nơi chân Chúa Giêsu trong Thánh Lễ khi cử hành phụng vụ Lời
Chúa. Theo Công đồng Vatican II đã long trọng dạy cho chúng ta rằng: "Đức
Kitô đang hiện diện trong Lời của Ngài, đó chính là Ngài đang nói khi Thánh
Kinh được đọc trong nhà thờ" (Hiến chế về phụng vụ, số 7). Chúa Giêsu đã
ước ao khi chúng ta đặt trọng tâm sự chú ý của chúng ta vào Người. Lắng nghe
Người trong đức tin, hấp thụ Lời và áp dụng nó trong cuộc sống của chúng ta.
Tiếp đó chúng ta được nuôi dưỡng bởi lương thực thánh, Thánh Thể, bữa tiệc này
không phải được sửa soạn bởi Matta nhưng bởi chính Chúa Giêsu.
Có lẽ chúng ta có thể thấy gương của
Maria thì thật khó để theo. Thật là quá dễ để cho phép những lo toan trong cuộc
sống hằng ngày làm chúng ta xao lãng việc nghe theo lời dạy của Chúa Giêsu. Đó
là những cám dỗ cho phép những giá trị gian dối mà những giá trị đó giới thiệu
cho chúng ta một xã hội vật chết đang hướng chúng ta ra ngoài những chân lý của
đức tin. Chúng ta phải trung thành đến với Thánh Lễ, bởi vì ở đây chúng ta có
thể đặt những sự chia trí ra ngoài, để đặt trọng tâm vào những gì thật sự là quan
trọng cho chúng ta. Trong lúc chúng ta cử hành phụng vụ, nơi thờ lạy của chúng
ta sẽ trở thành Bêtania của chúng ta, nơi mà chúng ta sẽ học để trở thành những
môn đệ thật.
13. Mời Chúa vào nhà.
(Trích trong 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Cách đây ít lâu, trong một bài báo, một
phụ nữ đã kể lại việc trang trí nội thất của gia đình bà như sau:
Mọi công việc trang trí đều được vợ
chồng tâm đầu ý hợp với nhau cho đến khi chồng bà dùng quyền độc đoán bảo người
trang trí nội thất treo một bức ảnh Chúa Giêsu kích thước cỡ lớn: 40x50 vào chỗ
nổi bật nhất trong nhà. Bà cố gắng thuyết phục chồng đổi ý, nhưng ông vẫn cứ
khăng khăng không chịu.
Tuy nhiên, đang lúc tranh cãi với nhau,
bà chợt nhớ lại những lời của Chúa Giêsu: "Bất cứ ai nhìn nhận Ta trước
mặt kẻ khác, thì Ta cũng sẽ nhìn nhận người ấy trước mặt Cha Ta, Đấng ngự trên
trời" (Mt 10,32). Thế là bà chịu nghe ý kiến của chồng.
Giờ đây bà nói, bà rất vui vì đã nghe
theo ý chồng, vì bà nghĩ rằng bức ảnh Chúa Giêsu đã gây được ảnh hưởng đáng kể
trên gia đình bà lẫn trên bạn bè khách khứa của bà. Chẳng hạn, ngày nọ có người
khác lạ, sau khi chăm chú nhìn vào bức ảnh liền nói với bà: "Bà biết
không, Chúa Giêsu trên bức ảnh kia không nhìn vào bà đâu, Ngài nhìn xuyên qua
tâm hồn bà đó!. Và đêm nọ, một người bạn, sau khi ngồi ngắm bức ảnh cũng thốt
lên: "Lúc nào tôi cũng cảm thấy trong nhà chị rất bình an". Tuy
nhiên, bà nói thêm, ấn tượng mạnh mẽ nhất tác động trên các bạn bè khách khứa
xã hội tôi là mỗi khi nhìn tấm ảnh Chúa Giêsu thì tâm hồn họ luôn được nâng lên
cao".
Cuối cùng, bà nói rằng, có thể mọi
người sẽ cười và không chừng còn nhạo báng những nhận xét trên đây của bà,
nhưng bà chẳng bận tâm. Bà nói: "Theo thiển ý của tôi, một khi bạn biết
mời Chúa vào nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi không còn như trước nữa".
Thưa anh chị em,
"Một khi bạn biết mời Chúa vào
nhà, chắc chắn bạn sẽ được biến đổi". Sách Sáng Thế trong Bài đọc thứ nhất
hôm nay đã kể lại câu chuyện ông Abraham mời Chúa vào nhà. Abraham vồn vã, nhã
nhặn ra đón khách lạ theo kiểu Đông Phương. Ông sấp mình lạy, miệng mời Chúa
ghé lại. Ông đặt ghế cho Chúa ngồi nghỉ mát, lấy nước cho Chúa rửa chân, lấy
bánh và thịt mời Chúa dùng. Ông đứng hầu hạ phục vụ. Abraham được Chúa hứa
ngay: "Sang năm vào độ nầy, tôi sẽ ở lại thăm ông, và khi đó bà Sara vợ
ông sẽ có một con trai". Thế là ông được một người con nối dõi tông đường
trong lúc tuổi già và son sẻ.
Tin Mừng hôm nay cũng thuật lại câu
chuyện hai chị em Matta và Maria tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà. Matta người chị
vốn có lòng hiếu khách và muốn tỏ ra lòng mộ mến sâu xa đối với một bậc thầy,
là bạn của gia đình, nên chị định trổ tài nấu dọn một bữa ăn thật ngon để chiêu
đãi Chúa. Chị lăng xăng chạy lên chạy xuống, lo sao cho mọi sự chu đáo...
Trong khi đó, Maria lại nghĩ rằng không
nên để Chúa ngồi đơn độc một mình. Vả lại, Chúa cũng chẳng muốn chỉ vác bụng
đến ăn không, nhưng còn muốn chia sẻ cho hai chị em những lời ban sự sống. Do
đó, một người thì muốn nói, một người lại thích nghe, quên hết cả mọi sự!
Thế là Matta nổi cáu, trách Chúa không
để ý đến mình, để mặc mình vất vả! Nỗi ghen tức kể ra cũng chính đáng. Nhưng
Chúa cũng trách nhẹ Matta sao lo lắng nhiều chuyện quá làm chi. Chuyện ăn uống
đâu có quan trọng đến nỗi ấy. Chỉ có một chuyện cần thiết thôi: "Maria đã
chọn phần tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất".
Có người giải thích câu nói: "Chỉ
có một chuyện cần thiết mà thôi", cho rằng Chúa muốn nói: "Chỉ cần
làm một món ăn thôi cũng đủ rồi!". Lời giải thích ấy không phải là vô căn
cứ, giải thích theo nghĩa thông thường đi nữa, thì lời trách nhẹ của Chúa Giêsu
vẫn chính đáng; bởi vì trong chuyện tiếp khách, vấn đề không phải chúng ta chỉ
biết cho, và người khách chỉ biết nhận, mà chính chủ nhà cũng phải biết nhận và
để cho khách niềm vui được chia sẻ. Cho và nhận, đây không phải là có ý nói tới
những gì là vật chất, như ăn uống, quà cáp... mà trước hết là sự hiện diện cũng
như những câu chuyện trao đổi. Một người bạn thân khi đến với chúng ta, dù có
được mời đến để dự tiệc, cũng không bao giờ chỉ biết vác bụng đến, nhưng còn
đến trước hết với tình bạn của mình: người ấy muốn gặp chúng ta, muốn nói
chuyện với chúng ta, còn chuyện ăn uống chỉ là một phương tiện, một bối cảnh
được tạo ra, như người xưa thường nói: "Miếng trầu là đầu câu
chuyện".
Vậy, nếu được phép góp ý kiến cho hai
chị em Matta và Maria, thì chúng ta sẽ có thể đề nghị như sau: hai chị em nên
phân công nhau rõ ràng, mỗi người một việc. Nhưng làm sao luôn có người ngồi đó
tiếp chuyện với Chúa, và nếu hai chị em đã biết tính Chúa thích ăn uống giản
dị, thì cũng không nên trổ tài nấu bếp làm gì cho phí thời giờ, Chúa đến không
chỉ để ăn uống với hai chị, mà Ngài còn muốn chia sẻ Lời Thiên Chúa cho hai chị
nữa, nên cũng phải biết tỏ ra sốt sắng đón nghe Lời Chúa nói với các chị nữa.
Còn chúng ta thì sao, thưa anh chị em?
Chúng ta có thể vì quá mải mê công việc
làm ăn đến nỗi quên mất lý do khiến chúng ta phải lao khổ như thế. Chúng ta có
thể vì mải mê kiếm sống đến nỗi quên mất chính mục đích của cuộc sống. Chúng ta
có thể lu bu đeo đuổi những cái mà đồng tiền có thể mua sắm được để rồi quên
béng những gì mà đồng tiền không thể mua sắm được. Và chúng ta vô tình đã biến
thành những Matta nhiệt tình thật đấy, nhưng lăng xăng lo lắng đủ chuyện, mà
quên mất "một chuyện cần thiết nhất": lắng nghe Lời Chúa, tiếp chuyện
với Ngài.
Chúng ta lo xây cất cho Chúa những ngôi
thánh đường đồ sộ lộng lẫy, nhưng rồi mấy ai trong chúng ta âm thầm tới ngồi
dưới chân Chúa để lắng nghe Chúa nói với chúng ta Lời Chúa, Lời làm cho chúng
ta được sống. Bời vì "con người sống không chỉn hờ cơm bánh, nhưng còn nhờ
Lời Chúa nữa" (Mt 4,4). Thực tế cuộc sống của chúng ta rất bận rộn. Chúng
ta không có thời giờ để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta muốn cầu nguyện nhiều
hơn, dự lễ ngày thường nhiều hơn, đọc Kinh Thánh hay sách báo đạo đức nhiều
hơn. Nhưng chúng ta không có thời giờ.
Quả thật, Chúa muốn chúng ta vừa là
Matta, vừa là Maria: vừa lao động vừa cầu nguyện. Chúa không nói rằng khi chúng
ta làm việc như Matta, chúng ta không thể cầu nguyện như Marai, hay ngược lại.
Hai việc đều liên hệ với nhau. Chúng ta phải vừa là Matta vừa là Maria. Ngày
nay, một người phụ nữ danh tiếng nhất thế giới là một nữ tu bác ái, một Matta
thời đại: Mẹ Têrêsa thành Calcutta Ấn Độ. Mẹ đã hiểu và đã truyền lại cho con
cái thiêng liêng của Mẹ tinh thần Tin Mừng hôm nay. Cầu nguyện trước khi hoạt
động. Mỗi ngày để ra một giờ để chầu Mình Thánh Chúa trước khi xuống "địa
ngục Calcutta" để săn sóc những người nghèo khổ hoặc đi vào trong các
"nhà hấp hối" để giúp những người sắp chết được an nghỉ trong Chúa.
Anh chị em thân mến,
Thánh lễ là lúc chúng ta trở thành
những Maria ngồi dưới chân Chúa Giêsu lắng nghe Lời Ngài. Đến với Chúa, chúng
ta đừng tiếc thời giờ, đừng lật đật vội vã đến trễ về trước, sợ thiệt thòi, mất
mát, hay đến ở ngoài sân nhà thờ không chủ tâm dự lễ, không đón nhận Lời Chúa,
Mình Thánh Chúa, không mời Chúa vào nhà. Chúng ta cũng đừng đến với Chúa ngày
Chúa Nhật, chỉ vì bắt buộc, miễn cưỡng, sợ mắc tội. Hãy đến với Chúa như một
người con, một người bạn, đến để tìm Chúa, gặp Chúa, lắng nghe Lời Chúa, chỉ vì
tình yêu mến Chúa mà thôi.
Thánh lễ còn là lúc Chúa đến thăm chúng
ta như đã đến với hai chị em Matta và Maria. Hãy quý trọng sự hiện diện của
Ngài trong lòng chúng ta và biết tiếp chuyện với Ngài, để sự hiện diện của Chúa
và Lời Chúa nuôi sống chúng ta ngày hôm nay, ngày mai và cho đến cuộc sống muôn
đời.
14. Mácta và Maria – McCarthy
Suy Niệm 1. CHO VÀ NHẬN
Tôi có một giấc mơ. Chúa đến nhà tôi
như đã đến nhà của Mácta và Maria. Vì thế tôi lau chùi, cọ rửa từ trên xuống
dưới, rửa sạch và đánh bóng mọi thứ. Rồi tôi dọn bàn với khăn bàn tốt nhất, bộ
chén dĩa bằng sứ, bộ dao nĩa muỗng bằng bạc loại tốt nhất, và cũng bài trí nến
và hoa. Về thức ăn, tôi chọn món đắt tiền. Khi tất cả đã sẵn sàng và khách mời
sắp đến, tôi trải thảm đỏ ra tận cổng nhà.
Người đến và tôi nghĩ tôi đã làm Người
phải tự hào. Tôi phô bày thành tích cao. Tôi cung kính đứng hầu bên cạnh. Không
ông vua nào có được sự phục vụ hào phóng hơn. Tôi chắc rằng cuộc đàm đạo sẽ
không bao giờ nhạt nhẽo. Về phần Người, Người rất vui, Người tỏ vẻ cảm kích khi
thấy tôi lúng túng. Mọi việc kết thúc chính xác như đồng hồ. Khi Người đã ra
về, tôi cảm thấy tốt đẹp, và tuy vậy có một điều gì đó làm tôi phải băn khoăn.
Có một lúc tôi như đã hụt hẫng với điều
lẽ ra phải có. Rồi một câu hỏi hiện ra trong tôi: Người muốn điều gì nơi tôi?
Thức ăn? Lòng hiếu khách? Tôi tự hỏi. Nhưng rồi tôi nghe thấy một câu hỏi thứ
hai vang lên trong tôi: Người muốn cho tôi điều gì? Tôi cảm tháy chắc chắn
Người muốn cho tôi điều gì? Nhưng dù là điều gì, tôi đã không cho Người cơ hội
để ban nó cho tôi. Tôi đã tạo ra cảm tưởng mọi việc đều hoàn hảo và tôi không
muốn có thêm điều gì nữa.
Có những người rất hào phóng và tốt
bụng khi cho nhưng rất nghèo nàn khi nhận. Bác sĩ Marie de Hennezel thành thập
một số bộ phận tiếp nhận những người bệnh ở giai đoạn cuối trong một bệnh viện
ở Paris. Trong cuốn sách của bà nhan đề Intimate Death, bà nói về một phụ nữ
được đưa đến bộ phận ấy. Người phụ nữ này đã từng giúp đỡ mọi người nhưng giờ
đây không thể giúp đỡ chính mình. Bà luôn luôn muốn được người ta ban cho thật
nhiều yêu thương. Nhưng nhận được chúng thì thật là khó khăn. Bà nói về sự yêu
thương của gia đình, của bạn bè, của những người chăm sóc bà như "một suối
nước mà bà không biết phải uống như thế nào". Bà cần học cách nào để lại
trở thành một trẻ nhỏ, khiêm tốn đủ để nhận một món quà. Nhưng điều đó không dễ
dàng bởi vì bà hoàn toàn đối lập với điều đó: bà thích cho một cách vị kỷ.
Những người vị kỷ, coi mình là trung
tâm không thích nhận. Tại sao thế? Bởi vì nó làm cho họ cảm thấy thấp kém hơn
người khác và đặt họ vào sự mắc nợ những người khác. Mặt khác họ thích cho bởi
vì điều ấy tâng bốc cái tôi của họ, do đó (có lẽ một cách vô thức) làm cho họ
cảm thấy cao sang hơn những người khác.
Cho là việc quan trọng. Nhưng nhận cũng
thế. Không ai trong chúng ta tự cho mình là đủ. Mọi người chúng ta đều bất
toàn. Chúng ta cần tiếp nhận của nhau, và trên hết, tiếp nhận từ Thiên Chúa.
Không có khả năng tiếp nhận quả là bi thảm. Biết cho như thế nào chưa đủ, chúng
ta cũng phải biết nhận như thế nào. Cả hai đều là những hoạt động của ân sủng.
Câu chuyện Tin Mừng cho chúng ta thấy
sự khác nhau chủ yếu giữa Mácta và Maria. Mácta không có khả năng nhận, trong
khi Maria có. Maria cho Chúa món quà là một tâm trí mở rộng và một tâm hồn mẫn
cảm. Còn Mácta, trong lúc rất tốt, rất hào phóng khi cho, lại rất nghèo nàn khi
nhận. Cả Chúa cũng không thể cho cô điều gì. Có một bài thơ ngắn nói lên điều
ấy:
Nếu bạn có thể làm cho mình trống rỗng
Giống như một vỏ sò không
Hẳn Người sẽ tìm thấy bạn
Trên một bãi cạn của đại dương
Và Người tự nhủ: Nó chưa chết.
Và làm đầy bạn bởi chính Người
Nhưng nếu bạn quá đầy với chính bạn
Và với bao hoạt động khôn ngoan,
Đến nỗi khi Người đến Người liền nói:
Nó đủ cho nó. Nó quá đầy
Không còn chỗ dành cho Ta
(T. Brown. Thi sĩ xứ Manx)
Suy Niệm 2. SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA
Chúng ta không sống đời sống tâm linh
một cách nghiêm túc, chúng ta không dành ra một ít thời gian để sống với Thiên
Chúa và lắng nghe lời Người. Phần lớn chúng ta đọc một số kinh sáng và kinh
chiều. Nhưng, khổ nỗi, những kinh nguyện ấy thường là những lời quá quen thuộc
mà chúng ta đọc một cách máy móc, vội vàng trong lúc đầu óc cứ mãi chạy theo
nhưng công việc đang chờ đợi chúng ta. Kinh nguyện như thế giống như mặc áo
quần, rồi mới rửa tay của mình khi người ta cần phải được tắm rửa, kỳ cô. Chúng
ta cần có sự cầu nguyện tập trung, dâng hiến, sự cầu nguyện giống như cơn đói
phải được no thoả mà không gì có thể thay thế. Loại kinh nguyện ấy luôn làm cho
chúng ta biến đổi và thêm sức mạnh. "Cầu nguyện không phải là xin xỏ. Nó
là sự khao khát của linh hồn. Nó là sự thừa nhận mỗi ngày sự yếu đuối của chúng
ta".
Đối với nhiều người, cầu nguyện chủ yếu
là đọc kinh hơn là cầu nguyện. Trong một ý nghĩa nào đó, cầu nguyện bắt đầu ở
chỗ mọi diễn tả chấm dứt. Những lời nói mà môi miệng chúng ta thốt ra thường
chỉ là những làn sóng trên bề mặt của bản thể chúng ta. Hình thức cao nhất của
sự tôn thờ là thinh lặng.
Có lẽ kinh nguyện có lợi nhất chính là
ở trong sự hiện diện của Thiên Chúa, không nói hoặc làm điều gì. Chỉ ngồi trong
sự hiện diện của Thiên Chúa, như Maria ngồi trong sự hiện diện của Đức Giêsu.
Nhưng đối với một số người, điều đó có vẻ như lãng phí thời gian trong khi có
rất nhiều việc phải làm.
Ở trong sự hiện diện, không nói hoặc
làm điều gì, không phải là một việc dễ dàng. Bởi vì ngay khi chúng ta ngừng
lại, chúng ta cảm thấy trống rỗng kể cả thấy mình vô dụng. Phần đông chúng ta
có ý thức về giá trị của mình qua việc làm. Họ không biết đương đầu như thế nào
với sự ngưng nghỉ và bất động. Kết quả là đời sống của họ nông cạn và hời hợt
bên ngoài.
Phần đông con người có xu hướng đặt
tình yêu của Thiên Chúa với hoạt động của xã hội. Dĩ nhiên cầu nguyện có thể là
một sự tránh né và thoát ly. Nhưng hoạt động xã hội cũng thế. Hoạt động của
chúng ta có thể là một sự tránh né việc tìm kiếm Thiên Chúa. Và không có cầu nguyện
người ta có thể dễ dàng quỵ ngã, hướng ngã thay vì được Thiên Chúa hứng khởi.
Henry David Thoreau đã sống hai năm
trong một túp lều trong rừng ở Maine. Ông ta làm gì trong suốt hai năm ấy? Ông
trồng một vườn rau, đọc sách, và quan sát thiên nhiên. Nhưng một đôi khi ông
không làm gì cả. Ông nói: "Thỉnh thoảng vào một buổi sáng mùa hè, tôi ngồi
trên con đường ngập nắng dẫn vào túp lều từ sáng sớm cho đến trưa, mê man trong
mộng tưởng giữa những cây thông, trong sự cô đơn và bất động yên tĩnh, trong
khi bầy chim ca hát xung quanh tôi".
Ông đã thu hoạch được gì từ điều đó?
Ông nói:
"Trong những mùa ấy, tôi lớn lên
như ngũ cốc trong đêm. Đó không phải là thời gian bị lấy mất khỏi đời tôi,
nhưng vượt ra ngoài và bên trên sự bớt đi thông thường. Cần cù như những con
kiến chưa đủ. Bạn cần cù về điều gì? Đừng sợ cuộc đời bạn sẽ kết thúc; đúng hơn
phải sợ cuộc đời chưa bao giờ đã bắt đầu".
Một số người có thể cho rằng Thoreau là
một người mơ mộng lười biếng. Nhưng chúng ta cần dành thời gian cho việc cầu
nguyện và suy niệm, hoặc chỉ cần ngồi thinh lặng trong sự hiện diện của Thiên
Chúa. Đó không phải là thời gian bị lãng phí mà là thời gian được sử dụng tốt.
Mỗi ngày chúng ta phải cố gắng, dù chỉ trong một thời gian ngắn, tìm kiếm khuôn
mặt của Thiên Chúa.
Với cái nhìn nông cạn, phần việc của
Maria có vẻ dễ dàng hơn –cô chỉ việc ngồi đó, và phần việc của Mácta khó khăn
hơn. Nhưng suy nghĩ kỹ, chúng ta có thể thấy ít nhất đôi khi, phần việc của
Maria khó khăn hơn nhiều trong hai phần việc ấy. Gạt bỏ công việc của mình và
chú tâm hoàn toàn vào người khác không dễ dàng. Đem sự chú tâm trọn vẹn ấy vào
Thiên Chúa lại càng khó khăn hơn. Nhưng đó là linh đạo sinh ra lợi ích rất lớn
lao.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Tổng Giám mục Anthony Bloom kể lại rằng
người đầu tiên đến xin ngài một lời khuyên khi ngài đã được truyền chức thánh
là một bà cụ, bà nói: "Thưa cha, con đã cầu nguyện hầu như không ngừng
suốt mười bốn năm, và con chưa bao giờ có cảm giác gì về sự hiện diện của Thiên
Chúa".
"Con có để cho Thiên Chúa có cơ
hội lên tiếng không?" ngài hỏi.
"Ồ không", bà nói, "Con
đã nói với Người suốt thời gian ấy. Như thế không phải là cầu nguyện
sao?".
"Không," ngài nói. "Cha
không nghĩ như thế. Bây giờ cha gợi ý thế này. Con hãy dành riêng mười lăm phút
để chỉ ngồi trước mặt Thiên Chúa".
Và bà đã làm như thế. Kết quả là gì?
Không lâu sau, bà ta trở lại và nói: "Thật lạ lùng, khi con cầu nguyện
cùng Thiên Chúa, nói cách khác khi con nói với Người, con không thấy điều gì.
Nhưng khi con ngồi thinh lặng, yên tĩnh mặt đối mặt với Người, con cảm thấy
được bao trùm trong sự hiện diện của Người".
Sau cùng, cầu nguyện không phải để
nhiều lời nhưng hướng đến sự hiệp thông với Thiên Chúa. Cầu nguyện là một sự
yên nghỉ trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Đây là vấn đề giữ tĩnh lặng trong
sự hiện diện của Người hơn là việc đọc kinh.
15. Martha và Maria.
Có một bà bếp của cha sở nọ, mỗi lần
nghe đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, đều than phiền:
- Phải rồi, nếu không có Martha, thì ai
sẽ lau nhà, sẽ nấu ăn, sẽ rửa chén.
Cũng vậy, nếu tôi chỉ ngồi suy nghĩ và
bàn luận về những sự cao siêu trên trời, thì chắc chắn chẳng có ai làm những
công việc tầm thường ấy. Ngay trong lúc này, hẳn nhiều người trong chúng ta
cũng tự hỏi:
- Làm thế nào để dung hòa giữa thái độ
của Martha và thái độ của Maria, hầu nhờ đó mà áp dụng vào cuộc sống cụ thể của
mỗi người chúng ta.
Thực tế cho hay cuộc sống của chúng ta
thì rất bận rộn, chúng ta không có thời giờ để ngồi dưới chân Chúa. Chúng ta
muốn cầu nguyện nhiều hơn, chúng ta muốn tham dự thánh lễ thường xuyên hơn,
chúng ta muốn đọc và suy gẫm lời Chúa lâu giờ hơn, nhưng kẹt một nỗi chúng ta
lại không có thời giờ.
Quả thật, Chúa Giêsu muốn chúng ta vừa
là Martha lại vừa là Maria. Ngài không nói rằng: Khi làm việc như Martha, chứ
không thể cầu nguyện như Maria, hay trái lại, khi cầu nguyện như Maria, chúng
ta không thể làm việc như Martha. Hai thái độ trên liên hệ mật thiết và bổ túc
lẫn cho nhau: Chúng ta vừa phải là Martha vừa phải là Maria. Vậy thì chúng ta
thực hiện lý tưởng ấy như thế nào?
Tôi xin thưa: Chúng ta hãy khởi đầu một
ngày mới bằng cách dâng lên Chúa lời nguyện vắn tắt sau đây:
- Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa trọn
ngày hôm nay.
Còn nếu như có đủ thời giờ, chúng ta
hãy cầu nguyện:
- Lạy Chúa, con xin dâng lên Chúa mọi
tư tưởng, mọi lời nói và mọi việc làm, để tôn vinh danh Chúa, hợp cùng cuộc khổ
nạn của Đức Kitô, Đấng cứu chuộc chúng con.
Đồng thời, thỉnh thoảng trong ngày,
chúng ta hãy lặp lại lời kinh trên, nhờ đó thánh hóa những công việc tầm thường
của chúng ta, biến những công việc tầm thường ấy trở thành một lời kinh liên
tục, hay nói một cách khác biến cuộc đời chúng ta trở thành một thánh lễ nối
dài.
Các vị thánh là những người bận rộn.
Với các ngài, cái búa, cái cưa, cái cày, cái cuốc, cái chổi được coi như là
những chén thánh ở trên bàn thờ. Tại sao lại như thế?
Tôi xin thưa vì những dụng cụ ấy là
những dụng cụ để các ngài làm tôn vinh danh Chúa. Điểm chính yếu trong đời sống
đạo đức đó là tinh thần phục vụ. Phục vụ Chúa trong mọi người, ở mọi nơi và
trong mọi lúc. Thánh lễ chúng ta đang tham dự cũng là một hình ảnh lý tưởng để
chúng ta vừa là Martha lại vừa là Maria. Như Martha chúng ta cùng hát, cùng đọc
và cùng dâng với mọi người. Như Maria chúng ta lắng nghe và suy gẫm lời Chúa,
cũng như kết hiệp tâm tình để cầu nguyện với Chúa.
Khi rước lễ, Chúa Giêsu sẽ là vị khách
quí ngự đến trong tâm hồn chúng ta, như ngày xưa Ngài đã là vị khách quí dưới
mái nhà Bêtania. Xin Ngài hãy giúp chúng ta biết thực hiện tinh thần phục vụ
như Martha và Maria, đó là hãy làm mọi việc dù tầm thường nhỏ bé nhất vì lòng
yêu mến Ngài, nhờ đó những việc nhỏ bé tầm thường này sẽ trở thành những sợi
chỉ vàng, dệt nên tấm vải cuộc đời chúng ta.
16. Những mẫu gương sáng ngời.
(Suy niệm của Lm. Phạm Thanh Liêm)
Ba bài đọc của Chúa Nhật hôm nay cho
thấy những tấm gương sống Lời Chúa trong những hoàn cảnh khác nhau: Abraham,
Maria và Phaolô.
Chọn điều tốt nhất
Đức Giêsu trên đường rao giảng, ghé vào
một gia đình rất quý mến Ngài. Đó là gia đình của Martha, Maria và Lazarô. Cô
Martha lo làm đồ ăn đãi khách. Có lẽ có cả các tông đồ cùng ở với Đức Giêsu, vì
thế Martha một mình làm bếp cho mười sáu người ăn. Với gia đình này, Đức Giêsu
và các tông đồ là những vị khách quý, nên có thể đây là bữa tiệc. Biết bao việc
phải làm, thế mà Maria vẫn ngồi bên chân Đức Giêsu và nghe Ngài giảng dạy. Chắc
Martha đã ra hiệu hoặc nói với Maria giúp mình, nhưng Maria vẫn giữ lập trường:
ngồi tiếp chuyện Đức Giêsu, ngồi nghe Ngài giảng dạy. Không thể chịu nổi nữa,
Martha đã xin Đức Giêsu can thiệp: "em con để một mình con với bao nhiêu
việc, xin thầy bảo nó giúp con một tay".
Theo nhiều người, Martha hoàn toàn có
lý. Cả Maria lẫn Đức Giêsu đều không được tế nhị lắm. Có lẽ Martha không chỉ
trách Maria, mà trách cả Đức Giêsu như thể Đức Giêsu vô tình không để ý đến vất
vả của Martha.
"Martha, chị lo lắng về nhiều
chuyện quá. Chỉ cần một điều thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và không ai cướp
đi được". Trên đời có nhiều điều có thể làm, phải chọn điều nào quan trọng
và cần thiết để làm. Trong trường hợp này, không cần phải làm nhiều món để đãi
Đức Giêsu và các môn đệ của Ngài. Không cần phải vất vả như vậy. Tại sao lại
phải làm nhiều món, và điều đó lại là không quan trọng (đối với Đức Giêsu), để
rồi phải càm ràm oán trách người khác. Maria đã chọn nghe Lời Chúa, và cũng sẵn
sàng chấp nhận bị chị càm ràm, và cả người đời càm ràm chê trách, như thể là
người lười, như thể là người không tế nhị và không biết giúp đỡ chị nữa.
Không có một bản lĩnh và một chọn lựa
dứt khoát, không thể hành xử như Maria được. Trong cuộc sống, tôi đã chọn điều
gì là quan trọng?
Niềm nở ân cần tiếp đón tha nhân
"Đang ngồi hóng mát, nhìn lên
Abraham thấy "ba vị" đang đứng gần. Abraham chạy lại, cúi mình chào
các vị, mời các vị khách rửa chân cho thoải mái trong một môi trường nóng bức,
và dùng bữa". Với Abraham, đây không phải là những người quen thường gặp,
thế nhưng Abraham đã tiếp đón rất ân cần tử tế. Thái độ hiếu khách của Abraham
đã làm tương quan giữa Abraham và khách trở nên rất tốt, đến độ các vị khách đã
"tỏ mình" cho Abraham.
Thái độ hiếu khách của Abraham đặt vấn
đề cho con người ngày nay. Thái độ sống của tôi đối với những người tôi gặp gỡ
như thế nào? Abraham đã đón tiếp tha nhân, và cuộc đón tiếp này đã trở thành
cuộc đón tiếp Thiên Chúa. Đức Giêsu cũng đã đồng hoá mình với những người
nghèo, đến độ ai đón tiếp người nghèo là đón tiếp Chúa, ai cho người nghèo ăn
là cho Chúa ăn, ai đi thăm và giúp đỡ người nghèo là đi thăm và đón tiếp Chúa
(Mt.25, 31tt). Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa.
Rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô
Cả cuộc sống của Phaolô sau khi trở
lại, là rao giảng, phục vụ Tin Mừng. Ngài được gọi để được sai đi rao giảng, và
Ngài đã thực hiện sứ mạng của Ngài trong mọi hoàn cảnh, bất chấp những khó khăn
và nguy hiểm. Ngài rao giảng cả khi ở trong tù, cho cả người Do Thái lẫn người
ngoại, cho người đời bình thường cũng như cho những người có địa vị và thế lực.
Ngài vui ngay cả trong những khổ đau, và Ngài muốn "hoàn tất" những
gì còn thiếu trong thân thể Giáo Hội. Với Phaolô, Ngài "học no học
đói", Ngài làm tất cả để Chúa được tôn vinh hơn.
Với Phaolô, Đức Giêsu là Tin Mừng. Đức
Giêsu là mầu nhiệm được giữ kín từ muôn thuở, nay được mặc khải cho con người.
Đức Giêsu Kitô là tất cả đối với Phaolô, Ngài sẵn sàng bỏ tất cả để được Đức
Giêsu Kitô.
Phaolô trở thành con người tuyệt vời,
nhờ thi hành sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Ước gì mỗi người không mắc cỡ nhưng
can đảm tuyên xưng Đức Giêsu Kitô là Tin Mừng. Chính nhờ Đức Giêsu Kitô mà mỗi
người Kitô hữu trở thành người tuyệt vời.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Bạn có chấp nhận chọn lựa của Maria
không? Tại sao?
2. Theo bạn, hiếu khách có còn giá trị
trong xã hội hiện tại không? Xin cho biết lý do.
3. Có cần phải rao giảng Tin Mừng cho
con người thời đại ngày nay không? Tin vào Tin Mừng giúp gì cho con người ngày
nay?
17. Yêu theo cách của người mình yêu
Trên đường đi Giêrusalem, cách thành
thánh 3 cây số, Chúa Giêsu ghé lại Bêtania, nơi ở của Mácta, Maria và Lagiarô,
một gia đình mà Ngài rất quen thân và vẫn thường lui về nghỉ ngơi trong những
dịp thi hành sứ vụ tại thủ đô. Không có nơi nào tính cách nhân loại mà Luca chủ
trương phác hoạ được diễn tả trọn vẹn hơn ở đây, trong khung cảnh đầm ấm của
gia đình, mà cũng khó gặp được một bức hoạ tâm lý sống động hơn ở đây. Có người
tưởng tượng rằng Mácta là người khô khan nhưng cương nghị và đắc lực, còn Maria
thì đôn hậu, đa cảm và lười. Thật ra cả hai chị em đều có những đức tính đáng
khen. Cả hai đều yêu kính Chúa Giêsu và ước ao làm vui lòng Chúa. Nhưng trong
dịp này vì lòng nhiệt thành phục vụ, Mácta đã làm việc quá nhiều để sửa soạn
một bữa ăn ngon. Còn Maria vì trực giác hơn được điều Chúa muốn nên cứ ngồi
dưới chân Chúa mà nghe lời Nguời dạy. Nàng biết Ngài mong ước được mạc khải
chính mình, muốn ban cho họ những sứ điệp từ trời, không phải vì lợi ích cho
Ngài, mà vì phần rỗi của nhân loại. Bởi vậy, theo nghệ thuật tiếp khách, nàng phải
để ý đến ý muốn của vị khách trước. Trong việc tiếp đãi Thầy, nàng đã làm được
việc lớn hơn chị nàng.
"Mácta tất bật lo việc phục
vụ". Nàng bù đầu với nhiều công việc mình muốn làm. Một kẻ theo Chúa có
thể cố gắng thái quá, đôi khi điều đó bị thúc đẩy do cảm giác tự tôn và kiêu
hãnh. Điều đó đã khiến cho người ta cáu kỉnh như Mácta khi nàng chỉ trích em
mình, làm giảm giá em mình trước mặt vị khách của cả hai, vì câu nàng nói với
Chúa ngụ ý trách cả Chúa nữa: "Em con để con một mình phục vụ mà Thầy
không quan tâm sao?".
Đáp lại Chúa tỏ lòng ưu ái bằng cách
thân mật gọi tên nàng, nhưng trách nhẹ tinh thần của nàng và bày tỏ nguồn gốc
của tinh thần ấy: "Mácta! Mácta! Con băn khoăn lo lắng về nhiều chuyện
quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ
không bị lấy đi". Ý Ngài muốn nói: không cần phải một bữa ăn thịnh soạn,
một vài món cũng đủ rồi, nhưng có một điều cần thiết, điều ấy Maria đã chọn.
Chúng ta thử tìm những bài học nơi đây:
Nó bày tỏ sự va chạm giữa những tính
tình khác biệt
Có người thì tự nhiên hăng hái hoạt
động, lại có người khác ưa trầm tĩnh. Thật khó cho một người năng nổ hiểu một
người chỉ thích ngồi yên để trầm tư mặc tưởng. Ngược lại, người trầm tư mặc
tưởng lại thường khinh dể những người cứ luôn tay luôn chân. Không có vấn đề
phải trái ở đây. Thiên Chúa đã không dựng nên mọi người giống nhau. Thiên Chúa
cần có những người như Maria, nhưng Ngài cũng cần những người như Mácta, và cả
hai người đó đều phục vụ Chúa. Không ai được độc quyền phục vụ Chúa hay chủ
trương rằng chỉ có cách mình phục vụ mới là chính đáng.
Trong một cuộc lễ trọng, trên bàn thờ
chưng đầy hoa nến, một cây nến được cắm giữa chậu hoa, đến cuối lễ, cây nến
cháy hao dần và sức nóng toả ra làm các cánh hoa rũ rượi cụp xuống. Hoa than
thở với nến: Chị và chúng em cùng phụng thờ Chúa, sao chị lại đốt rụi chúng em!
Nhưng ở đây còn có một bài học nữa: Bài
học về một thứ lòng tốt sai lầm
Hãy nghĩ đến chỗ Chúa Giêsu đang đi đến
khi chuyện này xảy ra. Ngài đang trên đường đến Giêrusalem. Toàn thể hồn xác
Chúa đang lâm vào một cuộc chiến đấu nội tâm để làm cho ý muốn của Ngài hiệp
nhất với ý muốn của Chúa Cha. Khi Chúa Giêsu tới gia đình này, đó là một ngày
trọng đại cho họ. Để mừng ngày trọng đại này, Mácta rất muốn thực hiện một điều
tốt nhất mà gia đình có thể thực hiện được. Vì thế nàng chạy ngược chạy xuôi,
nấu nướng, và đó chính là điều Chúa Giêsu không muốn. Ngài chỉ muốn một điều là
được yên tĩnh. Với hình ảnh thập giá ở trước mặt cùng một sự căng thẳng trong
tâm hồn, Ngài đã rẽ bước về Bêtania để tìm một chỗ lặng lẽ nghỉ ngơi, dầu chỉ
được một hai tiếng đồng hồ, để tránh xa đám đông dân chúng quá nôn nao đòi hỏi,
và để có thể chia sẻ tâm tình với bạn thân để lòng vơi đi nỗi căng thẳng. Đó là
điều Maria đã đem đến cho Ngài và đó cũng là điều mà Mácta vì lòng tốt đã làm
hết sức để phá đi. "Chỉ một việc cần" câu ấy có thể có ý "Ta
không muốn một bàn đầy thức ăn, Ta chỉ cần một món thật đơn giản". Maria
hiểu, còn Mácta thì không hiểu được. Đây là một trong những khó khăn của cuộc
đời. Thường thì chúng ta muốn tử tế với mọi người, nhưng tử tế theo cách của
chúng ta. Nếu cách thế của chúng ta không được thừa nhận, chúng ta cảm thấy dễ
phật lòng tưởng rằng người ta không trọng mình.
Nếu chúng ta đang cố gắng ăn ở tốt với
người khác, trước hết chúng ta phải hiểu ý của người mà mình muốn giúp đỡ, rồi
chúng ta phải quên những chương trình của mình và chỉ nghĩ đến điều mà người đó
đang cần.
Trong lịch sử nước Mỹ, trong những ngày
đen tối nhất của cuộc nội chiến Nam Bắc, Lincoln viết thư mời ông bạn cũ ở xứ
Illinois tới Washington để thảo luận vài vấn đề. Ông bạn tới Bạch cung và
Lincoln nói với ông trong mấy tiếng đồng hồ về tờ thông báo ông định công bố để
thủ tiêu chế độ nô lệ. Tổng thống ôn lại tất cả các lý lẽ bênh vực cho các đạo
luật ấy và những lý lẽ phi bác lập trường đối nghịch. Ông lại đọc cả những bức
thư và bài báo viết về vấn đề đó, trong đó nhiều người trách ông chần chừ chưa
phế bỏ chế độ nô lệ, lại có những bài chỉ trích vì ông có ý tiến hành việc ủng
hộ chế độ nô lệ. Sau khi hăng hái nói một hồi lâu. Lincoln bắt tay ông bạn già,
chúc ông ta bình an và tiễn ông ta trở về Illinois, chẳng hỏi ý kiến gì hết.
Lincoln đã nói, đã trút bỏ những suy nghĩ đang đè nặng trong lòng ông, như vậy
đầu óc ông được sáng suốt. Ông bạn già kể lại: "Khi Lincoln nói xong rồi,
ông ấy bình tĩnh hơn". Lincoln chỉ cần một người bạn thân biết nghe ông
nói và hiểu lòng ông để ông trút bầu tâm sự của ông thôi.
Chúa Giêsu yêu thương Mácta và Mácta
cũng yêu mến Chúa, thế nhưng khi Mácta tỏ lòng tốt, thì lại chỉ tốt theo cách
của nàng, điều mà thực sự không tốt với Đấng mà tâm hồn đang khao khát sự yên
tịnh, sự thân mật. Chúa Giêsu yêu Maria vì Maria yêu Chúa, Maria cũng hiểu biết
Chúa nữa.
18. Phúc cho ai sẵn sàng đón nhận Chúa.
(Suy niệm của Jude Siciliano)
Khi viết Tin Mừng, thánh Luca chia cuộc
đời Chúa Giêsu làm 3 giai đoạn:
1. Ở quê hương Nazareth xứ Galilea;
2. Hành trình đi lên Giêrusalem;
3. Ở thành thánh Giêrusalem: chịu
thương khó, bị giết chết và sống lại.
Thánh nhân thâu gom mọi hoạt động của
Chúa vào 3 giai đoạn ấy bất kể nơi chốn và thời gian. Cho nên chúng ta khó xác
định biến cố xảy ra ở đâu, lúc nào? thí dụ chuyện của hai chị em Matta và Maria
hôm nay. Thánh sử ghi chép rất chung chung: "Trong khi Thầy trò đi đường.
Đức Giêsu vào một làng kia..." Thánh Gioan nói rõ: làng Betania (11,1), và
thời gian thì không phải Đức Giêsu đi lên Giêrusalem một lần duy nhất, nhưng
vào nhiều dịp khác nhau. Tuy nhiên cứ theo thánh Luca thì câu chuyện Tin mừng hôm
nay ở vào cuộc hành trình duy nhất này. Phụng vụ cho đọc về cuộc hành trình từ
Chúa nhật 13 mùa thường niên. Một vài biến cố xảy ra lúc thầy trò đang đi
đường. Một vài biến cố chỉ lấy con đường làm nền tảng còn thì xảy ra ở những
nơi khác. Chuyện của hai chị em Matta và Maria không ở trên đường đi mà
"vào một làng kia". Cũng xin lưu ý nhiều tác gỉa không đồng nhất bà
Maria này với Maria-Madalêna hay người đàn bà tội lỗi vô danh xức thuốc thơm
chân Chúa ở nhà ông Simon (7,36). Ba người đàn bà có những tính nết khác nhau,
không lẫn lộn được. Người đàn bà vô danh thánh Luca thuật chuyện ở giai đoạn
thứ nhất. Ngài không lặp lại ở đây nữa (xem Le personnage de Marie-Madeleine
dans L'Evangile, trong La revue Jerusalem tháng 9-10,1930).
Vì câu chuyện quá quen thuộc, chúng ta
không nên vội vàng đi đến kết luận ngay, kẻo làm thiệt hại cho sự thật. Xin
tưởng tượng mình đọc lần thứ nhất và để tâm suy nghĩ xem thánh Luca muốn nói gì
với chúng ta nhân câu chuyện của hai chị em. Thí dụ về cô Matta, chúng ta đừng
vội kết luận cô ta thuộc hạng người hoạt động thái quá, dễ nổi nóng và lo lắng
tiếp đãi khách, cô không còn thời giờ lắng nghe lời Thiên chúa phán dạy. Nếu
chúng ta có thành kiến gán cho cô như vậy, thì thử hỏi nhiều độc giả nghĩ thế
nào khi đọc đoạn Tin mừng này? Bởi vì họ cũng là người cha, người mẹ vất vả
kiếm sống cho con cái trong xã hội xô bồ hôm nay. Họ cũng là những công nhân,
nông dân đầu tắt mặt tối kiếm tiền nuôi gia đình! Liệu có ai trong cuộc sống
văn minh ngày nay được thời giờ nhàn hạ như cô Maria? Liệu chúng ta có kết án
vô lý tầng lớp sản xuất của xã hội? Tầng lớp mọi người đều trân trọng vì lao
động của họ?
Ví dụ một người cha, người mẹ độc thân,
lương lậu thấp, cố gắng rất mực để cho gia đình đủ ăn đủ mặc mà nghe giải thích
bài Tin mừng hôm nay theo não trạng cũ, mà lại không thấy mủi lòng? Liệu họ có
thể lựa chọn ngồi một chỗ thinh lặng chiêm niệm lời Chúa như cô Maria được
không? Cho nên chúng ta không thể loại trừ tầng lớp lao động chân tay khỏi ý
nghĩa của Tin mừng. Chúng ta phải làm thế nào cho cô Matta cũng được tham dự
vào "phần tốt nhất" mà Chúa Giêsu tuyên bố cho những kẻ lắng nghe lời
Chúa! Như vậy thì những phụ nữ lao động tại gia đình hoặc trong các xí nghiệp.
cơ quan mới cảm thấy không thiệt thòi về phần thiêng liêng. Chính họ đã phải hy
sinh nhiều vì chồng con. Lắm người lại còn phải mang gánh nặng góa bụa. Liệu
Matta có phải là một bà góa không nhỉ? Những chỉ số thống kê gần đây cho biết
phụ nữ luôn lãnh lương thấp hơn so với nam giới trong cùng một công việc. Ngoài
ra phụ nữ lại là những nhân viên tình nguyện đông hơn nam giới trong các cơ sở
giáo hội, từ thiện, bác ái, công ích xã hội. Họ ít thời giờ giải trí, vui chơi
hơn đàn ông. Thực tế họ là những phụ nữ "Samaritanô" nhân hậu lắng
nghe và tuân giữ lời Chúa như chị em Maria và Matta. Cho nên chúng ta phải công
bằng với họ trong lý thuyết và thực hành, làm sao cho họ cũng là những kẻ đón
nhận Chúa Giêsu, lắng nghe lời Ngài như bao người khác. Để rồi như dụ ngôn
người "thân cận" chúng ta hiểu được việc phục vụ của các tín hữu hệ
tại nội dung nào?
Một điều cần nói là trong bản dịch khác
của tiếng Anh thì từ "đón nhận" được chuyển ngữ là "tiếp
đãi" Chúa Giêsu. Thoạt kỳ thủy chỉ có Chúa và cô Matta. Maria chưa xuất
hiện. Trong suốt câu chuyện Maria chẳng nói lời nào! Matta theo truyền thống
đông phương đã tiếp đãi kẻ đi đường rất nồng hậu và lịch thiệp. Chúng ta thấy
truyền thống này trong bài đọc 1. Ông Abraham tiếp đãi ba người khách lạ xin
trọ nhà ở Mambrê, gần Hébron. Ông đã giục vợ là Sara làm bánh tiếp đãi các vị,
rồi sai đầy tớ bắt bê béo làm thịt. Sách Sáng thế Ký kể: "Ông Abraham vội
vã vào lều tìm bà Sara mà bảo: Bà mau mau lấy ba thúng tinh bột mà nhồi rồi làm
bánh. Ông chạy lại đàn vật, bắt một con bê non béo tốt, giao cho đầy tớ và anh
này vội vã làm thịt. Ông lầy sữa chua, sữa tươi và thịt bê đã làm mà đãi
khách". Rõ ràng có những vội vã, rộn ràng trong việc tiếp khách của ông
Abraham. Vậy mà ông đâu có bị quở mắng? Ngược lại hai ông bà lại được chúc
phúc: sẽ có con cháu nối dòng. Đó là Isaac (tiếng này có nghĩa là nụ cười vì bà
Sara cười thầm khi nghe khách báo tin). Cô Matta đã theo thói tục lâu đời của
cha ông đãi khách lạ trong nhà mình. Cả hai câu chuyện đều có ý nghĩa chung:
tiếp đón Thiên Chúa đến viếng thăm. Abraham và Sara đã được ơn phúc lớn vì sự
hiếu khách của mình. Chẳng lẽ Matta lại bị quở phạt? Chúng ta phải hiểu câu
chuyện của cô theo hướng khác.
Phụng vụ chọn đọc bài Sáng thế song
song với bài Tin Mừng là có dụng ý. Chúng ta được kêu mời suy nghĩ kỹ hơn về
các sự kiện. Nhờ lòng hiếu khách Abraham và Sara được Thiên Chúa chúc lành với
người con nối dòng. Nhưng dòng dõi đích thực của họ là phần tinh thần. Con cái
họ là những kẻ biết kính sợ và tin cậy Thiên Chúa. Đấng luôn luôn ngự giữa dân
Ngài theo lời hứa. Đấng ký kết với Israel những giao ước vĩnh cửu. Dòng dõi
Abraham và Sara là những kẻ lữ hành trong đức tin trên cuộc đời trần gian. Họ
sẽ "mở lòng ra" đón nhận Thiên Chúa trong cuộc sống mình. Cũng như
Matta và Maria, chúng ta là hậu duệ của hai ông bà, chúng ta cũng phải mở trí,
mở lòng đón nhận lời Chúa, đón nhận "khách lạ" vào cuộc sống mình.
Những khách lạ đó không hẳn là người đồng vai đồng vế, những môn đăng hộ đối về
kinh tế, chính trị, học thức với mình. Nhưng có thể là thấp kém, cũng có thể là
hơn. Hội thánh xưa nay vẫn vừa chiêm niệm vừa hoạt động, hai khả năng không
loại trừ nhau. Đúng hơn hoạt động và chiêm niệm bổ túc cho nhau. Hoạt động để
chiêm niệm và chiêm niệm để hoạt động. Không nghiêng hẳn về bên nào. "Cầu
nguyện và hoạt động" như thánh Bênedictô dạy. Tuần này qua tuần khác,
chúng ta lắng nghe Tin mừng thánh Luca. Giống như Maria ngồi bên chân Chúa và
nghe lời Ngài, để học biết phải "đón tiếp" Chúa vào cuộc sống mình ra
sao! Tuần vừa qua chúng ta nghe dạy mình phải là "thân cận" của những
kẻ đang cần được giúp đỡ. Tuần này câu chuyện của Maria lắng nghe lời Chúa. Như
vậy chúng ta học biết phải thi thố lòng hiếu khách và tử tế cho những ai có nhu
cầu. Chẳng phải vô tình mà sử gia Luca đặt câu chuyện hôm nay ngay sau chuyện
người Samaria nhân hậu. Thánh nhân có ngầm ý gởi cho độc giả một thông điệp. Mọi
người phải thưa gởi Chúa Giêsu như thầy thông luật: "Con phải làm gì để
được sự sống đời đời làm gia nghiệp" và câu chuyện của hai chị em Matta và
Maria trả lời: "Hãy đón tiếp Chúa Giêsu vào cuộc sống và lắng nghe lời
Người dạy bảo về yêu thương đồng loại, những kẻ thân cận của mình" và con
đường dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu sẽ rõ ràng cho mỗi linh hồn.
Chúa Giêsu hỏi ngược nhà luật sĩ:
"trong luật đã viết gì?" Ông ta trả lời: "Ngươi phải yêu mến Đức
Chúa, Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn
ngươi và yêu mến ngươi thân cận như chính mình". Câu này có hai phần: phần
thứ nhất: yêu mến Chúa, phần thứ hai: thương người thân cận. Dụ ngôn người
Samaria nhân hậu trả lời cho phần thứ hai. Tin mừng hôm nay trả lời phần thứ
nhất: Lắng nghe lời Chúa tức yêu mến Ngài. Đứng riêng lẻ một mình không nội
dung nào đầy đủ cả. Trong dụ ngôn tuần trước người Samaria trông thấy và giúp
đỡ kẻ bị nạn. Cô Maria hôm nay đón nghe lời Chúa. Cả hai gộp lại mới cho chúng
ý nghĩa trọn vẹn lời giảng của Chúa Giêsu. Xin nhớ nữ giới thời Ngài thường bị
hạ thấp giá trị, tương tự như trong xã hội chúng ta ngày nay. Cho nên, cả người
Samaria, cả cô Maria là những mẫu người được Chúa Giêsu đề cao: "Mẹ và anh
em Thầy là những ai nghe lời Thiên Chúa và đem ra thực hành"(8,21). Thánh
Phaolô trong bài đọc thứ 2 là gương mẫu người thực thi ý Chúa và thương yêu
đồng loại. Ông viết: "Tôi đã trở nên người phục vụ Hội thánh, theo kế
hoạch Thiên chúa đã ủy thác cho tôi, liên quan đến anh em! Đó là tôi phải rao
giảng lời Người cho trọn vẹn, rao giảng mầu nhiệm đã được giữ kín từ bao thời
đại". Chữ "mầu nhiệm" thánh nhân dùng gồm tóm mọi chương trình
của Thiên Chúa, dự định cho nhân loại. Nhưng nay đã được tỏ bày qua con người
và sứ vụ của Chúa Giêsu.
Một từ giúp hiểu rõ bối cảnh của tin
mừng hôm nay là danh xưng "Lạy Chúa" (tiếng Latinh: Dominus, tiếng
Anh: Lord). Từ này chỉ được Tin Mừng dùng sau khi Chúa đã sống lại. Thí dụ ông
Tôma thưa: "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con (you are my Lord and my
God)". Thánh Luca đã có dụng ý biểu lộ phản ánh sinh hoạt của Giáo Hội
tiên khởi nơi ông trụ trì. Họ đón nhận và lắng nghe Chúa sống lại trong cộng
đoàn của mình. Hơn nữa Tin Mừng còn 2 lần nhắc lại từ "phục
vụ"(diakonia) chỉ rõ thói quen hành xử của các viên chức hội thánh lúc bấy
giờ. Người ta đã tranh luận nhiều về vai trò nữ giới trong các Hội thánh tiên
khởi. Liệu họ có được phép "phục vụ" trong Giáo hội không? Nếu được
thì phần việc của họ là gì? Tương tự như chúng ta ngày nay tranh cãi về các vấn
đề nữ giới làm linh mục. Thực tế, thời thánh Luca nữ giới giữ nhiều chức vụ
trong cộng đoàn: mục vụ, công việc tông đồ, lãnh đạo, rao giảng Tin mừng như
trong các thơ của thánh Phaolô (Rm 16,1-5; 16,6-12; 1Cr 16,19; Phil 4,3...).
Nhưng trong các thư cũng như bài đọc Tin Mừng hôm nay có sự chia rẽ. Một số
thẩm quyền muốn nữ giới giữ vai trò lệ thuộc như cô Maria ngồi dưới chân Chúa
Giêsu. Và như thế người phụ nữ im lặng là "phần tốt hơn". Đó cũng là
một lối giải thích cho câu chuyện của Luca! Liệu ông có dụng ý thực sự như vậy
không? Ông muốn vai trò của phụ nữ là im lặng và thụ động? Nếu đúng, thì tại
sao trong công vụ ông nhắc nhiều đến phụ nữ làm việc tông đồ, lãnh đạo giáo
đoàn? Hơn nữa, theo thói tục Do thái người ngồi dưới chân "tôn sư" là
chỗ của các sinh viên nam giới? Hoặc bởi vì Chúa Giêsu là người phóng khoáng,
ít khi lệ thuộc vào thói quen và tập tục, cho nên không để cho những nề nếp
trói buộc mình. Bất cứ ai lắng nghe lời Ngài đều được ngồi dưới chân và trở nên
môn đệ của Ngài. Vấn đề thật nhiêu khê. Dầu sao,vai trò của Matta đón tiếp và
phục vụ là công việc quan trọng trong Hội thánh. Ngày nay chúng ta luôn phải
thực hành, để những người cô thân cô thế không bị bỏ rơi. Có biết bao nhiêu
khách lạ, đói khát, rét mướt, trần truồng trong xã hội. Không người chăm lo cho
họ thì Hội thánh liệu có làm tròn sứ vụ của mình? May thay, trong công việc
này, nữ giới chiếm phần đa số. Tương tự như trong các giáo hội tiên khởi có rất
nhiều phụ nữ tài năng. Kẻ thì ngồi im lặng lắng nghe lời Chúa như cô Maria, kẻ
khác hoạt động cứu giúp những nạn nhân thiên tai, dịch họa, bần cùng, đói khát
như cô Matta. Bằng đường lối riêng của mình cả hai loại người cùng đón tiếp
Chúa Giêsu, cùng phục vụ Ngài. Rõ ràng cả hai đều được Ngài dạy dỗ, bày tỏ lòng
yêu mến Thiên Chúa và giúp đỡ tha nhân. Chúng ta nên cân bằng những hoạt động
của họ, không bên khinh bên trọng. Mọi tín hữu đều được mời gọi lắng nghe lời
Thiên Chúa. Mọi tín hữu có bổn phận đem Lời Chúa ra thực hành. Loại trừ mọi khả
năng ưu tuyển, nhận cho mình những phần hơn, phần tốt. Bởi lẽ khi hoàn thành
công tác, mọi người đều được Thiên chúa thâu nhận vào nước trời, an hưởng cuộc
sống đời đời. Đó là phần tốt nhất và không bị lấy đi. Trong thánh lễ hôm nay,
xin Thiên chúa cho mọi linh hồn thấm nhuần được tinh thần đó. Amen.
19. Một sự cần thiết
Nhìn vào cuộc sống, chúng ta phân biệt
hai loại cần thiết, đó là cần thiết tương đối và cần thiết tuyệt đối. Vậy thế
nào là cần thiết tương đối và thế nào là cần thiết tuyệt đối?
Cứ chung mà nói, ai trong chúng ta cũng
cần đến tiền bạc cũng như cơm ăn áo mặc. Vì thiếu nó, chúng ta không thể sống
và nếu có sống, thì cũng sống trong cảnh cùng cực túng thiếu, sống không ra
người. Bời đó, ai cũng chịu khó bươm chải, chạy ngược chạy xuôi, làm lụng vất
vả, đổ mồ hôi xôi nước mắt để tìm tiền kiếm bạc. Cơm áo gạo tiền là nỗi lo lắng
số một của chúng ta. Và trong bất kỳ phạm vi nào, thì vấn đề đầu tiên bao giờ
cũng phải là vấn đề tiền đâu.
Một khi tiền bạc đã rủng rỉnh, người ta
lại mơ ước đến quyền hành và thế lực, nhờ đó mà lên mặt với đời và để lại trong
thời gian một chút danh giá, một chút tiếng tăm.
Đô đốc Byrd là một nhà thám hiểm Nam
cực, vì không có đủ tiền, ông đã cho đăng báo và hứa rằng nếu ai giúp đỡ ông về
phương diện tiền bạc, thì khi tìm thấy sông hoặc núi, ông sẽ lấy tên người ấy
mà đặt cho. Tức thì nhiều người giàu có đã mang tiền đến giúp vì họ muốn cho
tên tuổi của mình được tồn tại mãi với thời gian.
Một trường hợp khác, đó là Carnégie,
ông vua thép ở Mỹ. Trong việc làm ăn, đã xảy ra một sự cạnh tranh giữa ông và
Pullman, nhiều lúc đã đi tới chỗ va chạm và xích mích, thiệt hại cho cả đôi
bên. Ngày kia, Carnégie đến giặp Pullman và nói:
- Tôi nghĩ cả hai chúng ta đều điên
khùng. Vậy tôi xin đề nghị với ông, thay vì cạnh tranh, chúng ta hãy hợp tác
với nhau.
Nói rồi, Carnégie kể ra những lợi ích
to lớn do sự hợp tác đem lại. Cuối cùng Pullman chỉ hỏi một câu:
- Vậy ông tính đặt tên cho công ty là
gì?
- Công ty Pullman chứ sao nữa.
Nghe vậy, Pullman đã mỉm cười, bắt tay
và mời Carnégie ở lại dùng cơm tối.
Xem đó, chúng ta thấy đô đốc Byrd và
Carnégie đã đánh trúng vào yếu điểm của nhiều người, đó là lòng ham mê danh
vọng.
Thế nhưng, tiền bạc và danh vọng có
thực sự là điều cần thiết tuyệt đối hay không? Chắc chắn là không. Vì khi phải
đối đầu với cái chết, chúng ta sẽ chẳng mang theo được một chút gì sang thế giới
bên kia:
- Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng,
Chết xuống âm phủ, chẳng mang được gì.
Với chúng ta thì khác, sự cần thiết
tuyệt đối chính là phần rỗi linh hồn như lời Chúa đã phán:
- Được lời lãi cả thế gian mà mất linh
hồn thì nào có ích lợi chi.
Tự đời đời, Chúa chẳng cần đến chúng
ta. Nếu không có vũ trụ và loài người, thì Chúa vẫn là Chúa. Ngài hoàn toàn đầy
đủ và hạnh phúc. Sở dĩ Chúa dựng nên chúng ta là để chúng ta được chia sẻ phần
hạnh phúc với Ngài.
Bởi vậy, nhiệm vụ của chúng ta là phải
nhận biết và thờ phượng Ngài, hầu nhờ đó đạt được phần rỗi cho linh hồn.
Đúng thế, chúng ta được sinh ra bên
ngoài là nhờ cha mẹ. Nhưng không cha mẹ nào dám xác quyết rằng tất cả đều do
mình trao ban. Những sự vật rất tầm thường như khí trời, cơm gạo, rau cỏ để cho
chúng ta được sống là do ai, nếu không phải là do bởi chính Thiên Chúa.
Vì thế, sự cần thiết tuyệt đối đó là
nhận biết và thờ phượng Thiên Chúa. Nếu thiếu sót trong phạm vi này, chúng ta
đã thiếu sót một chuyện rất quan trọng. Vì chỉ có vấn đề này mới thực sự là cần
thiết.
Cavalière là một nữ tài tử nổi tiếng và
gặp nhiều may mắn. Thế nhưng, theo lời cô, giữa những lời khen tặng cô vẫn cảm
thấy trống vắng, khiến cho nhiều lần cô muốn đi tìm cái chết. Tự đáy lòng, cô
luôn nghe như có tiếng nói:
-Hỡi Cavalière, có phải mi được sinh ra
là để bám lấy những cái phù du giả tạo đó hay sao?
Một hôm, người ta không thấy bóng dáng
cô ở Paris, kinh thành ánh sáng nữa. Cô đi tới một miền núi, sống âm thầm và
cầu nguyện trong một nhà dòng. Hai năm trước khi qua đời, Robert de Pierre, một
nhà báo, tìm đến nơi cô đang ở. Thấy cuộc sống quá lặng lẽ và quạnh hưu, nên đã
nói:
- Sống như thế này thì có chi là sung
sướng.
Nhưng cô đã trả lời:
- Sung sướng lắm chứ. Sung sướng gấp
ngàn lần ở Paris. Vì nhờ đó, tôi được sống gần Chúa, được sống trong Chúa và
được sống với Chúa. Đó chính là niềm hạnh phúc tuyệt vời của tôi.
Hãy nhận biết và thờ phượng Chúa, nhờ
đó đạt tới cuộc sống vĩnh cửu, đó là sự cần thiết tuyệt đối mà mỗi người chúng
ta phải chọn lựa, phải thực hiện giữa cuộc đời đầy huyên náo và bon chen.
20. Điểm dừng
Khi nói đến điểm dừng, tức là có chuyển
động. Bởi nếu không bao giờ chuyển động thì đó không phải là điểm dừng, mà là
điểm cố định, một điểm chết. Điểm dừng thì trước khi dừng đã chuyển động, và
dừng để rồi sẽ chuyển động. Bởi lẽ, dừng mà không bao giờ chuyển động nữa thì
cũng là điểm dừng chết.
Từ những điểm dừng trong đời.
Quan sát cuộc sống quanh ta, chúng ta
sẽ bắt gặp được những điểm dừng. Có những điểm dừng chết chóc, nhưng cũng có
những điểm dừng sống động. Có những điểm dừng mang đến tai họa, nhưng cũng có
những điểm dừng mang lại niềm vui, một sự đổi mới, một sự cứu rỗi: đồng hồ đang
chạy, ngưng đồng hồ chết; hạt giống gieo xuống đất rất cần để yên một thời gian
nó mới nẩy mầm. Một người đang đi trong một cánh rừng, anh dừng lại quan sát
xung quanh, sau đó quyết định đổi hướng đi vì biết mình đã lạc đường một điểm
dừng cho sự đổi mới, một cái dừng giải thoát.
Trở lại bức tranh Tin Mừng hôm nay mà
Luca phác họa cho chúng ta. Chúng ta cũng gặp được những điểm dừng: Chúa Giêsu
và các môn đệ dừng chân ở nhà Mácta và Maria; Maria dừng chân dưới chân Chúa
Giêsu; Mácta dừng chân bên chân Chúa Giêsu. Tất cả những điểm dừng đều có mục
đích: Chúa Giêsu và các môn đệ nghỉ chân để tiếp tục hành trình lên Giêrusalem;
Maria dừng bên chân Chúa để nghe Lời Chúa; Mácta dừng lại để cầu cứu Chúa,
dường như muốn làm nũng, dường như muốn trách Chúa.
Qua điểm dừng của Mácta trong Phúc âm:
Cô Mácta bận rộn, rất bận rộn với công
việc phục vụ bề bộn. Lòng mến Chúa, lòng hiếu khách của cô được thể hiện qua
công việc, cô muốn làm những thức ăn ngon nhất, phục vụ chỗ nghỉ tốt nhất mà cô
có thể dành cho Chúa và môn đệ của Ngài. Cô thật tốt bụng. Cô là chị lớn nên
nặng trách nhiệm, cô đảm đang tháo vát và nhiều sáng kiến. Sáng kiến nhiều nên
nhiều việc, và cuối cùng làm chẳng kham đành xin Chúa can thiệp.
Mácta phục vụ Chúa, điều đó thật tốt.
Thế nhưng điều tốt xem ra bình thường đó lại có vấn đề. Vấn đề ở chỗ nào? Ở chỗ
là cô không toàn tâm toàn ý phục vụ Chúa, vì cô còn bận tâm để ý đến người em,
mà người em này hiện ra trong mắt cô với hình ảnh không mấy tốt đẹp đó là người
trốn việc, biếng nhác, và do đó công việc của cô đã bề bộn lại càng bề bộn hơn,
đã rối trí lại càng rối trí hơn, nhưng rất may cho cô là giữa lúc bế tắc đó cô
còn biết dừng lại bên Chúa. Cái dừng lại đó cần thiết cho cô, ích lợi cho cô
lắm, vì cô sẽ có người tiếp tay công việc, vừa khép sự chú ý của Chúa và mọi
người về phía mình mà trước đó dường như không ai để ý tới, vừa giải tỏa được
nỗi ấm ức trong lòng đối với cô em Maria. Mácta dừng lại để người khác khen
mình, để tự khen mình, khen mình cũng là hạ giá người khác: "Em con để
mình con phục vụ". Phải chăng ý cô là: Con quá giỏi, còn em con nó vụng về
chẳng biết làm gì, lại vô tâm quá. Một cái dừng để trách móc người khác, và
cũng để trách Chúa: "Mà Thầy không để ý tới sao". Cô trách khéo: sao
con?. Một cái dừng để bắt người khác làm theo ý mình, làm như mình và cũng để
lôi kéo Chúa về phe mình: "Xin Thầy bảo nó giúp con một tay". Lấy uy
của Chúa, dùng quyền của Chúa để bắt người khác phục vụ ý mình, làm như mình
muốn.
Nhưng Chúa Giêsu tận dụng giây phút
dừng lại ấy của Mácta để thức tỉnh cô. Sự thực thì Chúa có vô tâm với cô không?
Thưa không, Chúa không vô tâm nhưng để ý tới cô, để ý nhiều nữa kìa, không
những biết việc cô làm nhưng Chúa còn biết lòng dạ, suy nghĩ của cô: Mácta!
Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng nhiều chuyện quá!" vì băn khoăn lo lắng
nhiều chuyện đến nỗi dường như không còn biết điều gì khác nữa, cô đang ngủ mê
trong công việc của mình nên Chúa phải thức tỉnh cô. Thức tỉnh trong yêu
thương, Chúa gọi cô Kitô hữu phải một mà đến hai lần, như đánh thức người mê
ngủ: "Mácta! Mácta ơi!..." thật êm ái và yêu thương. Sao mà cô không
tỉnh thức được. "Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã chọn phần
tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất". Một điểm dừng làm thay đổi nhận thức,
làm đảo lộn những giá trị mà Mácta đã xây dựng trước đó, nó mang đến một sự đổi
mới theo chiều kích thiêng liêng cần thiết cho sự cứu rỗi.
Câu trả lời của Chúa chắc chắn làm
Mácta ngạc nhiên, giật mình vì ngoài sự phán đóan và tỉnh ngộ, có một cái nhìn
mới, đón nhận những giá trị mới. Từ nay cô không phải lo lắng bởi lương thực
vật chất, nhưng phải lo lắng cho lương thực thiêng liêng. Từ của ăn trần thế
mau hư nát, Chúa hướng cô đến lương thực Nước Trời trường tồn. Từ lương thực
nuôi sống thân xác phàm tục Chúa hướng cô đến lương thực linh hồn thiêng liêng
Lương thực Nước Trời thì tốt nhất và sẽ không bị ai lấy mất đó chính là Lời
Chúa, đó là ơn Chúa.
Đến điểm dừng của Kitô hữu trong cuộc sống;
Cuộc sống con người ngày nay hoạt động
nhiều hơn tĩnh lặng, nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển vùn
vụt, con người như bị cuốn hút vào vòng quay của nó đến nỗi dường như không có
thời gian để thở, để thư giãn, để nghĩ ngơi...Người Kitô hữu trong hoạt động
Tông đồ, hoạt động truyền giáo, bác ái từ thiện, dấn thân xã hội...dường như
cũng bị ảnh hưởng của thời đại: Thế giới còn nhiều người chưa nhận biết Chúa,
còn nhiều người nghèo đói, bệnh tật, gặp hoạn nạn, đau khổ...cho nên bổn phận, trách
nhiệm của Giáo hội, của một Kitô hữu còn nặng nề, cần nhiều hoạt động cụ thể và
thiết thực. Nhưng hoạt động Tông đồ, truyền giáo, bác ái của chúng ta có phản
ánh tình yêu Của Thiên Chúa? Có là hoa quả của tình yêu Thiên Chúa? Hay chỉ để
làm tăng uy tín, tăng giá trị, khuếch trương ảnh hưởng của chúng ta, kéo sự chú
ý của người khác về phía mình, yêu cầu Chúa làm theo ý mình?
Chúa có thể mải mê công việc của Chúa
mà không được quên đi chính Chúa. Chúng ta có thể loay hoay với công việc của
cuộc sống, nhưng không được quên đi mục đích của cuộc sống. Cần có những điểm
dừng trong cuộc sống để kín múc nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh cho những hoạt
động của chúng ta. Chiếc ly cần phải đứng yên mới có thể hứng lấy nguồn nước từ
vòi rót xuống. Thiên Chúa không thể đổ vào tâm hồn chúng ta điều gì cả nếu
trước đó đã bị đầy mọi sự rồi. Để phân phát tình yêu Thiên Chúa, ta cần phải có
tình yêu Thiên Chúa tràn đầy nơi mình trước. Hoạt động Tông đồ là mang tình yêu
Chúa đến với anh em. Thế giới không thích thú gì khi gặp gỡ ta, những thế giới
đang khao khát tình yêu Thiên Chúa, đang khao khát những gì Thiên Chúa muốn
trao ban cho họ qua trung gian chúng ta.
Khi bị quay cuồng trong cuộc sống, nếu
chúng ta biết dừng lại như Mácta và cầu cứu Chúa: "Chúa ơi! Con mệt
quá", lúc đó chúng ta sẽ được Chúa tiếp sức bằng Lời của Chúa, sẽ được
Chúa chỉ cho chúng ta điều nào là quan trọng nhất, điều nào là phụ thuộc và qua
đó ơn Chúa, tình yêu Chúa sẽ nuôi dưỡng và tiếp sức cho chúng ta. Chúng ta đừng
quên chọn Chúa và Lời Chúa là phần tốt nhất cho đời mình. Hoạt động của chúng
ta phải là hoa trái của tình yêu của Thiên Chúa. Cành sinh hoa kết quả không
phải vì cành, nhưng vì cành biết kết hợp cùng cây.
Hành trình nào cũng cần có những điểm
dừng, những điểm dừng ấy thật cần thiết để tiếp sức cho hành trình đạt đến
đích. Hành trình về tiếp nhận ân sủng, tăng cường sức khỏe thiêng liêng, bồi bổ
tâm linh cho hành trình đến đích. Gặp gỡ Chúa trong thinh lặng, cầu nguyện là
cần thiết nhất để giao tiếp với Chúa, nghe tiếng Chúa và đón nhận ơn Chúa.
Thế nhưng liệu có thinh lặng cầu nguyện
được trong thế giới ồn ào náo nhiệt, tràn ngập công việc này chăng?
Mẹ Têrêsa Calcuta, một nữ thánh giữa
đời thường, mỗi ngày trước khi bước xuống "địa ngục Calcuta" để chăm
sóc những người cùng khổ, hoặc đi vào "nhà hấp hối" để an ủi các kẻ
liệt lào, các nữ tu của mẹ đã quì trước Thánh Thể một tiếng đồng hồ, để kín múc
nơi Chúa: tình yêu, sức mạnh, lòng can đảm và nhiệt huyết tông đồ.
21. Việc cần
Truyện cổ tích Arập có kể lại câu
chuyện: Một vị hoàng tử được vua cha gởi vào sa mạc để thụ huấn với một vị hiền
triết. Vị hoàng tử này kinh ngạc về thái độ lạ thường của nhà hiền triết, suốt
ngày không thèm nói lời nào với hoàng tử mà chỉ ra dấu cho hoàng tử hãy ngồi im
bên cạnh mình.
Sau một tháng im lặng như vậy, hoàng tử
bực mình hỏi:
- Thưa thầy, cha tôi gởi tôi đến đây để
học cùng thầy, nhưng đã một tháng qua rồi mà tôi chưa học được gì cả?
Nhà hiền triết ôn tồn trả lời:
- Này hoàng tử trẻ tuổi của ta, nếu con
không học quí trọng sự thinh lặng của ta thì con sẽ không thể nào quí trọng
được những lời ta nói. Nếu con không học được bài học sống trong thinh lặng thì
con sẽ không học được gì nữa cả.
Triết gia người Pháp ông Pascal đã nhận
định về thời đại của ông như sau: "Sau khi đã quan sát cuộc sống của những
người đồng thời trong một thời gian lâu, tôi có thể kết luận rằng, một trong
những nguyên nhân quan trọng gây phiền phức xáo trộn cho con người là vì con
người không còn khả năng sống trong thinh lặng nữa".
Ông Pascal đã sống xa chúng ta hơn ba
thế kỷ, ông sống vào thế kỷ XVII bên Pháp. Căn bệnh của những thời đại ông vẫn
còn là căn bệnh của những người hay nhiều người của thời đại hôm nay, đó là căn
bệnh sợ im lặng, sợ sống trong thinh lặng. Nhìn qua những ồn ào, những bạn trẻ
lúc nào cũng phải nghe nhạc, xem truyền hình, lúc nào cũng phải đùa chơi với
bạn bè, chúng ta có thể hiểu được phần nào căn bệnh này còn tồn tại. Nhưng
không phải là sự thinh lặng của cô đơn, của sự trống rỗng không có gì cả. Người
Kitô không bao giờ sống trong thinh lặng cô đơn trống rỗng này, vì có sự hiện
diện của Chúa trong cuộc đời và ngay bên cạnh. Sự thinh lặng của người Kitô là
sự thinh lặng có đầy Chúa, để được đồng hiện diện với Chúa, để được nhìn thấy
Chúa và lắng nghe tiếng nói của Ngài.
Thử hỏi trong một ngày sống chúng ta dành
ra được bao nhiêu giây phút thinh lặng có đầy Chúa này? Bao nhiêu giây phút
chúng ta im lặng đến gặp Chúa trong Bí tích Thánh Thể? Bao nhiêu giây phút
chúng ta im lặng để đọc Kinh Thánh, để lắng nghe Lời Chúa? Đây là điều tốt nhất
mà Maria đã chọn như trong Phúc âm Chúa nhật hôm nay kể lại cho chúng ta.
Sự thinh lặng để lắng nghe Lời Chúa, đó
là sự thinh lặng có đầy Chúa. Không dừng lại ở sự thinh lặng, nhưng luôn đi
trên con đường noi gương sống của Chúa, được hiện diện với Chúa, được đồng hóa
với Ngài, được chia sẻ sứ mạng của Ngài. Đây là điều chúng ta nhận thấy nơi vị
tông đồ Phaolô được nhắc lại nơi bài đọc II. Sống trong sự thinh lặng có đầy
Chúa, thánh tông đồ Phaolô đã định nghĩa cuộc sống của mình như là một cuộc
sống trong Chúa, sống đầy Chúa và sẵn sàng lãnh nhận những gì còn thiếu nơi
cuộc thương khó của Ngài.
Cách nói còn thiếu nơi sự thương khó
của Chúa không có nghĩa là sự thương khó của Chúa còn thiếu điều gì, nhưng muốn
nói là sự thương khó của Chúa cần được chia sẻ, được sống trong cuộc đời của
tông đồ Phaolô. Có sống trong thinh lặng đầy Chúa này chúng ta mới có đủ can
đảm vác thập giá với Chúa, chia sẻ những đau khổ, hy sinh của Chúa trong những
hy sinh đau khổ chúng ta đương đầu hằng ngày.
Tâm thức sống ồn ào là tâm thức của
những kẻ trốn chạy khỏi cuộc sống. Sống trong thinh lặng có đầy Chúa như Maria
ngày xưa và như Mẹ Maria im lặng bên cạnh Chúa cho đến dưới chân thập giá. Đó
là thái độ tốt nhất để sống trọn vẹn cuộc sống đầy gian nan thử thách của chúng
ta trong hoàn cảnh ngày nay.
Xin Chúa ban cho chúng ta được sống
trong thinh lặng đầy Chúa này, thinh lặng để lắng nghe, để có thêm sức mạnh của
Chúa, để giữ vững đức tin, đức cậy và đức mến vào Chúa.
22. Lắng nghe
Đoạn Tin Mừng thánh Luca kể lại câu
chuyện tiếp đón Chúa Giêsu của hai chị em Marta và Maria tại nhà của họ ở làng
Bêtania. Chúng ta thấy tất cả câu chuyện xoay quanh cách thức hai người tiếp
đón Chúa, rồi tột đỉnh và kết thúc câu chuyện là nhận định của Chúa Giêsu về
cách tiếp đón của mỗi người.
Trước hết, chúng ta thấy cả hai người
đều tiếp đón Chúa, nhưng mỗi người một cách, mỗi người một vẻ: Marta thì bận
rộn tíu tít, lo lắng lăng xăng nhiều việc. Còn Maria thì chỉ ngồi bên chân
Chúa, tiếp chuyện Chúa và nghe Chúa giảng dạy. Cách tiếp đón nào làm hài lòng
Chúa hay được Chúa yêu thích hơn? Đó là cách tiếp đón của cô Maria. Chính Chúa
đã nhận định như thế: "Maria đã chọn phần tốt nhất". Còn với cô
Marta, Chúa nói: "Con lo lắng băn khoăn nhiều chuyện quá". Thật ra,
cả hai chị em đều hết lòng tiếp đón Chúa. Nhưng đối với Chúa: "Người ta
sống không bằng cơm bánh mà thôi, nhưng còn bởi lời Thiên Chúa:, nghĩa là người
ta không phải chỉ có sự sống như thực vật, động vật, mà còn phải có lẽ sống.
Đối với chúng ta, lời Chúa cho chúng ta lẽ sống và đường sống. Vậy thì lời Chúa
phải có vị trí ưu tiên, là vì phải nghe lời Chúa chúng ta mới có thể hoàn thành
mọi nhiệm vụ của mình cho trung thực với lẽ sống và đường sống mà Thiên Chúa
cho mình. Cô Maria đã làm đúng như thế. Đây là bài học thứ nhất chúng ta ghi
nhận: Chúa muốn chúng ta, dù bận rộn công việc thế nào cũng phải biết dành thời
giờ để lắng nghe và tìm hiểu lời Chúa.
Thực vậy, ai trong chúng ta cũng có
nhiều việc phải làm. Đừng kể những người lười biếng hay những người chỉ muốn ăn
không ngồi rồi, còn hầu hết chúng ta, nếu sống đúng vai trò và nhiệm vụ của
mình, chúng ta đều thấy việc thì nhiều mà thời gian lại ít. Hai mươi bốn tiếng
mỗi ngày hãy còn quá ngắn. Thời giờ lúc nào cũng chực chắp cánh bay đi, để lại
công việc cứ tiếp nối nhau mãi, hoặc làm mãi mà không hết việc. Sống trong hoàn
cảnh quá nhiều công việc như vậy, thì bài học nghỉ ngơi như cô Maria càng cần
thiết cho chúng ta, chúng ta không thể để cho công việc lôi kéo mà quên mất mục
đích chính của đời mình. Công việc làm ăn tay chân nghề nghiệp chỉ là phương
tiện nuôi sống, là con thuyền đưa chúng ta về trời, chứ nó không thể là mục
đích của đời chúng ta. Có lẽ Chúa chẳng hài lòng gì mà còn đau lòng nữa, khi
thấy chúng ta quá bận rộn vào biết bao công việc, phí phạm bao nhiêu sức lực
của tuổi đời, bao nhiêu thời gian quí giá, để lo cho những công việc không có
giá trị trường cửu, để rồi kết thúc cuộc đời mình trong lo lắng, sợ hãi về số
phận đời sau.
Như vậy, điều chúng ta cần ghi nhớ là
chúng ta phải biết gặp gỡ Chúa trong hoạt động, trong việc làm. Nói cụ thể hơn,
trong một ngày và trong hoạt động, chúng ta phải biết dành ra ít giây phút cho
việc gặp gỡ Chúa. Thí dụ: một lúc im lặng, một khoảnh khắc nâng tâm hồn lên
cao, một ít phút đọc Kinh Thánh, một ít phút để cầu nguyện, để tâm sự với Chúa
và lắng nghe Chúa nói với tâm hồn mình. Nói tóm lại, chúng ta cần tìm ra ý
nghĩa sâu xa những câu nhận định của Chúa Giêsu: "Chỉ có một chuyện cần mà
thôi", "Maria đã chọn phần tốt nhất", nghĩa là cuộc đời của
chúng ta, có nhiều điều phải lo lắng, có nhiều công việc phải làm, nhưng chúng
ta phải biết khẳng định cái gì là ưu tiên, cái gì cần làm, cái gì phải làm
trước. Đó là lắng nghe Lời Chúa, đó là cầu nguyện.
Đàng khác, bài Tin Mừng còn gợi cho
chúng ta suy nghĩ thêm một vấn đề nữa, đó là câu nói của Marta: "Thưa
Thầy, em con để mình con phục vụ mà Thầy không để ý tới sao?". Câu nói của
Marta tỏ lộ phần nào thái độ phân bì ghen tị thường sẵn có trong lòng mọi
người. Chúng ta biết: ghen tị là một trong bảy mối tội đầu, là tội nặng. Kẻ
ghen tị rất tự cao, không muốn ai hơn mình. Mà nếu có ai hơn mình thì tỏ ra khó
chịu, buồn rầu, chán nản, tức tối, oán ghét với những thành công của người
khác... Có người chỉ ghen ghét một người nào đó trong một thời gian thôi. Nhưng
có người ghen ghét suốt đời. Người ta ghen tị về đủ mặt: của cải, tài ba, nhan
sắc, thành công, nhân đức... Thường những người ở trong cùng hoàn cảnh, cùng
môi trường, cùng tình thân mới ghen ghét nhau, như bạn bè, chị em ghen nhau;
nhà giáo, nghệ sĩ, hàng thịt, hàng cá ghen nhau. Rồi người lớn hay ghen tị
nhiều hơn tuổi trẻ, vì tuổi trẻ còn đang ganh đua và có nhiều điểm phải vươn
tới, rồi họ lại dễ bỏ qua, tha thứ. Cho nên, nếu có, thì chỉ là tạm thời. Còn
người lớn ghen tị thường đưa đến oán thù, phá đổ.
Chẳng hạn, vua Saolê, khi thấy Đavid
được dân chúng ca tụng là tài giỏi hơn vua, thì nhà vua ghen tức với Đavid, đến
nỗi từ đó tìm đủ cách để giết Đavid, dù Đavid không có tội gì hết. Saolê ghen
tị thật vô lý. Đavid là một tay tài giỏi, thắng trận trở về, xứng đáng được
toàn dân ca tụng biết ơn. Còn Saolê, lẽ ra phải vui mừng vì Đavid đã đem phần
thắng về cho mình, thì Saolê đã làm ngược lại là ghen tức và cay đắng trả thù.
Đúng như câu nói: "Khi một người thắng trận trở về nhà, dù lòng đang vui
cách mấy đi nữa, khi thấy có người khác hơn mình, thì niềm vui đó sẽ trở thành
buồn bực và đau khổ". Nếu như chúng ta ở trong trường hợp của Saolê, có lẽ
chúng ta cũng ghen tức như Saolê. Chúng ta có thể cười người khác khi thấy họ
ghen tị, và chúng ta cho đó là thái độ trẻ con. Nhưng chính chúng ta cũng nên
phản tỉnh lại xem chúng ta có hơn trẻ con không? Khi thấy người khác đau khổ,
chúng ta dễ chạnh lòng thương, an ủi giúp đỡ họ. Ngược lại, thử hỏi chúng ta có
vui một cách thành thực khi anh em mình được may mắn thành công chăng? Thường
thường chúng ta hay đi chia buồn hơn là chia vui. Chúng ta hãy nhớ: Ghen tị
sinh ra nhiều tai hại: ghen tị thường đi đến chỗ nói hành, nói xấu, vu oan cáo
vạ, bôi nhọ, xét đoán bừa bãi. Ghen tị làm đứt mất tình bác ái và gây nên nhiều
gương mù gương xấu. Vì thế, bằng mọi giá chúng ta phải tốp lại cái thói ghen tị
vô lối của mình.
Bài Tin Mừng cũng như những điều tìm
hiểu trên đây nhắc nhở chúng ta suy nghĩ: Mỗi người chúng ta đã tiếp đón Chúa,
gặp gỡ Chúa, lắng nghe lời Chúa như thế nào trong cuộc sống: theo kiểu của
Marta hay Maria? Chúng ta có biết kết hợp giữa cầu nguyện và hoạt động trong
cuộc sống để đáp ứng những đòi hỏi phát triển con người toàn diện không? Chúng
ta có tự cho mình là đúng, công việc của mình là hay hơn cả, để rồi phủ nhận
hoặc công kích người khác, công việc của người khác không? Trong khi có thể
chính người đó mới đúng và công việc của họ mới đáng kể? Ước mong mỗi người hãy
suy nghĩ và kiểm điểm để đổi mới hoặc bổ túc những gì còn sai lỗi hoặc thiếu
sót trong đời sống đạo của mình.
23. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Thử đặt ngược lại vấn đề: nếu cả
Mácta cũng tiếp chuyện Đức Giêsu mà không có ai lo việc tiếp đãi Ngài, cụ thể
là lo nước nôi tiếp khách và bữa ăn cho Ngài, thì có nên không? Ngài có hài
lòng về cách tiếp đãi đó không?
2. Giữa hai chị em với nhau, thái độ
của mỗi người có chỗ nào hay, chỗ nào dở? Mỗi người phải sửa đổi lại thái độ
của mình thế nào cho hoàn hảo?
3. Bạn nghĩ gì về người năng cầu nguyện
mà không năng hành động, hay năng hành động mà không năng cầu nguyện?
Suy tư gợi ý:
1. Hiếu khách phải là một đặc điểm của
người Kitô hữu
Đức Giêsu đến làng Bê-ta-ni-a, nơi nhà
Mácta và Maria, là những người rất mến mộ Ngài. Đây là một dịp tốt để hai chị
em tỏ lòng yêu thương và quí mến Ngài. Tinh thần hiếu khách như hai chị em này
là một trong những đặc điểm của người Á Đông, mà cũng phải là đặc điểm của mọi
Kitô hữu, vì đó là một khía cạnh quan trọng và cụ thể của tình yêu thương vốn
là nền tảng của Kitô giáo. Trong bài đọc I, A-bra-ham đã tỏ ra thật hiếu khách.
Không ngờ lần này khách đến lại là sứ giả của Thiên Chúa. Nếu bình thường ông
không hiếu khách, thì khi thiên sứ đến bất ngờ dưới dạng người thường, làm sao
ông tỏ ra hiếu khách với các vị ấy được? Điều này giúp chúng ta ý thức lại: mọi
người khách đến với gia đình ta đều là hình ảnh của Thiên Chúa, và phần nào là
hiện thân của chính Đấng mà ta đang tôn thờ và muốn yêu mến hết lòng. Như thế,
quí mến khách cũng là một cách tỏ lòng quí mến Chúa.
2. Cần có sự phân công hợp lý trong gia
đình, trong tập thể
Để tiếp đón Ngài cho phải lẽ và làm hài
lòng Ngài, phải có người tiếp chuyện Ngài, vì nếu để Ngài ngồi không một mình
thì quả là bất lịch sự. Nhưng cũng phải có người lo chuyện nước nôi và những
món ăn tiếp đãi khách chứ! Vì nếu tới bữa ăn mà để cho khách ra về bụng đói,
hoặc cho khách ăn một bữa cơm quá thanh đạm, xoàng xĩnh, thì còn gì là quí mến
khách nữa? Vì thế, hai chị em không ai nói với ai, đã tự phân công: một người
hầu chuyện Ngài, một người lo chuyện phục vụ Ngài, điều ấy thật hợp lý. Nếu cả
hai cùng tiếp chuyện Ngài, thì ai lo nấu ăn? Hay nếu cả hai đều lo nấu ăn, thì
ai tiếp chuyện Ngài?
3. Cần quan tâm đến nhau và tìm cách
làm cho nhau hạnh phúc
Ưu điểm của Mácta là tinh thần năng
động, cô biểu lộ tình yêu và sự quí mến của mình bằng việc phục vụ, quan tâm
tới nhu cầu cụ thể của người khác. Thật là một đức tính tốt! Nhưng điều không
hay nơi Mácta là ganh tị với em: thấy em ngồi nói chuyện với Đức Giêsu, có vẻ
nhàn nhã quá, để mình phải vất vả cực nhọc, thì đâm ra buồn phiền. Cô không thể
dấu trong bụng sự tị nạnh đó, mà phải bộc lộ ra, đến độ có vẻ như trách móc Đức
Giêsu: «Thưa Thầy, em con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin
Thầy bảo nó giúp con một tay!». Có vẻ như cô cảm thấy không được ai chú ý tới,
nhất là không ai biết tới sự khó nhọc của mình. Cái thiếu sót này rất đáng
thông cảm vì tâm lý chung mọi người đều như vậy!
Cái hay của Maria là biểu lộ tình yêu
và lòng quí mến của mình bằng cách chăm chú nghe và ghi nhận, học hỏi những
điều hay từ Đức Giêsu. Điều này sẽ rất ích lợi cho cô, nhất là về mặt tâm linh.
Nhưng cái thiếu sót của Maria là dành độc quyền nói chuyện với khách, mà không
nghĩ gì tới sự khó nhọc vất vả của chị mình để tìm cách chia sẻ công việc với
chị. Chẳng hạn, thỉnh thoảng cô có thể mời chị lên tiếp chuyện với Thầy và làm
bếp thay thế chị một chút. Hai chị em thay phiên nhau, vừa tiếp Thầy, vừa lo
chuyện phục vụ Thầy thì đẹp hơn biết mấy!
Trong cuộc sống chung của gia đình hay
tập thể, nếu chúng ta biết quan tâm đến nhau, đến niềm vui, nỗi khổ, đến những
nhu cầu, lo lắng, bận tâm của nhau, thì cuộc sống chung trở nên hạnh phúc biết
bao! Sự quan tâm ấy thể hiện cụ thể tình yêu thương của ta đối với nhau. Nếu
không có tình yêu thương, nếu ai cũng chỉ nghĩ đến mình, đến niềm vui và nỗi
khổ, nhu cầu và lo lắng của mình, thì cuộc sống chung sẽ trở thành hỏa ngục.
4. Cần ưu tiên cho đời sống tâm linh.
Cách trả lời của Đức Giêsu: «Chị băn
khoăn lo lắng nhiều chuyện quá! Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi. Maria đã
chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi», khiến cho nhiều người nghĩ rằng Đức
Giêsu đã coi việc tiếp chuyện Ngài là quan trọng và đẹp lòng Ngài hơn chuyện lo
chăm sóc bữa ăn cho Ngài. Từ đó họ suy ra rằng việc cầu nguyện thì đáng quí và
làm hài lòng Chúa hơn việc hoạt động. Nhưng ta thử đặt vấn đề: nếu cả hai chị
em đều lo ngồi hầu chuyện Đức Giêsu, mà chẳng ai lo bữa ăn chu đáo cho Ngài,
thì Ngài có hài lòng lắm không?
Là người hướng dẫn tâm linh, Ngài thấy
đời sống tâm linh quan trọng hơn thể chất rất nhiều, nhân đó Ngài muốn, bằng
câu nói trên, cho hai chị em một bài học: cần phải đặt nặng và lo cho đời sống
tâm linh hơn thể chất. Tại sao? Vì người đời thường có khuynh hướng lãng quên
đời sống tâm linh, mà chỉ chú tâm đến đời sống thể chất. Họ dành rất nhiều thì
giờ và năng lực vào chuyện cơm ăn áo mặc, chuyện tiện nghi vật chất, chuyện
quyền lực địa vị, chuyện tranh đua để hơn người khác, tóm lại là những chuyện
liên quan đến đời sống tạm bợ ở trần gian. Đa số ít quan tâm, hoặc ít người
quan tâm đầu tư cho đời sống tâm linh của mình, là điều chẳng những đem lại
hạnh phúc thanh tao ở đời này, mà còn đem lại hạnh phúc lâu dài đời sau.
5. Cần có sự điều hòa và quân bình giữa
tâm linh và thể chất, giữa cầu nguyện và hành động
Trong thực tế, hai khía cạnh của sự
sống – tâm linh và thể chất – liên quan đến nhau, hỗ trợ nhau. Khía cạnh này
tốt đẹp và lành mạnh thì cũng sẽ ảnh hưởng tốt đẹp lên khía cạnh kia. Tuy
nhiên, quá quan tâm đến khía cạnh này thì sẽ bỏ bê đồng thời làm hại cho khía
cạnh kia. Do đó, hai khía cạnh ấy của sự sống cần phải được quan tâm một cách
điều hòa và quân bình: không nên quá quan tâm đến khía cạnh này mà bỏ bê khía
cạnh kia, nhất là đối với giáo dân, là những người sống giữa trần gian.
Cũng tương tự như thế, cần phải có sự
điều hòa và quân bình giữa sự cầu nguyện và hành động. Cầu nguyện nhiều mà
không cảm thấy có sức mạnh nào thúc đẩy mình đi đến hành động thực tế, thì sự
cầu nguyện ấy hẳn nhiên không phải là cầu nguyện đích thực, nghĩa là không thật
sự gặp gỡ Thiên Chúa. Rất nhiều Kitô hữu hiện nay ở trong tình trạng này. Họ
cảm thấy an tâm, tự cho mình là người đạo đức, chỉ vì họ đã dành rất nhiều thì
giờ để cầu nguyện. Nhưng sự cầu nguyện của họ chẳng dẫn họ đến hành động để thể
hiện cụ thể tình yêu thương mà đáng lẽ họ phải đạt được khi cầu nguyện đích
thực. Vì thế, rất nhiều việc đáng lẽ họ nên làm hoặc phải làm, nhưng họ đã
không làm. Và hiện nay cũng có nhiều nhà hướng dẫn tu đức chỉ hoặc quá nhấn
mạnh đến cầu nguyện, mà không quan tâm hoặc không nhắc nhở gì đến bổn phận phải
hành động.
Tuy nhiên, năng hành động mà không năng
cầu nguyện thì ta dễ đi đến chỗ hành động chỉ vì lợi ích riêng của mình, chứ
không phải vì Thiên Chúa hay tha nhân. Hành động như thế xét về mặt tâm linh
thì không mấy giá trị và ít đem lại lợi ích thiêng liêng. Người hành động nhiều
mà không cầu nguyện giống như người hành trình vào một vùng đất lạ, chỉ biết đi
tới mà không biết phải lâu lâu dừng lại xem bản đồ để biết mình đang ở đâu, và
biết phải đi đường nào để tới nơi mình muốn. Vì thế, có rất nhiều khả năng là
họ sẽ lạc đường. Hoặc như người hành trình không biết dừng lại để ăn uống, hay
để đổ xăng, hầu tiếp sức cho chính bản thân hoặc tiếp nhiên liệu cho phương
tiện di chuyển. Họ sẽ không đủ sức và phương tiện để đi hết cuộc hành trình.
Vậy, cầu nguyện và hành động đều rất cần thiết cho đời sống Kitô hữu mà chúng
ta cần phải thực hiện một cách quân bình và điều hòa trong cuộc sống.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, bất kỳ một nhân đức nào trong
đời sống cũng đòi hỏi phải được bổ túc bằng một nhân đức đối nghịch với nó thì
nhân đức ấy mới thật sự là nhân đức. Vì thế, xin hãy cho con ơn khôn ngoan và
khiêm nhượng đi đôi với lòng can đảm, cho con hiền lành mà cương quyết, năng
cầu nguyện nhưng dám hành động, v.v... Tóm lại, cho con vừa biết lắng nghe lời
Chúa như Maria, nhưng cũng vừa biết săn tay lên để làm việc như Mácta. Amen.
24. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
MATTA VÀ MARIA
Trình thuật đưa độc giả vào đề tài tình
yêu Chúa cũng nhắc đến đoạn Chúa Giêsu đi đường và xin chỗ trú ngụ. Bà chủ nhà
và người con gợi nhớ tới, đối với ai biết Tin Mừng thứ tư, hai người chị của
Ladarô ở Bêtania (Ga 11;12,1-8). Nhưng trong trình thuật của Luca còn ghi lại
là những người xa lạ mà theo lôgich1 thì ngược lại là những người kia ở mãi
Giêrusalem. Maria không có gì để đồng hoá được với Maria Magđala cả (8,2;
24,10).
Sự tương phản giữa hai chị em trước hết
là ở việc được trình bày Maria như một đệ tử hoàn hảo, ngồi dưới chân Thầy để
đón nhận giáo huấn Ngài. Ngồi là tư thế cổ điển (x.8,35; Cv 22,3); truyền thống
lại đã chẳng nói: Ước gì nhà con là nhà hội họp cho các hiền nhân, hãy níu lấy
bụi đất ở chân họ và uống lấy lời của họ cho đã khát! (Misnha, Abot 1,4). Có
điều không ổn ở đây nói tới một phụ nữ! Khi một Kinh sư nổi tiếng ở cuối thế kỷ
thứ nhất dám nói: "Dạy cho con gái mình luật thì như dạy nó sống truỵ
lạc" (Misnha, Sota 3,4), thì Chúa Giêsu lại khuyến khích một phụ nữ theo
giáo huấn của mình. Thái độ của cô chủ nhà thì khỏi cần khách sáo: cô tất bật
lo việc phục vụ –điều đó rất phù hợp với vai trò các phụ nữ- môn đệ ở 8,3. Nhất
là cô muốn người em cũng phải phục vụ như cô: cô còn xác tín rằng Chúa không
thể nào không đồng ý với cách thẩm định giá trị của riêng cô (c.40).
Ngoài tiếng gọi "Chúa!" –tước
hiệu "Chúa" ở đây được Luca dùng hai lần. Như lời tuyên tín của cộng
đoàn Kitô hữu đối với Đấng Phục Sinh (x. Cv 2,36), chính Chúa ở đây cần can
thiệp trong Giáo Hội Người, bởi vấn đề được nêu lên luôn luôn có tính cách thời
sự. Ở Cv 6,2-4, ta sẽ gặp được một đối nghịch tương tự giữa phục vụ Lời Chúa và
phục vụ bàn ăn. Ngoài chuyện nêu lên việc phục vụ bàn ăn; vấn đề là nhìn nhận
có một tầm mức quan trọng khác nhau giữa hai việc: Chúa trách cô chủ nhà về sự
băn khoăn lo lắng của cô là điều trái ngược với tâm trạng của người tín hữu
đích thực (12,25-26) và, khi cô cho việc phục vụ bàn ăn là ưu tiên, Ngài bênh
vực cô Maria đã đặt việc nghe lời Ngài lên trước mọi quan tâm khác. Như thế,
làm môn đệ Chúa Giêsu, chính là chọn điều cần duy nhất. Thực ra, đó không phải
chính là yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực... sao? Khi trình bày
câu chuyện như ông đã làm từ câu 25, đó chính là điều mà Luca muốn gợi lên cho
độc giả của mình.
Có cần xác định thêm là một phụ nữ có
thể là môn đệ đúng hệt với danh nghĩa ấy như một nam nhân và không bị giới hạn
vào việc phục vụ bàn ăn chăng? Chắc chắn rồi... Khẳng định theo đó "phần
tốt này sẽ không bị lấy đi" lại không chói tai đối với nhiều Kitô hữu là
những người, như Matta, lấy làm khó chịu khi phải chấp nhận để một người phụ nữ
nghe Lời và phục vụ Lời sao?.
25. Chú giải của Noel Quesson
Trong khi thầy trò đi đường, Đức Giêsu
vào làng kia.
Chúng ta chớ quên đang cùng với Đức
Giêsu trên "con đường" nào.
Vẫn luôn luôn là chính lộ lên
Giêrusalem mà Luca dành nhiều chươg để thuật lại. Không dưới mười chương dài
(Lc 9,51 đến 19,28). Như chúng ta đã thấy trong Chúa nhật thứ mườl ba thường
niên, ngay sau khi Đức Giêsu được thật sự nhận biết là Đấng Mêsia, Người quyết
tâm lên đường đến Giêrusalem (Lc 9,51). Kế đó, trong Chúa nhật thứ mười bốn,
chúng ta chứng kiến sứ vụ của bảy mươi hai môn đệ (Lc 1ọ,l-20). Chúa nhật vừa
qua, chúng ta đã ở trên con đường đến Giêrikhô, cách Giêrusalem ba mươi kilômét
để lắng nghe dụ ngôn người Samari tốt lành (Lc 10,25-37). Hôm nay chúng ta dừng
lại trong một ngôi làng không được nêu tên, nhưng đó là làng Bêtania, cách
trung tâm thủ đô ba kilômét. Dọc đường, Luca cho chúng ta thấy Đức Giêsu nói
chuyện với các bạn hữu của Người rất lâu, có lẽ để chuẩn bị họ vào thời điểm mà
Người sẽ chỉ còn ở với họ không bao lâu nữa. Điều này nói lên sự quan trọng của
các tình huống và lời nói cắm mốc trên con đường lên Giêrusalem đó.
Chúng ta sắp tham dự vào một cảnh thể
hiện lòng, hiếu khách đầy sự dịu dàng.
Chúng ta còn nhớ Người ta không muốn
tiếp đón Người, trong một ngôi làng ở Samari. Hôm nay, Đức Giêsu tìm được một
gia đình hiếu khách. Chúng ta vui mừng vì biết rằng không phải lúc nào Đức
Giêsu cũng bị xua đuổi, không phải lúc nào Người cũng đi lang thang không nới
trú ẩn... và có lúc Người cũng dừng lại ở nhà các bạn hữu Người để nghỉ ngơi,
để ngồi nói chuyện... để sử dụng thời gian... và thời gian của tình bằng hữu
không phải là thời gian đánh mất!
Ở đầu dốc, bên cạnh con đường đầy bụi
có ngôi nhà mà Người quen biết. Bên cạnh cửa sổ có đặt lưới sắt, một cây táo
đầy hoa (bây giờ là mùa xuân và lễ Vượt qua gần đến) tỏa hương thơm ngát. Đức
Giêsu gõ cửa. Cửa mở ra. "Chào! ôi, vui biết mấy, nào mời Thầy vào!"
Có một người phụ nữ tên là Mácta đón
Người vào nhà. Cô có người em gái tên là Maria
Đó là hai chị em. Họ có một em trai là
Ladarô.
Các sách Tin Mừng nói về họ ba lần,
trong những cảnh ở đó tính khí của họ đã được điển hình hóa và giống nhau trong
mỗi câu chuyện. Mácta, một người hoạt động. Maria, một người trầm lặng. Thánh
Gioan trong một câu ngắn ngủi đã kể lại: "Đức Giêsu quý mến cô Mácta, cùng
hai người em là cô Maria và anh Ladarô" (Ga 11,5). Và trong dịp gia đình
họ có đám tang, Gioan- thuật lại cho chúng ta rằng Đức Giêsu đã khóc. Một lần khác,
người ta thấy Mácta đang phục vụ một bữa ăn, còn cô Maria "cứ ngồi bên
chân Chúa" (Ga 12,2-3). Như thế, Đức Giêsu đã có những người bạn gái Tuần
lễ cuối cùng trước khi chết, chiều nào Người cũng trở về nhà họ (Mt 2 1,7
-26,2; Mc 11,11; Ga 11,1-18-12,1; Lc 19,29).
Vậy thì ít nhất đó là một nơi mà Đức
Giêsu có thể đề cao sự dịu dàng của tình bằng hữu.
Trong sách Khải Huyền, Gioan sẽ sử dụng
hình ảnh ấy để nói về đời sống của Người Kitô hữu: "Này đây Ta đứng trước
cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà Người ấy, sẽ dùng bữa
với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta" (Kh 3,20).
Cô này cứ ngồi bên chân Chúa mà nghe
lời Người dạy. Còn cô Mácta thì tất bật lo việc phục vụ.
Ôi! Một bức tranh thánh kỳ diệu! Phải ở
yên thật lâu trong sự im lặng để nhìn ngắm cảnh tượng ấy, hình ảnh ấy. Ví dụ
như, hãy thử tưởng tướng mình có mặt trong phòng tiệc ấy. Hãy thử hình dung lại
các động tác, cử chỉ, âm thanh, mùi vị, màu sắc, những lúc im lặng, những khuôn
mặt và những tấm lòng.
Đức Giêsu nói chuyện với cô Maria ngồi
bên chân Chúa... cô lắng nghe. Hai người cùng nhau nói điều gì? Giọng nói của
Người như thế nào? Người kể lại cho cô dụ ngôn người Samari tốt lành chăng?
Người giải thích lại các mối phúc thật cho cô chăng? Người là Đức Giêsu đã
không mệt mỏi nói với cô Người quan niệm thế nào về các suối nguồn của hạnh
phúc thật? Bản thân tôi, tôi thích nghĩ rằng Đức Giêsu nói nhỏ với Maria những
lời tâm sự về cái chết và sự sống lại của Người.
Người lên Giêrusalem là vì việc đó! Nó
chiếm trọn tâm hồn Người. Đã nhiều lần, Người thử chia sẻ sự lo lắng của Người
với các môn đệ nhưng xem ra họ không hiểu. Với Maria, cô có hiểu không? Về câu
chuyện tâm sự đó, há chẳng có một sự đồng cảm mầu nhiệm và tuyệt vời của tình
bạn cởi mở đó sao." Dẫu sao, nhờ Máccô và Gioan, chúng ta biết rằng người
phụ nữ trực cảm này đã hiểu rõ hơn những người khác mầu nhiệm cái chết, sự mai
táng và sự sống lại của Đức Giêsu. Đức Giêsu sẽ trở lại Bêtania trong nhà cô
những ngày trước lễ Vượt qua, và một cách dịu dàng, Maria sẽ thực hiện trước
một cách ướp xác bằng dầu thơm cho Người.
Các phụ nữ sẽ không thể thực hiện việc
ướp xác ấy khi họ muốn đến ngôi mộ "ngày đầu tiên trong tuần" để làm
việc đó, bởi vì họ sẽ thấy ngôi mộ trống. Nhưng Maria đã làm việc đó rồi, với
sự tinh tế tuyệt diệu của cô! Và Đức Giêsu sẽ hiểu điều đó: "Điều gì làm
được thì cô ấy đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai
táng (Mc 14,8). Cô ấy giữ lại dầu thơm này cho ngày mai táng Thầy; còn Thầy,
anh em không có mãi đâu"(Ga 12,7-8).
Cô tiến lại mà nói: "Thưa Thầy, em
con để mình con phục vụ, mà Thầy không để ý tới sao? Xin Thầy bảo nó giúp con
một tay!"
Sự can thiệp này của Mácta làm nổi bật
sự khác nhau hoàn toàn của hai chị em. Trước khi nghe câu trả lời của Đức
Giêsu, chúng ta phải thán phục Mácta không nên đánh giá thấp cô chị. Ở đây
không có sự đối lập giữa Mácta và Maria. Mácta thì hữu ích. Sự phục vụ của cô
là cần thiết. Đức Giêsu cũng được tôn vinh vì đã đem trọn tình yêu "phục
vụ" những người khác... "Nào những kẻ Cha Ta phúc phúc hãy đến. Vì
xưa Ta đói, các người đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống" (Mt
25,34).
Lạy Chúa, con xin dâng cho Chúa những
công việc nội trợ đa đoan rất khiêm hạ, đầy ắp yêu chuộng của vô số các phụ nữ
trên toàn thế giới, trong mọi nền văn minh.
Chúa đáp
Chúng ta không thể không nhận thấy sự
trang trọng khi Luca dùng danh xưng "Đức Chúa" ba lần. "Đức
Chúa" chỉ Đức Kitô trong vinh quang sau Phục sinh. Điều đó chỉ cho chúng
ta thấy rằng cảnh tượng không chỉ nhằm kể lại một giai thoại lịch sử dù rất thú
vị mà một lần nữa, chúng ta đứng trước một "mạc khải". Đấng sắp nói
chính là Đức Chúa Vinh hiển. Người sắp nói một điều quan trọng và phải được
chúng ta tiếp nhận "trong đức tin". Vả lại, toàn bộ câu chuyện trên
đây rất dung dị, nhưng lại dẫn đến lời tuyên bố sau đây:
Mácta! Mácta ơi! Chị băn khoăn lo lắng
nhiều chuyện quá!
Hẳn người ta có thể mong đợi Đức Giêsu
kêu gọi Maria phải ngoan ngoãn như chị cô. Trong nhiều tình huống. Đức Giêsu đã
yêu cầu chúng ta phải "phục vụ", phải yêu thương. Rõ ràng, câu trả
lời của Người đã được đặt vào một bình diện khác.
Đức Giêsu nhận thấy rằng Mácta lo lắng
và "giao động" quá nhiều. Đây là một đề tài được Người ưa thích.
Người đã nói rằng "những lo lắng về đời sống! có thể bóp nghẹt Lời Chúa đã
được gieo vào lòng người (Lc 8, 14). Người sẽ yêu cầu các tông đồ không nên lo
lắng về của ăn và của mặc (Lc 12,22-26). Người sẽ khuyến cáo các thừa sai chớ
lo lắng phải biện hộ như thế nào khi họ bị kết tội trước các toà án (Lc 12,11).
Người sẽ nói rằng chớ để "lòng mình ra nặng nề vì lo lắng sự đời"
trong lúc chờ đợi Con Người lại đến" (Lc 21,34). Đức Giêsu nói: "Bạn
ơi! Chớ quên điều chủ yếu!"
Đức Giêsu không lên án Mácta vì công
việc của cô cũng như nhiệt tình tiếp đón tích cực... nhưng vì sự căng thẳng, sự
giao động thái quá mà dường như cô đặt vào công việc.. Rõ ràng là một sự bực
bội nào đó làm cho chúng ta co quắp lại với chính mình.
Chúng ta hãy tiếp nhận lời lời gọi của
Chúa cho chúng ta biết phải chậm lại đôi chút. Lúc nào chúng ta cũng chạy, phi
nước đại, cũng bận trăm công nghìn việc. Thời gian nghỉ hè lẽ ra phải trở thành
thời gian để tìm lại sự, quân bình của chúng ta hơn để "sống" thay vì
để chạy! Đức Giêsu nói: Bạn ơi! Ta nói lại với bạn điều này, bạn chớ quên điều
chính yếu.
Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi.
Maria đã chọn phần tốt nhất và sẽ không bị lấy đi
Vậy "chuyện cần thiết duy
nhất" ấy là gì?
Đó là làm điều Maria đã làm "Ngồi
bên chân Chúamà nghe lời Người dạy". Khi khẳng định đó là điều cần thiết
duy nhất của con người. Bằng một phương thế triệt để và mạnh mẽ, Đức Giêsu đã
thực hiện một mạc khải. Vâng, Lời Chúa phải được ưu tiên hơn mọi lo lắng trần
gian khác Đức Giêsu cũng đã đưa ra càng một yêu sách trong những dịp khác.
"Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh" (Lc 4,4). "Lương thực của
Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy" (Ga 4,34) Đức Giêsu nói: Bạn
ơi! Bạn chớ quên điều chính yếu.
Vậy quả thật Đức Giêsu không đánh giá
thấp sự "phục vụ" mà Mácta đem lại khi bận rộn với việc "nội trợ
và bếp núc". Nhưng để "đi theo Đức Giêsu" thì ngay cả những gì
có giá trị nhân bản nhất cũng phải buông bỏ (Lc 5,11-18,22-9,61). Hãy lắng nghe
Lời Chúa! Đó là bổn phận đầu tiên của con người, của Kitô hữu. Đức Giêsu nói đó
là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối, triệt để. Và đây không phải là lần đầu
tiên cũng không phải là lần cuối cùng mà Đức Giêsu khẳng định điều đó. Không
lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên cát (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời
chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc chân thật
và duy nhất của Đức Maria, Mẹ Đức Giêsu không phải vì Mẹ là Mẹ Người, mà vì Mẹ
đã "'lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành" (Lc 1 1,27-28).
Vả lại khác với các Thánh sử khác, rõ
ràng Luca đã đồng hóa lời của Đức Giêsu với "Lời của Thiên Chúa" (Lc
5,1-8-11-21-11,28).
Lòng chúng ta yêu thích lắng nghe Lời
như thế nào? Có phải đó là "phần tốt nhất" hàng ngày của chúng ta?
Chúng ta có những ưu tiên sao? Điều nào là điều chính yếu?
26. Matta và Maria – R. Gutzwiller
Ta chỉ có thể hiểu dễ dàng những lời
Chúa nói với Matta khi đặt chúng vào trong mối tương quan mật thiết với chủ đề
'lên đường'. 'Lên đường' không có nghĩa là dửng dưng với những cái thuộc về vật
chất hay những lo toan trần thế.
Đây không có vấn đề đối nghịch giữa đời
chiêm niệm và đời hoạt động, mà chính là giá trị và sự hài hoà đúng đắn giữa
hai đời sống đó. Chúng ta không nên đắm mình vào chủ nghĩa duy hoạt mà hãy biết
sử dụng những giây phút trầm tư thinh lặng, hoàn toàn kết hợp với Thiên Chúa
-dĩ nhiên là không tìm kiếm, ước ao an nhàn thanh thản nhưng chính là kín múc ở
đó một năng lực mới để phục vụ con người. Vì sống là 'lữ hành' là 'đi' nên con
người phải dành cho đời mình những lúc 'dừng chân đứng lại', 'nghỉ ngơi lại
sức' định lại hướng đi, dò lại bước đường đã qua để có thể vững bước tiếp tục
cuộc hành trình và ra đi phấn khởi hơn.
Hoạt động phải được xen kẽ bằng chiêm
niệm và chiêm niệm phải chứa chan cuộc sống và triển nở trong việc làm. Trong
Tổng yếu giáo lý, Th. Tôma nhấn mạnh rằng việc giảng dạy và soi sáng những
người khác thì quan trọng hơn là chỉ có sự hiểu biết thông suốt nội tâm thôi.
Dĩ nhiên chúng phải bắt nguồn nơi việc
chiêm niệm nhưng thay vì khư khư giữ lấy cho mình, chúng ta phải thông truyền
sự hiểu biết và thông suốt nội tâm ấy cho tha nhân. Chỉ có tác động hợp nhất
với Thiên Chúa và sự hợp nhất với Ngài triển nở ra việc làm, mới cấu thành một
mối toàn vẹn, sự trọn hảo tối cao....
Những lời Chúa nói với Matta, là một
cảnh tỉnh chống lại thứ hoạt động ồn ào, giả tạo, quá khích tức là thứ hoạt
động không hề hay biết đến dành cho những khoảnh khắc để cầu nguyện, hay ít là
những lời nguyện tắt, không để ý gì đến tiếng Chúa mời gọi trong cái thinh lặng
và dần dà để mình bị tha hoá, thác loạn.
Còn việc Chúa khen cô Maria không có
nghĩa là Ngài bảo chúng ta phải chuyên tâm chiêm niệm mà thôi, để thấy rõ điều
này, chúng ta hãy xem gương của Đức Giêsu; Như vậy, việc Ngài khen cô Maria
chẳng qua là Ngài nói đến tinh thần sẵn sàng và tỉnh thức để sống trọn vẹn và
tích cực cho Chúa, vào lúc mà Ngài muốn nói với tâm hồn ta một cách đặc biệt.
Lên đường có nghĩa là đi về với Chúa,
tức là luôn hướng nhìn về Ngài và hằng lắng nghe Lời Ngài. Như thế không phải
là dừng laị và nghỉ ngơi trong việc chiêm niệm, mà chính là để tiếp tục cuộc
hành trình kết hợp với Chúa đích thực. 'Chiêm niệm trong hành động' hiệp nhất
với Thiên Chúa trong công việc, phục vụ con người là dấu đích xác cho thấy việc
phục vụ Thiên Chúa. Việc phục vụ ấy chỉ có thể có đối với những ai biết dành
những khoảnh khắc cầu nguyện đặc biệt, thuộc trọn về Chúa để có thể hiến thân
trọn vẹn phục vụ con người hơn. Đó là thái độ Đức Giêsu đã sống. Theo Chúa Kitô
giả thiết một thái độ tương tự như thế.
27. Người khách muốn gì? – Lm Vũ Phan
Long
"Phần duy nhất cần thiết" của
đời môn đệ Đức Giêsu là: lắng nghe giáo huấn của Người, và là để cho Người tiếp
tục hướng dẫn.
1.- NGỮ CẢNH
Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên
Giêrusalem. Vì có lý để nghĩ rằng hai chị em Mácta và Maria chính là những nhân
vật của Ga 11,1tt, tức ở Bêtania, gần Giêrusalem, chúng ta phải tự hỏi tại sao
tác giả Luca lại đặt truyện này ở đây, vì đến lúc này truyện vẫn gần với Galilê
hơn Giêrusalem. Hơn nữa, ngài lại bỏ tên Bêtania đi, mà chẳng lẽ ngài lại không
biết? Như thế, hẳn ngài có ý gì đó khi đặt truyện này ở đây chứ không phải ở
chỗ khác (chẳng hạn ở ch. 19 hoặc 20). Chúng ta xem truyện này liên hệ với các
bản văn trước thế nào. Maria được mô tả như người "lắng nghe lời" Đức
Giêsu. Đức Giêsu công bố rằng chính việc "lắng nghe lời" này sẽ không
bị lấy mất. Trước đó, Đức Giêsu mới nói đến quan hệ sâu sắc, duy nhất, Người có
với Chúa Cha (10,22). Quan hệ này được nói đến vì nó liên hệ đến các môn đệ Đức
Giêsu: họ được chúc phúc bởi vì họ được Người mạc khải Chúa Cha cho; họ được
nghe và thấy những điều Người biết về Chúa Cha. Như thế, các môn đệ có một đặc
quyền lớn lao là được thấy và nghe những điều mà thậm chí các ngôn sứ và các
vua chúa ước ao hết sức mà không được. Ở đây, tác giả Lc nhắc lại đặc quyền đó.
Ngài mô tả Maria trong tư thế tốt đẹp nhất: lắng nghe lời dạy của Đức Giêsu.
Khi lắng nghe Người, Maria nghe Người mạc khải về Chúa Cha. Chính vì thế, tác giả
đã nhắc lại động từ "lắng nghe" (cc. 24.39) như để nối kết các ý
tưởng của hai đoạn văn.
Sau đó, Lc trình bày cuộc đối thoại về
"điều răn lớn" (10,25-37), với câu kết: "Ông hãy đi, và cũng hãy
làm như vậy" (c. 37). Mục đích của ngài khi bố trí truyện Mácta-Maria ở
đây là để nêu bật tầm quan trọng tối hậu của giáo huấn của Đức Giêsu trong Lc
10,25-37: giáo huấn này là một mạc khải mà "các vua chúa và ngôn sứ"
không được đón nhận.
Truyện Mácta-Maria cũng có thể được đặt
ở đây để điều chỉnh một sự hiểu lầm có thể có đối với dụ ngôn Người Samari nhân
hậu. Ông này đã "chạnh lòng thương" (esplanchnisthê): vậy, hành vi
luân lý của chúng ta rất có thể được hướng dẫn bởi các tình cảm của con người!
Lc muốn sửa lại: chính giáo huấn của Đức Giêsu mới điều hành hành vi luân lý.
2.- BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần:
1) Khung cảnh và các nhân vật
(10,38-40a);
2) Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu
(10,40b-42).
3.- VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- một làng kia (38): Trong TM III, làng
này không có tên (x. 9,56). Cứ theo bản văn, "làng" này còn gần
Galilê hơn là Giêrusalem. Theo Ga 11,1; 12,1-3, ta biết rằng Mácta và Maria,
hai chi của Ladarô, ở tại Bêtania, một làng gần Giêrusalem.
- Maria (39): Cô này cũng được xác định
là em gái của Mácta trong Ga 11,1. Không được đồng hóa cô này với Maria Mácđala
ở 8,2.
- ngồi bên chân Chúa (39): Đây là tư
thế của người môn đệ đang lắng nghe (x. 8,35).
- Chỉ có một chuyện cần thiết mà thôi
(42): dịch sát: "Chỉ cần một điều mà thôi". Lời Đức Giêsu đáp lại yêu
cầu của Mácta dường như lúc đầu nhằm trấn an cô, bằng cách bảo cô rằng cô chỉ
cần dọn một món thôi. Nhưng khi nghe trọn câu nói của Đức Giêsu, ta mới hiểu ra
rằng "một điều" không chỉ là "một món" mà còn có ý nghĩa
khác. "Một điều" đây chính là "phần tốt nhất" (= lắng nghe
lời Chúa). Và Đấng là thành phần của "phần tốt nhất" ấy bảo đảm là
Maria sẽ không bị lấy mất.
4.- Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Khung cảnh và các nhân vật (38-40a)
Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên
Giêrusalem. Đức Giêsu đã dừng lại tại một làng kia (hẳn là Bêtania?), để thăm gia
đình những người bạn thân. Cô chủ Mácta đón Người vào và tất bật phục vụ. Còn
cô em Maria thì cứ bình thản ngồi bên chân Đức Giêsu mà nghe Người giảng dạy.
Theo truyền thống của các kinh sư, chỉ phái nam mới được ban cho những lời
giảng dạy và những huấn thị; các phụ nữ bị loại ra bên ngoài. Nhưng Đức Giêsu
nhìn nhận các phụ nữ có cùng một phẩm giá như phái nam, nên Người ngỏ lời cả
với phụ nữ. Ở đây tác giả đã không ngần ngại mô tả một người nữ như là môn đệ
ngồi bên chân Đức Giêsu. Thái độ của Đức Giêsu khiến chúng ta nhớ đến Cn 31,26.
* Đối thoại giữa Mácta và Đức Giêsu
(40b-42)
Bấy giờ Mácta mới lên tiếng nhận định
về Maria và về bản thân mình. Lời trách của cô có lý, vì hoàn cảnh quá rõ: một
người khách quí vừa đến nhà. Phải làm mọi sự để đón tiếp người ấy cho chu đáo;
thật ra còn cả đoàn môn đệ của Đức Giêsu nữa! Nhà chỉ có hai chị em; thế mà
Maria cứ để cho chị phải xoay sở một mình. Mácta có lý khi yêu cầu em giúp
mình.
Mácta có lý, nếu vấn đề là phải tiếp
đãi người khách cho tươm tất. Nhưng nhận định của Đức Giêsu khiến chúng ta phải
tự hỏi: vấn đề phải chăng là như thế? Người khách phải chăng chỉ muốn được tiếp
đãi ân cần chu đáo? Đối với Người, điều gì quan trọng nhất? Những câu hỏi này,
Mácta không hề đặt ra cho mình. Ngay từ đầu, hầu như là do thói quen, cô tưởng
là mình biết tình thế cần cái gì. Không hề tự hỏi là người khách thật sự muốn
gì, cô áp đặt cho người khách ấy điều cô nghĩ là hợp lý hơn, cần thiết hơn, vào
lúc này. Chắc chắn Mácta có hảo ý. Nhưng cô không mấy quan tâm đến các sở thích
và ý hướng của người khách. Đức Giêsu giúp cô hiểu rằng trước tiên Người không
muốn được đón tiếp, nhưng muốn một điều quan trọng hơn nhiều.
Maria lắng nghe Ngài. Đây là điều duy
nhất cần thiết và là điều luôn luôn đúng: lắng nghe Chúa. Đức Giêsu đến nhà
Mácta và Maria trước hết không phải để được đón tiếp, nhưng là để được lắng
nghe. Với tất cả thiện chí, Mácta đã sao nhãng ý muốn này của Đức Giêsu. Chỉ có
Maria là đã gắn bó với điều Đức Giêsu muốn. Trước hết, Người muốn cống hiến,
chứ không muốn đón nhận. Trước hết, Người không muốn có một sinh hoạt chuyên
chăm cần cù, qua đó người ta chứng tỏ người ta luôn biết điều gì là đúng và
điều gì phải làm; nhưng Người muốn người ta suy nghĩ và ở yên để lắng nghe, suy
tư và để cho Đấng khác nói với mình điều thật sự quan trọng và điều thật sự
mình phải làm.
+ Kết luận
Khi viết 10,38-42, tác giả Lc không hề
muốn phân biệt giữa đời sống tu trì chiêm niệm và đời sống tu trì hoạt động,
cũng không hề coi thường việc phục vụ người khác. Ngài chỉ muốn nhấn mạnh đến
"phần duy nhất cần thiết" là: làm môn đệ Đức Giêsu, là lắng nghe giáo
huấn của Người, để Người tiếp tục hướng dẫn.
Nhìn lại ngữ cảnh rộng, chúng ta có thể
cho rằng Lc đặt bản văn 10,38-42 ở đây nhắm nêu bật giáo huấn của Đức Giêsu ở
10,25-37 (Điều răn lớn) như là đáng để mọi người lưu ý, như là thuộc về
"điều duy nhất cần thiết", và như mạc khải về Chúa Cha, Đấng mà không
ai biết như Đức Giêsu, đồng thời để dạy rằng động lực của mọi hành vi luân lý
Kitô hữu phải tuyệt đối là giáo huấn của Đức Giêsu.
5.- GỢI Ý SUY NIỆM
1. Đối với Mácta, tiếp khách là chuyện
quan trọng nhất. Thường thường chúng ta gặp nguy cơ bị thu hút bởi mối bận tâm
đối với các nhu cầu vật chất, đối với đồ ăn thức uống, chuyện ăn mặc, nhà cửa
trú ngụ, những tiện nghi, và chúng ta dùng hết năng lực và thì giờ cho những
chuyện ấy. Dĩ nhiên, cần phải quan tâm đến những điều ấy. Nhưng cũng phải thấy
rằng chỉ lo chừng ấy chuyện thì chưa đủ. Phải có một bậc thang các giá trị để
đi theo.
2. Các Kitô hữu cần thường xuyên xét
lại hệ thống các xác tín và các thói quen của mình để sẵn sàng điều chỉnh.
Người tín hữu cần được thanh thoát, không bị ràng buộc bởi những thói quen cá
nhân, khuynh hướng hưởng thụ, mức sống. Không phải chỉ đơn giản chấp nhận những
gì môi trường chung quanh coi là thông thường, cần thiết và đúng đắn, là đã đủ.
Người Kitô hữu còn cần phải suy nghĩ về những gì là thật sự cần thiết và đúng
đắn. Đức Giêsu đặt việc lắng nghe lời Người vào chỗ nhất. Như thế, Kitô hữu
chúng ta cần có một thời gian yên tĩnh và suy tư để cầu nguyện. Chúng ta cần
phải thường xuyên lắng nghe Đức Giêsu và để Người chỉ đường. Khi đó, chúng ta
không được tránh né cố gắng và thậm chí đau khổ để có thể tái định hướng và
thay đổi.
3. Trong đời sống chung (cộng đoàn tu
trì, gia đình, giáo xứ...), cần biết thường xuyên đặt câu hỏi: "Những
người khác đang muốn gì? Họ đang cần gì, ngoài những của cải vật chất?".
Khi đó, hẳn là ta sẽ thấy rằng những người ấy đang đặc biệt cần được chúng ta
quan tâm và cần có thì giờ của chúng ta. Các em bé không chỉ cần được ăn cái gì
mà thôi. Các cha mẹ phải có giờ cho chúng, để chơi với chúng, để trả lời những
câu hỏi của chúng, để giúp chúng kể những kinh nghiệm của chúng. Những người
già cũng muốn xin chúng ta có thì giờ cho họ, muốn chúng ta lắng nghe họ, chúng
ta hiệp thông vào các suy tư, các mối bận tâm, và cả những kỷ niệm của họ.
Những người thợ trong một hãng xưởng không chỉ cần một đồng lương hậu hĩ; họ
cũng cần được quan tâm và nhìn nhận, cần một lời khen và một lời nói nhân ái.
Giúp đỡ về vật chất mà thôi thì chưa thỏa mãn được nhu cầu số một là có giờ cho
nhau, lắng nghe nhau trong kiên nhẫn và yêu thương và sống cho nhau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét