THÁNH LỄ NHẬN NHIỆM VỤ MỚI CỦA
LM. ĐAMINH NGUYỄN ĐỨC TRUNG
Theo sự bổ nhiệm và sắp xếp của Đức Giám Mục Phú Cường, cha Đaminh Nguyễn Đức Trung nhận nhiệm vụ mới tại giáo xứ Bến Sắn, giáo hạt Lạc An, giáo phận Phú Cường.
9 giờ 30 ngày 23/7/2013 Đức Cha Giuse Nguyễn Tấn Tước Giám Mục Phú Cường đã đến nhà thờ Thánh Tâm- Giáo Xứ Bến Sắn, ấp Tân Bình, xã Tân Hiệp, Tân Uyên, Bình Dương để chủ sự thánh lễ này. Hiện diện trong thánh lễ hôm nay có Cha Phaolo Nguyễn Văn Khi hạt trưởng hạt Củ Chi, Cha Giuse Đào Nguyên Thống hạt trưởng hạt Lạc An và 15 cha trong hai hạt trên cùng khoảng 500 giáo dân trong và ngoài xứ.
Thánh Tâm Chúa Giêsu là nguồn mạch yêu thương. Vì yêu thương, Ngài hiến than cưu chuộc nhân loại. trướ khi về trời Ngài đã lập Bí tích Thánh Thể và Bí tích Truyền Chức để làm làm cánh tay nối dài của Chúa và đã làm cho muôn dân biết yeu thương nhau. Ngài đã làm được tất cả, tất cả yêu thương đều thuộc về Ngài. Chúng ta được thừa hưởng yêu thương từ Ngài và cùng chia sẻ yêu thương ấy cho nhau. Các linh mục là người hứng lấy nguồn mạch yêu thương, phân chia yêu thương đến cho mọi người.
Lễ Thánh Tâm Chúa được phụng vụ gọi là ngày cầu xin ơn thánh hóa các linh mục. Hội thánh Việt Nam vẫn nhiệt tình với lời nhắc nhở thân thương ấy và đã coi Thánh Tâm là nguồn thánh hóa linh mục. Món quà duy nhất Chúa ban cho một cộng đoàn là có được linh mục đạo đức thánh thiện.
Giáo xứ Bến Sắn được hình thành khoàng năm 1854, nhà thờ đầu tiên nay vẫn còn dấu tích. Năm 1989 nhà thờ được xây theo kiểu hiện đại, hoàn thành năm 1991, chiều dài 36mét, chiều rộng12mét. Được Thánh Hiến bởi Đức cố Giám Mục Lu-y Hà Kim Danh. Bổn mạng là Thánh Tâm Chúa Giêsu. Linh mục đương nhiệm cha JB. Nguyễn Minh Hùng.
Giáo xứ được chia làm 6 khu: Khu Thánh Tâm, khu thánh Giuse, khu thánh Phaolô, khu thánh Phêrô, khu Đức Mẹ La vang, Khu Đức Mẹ Fatima.
Giáo xứ được các dì Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm đến giúp mục vụ và dạy giáo lý cho các em thiếu nhi, dạy học cho các em có hoàn cảnh khó khăn kể cả các em ngoài công giáo.
Trại phong Bến Sắn được xây dựng năm 1959 do các Sơ Dòng Thánh Vinh sơn. Hiện tại có 15 sơ Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn làm việc phuc vụ trong trại phong này
THÁNH LỄ NHẬM XỨ MỚI CỦA CHA
GIOAN BAOTIXITA NGUYỄN MINH HÙNG
Hôm nay ngày 24/7/2013 lúc 9 giờ sáng, giáo xứ Tân Thạnh Đông, Củ Chi, GP. Phú Cường nhộn nhịp khác thường, tiếng nhạc tiếng kèn cùng với đoàn người đông đảo đứng vỗ tay chào đón Đức cha Giuse Nguyễn Tấn Tước giám mục Phú Cường đến dâng lễ Tạ Ơn Chúa và bổ nhiệm cha GB. Nguyễn Minh Hùng làm tân chánh xứ.
Thánh lễ hôm nay có sự hiện diện của cha Phaolô quản hạt Củ Chi, cha bề trên hội Thừa Sai Việt Nam, quý cha nhà Chung và quý cha trong hạt và khoảng 400 giáo dân tham dự thánh lễ.
Giáo xứ Tân Thạnh Đông tin nhận Lòng Chúa Thương Xót làm bổn mạng vì thế, trong bài giảng Đức cha Giuse nhấn mạnh đến việc tôn thờ LCTX.
Trước hết, phải năng kêu cầu lòng thương xót của Chúa, vì lòng thương xót là ưu phẩm cao cả nhất của Thiên Chúa. Chúa nói với thánh Faustina : “Con hãy công bố Lòng thương xót là ưu phẩm vĩ đại nhất của thiên Chúa”. (304).
Thật vậy, Thiên Chúa là tình yêu, và mọi việc Chúa làm đều do tình yêu, một tình yêu vô vị lợi, một tình yêu đầy lòng thương xót. Ngài là Đấng quyền uy, cao cả, còn tất cả chúng ta chỉ là hư vô, nên khi Ngài làm hay ban cho chúng ta điều gì, thì Ngài không tìm lợi lộc gì nơi ta, nhưng chỉ vì thương xót ta, muốn chia sẻ cho ta những sự tốt lành của Ngài. Và đó chính là ý nghĩa của từ thương xót theo nghĩa gốc của tiếng Latinh. Thánh Augustinô đã giải thích từ Misericordia thành nên bởi ba từ “miser” nghĩa là những kẻ khốn cùng; “cor” nghĩa là trái tim, tấm lòng; và “dare” nghĩa là cho, ban phát. Vì thế đem ghép ba từ này lại, “misericordia” hay “lòng thương xót” có nghĩa là “chia sẻ, ban phát lòng mình cho những kẻ khốn cùng”.
Đó là sự thực tất cả những gì Chúa đã làm cho chúng ta, cũng như đã làm cho mọi loài thọ tạo. Từ hư vô, Chúa đã cho chúng ta hiện hữu. Từ bùn đất Chúa đã cho chúng ta được mang hình ảnh của Chúa. Dầu đã phản bội bất tuân luật Chúa, Chúa vẫn cho Con Một Ngài xuống chịu chết đền tội thay cho chúng ta. Không những Ngài trả lại cho chúng ta những gì tội lỗi đã để mất, nhưng còn ban thêm cho chúng ta gấp bội. Đó là những kho tàng của Lòng Chúa Thương Xót.
Được biết: Giáo xứ Tân Thạnh Đông hàng tuần lúc 3 giờ chiều thứ sáu có thánh lể Kính Lòng Chúa Thương Xót, sự việc đã được 7 năm. Có những đôi tân hôn cũng chọn ngày giờ này để xin dâng lễ cho mình. Chắc hẳn đây là xuất phát từ lòng yêu mến LCTX.
Legio Đạo Binh Đức Mẹ cũng là một thế mạnh của giáo xứ, Hàng năm đại hội được tổ chức ở đây, quy tụ nhiều chi hội về dâng kính Mẹ những đóa hoa thiêng, những tấm lòng sám hối, ăn năn thật tình. Xin Mẹ thương.
Tôma Đỗ Lộc Sơn
CHÚA NHẬT 17 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: St. 18, 20-32; Cl. 2, 12-14; Lc. 11, 1-13
MỤC LỤC
1. Cầu nguyện
2. Lời kinh tuyệt
vời – Thiên Phúc
3. Lạy Cha chúng
con – ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
4. Cầu nguyện
5. Ban Thánh Thần
6. Hãy xin thì sẽ
được
7. Kinh Lạy Cha –
André Sève
8. Biến ước mơ
thành hiện thực
9. Lạy Cha chúng
con...
10. Thờ phụng là
nhìn nhận sự thật - Achille Degeest
11. Suy niệm của
Charles E. Miller
12. Cầu xin hay
cầu nguyện?
13. Lạy Thầy xin
dạy chúng con cầu nguyện
14. Hãy xin, hãy
tìm, hãy gõ – McCarthy
15. Suy niệm của
R. Gutzwiller
16. Cầu nguyện
17. Cầu nguyện
18. Lạy Cha
19. Cầu nguyện
20. Kiên trì
21. Xin thì sẽ
được – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
22. Chú giải của
Lm Vũ Phan Long
23. Chú giải mục
vụ của Hugues Cousin
24. Chú giải của
Noel Quesson
1. Cầu
nguyện
Giữa đêm khuya,
một căn nhà ở nơi hẻo lánh bỗng bốc cháy. Trong cơn hoảng hốt, vợ chồng con cái
đều thoát ra ngoài và bất lực đứng nhìn ngọn lửa. Rồi mọi người sực nhớ đứa con
trai út mới lên năm vẫn còn bị kẹt trên gác. Phải làm gì đây? Không ai có thể
đi vào được. Giữa lúc mọi người đang bấn loạn thì từ cánh cửa sổ trên gác, cậu
bé thò đầu ra và kêu la thất thánh. Từ phía dưới, người cha nói với cậu: Con
hãy nhảy xuống đi. Nhưng làm sao cậu bé dám làm theo lời cha, bởi vì nhìn
xuống, cậu chỉ thấy khói và lửa. Cậu bé thốt lên trong tuyệt vọng: Làm sao con dám
nhảy xuống vì không thấy ba. Thế nhưng người cha đã trấn an: Con không thấy ba
nhưng ba thấy con. Con cứ nhảy xuống đi. Thế là với tất cả tin tưởng, cậu bé nhảy
từ trên gác xuống và nằm gọn trong cánh tay của người cha.
Là con cái của
Thiên Chúa, cho dầu chúng ta có rơi vào hoàn cảnh nào chăng nữa, chúng ta vẫn
luôn rơi vào vòng tay của Thiên Chúa, đó là tất cả Tin Mừng Chúa Giêsu đã đem
đến trong thế gian.
Thiên Chúa luôn
yêu thương con người, dù con người không biết Ngài, dù con người có khước từ và
phản bội tình yêu của Ngài, Ngài vẫn một mực yêu thương. Đó là tất cả những gì
Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta qua cuộc sống của Ngài. Cách cư xử và cái chết
của Ngài đã cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta.
Đồng thời Chúa
Giêsu cũng dạy cho chúng ta cách thức đáp trả tình yêu của Thiên Chúa, đó là
hãy chu toàn thánh ý của Thiên Chúa. Lời kinh Lạy Cha Ngài để lại cho Giáo Hội
chính là chương trình sống của Ngài, chính là tiếng xin vâng của Ngài đối với
Chúa Cha. Từ sáng đến chiều, xuyên qua những giao tiếp và giảng dạy, Ngài luôn
để lộ một cử chỉ duy nhất, đó là thuộc trọn về Chúa Cha, tin tưởng tuyệt đối
vào tình yêu của Chúa Cha. Để lại cho chúng ta kinh Lạy Cha, Chúa Giêsu không
chỉ truyền lại một công thức, mà là cả cuộc sống xin vâng của Ngài.
Do đó, cầu nguyện
không có nghĩa là đọc lại một câu kinh, mà chính đi vào tâm tình và cuộc sống
của Chúa Giêsu. Một người tín hữu luôn chu toàn thánh ý Thiên Chúa và luôn sống
với hai chữ xin vâng hằng sẽ không ngừng kêu lên: Tôi đã cầu xin được khoẻ mạnh
để làm những điều vĩ đại, thế nhưng Chúa lại ban cho tôi những bệnh tật để tôi
làm những việc tốt hơn. Tôi đã xin giàu sang để được hạnh phúc, thế nhưng Chúa
đã ban cho tôi sự nghèo khó để tôi được khôn ngoan hơn. Tôi đã không nhận được
điều tôi kêu cầu, nhưng tôi nhận được niềm hy vọng. Những lời cầu xin mà tôi chưa
từng thốt lên, tất cả đều được nhận lời. Bởi vì tất cả đều là hồng ân của Chúa.
2. Lời
kinh tuyệt vời – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ
'Như Thầy Đã Yêu')
Nhà thần bí Hồi
Giáo tên là Farid, đến kinh đô Delhi để xin hoàng đế Akbar ban cho dân làng một
ân huệ. Farid đến cung điện và gặp lúc Akbar đang đắm mình cầu nguyện.
Khi hoàng đế cầu
nguyện xong, Farid hỏi: "Nhà vua vừa cầu nguyện như thế nào?"
Nhà vua đáp:
"Ta cầu xin Đấng nhân từ ban cho ta sự thành công, giàu có và được sống
lâu.
Vừa nghe xong,
Farid liền quay lưng lại và bỏ đi. Vừa đi ông vừa nói: "Ta đến gặp một vị
vua. Thế mà ta lại gặp một kẻ ăn xin, không khác gì những hạng người
khác!".
Thật vậy, cầu
nguyện không chỉ là cầu xin, cũng không phải là bảng liệt kê ước muốn mà cầu
nguyện chính là tôn thờ, thống hối, cảm tạ và xin ơn. Trong kinh Lạy Cha, Chúa
dạy chúng ta qua bài Tin Mừng hôm nay bao gồm bốn tâm tình đó.
Chúng ta thờ
phượng, ca ngợi, tôn vinh Chúa trong câu đầu tiên: "Lạy Cha, xin làm cho
danh thánh Cha vinh hiển, triều đại Cha mau đến" (Lc 11,2).
Sau đó chúng ta
bày tỏ tâm tình thống hối bằng lời xin lỗi: "Xin tha tội cho chúng con, vì
chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con" (Lc 11,4).
Rồi chúng ta cảm
tạ Chúa ngay trong tâm tình thờ phượng, vì khi ca ngợi tôn vinh Chúa thì đồng
thời chúng ta cũng mặc nhiên cảm tạ những hồng ân Người ban.
Cuối cùng, tâm tình
cầu xin được biểu lộ trong câu: "Xin Cha cho chúng con ngày nào có lương
thực ngày ấy" (Lc 11,3), và "xin đừng để chúng con sa chước cám
dỗ" (Lc 11,4).
Như thế, Kinh Lạy
Cha là một lời kinh tuyệt vời, vì đã đặt sự cao trọng, vinh danh, và thánh ý
Chúa trên hết, sau đó mới xin cho các nhu cầu của chúng ta, nên rất được Chúa
Cha ưa thích.
Kinh Lạy Cha là
một lời kinh tuyệt vời, vì chúng ta được gọi Thiên Chúa là Cha, còn chúng ta là
con cái của Người; chúng ta xin Cha ban ơn không những phần xác mà cả phần hồn;
chúng ta xin Cha không chỉ tha tội trong quá khứ mà còn gìn giữ cho khỏi sa
chước cám dỗ ở tương lai, nên chắc chắn sẽ được Chúa Cha đón nhận.
Sau khi đã dạy
chúng ta lời kinh tuyệt vời đó, Người còn khuyên chúng ta hãy kiên nhẫn và
trông cậy mà cầu nguyện.
* Phải kiên nhẫn
trong khi cầu nguyện là để tăng thêm ước muốn của chúng ta, và cũng là để tăng
thêm giá trị ơn Người sẽ ban. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, thì
không phải là Chúa không sẵn sàng ban ơn, nhưng có thể điều cầu xin ấy không
mang lại ích lợi cho linh hồn chúng ta, hoặc Người muốn dành cho chúng ta một
ơn lớn lao hơn. Cho dù sự đáp trả của Chúa không như lòng chúng ta mong ước hay
không đúng lúc chúng ta mong đợi, thì đó cũng là bởi sự khôn ngoan và lòng yêu
thương của một người Cha đầy tình nhân ái.
* Phải trông cậy
trong khi cầu nguyện vì Chúa đã hứa: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm
thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho" (Lc 11,9). Mẹ Têrêxa Calcutta đã chia sẻ
kinh nghiệm này như sau: "Chúng tôi có hơn một ngàn tu sĩ, và còn phải
nuôi ăn hàng chục ngàn người. Thế mà, chưa bao giờ chúng tôi phải từ chối bất
cứ một ai đến xin giúp đỡ. Chúa luôn can thiệp kịp thời để cho chúng tôi thấy
rằng Người không bao giờ làm ngơ trước lời cầu nguyện của chúng ta".
Lạy Chúa, xin
nhắc chúng con siêng năng dùng Kinh Lạy Cha mà cầu nguyện với Cha trên trời.
Nhất là xin Chúa mở rộng tâm hồn hẹp hòi ích kỷ của chúng con, để biết cầu
nguyện cho các nhà truyền giáo, những người nghèo khổ, những kẻ tội lỗi và
những người thân yêu của chúng con. Amen.
3. Lạy
Cha chúng con – ĐTGM. Jos. Ngô Quang Kiệt
Các Tông đồ đã
nhiều lần thấy Chúa Giêsu cầu nguyện. Có lẽ khi Người cầu nguyện, có một cái gì
đó thật đẹp, thật huyền bí và cũng thật lôi cuốn toả ra. Vì thế, các Tông đồ
xin Người dạy cách cầu nguyện. Và Người đã dạy các ông cầu nguyện bằng Kinh Lạy
Cha. Kinh Lạy Cha mạc khải cho ta hai điều quan trọng.
1. Thiên Chúa là
Cha chúng ta.
Có lẽ vì đã đọc
thuộc lòng Kinh Lạy Cha một cách máy móc nên ít khi ta cảm nhận được hết ý
nghĩa thâm sâu nằm trong từ ngữ "Cha".
Một người bạn có
đứa con đầu lòng tâm sự: "Lần đầu tiên khi nghe đứa con gọi "Ba
ơi", tôi bủn rủn cả tay chân. Một luồng điện cực mạnh chạy khắp thân thể.
Tôi cảm thấy hạnh phúc vô cùng". Quả thực, mối liên hệ Cha-Con là một mối
liên hệ rất thâm sâu, huyền bí và thân thiết.
Gọi ai là Cha tức
là nhận người ấy là ân nhân lớn nhất đời mình. Vì nhờ Cha, ta nhận được món quà
tặng quí giá nhất đó là sự sống. Có những người cha không chỉ sinh con về mặt
thể xác mà còn cho con một đời sống tinh thần. Đó là những người Cha có nhân
cách lớn, kiên trì đúc nặn nên những đứa con có tâm hồn cao đẹp, có lý tưởng,
có tư cách làm người.
Cha không chỉ là
nguồn cội phát sinh nhưng còn là vòng tay nâng đỡ, là mái ấm chở che, là động
lực thúc đẩy, là lý tưởng mời gọi. Nói tóm lại, từ ngữ "Cha" gợi lên
cả một trời yêu thương vừa thân thiết vừa huyền nhiệm không bút nào tả xiết
được.
Khi mạc khải cho
biết Thiên Chúa là Cha, Chúa Giêsu đã đưa ra một hình ảnh về Thiên Chúa hoàn
toàn khác với hình ảnh các vị thần của các tôn giáo khác. Không những Người cho
ta thấy Thiên Chúa Cha yêu thương ta vô cùng, mà còn muốn ta đi vào tình nghĩa
thâm sâu, tha thiết với Cha. Vì thế, Người đã dạy ta tiếng "Abba" là
tiếng gọi "Ba ơi" rất thân thương của một đứa trẻ vừa nũng nịu, vừa
tin tưởng, phó thác mọi sự trong tay Cha.
2. Mọi người là
anh em
Trong Kinh Lạy
Cha, Chúa Giêsu dạy ta cầu nguyện: Lạy Cha chúng con... Xin Cha cho chúng
con... Chứ không dạy ta đọc: Lạy Cha của con... Xin Cha cho con... Nghĩa là tất
cả mọi người có cùng một Cha. Mọi người đều thuộc về một gia đình Thiên Chúa.
Là anh em nên phải có tình yêu thương đoàn kết, liên đới với nhau. Liên đới
trong đời sống, liên đới trong cả lời cầu nguyện.
Một lần dâng lễ
chung với những người bạn Mỹ, tôi đã hỏi họ trong giờ chia sẻ: Hằng ngày các
bạn vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Vậy khi đọc câu "Xin Cha cho chúng con lương
thực hằng ngày" các bạn cầu xin điều gì? Vì ở Mỹ tôi thấy lương thực dư
thừa, không ai phải chết đói. Họ trả lời: Chúng tôi vẫn đọc Kinh Lạy Cha. Và
với câu "Xin Cha cho chúng con lương thực hằng ngày" chúng tôi vẫn
cầu xin tha thiết. Vì tuy chúng tôi đã đủ ăn đủ mặc, chúng tôi vẫn nhớ đến
những anh em bên Phi châu, bên Àu châu đang phải đói khát khổ sở.
Câu trả lời thật
chính xác. Vâng, chúng ta là anh em nên phải liên đới, có trách nhiệm về nhau.
Trong bài đọc 1 hôm nay, tổ phục Abraham đã nêu gương liên đới khi tha thiết
cầu nguyện cho thành Sođoma khỏi bị phạt.
Nếu trong gia
đình đứa em út yếu đuối bệnh tật luôn được thương yêu cưng chiều, thì trong
kinh nguyện, ta cũng phải ưu tiên cầu nguyện cho những anh em bé nhỏ trước hết.
Nếu lời cầu
nguyện của ta là lời của đứa con nhỏ nói với Cha, và là tâm tình liên đới yêu
thương với mọi anh em trên khắp thế giới, lời cầu nguyện ấy sẽ rất đẹp và Thiên
Chúa sẽ hài lòng.
Lạy Cha chúng con
ở trên trời, xin thương xót chúng con. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Bạn có thực sự
cảm thấy Chúa là Cha và sống với Người như người con hiếu thảo không?
2- Thiên Chúa là
Cha tốt lành. Người chỉ ban cho ta những điều tốt. Có khi nào Bạn gặp thất bại
khổ đau mà bạn thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?
3- Bạn cầu nguyện
cho người kém may mắn, nhưng bạn có sẵn sàng chia sẻ với họ không?
4. Cầu
nguyện
Qua đoạn Tin Mừng
sáng hôm nay, tôi muốn chia sẻ một vài ý tưởng đơn sơ về sự cầu nguyện. Vậy
trước hết cầu nguyện là gì?
Như chúng ta đã
biết cầu nguyện là dừng lại trong giây lát mọi băn khoăn lo lắng, để thưa
chuyện với Chúa, để nâng tâm hồn lên hầu thờ lạy và cảm tạ Ngài, đồng thời kêu
xin những ơn lành hồn xác.
Từ câu định nghĩa
này chúng ta thấy cầu nguyện không phải chỉ là cầu xin, mà trước hết phải là
chu toàn những bổn phận của con người đối với Thiên Chúa. Thế nhưng tại sao
chúng ta lại phải cầu nguyện?
Trước hết, bởi vì
chúng ta chỉ là những tạo vật của Thiên Chúa. Không có Ngài chúng ta không thể
tồn tại. Hơn thế nữa, mục đích cuối cùng chúng ta phải theo đuổi trong cuộc
sống hiện tại là tìm về quê hương Nước Trời. Muốn đạt tới mục đích cuối cùng
ấy, thì ngay từ bây giờ chúng ta phải phụng sự và tôn vinh Ngài.
Đưa mắt nhìn vào
vũ trụ, chúng ta nhận thấy từ một giọt sương mai cho đến các vì tinh tú, tất cả
đều nói lên quyền năng Thiên Chúa khi tôn trọng những luật lệ mà Thiên Chúa đã
an bài sắp xếp. Bởi đó người ta thường nói: Thiên nhiên là một cuốn sách mà mỗi
trang của nó đều cho chúng ta được biết về Thiên Chúa. Và như vậy con người
chúng ta, một tạo vật tuyệt vời của Thiên Chúa, lại càng phải ca tụng Ngài hơn
nữa. Thế nhưng với trí khôn và ý muốn Thiên Chúa đã trao ban, tại sao chúng ta lại
không nhận biết Ngài, lại không ca tụng Ngài?
Tiếp đến sở dĩ
chúng ta phải cầu nguyện bởi vì Thiên Chúa là Cha chúng ta. Đây là điều mà
chính Chúa Giêsu đã tỏ lộ. Ngài nói: Khi cầu nguyện, các con hãy thưa lên: Lạy
Cha chúng con ở trên trời.
Thiên Chúa là một
người Cha nhân từ, hằng yêu thương chăm sóc chúng ta. Nhờ Ngài, chúng ta mới có
được những phương tiện vật chất; nhờ Ngài, chúng ta mới có được những khả năng
phần hồn; nhờ Ngài, chúng ta mới có được ơn cứu độ... Vậy tại sao chúng ta lại
không biết ơn và cảm tạ Ngài? Thiên Chúa lạ vị ân nhân vĩ đại. Ngài chờ đón nơi
chúng ta một câu nói tuyệt vời: Lạy Chúa con yêu mến Chúa. Như vậy khi cầu
nguyện, chúng ta bày tỏ niềm biết ơn cũng như tình yêu đậm đà của chúng ta đối
với Ngài.
Người ta kể lại
trong cuộc chiến tranh tại Algérie, có một viên sĩ quan người Pháp bị bắt làm
tù bình. Suốt thời gian bị giam giữ, viên sĩ quan ấy luôn bị một tên lính Ả Rập
rủa xả là đồ chó. Bực tức trước lời rủa xả ấy, viên sĩ quan đã lên tiếng:
- Tại sao ngươi
lại chửi ta là đồ chó. Ta là một tù binh, điều đó đúng lắm, nhưng ta cũng là
người như ngươi.
Tên lính Ả Rập
nhìn viên sĩ quan một cách khinh bỉ và nói:
- Ngươi mà cũng
đòi là người ư? Đã sáu tháng rồi, ta không hề thấy ngươi cầu nguyện, thế mà
ngươi cũng dám mở miệng tự xưng là người hay sao? Là người mà không cầu nguyện
cùng Thiên Chúa, thì cũng chỉ là đồ chó mà thôi.
Câu trả lời thật
cứng cỏi nhưng cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ. Bởi vì người là một con vật có
trí khôn. Với trí khôn chúng ta nhận biết có Thiên Chúa. Và một khi đã nhận
biết có Thiên Chúa thì tại sao chúng ta lại không ca tụng Ngài.
Để kết luận tôi
xin mượn lời sau đây của thánh nữ Jeanne d'Arc: Thiên Chúa phải được phục vụ
trước nhất, có nghĩa là bổn phận cầu nguyện phải là bổn phận hàng đầu trong
cuộc sống chúng ta.
5. Ban
Thánh Thần
(Trích dẫn từ
'Manna')
Suy Niệm
Có nhiều định
nghĩa về con người.
Con người là con
vật biết sử dụng các dụng cụ. Con người là con vật biết suy nghĩ đắn đo. Nhưng
như thế vẫn chưa đủ.
Phải định nghĩa
con người là con vật biết cầu nguyện, nghĩa là có khả năng lắng nghe và đáp lời
Thiên Chúa. Con người là sinh vật biết chuyện trò với Tạo Hoá.
Cầu nguyện không
phải là nói với một sự vật, một ý tưởng, nhưng là nói với một Đấng siêu vượt
tôi, mà lại rất gần gũi thân thương và biết tôi. Đấng ấy nói với tôi và nghe
được lời tôi nói.
Có nhiều tâm tình
khi ta cầu nguyện: thống hối, tri ân, ca ngợi, thờ lạy, dâng hiến, nài xin.
Nài xin chẳng
phải là điều hạ giá con người. Con người cảm nghiệm được thân phận mong manh,
nên khiêm hạ đi tìm sự nâng đỡ.
Xin cho chúng con
bánh cần dùng mỗi ngày. Bánh vật chất, bánh tinh thần, Bánh Thánh Thể. Bánh cho
chúng con sự sống.
Xin tha thứ tội
chúng con, để chúng con được sống bình an sau những va vấp.
Xin đừng để chúng
con sa chước cám dỗ. Cơn cám dỗ lớn nhất là chỉ sống cho mình, và khép lại
trước Thiên Chúa và anh em.
Quỳ xuống cầu xin
là thái độ của người biết mình, biết những gì mình có thể làm được, và biết
những gì nằm ngoài tầm tay của mình.
Khi tương quan
giữa Mỹ và I-rắc căng thẳng cực độ, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Kofi Annan đã
tới Bagdad để thuyết phục phía I-rắc ký vào bản thoả thuận.
Lúc trở về, ông
nói: "Tôi đặc biệt đã cầu nguyện nhiều. Đừng bao giờ đánh giá thấp sức
mạnh của sự cầu nguyện."
Chẳng phải chỉ
cầu nguyện khi gặp chuyện khó. Để hít thở bình thường cũng cần đến ơn trên.
Cần có thái độ
kiên trì khi cầu nguyện. Hãy cứ gõ cửa nhà Chúa trong đêm mịt mù. Cần tập đứng
đợi, tập quấy rầy Chúa. Thế nào Ngài cũng mở cửa và cho mọi sự ta cần.
Hãy để Ngài tự do
cho vào lúc và theo cách Ngài muốn, dù điều đó không hợp với ước mơ của ta.
Lắm khi ta có cảm
tưởng Ngài không nhận lời. Có thể vì lời nài xin của ta đầy tính ích kỷ, hay vì
Ngài muốn dành cho ta một ơn lớn hơn.
Xin Đức Giêsu dạy
ta biết cách cầu xin, đưa ta ra khỏi những bận tâm hẹp hòi về chính mình, để
thấy những nhu cầu lớn lao của Hội Thánh.
Ơn cao cả nhất mà
chắc chắn Cha muốn ban cho ta đó là Chúa Thánh Thần. Có Thánh Thần là có niềm
vui, sức mạnh, ánh sáng, sự sống.
Có khi nào ta nài
xin Cha ban Thánh Thần chưa?
Gợi Ý Chia Sẻ
Thiên Chúa là Cha
tốt lành. Ngài chỉ cho ta điều tốt. Có khi nào bạn gặp thất bại khổ đau mà bạn
thấy lòng tốt của Thiên Chúa không?
Nếu Chúa cho bạn
chọn 3 điều ước, bạn sẽ chọn những điều nào?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì
những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là
ơn.
Con biết rằng con
đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau
khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng
ân sủng.
Tạ ơn Cha vì
những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha
muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững
tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
6. Hãy
xin thì sẽ được
(Trích dẫn từ
'Manna')
Suy Niệm
Một thách đố lớn
đối với đức tin của người Kitô hữu đó là sự thinh lặng của Thiên Chúa.
Gặp cơn cùng
khốn, con người cầu cứu Ngài nhưng không nghe thấy tiếng đáp lại.
Người lành bị trù
dập, kẻ vô tội bị hàm oan, nỗi đau khổ thể xác tinh thần vây bọc lấy đời người.
Con người quằn
quại, rên xiết, gào thét, nổi loạn.
"Chúng tôi
tố cáo Thiên Chúa vì Ngài vắng mặt."
Ngài không được
quyền vắng mặt và thinh lặng. Nếu Ngài là Thiên Chúa quyền năng, Ngài phải tiêu
diệt sự dữ và kẻ dữ. Nếu Ngài là Cha yêu thương, Ngài không thể quay lưng trước
nỗi khổ của con người. Có nhiều người đã lý luận như thế và kết luận: "Vì
có đau khổ, nên không có Thiên Chúa."
Có lúc người ta
tưởng đau khổ là một vấn đề có thể đem ra mổ xẻ, giải quyết. Nhưng rồi người ta
thấy đó là một mầu nhiệm. Chỉ ai tin mới đến gần được mầu nhiệm ấy, và đón nhận
nó trong bình an.
Đức Giêsu đã
không trình bày con đường diệt đau khổ, nhưng Ngài mang lấy đau khổ vào thân.
Trên thập giá, Ngài nghe được sự thinh lặng của Thiên Chúa, và thấy được sự
vắng mặt của Người. "Lạy Thiên Chúa của tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?"
Như ta, Ngài cũng
bước đi trong bóng tối của lòng tin, dù bị thử thách, vẫn một niềm tín thác:
"Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha."
Thiên Chúa vẫn là
Đấng toàn năng và yêu thương, nhưng Ngài hành động không giống điều ta nghĩ.
Ngài không đưa
Đức Giêsu xuống khỏi thập giá nhưng đưa Con của Ngài ra khỏi nấm mồ, điều đó
khó hơn nhiều.
Hôm nay Đức Giêsu
mời chúng ta cứ xin, cứ tìm, cứ gõ và tin chắc sẽ được, sẽ thấy, sẽ mở cho.
Chúng ta tin
Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Ngài chỉ ban cho ta những điều tốt lành, những điều
có lợi thực sự cho ta, những điều làm ta trưởng thành và triển nở, những điều
đưa ta gặp hạnh phúc đích thực, thứ hạnh phúc không chỉ hạn hẹp ở đời này.
Chúng ta tin Thiên
Chúa là Cha nhân hậu, nhưng Ngài không nuông chiều con cái, Ngài dám cắt tỉa để
chúng ta sai trái hơn.
Bạn hãy cứ cầu
xin nhưng hãy để cho Ngài định liệu, vì Ngài biết rõ điều gì là tốt hơn cho bạn
trong hoàn cảnh này, ở đây, bây giờ.
Cần cầu nguyện nhiều,
bạn mới biết điều bạn phải xin, vì những điều chúng ta xin còn mang nhiều cặn
bẩn.
Lắm khi chúng ta
xin rắn mà không hay. Cũng có khi ta tưởng Chúa cho chúng ta bọ cạp. Cần có đức
tin mới nhận ra rằng Chúa đã nhận lời mình rồi, nhưng theo một kiểu khác với
kiểu ta muốn.
Cần đợi đến một
lúc nào đó bạn mới thấy mọi biến cố trong đời đều là quà tặng yêu thương.
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn đã từng cầu
xin và thấy Chúa thinh lặng trước nỗi khổ của bạn. Bạn đã sống kinh nghiệm đó
như thế nào?
Có khi nào bạn tạ
ơn Chúa vì những gì Chúa đã không ban cho bạn theo như ý bạn xin?
Cầu Nguyện
Con tạ ơn Cha vì
những ơn Cha ban cho con, những ơn con thấy được, và những ơn con không nhận là
ơn.
Con biết rằng con
đã nhận được nhiều ơn hơn con tưởng, biết bao ơn mà con nghĩ là chuyện tự nhiên.
Con thường đau
khổ vì những gì Cha không ban cho con, và quên rằng đời con được bao bọc bằng
ân sủng.
Tạ ơn Cha vì
những gì Cha cương quyết không ban bởi lẽ điều đó có hại cho con, hay vì Cha
muốn ban cho con một ơn lớn hơn.
Xin cho con vững
tin vào tình yêu Cha dù con không hiểu hết những gì Cha làm cho đời con.
7. Kinh
Lạy Cha – André Sève
(Trích dẫn từ
'Tin Mừng Chúa Nhật')
Đối với thánh
Luca, Kinh Lạy Cha phát xuất từ việc các môn đệ nhìn Chúa Giêsu cầu nguyện:
"Khi Ngài cầu nguyện xong, một trong các môn đệ thưa Ngài: Lạy Thầy, xin
dạy chúng con cầu nguyện".
Theo chiều hướng
đó, chúng ta có thể tái khám phá Kinh Lạy Cha trong bài suy niệm này, bằng cách
xem Chúa Giêsu cầu nguyện như thế nào, bằng cách kết hợp với nhiệt tình bên
trong hướng về Chúa Cha của Ngài, bằng cách tiếp nhận mỗi lời nói từ chính Chúa
Giêsu.
"Lạy Cha
chúng con"
Chúa Giêsu, ngay
từ những lời nói đầu tiên, "Lạy Cha chúng con", Cha đã kéo con ra
khỏi sự co cụm lại, Cha nhắc nhở con rằng mọi kinh nguyện mở con hướng ra hai
thế giới. Trong khi tìm cách tiếp xúc với Cha, con đi vào trong mầu nhiệm Ba
Ngôi. Trong khi nói "chúng con", con cầu nguyện cùng với các anh em
và cho các anh em của con.
"Lạy Cha
chúng con ở trên trời"
Lạy Cha, Cha ở
khắp mọi nơi, nhưng là ở trong một thế giới khác với thế giới hữu hình của
chúng con, không phải ở bên trên, cũng không phải ở bên cạnh, ở một nơi mà con
không nhận thấy. Cha ở rất xa khi con suy nghĩ bình thường, và rất gần khi con
lắng nghe Chúa Giêsu: "Ai thấy Ta là thấy Cha" (Ga 14,9). Lạy Cha,
Cha "ở trên trời", nhưng Cha đúng là Cha chúng con. Con sống trong sự
hiện diện của Cha, và Chúa Giêsu nói với con rằng đây là một sự hiện diện tình
yêu. Con ở trong Cha và Cha ở trong con. "Nếu ai yêu mến Thầy Cha Thầy sẽ
yêu mến người ấy và Chúng Ta sẽ đến ở cùng người ấy" (Ga 14,23). Con hiểu
điều này khi con nói với Cha: Lạy Cha.
"Xin cho
danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện".
Danh Cha, chính
là Cha. Con muốn tất cả mọi người đều biết Cha. Con muốn họ biết Ngài thánh
thiện đến độ nào và Cha là Cha. Con muốn họ có thể phân biệt được hành động,
công bằng và vinh quang của Cha. Con muốn cuộc sống của con nói lên danh Cha.
Nước Cha, chỉ có
Cha mới có thể thể hiện Nước đó một cách hoàn toàn cùng với những cuộc đời của
chúng con khi các cuộc đời này không nổi loạn, đãng trí cũng như gò bó. Xin hãy
mở rộng các tư tưởng của chúng con cho đến thời cánh chung khi chúng con sẽ là
dân chúng đông đảo của Cha. Xin hãy làm cho Nước của Cha đến qua điều mà con
người trên thế giới đang sống. Điều đó là máu và nước mắt, những nỗi thất vọng,
những niềm vui, những hoạt động công bằng và những chuyện tình đẹp. Xin cho máy
truyền hình, nếu con biết xem cho tốt, luôn luôn đổi mới sự lo lắng của con về
Nước Trời và kinh nguyện của con về Nước Trời.
Con không muốn
nói với Cha "xin cho ý Cha thể hiện" vì một sự cam chịu đơn giản, con
muốn đi vào trong ý muốn của Cha càng tích cực càng tốt bởi vì con biết rằng
điều Cha muốn là thánh thiện, công bằng và đầy tình yêu thương.
Nhưng đôi khi tất
cả đều đen tối đối với chúng con. Xin cho đừng có chén đắng!... Tuy vậy, nếu
phải uống chén đắng, xin cho chúng con có thể hợp với ý của Cha nhiều nhất.
"Xin cho
chúng con hôm nay lương thực hằng ngày".
Xin hãy cho chúng
con điều cần thiết để sống một cách mãnh liệt ngày hôm nay. Không phải hôm qua
cũng không phải ngày mai, nhưng bây giờ đây. Mỗi lần con xin Cha lương thực
ngày hôm nay, hãy đặt con lại trong hiện tại, trong điều mà con phải sống. Xin
tách con ra khỏi những lo lắng làm con xa Cha. Con không thể nói với Cha là Cha
nếu con không tin rằng Cha muốn ban cho con điều gì đó để sống ngày hôm nay.
"Xin tha tội
chúng con như chúng con cũng tha"
Cho đến Kinh Lạy
Cha cuối cùng của con con sẽ còn xin Cha tha thứ. Con sẽ luôn luôn có những sai
lầm với Cha, con biết, nhưng nhờ Chúa Giêsu con sẽ không bao giờ nghi ngờ Cha,
Cha là người cha của đứa con hoang đàng. Nhưng xin cho con không quên điều kiện
mà nếu không có nó Cha sẽ không thể tha thứ cho con: con phải tha thứ. Không
phải tha thứ cho anh em của con nói chung, đây là điều quá dễ. Vào lúc này đây
con phải tha thứ cho X... ngay tức thì. Nếu không, tại sao lại đọc Kinh Lạy Cha?
Sự tha thứ của Cha không thể được ban cho một tâm lòng đóng kín với chỉ một
trong những người anh em của họ.
"Xin chớ để
chúng con sa chước cám dỗ"
Con không xin Cha
cho con được rút lui khỏi cuộc chiến đấu, nhưng để làm vinh danh Cha khi mọi sự
trở nên khó khăn. Vào giờ phút tồi tệ, lạy Cha, xin giúp con. Xin giúp chúng
con.
8. Biến
ước mơ thành hiện thực
(Trích dẫn từ
'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm. Ignatiô Trần Ngà)
Trên đời có nhiều
giá trị vật chất hoặc tinh thần rất cao đẹp, rất quý báu nên ai ai cũng đều
khao khát ước mơ. Tuy mọi người đều mơ ước, khao khát những giá trị đó nhưng
rồi họ cảm thấy khả năng của mình có giới hạn, phương tiện của mình còn thiếu
thốn, nên chẳng mấy ai tìm cách chiếm hữu được những giá trị cao quý ấy. Thế là
những giá trị cao quý đó chỉ xuất hiện trong ước mơ của mọi người một thời gian
rồi tan biến.
Trong câu chuyện
cổ Ali Baba và bốn mươi tên cướp, chàng Ali Baba nghèo khổ vào rừng kiếm củi
kiếm sống qua ngày, vô tình phát hiện bốn mươi tên cướp mang tài sản cướp được
về cất giấu trong kho tàng bí mật. Khi một người trong bọn đứng trước một tảng
đá lớn đọc câu thần chú: "Vừng ơi! mở ra", thì lạ lùng thay, một cánh
cửa bí mật mở ra dẫn lối cho lũ cướp đem của cải cướp được vào kho báu nằm chìm
trong hang.
Chờ cho bọn cướp
ra đi, Ali Baba tiến lại khung cửa thần bí và đọc lại câu thần chú đó. Thật
nhiệm mầu, tấm cửa đá nặng nề mở ra, đưa anh vào một kho tàng chứa đầy báu vật
và nhờ đó, Ali Baba chiếm hữu được nhiều báu vật trong kho tàng.
Qua Tin Mừng hôm
nay, Chúa Giêsu cũng dạy cho chúng ta một một bí quyết quan trọng giúp ta khám
phá và chiếm hữu những kho báu lớn lao, kho báu vật chất cũng như kho báu tinh
thần. Đây không phải là câu "Vừng ơi! mở ra" để đưa chúng ta vào kho
báu huyền thoại, nhưng là câu: "Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ
thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho".
Bí quyết nầy giúp
mở ra nhiều kho tàng vật chất cũng như tinh thần, tự nhiên cũng như siêu nhiên.
Bí quyết được tóm lại trong ba điều rất đơn giản: "xin - tìm - gõ".
Thật là điều khó
tin! Làm sao mà chỉ cần ba hành động đơn giản là xin, tìm, gõ lại có thể giúp
người ta đạt được những giá trị lớn lao và cao quý?
Chúa Giêsu cũng
biết những thính giả của Ngài đầy ngờ vực khi nghe những lời dạy ấy nên Ngài
mới thuyết phục thêm: "Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin
cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp?
Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt của
lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin
Người sao?".
Thế ra lâu nay
chúng ta không chiếm hữu được những giá trị cao quý là vì chúng ta chưa xin,
chưa tìm, chưa gõ đó thôi. Còn ai liên lỉ xin, kiên quyết tìm, nhẫn nại gõ thì
thế nào cũng đạt được giá trị cao đẹp mình mong muốn.
Cả ngàn ngôi
thánh đường cao lớn mọc lên nhanh chóng từ vài chục năm trở lại đây trên đất
nước Việt Nam chúng ta, những thánh đường mà trước đây nhiều người giáo dân
nghèo chỉ dám ước mơ chứ không dám tin là sẽ có, đã trở thành hiện thực giữa
những xóm đạo rất nghèo, cũng là nhờ vào bí quyết "xin-tìm-gõ" mà
thành.
Con số linh mục
vượt trội lên trong những năm tháng qua trên quê nhà Việt Nam, điều mà trước
đây vài chục năm chỉ là điều nằm trong mơ ước, nay cũng đã thành hiện thực nhờ
bí quyết "xin-tìm-gõ" đó thôi.
* * *
Cuốn "Góp
nhặt cát đá" của thiền sư Muju (dịch giả Đỗ Đình Đồng, nhà xuất bản Lá
Bối, xuất bản năm 1972) có ghi lại mẩu chuyện sau đây liên quan đến lời dạy của
Chúa Giêsu hôm nay.
Một sinh viên đến
viếng Thiền sư Gasan và hỏi: "Thầy đã đọc Thánh Kinh Kitô chưa?"
Gasan bảo:
"Chưa. Hãy đọc tôi nghe!"
Sinh viên mở sách
ra và đọc một đoạn sách thánh (Mt 6, 28-29): "Còn về áo mặc, các ngươi lo
lắng làm chi? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào: chẳng làm khó
nhọc cũng không kéo chỉ; nhưng Ta bảo các ngươi, dẫu vua Salômon sang trọng đến
đâu, cũng không mặc được áo tốt như như một hoa nào trong giống đó... Vậy chớ
lo lắng chi ngày mai, vì ngày mai sẽ lo về việc ngày mai."
Gasan nói:
"Ai nói những lời đó, tôi cho là một người đã giác ngộ."
Sinh viên đọc
tiếp: "Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp hãy gõ sẽ mở cho. Bởi vì hễ
ai xin thì được; ai tìm thì gặp; ai gõ thì được mở." (Mt 7, 7-8)
Gasan phê bình:
"Thật là tuyệt! Ai nói điều đó không xa Phật tánh."
* * *
Từ đây, nắm được
bí quyết quan trọng để đạt được những giá trị cao quý trên đời, chúng ta không
dại khờ ngồi ước mơ suông, nhưng phải ra công thực hiện, vì phương tiện sẵn có
trong tầm tay. Chỉ cần liên lỉ xin, kiên quyết tìm và nhẫn nại gõ thì chúng ta
sẽ thủ đắc được những giá trị cao quý mà lâu nay chỉ có trong mơ. Với bí quyết
nầy, chúng ta có thể biến những ước mơ thành hiện thực.
9. Lạy
Cha chúng con...
(Trích dẫn từ
'Cùng Nhau Suy Niệm' – Lm Giuse Tạ Duy Tuyền)
Vào cuối thập
niên 80, tại Rumani, một trận động đất lớn đã xảy ra làm hơn 10 ngàn người
chết. Ngay sau trận động đất, một người cha đã chạy đến nhà trường tìm đứa con
trai của mình.
Ngôi trường nhiều
tầng đã sập đổ, nhưng người cha cố đào bới trong đống gạch vụn để tìm con.
Những người cứu hộ và cảnh sát bảo ông hãy về nhà và đừng đào bới nữa vì rất
nguy hiểm. Nhưng ông không nghe và cứ tiếp tục đào bới.
Ông đào bới trong
suốt 12 tiếng đồng hồ cũng chẳng thấy tăm hơi người con đâu. Ông vừa đào bới
vừa nghĩ: "Mình đã hứa thì phải thực hiện lời hứa, biết đâu nó còn sống
trong đống gạch này thì sao?"
Nghĩ thế rồi, ông
lại tiếp tục đào bới, 24 tiếng rồi 48 tiếng đồng hồ trôi qua... ông chợt nghe
tiếng động. Ông gọi tên người con và ông nghe thấy tiếng kêu rất nhỏ từ xa vọng
lại: "Ba ơi". Nước mắt ông tuôn trào và ông hăng hái đào tiếp đến tận
phòng của đứa con.
Thằng bé còn sống
cùng với 20 đứa khác trong một góc phòng chưa bị sập. Nó ôm chầm lấy người cha
và nói: "Con đã bảo với các bạn của con rồi: "ba tôi đã nói, dù thế
nào ba cũng đến đón tôi. Các bạn cứ yên tâm đi, chắc chắn ba tôi sẽ đến".
Tiếng kêu ba ơi
của đứa bé nghe như âm vang lời kinh Lạy Cha chúng ta đọc hằng ngày: "Lạy
Cha chúng con ở trên trời". Lời kinh Lạy Cha, là điệp khúc được lập lại
nhiều nhất trong cuộc đời người tín hữu. Lời kinh này chúng ta có thể thốt lên
bất cứ khi nào, bất cứ nơi đâu. Khi vui, khi buồn. Khi thành công hay khi thất
bại. Khi ở nhà hay hành hương nơi xa. Tất cả trong mọi hoàn cảnh chúng ta đều
có thể thưa lên Lạy cha chúng con ở trên trời. Đây là điệp khúc được lập đi lập
lại mà không bao giờ nhàm chán. Vì lời đó là gạch nối cho tình cha con luôn gần
gũi đậm đà yêu thương, là nhịp cầu cho tình con người vươn lên làm con Thiên
Chúa.
Thực vậy, Thiên
Chúa của Kytô giáo không phải là vị thần ở chốn xa xôi nào đó, càng không phải
là một vị thần chỉ để con người đóng khung và "kính nhi viễn chi", mà
là một người cha luôn ân cần chăm sóc người con. Dù người con có hoang đàng tội
lỗi cha vẫn thứ tha. Dù người con mải mê thế trần cha vẫn kiên nhẫn tìm con trở
về. Một người cha thật đại lượng bao dung đến nỗi cho mưa thuận gió hoà trên kẻ
lành người dữ. Một người Cha hết lòng vì loài thụ tạo đến nỗi đã ban Con Một
cho trần gian để cứu chuộc trần gian. Một người cha luôn lo lắng cho con cái
đến nỗi còn quan tâm đến sự sinh tồn của từng sợi tóc của con người.
Lời Chúa hôm nay
mời gọi chúng ta hãy sống trong tình con thảo với Cha trên trời. Một người con
thảo hiếu luôn sống với Cha trong tình phó thác và với anh em trong tình bác
ái. Chính Chúa Giêsu đã sống điều đó. Ngài đã phó thác cuộc đời trong tay Cha
đến nỗi chỉ mong ước một điều là tim kiếm ý Cha và làm vinh danh Cha. Ngài đã
sống với nhân loại trong tình bao dung và độ lượng. Ngài đã đi đến tận cùng của
tình yêu là chết cho người mình yêu. Ngài đã đi đến tận cùng của việc quên mình
là tha thứ cho kẻ đã hành hạ và kết án mình. Ngài đã dùng tình yêu để đẩy lùi sự
dữ. Ngài đã dùng tình yêu để hoán cải những người lầm lỗi và tạo điều kiện cho
kẻ lầm đường lạc lối trở về.
Vâng, cuộc đời
chúng ta có vui có buồn. Có những lúc thành công và có những khi thất bại. Có
đau khổ và hạnh phúc. Điều đó nói lên sự bấp bênh của giòng đời. Con ngừơi luôn
mang yếu tố bất định, chúng ta chẳng biết ngày mai sẽ ra sao. Vì thế, kẻ khôn
ngoan là biết phó thác mọi sự cho Chúa là Cha. Chính người sẽ lo liệu những gì
tốt đẹp nhất cho cuộc đời chúng ta. Không một người Cha nào lại bỏ rơi con cái
thì Thiên Chúa cũng định liệu và an bài mọi sự cho chúng ta, miễn là chúng ta
hãy sống hết mình trong tình con thảo với Cha và hết mình sống yêu thương và
phục vụ anh em đồng loại. Khi chúng ta sống phó thác cho Chúa là lúc chúng ta
tìm được an bình trong thánh ý Thiên Chúa. Cho dù cuộc đời có những lúc nổi
trôi, có những trái ngang trắc trở, chúng ta vẫn tràn đầy niềm hy vọng vì có
Chúa luôn phù trợ chúng ta. Vì ai bền đỗ đến cùng thì người đó sẽ được ơn cứu
thoát. Amen.
10. Thờ
phụng là nhìn nhận sự thật - Achille Degeest
(Trích dẫn từ
'Lương Thực Ngày Chúa Nhật')
Đức Giêsu đem một
sứ điệp đến cho chúng ta. Trọng tâm sứ điệp là giáo huấn của Người về Thiên
Chúa. Không ai biết được Thiên Chúa ngoại trừ Đấng từ Thiên Chúa mà đến. Thiên
Chúa hằng hữu, quyền năng vô cùng, chi phối mọi khởi sự cũng như mọi cùng tận,
là Chúa tể tối cao điều khiển mọi vận mạng, không ai biết được Thiên Chúa nếu
chính Thiên Chúa không mặc khải cho. "Không ai biết Chúa Cha là ai, trừ
người Con, và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho" (Lc 10,22). Đức Giêsu dạy
cho chúng ta biết về danh thánh Thiên Chúa và cách nói với Thiên Chúa. Các môn
đệ hỏi Chúa phải cầu nguyện thế nào. Các ông được Chúa dạy cho Kinh Lạy Cha. Bài
đọc hôm nay chỉ dẫn đầy đủ về giá trị kinh nguyện phải có. Lời cầu xin phải bày
tỏ lòng tin tưởng thiết tha trong bầu khí thân thiết, hiếu thảo. Thân mật,
nhưng phải có thái độ thờ phụng từ trong thâm tâm biểu lộ ra ngoài, điều ấy cần
được chúng ta nhấn mạnh. Khi cầu nguyện, Kitô hữu trước hết ước nguyện:
"Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh". Vậy thờ phụng cách hiếu thảo
là gì?
1) Cầu nguyện,
trước hết là ý thức về tầm chính xác của mình trước mặt Thiên Chúa. Thế mà đối
với Thiên Chúa toàn thể vũ trụ nhỏ hơn một giọt nước trong lòng đại dương. Kẻ
thờ phụng dành tất cả tâm hồn mình cho Thiên Chúa. Điều gì biện minh cho thái
độ ấy? Thật ra con người ý thức rất rõ mình có khả năng suy nghĩ, hành động, có
cả quyền năng nữa. Lẽ nào chỉ vì Thiên Chúa quyền năng vô cùng mà chúng ta phải
nhượng bộ tất cả cho Thiên Chúa ư? Thờ phụng, trước hết không phải là sự quy
phục của lương tri trước Đấng có quyền năng hơn con người. Thờ phụng là thái độ
lương tri tự do muốn nhìn nhận sự thật. Vậy mà sự thật chính là Thiên Chúa hằng
hữu, quyền năng vô biên, Đấng vô cùng tận. Thờ phụng là nhìn nhận sự thật ấy.
Điều biện minh cho thờ phụng chỉ xuất phát từ sự thật mà thôi. Vì lẽ có nhìn
nhận sự thật, con người mới có được phẩm giá; trong sự thờ phụng, tức là trong
sự nhìn nhận sự thật, con người tìm ra tầm mức phẩm giá của mình.
2) Sự thờ phụng
của Kitô hữu đậm tình hiếu thảo vì lẽ, nhờ lời giảng dạy của Đức Kitô, Kitô hữu
biết rằng Thiên Chúa là Cha. Sở dĩ tâm tình chúng ta thành thật và trong sạch
vì giữ được thực chất của nguồn mạch. Phân tích tới cùng, chúng ta thấy nguồn
mạch là Thiên Chúa, Đấng tạo thành chúng ta, Cha chúng ta. Đọc lên câu
"Lạy Cha, ước gì danh Cha hiển thánh", chúng ta ý thức, thừa nhận,
tuyên xưng Thiên Chúa là sự Tuyệt Đối, đồng thời là Cha mình. Tâm tình ấy phù
hợp với sự thật sâu sắc dâng lên trong tâm hồn như một ngọn suối, do chính Đức
Giêsu khởi lên. Khi chúng ta thốt ra tiếng "Lạy Cha", chúng ta phát
ra một lời nói tự do và hiếu thảo biểu lộ sự thật tha thiết nhất trong chúng
ta. Chúng ta biểu lộ con người đích thật của mình khi thưa với Thiên Chúa: Lạy
Cha. Ai cũng biết, chính sự thật đem lại ơn cứu độ...
11. Suy
niệm của Charles E. Miller
(Trích dẫn từ
'Giảng Lễ Chúa Nhật')
VỚI CHÚA GIÊSU
CHÚNG TA CẦU NGUYỆN "LẠY CHA" – "ABBA"
Lời cầu nguyện
của Chúa "Kinh Lạy Cha" là một lời nguyện riêng nổi bật trong khi
dâng Thánh Lễ. Một nguyên nhân của việc đó là chúng ta hãy cám ơn những sự thay
đổi đã diễn ra trong Công đồng Vatican II, đó là tất cả chúng ta có thể nói
hoặc hát lời linh này bằng chính ngôn ngữ của mình. (Thật là khó để nhận ra
trước đây được gọi là Thánh Lễ theo Công đồng Tridentino, chỉ một mình linh mục
được đọc lời nguyện này và ngài đã đọc nói bằng tiếng Latin; không một người
nào được phép đọc chung với vị linh mục). Mọi người dâng lời kinh này khi đứng
đôi khi họ dang tay, thỉnh thoảng họ hướng mắt lên trời, đôi khi họ nắm tay với
những người lân cận, nhưng luôn luôn có vẻ như là lời kinh này có một sự chú ý
đặc biệt.
Lời cầu nguyện
của Chúa mà chúng ta nghe trong Phúc Âm Thánh Luca có một điểm khác với lời
kinh chúng ta dùng trong Thánh Lễ, lời kinh này chúng ta đọc theo đoạn Phúc Âm
của Thánh Mathêu (6,9-12) chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự khác nhau này. Thứ
nhất, cầu nguyện thì rất quan trọng nên chúng ta giả thiết là Chúa Giêsu đã dạy
nó trong nhiều dịp và không luôn luôn chính xác cùng một lời đó. Thứ hai lời
nguyện đó đã là một phần của phụng vụ cho hơn một thế hệ trước khi những cuốn
Phúc Âm được viết ra. Lời cầu nguyện đó đã được ghi lại theo trí nhớ và kết quả
là có những sự khác nhau không đáng kể cho đến khi Thánh Luca và Thánh Mathêu
đã viết ra lời kinh chung được đọc trong những cộng đoàn riêng biệt của các
ngài.
Tất cả những điều
này dẫn đến một kết luận quan trọng. Cái điều mới và đặc biệt trong lời kinh
nguyện này thì không phải là bản tính hoặc là số lời cầu xin trong kinh nguyện.
Sau hết, người Do Thái thường cầu nguyện rằng, danh của Thiên Chúa phải được
thần thánh hoá và ý muốn Ngài phải được thực hiện. Thánh Vịnh 51 từ Cựu Ước là
một lời kinh nguyện nồng nhiệt và hùng biện về sự tha thứ đã không "thấm
tháp gì" kinh nguyện tha thứ trong kinh Lạy Cha.
Điều đặc biệt của
kinh nguyện là cung cách độc nhất mà Chúa Giêsu đã diễn tả về Thiên Chúa. Ngài
đã kêu lên Chúa, Đấng quyền năng, Đấng Sáng Tạo nên trời và đất, Đấng phán xét
kẻ sống và kẻ chết như là "Cha" không chính xác như là
"Cha" nhưng là "Abba" cha ơi, chữ này có nghĩa thân mật hơn
như là "papa" hoặc "Daddy", đó chính là cách mà các trẻ nhỏ
gọi cha của mình với một tình yêu thân mật và sự quen thân trong sáng, khi muốn
nói với cha của mình. Trong tất cả những lời nói của Chúa Giêsu đã được ghi
chép lại trong Phúc Âm thì chắc chắn chữ "Abba" cha ơi là một trong
những chữ thánh thiêng nhất.
Hãy suy nghĩ về
lời cầu nguyện của Abraham và của Chúa Giêsu khác nhau như thế nào. Abraham,
cha của dân tộc được chọn, tổ phụ của chúng ta trong đức tin đã dám đến gần
Chúa, nài xin Ngài tha thứ cho dân Sodoma và Gomora. Ông đã không ngại ngùng
trả giá với Thiên Chúa. Nhưng ông không dám gọi Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã
gọi, ông sẽ không bao giờ dám nói: "Được rồi, Cha ơi, Cha hãy thương tình
và đối xử nhẹ nhàng với Sodoma và Gomora". Không một người nào dám gọi
Thiên Chúa là "Abba", "Daddy" (Cha ơi), như Chúa Giêsu đã
làm.
Và tất cả chúng
ta đều được mời gọi thật sự, để nói về và gọi Thiên Chúa là "Abba",
người Cha thân yêu của mỗi chúng ta. Lý do mà chúng ta có thể làm như vậy, là
Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta một đời sống mới thông hiệp với Đức Kitô.
Đó là một gia đình sự sống của Ba Ngôi ân phúc, sự sống mà chúng ta đã lãnh
nhận nơi phép rửa, khi mà chúng ta trở nên những chi thể của Giáo Hội, gia đình
của Thiên Chúa ở đây trên mặt đất này.
Bất kỳ thái độ
hay cử chỉ nào mà chúng ta có trong lời kinh của Chúa nơi Thánh Lễ, thì chúng
ta cũng phải biết là chúng ta được hạnh phúc biết bao vì được gọi Thiên Chúa là
"Abba" cha ơi, như Chúa Giêsu đã gọi, đó là tên gọi của Người
"Abba" Cha ơi.
12. Cầu
xin hay cầu nguyện?
(Trích trong
'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một buổi sáng
kia, một cô giáo dạy vườn trẻ chưng một bình hoa thuỷ tiên thật đẹp trên chiếc
bàn đặt ở giữa phòng. Khi các em bé nhỏ thơ ngây tung tăng tiến vào phòng học,
có một em tròn xoe đôi mắt nhìn ngắm những cánh hoa màu vàng lợt và em nói với
cô giáo:
"Thưa cô, có
phải Chúa đã làm ra những bông hoa nầy không cô? Em muốn gọi điện thoại để cám
ơn Chúa đã cho chúng ta những cánh hoa đẹp như thế nầy!"
Nếu đất với trời
được nối kết với nhau bằng dây điện thoại, thiết nghĩ Thiên Chúa sẽ phải đặt ra
hai đường dây: một đường dây cho những lời cầu xin và một đường dây dành cho
những lời cám ơn. Và người ta sẽ thấy một đường điện thoại luôn luôn bận rộn,
trong khi đường dây kia thỉnh thoảng mới được dùng đến, như một chuyện ngụ ngôn
kia thuật lại như sau:
Hai thiên thần
được sai xuống trần gian, mỗi vị mang theo một chiếc giỏ. Họ chia tay nhau để
đi khắp hang cùng ngõ hẻm, đến nhà các người giàu có cũng như nhà những người
nghèo khổ, thăm các trẻ em cầu nguyện tại tư gia cũng như tất cả nam phụ lão ấu
cầu nguyện tại các nhà thờ.
Sau một thời
gian, hai thiên thần gặp nhau đúng thời điểm đã hẹn để trở về trời. Chiếc giỏ của
một thiên thần nặng như chì, còn chiếc giỏ của thiên thần kia có vẻ như đựng
toàn bông gòn.
- "Ông mang
gì mà nặng nề thế?", một thiên thần hỏi. Thiên thần mang giỏ nặng trả lời:
- "Tôi được
sai đến để thu nhận tất cả những lời cầu xin của nhân loại. Còn ông, cái giỏ
của ông xem ra nhẹ nhàng thế?"
- "À, tôi
được sai đến để góp nhặt những lời thiên hạ cám ơn Chúa vì những ơn lành Ngài
luôn ban cho họ".
Thì ra, chiếc giỏ
thu nhận lời cầu xin luôn nặng hơn chiếc giỏ thu nhận lời cám ơn. Cũng thế,
đường dây điện thoại để xin ơn thì luôn bận rộn, còn đường dây để cám ơn thì
không mấy khi có người gọi.
Phải, thưa anh
chị em, thường thì chúng ta chỉ biết cầu xin hơn là cầu nguyện. Bởi vì cầu
nguyện luôn bao gồm cả lời chúc tụng tôn vinh và cảm tạ tri ân Thiên Chúa. Hôm
nay, Chúa dạy chúng ta cầu nguyện. Cầu nguyện là thưa chuyện với Chúa như con
cái nói chuyện với cha mẹ. Cầu nguyện chủ yếu là một cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, kết
hiệp thân tình với Thiên Chúa.
Chính Chúa Giêsu
khi còn sống ở trần gian cũng đã cầu nguyện, và Ngài đã dạy các môn đệ phải cầu
nguyện luôn. Cũng chính Ngài đã đưa ra một "kinh nghiệm mẫu" mà chúng
ta gọi là "Kinh Lạy Cha" – đúng hơn là "Kinh nguyện của
Chúa" để cho chúng ta biết phải cầu xin những điều gì và cầu nguyện như
thế nào.
Vậy chúng ta phải
cầu xin những điều gì?
Nói một cách vắn
gọn, chúng ta phải cầu xin những gì phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa. Ý muốn
của Thiên Chúa trước hết là cho mọi người nhận biết Ngài là Cha của tất cả mọi
người, và trong Ngài, tất cả mọi người đều nhận ra nhau là anh em. Những gì là
chia rẽ, hận thù, bóc lột, chém giết nhau đều đi ngược lại ý muốn của Cha trên
trời. Bởi vì, làm sao có thể mở miệng gọi Thiên Chúa là Cha của chúng ta được
khi chúng ta không muốn yêu thương người khác như anh chị em của mình; và ngược
lại, khi chúng ta không nhìn nhận có một Cha chung của chúng ta ở trên trời: "Lạy
Cha, con là Đấng ngự trên trời".
Ý muốn của Thiên
Chúa còn là "cho chúng ta hôm nay lương thực hằng ngày", có nghĩa là
Thiên Chúa muốn cho mọi người trên trái đất, không phân biệt chủng tộc, màu
sau, tiếng nói đều có đủ cơm ăn áo mặc, cũng như được hưởng tiện nghi của nền
văn minh hiện đại, chứ không phải chỉ một số rất ít người chiếm hữu hết tài sản
trên thế giới, đang khi đại đa số còn lại chỉ được hưởng một phần quá nhỏ trong
cảnh lệ thuộc. Ngài cũng chẳng muốn cho một thiểu số sống xa hoa lãng phí,
trong khi đồng loại phải thiếu nhà ở, thiếu cơm bánh, áo quần, thuốc men; phải
đói khát, dốt nát, ăn xin, nằm đường xó chợ... Nói chung là thiếu những điều kiện
tối thiểu để sống cho ra con người.
Ý muốn của Thiên
Chúa còn là chúng ta phải tha thứ cho nhau, vì chính bản thân chúng ta cũng là
kẻ có tội cần được tha thứ. "Xin Cha tha tội cho chúng con như chúng con
cũng tha cho những người có lỗi với chúng con". Như vậy, cầu nguyện là
đồng hoá ý muốn của mình với ý muốn của Thiên Chúa và phải hành động để ý muốn
của Chúa được thể hiện trên mặt đất nầy: "Xin cho ý Cha thể hiện dưới đất
cũng như trên trời". Thế nhưng, chúng ta thường chỉ biết cầu xin hơn là
cầu nguyện, và có những lời cầu xin hết sức vụ lợi, ích kỷ. Chẳng hạn xin cho
"trúng tuyển, trúng số, trúng mánh...". Hoặc chúng ta chỉ nghĩ đến
Chúa khi chán nản, thất vọng, để than thở, kể lể, như bắt Chúa phải thông cảm
những nỗi ấm ức trong lòng mình. Còn gì vô lý và sai lầm hơn khi chúng ta cứ
coi Thiên Chúa như một "Thần Tài", như một "thủ kho" để xin
Ngài những nhu cầu mà đúng ra, với tự do, khối óc và hai bàn tay Chúa ban cho,
chúng ta phải tự làm lấy, tự xoay xở lấy với sự trợ giúp của Chúa và dưới ánh mắt
yêu thương của Ngài. Nếu chỉ cầu xin bằng môi miệng mà chẳng chịu làm gì cả,
thì lời cầu xin đó có khác gì những bùa chú, phù phép của hạng người mê tín dị
đoan: Xin cho có lương thực hằng ngày mà mình cứ ngồi không, hoặc nằm ngửa chờ
sung rụng, thì làm sao có lương thực được? Hoặc xin cho mọi người được ấm no
hạnh phúc, mà mình cứ áp bức, bóc lột, làm điều bất công, hay là cứ để cho
những chuyện bất công ấy lan tràn mà không chịu tranh đấu để đòi hỏi công bình,
đòi quyền sống của con người, thì làm sao có ấm no, hạnh phúc, hoà bình được?
Chính vì thái độ nầy mà nhiều khi tôn giáo bị mang tiếng là mê tín, là thuốc
phiện ru ngủ dân chúng!
Vậy, thưa anh chị
em, chúng ta phải cầu xin như thế nào?
Nếu phải cầu xin
thì chúng ta phải cầu xin một cách kiên trì với một xác tín, tin tưởng vào tình
thương của Cha trên trời, Ngài tốt lành, nhân hậu hơn cha chúng ta ở dưới đất
vô cùng. Vì người đời mà còn cho bạn bè vay mượn khi bạn bè năn nỉ, khuấy rầy,
huống chi là Thiên Chúa. Ngài là người Cha yêu thương mọi người, con cái, chắc
chắn sẽ ban cho ta điều chúng ta cầu xin: "Hãy xin, sẽ được; hãy tìm, sẽ
thấy; hãy gõ, sẽ mở". Người cha nào mà không giúp đỡ con cái khi cần
thiết, không cung cấp những điều thích hợp khi chúng đã xin. Cha là Cha nhân
từ, Ngài cũng không thể làm khác được, nhất là chẳng bao giờ cho cái gì sinh
nguy hại cho con cái. Bởi vậy, điều chúng ta xin Thiên Chúa phải là điều thích hợp,
vì Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta "bánh" chứ không cho "hòn
đá"; muốn ban "cá" chứ không cho "con rắn", muốn ban
"trứng" chứ không cho "bọ cạp". "Hãy xin thì sẽ
được", nhưng với điều kiện là xin những gì thực sự giúp đời sống thêm tốt
đẹp, tìm những gì dẫn đến ơn cứu độ, đạt đến cứu cánh tuyệt đối của con người,
đồng thời phải kết hợp giữa sự giúp đỡ của ơn Chúa với việc làm trong khả năng
Chúa đã ban cho mỗi người.
Cuối cùng, ơn đặc
biệt mà Chúa sẽ ban cho những ai xin Ngài đó là Thánh Thần, vì Thánh Thần sẽ là
Đấng cầu xin trong chúng ta, bảo đảm lời cầu xin là xác đáng, và cũng chính
Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết, vì Ngài là ơn huệ của Thiên Chúa
ban cho loài người.
Anh chị em thân
mến, phụng vụ Thánh lễ là dịp tốt nhất giúp chúng ta cầu nguyện có hiệu lực. Vì
chúng ta cầu nguyện chung với cả Giáo Hội, chúng ta cầu nguyện theo lời Chúa
truyền dạy, chúng ta cầu nguyện nhờ công ơn vô cùng của Chúa Kitô, với Người và
trong Người. Xin cho chúng ta biết cầu nguyện và xin Chúa nhận lời cầu xin của
chúng ta và của tất cả mọi người.
13. Lạy
Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện
(Trích dẫn từ
'Hãy Ra Khơi...' - Veritas)
Một giai thoại
được kể lại như sau: Một thương gia kia cần một triệu đôla để giải quyết một
việc hệ trọng, ông tới nhà thờ cầu nguyện xin cho có được số tiền đó. Tình cờ
ông quì ngay cạnh một người đàn ông, người đàn ông này cùng cầu nguyện với
những lời nhỏ nhẹ, nhưng ông thương gia kia vẫn nghe biết ông ta đang xin. Ông
cầu xin cho có được 100 đôla để trả một món nợ gấp. Vị thương gia liền rút từ
ví của mình 100 đôla và đặt vào tay người kia. Quá đỗi vui mừng, người đàn ông
đứng lên và ra khỏi nhà thờ ngay tức thì. Vị thương gia giờ đây nhắm mắt lại và
bắt đầu cầu nguyện rằng: "Lạy Chúa, giờ đây hẳn Ngài không còn phải bị
phân tâm nữa, xin hãy lắng nghe con cầu xin".
Câu chuyện của
hai người đàn ông cho chúng ta thấy điều tích cực là dù ở trong tình trạng
thang bậc nào trong xã hội họ vẫn chân thành cầu nguyện. Tuy nhiên, cách nào đó
họ đã làm nổi bật vấn đề mà bài Tin Mừng hôm nay nhắm tới, đó là cách cầu
nguyện của người Kitô hữu. Trong cả hai trường hợp, Chúa trở thành hay được coi
như là ông chủ một nhà tỷ phú. Phải chăng, đó là lối cầu nguyện và cách nhìn
phù hợp của người Kitô hữu chúng ta.
Lời các môn đệ
thưa với Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: "Thưa Thầy, xin dạy chúng
con cầu nguyện", có thể được hiểu như là một khát vọng chính đáng của biết
bao nhiêu người Kitô hữu về cách cầu nguyện. Lời đáp lại của Đức Giêsu cũng có
thể được tóm gọn trong một câu như sau: Lời cầu nguyện của người Kitô hữu phải
là lời của một người con đối với cha của mình. Ngài nói: "Khi anh em cầu
nguyện hãy nói, Lạy Cha... Nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con
cái mình của tốt, của lành phương chi Cha anh em ở trên trời..." Chúng ta
có thể thấy ngay được rằng, cầu nguyện theo Đức Giêsu là vấn đề giữa người cha
và người con. Nói cách khác, cầu nguyện là một vấn đề nội bộ trong gia đình,
đặt trên nền tảng của hiểu biết, thông cảm và yêu thương. Đức Giêsu dùng hình
ảnh người cha ở đây để tả lại hình ảnh mà người ta thường gán cho Thiên Chúa,
một ông chủ hay một ông vua, những người thường được người khác sợ hơn là mến.
Chúng ta có thể
coi Thiên Chúa như là Cha và cũng có thể coi Ngài như là Mẹ. Cả hai hình ảnh
này đều nói với chúng ta về mối tương quan dựa trên tình thương và huyết thống,
chứ không phải quyền lực hay chức vụ.
Cầu nguyện của
người Kitô hữu là tự đặt mình vào trong mối tương quan này, coi Thiên Chúa như
là Cha hoặc Mẹ, thưa chuyện với Ngài, kể chúng ta là con cái. Khi con trẻ thưa
chuyện với cha mẹ, việc quan trọng không phải là đúng cách hay sai cách, chúng
chỉ đơn thuần tập trung vào một điều là dùng tất cả lời nói, cử chỉ để diễn tả
lòng mình. Cũng vậy, trước mặt Chúa, người Cha nhân từ khi chúng ta cầu nguyện
mà công thức, thủ tục đều là chuyện thứ yếu, nếu chúng ta không muốn nói là thường.
Con cái tin tưởng rằng, cha mẹ luôn luôn làm những gì là tốt nhất cho mình.
Lời Chúa trong
bài Tin Mừng hôm nay cũng nói: "Ai trong anh em là một người cha mà khi
con xin cá thay vì cá lại lấy con rắn mà cho nó, hoặc nó xin trứng lại cho nó
con bọ cạp". Cũng vậy, con cái Thiên Chúa đến với Ngài với thái độ tin
tưởng, hy vọng, biết rằng Ngài sẽ dành cho họ tất cả những gì là tốt nhất.
Khi nói về cầu
nguyện, chúng ta cũng cần nhìn tới về một khía cạnh khác, đó là sự kiên trì,
giống như người bạn lúc nửa đêm trong bài Tin Mừng. Con cái chẳng lấy gì chấp
nhận câu trả lời không, nếu cha mẹ có trả lời là không thì điều chắc chắn là
ngày hôm sau và có thể hôm sau, hôm sau nữa chúng vẫn trở lại với cùng một điều
xin.
Đức Giêsu dạy
chúng ta, con cái của Thiên Chúa cần phải biết kiên trì trong cầu nguyện. Coi
cầu nguyện như là việc giữa cha và con, điều này cũng nhắc cho chúng ta biết
cầu nguyện là một hành vi phát xuất từ một mối tương quan. Chúng ta có thể coi
việc cầu nguyện tốt hơn, nhưng chúng ta cũng có thể trở thành những con người
tốt hơn của cầu nguyện, khi mối tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa trở nên
thân mật gần gũi hơn như là một mối liên hệ giữa cha và con.
Vậy, nếu anh chị
em muốn cải thiện việc cầu nguyện của mình, hãy tập trung vào mối tương quan
thân mật giữa cha và con, giữa Thiên Chúa và con cái.
14. Hãy
xin, hãy tìm, hãy gõ – McCarthy
Suy Niệm 1. KINH
LẠY CHA
Kinh Lạy Cha là
kinh đầu tiên và cao trọng nhất trong các kinh nguyện Kitô giáo (Tôi đang nghĩ
đến bản kinh của Thánh Mát thêu). Những câu ngắn gọn và đơn giản của nó bao hàm
mọi tương quan giữa chúng ta và Thiên Chúa. Nó không chỉ nói với chúng ta phải
cầu nguyện điều gì mà còn cầu nguyện điều ấy như thế nào.
Tuy nhiên, người
ta có xu hướng đọc kinh ấy quá vội vàng và thiếu suy gẫm đến nỗi làm mất ý
nghĩa của nó. Đó là một điều đáng tiếc. Bởi vì, hiểu một cách chính xác, Kinh
Lạy Cha chứa đựng trong đó, chúng ta sẽ trở nên hoàn hảo theo tinh thần của của
Đức Kitô, bởi vì không chút nghi ngờ đây là cách mà chính Người đã cầu nguyện
và đã sống.
Phần đầu tiên đề
cập đến Thiên Chúa.
Chúng ta bắt đầu
sự hiểu biết hiện hữu của Thiên Chúa, và gọi Người là Cha. Thiên Chúa là cội
nguồn của chúng ta và chúng ta là con cái của Người. Một đôi khi, Người hành
động như một người cha, và một đôi khi như một người mẹ.
Kế đó chúng ta ca
tụng danh Người. Bằng việc ca tụng danh Người, chúng ta cầu nguyện chính Người.
Chúng ta cầu
nguyện cho Nước của Người mau đến – một vương quốc của sự thật và sự sống, sự
thánh thiện và ân sủng, công lý, tình yêu và hoà bình. Chúng ta đóng góp phần
mình để làm cho vương quốc của Người thành hiện thực.
Chúng ta cầu
nguyện để ý muốn của Người được thực hiện trên mặt đất. "Trên mặt
đất" cũng có nghĩa là trong đời sống của chúng ta. Ý muốn của Thiên Chúa
không phải lúc nào cũng là điều dễ làm nhất, nhưng nó luôn luôn là điều tốt
nhất.
Phần thứ hai đề
cập đến chúng ta và các nhu cầu của chúng ta.
Chúng ta bắt đầu
bằng công việc cầu xin lương thực hàng ngày. "Lương thực" thay cho
mọi nhu cầu vật chất. Tuy nhiên, mọi nhu cầu thật cần thiết của chúng ta có đủ
cho ngày hôm nay.
Chúng ta cầu xin
tha thứ các tội lỗi của chúng ta, và xin ơn có thể tha thứ cho người khác đã
phạm tội chống lại chúng ta. Không thể tha thứ cho người khác sẽ không thể nhận
được sự tha thứ của Thiên Chúa.
Chúng ta cầu xin
không sa chước cám dỗ. Thiên Chúa không đặt sự cám dỗ trong đường lối của chúng
ta nhưng cuộc đời làm điều ấy. Và chính chúng ta đôi lúc bước vào cám dỗ với sự
đồng tình. Chúng ta xin Thiên Chúa giúp chúng ta đương đầu với sự cám dỗ tự ý
đến với chúng ta, và tránh xa những cám dỗ mà chính chúng ta chọn lựa.
Sau cùng, chúng
ta cầu xin được cứu khỏi mọi sự dữ, cả sự dữ vật chất lẫn tinh thần. Chúng ta
không mong bao giờ gặp sự dữ. Điều mà chúng ta cầu xin Thiên Chúa là có được ân
sủng chiến thắng mọi sự dữ, đặc biệt là sự dữ tinh thần.
Hãy ghi nhận rằng
toàn bộ kinh Lạy Cha được diễn tả bằng từ ngữ ở số nhiều. Điều ấy cho thấy
chúng ta là một gia đình dưới quyền Thiên Chúa, và do đó không thể có sự cứu
chuộc chúng ta độc lập với sự cứu chuộc những người khác.
Suy Niệm 2. KHÔNG
TRỪNG PHẠT NGƯỜI VÔ TỘI
Hình ảnh của
Abraham mặc cả với Thiên Chúa mặc cả với Thiên Chúa để cứu Xơđôm và Gômora là
hình ảnh hấp dẫn. Ý tưởng chúng ta bắt gặp ở đây là Thiên Chúa sẽ không trừng
phạt một số đông người tội lỗi nếu đồng thời một số ít người công chính cũng bị
trừng phạt. Chúng ta thường có thái độ hoàn toàn trái ngược. Chúng ta rất muốn
trừng phạt một số đông người vô tội cùng với một số ít người có tội cũng bị
phạt. Hãy lấy một ít ví dụ.
Khi các chính phủ
đánh quân du kích, người ta không ngần ngại tiêu diệt cả một ngôi làng gồm đàn
ông, đàn bà và trẻ con. Điều đó đã xảy ra ở Việt Nam, ở Achentina (trong suốt
những cuộc chiến tranh được gọi là "chiến tranh bẩn thỉu") và ở nhiều
nơi khác. Các quân du kích cũng không ngần ngại sử dụng chiến thuật tương tự.
Một đôi khi sự
việc tương tự có thể xảy ra trong trường học. Thầy giáo ra khỏi lớp một phút.
Khi ông trở lại lớp học, ông thấy cái ghế đã bị bẻ gãy. Thuyết phục hoặc đe doạ
cũng vô ích, kẻ tội phạm không thú nhận, những học sinh khác không nói tên thủ
phạm. Thế là thầy giáo phạt cả lớp. Cả lớp phải ở lại sau giờ học.
Cũng sự việc ấy
xảy ra ở nhà. Một vài đồ vật bị ngã đổ vương vãi khi bà mẹ vừa quay lưng đi.
Không một ai thú nhận. Vậy tất cả con cái bị trừng phạt. Không được xem tivi
buổi tối.
Điều đó có xu
hướng trở thành phương thế đầu tiên của chúng ta, và chúng ta coi đó là rất
khôn ngoan và công bằng. Nhưng có phải như vậy không? Trừng phạt chín mươi chín
người vô tội chỉ vì một người có tội như vậy có đúng không? Dĩ nhiên là không.
Điều đó là bất công. Bị trừng phạt vì một điều mà bạn không làm thật là khủng
khiếp. Nó để lại trong lòng bạn một cảm giác vô cùng cay đắng.
Dù có vẻ hấp dẫn,
đó không phải là một giải pháp của Kitô giáo cũng không phải là một giải pháp
nhân bản. Thiên Chúa không bao giờ dùng phương thế đó. Bài đọc 1 nói với chúng
ta điều đó. Đức Giêsu cũng dạy chúng ta bài học ấy trong dụ ngôn lúa mì và cỏ
lùng. Người gieo hạt sẽ không nhổ những chùm cỏ lùng vì như thế sẽ làm lúa mì
cũng bật rễ.
Vấn đề quan trọng
nhất trong thời đại chúng ta là làm thế nào vượt qua điều ác mà không gây thêm
điều ác. Người ta phải kháng cự điều ác. Nhưng chúng ta phải làm cách nào để
trong quá trình đó, chúng ta không gây ra thêm điều ác. Điều ác không thể bị
vượt qua bằng điều ác, mà chỉ bị vượt qua bằng điều thiện.
15. Suy
niệm của R. Gutzwiller
LẠY CHA CHÚNG CON
(11, 1-4)
Khác hẳn với cô
Matta, Maria nhận ra rằng phải có những khoảnh khắc đặc biệt dành riêng để lắng
nghe Chúa nói và thân thưa với Ngài. Đó là thời giờ cầu nguyện. Ở đây, ta thấy
Đức Giêsu giảng giải cách thực hành về chủ đề ấy.
Trong Tin mừng
theo Th. Mathêu, chủ đề ấy đặt liền với bài giảng trên núi; Thực tế chúng ta
không biết Chúa đã dạy kinh Lạy Cha vào lúc nào, nhưng điểm đó không quan trọng
cho lắm, điểm cốt yếu chắc hẳn phải là chính nội dung nòng cốt của Kinh Lạy Cha.
Kinh Lạy Cha được
Thánh Luca ghi lại đơn giản, vắn tắt hơn nơi Th. Mathêu. Nơi Thánh Luca, lời
cầu xin thứ ba và thứ bảy không có. Dĩ nhiên thánh ký phải nhận rằng, khi hoàn
tất cả hai phần của kinh đó, thì hai lời cầu xin bị bỏ kia đều ngậm thực sự
trong những lời cầu xin trên. Khi ghi lại kinh lạy Cha, thánh sử cố tìm sự đơn
giản tối đa; nên chúng ta càng phải tìm hiểu những ý tưởng cô đọng ấy, những ý
tưởng tập trung, ẩn tàng dưới vẻ ngắn gọn của những lời cầu xin này.
'Chúng con nguyện
danh Cha cả sáng'.
Đây không phải là
một yêu sách, một quyết ý mà chỉ là một lời cầu xin. Thiên Chúa phải làm cho
danh Ngài cả sáng tức là làm cho loài người nhận rõ sự thánh thiện của Ngài hơn
nữa và khiến cho sự thánh thiện ấy chiếu tỏ rạng ngời.
Mọi cái thuộc về
nhân loại và trần thế phải được Thiên Chúa chiếu sáng. Vĩnh cửu soi rọi cho tạm
bợ, hằng hữu cho mau qua, bất biến thay cho biến đổi. Trời cao sẽ thống trị
trái đất, tuyệt đối sẽ làm chủ tương đối, tất yếu sẽ đứng trên bất tất, con
người tự do thay cho phận nô lệ, thánh nhân thế chỗ tội nhân, người thanh sạch
thế kẻ nhơ uế, người được thương xót thế tội phạm; nhất là những gì còn bấp
bênh và không bền vững sẽ được thay thế bằng cái kiên vững tối hảo, những gì là
bất an sẽ được thay thế bằng bình an rất mực, hạn hữu sẽ được thay thế bằng vô
biên.
Danh Ngài và qua
Danh Ngài là chính Ngài tỏ hiện rõ ràng nơi Đức Giêsu Kitô. Chúa Con là mặc
khải của Chúa Cha. Danh tánh Đức Giêsu có nghĩa là: Đức-Giavê là nguồn cứu độ.
Như thế có nghĩa: nhờ Đức Giêsu, danh Thiên Chúa cứu độ và thánh hoá được loan
truyền.
Thiên Chúa là Đức
Chúa. Đức Giêsu nhận biết điều ấy trong một cuộc đời luôn vâng phục hoàn toàn,
vâng phục Ngài như bậc Thầy Tối cao và lại công bố như thế cho loài người tệ
bạc. Đức Giêsu đã sống trong tình yêu Cha mình và đã chứng tỏ cho mọi người
biết Thiên Chúa là tình yêu.
Do đó, lời cầu
xin 'cho Danh Cha được hiển thánh' trên môi Ngài phải có một âm vang đặc biệt.
'Nước Cha trị đến'.
Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này hàm ẩn cả lời nguyện xin thứ ba: 'Ý Cha
được thể hiện'. Như vậy, Nước Cha được hình dung là vương quyền tối cao của
Thiên Chúa; nên ý Cha phải được thể hiện khắp mọi nơi, vì ý Cha là khôn ngoan
và yêu thương. Nơi nào ý Cha chủ trị, thị mọi sự đều ổn thoả theo sự khôn ngoan
Ngài và tràn ngập tình yêu Ngài.
Đó là một vương
quốc hoà bình, vì hoà bình chẳng qua là yên hàn trong trật tự. Và đó là một
vương quốc tình thương vì quyền uy và thế lực tối cao không phải chiếm được
bằng bạo lực nhưng là bằng sự nhận biết cách vui vẻ. Mỗi một việc phục vụ –khi
nhắm phục vụ Thiên Chúa- đều hoàn thành với sự tự do vương giả.
Và theo lối nói
xưa của sách Khải Huyền, tất cả những ai thuộc về vương quốc của Thiên Chúa,
đều là những vị hoàng vương tư tế, những vị tư tế (hoàng vương).
Nước Thiên Chúa
là ước mơ cao nhất của nhân loại, là sự thể hiện mọi lý tưởng, vượt quá mọi thế
lực chính trị, xã hội và Kinh tế. Nhưng sự hiểu thánh danh Thiên Chúa cách trọn
vẹn và việc thiết lập vững bền Nước Thiên Chúa là những giá trị có tính cách
cánh chung. Những giá trị này chỉ thành toàn khi Chúa lại đến, khi bản tính
Thiên Chúa tỏ hiện rõ ràng trong vinh quang Ngài và khi Nước Thiên Chúa đạt đến
sự viên mãn.
'Xin cho chúng
con lương thực hằng ngày'. Giữa hai lời nguyện xin về bản tính 'siêu nhiên' của
chính Bản thể Thiên Chúa về nước Thiên Chúa và hai lời nguyện xin sau nói về
'hạ nhiên' (infra naturel) (tội và cám dỗ), là một lời cầu xin về lương thực
xét trên bình diện hoàn toàn có tính cách phàm nhân. Bánh được coi là thứ lương
thực hàng đầu trong số những thực phẩm trần thế. Con người, vì là Con Thiên
Chúa, không thể bị cơn đói dằn vặt và cũng không được sống trong sự quá dư
thừa. Do đó cũng cần phải xin Cha cho được lương thực cần thiết mỗi ngày. Một
khi con người cứ phải đương đầu với cơn đói, thì hẳn là chẳng còn hơi sức đâu, thời
gian nào để nghĩ tưởng đến những thực tại trên cao.
Con người có thể
liều mình sa vào hố thất vọng và có nguy cơ tráo trở với Thiên Chúa. Nhưng nếu
con người đắm chìm trong của ăn thức uống, thì cái bản ngã tuyệt hảo của hắn sẽ
chết ngạt trong chủ nghĩa tôn thờ vật chất. Con người sẽ héo hắt vì thiếu của
ăn áo mặc, đang khi đó sự dư thừa lại cản ngăn con người sống tự do về mặt
thiêng liêng. Giữa hai thái cực đói kém và dư thừa, một chỗ đứng thích hợp nhất
phải là sự điều hoà cân xứng và chỉ có như vậy, con người mới có thể sống đạo
đức được.
Đó là lý do tại
sao lại có lời nguyện xin này, một lời cầu đề cập đến sự an toàn trong khuôn
khổ và không gian, thuộc về trần thế và trong môi trường.
Lời cầu nguyện ấy
cũng có thể bao hàm một ý nghĩa bao quát hơn, thuộc lãnh vực tinh thần. Lời
Thiên Chúa trở nên lương thực nuôi tâm hồn, nên của ăn tinh thần. Con người
khẩn cầu Thiên Chúa ban cho Lời hằng sống ấy. Con người xin Thiên Chúa ngỏ lời
với thụ tạo và con người xin cho mình cũng hiểu được lời đáng nghe của Thiên
Chúa phát ra tự đáy lòng, thứ lời đã được ghi chép trong Thánh kinh và con
người xin cho được sống bằng lời ấy. Bởi vì 'con người không chỉ sống bằng cơm
bánh, nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra' (Mt 4,4)
Bánh còn có nghĩa
về mầu nhiệm Thánh Thể 'Bánh Ta sẽ ban chính là thịt Ta để cho thế gian được
sống'. Con người rất cần thứ bánh nhiệm mầu ấy để khỏi bị chết ngạt bởi những
lo âu về kinh tế.
Sau hết, Bánh đây
chính là Đức Kitô. 'Ta là Bánh sự sống'. Bởi thế, lời cầu xin này tuy phát xuất
do những nhu cầu thiêng liêng và siêu nhiên, để rồi sau cùng lại gán cho chính
Chúa.
Nó là giả thiết
một thần học về bánh, bởi vì với nhãn quan người Kitô hữu, mọi sự đều được
thánh hiến và thánh hoá cách đạo hạnh.
'Xin tha nợ chúng
con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con'. Trước Thiên Chúa, con người là
kẻ mắc nợ. Đối với người đạo đức, tội lỗi là một gánh nặng chèn ép họ. Nó làm
cho họ phải xa rời Thiên Chúa, dựng lên một bức tường ngăn cách họ với Thiên
Chúa, phá huỷ những mảnh vườn đầy hoa tươi nở, làm tan hoang bình địa mọi công
trình xây dựng.
Tội khiến đời
sống trở nên mù tối, và làm cho con người nên như trò cười đáng mỉa mai. Hình
ảnh Thiên Chúa bị bôi nhọ và đền thánh bị tục hoá. 'Ích gì cho con người chiếm
được cả thế giới mà để mất linh hồn'. Dĩ nhiên, tội làm thương tổn linh hồn, tệ
hơn nữa, nó còn làm mất đời sống siêu nhiên mà Thiên Chúa ban cho con người, và
như thế, tội còn làm cho con người không được dự phần vào chính Thiên Chúa. Tội
phá huỷ mọi niềm hy vọng vĩnh cửu, tội ngăn chặn mọi nẻo đường dẫn đến tương
lai.
Và vì thế, lời
cầu xin tha thứ là một lời khẩn cầu cấp bách. Những ai đã được tha thứ, thì
chính mình cũng phải biết thứ tha. Đã hưởng lòng Chúa xót thương, con người
không thể cứng lòng với tha nhân. Kẻ có nợ được chủ nợ tha cho hoàn toàn, thì
chính kẻ ấy cũng không thể là một chủ nợ nghiêm khắc.
Ở đây lời nguyện
xin trở thành một yêu sách, một đòi hỏi.
'Chớ để chúng tôi
sa chước cám dỗ'. Theo Thánh Luca, lời nguyện xin này bao gồm cả lời nguyện xin
giải thoát khỏi sự dữ và Satan. Cơn cám dỗ là con đường của vực thẳm, là lối đi
dẫn tới hoả ngục,là khu vực của quỉ ma, là sự gần kề đầy doạ nạt của địa ngục,
của những bóng đen ghê rợn quái ác luôn rình mò lượn quanh con người.
Ân sủng là khí
giới, là sự bảo đảm chở che... Ánh sáng từ trời xuống đánh tan những bóng tối
dữ tợn. Và tiếng nói từ trên cao càng vang dội mạnh bao nhiêu, thì tiếng gầm
thét của vực thẳm càng cố vươn lên bấy nhiêu. Chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới gìn
giữ canh chừng con người thoát khỏi rơi vào nguy hiểm, vào vực thẳm. Chỉ nơi
Ngài, đời sống đầy chông gai thách thức mới tìm được sự an toàn đảm bảo.
Như vậy, theo
Thánh Luca, năm lời cầu xin cấu thành một toàn bộ trọn vẹn, ôm lấy hết toàn thể
đời sống con người, đang bị phân rẽ giữa hạ giới và thiên thượng, giữa thiện và
ác, giữa ánh sáng và tăm tối, giữa sự sống và sự chết.
Đó là giải pháp
mà Chúa Giêsu trả lời cho môn đệ khi họ xin. 'Lạy Thầy, xin dậy chúng con cầu
nguyện'.
Cầu nguyện là một
việc mà con người khó thực hiện. Vì thế phải luyện tập. Chính Thánh Gioan Tẩy
giả đã dạy các đồ đệ cầu nguyện. Nhưng Giáo huấn của Chúa Kitô thật khác lạ;
Chỉ bằng vài lời, đã nói lên được tất cả, một sự sung mãn phong phú qui kết vào
5 lời nguyện xin chi phối toàn bộ đời sống và hướng về Thiên Chúa Duy Nhất, là
Cha hết mọi người.
CẦU NGUYỆN THỰC
SỰ (11, 5-13)
Trong việc dạy họ
cầu nguyện, Đức Giêsu đã nói lên cái 'cốt cách' của việc cầu nguyện, bằng cách
nhấn mạnh những đặc tính hết sức quan trọng, là sự kiên trì và tín thác.
1. Kiên trì
Dụ ngôn sau đây
tỏ rõ cho thấy thế nào là kiên trì. Đây là một vài nét chính: một người kia,
bổn tính không hay giúp đỡ nhưng sau cùng phải thua tính cố nài nẵng của người
xin.
Lòng kiên tâm cầu
nguyện cho thấy hoàn cảnh chung quanh cũng phải tuỳ thuộc và như là một chủ đề
cốt tuỷ. Một người Cha trong một gia đình kia, giữa đêm trường, đang ngủ yên,
cửa đóng then cài, lối vào cũng đầy những đồ đạc lỉnh kỉnh; ở gian trong, cả
nhà ngon giấc, hết thảy, chồng, vợ, con cái đều yên giấc. Nếu phải mở cửa, ông
phải chỗi dậy, khó nhọc lắm mới thắp nổi ngọn đèn ở dưới đấu và đặt trên giá
đèn, không khéo lại va vào chân đám trẻ, lấy bánh ra, mở then, mở chốt, đẩy cửa
kẽo kẹt,.... Nói tắt rằng, ai nấy đều bị thức giấc, và mọi cái đều lộn xộn xáo
trộn.
Như thế, ta hiểu
ngay lý do tại sao ông ta từ chối. Tuy nhiên, mọi trở ngại đều bị thắng vượt,
không còn nghĩ tới nghĩ lui gì nữa, chỉ còn lo sao để thoả mãn người ăn xin
đang quấy nhiễu nài nỉ luôn miệng không thôi. Áp dụng vào thật quá rõ. Người
van xin phải nài nỉ không biết mệt mỏi: có như thế mới được điều mình xin, cửa
sẽ mở cho vào, tìm thì sẽ thấy.
Tuy nhiên, một
vấn nạn khiến ta lo ngại: Tại sao Thiên Chúa lại để cho con người phải đợi chờ?
Chỉ cần Ngài nhận lời là mọi trở ngại sẽ mất đi, không còn quấy nhiễu gì nữa...
Có thể giải đáp
thế này: không thể đổ lỗi kỳ hạn cho Thiên Chúa, như trong dụ ngôn người cha nọ
cứ để cho người xin kia phải chờ đợi cho đến khi ông ta sẵn lòng. Ở đây hẳn là
không như thế, việc nhận lời có bị trì hoãn là do chính người xin, chính ông
này phải biết gia tăng cầu nguyện ráo riết hơn nữa. Khẩn cầu liên lỉ liên kết
người ấy với Thiên Chúa cách khắng khít hơn, khiến họ phải ý thức hơn về tình
trạng bất lực riêng mình, nhận rõ hơn việc phải hiến thân trọn vẹn cho Thiên
Chúa và do đó, sau khi Ngài nhận lời, người ấy sẽ nhận biết Ngài.
Việc dạy cầu
nguyện bao hàm thái độ chờ đợi kiên nhẫn ấy. Chờ đợi hẳn là một đặc ân của con
người. Không nên đánh giá tôn giáo như làm một việc lạ lùng, và cũng không nên
coi cầu nguyện van xin như một thứ nút điện đơn giản cứ ấn xuống là được. Mà là
một hành vi của ngôi vị, một sự đi sâu đầy khí lực của một thái độ trước Thiên
Chúa, chiêm ngắm Ngài, tâm sự với Ngài và vươn tới Ngài.
Bởi thế, lời cầu
xin -kiên trì cầu xin- phải mang một dấu hiệu nói lên ý nghĩa đạo đức đích thực.
2. Tín thác
Cái lối lý luận
trên được thực hiện theo kiểu 'huống nữa là...' một kiểu so sánh từ cái nhỏ đến
cái lớn (a minore ad majorem). Con người vốn hẹp hòi và tầm thường. Đức Giêsu
quả quyết điều này: 'Vậy nếu các ngươi là những kẻ ác...' Tuy con người thật đê
tiện, hẹp hòi, vụ lợi, và cứng lòng mà còn không chối từ, lời của người van
xin, nhất nữa lại là con mình, xin bánh, cá hay trứng. Giống vật cũng chẳng làm
như vậy khi cho con cái đang đói hòn đá, rắn độc hay bò cạp. Vậy nếu điều ấy
khó coi đối với con người, vốn tính xấu xa, thì đối với Thiên Chúa nói làm sao
đây!.
Thiên Chúa không
ác độc xấu xa, nhưng đầy thiện hảo tốt lành; Ngài không hẹp hòi tư kỷ, nhưng
hay thương xót. Ngài không nghiêm khắc cứng cỏi, song hiền từ lân tuất, thì
Ngài càng phải nhận lời nhân loại kêu xin gấp bội phần.
Nhưng lại một vấn
nạn đặt ra cho chúng ta: kinh nghiệm cho ta thấy một điều trái nghịch. Vì dù
con người vẫn luôn kiên trì cầu nguyện và luôn tín thác, mà họ vẫn phải thất
vọng –và thực sự thất vọng hoàn toàn!- Vì trong cuộc sống họ thấy những hy vọng
được nhận lời đã tan theo mây khói: điều người ta mong tồn tại thì lại tiêu
tan, cái người ta mong thành đạt thì không được thoả mãn.
Đức Giêsu trả lời
như sau khiến ta khó có thể lãnh hội ý nghĩa: 'Huống hồ Cha các ngươi tự trời,
Người sẽ ban Thánh Thần cho những ai xin Người'. Ở đây ta lại gặp cái lối lý
luận 'huống nữa là...'.
Chúng ta thường
xin với những ý định tầm thường quá: nào là nhu cầu thể xác, nào là mục tiêu
vật chất, của cải phù vân, thậm chí còn xin cả những cái gây lầm lạc cho mình
nữa.
Thiên Chúa thoả
mãn ta bằng những điều thiện hảo rất cao quý; Ngài ban Thánh Thần cho ta, mà
Thánh Thần Thánh hoá nội tâm. Bởi vậy, không có lời cầu xin nào bị bỏ qua mà
không được nhận lời. Ta chẳng thể nhìn thấy việc Ngài nhận lời ta, như Thánh
Thần thánh hoá làm sao ta thấy được.
Thực ra, khi con
người nhận lấy Thánh Thần thì nhận được những sự phong phú rất cao quý chứ
không phải chỉ những của cải vật chất. Vì vậy, càng cầu xin kiên trì và tín
thác bao nhiêu, thì càng chất chứa đầy Thánh Thần nơi tâm hồn bấy nhiêu.
Bởi vậy hai yếu
tố hoà trộn mật thiết với nhau khi cầu nguyện phải là: kiên trì và tín thác.
Với hai yếu tố ấy, con người được tràn đầy Thiên Chúa, luôn thêm mãi và sâu đậm
hơn. Đó mới là điều thiện hảo tối cao Thiên Chúa ban cho con người và con người
nhận được cách rõ rệt.
Chúng ta không
được mệt mỏi trong việc kiếm tìm, nguyện xin và gõ cửa. Và chúng ta cũng sẽ
không hề biết mỏi mệt khi chúng ta hiểu được điều từ miệng Đức Giêsu thốt ra
trong giờ phút sau cùng: chúng ta thuộc về Chúa.
16. Cầu
nguyện
Người Hồi giáo
nói về sự sốt sắng cầu nguyện bằng một câu chuyện như sau:
Có một ông vua vào
rừng săn bắn. Chiều xuống, khi tới giờ cầu nguyện, ông trải tấm thảm trên mặt
đất, rồi hướng về phía tây và phủ phục cầu nguyện theo cung cách của người Hồi
giáo.
Giữa lúc ông đang
chìm đắm trong sự cầu nguyện, thì có một người đàn bà hối hả chạy vào rừng. Số
là chồng bà đã ra đi từ sáng sớm mà đến giờ này vẫn chưa thấy trở về. Bà ta sợ
có điều chi không lành xảy đến cho chồng nên vội chạy vào rừng để tìm kiếm.
Trong cơn hốt hoảng, bà ta không nhìn thấy có người đang phủ phục cầu nguyện.
Bà bước qua người ấy mà không hề hối hận để nói lên lời xin lỗi.
Nhà vua cảm thấy
bị xúc phạm nặng nề, nhưng ông cũng gắng gượng để tiếp tục cầu nguyện theo đúng
luật dạy. Khi ông cầu nguyện xong thì người đàn bà cũng trở lại chỗ cũ, cười
nói vui vẻ bên cạnh ông chồng. Bà cuống quýt khi nhận ra rằng người mà bà đã
bước qua trong cơn hốt hoảng chính là nhà vua. Nhà vua cho gọi người đàn bà đến
và ra lệnh trị tội vì đã tỏ ra bất kính đối với ông.
Thế nhưng, không
một chút sợ hãi, bà đã nói như sau:
- Tâu bệ hạ, thần
bị cuốn hút trong sự suy nghĩ về người chồng đến độ đã không nhìn thấy bệ hạ,
nên đã bước qua. Hạ thần nghĩ rằng, bệ hạ đang cầu nguyện, thì tâm trí của bệ
hạ cũng phải cuốn hút trong sự suy nghĩ về Thượng đế, lẽ nào bệ hạ còn lòng trí
biết đến hạ thần và những cử chỉ nhỏ nhoi của hạ thần.
Nhà vua lấy làm
xấu hổ vì sự việc xảy ra. Ông nhìn nhận rằng: Tuy không phải là một bậc thầy
trong đạo, nhưng người đàn bà này đã dạy cho ông về sự chuyên tâm trong việc
cầu nguyện.
Trong giây phút
này, khi đến nhà thờ cầu nguyện và dâng thánh lễ, có lẽ chúng ta cũng hành động
như ông vua, có nghĩa là chúng ta chưa cuốn hút vào trong tâm tình cầu nguyện.
Xác chúng ta ở trong nhà thờ, nhưng tâm hồn chúng ta còn phiêu bạt tận đâu đâu.
Một tiếng động nhỏ ở bên ngoài cũng đủ làm cho chúng ta chia trí. Rồi thì trong
đầu óc, chúng ta mơ tưởng, chúng ta nghĩ đến hết chuyện này tới chuyện kia. Ấy
là tôi chưa nói tới những người cố tình nói chuyện, chọc phá, nô giỡn, chẳng để
tâm vào sự cầu nguyện một chút nào.
Giả sử như có một
vị khách quí tới thăm nhà. Thế nhưng mọi người trong nhà đều bận rộn chuyện này
chuyện kia, chẳng ai nói được một lời với vị khách quí ấy? Chúng ta nghĩ thế
nào về thái độ này. Theo tôi, thì đó là một thái độ thiếu tế nhị, thiếu lịch
sự, và chắc chắn sẽ làm cho vị khách quí buồn lòng.
Thế nhưng đối với
Chúa, chúng ta lại thường xuyên cư xử như thế. Chúng ta tham dự thánh lễ, hay
đọc kinh cầu nguyện cho qua lần đoạn lượt, mà chẳng có một chút tâm tình bên
trong. Chính vì thế, chúng ta hãy xin lỗi Chúa vì sự khô khan nguội lạnh, vì sự
thờ ơ sao lãng của chúng ta.
Đồng thời, như
các môn đệ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện và
nhất là xin Chúa dạy cho chúng ta biết cầu nguyện một cách chuyên tâm và sốt
sắng.
17. Cầu
nguyện
Khi các môn đệ
đến với Thầy với lời kêu xin: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện,
thì các ông đã được ở với Đức Giêsu trong trường cầu nguyện một thời gian rồi,
các ông đã cảm kích vì những bài học cụ thể giá trị nhất, ấy là tấm gương của
chính Đấng Kitô. Nếu tâm trí của chúng ta từng nổi lên nhiều hoài nghi về thực
tế và hiệu năng của lời cầu nguyện, chúng ta chỉ cần quay về với sách Tin Mừng
của thánh Luca để được nhắc nhở rằng Chúa Giêsu đã dành nhiều thời giờ để cầu
nguyện, và Ngài cầu nguyện ở mỗi biến động của đời sống Ngài. Chắc chắn chúng
ta không lạc được khi theo bước chân Ngài.
Tuy nhiên, điều
các môn đệ muốn có là một công thức cầu nguyện đặc biệt, như Gioan Tẩy Giả hình
như có cho các người theo ông. Chúa Giêsu đáp ứng lời cầu xin ấy và ban cho các
ông một kiểu mẫu độc nhất vô nhị, rồi khích lệ với lời hứa bảo đảm rằng lời cầu
nguyện sẽ được nghe. Bài cầu nguyện được Lu-ca ghi lại có ngắn hơn của Mát-thêu
nhưng cũng chứa đủ những điều mà chúng ta cần biết phải cầu nguyện thế nào và
phải cầu nguyện những gì.
Lời cầu nguyện
bắt đầu bằng xưng nhận Thiên Chúa là Cha. Đó là đặc tính của mọi lời Kitô hữu
thưa với Chúa. Chính lời đầu tiên dạy chúng ta rằng, trong khi cầu nguyện chúng
ta không đến với một Đấng phải miễn cưỡng ban ơn cho chúng ta, nhưng đến với
một Cha hằng vui thích làm thoả mãn mọi nhu cầu của con cái Ngài.
Trong tiếng Do
Thái, chữ "tên" hay "danh" có ý nghĩa sâu sắc hơn là tên
gọi của một người. Chữ "danh" gồm tất cả các đặc tính của người mà chúng
ta quen biết. Thánh vịnh 9, 11 nói: "Người nhận biết thánh danh, sẽ một
niềm tin cậy." Câu đó có ý nghĩa sâu sắc hơn chứ không chỉ biết tên Thiên
Chúa Gia-vê. Nó có nghĩa là người nào thấu hiểu được tư tưởng, ý muốn và tấm
lòng của Thiên Chúa sẽ vui lòng đặt hết niềm tin cậy vào Ngài.
Chúng ta nên chú
ý đặc biệt đến thứ tự các lời cầu nguyện Chúa Giêsu dạy trước khi cầu xin bất
cứ điều gì cho chính mình, chúng ta phải đặt Thiên Chúa, sự vinh hiển và tôn
trọng của Ngài lên hàng đầu. Chỉ sau khi dành cho Chúa chỗ của Ngài, bấy giờ
các điều khác mới có chỗ xứng hợp.
Bài cầu nguyện
bao quát cả cuộc đời.
- Nó bao hàm các
nhu cầu hiện tại. Chúa Giêsu dạy chúng ta cầu xin vật thực cho chúng ta mỗi
ngày. Nên nhớ bánh đủ ăn từng ngày là điều chúng ta cầu xin. Điều này nhắc lại
câu chuyện về Man-na trong sa mạc. Dân Chúa chỉ được lượm Man-na đủ ăn trong
một ngày mà thôi. Chúng ta đừng lo cho một tương lai không rõ, nhưng ngày nào
lo cho ngày ấy.
- Nó bao hàm tội
lỗi đã qua. Khi cầu nguyện chúng ta không thể làm gì hơn là xin ơn tha thứ, vì
dù con người tốt nhất trong chúng ta cũng chỉ là một tội nhân trước sự thánh
thiện của Thiên Chúa.
- Nó bao trùm các
thử thách trong tương lai. Từ ngữ "cám dỗ" trong Tân Ước có nghĩa là
bất cứ hoàn cảnh thử thách nào. Nó không chỉ có nghĩa là quyến rũ phạm tội mà
còn bao gồm mọi hoàn cảnh khiến con người bị thử thách về đức độ, thanh liêm,
lòng tín trung. Chúng ta không thể trốn tránh những hoàn cảnh đó, nhưng chúng
ta có thể thắng nó nhờ ơn Chúa ban. Có người nhận định rất đúng rằng: Bài cầu
nguyện Chúa Giêsu dạy – mà chúng ta gọi là kinh Lạy Cha – có hai ích lợi lớn
cho giờ cầu nguyện của chúng ta. Nếu chúng ta dùng để bắt đầu giờ cầu nguyện
thì nó khơi dậy những ước muốn tốt đẹp giúp chúng ta biết cầu nguyện cho xứng đáng.
Nếu chúng ta dùng để kết thúc giờ cầu nguyện thì nó tóm tắt mọi điều chúng ta
phải cầu xin trước mặt Thiên Chúa.
Để khuyến khích
các môn đệ trong những lời khẩn cầu ấy Ngài kể cho họ nghe câu chuyện về một
người kêu xin không ngừng, hầu như là lì lợm nên đã được ban cho bánh cần dùng.
Trong xứ Pa-lét-tin, khách bộ hành thường lên đường vào buổi chiều hầu tránh
cái nóng bức của buổi trưa. Trong câu chuyện Chúa Giêsu kể, có một người khách
như vậy đã tới nhà bạn mình lúc nửa đêm. Bên Đông phương tiếp khách là bổn phận
thiêng liêng. Chỉ cho khách ăn vừa đủ no thôi thì không được, cần cho khách ăn dư
dật. Trong các làng quê, người ta làm bánh mì tại nhà và chỉ nướng bánh đủ ăn
trong một ngày, vì nếu giữ lại, bánh sẽ cũ đi không ai muốn ăn. Vị khách nói
trên đến muộn quá khiến chủ nhà bối rối vì thức ăn đã hết nhẵn, chủ nhà không
thể làm tròn bổn phận thiêng liêng là tiếp khách. Và dầu đêm đã khuya, chủ nhà
cũng tới nhà bạn để vay bánh. Cửa nhà người bạn đã đóng. Bên Đông phương, không
ai muốn gõ cửa nhà đã đóng, trừ khi cấp bách lắm. Buổi sáng cửa nhà được mở ra
và cứ mở suốt ngày, nhưng nếu cửa đóng lại, đó là dấu chủ nhà không muốn bị
quấy rầy. Nhưng người chủ nhà đi tìm bánh đã không e ngại ông gõ cửa và cứ gõ
mãi...
Căn nhà nghèo ở
xứ Pa-lét-tin chỉ có một căn phòng với một cửa sổ nhỏ. Nền nhà làm bằng đất nện
phủ tre khô và cành khô. Căn phòng chia làm hai phần, không phải bằng vách ngăn
mà bằng mặt đất thấp hơn. Hai phần ba phòng thì nền đất thấp, phần ba kia thì
nền cao hơn một chút. Trên phần đất cao đó có bếp than ủ cháy suốt đêm, và cả
gia đình nằm ngủ quanh bếp đó, họ không nằm nơi giường cao, nhưng trên những
tấm chiếu. Các gia đình thường đông người và họ thường nằm sát nhau cho ấm. Khi
một người trỗi dậy thì tất nhiên làm phiền cả gia đình. Hơn nữa, tại làng quê,
buổi tối người ta đem gia súc, gà, dê vào trong nhà. Không lạ gì, trong hoàn
cảnh đó, một người đã đi ngủ thì không muốn dậy nữa. Nhưng người vay bánh quyết
tâm này cứ gõ mãi, "gõ mãi mà không biết xấu hổ" theo đúng nghĩa của
từ ngữ Hy-lạp được dùng – cho tới khi chủ nhà đành chỗi dậy cho người kia mọi
điều xin, vì dầu sao gia đình cũng bị quấy rầy rồi. Chúa Giêsu có ý bảo:
"Câu chuyện này dạy các ngươi về việc cầu nguyện." Bài học trong dụ
ngôn này không phải dạy chúng ta cứ mãi mãi nài xin, không phải chúng ta cứ
phải đập vào cửa Thiên Chúa cho đến khi ép buộc Ngài cực chẳng đã phải ban cho
chúng ta điều chúng ta muốn, cho đến khi chúng ta cưỡng ép được Thiên Chúa
không sẵn lòng chịu trả lời cho chúng ta, một dụ ngôn nói nôm na là một điều gì
đó đặt bên cạnh. Nó cho ta thấy sự tương đồng hay tương phản giữa hai sự việc.
Chúa Giêsu ngụ ý như sau: "Nếu một người chủ nhà khó tính và thiếu thiện
chí mà cuối cùng có thể bị cưỡng ép bởi quyết tâm của một người bạn trì chí, để
phải cho người đó mọi điều mong muốn, huống chi Thiên Chúa là Cha Từ Ái sẽ tiếp
trợ mọi nhu cầu cho con cái Ngài hơn biết dường nào! Chúa Giêsu phán: "Nếu
các ngươi vốn xấu mà còn biết rằng mình có bổn phận cung cấp nhu cầu cho con
cái, huống chi Cha trên trời..."
Điều này không
làm cho chúng ta giảm bớt sự hăng say và sốt sắng cầu nguyện. Dầu sao chúng ta
chỉ có thể tỏ lòng ước muốn thành thực bởi sốt sắng và kiên trì cầu nguyện.
Điều đó không có nghĩa là chúng ta phải giành giật các ơn phúc từ tay một Thiên
Chúa không thiện chí, nhưng chúng ta đến với một Đấng biết rõ mọi nhu cầu của
chúng ta hơn chính chúng ta, và Ngài là Đấng có lòng yêu thương và rộng rãi đối
với chúng ta. Nếu chúng ta không nhận được điều mình xin, không phải vì Thiên
Chúa không sẵn lòng ban ơn cho ta, nhưng vì Ngài có ơn phúc tốt hơn, để dành cho
chúng ta. Và không hề có vấn đề mà chúng ta gọi là lời cầu nguyện không được
nhận. Sự trả lời của Chúa có thể không đúng theo điều chúng ta ước muốn hoặc
trông đợi, dầu khi Chúa từ chối điều mong muốn của ta, thì đó vẫn là sự trả lời
bởi tình thương và khôn ngoan của chính Thiên Chúa là Cha Từ Ái.
Để kết luận chúng
ta ghi lại đây tâm sự của tướng Douglas Mac Arthur: "Tôi là một chiến binh
chuyên nghiệp. Và tôi rất hãnh diện về điều ấy, nhưng tôi còn vô cùng hãnh diện
hơn vì được làm một ông bố. Tôi hy vọng rằng một mai khi tôi qua đời, đứa con
trai của tôi sẽ không nhớ đến tôi như một chiến binh lúc nào cũng ở trận địa,
mà là một ông bố hiện diện trong gia đình đang cùng nó đọc lời kinh nguyện đơn
sơ hàng ngày: Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả
sáng... Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con..."
18. Lạy
Cha
Có một nhà văn vô
thần. Ông ta không biết đến Thiên Chúa, đến linh hồn, đến đời sau. Ông ta bị
đau nặng, được đưa vào bệnh viện và đang ở trong tình trạng hấp hối.
Nhìn thấy một nữ
tu đến giúp đỡ ông nhưng tay lại cầm cỗ tràng hạt, ông ta bèn lên tiếng hỏi:
- Chị làm gì thế?
Vị nữ tu trả lời:
- Tôi đang cầu
nguyện để ông được giảm bớt những cơn đau.
- Vậy chị cầu
nguyện như thế nào?
Vị nữ tu bèn đọc
thật chậm và sốt sắng lời kinh Chúa dạy:
- Lạy Cha chúng
con ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng...
Ông ta phát biểu:
- Lời kinh thật
đẹp, chị hãy đọc tiếp nữa đi.
- Nước Cha trị
đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Rồi sao nữa:
- Xin Cha cho chúng
con hôm nay lương thực hàng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ
có nợ chúng con.
Sau khi đã nghe
đọc hết kinh Lạy Cha, ông ta nói:
- Tôi muốn chị
dạy cho tôi lời kinh bất hủ ấy.
Và sau cùng, một
người vô thần đã nhận biết Thiên Chúa nhờ lời kinh Lạy Cha.
Trong phần tìm
hiểu sáng hôm nay, tôi chỉ muốn dừng lại và phân tích bốn chữ vắn gọn: Lạy Cha
chúng con.
Trước hết là hai
chữ "Lạy Cha".
Trong đời sống
chúng ta có thể gọi Thiên Chúa bằng nhiều danh hiệu khác nhau: nào là Thiên
Chúa vĩnh cửu, nào là Thiên Chúa quyền năng, nào là Thiên Chúa tạo dựng, nào là
Thiên Chúa thánh thiện. Mỗi danh hiệu đều nói lên một góc cạnh, một đặc tính
nào đó của Thiên Chúa.
Nhưng theo tôi
nghĩ, không một danh hiệu nào lại đậm đà, lại trìu mến, lại ý nghĩa, lại hy
vọng cho bằng danh hiệu là Cha. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã dạy chúng ta mỗi
khi cầu nguyện hãy thưa lên:
- Lạy Cha chúng
con ở trên trời.
Thiên Chúa là một
người Cha tuyệt vời và đúng nghĩa nhất, bởi vì Ngài đã trao ban cho chúng ta sự
sống phần xác, ngày chúng ta mở mắt chào đời, cũng như sự sống phần hồn ngày
chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Danh hiệu này cũng đã đem lại cho chúng ta
chiếc chìa khoá để giải quyết vấn đề thân phận con người:
- Chúng ta bởi
đâu mà đến và rồi chúng ta sẽ đi về đâu?
Tôi xin thưa:
- Chúng ta từ
Thiên Chúa mà đến và rồi sẽ trở về cùng Thiên Chúa là Cha chúng ta.
Tiếp đến là hai
chữ "chúng con".
Chúng ta không
đọc: Lạy Cha con, mà đọc Lạy Cha chúng con. Như thế lời kinh tuyệt vời này
không phải chỉ nói lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với Thiên Chúa, mà còn nói
lên mối liên hệ giữa chúng ta đối với nhau.
Thiên Chúa là
Cha, cho nên tất cả chúng ta đều là anh em với nhau. Như thế lời kinh này không
phải chỉ tỏ lộ cho chúng ta tình phụ tử, mà còn tỏ lộ cho chúng ta tình huynh
đệ.
Đã là anh em thì
chúng ta có bổn phận phải yêu thương, phải tha thứ, phải hoà giải cùng nhau, vì
thế không lạ gì khi thấy Chúa bảo chúng ta cầu nguyện:
- Xin tha nợ
chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con.
Thiên Chúa là
Cha, nên chúng ta hãy gắn bó mật thiết với Ngài. Đồng thời là anh em với nhau,
nên chúng ta phải yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.
Đó chính là những
sứ điệp mà bốn chữ đầu của kinh lạy Cha muốn gửi đến mỗi người chúng ta.
19. Cầu
nguyện
Hãy cầu nguyện
luôn, hãy cầu nguyện với hết lòng tin tưởng vào tình yêu thương quan phòng của
Chúa, đặc biệt cầu nguyện với lời kinh Lạy Cha mà Chúa đã dạy các đồ đệ:
"Lạy Cha chúng con ở trên trời". Lời kinh Lạy Cha mà chúng ta thường dùng
để cầu nguyện là một tập hợp chung lại của hai bản văn Phúc âm theo thánh Luca
và theo thánh Matthêu. Bản văn của thánh Luca ngắn gọn hơn và chỉ có bảy lời
cầu: "Lạy Cha, nguyện xin danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, xin Cha cho
chúng con hôm nay lương thực hằng ngày và tha nợ chúng con như chúng con cũng
tha kẻ có nợ chúng con, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ".
Như vừa đọc trong
bài Phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu đã dạy các tông đồ lời cầu nguyện này theo lời
yêu cầu của các ông và sau khi đã nhìn thấy Chúa cầu nguyện. Trong cuộc đời rao
giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nhiều lần tìm nơi thanh vắng để cầu nguyện cùng
Thiên Chúa Cha. Chúa Giêsu đã cầu nguyện như thế nào? Thật khó mà đoán hết nội
dung lời cầu nguyện của Chúa Giêsu, nhưng căn cứ vào những lời Chúa Giêsu đã
dạy các tông đồ chúng ta có thể nói rằng, lời cầu nguyện Ngài dạy cho các tông
đồ phản chiếu phần nào lời cầu nguyện của chính Ngài với Thiên Chúa Cha.
Chúa Giêsu nêu
gương cho các đồ đệ trong mọi sự. Chắc chắn trong việc cầu nguyện cũng thế,
Ngài muốn cho các đồ đệ của Ngài cầu nguyện và sống lời cầu nguyện như chính
Ngài đã làm gương. Trước hết, lời cầu nguyện hướng về Thiên Chúa là Cha:
"Lạy Cha chúng con ở trên trời". Hơn ai hết, Chúa Giêsu ý thức mối
tương quan mật thiết giữa Ba Ngôi Thiên Chúa, giữa Ngài và Thiên Chúa Cha. Ngài
là Con Một Thiên Chúa, Ngài luôn luôn đối thoại và sống kết hiệp với Thiên Chúa
Cha. Khi dạy các tông đồ cầu nguyện: "Lạy Cha", Ngài chia sẻ tình phụ
tử, hay đúng hơn Ngài đưa các đồ đệ, đưa con người vào trong tình phụ tử với
Thiên Chúa Cha. Sứ mạng cứu chuộc của Ngài là hòa giải con người với Thiên
Chúa, làm cho con người được phục hồi phẩm giá làm con cái Thiên Chúa.
Đọc lời kinh Lạy
Cha, mỗi người chúng ta hôm nay hãy mặc lấy tâm tình của Chúa Giêsu với Thiên
Chúa Cha. Từ ngữ mặc lấy không diễn tả hết thực tại mới mẻ mà người Kitô lãnh
nhận được trong Bí tích Rửa tội. Từ ngữ mặc lấy có thể gợi lên trong chúng ta
hình ảnh hời hợt trùm lên bên ngoài mà bên trong chẳng có gì thay đổi cả. Thật
sự đối với người Kitô không phải như vậy, thực thể người Kitô đã được ơn Chúa
biến đổi trong Bí tích Rửa tội. Thực tại con người đã được biến đổi trở nên con
người mới, một thực tại mới, được ân sủng Thiên Chúa tái tạo, biến đổi. Thực tại
mới này không phải do công trạng của con người, của mỗi người chúng ta, nhưng
đó là ân ban của Thiên Chúa nhờ công nghiệp cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô.
Chúng ta được làm
con Thiên Chúa trong Con Một Ngài là Chúa Giêsu Kitô. Vậy khi cầu nguyện với
lời kinh Lạy Cha, mỗi người Kitô chúng ta cần phải ý thức rằng, mình cần phải
trở nên Chúa Kitô hơn, cần phải được biến đổi để trở nên giống Chúa Giêsu Kitô
để có thể bước vào trong cuộc đối thoại với Thiên Chúa Cha, như Chúa Kitô đã
nêu gương và muốn chúng ta thực hiện như vậy. Do đó, một kết luận thực hành cho
đời sống đạo của chúng ta là chúng ta không thể nào cầu nguyện thực sự lời kinh
Lạy Cha, nếu tâm hồn chúng ta không được biến đổi trở nên giống Chúa Giêsu. Khi
tâm hồn chúng ta không biến đổi, khi cuộc sống chúng ta không trở thành Kitô
đích thực thì lời kinh chúng ta đọc: "Lạy Cha chúng con ở trên trời"
chỉ là một lời hời hợt bên ngoài trên môi trên miệng mà thôi.
Chúa Giêsu Kitô
đã thực hiện ơn cứu rỗi cho con người. Mỗi người Kitô chúng ta khi lãnh nhận Bí
tích Rửa tội đã được ơn Chúa biến đổi để có thể cầu nguyện kinh Lạy Cha thật
sự. Nhưng sự biến đổi đó chưa hoàn toàn kết thúc, vì bao lâu chúng ta còn sống
trên trần gian này thì bấy lâu con người chúng ta còn phải chiến đấu với những
tật xấu, những khuynh hướng tội lỗi nơi bản thân. Mỗi ngày chúng ta đều được
mời gọi cộng tác với ơn Chúa để thanh tẩy, để trở nên giống Chúa Giêsu Kitô mỗi
ngày một hơn, để cầu nguyện kinh Lạy Cha mỗi ngày một xứng đáng hơn.
Lời kinh Lạy Cha
là lời cầu nguyện nói lên thực thể căn bản của người Kitô là con cái Thiên Chúa
Cha trong Chúa Giêsu Kitô. Lời kinh Lạy Cha còn là lời kinh gia tăng sức mạnh
để giúp mỗi người chúng ta hằng ngày trở nên con cái Thiên Chúa Cha nhiều hơn
nhờ ơn Chúa Giêsu Kitô.
Nguyện xin Chúa
ban ơn cho mỗi người chúng ta càng ngày càng trở nên xứng đáng hơn để cầu
nguyện lời kinh Lạy Cha như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta: "Lạy Cha chúng con
ở trên trời, chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể
hiện dưới đất cũng như trên trời. Amen
20. Kiên
trì
Đề tài của bài
Tin Mừng thật rõ ràng, nói về vấn đề cầu nguyện. Nội dung gồm ba phần: Phần thứ
nhất là những điều Chúa dạy phải cầu xin mỗi khi cầu nguyện. Phần thứ hai là
lời khuyên hãy kiên trì trong khi cầu nguyện. Phần thứ ba là hiệu nghiệm của
lời xin đích thực.
Trước hết, một
môn đệ đã thay mặt cho anh em xin Chúa Giêsu dạy cho bài học về sự cầu nguyện.
Chúng ta có thể nêu lên hai lý do khiến các ông muốn xin Chúa dạy cầu nguyện:
Lý do thứ nhất, vì các ông thấy Chúa thường cầu nguyện và các ông cũng muốn cầu
nguyện như Ngài. Lý do thứ hai, vì các ông cũng thấy Gioan Tiền hô dạy các môn
đệ của ông cầu nguyện. Vì thế, theo lời xin của các môn đệ, Chúa Giêsu đã dạy
các ông những điều phải cầu nguyện. Những điều này chúng ta vẫn gọi là kinh Lạy
Cha. Như vậy, kinh Lạy Cha là kinh chính Chúa Giêsu đã trực tiếp dạy cho chúng
ta, nên chúng ta phải coi đây là kinh mẫu, kinh quí giá nhất, quan trọng nhất,
hoàn hảo nhất mà mọi tín hữu phải ưa chuộng hơn cả, phải năng đọc hơn các kinh
khác, và phải đọc với niềm mến yêu tin tưởng, đọc với ý thức tương quan và bổn
phận của chúng ta đối với Cha trên trời và đối với nhau. Sau khi đã dạy phải
cầu xin những gì, Chúa Giêsu lại dạy thái độ cần phải có khi cầu nguyện, đó là
kiên trì. Chúa đã dùng dụ ngôn "người bạn quấy rầy" để minh họa cho
chúng ta thấy rõ sự cần thiết và hiệu quả của sự kiên trì khi cầu nguyện. Dụ
ngôn này nói về người trong nhà đang ngủ, dù rất khó chịu bực mình khi bị quấy
rầy vào nửa đêm, nhưng cũng đành chỗi dậy cho mượn bánh, nếu không vì tình
nghĩa thì ít là được bình an ngủ tiếp. Người đời còn đối xử với nhau như thế huống
chi là Chúa. Ngài đâu đến độ cứng lòng như người bạn bị quấy rầy này. Vì thế,
chúng ta đừng bao giờ nản lòng cầu nguyện. Nếu xin mãi mà chưa được cũng đừng
bao giờ bỏ cuộc, cứ cầu nguyện tiếp. Thiên Chúa làm thinh giả điếc để chúng ta
được lợi thêm. Ngài muốn bị quấy rầy ít lâu để tăng thêm lòng ao ước, lòng tin
cậy của chúng ta hơn.
Trước khi kết
thúc bài học về cầu nguyện. Chúa Giêsu còn nói về sự hiệu nghiệm của lời cầu
xin chính đáng. Chúa khẳng định như một lời hứa bảo đảm: "Hãy xin thì sẽ
được". Rồi Chúa đưa ra một thí dụ để chúng ta hiểu rõ hơn và xác tín hơn:
người cha người mẹ trần gian, không mấy tốt lành mà còn muốn dành phần tốt nhất
cho con cái, thì huống chi Thiên Chúa lại không biết chọn phần hơn cho con cái
mình hay sao? Miễn là những điều chúng ta cầu xin là những điều thích hợp. Xin
điều gì tốt thì nhất định sẽ được Chúa nhận lời.
Lời Chúa hôm nay
là một bài học rất hữu ích, nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm lại việc cầu
nguyện. Trước hết, chúng ta có cầu nguyện không? Có người cho rằng: cần gì phải
cầu nguyện, vì Chúa biết rõ những gì chúng ta cần thiếu. Chắc chắn Chúa biết
mọi sự chúng ta cần thiếu. Nhưng biết là một chuyện, ban ơn lại là chuyện khác,
nên chúng ta rất thiệt thòi nếu dám kết luận là được miễn cầu nguyện. Thiên
Chúa không cần lời cầu của chúng ta. Đúng lắm. Những cầu nguyện và thờ lạy của
chúng ta không thay đổi gì hạnh phúc vĩnh cửu của Chúa. Nhưng Chúa buộc chúng
ta phải thờ lạy, tạ ơn và cầu xin, vì chúng ta là tạo vật của Chúa, bổn phận
của chúng ta đòi buộc chúng ta dâng lên Chúa những cử chỉ đó. Chúa biết mọi sự
chúng ta cần thiếu, nhưng chúng ta phải trình bày để luôn nhớ mình là bất lực.
Chúa dạy cầu nguyện vì lợi ích cho chúng ta chứ không phải vì Chúa. Nên chúng
ta phải cầu nguyện và cầu nguyện luôn.
Thứ hai, chúng ta
xin những điều thiết yếu như cơm no áo ấm, ăn ngon mặc đẹp, bình an, khỏe mạnh,
thành công, may mắn... là những điều cần thiết mà sao ít khi được hay chẳng bao
giờ được như ý, có phải tại nhiều người xin quá không? Có phải Chúa ngủ quên
chăng? Chúng ta thường có khuynh hướng xin những gì chúng ta muốn trước mắt, ít
khi chúng ta suy xét đến những hậu quả và những thay đổi của hoàn cảnh. Chúng
ta cho rằng những điều chúng ta xin là tốt đẹp, là cần thiết, chúng ta đòi Chúa
phải nhận lời ngay. Nhưng chúng ta có khôn ngoan và hiểu biết bằng Chúa không?
Chúng ta phải tin rằng Chúa nhìn xa trông rộng, thông minh vô cùng, Ngài biết
những gì tốt và cần cho chúng ta. Do đó, nếu vì yêu thương, Chúa đáp ứng lời
chúng ta cầu xin, thì trái lại, cũng vì yêu thương mà nhiều khi Ngài phải từ
chối. Trong cả hai trường hợp, chúng ta đều phải xin vâng và cảm tạ Ngài. Sau
hết, chúng ta phải kiên trì cầu nguyện. Thiên Chúa muốn chúng ta kiên trì. Ngài
muốn nghe lời van xin kiên nhẫn của chúng ta. Chúa muốn thì tại sao chúng ta
lại không muốn? Kiên trì là một đức tính tối cần cho thành công: "Có công
mài sắt có ngày nên kim". "Kiến tha lâu đầy tổ", "Nước chảy
đá mòn", "Không có gì là quá sức, miễn là chúng ta bền gan". Từ
đó chúng ta hiểu: kiên trì cầu nguyện là một cách cầu nguyện bảo đảm sẽ được
Chúa nghe và nhận lời. Thánh nữ Monica, mẹ thánh Âu tinh, đã không uổng công
mất thời giờ trong 16 năm cầu nguyện và khóc lóc, sau cùng bà đã được như ý.
Con bà đã trở lại đạo và nên thánh tiến sĩ thời danh của Giáo Hội. Đúng như lời
thánh Amrôxiô đã an ủi bà khi bà than thở với ngài là cầu nguyện mãi mà chưa được:
"Bà cứ yên tâm, đứa con của bao nhiêu nước mắt không thể nào hư đi được".
Thánh Phanxicô đờ San rất nóng tính, ngài rất buồn vì tật xấu này, ngài đã cầu
nguyện trong 22 năm để được ơn hiền lành, và ngài đã được xưng tụng là vị thánh
gương mẫu về hiền lành. Đó là những gương sáng về kiên trì cầu nguyện.
Tóm lại, là người
tín hữu Chúa Kitô, chúng ta phải coi việc cầu nguyện là một vấn đề cần thiết
cho đời sống. Tinh thần cầu nguyện của chúng ta phải giống như việc lên giây
chiếc đồng hồ: lên giây một lần không đủ, mặc dầu biết rằng lên giây ngày hôm
nay để rồi ngày mai phải lên giây lại, chúng ta cũng cứ đều đặn làm công việc
đó mỗi ngày, thì cầu nguyện cũng vậy, chúng ta phải cầu nguyện đều đặn mỗi
ngày, cầu nguyện với lòng tin tưởng và dù được hay không những điều chúng ta
cầu xin, chúng ta cũng luôn vâng theo ý Chúa.
21. Xin
thì sẽ được – Lm. Jos. Phạm Thanh Liêm
Lời Chúa hôm nay
cho thấy lời cầu nguyện có giá trị như thế nào! Và không chỉ thế, Thiên Chúa sẽ
ban Thánh Thần cho tất cả những ai cầu xin Ngài.
Cha trên trời sẽ
ban Thánh Thần
Đức Yêsu dạy các
tông đồ cầu nguyện. Qua đó Ngài cũng dạy tất cả chúng ta.
"Lạy Cha,
nguyện danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến". Danh Thiên Chúa cả sáng khi
con người tin Thiên Chúa, và để Thiên Chúa ngự trị trong tâm hồn mình. Nước
Thiên Chúa là vương quốc của tình yêu. Khi con người sống yêu thương nhau, Nước
Thiên Chúa đang hiện diện.
"Danh Cha cả
sáng, Nước Cha trị đến" không phải là chuyện con người có thể làm được.
Chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho con người tin nhận Ngài và sống theo luật
tình yêu. Đó là lý do tại sao chúng ta nài xin.
"Xin cho
chúng con lương thực hằng ngày". Cơm bánh hằng ngày, là những điều rất
bình thường nơi người ta no đầy sung túc, và người ta tưởng đó là những điều tự
nhiên, và không cần tạ ơn Chúa; nhưng ở những nơi đói kém, con người dễ nhận ra
"cơm bánh" mình ăn hằng ngày, là những hồng ân đặc biệt Thiên Chúa
ban. Nếu không nhận biết "cơm bánh" hằng ngày là ơn, con người đã
hành xử như người vô ơn.
"Xin tha tội
chúng con, để chúng con cũng tha lỗi cho những người xúc phạm đến chúng
con". Xin cho chúng con cảm nhận lòng từ bi nhân hậu của Chúa, để chúng
con cũng giúp người khác cảm nhận tình yêu tha thứ của Chúa, qua việc chúng con
tha thứ lỗi lầm cho họ.
"Xin chớ để
chúng con sa chước cám dỗ". Con người mỏng dòn, mong manh, dễ vỡ! Ai dám
nói mình không bao giờ sa ngã? Bây giờ tôi rất mạnh, nhưng lúc khác có thể tôi
rất yếu. Không sa ngã phạm tội, đó là hồng ân vô cùng lớn mà nhiều lần tôi đã
không ý thức để tạ ơn Thiên Chúa. Ở trong tình nghĩa với Chúa, là một ơn mà mỗi
tối khi xét mình, chúng ta cần nhận ra để tạ ơn Chúa.
Người đời, những
con người bất toàn và ích kỷ, mà còn không thể dửng dưng trước những lời van
xin của đồng loại, huống chi Thiên Chúa, Đấng yêu thương con người vô cùng. Nếu
con người còn biết cho con cái mình những điều tốt, huống chi là Thiên Chúa,
chẳng lẽ Ngài không ban điều tốt cho con người sao? Quả thực, Thiên Chúa đã ban
"Thánh Thần" cho con người. Thánh Thần là quà tặng quý nhất mà Thiên
Chúa và Đức Yêsu ban cho con người. Khi người ta tặng quà ai, món quà càng giá
trị càng diễn tả tình yêu. Món quà quý nhất mà Thiên Chúa trao tặng con người,
là chính Thiên Chúa, Chúa Con và Thánh Thần.
Được Thiên Chúa,
được Thánh Thần, chúng ta được tất cả những điều khác.
Thiên Chúa nhân
từ hơn con người tưởng
Cuộc "trao
đổi" giữa Abraham và Thiên Chúa, làm người ta lầm tưởng Abraham nhân từ
hơn Thiên Chúa. Thực ra đoạn Lời Chúa cho thấy Thiên Chúa là Đấng nhân hậu, và
Ngài sẵn sàng làm tất cả những gì Abraham nài xin. Abraham xin gì, Thiên Chúa
cũng ban. Ngài sẵn sàng bớt từ 50, đến 40, 30, 20 và 10. Tại sao Abraham không
rút xuống nữa? Có lẽ vì lòng nhân từ của con người "có hạn", hay tại
Abrahm chưa đủ lòng tin rằng Thiên Chúa nhân từ, chứ nếu Abraham có đủ can đảm
và lòng tin xin rút xuống nữa, chắc chắn Thiên Chúa cũng ban cho.
Sôđôma, là mẫu
gương để con người xa tránh tội lỗi. Thật không đúng nếu nói Thiên Chúa không
thương những người ở Sodoma. Đức Yêsu nói: Sodoma còn được xét xử khoan dung
hơn nhiều thành ở Israel (x. Mt.10, 15).
Hình ảnh của
Abraham trong St.18, 20-32 rất đẹp. Lòng nhân từ và thương xót, làm con người
trở nên xinh đẹp, vì điều đó làm con người giống Thiên Chúa hơn.
Chỉ cần mười
người công chính, đủ để cứu cả thành. Chỉ cần là người công chính, là đã làm
được bao nhiêu điều mà những người tài giỏi, quyền thế, giầu sang, không thể
làm được. Ước gì mỗi người chúng ta đều có khao khát trở nên người công chính.
Để với sự công chính Thiên Chúa ban, chúng ta có thể cứu được những người khác,
chẳng hạn qua gương sáng đời sống đạo đức, chúng ta có thể giúp người khác trở
lại, hoặc cố gắng vươn lên.
Thái độ của con
người trước Thiên Chúa
Abraham xin với
Thiên Chúa như một người "ăn xin", ý thức những điều mình xin tuỳ
thuộc Thiên Chúa đồng ý hay không. Con người tuy dù được Thiên Chúa yêu những
tự bản chất chỉ là tạo vật, là hư không đối với Thiên Chúa. Con người đâu phải ngang
bằng với Thiên Chúa mà đòi hỏi điều này điều kia. Thái độ khiêm tốn, chấp nhận
những gì được ban như hiện tại, cảm tạ Thiên Chúa, là thái độ cần thiết của tạo
vật trước Thiên Chúa.
Thiên Chúa không
cần chúng ta nài xin, Ngài cũng ban những điều cần thiết cho chúng ta. Khi
chúng ta thấy những gì cần cho chúng ta và nài xin Ngài, Ngài sẵn sàng ban để
chúng ta nhận biết "Ngài là tình yêu" hơn nữa. Thiên Chúa đã ban Đức
Yêsu cho chúng ta, nhờ Ngài chúng ta là tạo vật mới, và chúng ta được tất cả
nhờ Đức Yêsu Kitô.
Đức Yêsu vì yêu
thương đã coi chúng ta là bạn hữu với Ngài. Tuy dù được yêu thương, nhưng khi
ngỏ lời với Thiên Chúa, Abraham rất kính cẩn. Đây cũng là bài học cho chúng ta,
để mỗi khi chúng ta cầu nguyện, chúng ta phải có thái độ như thế nào đối với
Thiên Chúa.
Câu hỏi gợi ý
chia sẻ:
1. Bạn có hay
"xin" Thiên Chúa điều này điều kia không? Điều nào quan trọng nhất
trong đời mà bạn đã xin? Bạn có được điều đó không? Xin chia sẻ nếu được.
2. Lời nào trong
kinh Lạy Cha bạn thích nhất? Tại sao?
3. Có khi nào bạn
cầu nguyện một điều rất chính đáng mà không được không? Bạn phản ứng ra sao với
Thiên Chúa trong trường hợp đó? Phản ứng đó đúng hay sai? Tại sao?
22. Chú
giải của Lm Vũ Phan Long
LỜI KINH CỦA CHÚA
- HÌNH ẢNH CỦA THIÊN CHÚA
Bởi vì Người biết
và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng
đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên
Chúa hơn bất cứ ai trước Người.
1.- Ngữ cảnh
Trong bài tường
thuật về hành trình lên Giêrusalem, tác giả Luca ghép vào một giai thoại trong
đó Đức Giêsu dạy các môn đệ cầu nguyện, vì các ông xin Người.
Hình thức của
Kinh Lạy Cha ăn khớp với ngữ cảnh này, vì bản văn được đặt sau lời kinh Đức
Giêsu dâng lên Chúa Cha (10,21-22), cũng như sau "ví dụ" của Người về
tình thương đối với người thân cận (10,29-37) và việc Người nhấn mạnh trên việc
lắng nghe Lời như điều cần thiết duy nhất (10,38-42). Toàn khối các giai thoại
này giới thiệu cho biết thái độ và những tâm tình người Kitô hữu phải có đối
với Thiên Chúa.
2.- Bố cục
Bản văn có thể
chia thành ba phần:
1) Hoàn cảnh
(11,1);
2) Đức Giêsu dạy
cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (11,2-4);
3) Đức Giêsu dạy
cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (11,5-13):
- Dụ ngôn Người
bạn quấy rầy (cc. 5-8),
- Sáu khẳng định
(cc. 9-10),
- Dụ ngôn Người
cha và đứa con (cc. 11-13).
3.- Vài điểm chú
giải
- Lạy Cha (2):
Tác giả chỉ dùng hô-cách Hy-lạp đơn giản: pater (x. 10,21), tương đương với từ
A-ram 'abbâ'. Do chỗ từ này được lưu giữ trong Mc 14,36 (x. Gl 4,6; Rm 8,15),
có thể cho rằng kiểu thưa gửi trong bản văn Lc thì "gốc" hơn kiểu
trong Mt (với công thức "Lạy Cha chúng con, Đấng ngự trên trời").
Một số tác giả
như Kittel, Jeremias và Marchel nghĩ rằng đây rất có thể là một từ ngữ của các
em bé (G. KITTEL, VAbba/, GLNT, vol. I, col. 15-18; J. JEREMIAS, Abba. Studien
zu neutestamentlichen Theologie und Zeitgeschichte (Gưttingen 1966) 15-67; W.
MARCHEL, Abba, Père (Roma 1963, 1971). Còn Pitta thì cho rằng không phải chỉ có
các em bé mới dùng từ này mà thưa với cha, nhưng cả người lớn cũng dùng để ngỏ
lời với cha (A. PITTA, Lettera ai Romani. Nuova versione, introduzione e
commento (I Libri biblici – Nuovo Testamento 6; Figlie di San Paolo; Milano
2001) 298.). Dù sao, vào thế kỷ I, từ này không chỉ được dành cho trẻ em.
Gọi Thiên Chúa là
"Cha" không phải là chuyện lạ lùng. Danh xưng "cha" đã có
nơi các tôn giáo rất khác nhau, từ dạng thô sơ nhất đến dạng phát triển nhất,
của người Hy-lạp, Rô-ma và Sê-mít. Nhưng điều lạ là sử dụng một danh xưng thân
mật để thưa với Thiên Chúa. Theo các nghiên cứu của Jeremias và Marchel, 'abbâ'
là một danh xưng thân mật, nên không bao giờ được người Do-thái dùng mà thưa
với Thiên Chúa. Đôi khi, cũng rất hiếm, từ này được dùng để nói về Thiên Chúa,
chứ không bao giờ để thưa với Thiên Chúa. Và ngay cả nói về Thiên Chúa, các bản
Targumim (= Bản dịch và diễn giải) cũng rất ngại áp dụng danh hiệu
"cha" cho Ngài. Ngược lại, theo chứng từ của Mc 14,36, được củng cố
gián tiếp bởi Gl 4,6, Đức Giêsu là người đầu tiên thưa với Thiên Chúa bằng
tiếng gọi thân mật Abba, và như thế Người tỏ cho thấy quan hệ thân tình như là
người con với Thiên Chúa, một thứ quan hệ kiểu mới mẻ và duy nhất, vô song (Cf.
JEREMIAS, Abba, 58-67). Quan hệ này được diễn tả rõ ràng trong một vài bản văn
Tin Mừng, đặc biệt trong Mt 11,27 // Lc 10,22. Tin Mừng IV triển khai các
phương diện khác nhau của quan hệ hỗ tương này, một quan hệ được vén mở cho
thấy không những bằng các lời nói, mà hơn nữa còn bằng công trình chung giữa
Chúa Cha và Chúa Con; và công trình chung này đạt tới đỉnh cao khi Đức Giêsu
hiến mình trên Núi Sọ. Tin Mừng làm chứng về hai điều: 1) Quan hệ của Đức Giêsu
với Thiên Chúa là quan hệ có một không hai, không thể so sánh với bất cứ kiểu
tương quan nào; quan hệ này hoàn hảo, thâm sâu, hỗ tương; theo nghĩa này, quan
hệ này chuyên nhất (x. Ga 10,30); 2) Tuy nhiên, theo một nghĩa khác, quan hệ
này không độc chiếm, nhưng lại có khả năng thông ban, thông dự vào (x. Ga 6,57;
10,27-28). Đức Giêsu đến chỉ nhắm một mục tiêu là đưa loài người vào trong
tương quan cha con với Thiên Chúa. Và bởi vì quan hệ này không phải là một
tương quan bên ngoài như một liên hệ pháp lý, mà là một thực tại thâm sâu,
người ta không thể thông dự vào đó nếu không được một sự thông truyền tinh
thần. Vậy toàn thể cuộc sống của Đức Giêsu, sứ vụ, cái chết, sự sống lại của
Người chỉ có một mục đích là thông ban Thánh Thần trong tư cách là Thần Khí của
Con (x. Gl 4,6). Quả thật, Đức Giêsu là người đầu tiên cầu nguyện với Thiên
Chúa bằng danh hiệu này. Nhưng bây giờ, nhờ Thần Khí của Con, mỗi tín hữu cũng
có thể làm như thế: là con (x. Gl 3,26; 4,6.7), người tín hữu thông dự vào lời
cầu nguyện của Chúa Con.
- xin làm cho
danh thánh Cha vinh hiển (2): dịch sát là "Ước gì Danh Cha được hiển
thánh". Trong ngôn ngữ Kinh Thánh, câu này không có nghĩa là Thiên Chúa
phải bận tâm làm cho loài người coi Danh của Ngài là thánh và không làm ô nhục
Danh Ngài. Câu này có nghĩa là chính Thiên Chúa phải thánh hoá Danh Ngài; chính
Ngài phải hành động cách nào để loài người nhận biết và tuyên xưng đúng như Tên
Ngài, tức là như Thiên Chúa và như Cha. Như thế, là xin Thiên Chúa mạc khải bản
thân Ngài ra vĩnh viễn và cho người ta được thấy Ngài và đến được với Ngài cách
chắc chắn.
-[xin làm cho]
Triều Đại Cha mau đến (2): Đây là nội dung chính của lời Đức Giêsu loan báo.
Người loan báo Tin Mừng về Triều Đại Thiên Chúa, về quyền chúa tể của Thiên
Chúa (4,43; 8,1; 10,9.11): Thiên Chúa là Chúa Tể duy nhất và tốt lành, sẽ thực
hiện công khai vương quyền của Ngài. Lời xin này cầu mong mau đến lúc Thiên
Chúa sẽ hiển trị trên tất cả mọi sự cách công khai và hữu hình; Đấng là Cha sẽ
là Chúa Tể duy nhất.
- ngày nào có
lương thực ngày ấy (3): dịch sát là "Xin ban cho chúng con mỗi ngày (to
kath' hêmeran)", hiểu theo nghĩa phân phối.
- xin tha tội
(4): Tác giả Lc đã thay từ opheilêmata, "các món nợ", bằng hamartias,
"các tội", có lẽ để cho độc giả Kitô hữu gốc Dân ngoại dễ hiểu lời
xin này hơn.
- bạn (5): Từ ngữ
philos được dùng nhiều lần khiến chúng ta nhớ đến bối cảnh là lòng hiếu khách
của người dân Cận Đông. "Bạn" vừa có nghĩa là người láng giềng và
người khách.
- anh ta cứ lì ra
đó (8): Anaideia, "sự trâng tráo, lì lợm". Có tác giả nghĩ rằng từ
này áp dụng cho người bạn bị quấy rầy, nên phải dịch là "thể diện"
(Xem Bản dịch Kinh Thánh Tân Ước của Nhóm Phiên Dịch CGKPV 1995). Nhưng giải
thích như thế không đúng, vì: cả câu 8 dịch sát là: "dẫu anh không dậy để
cho người này (autô) vì là bạn của người này (autou), thì cũng vì sự lì lợm của
người này (autou), anh sẽ dậy để cho người này (autô) tất cả những gì người này
cần". Bởi vì đại từ sở hữu autô và tính từ sở hữu autou (Ở chủ-cách là
autos) được dùng để chỉ người đến quấy rầy, nên phải hiểu anaideia áp dụng cho
người quấy rầy.
- tất cả những gì
anh ta cần (8): nghĩa là không phải chỉ cho những gì anh ta xin mà thôi.
- anh em cứ xin
thì sẽ được (9): Đây là một thái bị động thay tên Thiên Chúa, nên có nghĩa là:
"Anh em cứ xin, thì sẽ được Thiên Chúa ban cho".
- cứ tìm thì sẽ
thấy (9): Do câu này song song với câu trên, ta hiểu là "sẽ thấy, với sự
trợ giúp của Thiên Chúa".
- thay vì cá lại
lấy rắn mà cho nó (11): Hiểu là có sự giống nhau về bề ngoài giữa con cá và con
rắn. Thỉnh thoảng các ngư phủ trên Hồ Ghennêxarét dùng cá nhỏ mà câu rắn nước.
- xin trứng lại
cho nó bò cạp (12): Một con bò cạp cuộn càng và đuôi lại thì giống với một quả
trứng.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
* Hoàn cảnh (1)
Trước mắt các môn
đệ, hẳn là Đức Giêsu xuất hiện ra như là vị thầy về cầu nguyện. Còn trước mặt
Người, các ông quả là những người đang chập chững tập cầu nguyện. Do đó, các
ông đã xin Người dạy cầu nguyện. Đàng khác, vào thời Đức Giêsu, các nhóm tôn
giáo được phân biệt nhờ có một kiểu cầu nguyện riêng. Lời xin của các môn đệ
Đức Giêsu cho thấy các ông ý thức mình là một cộng đoàn.
* Đức Giêsu dạy
cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha (2-4)
Đức Giêsu đã ban
cho các ông bản văn một kiểu mẫu cầu nguyện. Điều này không có nghĩa là các ông
phải luôn luôn dùng những lời này mà thôi. Nhưng với người nào dùng lời kinh
này, người ấy được xác định cho biết bầu khí phải quan tâm khi cầu nguyện và
được nhắc đến những lời thỉnh cầu phải coi là quan trọng nhất.
Trong lời kinh,
chúng ta ngỏ lời với Thiên Chúa và trình cho Ngài các lời thỉnh cầu của chúng
ta. Chúng ta không thấy Ngài và tự mình không thể biết là Ngài đang tương quan
với chúng ta thế nào. Ngài vô hình, xa cách, rất lạ với ta, ta không thể hiểu
Ngài và khám phá Ngài cặn kẽ. Trong cầu nguyện, quan trọng nhất là biết bản
chất của tương quan giữa Thiên Chúa và loài người. Phải chăng Thiên Chúa là một
Chúa tể quyền lực, có thể nhậm lời ta cầu xin, nhưng Ngài không hề quan tâm đến
ta? Lời xin đầu tiên và căn bản nhận được câu trả lời nơi lời đầu tiên của Đức
Giêsu: chúng ta phải ngỏ lời với Thiên Chúa như với một "Người Cha". Thiên
Chúa không phải là một Chúa tể xa cách, xa lạ, quyền lực, không muốn biết gì về
chúng ta. Ngài đã giao tiếp với chúng ta với mối quan tâm, tình yêu và sự chăm
sóc, như một người cha đích thực.
Đức Giêsu đã phác
ra những nét chính để dạy chúng ta biết phải cầu nguyện với Thiên Chúa thế nào.
Theo kiểu mẫu của Người, chúng ta thấy có hai khối lời cầu xin. Khối thứ nhất
liên hệ trực tiếp đến Thiên Chúa, khối thứ hai liên hệ đến chúng ta và các nhu
cầu của chúng ta. Lời cầu "xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển", là
xin Thiên Chúa cho chúng ta được đi từ hoàn cảnh đức tin sang hoàn cảnh hưởng
kiến. Lời cầu thứ hai xin Thiên Chúa là Cha tỏ quyền Chúa Tể trên mọi sự. Nói
chung, hai lầu cầu đầu tiên xin cho có cuộc đảo lộn các tương quan hiện hữu,
trong đó Thiên Chúa dường như vắng mặt hoặc ẩn mình. Chúng ta xin Ngài trở nên hữu
hình và tỏ ra là Chúa Tể duy nhất mãi mãi.
Khối lời thỉnh
cầu thứ hai liên hệ đến các nhu cầu cấp bách nhất của chúng ta: các nhu cầu vật
chất (cái ăn cái uống, y phục, nhà cửa). Bên cạnh các nhu cầu vật chất, là các
nhu cầu thiêng liêng: "xin tha tội cho chúng con". Thiên Chúa đã ban
cho chúng ta trách nhiệm, nhưng chúng ta thường xuyên sống vô trách nhiệm, trở
thành có lỗi trước mạt Thiên Chúa, chúng ta phạm những thiếu sót đối với người
thân cận. Chúng ta không thể tự mình tha các lỗi cho mình. Chúng ta lệ thuộc sự
tha thứ của Thiên Chúa nên phải xin Ngài ban cho. Thêm vào lời cầu xin này, Đức
Giêsu nối câu: "vì chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng
con". Người nhắc chúng ta nhớ rằng chúng ta không thể nhận được ơn tha thứ
của Thiên Chúa nếu chúng ta có một tâm hồn đầy cay đắng và hiềm khích (x. Mt
18,23-35).
Cuối cùng, chúng
ta xin Thiên Chúa chiếu cố đến sự yếu đuối và mỏng dòn của chúng ta. Trước nhan
Thiên Chúa, chúng ta nhìn nhận mình không có sức để đứng vững trong thử thách
để trung thành với Ngài. Do đó, chúng ta khiêm tốn xin Ngài trợ giúp, đồng thời
diễn tả ước muốn được mãi mãi liên kết với Ngài.
* Đức Giêsu dạy
cầu nguyện bằng hai dụ ngôn (5-13)
Sau đó, bằng hai
dụ ngôn và sáu khẳng định, Đức Giêsu còn muốn thuyết phục các môn đệ rằng họ có
thể cậy dựa vào lòng nhân lành của Thiên Chúa, tức là tin rằng Ngài sẽ nhận lời
họ cầu xin. Với hai dụ ngôn, Đức Giêsu vận dụng các hoàn cảnh và kinh nghiệm
của loài người để dạy dỗ.
Dụ ngôn thứ nhất
vận dụng những tương quan hàng xóm láng giềng ở miền quê: Nếu một người hàng
xóm bị quấy rầy còn sẵn sàng giúp đỡ người bạn, chẳng lẽ Thiên Chúa vô cùng tốt
lành và không hề có giờ nào không thuận tiện lại không nghe lời con cái Ngài
kêu xin?
Trong dụ ngôn thứ
hai, Đức Giêsu vận dụng cách thức xử sự của người cha trần thế với con cái: Nếu
ngay trong lãnh vực con người, một người cha, tuy có những khiếm khuyết, còn
biết cho con cái những của tốt lành, chẳng lẽ Thiên Chúa là "Cha",
Đấng có mọi tình phụ tử, lại không xử sự hơn thế sao?
Cách thức Đức
Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện cho hiểu rằng Người biết và luôn chiêm ngưỡng
Thiên Chúa. Dựa trên cái nhìn này, Đức Giêsu mời chúng ta cầu nguyện tha thiết,
Người hứa với chúng ta rằng chắc chắn chúng ta sẽ được nhận lời (cc. 9-10). Cho
tất cả những ai xin bất cứ điều gì, Thiên Chúa sẽ ban Thánh Thần. Ân ban này
độc lập với nội dung của từng lời cầu nguyện. Thánh Thần là Thần Khí của Thiên
Chúa, Thần Khí liên kết chúng ta với Thiên Chúa. Ngài là Thần Khí làm cho chúng
ta thành con Thiên Chúa và giúp chúng ta có thể kêu lên "Cha ơi!".
+ Kết luận
Bởi vì Người biết
và luôn luôn chiêm ngưỡng Thiên Chúa, bởi vì Người cũng biết ý nghĩa và cùng
đích của đời sống chúng ta, Đức Giêsu có thể dạy chúng ta cầu nguyện cùng Thiên
Chúa hơn bất cứ ai trước Người. Trong Kinh Lạy Cha, Đức Giêsu cung cấp cho
chúng ta không những một bản văn kinh nguyện, mà còn cho một kiểu mẫu về các
nội dung của lời cầu nguyện của chúng ta. Chúng ta được gọi Thiên Chúa là
"Cha": tương quan của Thiên Chúa với chúng ta là như tương quan của
một người cha với các con mình. Và chúng ta hoàn toàn có thể tin cậy vào lòng
nhân lành của Thiên Chúa. Trong lời cầu nguyện, chúng ta chứng tỏ mình có một
hình ảnh về Thiên Chúa và cảm nghiệm thế nào về Ngài. Trong lời cầu nguyện,
chúng ta thể hiện tương quan của chúng ta với Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Trong khi cầu
nguyện, Đức Giêsu gọi Thiên Chúa là "Cha" (10,21; 22,42; 23,34-46),
bởi vì Người biết Cha như thế. Lời dạy về cầu nguyện cũng đồng thời là một lời
dạy về đức tin. Chúng ta phải tin rằng Thiên Chúa là Cha chúng ta và Ngài quan
hệ với chúng ta với tất cả sự quan tâm và yêu thương. Chúng ta phải ngỏ lời với
Ngài và dâng lên Ngài những lời thỉnh cầu với đức tin này. Nếu chúng ta có một
ý tưởng đúng về Ngài, chúng ta sẽ trình với Ngài những lời thỉnh cầu đầy tin
tưởng và hy vọng và cậy vào sự giúp đỡ của Ngài.
2. Đức Giêsu dạy
chúng ta phải và có thể cầu xin cho có những nhu cầu vật chất. Người không bảo
chúng ta xin cho có dư thừa. Lời cầu nguyện Người dạy cũng không thu hẹp lại
theo kiểu ích kỷ, Người dạy xin cho "chúng con", tức là tất cả những
ai đang cầu nguyện.
3. Thiên Chúa
không đẩy chúng ta vào cám dỗ với mục đích làm cho chúng ta rơi vào tội lỗi.
Nhưng Ngài có thể thử thách chúng ta, có thể thử sự bền vững và chắc chắn của
chúng ta. Với lời xin cuối cùng, chúng ta được mời gọi loại trừ mọi cao ngạo và
tự phụ.
4. Như người bạn
đến xin người láng giềng giúp cho một nhu cầu, chúng ta cũng phải ngỏ lời với
Thiên Chúa không phải vì những chuyện phù phiếm, nhưng là để trình bày với Ngài
những nhu cầu thực tế của chúng ta và của người khác. Đứng trước Thiên Chúa,
chúng ta không cần phải tìm kiếm hoặc tính toán so đo về các lời lẽ, nhưng
chúng ta có thể nói thẳng ra với Ngài. Và khi cầu nguyện, chúng ta không được
mệt mỏi hoặc nản chí. Chúng ta không được bỏ Ngài, không mong được Ngài giúp
đỡ, để rồi đi theo đường mình cách cam chịu hoặc tự phụ. Chúng ta cứ phải liên
kết với Ngài bằng một lời cầu nguyện kiên nhẫn, đầy niềm tin tưởng và đơn sơ,
lặp đi lặp lại và không mỏi mệt.
5. Đức Giêsu cam
kết rằng nếu chúng ta tha thiết cầu nguyện, chúng ta sẽ được Thiên Chúa nhận
lời. Tuy nhiên, dường như điều này không đúng với kinh nghiệm chúng ta? Thật ra
Đức Giêsu bảo đảm rằng Thiên Chúa chỉ ban những của tốt lành, nhưng Người không
hề bảo đảm là lời cầu nguyện của chúng ta luôn luôn có nội dung là những ân ban
mà chúng ta thấy là tốt lành. Người cha không đưa con rắn cho đứa con xin cá.
Nhưng nếu người con xin một con rắn mà nghĩ rằng đó là điều tốt, thì người cha,
chính vì ông tốt, ông sẽ không nhận lời xin này. Vậy chính Thiên Chúa phán đoán
về các lời thỉnh cầu của chúng ta. Chúng ta không thể qui định cho Ngài cách
thức Ngài phải theo mà nhận lời chúng ta. Chỉ có một điều là chúng ta chắc chắn
rằng Ngài sẽ nhận lời vào lúc tốt nhất cho chúng ta.
6. Không có gì lạ
nếu khi dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là "Cha", Đức Giêsu lại hứa là
những ai ngỏ lời với Thiên Chúa sẽ được Ngài ban Thánh Thần. Nếu chúng ta ngỏ
lời với Thiên Chúa trong đức tin, chúng ta đã đang cầu nguyện trong sức mạnh
của Chúa Thánh Thần rồi. Và khi cầu nguyện như thế, chúng ta đã sẵn sàng để cho
mình được thấm nhuần sâu xa hơn bởi Thần Khí này, để cho Ngài trở nên sống động
trong ta, và càng ngỏ lời với Thiên Chúa như là Cha chúng ta trong niềm tin
tưởng trọn vẹn hơn. Điều quan trọng hơn mỗi lời xin và mỗi sự nhận lời, đó là
tương quan chúng ta thiết lập với Thiên Chúa trong cầu nguyện. Lời kinh dâng lên
với đức tin đã là một sự nhận lời rồi, bởi vì khi đó dây liên kết chúng ta với
Thiên Chúa được đào sâu thêm và tăng trưởng hơn: Thiên Chúa ban Thánh Thần cho
những ai cầu nguyện và đón tiếp họ vào trong sự hiệp thông ngày càng sống động
và thân tình hơn với Ngài.
23. Chú
giải mục vụ của Hugues Cousin
GIÁO HUẤN VÀ CẦU
NGUYỆN
Từ lời kinh ngợi
khen Chúa Giêsu dâng lên Cha (10,21-22), chương 10 đã minh hoạ, bằng nhiều cách
khác nhau, thái độ mà người môn đệ phải có đối với Thiên Chúa. Sự kiện Chúa
Giêsu cầu nguyện, rất thường được Luca nhắc đến, ở đây được dùng làm điểm xuất
phát cho một lời yêu cầu. Giáo huấn Chúa Giêsu ban gồm ba phần: Kinh Lạy Cha,
dụ ngôn người bạn quấy rầy và việc áp dụng dụ ngôn.
1. KINH LẠY CHA
(11, 1-4)
Đây không phải là
vấn đề cầu nguyện nói chung, cũng không phải cách thức cầu nguyện để lắng nghe
một Đấng khác. Một môn đệ xin Chúa Giêsu một bản kinh để thêm vào những kinh
chính thức của đời sống Do Thái và là lời kinh đặc điểm của nhóm các môn đệ
giống như kinh mà chúng ta không biết rõ- vị Tẩy Giả dùng trong nhóm của ông. Ở
Qumran, Luật Cộng đoàn của những người Esséniens có một thánh thi dùng cho nghi
thức đón nhận những phần tử mới, vào dịp lễ Ngũ tuần (1QS, cột XI, hàng 2-15).
Bản Kinh Lạy Cha
mà Luca có được ngắn hơn Mt 6,9-13; Nó gồm một lời khẩn cầu, hai ước mong và ba
lời thỉnh nguyện. Trước hết, người môn đệ được mời gọi, được quyền xưng hô với
Thiên Chúa bằng cách dùng cũng một ngôn ngữ mà Chúa Giêsu dùng trong lời nguyện
của Ngài: "Lạy Cha" (x. 10,21); quan hệ thẳm sâu giữa họ với Chúa
phải chăng đã không được mặc khải rồi sao (x.10,22)? Tiếp theo là hai lời ước
nguyện cũng có trong kinh nguyện Do Thái Qaddish: sự hiển thánh tôn Danh (xin
Thiên Chúa đích thân can thiệp và tự mặc khải như Thiên Chúa cách tỏ tường, xin
Ngài tỏ mình ra!) và việc Vương quốc đến (xin Chúa thân hành đến và bày tỏ sự hiện
diện cao cả và hoạt động của Ngài!). Dưới hai hình thức khác nhau, cũng một lời
khẩn cầu thống thiết được nói lên: "Lạy Cha, xin hãy đến!"; Thiên
Chúa là "đối tượng" duy nhất của lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa
(c.2).
Chỉ trong giai
đoạn hai các môn đệ mới nêu lên ba lời thỉnh cầu cho họ, với tư cách là cộng
đoàn (việc dùng tiếng chúng con, các câu 3-4). Thỉnh cầu thứ nhất nói đến lương
thực cho họ cần hằng ngày để sống trên đời. Ở đây có một ám chỉ về manna, thứ
bánh từ trời đã nuôi dân Chúa trong cuộc xuất hành và, theo như sự mong đợi của
người Do Thái, sẽ lại được ban làm thực phẩm cho cộng đoàn của thời đại cuối
cùng. Trong Tin Mừng Luca, bánh sự sống này, các tín hữu được mời gọi kêu xin
cho mỗi ngày. Thỉnh cầu thứ hai, xin Chúa đoái thương tha tội chúng ta! Đó là điều
tuyệt đối cần thiết để chúng ta có thể gặp gỡ Chúa đang đến, mà không bị chết
ngay vì sự thánh thiện chói sáng của Ngài. Sự tha thứ của Chúa là một hồng ân
nhưng không mà chẳng bao giờ có ai xứng đáng lãnh nhận; nhưng ít ra phải có khả
năng để đón nhận. Mà từ chối tha thứ cho kẻ khác, phải chăng không là nguy cơ
làm cho thiếu khả năng đón nhận được ơn Chúa tha tội? Một lời xin cuối cùng xin
cho chúng ta khỏi bị cám dỗ chối bỏ, khước từ Chúa Giêsu Kitô (x. 8,12; 22,40).
Điều đáng ngạc
nhiên nhất trong kinh Lạy Cha là: Khi đặt tất cả chú ý về Cha như trung tâm, nó
không nói một tiếng về Con mà Cha đã sai đến. Không nói gì đến Chúa Kitô ở đây
là một trong những điều có ý nghĩa hơn cả: tránh bỏ hết mọi quan tâm đến bản
thân, Chúa Giêsu luôn hướng nhìn về Cha. Chúng ta cũng để ý một sự thinh lặng
khác nữa. Trong khi mà lời kinh có tính phổ quát nhất trong các kinh nguyện của
người Do Thái, kinh Qaddish, nhắc đến "nhà Israel", đôi khi
"thành Giêrusalem", "Thánh điện" và "Đất" thánh,
thì ở đây không có một ghi chú nào về địa lý. Các nơi Thánh không còn hiện hữu
nữa; mọi dân tộc có đọc kinh này.
2. DỤ NGÔN NGƯỜI
BẠN QUẤY RẦY (11, 5-8)
Qua dụ ngôn này
thánh sử đưa ra ánh sáng một khía cạnh của kinh Lạy Cha: đó là một lời cầu
nguyện xin ơn. Mà trong lĩnh vực này, phải biết tỏ ra kiên trì đối với Thiên
Chúa, điều này rất quan trọng dưới cặp mắt của Luca, và ông sẽ lặp lại giáo
huấn này ở 18,1tt bằng một dụ ngôn khác.
Vấn nạn ban đầu
bắt buộc thính giả phải có một phương diện cá nhân, trong khi chính Chúa Giêsu
sẽ nói rõ rệt về việc áp dụng dụ ngôn (xc.8). Toàn bộ trình thuật cho thấy rõ
những tương quan của con người đối với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện. Sẽ sai
lầm khi tách rời từng yếu tố và, chẳng hạn tưởng tượng rằng lời cầu nguyện của
con người thức tỉnh Thiên Chúa hoặc là Thiên Chúa chỉ đáp lại để khỏi bị quấy
rầy. Dụ ngôn nói đến ba nhân vật. Anh chàng lì lợm có hai người bạn không quen
biết nhau. Nếu anh ta đến gõ cửa nhà một trong hai người vào giữa đêm tối để
mượn bánh, có nghĩa là người kia ở xa vừa đến nhà anh ta bất ngờ và xin tạm trú.
Người lữ hành này đi đường vào buổi chiều và một phần ban đêm để tránh cái nóng
ban ngày. Hãy để ý: anh bạn mà người đang ngủ bị đánh thức dậy muốn đuổi khéo
không xin gì cho anh ta cả, và chính anh ta mới là kẻ bị người khác đến bất ngờ
gây rắc rối nhất! Anh ta kêu gọi nhân danh tình bạn để được ba ổ bánh, nhưng
người kia từ chối giúp đỡ anh ta, không gọi anh ta là"bạn" và không
muốn làm cho con cái phải thức giấc. Kết luận của Chúa Giêsu đi từ chính việc
từ chối hành động vì tình bạn, hơn một lý do khác khiến người đang ngủ cho điều
mà người kia cần: đó là tính cách lì lợm của kẻ đi xin. Sự kiên trì đã được trả
giá.
3. ÁP DỤNG DỤ
NGÔN (11, 9-13)
Chúa Giêsu tiếp
tục giáo huấn một cách long trọng (c.9a) bằng cách mở rộng phạm vi của cầu
nguyện kể trong dụ ngôn. Giáo huấn ở đây được lấy từ Nguồn các lời. Ngài mời
gọi các môn đệ cầu nguyện (c.8) khởi đi từ một giả định về sự khôn ngoan nhân
loại (c.9). "Tìm" là một từ được dùng trong Kinh Thánh để gợi lên sự
cầu nguyện (x. Thánh vịnh 24,6; 27,8). Như cách làm của một hiền nhân, Chúa
Giêsu gợi lên ba hình thức cầu xin: xin, tìm, gõ rồi kết quả của từng việc đó.
Tuy nhiên Ngài không nhấn mạnh đến sự kiên trì của con người nhưng đến hồng ân
của Thiên Chúa; ba động từ ở thể thụ động quy chiếu về hành động của Chúa: thì
sẽ được ban cho anh em (chứ không phải "anh em sẽ nhận được") thì sẽ
mở cho (hai lần), con người phải tin cậy và Đấng cho và mở.
Hai minh hoạ được
đưa ra để biện minh cho một lòng tin cậy như thế (c. 11-12). Như trong dụ ngôn,
một câu hỏi hùng biện được dùng để trực tiếp chất vấn thính giả: Người cha nào
trong anh em...? Từ liên hệ giữa bạn hữu mà dụ ngôn vừa mô tả Chúa Giêsu nói
tới liên kết giữa một người cha với đứa con của ông. Cái lý luận tiên thiên,
dẫn từ một cách cư xử mâu thuẫn với cách cư xử của kẻ có ý thức, dựa vào giống
nhau bề ngoài giữa con rắn và và con cá, giữa con bò cạp và quả trứng. Và lại
không có người cha nào trên đời làm con mình thất vọng khi chơi cái trò dối gạt
đó. Phải chăng đó không là kinh nghiệm thường ngày của từng người?
Phải rút ra bài học
(c.13) bằng cách giải thích việc so sánh giữa Cha trên trời và một người cha
trần thế. Không thể có mức độ giống nhau giữa lòng nhân từ của Thiên Chúa và
lòng tốt của cha mẹ trần gian. Như vậy, ta phải kết luận rằng những hồng ân của
Ngài vô cùng cao quý hơn. Trong khi Nguồn các lời, mà thánh sử dùng cho các câu
9-13, khẳng định: "Chúa sẽ ban những của tốt lành cho những kẻ xin
Người" (Mt 7,11), thì hồng ân tối hảo mà Chúa Cha ban cho con cái Ngài
được Luca xác định rõ: đấy là Thánh Thần. Thực ra, Chúa Thánh Thần sẽ xuất hiện
trong Công vụ, như một hồng ân đặc biệt của việc Thiên Chúa vào thời cuối cùng
(Cv 2,33-38).
24. Chú
giải của Noel Quesson
Có một lần Đức
Giêsu cầu nguyện ở nơi kia. Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm
môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như
ông Gioan đã dạy môn đệ của ông
Khi nhìn thấy
Người cầu nguyện... họ chờ đợi bên Người, và không quấy rầy Người. Phần chúng
ta, chúng ta không có cái may mắn nhìn thấy Đức Giêsu đang cầu nguyện. Tuy
nhiên chúng ta có thể thử làm cho trí tưởng tượng của chúng ta hoạt động... và,
bằng tâm trí, nhìn ngắm Đức Giêsu đang cầu nguyện. Đức Giêsu thường cầu nguyện
lâu! Người là "vị thầy của sự cầu nguyện" không chỉ vì Người cho
những lời khuyên mà còn vì Người nêu gương cầu nguyện.
Ngày nay, có một
sự phục hồi việc cầu nguyện ở mức độ nào đó. Tuy nhiên, phần lớn con người ngày
nay, nam cũng như nữ đều có khó khăn khi cầu nguyện. Vô số những lời phê phán
của tâm thức hiện tại ảnh hưởng đến tất cả chúng ta một cách vô thức: cầu
nguyện là đào nhiệm; đừng xin Chúa làm thay cho bạn, bạn hãy xắn tay áo mình
lên... cầu nguyện là một hành động ma thuật của những người sơ khai không biết
những quy luật chính xác của tự nhiên... cầu nguyện là một sự tha hoá; bạn hãy
đảm nhận tầm vóc của con người... không Chúa, không Thầy... bạn hãy gạt bỏ
những điều mê tín tối tăm...
Lạy Đức Giêsu,
xin dạy cho chúng con biết cầu nguyện? Xin dạy cho chúng con biết rằng sự cầu
nguyện Kitô giáo không phải là bất cứ sự cầu nguyện nào. Chúng con phải thanh
luyện sự cầu nguyện của chúng con và học cách cầu nguyện.
Người bảo các
ông: "Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: "Lạy Cha..."
Dân Do Thái đã
gọi Thiên Chúa bằng "Cha" như nhiều tôn giáo khác (Hô sê 11,3;
Giêrêmia 3,19; Isaia 63,16; Khôn Ngoan 5,5 v.v...).
Tuy nhiên Đức
Giêsu đã đổi mới từ này, khi Người dám thưa cùng Thiên Chúa: "Abba"!
"ba ơi".., từ ngữ chỉ sự thân mật mà trước Người ít khi người ta dùng
đến. Chính khi các môn đệ nhận thức được kinh nghiệm độc nhất của Đức Giêsu, họ
mới khẳng định Người là "Con Thiên Chúa" trong một ý nghĩa hoàn toàn
đặc biệt. Khi chúng ta lặp lại lời "cầu nguyện của Đức Giêsu, đến lượt
mình, chúng ta dám nghĩ rằng "Chúa Cha yêu thương chúng ta bằng chính tình
yêu mà Người yêu mến Con Một của Người" (Gioan 20,17).
Xin làm cho danh
thánh Cha vinh hiển...
Trong Kinh Thánh,
"danh" là để biểu hiện ngôi vị...Sự "thánh thiện" là điều
làm cho Thiên Chúa, bởi sự siêu việt lửa tình yêu và quyền năng, trở thành Đấng
Hoàn Toàn Khác (Tha Thể Tuyệt Đối).
Vậy trước khi nói
với Thiên Chúa các nhu cầu của chúng ta, chúng ta phải theo Đức Giêsu cầu
nguyện tôn vinh chính Chúa Cha. Không có gì là ma thuật, tha hoá trong lời cầu
nguyện hoàn toàn vô tư và vô vị lợi này.
"Xin làm cho
danh thánh Cha vinh hiển" có thể được diễn tả bởi: Xin Cha hãy thể hiền sự
toàn năng của Cha là lòng nhân hậu vô cùng, tình phụ tử vô biên... xin Cha chỉ
cho chúng con biết Cha là Chúa Cha... vô cùng và tuyệt đối là
"Cha"... một người Cha hoàn toàn khác chúng con, cha hơn chúng con vô
cùng. Nếu người ta có thể đặt vào một tấm lòng tình yêu thương vốn đã tuyệt vời
của tất cả các ông bà và bà má của trần gian, thì người ta chỉ có được một phần
nhỏ nhoi và thấp kém của Chúa Cha "là nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới
đất" (Ep 3,15).
Triều Đại Cha mau
đến...
Lời cầu xin thứ
hai hầu như đồng nghĩa với lời cầu xin thứ nhất. Triều đại Cha mau đến. Xin
Thiên Chúa hoạt động bên trong mọi tạo vật. Người vốn là Tình Yêu (1 Ga4,7 đến
21) Xin Tình Yêu lên ngôi vua! Xin Tình Yêu ngự trị!
Chủ đề
"Triều đại của Thiên Chúa" hiện diện thường xuyên trong Cựu ước! Sử
biên niên 16,30-33; Tôbia 13,1, Thánh. Vịnh 21,28-28.,67,33-36-97-102,19; Isaia
11,1-9, - 33,17-24 - 54,7-12; Đanien 8,23): Trong tư tưởng của ít-ra-en các vua
trần thế chỉ là các "đại diện", vương quyền thuộc về một mình Thiên
Chúa. Và khi tuân thủ Luật của Thiên Chúa mà ít-ra-en làm cho Thiên Chúa thực
sự trị vì.
Vào thời của Đức
Giêsu đã từ lâu, không còn vua ở Giêrusalem như vào thời của vua Đavít hoặc
Salômôn. Như thế, do sự xâm chiếm của nước ngoài, sự chờ.đợi. Đấng Mêsia đã nổi
lên mạnh mẽ và được diễn tả trong kinh cầu Qaddish của người Do Thái: xin làm
cho Danh cao cả của Người được thánh hoá trong thế gian mà Người đã tạo dựng
theo ý chí của Người, xin Người làm cho Triều Đại Người được hiển trị và sự
giải thoát được nẩy mầm, Đấng Mêsia của Người đến gần".
Đức Giêsu công bố
rằng Triều Đại của Thiên Chúa đến rất gần nó đã hình thành ở đó rồi, nhưng
không phải một cách huy hoàng... như một ít men, như một hạt giống vùi sâu trong
lòng người (Mt 3,2-4-17-10,7 - 13,24-31,36-50).
Vì thế rõ ràng
chúng ta không thể thực hiện lời cầu nguyện ấy mà chính chúng ta không làm việc
cho triều đại ấy lớn lên trong sự chắc chắn của Ngày cánh chung, ngày mà dự án
của Chúa Cha sẽ thể hiện sử thành công trọn vẹn, sự hoàn tất.
Ở đây chúng ta
hãy ghi nhận ràng Luca không thuật lại cho chúng ta "Kinh Lạy Cha"
được toàn thể Giáo Hội đọc và đó là Kinh Lạy Cha trong Tin Mừng của Mát-thêu.
Có lẽ Luca đã rút gọn lại, bỏ bớt hai lời xin (ý Cha thể hiện và... nhưng cứu
chúng con khói mọi sự dữ). Không một thánh sử nào quan niệm phải theo sát từng
lời của Đức Giêsu mà truyền thống nhận được. Các ngài quan niệm Kinh Lạy Cha
như một định hướng tổng quát về sự cầu nguyện hơn là một định thức bất biến.
Đức Giêsu không xơ cứng điều gì, không biến điều gì thành nghi thức. Và Giáo
Hội, ngay từ những thời kỳ đầu, đã luôn luôn sử dụng nhiều công thức khác nhau
trong phụng vụ... trên nền tảng một sự thống nhất chung.
Xin Cha cho chúng
con ngày nào có lương thực ngày ấy
Trước hết, sau
khi đã lấy các "dự án của Chúa Cha" làm dự án của chúng ta giờ đây
chúng ta có thể trình bày những ước muốn của chúng ta. Đức Giêsu gợi ý cho
chúng ta ba điều: lương thực... sự tha thứ... sự tự do đối diện với cái chết...
Ở đây cũng vậy,
Luca đã thay đổi bản văn của Mát-thêu. Vị thánh sử này nói: "Xin Cha cho
chúng con hôm nay lương thực hàng ngày". Luca có lẽ sống với một cộng đoàn
Kitô hữu quá nghèo khổ nên đã thêm vào một sắc thái, và nhấn mạnh: "Xin
Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy... " Lời cầu nguyện này
rất khiêm nhường, mặc dù không có về gì nhưng đã cáo giác tâm thức của những
Người giàu có chúng ta. Đức Giêsu không ngừng nhấn mạnh để chúng ta không nên
lo lắng quá về ngày mai (Lc 12,22-32; Mt 6,34). Trong cuộc xuất hành qua sa
mạc, dân Chúa không thể tích trữ lương thực man-na trước cho nhiều ngày (Xh
16,4). Từ ngữ Hy Lạp "épiousios" mà người ta đã dịch là '"mà
chúng con cần" chỉ được dùng ở đây trong toàn bộ Kính Thánh. Nó nhắc đến
một từ Do Thái, cũng hiếm khi gặp, được dùng trong sách Châm ngôn: 30,8:
"Xin đừng để con nghèo túng, cũng đừng cho con giàu có; xin cho con cơm
bánh cần dùng!".
Lời cầu nguyện
này khó thực hiện trong những xã hội dư thừa của chúng ta.
Lời cầu nguyện
này là của mọi người chỉ sống ngày qua ngày. Nhưng từ "chúng con" mà
chúng ta đọc, tiếp nối Đức Giêsu, rõ ràng phải buộc chúng ta bao gồm trong kinh
nguyện này mọi người đang thiếu thốn lương thực mỗi ngày. Tôi không có quyền
đọc "Kinh Lạy Cha" chỉ cho tôi: Xin Cha cho chúng con lương thực...
Và nếu lời cầu nguyện của tôi chân thật, thì nó phải khiến tôi chia sẻ lương
thực với những người đang đói.
Xin tha tội cho
chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con
So với công thức
của Mát-thêu, Luca đã xác định từ "lỗi" khi dịch ra bang từ
"tội": Thật vậy, vì tội là trở ngại lớn nhất cho Triều Đại của Thiên
Chúa cũng như cho sự chia sẻ lương thực trong tình huynh đệ? Hơn thế nữa, Luca
đã thêm từ "tất cả", để chỉ sự phổ quát của sự tha thứ ấy mà chúng ta
thực hiện với những người khác nếu chính chúng ta muốn được Thiên Chúa tha thứ.
Ôi! sự tha thứ ấy
là điều chủ yếu của các Kitô hữu vì Đức Giêsu thường xuyên nói về điều đó (Lc
23,34 - 6,36; Mt 11,19-26,28 - 6,14-18 - 22~5; Mc 1.1.,25; Gc 2,13). Niềm vui
mà Thiên Chúa cảm thấy khi tha thứ cho kẻ tội lỗi như thế phải trở thành viên
đá thử vàng mọi hành động của Kitô hữu. Một cô bé đã nói với thầy dạy giáo lý
của cô: Một Kitô hữu chính là một người tha thứ. Trước khi đi xa hơn trong kinh
nguyện của tôi... tôi dừng lại một chốc để tôi thật lòng tha thứ cho "tất
cả những người đã có lỗi với tôi". Và chúng ta đừng bao giờ nói rằng sự
cầu nguyện là ma thuật, vụ lợi, đào nhiệm. Đúng ra nó là một sự dấn thân quảng
đại, một yêu sách phi thường, gần như siêu phàm.
Xin đừng để chúng
con sa chước cám dỗ
Nhiều nhà chú
giải nghĩ rằng đây là sự cám dỗ lớn! Cơn cám dỗ rất đáng sợ ấy: là "đánh
mất Đức tin", "bỏ rời Đức Giêsu". Thử thách to lớn ấy đã khiến
Đức Giêsu phải nói: "Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng
tin trên mặt đất nữa chăng?" (Lc 18,8). Trong khi kể lại cơn hấp hối của
Đức Giêsu trong vườn Ghếtsêmani, Tin Mừng của Luca đã hai lần nhắc lại lời Đức
Giêsu khuyến cáo các bạn hữu của Người (22,40 và 22,46): Hãy cầu nguyện kẻo sa
chước cám dữ... Phải, cơn cám dỗ lớn nhất chính là bỏ rơi Đức Giêsu trong dụ
ngôn người gieo hạt giống, Đức Giêsu nhắc chúng ta phải cảnh giác: Có những
người, tin trong một thời gian nào đó và đến giờ thử thách, và bị cám dỗ, họ đã
chồi bỏ đức tin (Lc 8,13) Vậy mỗi ngày chúng ta phải chiến đấu chống lại sự ác,
để chinh phục tự do... và khiêm nhường xin Chúa ban cho ân sủng không bị
"khuất phục", bị trói buộc và tha hoá!
Người còn nói với
các ông: "Ai trong anh em có một người bạn, và nửa đêm đến nhà người bạn
ấy mà nói: 'Bạn ơi, cho tôi vay ba cái bánh, vì tôi có anh bạn lỡ đường ghé lại
nhà, và tôi không có gì dọn cho anh ta ăn cả'; mà người kia từ trong nhà lại
đáp: 'Xin anh đừng quấy rầy tôi: cửa đã đóng rồi, các cháu lại ngủ cùng giường
với tôi, tôi không thể dậy lấy bánh cho anh được.'? Thầy nói cho anh em biết:
dẫu người kia không dậy để cho người này vì tình bạn, thì cũng sẽ dậy để cho
người này tất cả những gì anh ta cần, vì anh ta cứ lì ra đó. "Thế nên Thầy
bảo anh em: anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở
cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai
trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà
cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu
mà còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời lại
không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?"
Đây là kho tàng
duy nhất mà chúng ta phải xin Thiên Chúa: Thần Khí của Người!
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét