CHÚA NHẬT 15 THƯỜNG NIÊN - C
Lời Chúa: Đnl. 30, 10-14; Cl. 1, 15-20;
Lc. 10, 25-37
MỤC LỤC
1. Tội thờ ơ
2. Nhớ mang theo trái tim - ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
3. Yêu rồi làm – Thiên Phúc
4. Hãy yêu thương thì sẽ được sống –
André Sève
5. Ai là anh em của tôi? – Veritas
6. Ai là người thân cận
7. Hãy đi và làm như vậy
8. Phục vụ nâng cao giá trị con người
9. Ông hoàng hạnh phúc – Lm Jos. Tạ Duy
Tuyền
10. Người Samaritanô nhân hậu
11. Yêu người
12. Ai là người Samaria tốt nhất? -
Charles E. Miller
13. Người Samari tốt lành – Flor
McCarthy
14. Giới luật yêu thương - R.
Gutzwiller
15. Tình yêu và hạnh phúc
16. Một lệnh truyền khó xử – Achille
Degeest
17. Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân
18. Suy niệm của JKN
19. Người Samaria nhân từ
20. Yêu thương
21. Chú giải của Fiches Dominicales
22. Ai là người thân cận của tôi? - Lm
Vũ Phan Long
23. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
24. Chú giải của Noel Quesson
1. Tội thờ ơ.
Tôi đã chứng kiến không chỉ một lần
cảnh đám đông vây quanh một đánh đánh lộn bên đường phố. Có khi đó là hai thanh
niên quyết ăn thua đủ với nhau. Có khi đó là một người đàn ông đánh đập tàn
nhận một người đàn bà. Có khi đó là hai cô gái sừng sổ với nhau. Điều đáng nói
là mọi người dường như có vẻ dửng dưng, như chứng kiến một cánh đấm đá trên màn
ảnh? Phải chăng con người ngày nay đã xơ cứng trước nỗi thống khổ của kẻ khác?
Thực tế có lẽ không đến nỗi quá quắt
như vậy. Người ta chỉ thờ ơ để khỏi mang vạ vào thân giữa một xã hội mạnh ai
nấy sống. Tuy thế cũng thật đáng buồn và đáng suy nghĩ. Tôi chắc có nhiều người
cũng như tôi, không hẳn là mình không muốn can ngăn những cuộc ẩn đả xảy ra
ngoài đường phố hay trong khu xóm. Có điều cái thói thờ ơ, để khỏi bị liên luỵ
và được yên lòng, đã chiếm lĩnh lối sống ích kỷ, cầu an cá nhân của mình. Sống
với tâm trạng như thế, chúng ta đọc sao được câu chuyện người Samaria nhân hậu
của Tin Mừng.
Người Samaria là một anh chàng không có
đạo, mà không có đạo cũng đồng nghĩa với không thể sống bác ái lương thiện.
Quan niệm Do Thái hẹp hòi và thiển cận ấy, như một mẫu mực để những ai muốn có
cuộc sống đời đời phải nhìn đó mà noi theo. Người Samaria ngoại đạo đã trổi
vượt hơn những người chính thống, đạo đức nhất của xã hội và Giáo Hội lúc bấy
giờ là thầy Lêvi và vị tư tế. Trổi vượt trong lãnh vực yêu thương, cứu giúp
những người gặp vận nạn hiểm nguy trong cuộc sống. Còn chúng ta thì sao?
Tôi xin thưa chúng ta cũng phải trở nên
là những người Samaria nhân lành của thời buổi hôm nay. Có nghĩa là chúng ta
không phải chỉ sống cho riêng mình mà còn sống cho người khác. Chúng ta không
chỉ lo toan cho cá nhân mà còn quan tâm tới hết mọi người chung quanh. Chúng ta
không chỉ nghiêm túc trong giờ phụng vụ mà còn nghiêm túc trong mọi lãnh vực
kinh doanh và sản xuất.
Trong xã hội, kẻ thờ ơ với tha nhân
cũng nhiều, nhưng những người Samaria hiện đại cũng không thiếu. Họ có khi mang
danh hiệu Kitô hữu, có khi mang danh hiệu Phật tử, có khi mang danh hiệu cộng
sản và có khi chẳng mang một danh hiệu nào cả. Nhưng họ giống như Đức Kitô đã
sống và họ tiếp cận được với Thiên Chúa cũng như với tha nhân. Vậy thì để trở
nên những người Samaria thời buổi hôm nay, chúng ta đã thực sự có được một trái
tim mở rộng, một thái độ quan tâm đến mọi người, mọi việc kế cận với chúng ta
hay chưa?
2. Nhớ mang theo trái tim - ĐTGM. Ngô
Quang Kiệt
Trường sinh bất tử, muốn được hạnh phúc
vĩnh viễn, muốn được sống đời đời, đó là mơ ước muôn đời của mọi người. Hôm
nay, một thày thông luật nói lên mơ ước đó khi ông hỏi Chúa "làm cách nào
để được hưởng sự sống đời đời".
Để trả lời ông, Chúa Giêsu kể câu
chuyện, một câu chuyện bình thường xảy ra hằng ngày: Một người đi đường từ
Giêrusalem xuống Giêrikhô, dọc đường bị cướp trấn lột, đánh nhừ tử, dở sống dở
chết nằm rên rỉ bên vệ đường. Thày tư tế đi ngang thấy thế tránh qua bên kia
đường mà đi. Thày Lêvi cũng thế. Nhưng một người xứ Samaria, một người ngoại
đạo, đã chạnh lòng thương, dừng lại băng bó cho nạn nhân. Chưa hết, ông còn chở
nạn nhân đến quán trọ. Hơn thế nữa, ông gửi tiền để nhờ chủ quán chăm sóc nạn
nhân cho đến khi bình phục.
Qua câu chuyện người xứ Samaria nhân
hậu, Chúa Giêsu chỉ cho ta con đường dẫn đến sự sống đời đời.
Đường Giêrikhô tượng trưng cho con
đường về Nước Trời. Đó là con đường gập ghềnh khó đi. Đó là con đường nguy hiểm
vì có trộm cướp rình rập. Đó là con đường thử thách. Để vượt qua thử thách, vũ
khí duy nhất hữu ích là trái tim. Trái tim chiến thắng có những phẩm chất như
sau:
Đó phải là một trái tim nhạy bén.
Người xứ Samaria nhân hậu có một trái
tim nhạy bén. Dù đang bận việc riêng, dù vó ngựa phi nhanh, ông vẫn nhìn thấy
người bị nạn nằm bên vệ đường. Dù tiếng gió vù vù xen lẫn tiếng vó ngựa lộp
cộp, ông vẫn nghe được tiếng rên rỉ rất yếu ớt của người bị nạn. Trong khi đó,
thầy Tư Tế và Thầy Lêvi chỉ đi bộ lại không thấy, không nghe. Hay nói đúng hơn,
các thầy có nghe, có thấy nhưng trái tim các thầy đóng kín, nên các thầy chẳng
động lòng. Trái tim các thầy bị đóng kín vì những cánh cửa lề luật: Sợ đụng
chạm vào máu, vào người bị thương, sẽ trở thành ô uế không được tới đền thờ
dâng lễ vật. Người xứ Samaria không nghe bằng đôi tai, không nhìn bằng đôi mắt,
nhưng nghe và nhìn bằng trái tim. Trái tim nhạy bén có đôi tai thính lạ lùng.
Có thể nghe rõ tiếng rên rỉ thì thầm tận đáy lòng. Trái tim nhạy bén có đôi mắt
sáng lạ lùng. Có thể nhìn thấy cả những nỗi đau âm thầm trong tâm khảm.
Đó phải là một trái tim quan tâm.
Trái tim quan tâm đưa ta đến gần gũi
anh em. Trái tim quan tâm biết làm tất cả để phục vụ anh em. Các thầy Tư Tế và
Lêvi không có trái tim quan tâm nên khi thấy người bị nạn đã tránh sang bên kia
đường mà đi. Người xứ Samaria có một trái tim quan tâm nên ông lập tức đến gần
nạn nhân. Vì có trái tim quan tâm nên ông có thể làm tất cả để giúp nạn nhân.
Vì quan tâm nên ông đã mang sẵn bên mình nào là dầu, nào là băng vải. Chẳng học
nghề thuốc mà ông săn sóc vết thương một cách thành thạo. Chẳng luyện tập mà
ông đã lấy dầu xoa bóp rất nhanh, băng bó rất khéo. Chẳng có kỹ thuật mà ông
biết cách đưa được bệnh nhân lên lưng ngựa. Ông đã làm tất cả theo sự hướng dẫn
của trái tim. Với trái tim, ông đã làm tất cả với sự chuẩn xác và nhất là với
nhiệt tình để cứu nạn nhân.
Đó phải là một trái tim chung thuỷ.
Trái tim chung thuỷ không làm việc nửa
vời, nhưng làm đến nơi đến chốn. Trái tim chung thuỷ không mỏi mệt buông xuôi,
nhưng theo dõi giúp đỡ cho đến tận cùng. Người xứ Samaria bận rộn công việc,
nhưng vẫn lo lắng cho nạn nhân đầy đủ, gửi gắm chủ quán tiếp tục thuốc thang.
Và khi xong việc ông sẽ trở lại thăm hỏi để tiếp tục săn sóc cho đến khi khỏi
hẳn. Ông làm tất cả với một trái tim chung thuỷ vẹn toàn.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu dạy ta hiểu rằng:
đường đến sự sống đời đời là con đường mọi người vẫn đang đi. Nhưng chỉ người
đi với trái tim mới mong đến đích. Thầy Tư Tế và Thầy Lêvi đã rẽ sang hướng
khác vì các thầy không mang theo trái tim. Người xứ Samaria đã đi đến nơi vì
ông đi đường với trái tim nhân hậu, trái tim rất nhạy bén, rất quan tâm và rất
chung thuỷ. Với trái tim ấy, ông đã yêu người thân cận như chính mình ông. Với
trái tim ấy, ông đã mở đường đi đến sự sống đời đời.
Chúa Giêsu dạy tôi bắt chước người xứ
Samaria nhân hậu. Hãy lên đường với trái tim. Hãy lắng nghe với trái tim. Hãy
hành động với trái tim. Hãy đi trên đường của trái tim. Hãy để trái tim tham dự
vào mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi suy nghĩ. Hãy mang theo trái tim theo trên
khắp mọi nẻo đường. Con đường đi với trái tim chính là con đường dẫn đến sự
sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm
nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Theo ý bạn đâu là những dấu hiệu cho
thấy một tình yêu đích thực và đáng tin?
2- Mỗi khi gặp một người cần giúp đỡ,
bạn có hăng hái ra tay giúp ngay hay còn chần chờ, viện lý do để thoái thác?
3- Sau khi nghe dụ ngôn "Người xứ
Samaria nhân hậu", bạn có quyết tâm gì?
4- Mang theo trái tim nghĩa là gì?
3. Yêu rồi làm – Thiên Phúc
(Trích dẫn từ 'Như Thầy Đã Yêu')
Một vị ẩn sĩ sống trong một khu rừng
luôn bị một cô gái chơi đến cám dỗ. Ngạc nhiên trước sự thanh thản của vị tu
hành, nhưng đồng thời cũng nghi ngờ sự bất bình thường của người đàn ông, cô
liền hỏi một câu chế nhạo:
- Thầy không biết yêu sao?
Vị ẩn sĩ trả lời:
- Chưa đến giờ đó thôi?
Câu chuyện bỏ lửng tại đó. Một lần kia,
trong lúc đi khất thực, vị tu hành phát hiện người con gái hay đến phá phách
mình đó bị bọn cướp trấn lột và đánh cho thừa sống thiếu chết bên lề đường. Ông
bèn dừng chân lại săn sóc cô ta, chữa các vết thương và đưa cô về thành phố
điều trị
Cô gái sững sờ nhìn vị ân nhân mà chưa
biết mở lời ra sao, thì vị ẩn sĩ mỉm cười nói:
- Đã đến giờ rồi đấy, giờ của lòng
thương xót!
Người thông luật trong bài Tin mừng hôm
nay hỏi Chúa Giêsu: "Ai là người thân cận của tôi?" Thay vì trả lời,
Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samaria tốt lành: Một khách bộ hành đi từ
Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa
sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy tư tế và Lêvi "tránh qua
bên kia mà đi", thì người Samaria ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết
thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.
Chúa Giêsu hỏi lại người thông luật:
"Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp?" Hỏi tức là trả lời. Và
người thông luật đáp: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót". Chúa
Giêsu bảo: "Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy.
Vị ẩn sĩ trong câu chuyện trên đây và
người Samaria nhân hậu đã sống luật yêu thương một cách tuyệt vời, đó là
"yêu bằng việc làm". Yêu không chỉ trên đầu môi chót lưỡi, rồi phủi
tay không làm gì cả, mà yêu chính là "miệng nói tay làm", làm thực sự
với hết khả năng của mình. Những việc làm cụ thể thường hùng hồn hơn những lời
nói suông. Con đường dài nhất là con đường từ trái tim đến đôi tay. Chúa Giêsu
muốn chúng ta đi hết con đường đó: "Hãy đi và làm như vậy". Pascal đã
nói: "Khuyết tật lớn nhất của một người là phục vụ quá ít cho những kẻ họ
yêu thương".
Sở dĩ người ta không dám làm một cái gì
đó cho những người anh em, là vì họ không có can đảm vượt qua nỗi sợ.
Sở dĩ thầy tư tế và thầy Lêvi
"tránh qua bên kia mà đi" là vì các thầy sợ ô uế khi đụng vào xác
chết, sợ bọn cướp còn ẩn nấp đâu đây, sợ rắc rối phiền hà đến bản thân.
Sở dĩ chúng ta không dám làm một cái gì
đó cho người anh em khi họ cần giúp đỡ, là vì chúng ta sợ phải thiệt thòi, sợ
tốn công sức, sợ mất thời gian, sợ phải trả giá, sợ đụng đến sự an toàn, tiện
nghi của mình. Chúng ta muốn được yên thân! Thầy tư tế và thầy Lêvi đã tự hỏi:
"Điều gì sẽ xảy ra cho tôi, nếu tôi dừng lại và săn sóc người anh em bị
đánh nhừ tử?" Trái lại, người Samaria đã đảo ngược câu hỏi: "Điều gì
sẽ xảy ra cho người anh em bị đánh nhừ tử, nếu tôi không dừng lại và chăm sóc
người ấy?" Người Samaria tốt lành đã xả thân vào một hành động vị tha đầy
nguy hiểm.
Yêu thương không phải là cho đi một cái
gì, nhưng là cho đi chính bản thân. Yêu thương là hy sinh, là quên mình, là
hiến thân phục vụ tha nhân: Kahil Gibram có một câu nói chí tình: "Bạn cho
đi quá ít khi chỉ cho đi của cải. Chỉ khi nào cho đi chính mình, bạn mới thực
sự cho đi". Càng đi tìm bản thân, con người càng đánh mất chính mình. Càng
co cụm trong vỏ ốc ích kỷ của mình, con người càng chết dần mòn trong nỗi cô
đơn. Càng muốn được yên thân, con người càng vong thân.
Nỗi khát khao hạnh phúc của con người
chỉ có thể được lấp đầy khi họ biết đến gần, cúi xuống phục vụ tha nhân.
Con người chỉ thành đạt thực sự, con
người chỉ thực sự là người khi họ dám sống chết cho anh em.
Người tín hữu Kitô chỉ thực sự là con
Chúa khi họ dám tiêu hao vì người khác. Mẹ Têrêxa Calcutta nói: "Kitô hữu
là người trao ban chính bản thân mình".
Yêu rồi làm. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ
biết phải làm gì cho người anh em. Khi đã yêu rồi chúng ta sẽ có sáng kiến để
xả thân vì mọi người, nhất là những người nghèo hèn đau khổ. Khi đã yêu rồi,
chúng ta sẽ biết cách làm cho kẻ xa lạ nên người thân cận, kẻ thù địch nên
người bạn tốt, chỉ cần chúng ta dám dừng lại, đến gần và cúi xuống trước anh
em.
Lạy Chúa, cuộc sống đạo của chúng con
sẽ trở nên phù phiếm nếu cái cốt lõi của đạo là yêu thương chỉ là điều phụ
thuộc. Xin đừng để chúng con loay hoay với những tính toán ích kỷ; chai đá,
dửng dưng trước những khổ đau của anh em. Nhưng xin dạy chúng con biết chạnh
lòng xót thương và giúp đỡ những ai đang cần đến chúng con. Amen.
4. Hãy yêu thương thì sẽ được sống –
André Sève
(Trích dẫn từ 'Tin Mừng Chúa Nhật')
Rõ ràng là từ yêu thương được nói đến
nhiều ở đây. Nhưng chúng ta hãy cho hai từ khác đi kèm vì nếu không có hai từ
này, từ yêu thương sẽ không đứng vững nổi: làm và sống.
Đàng khác, mở đầu câu chuyện diễn ra
rất nhanh:
- Tôi phải làm gì để được sống? Luật sĩ
hỏi.
- Hãy yêu thương, Chúa Giêsu nói, cứ
làm như thế ngươi sẽ được sống
Vào lúc kết thúc, sau câu chuyện đẹp về
tình yêu thương, tiếng nói chiến thắng chính là: cứ làm như thế. Để chiến
thắng, Chúa Giêsu đã huy động hai nét của khoa sư phạm: cuộc đối thoại đanh
thép và câu chuyện không thể quên được.
Cho nên phải làm gì để được sống? Yêu
mến Chúa và anh em. Đây là hai tình yêu thương liên kết chặt chẽ với nhau đến
nỗi người ta không nói về giới răn thứ nhất và thứ hai. Chúa Giêsu công nhận
lời mô tả ngắn ngủi của luật sĩ: "Ngươi hãy yêu mến Chúa và thương yêu anh
em". Đây cũng là một dòng chảy tình yêu. Chắc chắn cần phải dựa vào mối
liên kết giữa hai tình yêu bởi vì trong một trong những bản văn cuối cùng của
Tân Ước, thánh Gioan vẫn còn lấy lại ý tưởng: "Nếu ai thấy anh em mình cần
đến của cải phải giúp đỡ mà đóng cửa lòng mình lại, có lý nào đức ái Thiên Chúa
ở cùng người ấy được" (1Ga 3,17). Đây là lời khuyên cho những kẻ tin rằng
với chút ít lòng thương xót người ta có thể tự cho phép mình ích kỷ hoặc có
tính xấu.
Chúng ta hãy xem xét khẳng định của
Chúa Giêsu: Hãy yêu thương thì ngươi sẽ được sống. Đẳng thức yêu thương bằng
được sống đối với chúng ta có hoàn toàn rõ ràng hay không? Nếu có, chúng ta hãy
cảm tạ Chúa, giòng máu Tin Mừng đang chảy trong huyết quản của chúng ta. Nhưng
đây là điều phải kiểm chứng.
Khi Chúa Giêsu nói đến yêu thương ở
đây, đây không phải là một trong những niềm đam mê, tình yêu hoặc tình bạn, là
những thứ đưa chúng ta lên chín tầng mây, mà là tình yêu thương anh em rất có
tính cách bó buộc, cụ thể. "Phải làm điều đó!". Và đây không luôn
luôn là điều làm thích thú.
Trên đường Giêricô, thầy tư tế và thầy
Lêvi không tích cực làm việc thiện! Thậm chí nghĩ rằng người kia đã chết, họ sợ
bị ô uế "theo tập tục" (theo những luật lệ Do Thái giáo), điều mà
Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh chính là việc họ thiếu nhiệt tình cứu giúp một kẻ nào
đó. Hai người kia dường như không xác tín rằng "yêu thương là được
sống".
Tuy vậy chỉ cần so sánh họ với người
Samari hay thương người để thấy đâu là sức sống! Không phải nơi những bản chất
nhỏ nhặt này mà một điều không là gì cả làm rầy hay làm hoảng sợ. Than ôi người
ta thấy những Kitô hữu khá bị sự khôn ngoan ích kỷ này cám dỗ, với cái giá phải
trả là một cuộc sống được sống nhỏ giọt.
Người Samari đã chọn một cuộc sống hao
tổn và nồng nhiệt. Trong khi thấy người đàn ông nằm đó, ông có lẽ đã cảm thấy
cần phải đi qua cho nhanh, nhưng sức mạnh của cuộc sống của ông chiến thắng
những vấn nạn đang đến với ông, Chúa Giêsu nói: ông động lòng thương và ông làm
mọi sự cần thiết. Ông không quên gì cả, cho mà không tính toán. Không chờ đợi
một lời cảm ơn nào và có lẽ vừa đi vừa hát lâm râm, hạnh phúc vì đã làm một
người sẵn sàng phục vụ con người. Hai người kia sẽ tiếp tục sống lay lắt. Còn
người Samari, ông đang sống triệt để. Chúa Giêsu nói: "Hãy yêu thương thì
ngươi sẽ được sống".
5. Ai là anh em của tôi? – Veritas
(Trích dẫn từ 'Hãy Ra Khơi')
Sáng nay, khi đọc đoạn Phúc âm mà chúng
ta vừa chia sẻ với nhau trong thánh lễ này, tôi đã nghĩ đến ngay bài tập viết
đầu tiên mà tôi đã phải cố gắng vẽ ngoằn ngoèo trên trang tập đầu tiên mới mua
về. Đó là ngày tôi được thầy cho lên lớp bắt đầu tập viết những chữ a, b, c...
Trưa về nhà khoe với mẹ, đúng ngay lúc cha tôi đang ngồi tiếp chuyện với một
ông cụ nhà nho quen biết trong làng.
Nghe tôi khoe, cha tôi cầm lấy cuốn
tập, mấy trang đầu đã đề những chữ a, b, c, rồi nói với ông cụ ngồi đối diện:
Xin cụ viết giùm vào trong trang thứ hai này bốn chữ "Kính Chúa Yêu
Người". Cụ nhà nho viết xong, cha tôi đưa sang cho tôi đang đứng bên cạnh
và nói: "Đây, con đến ngồi trên ghế cạnh kia rồi đồ lại những chữ
này". Thật là khốn khổ cho tôi lúc đó mới học viết được ba chữ a, b, c, mà
bây giờ cha tôi lại bắt viết trọn cả bốn chữ "Kính Chúa Yêu Người".
Tôi còn nhớ rõ hình ảnh những chữ mà
tôi cố gắng vẽ theo mà không hiểu gì cả, chỉ biết rằng đây là bốn chữ nói
"Kính Chúa Yêu Người". Biết được bằng lỗ tai, nghe qua miệng cha tôi
nói, chứ lúc đó làm gì mà tôi đã đọc được bốn chữ "Kính chúa Yêu
Người". Và biến cố đã in sâu vào tâm trí tôi, đến nỗi mỗi lần nhớ đến cha
tôi là mỗi lần tôi nhớ đến bài học đầu tiên này và cũng là bài học mà giờ đây
tôi hiểu là cần phải học mãi suốt đời cũng chưa xong: "Kính Chúa Yêu
Người". Nhìn vào những chữ ngoằn ngoèo mà tôi đã phải viết ra hay nói đúng
hơn phải đồ lại cho đầy trang giấy rồi mới được đi chơi, và có thể đây là hình
phạt cho tật hay khoe của tôi lúc đó. Cha tôi mỉm cười bảo: "Con phải làm
sao để sống được bốn chữ này cho đến chết mới thôi".
Cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và nhà
thông luật hôm nay phần nào cũng có thể được ta hiểu theo viễn tượng của kinh
nghiệm nhỏ của tuổi thơ tôi ngày xưa. Người luật sĩ đến với Chúa Giêsu để tìm
câu trả lời cho thắc mắc quan trọng nhất của cuộc đời: "Thưa Thầy, tôi
phải làm gì để được sống đời đời?". Và đây cũng là thắc mắc của mọi người,
không ai có thể dập tắt được câu hỏi này trong tâm hồn họ. Tạm thời, họ có thể
dẹp qua một bên câu hỏi này, vì những lo toan cho cuộc sống hoặc vì những mê
lợi của lợi danh, của quyền lực... Nhưng rồi vào lúc nào đó con người và mỗi
người chúng ta cũng sẽ phải đặt ra cho mình câu hỏi này: "Tôi sống đây để
làm gì? Và tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Bản tính con người là như vậy, không
thể nào chối bỏ được khát vọng hướng về trời cao, đó là khát vọng căn bản sâu
xa nhất của con người, của mọi người chúng ta. Chúa Giêsu đã gợi ý cho nhà
thông thái trả lời đúng như Kinh Thánh dạy, mà nội dung theo tôi nghĩ không
khác xa gì bốn chữ tôi đã học được từ cha tôi ngay từ khi mới bắt đầu đi học:
"Kính Chúa Yêu Người".
Đây không phải là vấn đề về hiểu biết,
một người nông dân bình thường không biết chữ như cha tôi cũng biết tóm gọn
luật Chúa trong bốn chữ "Kính Chúa Yêu Người" để truyền lại cho tôi.
Vấn đề là nơi thực hành là phải biến đổi tâm hồn của chính mình để nhìn nhận
mọi người là anh chị em của mình.
Chúa Giêsu đã phải dùng dụ ngôn người
Samaritanô nhân lành để soi sáng cho nhà thông thái, để rồi rốt cuộc như thể
chính ông cũng khám phá ra được chân lý. Chúa Giêsu không đặt vấn đề như nhà
thông thái: "Ai là người thân cận của tôi", mà Ngài đã đặt lại vấn
đề: "Ai đã trở nên người thân cận của người anh em bị nạn kia", và
nhà thông thái đã trả lời đúng: "Thưa là kẻ đã tỏ ra lòng thương đối với
người đó".
Tâm hồn cần có tình thương, nhất là cần
được đầy tràn tình thương của Chúa thì mới dễ dàng trở thành tâm hồn thân cận
của mọi người, trở thành người anh chị em của mọi người, bất luận người đó là
ai. Không phải dễ thực hiện sáu chữ của Chúa Giêsu cho nhà thông thái:
"Hãy đi và làm như vậy".
Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng
ta hôm nay, chúng con, những đồ đệ của Ta. Chúng con phải có tâm hồn đã biến
đổi bởi tình yêu Chúa, để rồi có thể trở thành người anh chị em của mọi người
mà thực hiện trọn vẹn giới răn: "Kính Chúa Yêu Người".
Cử hành Bí tích Thánh Thể, nhất là được
thông phần vào Mình và Máu Thánh Chúa, được chia sẻ chính sự sống của Chúa,
người Kitô có được sức mạnh mới để thực hiện tình thương trong cuộc sống của
mình, trong bất cứ môi trường sinh sống nào.
Chúng ta đây, chúng ta có biết quí
trọng việc cử hành Bí tích Thánh Thể trong đời sống chúng ta không? Chúng ta có
năng đến với Chúa trong Bí tích Thánh Thể để múc lấy sức mạnh sống tình thương
đối với anh chị em hay không? Không đến với Chúa, chúng ta cũng khó đến với anh
chị em xung quanh. Xin Chúa thương nhắc nhở chúng ta, củng cố lòng mến nơi
chúng ta và nhất là củng cố đức tin nơi mỗi người chúng ta, đức tin mà giờ đây
chúng ta cùng nhau tuyên xưng qua kinh tin kính.
6. Ai là người thân cận
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Bài Tin Mừng hôm nay có bốn động từ
làm.
Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời
(c.25)? - Cứ làm như vậy, ông sẽ được sống (c.28). - Kẻ đã thực thi (làm) lòng
thương xót... (c.37). - Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy (c.37).
Tình yêu đòi thể hiện bằng việc làm cụ
thể.
Người Samari đã chạnh lòng thương trước
nạn nhân, nhưng anh không dừng lại ở tình cảm suông. Anh đã thể hiện lòng
thương xót qua hành động.
Từ trái tim đến đôi tay là một con
đường dài.
Mẹ Têrêsa Calcutta đề nghị mỗi tối
trước khi đi ngủ, ta chỉ cần xét mình nhờ nhìn vào hai bàn tay. Hôm nay tôi đã
làm gì cho Giêsu và với Giêsu?
Yêu bằng hành động đòi ta nhiều can
đảm.
Người Samari phải vượt qua những nỗi sợ
tự nhiên. Sợ bị nhơ uế bởi đụng vào xác chết. Sợ bọn cướp còn quanh quẩn đâu
đây. Sợ cuộc hành trình bị chậm trễ. Sợ những phiền luỵ phức tạp cho mình.
Những nỗi sợ rất khôn ngoan và hợp lý.
Nỗi sợ khiến người ta tránh qua bên kia
mà đi, khi nỗi sợ ấy lớn hơn lòng thương người bị nạn.
Chỉ ai thắng được nỗi sợ mới dám ngừng
lại, đến gần và cúi xuống. Chỉ ai không sợ mới thấy thực sự.
Thầy tư tế và thầy Lêvi đều thấy nạn
nhân. Nhưng nỗi sợ đã khiến họ nhắm mắt làm ngơ và biến họ trở thành người
không thấy.
Người không thấy điều đã thấy thì chẳng
thể nào là người thân cận.
Người Samari dám đến gần, gần hơn qua
cử chỉ săn sóc, và anh đã trở nên người thân cận của kẻ bị nạn.
"Ai là người thân cận của
tôi?"
Đó là người đồng bào, đồng đạo, thuộc
dân Thiên Chúa. Người Do Thái thời Đức Giêsu dễ trả lời như thế.
Ở cuối dụ ngôn, Đức Giêsu đã lật ngược
câu hỏi trên:
"Ai là người thân cận của kẻ bị
cướp?"
Chỉ cần đổi lối đặt câu hỏi, tất cả
cánh cửa như mở tung, mọi hàng rào bị phá đổ.
Tôi không chỉ phục vụ cho người thân
cận của tôi.
Khi tôi đến gần ai mà phục vụ thì tôi
trở thành người thân cận với kẻ ấy, và kẻ ấy trở thành người thân cận với tôi.
Như thế ai cũng có thể thành người thân cận của tôi, miễn là tôi dám yêu họ như
chính mình.
Người Samari bị dân Do Thái khinh miệt,
nhưng họ có thể sống luật yêu thương cách tuyệt vời.
Hôm nay vẫn có các Kitô hữu đi dự lễ
về, nhưng sống xa lạ với đức ái Kitô giáo.
Ước gì chúng ta đơn sơ và hồn nhiên hơn
khi yêu.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, đâu là những dấu hiện cho
thấy một tình yêu đích thực và đáng tin?
"Yêu người thân cận như chính
mình." Yêu chính mình là một điều quan trọng. Theo ý bạn, một người yêu
chính mình một cách đúng đắn là người như thế nào? Đâu là những tội phạm đến
chính mình?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn
cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín.
Sau đó chúng con hiểu rằng cần phải
buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng đến vô
cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải
nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một
vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng
con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập
giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
7. Hãy đi và làm như vậy
(Trích dẫn từ 'Manna')
Suy Niệm
Tôi phải làm gì để được sự sống đời
đời?
Phải yêu, yêu hết mình, yêu Thiên Chúa
và yêu người thân cận.
Đức Giêsu khen câu trả lời của người
luật sĩ và bảo: "Hãy làm như vậy và ông sẽ có sự sống."
Để có sự sống, cần phải yêu, nghĩa là
ra khỏi mình và trao hiến.
Ai không yêu là huỷ hoại chính mình và
người khác.
Con người được dựng nên bởi Đấng là
Tình Yêu, được khuôn đúc theo hình ảnh của Tình Yêu đó, nên con người hướng về
Tình Yêu như hoa hướng dương quay về phía mặt trời.
Con người chỉ thật là mình khi biết yêu
thương.
Hãy yêu người thân cận như chính mình.
Nhưng ai là người thân cận của tôi? Đức
Giêsu giúp ta tìm thấy câu trả lời bất ngờ qua dụ ngôn người Samari nhân hậu.
Người thân cận của tôi là mọi người
đang cần đến tôi, là người hôm nay tình cờ tôi gặp trên đường.
Người thân cận là người gần tôi vì tôi
đã đến gần người ấy, đã cúi xuống và phục vụ.
Không phải vì người đó là thân cận của
tôi nên tôi đến gần mà phục vụ. Nhưng khi tôi đến gần bất cứ ai mà phục vụ, tôi
biến mình thành người thân cận của họ.
Chẳng ai là người xa lạ với tôi, nếu
tôi không tránh họ như hai thầy Lêvi và tư tế.
Người thân cận với tôi không chỉ là
người cùng nhà, cùng nhóm, cùng tôn giáo, cùng quê hương, cùng lý tưởng.
Người thân cận với tôi không phải là
một ý niệm trừu tượng nhưng là bà mẹ già gần bên, là người bạn chung phòng, là
người hàng xóm mà tôi phải chịu đựng, là tất cả những ai đã và đang làm tôi đau
khổ.
Tất cả đều có thể được tôi yêu thương
và đều có thể trở nên người thân cận của tôi.
Tình yêu là một phép mầu, chỉ cần tôi
dám bước tới, xích lại và cúi xuống là người lạ nên quen, người xa nên gần, kẻ
thù nên bạn.
Những khoảng cách được lấp đầy, những
rào chắn phút chốc sụp đổ.
Nhưng yêu không phải là chuyện dễ dù
con người hôm nay cứ tưởng mình đã biết yêu.
Lúc nào cũng có cớ để người ta né tránh
yêu thương. Thầy tư tế và Lêvi đều tránh qua một bên mà đi. Phải chăng họ sợ bị
ô nhơ nếu đụng nhằm xác chết? Phải chăng họ sợ bọn cướp vẫn còn ở đâu đây?
Những nỗi sợ làm người ta bỏ đi.
Chấp nhận là đến gần và cúi xuống là
chấp nhận liều lĩnh và trả giá. Cuộc hành trình bị chậm lại, chương trình phải
thay đổi. Tiền bạc, thời giờ, công sức là những điều phải trao đi. Tất cả chỉ
vì chạnh lòng thương, vì con tim biết nhói đau trước nỗi khổ của người khác.
Tình yêu thực sự bao giờ cũng cụ thể:
chấp nhận cả tay và người bị dơ bẩn lấm lem, chấp nhận gặp rắc rối, xáo trộn và
nguy hiểm, vì Tình Yêu đòi hiến trọn con người.
Chúng ta cần thành thật nhận mình chưa
biết yêu, vì yêu như thế thì vượt quá sức con người. Cần đón lấy nguồn Tình Yêu
Thiên Chúa đổ vào tim ta (Rm 5,5) để tim ta trở nên mênh mông và quảng đại, để
ta thi hành được điều Chúa nói:
"Ông hãy đi và cũng hãy làm như
vậy."
Gợi Ý Chia Sẻ
Muốn có sự sống đời đời, cần phải yêu,
nghĩa là mở ra trước Thiên Chúa và tha nhân. Bạn có nghĩ rằng muốn có sự sống ở
đời này, cũng cần phải yêu không? Ai không yêu, người ấy đã chết ngay khi còn
sống, bạn có cảm nghiệm được điều đó không?
Thế giới còn quá nhiều người lây lất,
nửa sống nửa chết. Thế giới vẫn cần những người Samari dám ngừng lại và cúi
xuống. Có lần nào trong đời bạn là người Samari không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, lúc đầu chúng con chỉ muốn
cầm tay nhau để làm thành một vòng tròn khép kín. Sau đó chúng con hiểu rằng
cần phải buông tay nhau để nhận những người bạn mới, để vòng tròn được mở rộng
đến vô cùng và trái tim được lớn lên mãi.
Lạy Chúa, chúng con biết rằng cần phải
nối vòng tay lớn xuyên qua các đại dương và lục địa.
vòng tay người nối với người,
vòng tay con người nối với Tạo Hoá.
Chúng con thích Chúa đứng chung một
vòng tròn với tất cả loài người chúng con, nắm lấy tay chúng con và đưa chúng
con lên cao.
Ước gì việc Chúa giang tay trên thập
giá giúp chúng con biết cầm lấy tay nhau và nhận nhau là anh em.
8. Phục vụ nâng cao giá trị con người
(Trích dẫn từ 'Cùng Đọc Tin Mừng' – Lm.
Ignatiô Trần Ngà)
Trước mắt người Do Thái thì dân Samari
thật đáng khinh miệt. Họ bị xem là người lai căng vì đã kết hôn với ngoại kiều,
làm vẩn đục dòng máu tinh tuyền của tổ tiên Do Thái. Họ bị khinh miệt vì đã tôn
thờ các tà thần ngoại lai. Thế nên người Do Thái xem người Samari như những
người hạ cấp đáng bị tẩy chay.
Thế nhưng hình ảnh của người Samari
trong Tin Mừng hôm nay lại đẹp tuyệt vời. Giá trị của người đó gia tăng thật
cao. Nhờ đâu được như vậy. Chúng ta hãy theo dõi câu chuyện do Chúa Giêsu thuật
lại như sau:
Tại một khúc đường vắng từ Giêrusalem
đến Giêricô có một khách bộ hành bị bọn cướp xông ra trấn lột hết tiền bạc của
cải, lại còn đánh người ấy trọng thương nằm thoi thóp, nửa sống nửa chết giữa
quảng đường hoang vắng.
Thế rồi, một tia hy vọng loé lên trong
đầu óc nạn nhân khi anh ta thoáng thấy có một khách bộ hành đang từ xa đi tới.
Khi người bộ hành gần đến, niềm hy vọng càng dâng cao vì đây là một vị tư tế,
chắc chắn ngài sẽ đoái thương cứu chữa anh. Nhưng rồi vị tư tế cố tình rảo bước
cho nhanh, lánh qua một bên rồi đi thẳng, để mặc anh nằm thoi thóp giữa đường.
Một lát sau, có một thầy trợ tế đi qua,
niềm hy vọng của nạn nhân lại được bùng lên nhưng rồi vụt tắt, vì thầy trợ tế
chỉ đảo mắt nhìn nạn nhân rên siết, rồi cũng vội vàng rảo bước cho nhanh. Có lẽ
ông ta sợ rằng bọn cướp còn ẩn náu đâu đây, sẽ trấn lột hết những gì ông ta
mang trên mình và sẽ đánh đập ông nhừ tử như người khốn khổ kia...
Cuối cùng, có tiếng lừa lộp cộp từ xa
vẳng lại. Người thứ ba xuất hiện, một người dân Samari. Ôi thôi! Chẳng hy vọng
gì nơi hạng người nầy, hạng người xưa nay vẫn mang tiếng là lai căng và rối
đạo!
Thế nhưng thật bất ngờ, người Samari
cho lừa dừng lại, bước xuống, cúi mình trên nạn nhân, cảm thương con người xấu
số.
Có thể giờ nầy vợ con ông ta đang nóng
lòng mong đợi ở nhà, có thể bọn cướp còn đang lai vãng đâu đây lại xông ra để
cướp, để giết hại ông như chúng đã gây ra cho người xấu số, lại phải mất công,
bỏ việc vì nạn nhân nầy... nhưng thôi, đành phó mặc... Thương người như thể
thương thân, phải tìm cách cứu sống anh ta trước đã.
Thế là người Samari vội mở hành trang
lấy cồn, lấy rượu rửa sạch vết thương, băng bó những vết thương còn rỉ máu, lấy
dầu xoa bóp những nơi bầm tím, rồi vực nạn nhân lên lừa của mình, quay ngược
đường trở về quán trọ.
Đến nơi, ông ta lo liệu cơm cháo thuốc
men, săn sóc nạn nhân như cho người thân yêu của mình suốt đêm. Sáng hôm sau,
vì công việc khẩn trương, ông phải vội lên đường. Nhưng trước khi ra đi, ông ta
dốc hết túi tiền, trao cho chủ quán với lời căn dặn: "Xin ông vui lòng
chăm sóc người nầy giùm tôi cho chu đáo, nếu còn tốn phí thêm bao nhiêu, khi
trở về tôi sẽ hoàn lại cho ông".
Thật là một hy sinh hết sức lớn lao!
Một tấm gương hào hiệp và cao đẹp hiếm có. Nét đẹp đó vẫn được Giáo Hội truyền
tụng suốt hai mươi thế kỷ qua và cho đến muôn đời. Sáng giá thay con người biết
yêu thương, hy sinh và phục vụ!
Thế là đang khi danh giá người Samari
lên cao tột đỉnh nhờ giàu lòng nhân ái thì danh giá vị tư tế và thầy Lê-vi bị
tụt dốc thảm hại vì đã thiếu lòng thương xót, đã không hy sinh giúp đỡ nạn nhân
trong cơn hoạn nạn, ngặt nghèo.
Phục vụ còn là điều kiện để được sống
đời đời
Nhưng sự hy sinh phục vụ của người
Samari không chỉ nâng cao giá trị của ông ta mà thôi, mà còn là một điều kiện
tiên quyết giúp ông được sống đời đời.
Khi người thông luật hỏi Chúa Giêsu
phải làm gì để được sống đời đời, Chúa Giêsu giúp ông ta khám phá ra câu đáp:
"Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh
hồn, hết sức lực, và hết trí khôn ngươi, và yêu mến người thân cận như chính
mình."
Chúa Giêsu không lý thuyết suông, Ngài
cụ thể hoá quy luật mến Chúa yêu người bằng hành động nhân ái của người Samari
trên đây với lời kết luận: "Ông hãy đi và làm như vậy". Như thế,
những ai muốn được sống đời đời thì hãy quên mình phục vụ như người Samari trên
đây.
* * *
Quên mình phục vụ tha nhân, một việc
làm với hai hiệu quả lớn: làm gia tăng đáng kể giá trị của mình và được hưởng
sự sống đời đời.
Lạy Chúa, biết đến bao giờ con mới có
thể trở thành một người Samari mới cho xã hội hôm nay! Biết bao giờ con mới dám
hy sinh phục vụ để đạt được sự sống đời đời!
9. Ông hoàng hạnh phúc – Lm Jos. Tạ Duy
Tuyền
(Trích dẫn từ 'Cùng Nhau Suy Niệm')
Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: ở
một thành phố nọ, có một Ông Hoàng sống một cuộc đời rất hạnh phúc. Vì thế khi
ông chết, người ta đã làm một bức tượng của ông, đặt trên một cái bệ cao giữa
thành phố và đặt tên là Ông Hoàng Hạnh Phúc, như là biểu tượng may mắn sẽ mang
hạnh phúc đến cho mọi người dân trong thành.
Một buổi chiều đầu mùa đông, một con
chim én đến đậu dưới chân pho tượng. Bỗng một giọt nước rơi xuống đầu nó. Nó
nhìn lên và ngạc nhiên vì đó là giọt nước mắt của Ông Hoàng. Ông đang khóc.
Những giọt nước mắt cứ lăn dài trên đôi má của ông. Chim én ngạc nhiên và hỏi
rằng:
- Tại sao ông khóc? Ông là Ông Hoàng
Hạnh Phúc kia mà!
- Ông hoàng trả lời: Từ khi đứng trên
cao nhìn thấy cảnh sống của dân thành, ta đau lòng quá và không còn hạnh phúc
nữa. Ta muốn đi giúp họ lắm, nhưng đôi chân ta bị chôn chặt ở cái bệ này nên
không thể nào đi được. Bạn có thể giúp ta không?
- Không được, tôi phải bay đi cho kịp
đàn đang bay về phương bắc.
- Hãy làm ơn giúp ta đêm nay đi.
- Chim én ngập ngừng giây lát rồi nói:
Thôi được. Bây giờ ông muốn tôi làm gì?
- Trong một túp lều đàng kia có một
người mẹ đang khóc vì con bà bị bệnh mà bà không có tiền gọi bác sĩ. Bạn hãy
lấy viên ngọc ở chuôi kiếm của ta đem cho bà ấy.
- Chim én dùng mỏ lấy viên ngọc ra và
bay đến cho bà mẹ nghèo. Nhờ có tiền, bà đã lo cho con bà khỏi bệnh.
- Hôm sau Ông Hoàng lại xin chim én nán
lại một đêm nữa để mang viên ngọc khác đến cho một người nghèo khác. Rồi hôm
sau nữa đến giúp một người nghèo khác nữa. Cứ thế hết ngày này đến ngày khác,
con chim én lấy các thứ trang sức của Ông Hoàng đem cho người nghèo. Cuối cùng
trên mình Ông Hoàng không còn gì quý giá nữa. Khi đó đã là giữa mùa đông, trời
đã lạnh rất nhiều.
- Một buổi sáng, người ta thấy xác con
chim én đã chết cóng dưới chân pho tượng Ông Hoàng trần trụi. Phía dưới thành
phố, mọi người đều hạnh phúc. Họ có biết đâu hạnh phúc của họ là nhờ sự hy sinh
của Ông Hoàng Hạnh Phúc và con chim én nhỏ bé kia.
Đôi khi trong cuộc sống chúng ta vẫn vô
tâm như vậy. Nhiều người đã được sống hạnh phúc nhưng họ đâu biết rằng hạnh
phúc của họ là nhờ sự chắt chiu từng hy sinh âm thầm của biết bao nhiêu người.
Có thể đó là sự hy sinh không mệt mỏi của cha, của mẹ từng ngày vất vả trên
nương đồng, hay trên công trường. Có thể đó là sự hy sinh nhịn nhục của những
người thân chịu thiệt thòi để họ được hạnh phúc. Có thể đó là sự hy sinh nhường
nhịn của bạn bè để họ được vui hơn trong cuộc sống. Thế mà, nhiều người vẫn
tưởng rằng mình lớn lên không cần ai giúp đỡ. Lối suy nghĩ đó đã dẫn đến một
đời sống ích kỷ, hẹp hòi, một lối sống dửng dưng đến xa lạ với đồng loại.
Thực vậy, ở trong cuộc đời này vẫn còn
đó biết bao người chắt chiu từng hạt gạo, gom góp từng miếng vải để giúp kẻ cơ
hàn. Cuộc đời vẫn còn đó biết bao người hy sinh cả cuộc sống mình để phục vụ
các bệnh nhân, nhất là các bệnh nhân nan y. Vẫn còn đó cả hàng triệu người đang
đổ mồ hôi vật vã trên công trường, trên nương đồng để làm ra của cải và sản
phẩm cho hàng tỉ người trên trái đất hưởng dùng. Vâng, cuộc đời vẫn còn đó biết
bao người biết hy sinh vì tha nhân, biết kiến tạo niềm vui trong những giọt mồ
hôi lao nhọc để phục vụ tha nhân. Thế nhưng, giòng đời vẫn còn đó những trái
tim khô cằn, những tâm hồn lạnh nhạt đến dửng dưng với nỗi đau của đồng loại.
Họ đâu biết rằng cuộc đời của họ đang bị cuốn trôi theo một giòng chảy của trần
đời. Họ được đón nhận thì cũng phải biết trao ban. Vì chẳng ai có thể giữ mãi
cho mình được điều gì mãi mãi. Tất cả những gì mình có rồi một mai cũng bị cuốn
trôi theo thời gian.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy
biết dừng lại để giúp đỡ những ai đang cần đến chúng ta, hãy biết chia sẻ với
những khó khăn của tha nhân. Hình ảnh Thầy Tư tế và Lê vi đã bỏ lại đằng sau
tiếng kêu cứu của đồng lại diễn tả một thế giới mà con người luôn hối hả bận
rộn với giòng chảy cuộc đời. Họ bị giòng đời cuốn trôi đến nỗi đã quên rằng,
cuộc sống đích thực là cuộc sống còn có khả năng chia sẻ với tha nhân. Một cuộc
đời có ý nghĩa là cuộc đời biết dùng thời giờ để sống với tha nhân trong yêu
thương và phục vụ. Và một cuộc đời đã mất khi không còn khả năng để giúp đỡ anh
em. Ông Hoàng hạnh phúc đã không còn hạnh phúc khi ông nhận ra mình không còn
khả năng để giúp đỡ đồng loại. Ông cảm thấy bất hạnh khi mình không còn khả
năng để xoa dịu nỗi đau của đồng loại. Ngược lại, người Samaria nhân hậu, ông
đã tìm được niềm vui của cuộc đời phục vụ. Ông đã dừng lại để xoa dịu nỗi đau
của kẻ bất hạnh. Cuộc đời ông hạnh phúc biết bao khi ông băng bó nỗi đau của
đồng loại. Khi ánh mắt của kẻ chịu ơn đang nhìn ông một cách trìu mến thân
thương. Niềm vui của ông càng được nhân lên khi người mà ông giúp đỡ đã coi ông
như anh em. Từ một người xa lạ nay trở thành kẻ thân thích. Ông đã biết dùng
của cải đời này để mua bạn hữu đời này và cả đời sau. Đó chính là mẫu người mà
Chúa đang mời gọi chúng ta hãy làm theo như vậy.
Ước gì trong năm thánh với chủ đề Giáo
hội mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ sẽ là lời nhắc nhở chúng ta về Giáo hội của
Chúa, do Chúa sáng lập và hiện diện thì mỗi ky-tô hữu cần phải hiệp nhất với
nhau trong Chúa, cần nhìn nhận nhau là anh em và hãy biết sống đời kytô hữu
bằng sự dấn thân để phục vụ tha nhân trong yêu thương chân thành. Nguyện xin
Chúa là Đấng đã hết lòng yêu thương và phục vụ con người cho đến nỗi bằng lòng
chịu chết vì chúng ta, giúp cho chúng ta cũng biết sống yêu thương như Chúa đã
yêu thương chúng ta. Amen.
10. Người Samaritanô nhân hậu
(Trích dẫn từ 'Niềm Vui Chia Sẻ')
Một đạo sĩ Ấn giáo nọ hỏi các đệ tử của
ông như sau
-"Làm thế nào để biết được đêm đã
tàn và ngày bắt đầu?"
Sau vài phút suy nghĩ, một đệ tử giơ
tay xin trả lời:
-"Tôi biết được khi nào là đêm tàn
và ngày bắt đầu, đó là khi ta trông thấy một con thú từ xa mà ta phân biệt được
nó là con bò hay là con ngựa",
Câu trả lời đã không làm cho nhà đạo sĩ
ưng ý chút nào... một đệ tử khác lên tiếng:
-"Ta biết được khi nào là đêm tàn
và ngày bắt đầu, đó là khi ta thấy một cây lớn từ đàng xa mà ta phân biệt được
đó là cây xoài hay cây mít",
Vị đạo sĩ lắc đầu không đồng ý. Khi các
đệ tử nhao nhao muốn biết giải đáp, ông mới ôn tồn nói như sau:
-"Khi ta nhìn vào gương mặt bất cứ
người nào mà nhận ra người đó là người anh em của ta thì đó là lúc đêm tàn và
ngày mới bắt đầu. Nếu ta không phân biệt được như thế, thì cho dù đêm có tàn,
ngày có bắt đầu, tất cả mọi sự không có gì thay đổi".
Thưa anh chị em,
Nhân loại đã chìm ngập trong đêm tối
của tội lỗi, đêm tối của trốn chạy khỏi Thiên Chúa và chối bỏ lẫn nhau giữa
người với người. Chúa Giêsu đã đến để xoá tan ĐÊM tối và khai mở NGÀY mới,
trong đó người nhận ra người là anh em, người trở về với Thiên Chúa.
Như nhà đạo sĩ đã giải đáp: "khi
ta nhìn vào gương mặt của bất cứ người nào mà nhận ra người anh em của ta trong
người đó, là lúc đêm tàn và ngày mới bắt đầu". Nhận ra người anh em nơi
một người nào, đó chính là nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi mọi người cũng
như phẩm giá vô cùng cao quý của người đó. Nhận ra người anh em nơi một người
nào, đó là nhìn thấy niềm vui, nỗi khổ, sự bất hạnh và ngay cả lỗi lầm của
người đó như của chính mình.
Nhận ra người anh em nơi một người nào,
đó là sẵn sàng tha thứ cho người đó ngay cả khi người đó xúc phạm đến ta và
không muốn nhìn mặt ta. Nhận ra người anh em nơi một người nào, đó cũng có
nghĩa là không thất vọng về khả năng hướng thiện của người đó. Nhận ra người
anh em nơi một người nào, đó cũng có nghĩa là muốn nói với người đó rằng, cách
nầy hay cách khác, ta cần người đó để được sống xứng đáng với ơn gọi làm người
hơn.
Trái lại, nếu ta không nhận ra người
khác là người anh em của mình thì mình vẫn ở trong bóng tối đêm đen. Chỉ khi
nhận ra được người khác là người anh em của mình, thì mình mới bước vào ánh sáng
ban ngày. Người khác đó là bất cứ ai, không phân biệt màu da, chủng tộc, ngôn
ngữ, ý thức hệ. Tất cả mọi người là anh em của tôi.
Thế nhưng, thưa anh chị em, trong Tin
Mừng hôm nay, một luật sĩ đã hỏi Chúa: "Ai là anh em tôi?". Để trả
lời, Chúa Giêsu đã kể cây chuyện người Samari nhân hậu. Người Samari nầy đã
nhận ra nạn nhân đang năm lây lất bên đường là người anh em gần gũi của mình,
đang khi thầy Tư tế và thầy Lêvi lại không nhận ra nạn nhân nằm bên vệ đường
kia là người anh em, mặc dầu nạn nhân ấy cũng là người Do Thái đồng bào và đồng
đạo với mình. Nạn nhân đã trở thành kẻ xa lạ, chỉ vì rơi vào hoàn cảnh bất
hạnh.
Câu chuyện muốn làm nổi bật thái độ dễ
thương của người Samari nhân hậu. Chúng ta thấy ông xuống ngựa và đến cúi xuống
trên con người đang quằn quại ở vệ đường. Ông chẳng để ý xem kẻ bất hạnh là ai?
Là người Do Thái hay Samari – hai dân nầy vẫn coi nhau như thù địch- ông chỉ
thấy đây là một kẻ bất hạnh, một con người như mình, nhưng lại không được như
mình. Thế nên ông đã săn sóc, băng bó vết thương và chở đến quán trọ gần nhất
cấp cứu, rồi còn sẵn sàng trang trải mọi phí tổn nữa.
Như vậy, người Samari nhân hậu nầy đã
trở nên người anh em thân cận, gần gũi với người bị nạn, mặc dù ông không cùng
chủng tộc và tôn giáo, hơn nữa ông còn bị coi như kẻ thù của người Do Thái bị
nạn nầy, đang khi hai thầy Tư tế và Lêvi vừa là người Do Thái vừa là bậc thầy
dạy đạo, tế lễ, lại coi kẻ đồng đạo, đồng bào xa lạ. Chính những hành động bác
ái thương người cụ thể như tế mới làm chứng ai thật là người có đạo, ai thật là
người, vì có lòng nhân ái.
Anh chị em thân mến,
Ngày 11 tháng 2 năm 1984, Đức Giáo
Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành một Tông thư mang tựa đề: "Salvifici
doloris" nói về "ý nghĩa đau khổ của người theo Kitô giáo" để
toàn thể Giáo Hội suy tư trong Năm Thánh Cứu Độ 1984. Đức Giáo Hoàng đã nhắc
lại dụ ngôn "người Samari nhân hậu", không phải chỉ để gởi tới các
bệnh nhân, những người phải chịu đau khổ, mà còn gởi tới mọi người. Bởi vì đau
khổ vẫn ở ngay bên đường đi của chúng ta, đến nỗi con người rất dễ bị cám dỗ
'bỏ đi qua"một cách dửng dưng. Sự dửng dưng nầy là một nét đặc trưng của
thời đại chúng ta. Chắc chắn rằng dụ ngôn "Người Samari nhân hậu" đã
trở nên yếu tố thiết yếu của nền văn hoá đạo đức cũng như nền văn minh phổ quát
của nhân loại. Nhưng "khi đến với đau khổ của người khác, không một tổ
chức nào, tự nó, có thể thay thế người". Và vào ngày phán xét, Chúa sẽ nói
với mỗi người chúng ta rằng: "Ta bảo thật các ngươi, mỗi lần các ngươi làm
như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đâu, là các ngươi đã làm
cho chính Ta vậy" (x. Tông thư SD. Số 28-30).
Chúa Giêsu đã bảo luật sĩ: "Cả ông
nữa, hãy đi và làm như vậy". Hôm nay, chính với chúng ta, Chúa Giêsu ban
huấn lệnh cấp bách nầy: "Hãy đi và làm y như vậy". Chúng ta hãy đi và
làm như người Samari đã làm. Tất cả chúng ta phải tiếp tục nhiệm vụ của người
Samari nhân hậu bên cạnh tất cả những ai chúng ta gặp và chân tình giúp đỡ,
băng bó các vết thương của họ, nhưng vết thương, nghèo đói, đau yếu, bệnh tật,
cô đơn, chết chóc... Đừng ngồi đặt vấn đề: "Ai là anh em tôi?", nhưng
hãy đi và tỏ ra "mình là anh em của mọi người". Đừng dừng lại tìm xem
người đó là ai, có đạo hay không có đạo. Nhưng hãy đi và làm như người Samari
kia, nhìn thấy vết thương thì băng bó, nhìn thấy người đau khổ thì cứu giúp.
Phải vượt qua quan niệm hẹp hòi của người Do Thái, để đi đến tình huynh đệ phổ
quát, đại đồng.
Yêu mến Chúa trong nhà thờ, không đủ,
nếu không yêu mến Chúa trên đường đi và trong người anh em đồng bào, đồng loại.
Chúng ta phải sống đạo chứ không phải chỉ biết luật day mến Chúa yêu người
trong sách vở. Thánh Gioan Tông đồ đã nói: "Anh em đừng yêu thương nơi đầu
môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương thực sự bằng việc làm". Ngài còn nói:
"Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở
trong bóng tối. Ai yêu thương anh em mình thì sống trong ánh sáng. Nhưng ai
ghét anh em mình thì ở trong bóng tối đã làm cho người ấy ra mù quáng"
(1Ga 2,9-11).
Hãy nhận ra khuôn mặt của tất cả mọi
người là người anh em. Chỉ khi đó chúng ta mới ra khỏi bóng tối đang bao trùm
chúng ta và được tràn ngập ánh sáng vinh quang của Chúa.
11. Yêu người
Ai là người thân cận của tôi? Câu hỏi
mới nghe như đơn giản nhưng thực ra đó lại là mấu chốt để giải thích cho đúng
đắn lề luật Maisen. Vì lẽ luật này đòi hỏi chúng ta phải yêu người thân cận như
chính mình.
Theo lẽ thường của người Do Thái thời
bấy giờ thì quan niệm về người thân cận bị thu hẹp vào các thành phần Israel.
Như vậy hạng ngoại kiều không có chỗ đứng trong những hoạt động bác ái, thành
ra dụ ngôn Chúa Giêsu kể về người Samaria nhân hậu có hiệu quả như một trái bom
hay như một cú đấm vào lương tâm của những kẻ tự ru ngủ bằng điệp khúc bình an
vì đã làm tròn bổn phận tối thiếu của mình.
Quả thực qua dụ ngôn Chúa Giêsu đã chỉ
trích gương xấu cần phải tránh mà điển hình là ông tư tế và thầy Lêvi, hai ông
viên chức của phụng vụ đền thờ và được coi như là hàng đạo đức bởi đã giữ đúng
lề luật. Đồng thời Ngài cũng nêu lên gương tốt phải theo mà cái khuôn mẫu là
người Samaria, một ngoại kiều, một địch thủ, một tên lạc đạo. Bất chấp mọi thứ
rào cản xã hội hay tập tục truyền thống, ông ta đã xông xáo tiến lại người xấu
số để giúp đỡ anh ta đang bị bỏ dở sống dở chết trên đường. Chắc hẳn tình người
của ông đã phát xuất từ lòng nhân từ rộng rãi của ông chứ không phải từ những
bộ luật rườm rà phiền toái.
Đưa ra những nhân vật điển hình trên,
chắc hẳn Chúa Giêsu nhằm giải thích một cái gì đó thiết yếu trong giáo huấn của
Ngài, điều mà con người mọi thời, nhất là chúng ta ngày nay, trong hoàn cảnh cụ
thể của mình, cần được soi sáng. Cái thiết yếu chính là ý nghĩa của câu hỏi lật
ngược: Không còn hỏi ai là thân cận của tôi, mà hỏi tôi là người thân cận của
ai?
Đó là tinh thần cách mạng của Tin Mừng
mà không bao giờ chúng ta múc cạn được chiều sâu của nó. Bởi vì vấn đề không
còn là ngồi đó mà xem ai là kẻ thân cận của mình, như thể một số người nào đó
được chỉ định trước để chúng ta sử dụng như là phương tiện làm chiếu sáng đức
yêu người của chúng ta, trong khi một số những người khác có thể thoát ra ngoài
những hoạt động yêu thương ấy mà không gây ra một nguy cơ nào cho lương tâm.
Chúng ta đi tìm những người thân cận trong một danh sách đã lập trước. Trong
khi đó chính tình yêu đòi buộc chúng ta phải đi tìm gặp những người thân cận ở
trong một giới hạn vô biên vì giới hạn của tình yêu là yêu không giới hạn. Khi
đó mọi người đều có thể là người thân cận, là người anh em của chúng ta, đặc
biệt là những kẻ đau khổ, nghèo túng và bị ruồng bỏ. Người chúng ta phải yêu
thương trước nhất phải là người chúng ta thương không nổi, phải là người sống
bên lề xã hội, tức là hạng người tội lỗi, yếu đuối và bị khinh khi. Bao lâu
chưa đạt tới đó, thì chúng ta hãy còn ở trong cái mức của ông tư tế, cái mức
của thầy Lêvi là những người đã cố tạo khoảng cách cho đủ xa những kẻ bất hạnh.
Đừng giả đui giả điếc trước tiếng gọi
của những người anh em đó, dù họ là ai, dù họ ở đâu, thì họ vẫn là những người
thân cận của chúng ta, nếu chúng ta biết tiến lại gần họ với một con tim bằng
hữu và với những cánh gay giơ ra để giúp đỡ như người Samaria và như Đức Kitô
ngày xưa.
12. Ai là người Samaria tốt nhất? -
Charles E. Miller
(Trích dẫn từ 'Mở Ra Những Kho Tàng')
Chúa Giêsu thích kể các dụ ngôn khi
Ngài rao giảng, điều đó thì không có gì ngạc nhiên khi có người đặt câu hỏi:
"Ai là người láng giềng của tôi?". Chúa Giêsu đã không cho một câu
trả lời trực tiếp. Thay vào đó, Ngài đã kể một câu chuyện dụ ngôn.
Dụ ngôn này thì quen thuộc và để lại ấn
tượng mạnh mẽ khi được diễn tả trong một ngôn ngữ. Nói với một người nào là
Samaria nhân lành có nghĩa là nói rằng ông ta đã giúp đỡ người khi cần. Trong
câu chuyện, người Samaria đã dừng lại và giúp đỡ người đàn ông bị bọn trộm cướp
đánh đập và tước lột tất cả, minh chứng chính ông là người láng giềng tốt mà
Chúa Giêsu muốn nói đến, ngay cả khi người Samaria này đã không biết nạn nhân
xấu số và nạn nhân xấu số cũng không hề biết người Samaria.
Trong câu chuyện dụ ngôn của mình, Chúa
Giêsu thường đưa ra một đường vòng không ngờ. Và đường vòng cho câu chuyện dụ
ngôn này là ý nghĩa mà Chúa Giêsu trao cho từ"láng giềng". Sự kiện
anh hùng là một người Samaria. Hãy nhớ rằng câu chuyện này được nói với người
Do Thái, những người khinh bỉ người Samaria. Những người Do Thái nhìn người
Samaria như là những kẻ phản bội, những kẻ thờ tà thần. Những thính giả đang nghe
Chúa Giêsu phải bị sốc rất nặng. Họ phải giận dữ khi Ngài đề nghị với họ một
mẫu gương là một người Samaria anh hùng.
Một số giáo phụ tiên khởi của Giáo Hội
đã đặt một đường vòng khác vào câu chuyện. Các Giáo phụ thấy người mà chúng ta
gọi là người Samaria nhân lành là hình ảnh của chính Chúa Giêsu. Nói cách khác,
các giáo phụ nghĩ rằng ít nhất một con người đã được giới thiệu với chúng ta là
người luôn giúp đỡ và Chúa Giêsu đã luôn làm điều đó.
Nòi giống con người bị thoái hoá đi bởi
tội lỗi. Tội lỗi đã tước bỏ nơi chúng ta mọi giá trị như là con người. Nó đã
đánh cặp của chúng ta để lấy đi khỏi chúng ta những ân sủng của Thiên Chúa. Nó
đã tấn công chúng ta một cách khốc liệt khiến tất cả chúng ta đều giống như là
một người dở sống dở chết. Chúa Giêsu đã nâng chúng ta dậy, không chỉ là trên
một con vật, nhưng là trên chính đôi vai của Ngài và mang chúng ta đến với Giáo
Hội, để chúng ta có thể được chăm sóc cho đến khi Ngài trở lại trong vinh
quang, ngày Phục Sinh của chúng ta.
Nhưng sau đó, Chúa Giêsu đã mang chúng
ta vào trong Giáo Hội, Ngài đã không để mặc chúng ta đi trên con đường của
Ngài. Ngài ở với Giáo Hội mọi ngày và cho đến tận thế. Qua sứ vụ của Giáo Hội,
trong phép rửa Chúa Giêsu đã chữa lành mọi vết thương tội lỗi, phục hồi sự sống
của ân sủng và ban cho chúng ta giá trị là con cái của Thiên Chúa. Và trong
phép Thêm sức, Chúa đã tăng sức cho đời sống ân sủng bên trong chúng ta, Ngài
đã củng cố căn tính của chúng ta như là con cái của Thiên Chúa và thừa tự Nước
Trời. Chúa Giêsu đã đến với chúng ta trong Giáo Hội, qua Lời và các bí tích:
Lời của Thánh Kinh và bí tích Thánh Thể là chính Mình và Máu Người nuôi dưỡng
đời sống thiêng liêng của chúng ta.
Từ"láng giềng" theo nghĩa chữ
là một người ở gần bên chúng ta. Chúa Giêsu đã minh chứng chính Người còn hơn
là một láng giềng nữa, hơn là một người nào đó ở gần chúng ta, Ngài đã làm cho
chúng ta trở nên thành phần của thân thể mầu nhiệm của Ngài là Giáo Hội. Trong
Ngài chúng ta tiếp tục hiện hữu, như bài đọc II đã dạy chúng ta: "Ngài là
Đầu của thân thể là Giáo Hội".
Khi chúng ta bước đi trong đời sống,
tội lỗi vẫn còn tiếp tục tàn phá và làm tổn hại chúng ta, chúng đang chờ đợi
một khoảnh khắc bất ngờ, chểnh mảng để chúng có thể tấn công chúng ta vào lúc
chúng ta yếu đuối. Nhưng chúng ta không bao giờ đơn độc trong cuộc chiến đấu
của mình. Thật sống động khi chúng ta họ bài học của bài Thánh Vịnh ngày hôm
nay: "Hãy hướng về Chúa những khi bạn cần và bạn sẽ sống". Khi chúng
ta hướng về Chúa sẽ nhận thấy rằng Ngài không quá mầu nhiệm và xa xôi khỏi chúng
ta. Chúa Giêsu không quá đơn giản là một người Samaria nhân lành. Ngài là một
người tốt nhất.
13. Người Samari tốt lành – Flor
McCarthy
(Trích dẫn từ 'Phụng Vụ Chúa Nhật và Lễ
Trọng')
Suy Niệm 1. LÒNG NHÂN TỪ TỰ PHÁT
Alaska là một xứ sở hoang dã, cô độc,
lẻ loi nhưng đẹp lạ lùng. Đó là một thánh địa cho những du khách thích phiêu
lưu. Tuy nhiên vùng đất ấy không cho phép bạn xuống tinh thần. Các thị trấn ít
ỏi và xa nhau. Những người sống ở đó phải đối diện với những thời kỳ cô lập lâu
dài. Đặc biệt các chủ nông trại sống một đời sống rất lẻ loi.
Một lần kia, một người Mỹ đi du lịch
Alaska trong một cái nhà di động (xe kéo) thì nỗi lo sợ kinh khủng nhất của ông
đã ập đến: chiếc xe làm nhà bị gãy trục, và ông rơi vào tình huống khó khăn ở
giữa một nơi không rõ là nơi nào. Ông cho gia đình rời khỏi căn nhà di động và
quyết định đi bộ với hy vọng tìm được một ai đó có thể giúp đỡ họ. (Thời đó
chưa có điện thoại di động).
Sau khi đi được ít dặm, ông đã gặp vận
may: ông đến đúng một nông trại. Ông nói với chủ nông trại về tình trạng khó
khăn của ông. Chủ nông trại rất thông cảm. May thay, ông này có máy hàn. Ông
kéo căn nhà di động về sân nông trại với chiếc máy kéo của ông, và sửa chữa cái
trục bị gãy. Khi công việc đã hoàn tất, người du khách lấy ví tiền và nói: "Tôi
nợ ông bao nhiêu?"
"Ông không nợ tôi đồng nào"
người chủ nông trại đáp.
"Nhưng tôi thấy tôi phải trả công
cho ông"
"Ông đã trả công cho tôi
rồi", người chủ nông trại nói.
"Tôi không hiểu", người du
khách nói.
"Ông đã cho tôi niềm vui của gia
đình ông trong mấy giờ liên".
Người du khách ngạc nhiên nhưng vui
sướng đã gặp một tấm lòng quảng đại như thế. Những người như thế làm chúng ta
lấy lại niềm tin vào sự tốt lành, nhân từ của con người. Lòng nhân từ cũng là
một mầu nhiệm như điều xấu. Nhưng ở đâu điều xấu làm đau buồn và chán nản thì
lòng nhân từ làm vui sướng và đem lại cho chúng ta cảm hứng.
Tình trạng cao nhất mà chúng ta có thể
đạt đến là khi lòng nhân từ trở thành một dòng nước ân sủng một cách dễ dàng,
tự nhiên và không tính toán. Khi nó tuôn ra từ chúng ta mà chúng ta không nhận
thấy, như môt chiếc lá từ cây mọc ra. Trong trường hợp của người chủ nông trại,
rõ ràng chúng ta gặp được một hành động của lòng nhân từ tự phát. Cũng giống
như trường hợp của người Samari. Rõ ràng lòng nhân từ của người Samari trở
thành thói quen, tự phát, một bản tính thứ hai. Điều tốt đẹp mà người ấy làm
cho người khác thì người ấy không coi là một việc gì đặc biệt. Đối với một số
người, lòng quảng đại nằm trong những hành động lác đác, lẻ loi, đối với những
người khác, đó là một cách sống.
Làm thế nào để một người đến được tình
trạng hạnh phúc ấy? Nó không thể được hoàn thành một sớm, một chiều. Nó phải
được học hỏi bằng sự thực hành lâu dài. Nó không được hoàn thành bởi một ít
công việc vĩ đại nhưng bằng nhiều công việc nhỏ bé. Người ta làm những công
việc vĩ đại không phải bởi sự bốc đồng nhưng bởi một loạt những công việc nhỏ
được liên kết với nhau. Phần thưởng thật sự cho một hành động tốt là để làm cho
việc tốt kế tiếp được dễ dàng hơn. Mỗi hành động nhỏ của ngày thường làm nên
hoặc không làm nên nhân cách.
Điều gây khó chịu trong câu chuyện của
Đức Giêsu không phải ở chỗ một người vô tội bị tấn công, nhưng ở sự kiện hai
người mà bạn chờ đợi giúp đỡ người bị thương đi ngang qua không bày tỏ chút
thương xót nào với người ấy. Một người Kitô hữu chân chính không dửng dưng
trước sự đau khổ của người khác.
"Ai là người lân cận của
tôi?" người thông luật hỏi. Câu trả lời chung của thời ấy sẽ là: Người lân
cận của tôi ở trong cùng một bộ tộc hoặc cùng phe nhóm, tôn giáo của tôi. Nhưng
lời đáp của Đức Giêsu đưa ra là: "Người lân cận của tôi là bất cứ ai tôi
chọn để trở nên người lân cận". Lời đáp thật sự là tôi không quan niệm ai
là người lân cận của tôi nhưng ai là người mà tôi muốn đối xử như một người lân
cận?
Tôi là loại người lân cận nào? Đây là
một câu hỏi mà thỉnh thoảng mỗi người chúng ta phải tự hỏi, nhưng đó là một câu
hỏi mà chính chúng ta không thể tự trả lời.
Suy Niệm 2. TRẮC NGHIỆM VỀ NHÂN CÁCH
Theo Tolstoy, một bi kịch không nói với
chúng ta về toàn bộ đời sống của một con người. Điều nói gây ra là đặt con
người vào một tình huống. Rồi tuy theo cách mà con người xử sự với tình huống
ấy, nhân cách của người ấy được bộc lộ cho chúng ta.
Đây đúng là điều mà Đức Giêsu thực hiện
trong câu chuyện của Người. Người đặt thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari vào
một tình huống. Họ được đặt trước một quyết định: hoặc dừng lại để giúp đỡ
người bị thương, hoặc tiếp tục công việc riêng của họ? Không có lối thoát cho
họ, không có chỗ để trốn tránh. Họ phải dấn thân vào con đường này hoặc con
đường khác. Thầy tư tế và thấy Lêvi quyết định đi qua; người Samari quyết định
dừng lại và giúp đỡ.
Khủng hoảng tạo ra nhân cách, nó hầu
như làm biểu lộ nhân cách. Trong những thời kỳ khủng hoảng, con người bộc lộ
điều đã có sẵn trong tâm hồn họ: con người quảng đại hay con người ích kỷ, anh
hùng hay kẻ hèn hạ. Một lúc nào đó hoặc một biến cố nào đó có thể khiến một
người bộc lộ bản chất của họ. Gặp một người bị thương tích là một thời điểm cho
thầy tư tế, thầy Lêvi và người Samari.
Điều đó đã bộc lộ điều gì về nhân cách
của thầy tư tế và thầy Lêvi? Nó bộc lộ một điều rất đáng lên án, tức là họ là
những người vị ngã. Họ không quên mình để giúp đỡ người khác. Khi có sự cố xảy
ra, họ đặt họ lên hàng đầu.
Và điều đó đã bộc lộ điều gì về nhân
cách của người Samari? Một điều rất đáng khâm phục đó là ông là một con người
quan tâm chăm sóc cho người khác. Ông thuộc loại người không thể bỏ qua một
người khác đang đau khổ và tìm cách làm vơi đi nỗi đau của họ.
Đời sống trắc nghiệm chúng ta liên tục.
Mỗi ngày, chúng ta được trắc nghiệm bằng những cách nho nhỏ; và thỉnh thoảng
bởi những cách lớn. Những trắc nghiệm ấy cho biết chúng ta là loại người nào:
người có bản chất vị kỷ, hoặc người có bản chất vị tha.
Những cơ hội lớn thường hiếm hoi, mà ít
người hoàn thành. Nhưng chúng ta có được nhiều cơ hội nhỏ, những cơ hội khó
nhìn thấy hơn để chúng ta bày tỏ sự chăm sóc và mối quan tâm với người khác
đang cần được giúp đỡ.
Sự trưởng thành về đức hạnh được xác
định không phải bởi những điều chúng ta làm trong những trường hợp phi thường,
nhưng bằng thái độ bình thường của chúng ta. Chính các sự việc khiêm tốn mỗi
ngày thay vì là những biến cố to lớn bộc lộ tư cách rõ nhất. Mỗi sự việc nhỏ
hình thành nhân cách của chúng ta.
CÂU CHUYỆN KHÁC
Larry Skutnik, 28 tuổi là một người đàn
ông nhút nhát, làm việc trong văn phòng chính phủ ở Washington. Vào buổi chiều
ngày 13 tháng Giêng năm 1982, một cơn bão tuyết nghiêm trọng tràn vào thành
phố. Ông đang trên đường trở về nhà và chạy trên con đường tắc nghẽn băng qua
một chiếc cầu trên sông Potomac Kiver. Ông bỗng nhận thấy nguyên nhân của sự
việc – một chiếc máy bay với bảy mươi chín hành khách đã đâm sầm vào dòng sông.
Ông ra khỏi xe, tìm kiếm và thấy có ba người, đang bám chặt vào đuôi máy bay
chổng ngược bên trên mặt nước.
Một máy bay trực thăng đã đưa hai người
trong số đó vào bờ, còn người thứ ba, một phụ nữ rơi xuống nước giá lạnh và bắt
đầu chìm xuống. Không chút nghĩ ngợi, ông cởi giày và áo khoác lặn xuống nước
và đưa người phụ nữ ấy lên bờ. Sau đó, ông nói ông chỉ muốn về nhà. Sau một
chuyến đi ngắn đến bệnh viện, ông được phép về nhà.
Hành động mạo hiểm cứu người của ông
được chiếu lên truyền hình. Sáng hôm sau, ông thức dậy thấy mình trở thành một
anh hùng của quốc gia. Nhưng ông tránh né mọi sự quảng cáo. "Từ "anh
hùng" làm tôi e thẹn" ông nói: "Tôi đã phản ứng một cách tự
nhiên, thế thôi".
Thật đẹp khi biết rằng người ta vẫn còn
thừa nhận sự cao cả của một hành động như thế. Và cũng thật đẹp khi biết rằng
người ta có thể làm một hành động như thế và coi đó như một việc bình thường và
tự nhiên.
14. Giới luật yêu thương - R.
Gutzwiller
1. GIỚI LUẬT
Như Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem,
người ta cũng lên đường tiến về Giêrusalem trên trời. Vấn đề đặt ra ở đây là
làm thế nào biết được con đường dẫn đến nơi đó và điều cốt yếu để đạt đích hệ
tại điều gì.
Câu hỏi của luật sĩ nói lên 2 chủ đề
ấy: 'Lậy Thầy, tôi phải làm gì để được sống đời đời?'. Câu trả lời quá rõ. Đức
Giêsu để cho luật sĩ tự rút từ sách luật ra câu trả lời: đó là một mệnh lệnh
kép về lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.
+ Kính mến Thiên Chúa
Thiên Chúa là cùng đích. Yêu mến Thiên
Chúa là con đường. Đây là tâm điểm của Cựu ước và Tân ước, của Lề Luật và Phúc
âm, và xét từ bên ngoài, của ngoại giáo và Kitô giáo, qua môi miệng những đại
biểu tốt nhất, đều đồng tâm nhất trí như vậy.
Yêu thương là mầu nhiệm thâm sâu nhất
của nền đạo đức tự nhiên và của nền luân lý được đặt lên trên nền tảng siêu
nhiên. Vì cả 10 giới luật không là gì khác hơn là nhiều phạm vi hoạt động của
cùng một giới luật yêu thương. Các nhân đức chỉ là những nhánh phát sinh từ
thân cây ấy thôi. Lời cầu nguyện một đàng phát xuất từ tình yêu, đàng khác lại
cầu xin tình yêu. Phụng vụ chẳng qua chỉ là thờ kính Thiên Chúa, phát sinh do
tinh thần hy sinh và đạo đức, đồng thời cũng là ân huệ Thiên Chúa ban cho con
người trong tình yêu thương hợp nhất hay nói cách khác là 'thông hiệp, hiệp
lễ'.
Chính giáo luật cũng nói đến sự liên hệ
căn bản với tình yêu. Vì luật là mệnh lệnh của tình yêu, là thân thể mà tình
yêu sẽ gán cho một tâm hồn. Bởi vậy, tình yêu là nguyên lý thành lập, là sức
mạnh sáng tạo, là thành tố cốt yếu của lòng kính tin, hợp nhất và đơn nhất hoá
mọi điều.
+ Yêu thương tha nhân
Nhưng con người không phải là lữ khách
độc hành, một mình lên đường đi về với Chúa. Như suốt lịch sử thế giới cho thấy,
cuộc đời, theo kế hoạch của Thiên Chúa là một bước đi của các dân tộc đến cùng
Thiên Chúa, một đoàn lũ hợp nhau trở về nơi định cư của mình. Đó là lý do tại
sao một tu sĩ không nên rút lui vào nơi thanh vắng một mình. Sống cốt yếu là
sống cộng đoàn. Thế nên, tình yêu chân thực đối với Thiên Chúa phải thực sự
triển nở nơi tình yêu đồng loại.
Những thái độ sẵn lòng đối với Thiên
Chúa mà ta có thể sánh như cái đà 'hàng dọc' sẽ triển khai thành 'hàng ngang'
đối với đồng loại. Tôn giáo xét tự nền tảng vốn có tính xã hội, nó không phải
là khu vực của một cá nhân mà ở đó có thể quan tâm đến anh em mình hay là không
cũng được. Ngay cả một thày tu trong căn phòng nhỏ bé của tu viện, một ẩn sĩ
trong sa mạc, tự bản chất vẫn hiện diện một cách 'xã hội' trong lời cầu nguyện
và thành tâm sám hối.
Không ai có thể và được phép tách biệt
khỏi cộng đoàn. Như tình yêu đối với Thiên Chúa nhất thiết phải sinh ra tình
yêu đối với đồng loại, thì tình yêu đối với đồng loại cũng vậy phải do từ tình
yêu chân thành đối với Thiên Chúa. Người ta có thể coi đó (và thực đã có như
vậy) như một tình bằng hữu, một chủ nghĩa nhân đạo, nhưng tình yêu ấy không trợ
giúp anh em dựa trên nền tảng chính yếu: cùng nhau bước tiến trên đường về với
Chúa. Và vấn đề là ở chỗ đó.
Vậy, sau khi đề cập đến tình yêu kép
đôi này, Đức Giêsu nhấn mạnh đến điểm căn bản sâu xa này: 'hãy làm thế và ông
sẽ được sống'. Nói cách khác: 'anh đã đi đúng đường, đã tiến tới gần đích, 'là
sống trong Chúa'.
2. DỤ NGÔN
Luật sĩ muốn biện bạch. Xét cho cùng,
ông chẳng thực tâm trong khi đặt vấn nạn mà cũng chẳng có tinh thần tìm tòi cho
bằng ông muốn 'thử' Đức Giêsu. Thua cuộc rồi, ông cố tránh né yêu sách gắt gao
và hỏi thêm để che đậy sự thất bại và dùng mọi mánh khoé để Chúa phải lúng
túng.
Dẫu thế, Đức Giêsu vẫn giải đáp cho vấn
nạn ông nêu ra. Ngài đưa ra một thí dụ, thí dụ về một con đường. Một người đi
từ Giêrusalem xuống Giêricô bị lũ cướp bóc lột và bị đánh đập dở sống dở chết.
Ai trên đường đi về với Chúa ắt có thể cũng chịu chung một số phận như thế.
Thực ra qua bao thế kỷ, cho thấy con người luôn gặp phải như thế trong suốt cả
hành trình lịch sử của mình. Satan đã cướp phá nhân loại này, cướp mất đời sống
siêu nhiên phong phú của nhân loại khi còn ở trong vườn Diệu quang xưa kia,
khiến nhân loại phải chịu cảnh dở sống dở chết như bây giờ.
Những khả năng hiểu biết về mặt tôn
giáo, hành động theo luân lý, đã bị giảm thiểu thật đáng kể. Những khả năng ấy
không chết đi, mất đi mà là bị tổn thương trầm trọng. Có những người cũng bước
qua con đường ấy và được coi là những người luôn có tình mến Chúa: các tư tế và
Lêvi chẳng phải là những người luôn luôn phụng sự Thiên Chúa đó sao?
Họ từ đền thờ ra đi và vẫn khoác trên
mình những dáng vẻ hoa mỹ và oai vệ của lễ nghi. Họ bước qua mà cứ phớt tỉnh
chẳng màng chi đến những người không may gặp nạn và họ lại còn đấm ngực tự mãn
cho rằng thái độ dửng dưng ấy bằng lòng mến yêu Thiên Chúa của họ. Vị tư tế tự
nhủ rằng mình hiện diện chỉ để phục vụ Thiên Chúa chứ không để phục vụ nhân
loại. Còn Lêvi lại tự nghĩ rằng mình phải cẩn thủ sự thuần khiết của bậc Lêvi,
nhân danh tình yêu đối với Thiên Chúa, không để mất nó khi rờ tới một người có
thể chết trong tay mình.
Hai thứ người này tưởng rằng mình yêu
Thiên Chúa mà không cần yêu đồng loại. Và những ai cư xử không dựa trên xã hội
đang khi vẫn phát huy những việc đạo đức, những nghi tiết những việc phụng thờ,
là những người đã muốn tách hẳn tôn giáo khỏi thế tục, muốn hoàn tất thái độ
chẳng có chút gì là đạo đức, như các tư tế và Lêvi bỏ qua không màng tới nhân
loại đang lâm cảnh đau thương.
Một lữ khách thứ ba xuất hiện, đó là
một người ngoại, người xứ Samaria, người này hẳn là phải đi một đoạn đường dài
và xa hơn những người kia; có thể là một thương gia, luôn bôn tẩu ngược xuôi.
Con người đó hẳn là rất xa lạ với nạn nhân kia, khác quốc tịch, khác cả tôn
giáo. Xét mối tương quan nào đi nữa, bên ngoài hay bên trong, dân sự hay tôn
giáo, hắn cũng là một kẻ xa lạ hoàn toàn.
Nhưng chợt thấy một người bị lâm nạn
nửa sống nửa chết như thế, hắn tiến lại gần ngay. Qua cử chỉ ấy, hắn trở nên
một người rất thân cận của nạn nhân. Chính hắn đích thân mang nạn nhân đến quán
trọ và vì gấp rút qua hắn đành ra đi; để lại số bạc cần thiết và hứa sẽ trả số
còn lại khi trở về. Như thế hắn vẫn tiếp tục quan tâm đến nạn nhân xấu số và
trong tâm hồn không thể quên người ấy được, trong khi mong mỏi sớm về gặp lại.
Một người khá xa lạ lại nên người gần
gũi, thấy tha nhân lâm nạn, hắn nên bạn thân ngay. Và đó không phải đơn giản là
một thứ bác ái cảm tình, màu mè, nhưng thật là một hành vi ra tay trợ giúp. Ta
có thể nhận ra tính tốt của hắn qua các chi tiết sau:
'Lại gần, băng bó thương tích, xức dầu
và rượu, đoạn vực người ấy lên lừa của mình mà đưa về quán trọ săn sóc. Hôm
sau, lấy ra hai quan tiền ông trao cho chủ quán mà bảo: ông hãy săn sóc người
ấy, và phải tiêu pha gì thêm thì khi trở về tôi sẽ trả cho ông'.
Người Samaria được đưa ra làm tiêu biểu
ấy chính là Đức Kitô. Nhân loại đang cơn hấp hối, Ngài không bỏ rơi mà còn từ
trời cao xuống thế, cất bước lên đường, ân cần săn sóc nhân loại, cúi xuống, đổ
tràn dầu và rượu các nhiệm tích trên những vết thương do tội lỗi gây nên. Ngài
đã dẫn đưa nhân loại vào Giáo Hội là quán trọ trong cuộc hành trình qua bao thế
hệ, Ngài đã uỷ thác cho Giáo Hội việc ân cần chăm sóc chữa trị nhân loại; Ngài
đã trả bằng giá máu Ngài và còn hứa thanh toán số còn lại trong ngày sau hết,
tức là ngày Ngài Quang Lâm: khi ấy mọi thụ tạo được lành lặn toàn vẹn sẽ tiến
về cùng đích của cuộc hành trình.
Để kết thúc dụ ngôn, Ngài khuyên bảo:
'Hãy đi và làm như thế và ông sẽ được sống'.
Như thế, con đường lại được đặt thành
vấn đề. Vì từ lúc này, con người biết: mình phải đi con đường nào và phải bước
đi trên con đường ấy bằng tinh thần nào; điều chi sẽ xảy đến cho mình và người
lữ khách sẽ nhìn rõ bổn phận nào phải thi hành đây. Bởi đó, câu chuyện này phải
là một dấu định hướng thực sự.
15. Tình yêu và hạnh phúc
Ngay từ hồi còn nhỏ, chúng ta đã thuộc
lòng câu giáo lý:
Hỏi. Ta sống ở đời này để làm gì?
Thưa. Ta sống ở đời này để nhận biết,
thờ phượng, kính mến Đức Chúa Trời là Cha chúng ta và yêu thương mọi người như
anh em, cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp cho ngày sau được hạnh phúc đời
đời.
Nói tóm lại, mục đích chúng ta theo
đuổi trong cuộc sống là xây dựng hạnh phúc ở đời này cũng như ở đời sau. Nếu
suy nghĩ, chúng ta sẽ thấy: Hạnh phúc là điều mọi người đều mong muốn và tìm
kiếm.
Bất kỳ ai chối bỏ cuộc đời mai hậu, thì
cũng không thể huỷ diệt được niềm khát khao hạnh phúc vĩnh cửu. Bất cứ ai là
người, thì đều mong mỏi tình yêu có nghĩa là yêu và được yêu.
Chính trong niềm mong mỏi, khát khao
tình yêu và hạnh phúc trong cuộc sống, đã gợi lên những thắc mắc trong thẳm sâu
cõi lòng. Tình yêu và hạnh phúc chỉ có được khi sống với người khác. Không ai
sống đơn độc lẻ loi mà lại cảm thấy hạnh phúc toàn vẹn. Thế nhưng phải sống và
phải yêu như thế nào?
Qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, ông
luật sĩ đã đến để chất vấn Chúa Giêsu về sự sống đời đời. Và Ngài đã nhắc lại
điều quan trọng nhất trong lề luật đó là kính mến Thiên Chúa hết lòng và yêu
thương anh em như chính mình ta vậy. Điều này thì ông luật sĩ đã quá biết, ông
ta chỉ thắc mắc:
- Ai là người anh em?
Chúa Giêsu đã không đưa ra một định
nghĩa có tính cách triết học và trừu tượng về người anh em, trái lại Ngài đã kể
một câu chuyện cụ thể và đòi chúng ta phải hành động như vậy.
Đúng thế, có một người đi từ Giêrusalem
xuống Giêricô, chẳng may bị bọn cướp trấn lột và đánh trọng thương. Lần lượt
xuất hiện các nhân vật. Bắt đầu là thày Tư tế, rồi thày Lêvi và cuối cùng là
người Samaria. Chúa Giêsu nhấn mạnh: để đạt tới sự sống đời đời, nếu chỉ hiểu
biết cặn kẽ về luật mà thôi thì cũng chẳng ích lợi gì. Thực vậy, thày Tư tế và
thày Lêvi, là những đấng vị vọng trong đạo, đương nhiên họ rất thông hiểu giới
luật yêu thương. Họ có đủ cách để giảng dạy cho dân, thế nhưng họ đã không thực
hiện, bởi vì họ đã đắp tai ngoảnh mặt làm ngơ trước tiếng kêu cứu của nạn nhân
đang cần sự giúp đỡ. Còn người Samaria là hạng người bị khinh miệt, không mấy
thông hiểu về lề luật, bị coi như người ngoại giáo. Thế nhưng, ông đã làm ngược
lại với thái độ của hai đấng vị vọng nói trên.
Chúa Giêsu muốn chúng ta xác định cho
rõ ai trong ba người, qua thái độ cư xử của mình khi đứng trước nỗi đau khổ của
người khác đã thực thi giới luật yêu thương?
Không phải sự hiểu biết, mà chính là
việc thực thi tình thương yêu mới dẫn chúng ta đến việc trở nên người anh em
của đồng loại mình.
Đây chính là điểm quan trọng, cần phải
canh tân tâm hồn, cần có cái nhìn hướng đến hành động trước những nỗi khổ đau
của người anh em. Sẽ không có tình yêu, sẽ không có hạnh phúc và sẽ không có hy
vọng được sống đời đời nếu như chúng ta lẩn tránh và làm ngơ trước nỗi thống khổ
của anh em mình.
16. Một lệnh truyền khó xử – Achille
Degeest
(Trích dẫn từ 'Lương Thực Ngày Chúa
Nhật')
Theo Phúc Âm thuật, Đức Giêsu đặt lại
tất cả mọi vấn đề. Người luật sĩ biết quá rõ Lề Luật giải quyết cách nào vấn đề
người ấy đặt ra cho Thầy, nhưng vẫn muốn dồn Thầy vào chỗ lúng túng khó xử. Vì
vậy sau câu đáp của Đức Giêsu, người lúng túng nhất chính là người luật sĩ ấy.
Thật vậy, Đức Giêsu phá vỡ những hàng rào vừa chắc chắn vừa dễ chịu ngăn đỡ
người Do Thái ngoan đạo giữ được chừng mực, khỏi quá nhiệt thành trong việc bác
ái. Những luật sĩ từng chẻ cái tóc làm tư, đem nghĩa vụ bác ái mổ xẻ thành cơ
man điều luật, sắp xếp theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau: chủng tộc, cách giữ lề
luật, giá trị về mặt xã hội, tuổi tác, nam nữ v.v... Chỉ một câu thôi, Chúa lật
đổ mọi hàng rào. Đối tượng bác ái là con người, đơn giản thế thôi. Về sau, Chúa
mở rộng viễn ảnh ra xa nữa: lòng yêu thương vì bác ái nhắm vào con người trong
tư cách con cái Thiên Chúa, nghĩa là cùng trong liên hệ Cha con với Thiên Chúa
tất nhiên phải thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Ở tầm cao đó, không một
thang giá trị nào đứng vững. Về điểm này Công Đồng Vaticanô II đã khai quang
một số viễn ảnh rất đáng chúng ta chú ý.
1) 'Bác ái Kitô giáo thực sự lan tràn
tới mọi người không phân biệt chủng tộc, hoàn cảnh xã hội hay tôn giáo, bác ái
không cầu mong một lợi ích hay một sự tri ân nào. Như Thiên Chúa đã yêu chúng
ta bằng một tình yêu vô vị lợi, các tín hữu cũng phải lấy tình bác ái mà lo
lắng cho con người bằng cách yêu mến họ với cùng một ý hướng như khi Chúa tìm
kiếm con người. Do đó, như Đức Kitô đã rảo qua khắp các thị thành làng mạc,
chữa lành mọi kẻ tật nguyền bệnh hoạn, làm dấu chỉ Nước Thiên Chúa đã đến, Giáo
Hội cũng nhờ con cái mình mà liên kết với mọi người thuộc mọi hoàn cảnh, nhất
là với những người nghèo hèn đau khổ, và tình nguyện hy sinh cho họ' (Sắc Lệnh
Ad Gentes 12).
2) Bác ái Kitô giáo phải quan tâm cách
rất thực tế đến việc chữa lành những vết thương của bất công trên nhân loại.
'Các Kitô hữu phải hoạt động và cộng tác với mọi người khác để tổ chức đứng đắn
những công việc kinh tế xã hội'. Công đồng đưa ra hai phương thức ưu tiên hành
động để tiến tới sự tổ chức thế giới công bình hơn, đó là việc giáo dục, và sự
viện trợ cho thế giới thứ ba. '... Họ phải quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục
các thiếu nhi và thanh thiếu niên bằng các loại trường học khác nhau. Các
trường này không những phải coi như phương tiện tuyệt hảo để huấn luyện và nâng
cao giới trẻ Kitô hữu, mà đồng thời còn là một công cuộc phục vụ nhân loại hết
sức giá trị -nhất là đối với các quốc gia đang phát triển- để nâng cao nhân
phẩm và chuẩn bị những hoàn cảnh hợp nhân bản hơn'. – 'Ngoài ra, họ còn phải
tham gia vào nỗ lực của các dân tộc đang cố gắng tạo ra những hoàn cảnh sống
tốt đẹp hơn, và củng cố hoà bình thế giới, bằng cách khuất phục đói khát, dốt
nát và bệnh tật' (Sắc Lệnh Ad Gentes). Người ta có thể công bằng mà nhìn nhận
rằng Giáo Hội với danh nghĩa một định chế của Đức Giêsu, đã không sai lầm trong
việc thực hành bài học mà Giáo Hội đã biết rút ra từ dụ ngôn người Samaria nhân
lành. Tuy nhiên Giáo Hội cũng là mỗi người trong chúng ta. Về thực tế, giá trị
và kích thước lòng bác ái của chúng ta lớn hay nhỏ? Nếu chúng ta lúng túng
trong khi tìm câu đáp, phải chăng chúng ta không sáng suốt hay thiếu sáng suốt,
hoặc chúng ta thuộc hạng người dễ thoả mãn về thành tích của mình?
17. Yêu Thiên Chúa và yêu tha nhân.
(Suy niệm của Lm. Vũ Thái Hoà)
Khi người thông luật đặt câu hỏi:
"Thưa thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?"
và tìm được câu trả lời trong Luật: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa Thiên Chúa
của người, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn ngươi, và người
thân cận như chính mình". Chúa Giêsu trả lời: "Ông trả lời đúng lắm.
Cứ làm như vậy là sẽ được sống".
Vì muốn cho người thông luật này hiểu
rõ hơn thế nào là "người thân cận", Chúa Giêsu kể dụ ngôn người
Samari tốt lành.
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu giúp người
thông luật và giúp chúng ta vượt lên trên cái nhìn hạn hẹp của mình. Người thân
cận là tất cả mọi người, dù là người mình không ưa thích, không cùng màu da,
không cùng tôn giáo, không cùng lập trường chính trị. Chúng ta đến gặp tha nhân
với lòng bác ái và quãng đại. Như vậy, câu hỏi không còn là "ai là người
thân cận của tôi?", mà là "tôi là người thân cận của mọi người như
thế nào một cách cụ thể?"
Ngày xưa, trong một làng nhỏ, tại miền
Nam Trung quốc, có một em bé gái tiều tuỵ, đói rách và mang bệnh phong hủi. Khi
biết em bị bệnh hủi, dân chúng dùng gậy gộc và gạch đá xua đuổi em ra khỏi
làng.
Giữa cảnh hỗn loạn ấy, một nhà truyền
giáo xông ra ẵm em bé trên tay để bảo vệ em khỏi những trận đòn và những viên
gạch, hòn đá ném bừa bãi vào tấm thân bé bỏng của em.
Thấy có người mang em bé đi, dân làng
mới chịu rút lui, nhưng miệng vẫn còn gào thét: " Đồ hủi! Đồ hủi!"
Với những giòng nước mắt chảy dài trên
má, những lần nầy là những giọt nước mắt vui mừng chứ không phải là những giọt
lệ buồn tủi, em bé hỏi vị cứu tinh của mình: "Tại sao ông lại lo lắng cho
con?" Nhà truyền giáo trả lời:"Vì Ông Trời đã tạo dựng cả hai chúng
ta, và cũng vì thế con sẽ là em gái của ta và ta sẽ là anh của con"
Suy nghĩ hồi lâu, em bé cất tiếng hỏi:
"Con có thể làm gì để tỏ lòng biết ơn cứu giúp của ông?" Nhà truyền
giáo mỉm cười đáp: "Con hãy trao tặng lại cho những kẻ khác tình yêu này
càng nhiều càng tốt."
Kể từ đó đến ba năm sau, khi em bé tắt
thở cuối cùng, em đã vui vẻ băng bó các vết thương của các bệnh nhân khác trong
trại cùi, đút cơm cho những người bị bệnh nặng, và nhất là em tỏ ra dễ thương
và yêu mến tất cả mọi người trong trại. Lúc từ giã cõi đời, em bé chỉ mới 11
tuổi. Các bệnh nhân khác đã từng chung sống với em nói với nhau: "Bầu trời
nhỏ bé của chúng ta đã về trời".
Tinh thần Kitô giáo được tóm gọn trong
hai điểm: yêu Chúa và yêu người. Cả hai luôn đi đôi với nhau. Hễ mến Chúa là
phải yêu người. Càng yêu mến Chúa thì càng yêu người. Công thức Phúc Âm này
không thể tách rời được trong đời sống của Kitô hữu.
Thánh Gioan Tông đồ có viết: "Nếu
ai nói: 'Tôi yêu mến Thiên Chúa' mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói
dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu
mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy" (1 Ga 4,20). Như thế, tình yêu tha
nhân là nơi chứng minh tình yêu của mình đối với Thiên Chúa.
Câu đầu và câu cuối của bài Tin Mừng
hôm nay được nhấn mạnh bởi động từ làm. Câu đầu là câu hỏi của người thông
luật: "Tôi phải làm gì để được sống đời đời?". Câu cuối cùng là câu
trả lời của Chúa Giêsu: "Cứ làm như vậy là sẽ được sống", nghĩa là
thực thi lòng bác ái xót thương không biên giới, không điều kiện với tất cả mọi
người, như người Samari trong dụ ngôn đã thực hành. Như thế, đức ái không phải
là một khái niệm trừu tượng, mà là một điều rất cụ thể.
Chúng ta thường dễ dàng yêu thích những
người hợp với mình. Nhưng Chúa Giêsu dạy chúng tá phải yêu thương mọi người, kể
những người không hợp với mình và thù ghét mình (Mt 5,44). Đó chính là tinh
thần Kitô giáo, là giới luật mới lạ nhất mà chỉ có Chúa Giêsu truyền dạy cho
chúng ta. Nếu chúng ta thực hiện được điều đó, chúng ta đích thực là con cái
Chúa, và chúng ta sẽ "được sự sống đời đời làm gia nghiệp".
Nguyện xin Chúa Nhân lành luôn ban ơn
cho chúng ta niềm vui, sức mạnh và can đảm để yêu Chúa và yêu tha nhân trong
đời sống thường nhật của chúng ta, nơi Nước Trời đã bắt đầu.
18. Suy niệm của JKN
Câu hỏi gợi ý:
1. Yêu Chúa và yêu người, cái nào quan
trọng hơn? Đặt vấn đề như thế có đúng đắn không? Có thể tách hai tình yêu ấy
thành biệt lập với nhau không?
2. Tinh thần yêu thương của Đức Giêsu
khác với tinh thần của Cựu Ước thế nào? Có gì mới mẻ hơn so với Cựu Ước?
3. Xét câu hỏi của Đức Giêsu: «Trong ba
người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?»,
bạn nghĩ gì về về câu hỏi ấy? Tại sao lại «ai tỏ ra là người thân cận», chứ
không nói «ai là người thân cận»?
Suy tư gợi ý:
1. Yêu thương là cốt tuỷ của Luật Thiên
Chúa
Lề luật vốn có rất nhiều điều luật, mỗi
điều luật lại có một số khoản luật, làm sao giữ luật cho trọn vẹn để trở nên
công chính? Muốn thế, phải nắm được cốt tuỷ của lề luật. Bài Tin Mừng hôm nay
cho thấy cốt tuỷ của lề luật là lòng yêu thương. Theo Cựu Ước – được thầy thông
luật trưng dẫn trong bài Tin Mừng hôm nay – thì có hai đối tượng của lòng yêu
thương: một là Thiên Chúa, hai là người thân cận. Nhưng trong Tân Ước, đặc biệt
trong các thư của Phaolô và Gioan, thì hai đối tượng ấy được tổng hợp lại thành
một thực tại duy nhất có hai mặt, tương tự như một tờ giấy duy nhất có hai
trang gắn liền nhau không thể tách rời. Yêu Chúa và yêu người là hai mặt của
một tình yêu duy nhất. Do đó, yêu Chúa đích thực tất nhiên phải yêu người, «ai
nói mình yêu Chúa mà không yêu người là kẻ nói dối» (1 Ga 4, 20). Thánh Phaolô
tóm cả lề luật vào một mối duy nhất là yêu người: «Tất cả lề luật được tóm gọn
trong một điều này: Hãy yêu người lân cận như chính mình» (Gl 5, 14), vì yêu
người đích thực thì đã bao hàm yêu Chúa trong đó rồi. Nói khác đi, yêu người
chính là yêu Chúa, miễn sao tình yêu đó là đích thực, nghĩa là vô vị lợi: yêu
người, hy sinh cho người không vì một lợi lộc nào cả, thậm chí không phải để
được Thiên Chúa thưởng. Nếu yêu người là để được Thiên Chúa thưởng mình, hay vì
một lợi lộc khác của mình thì suy cho cùng hoá ra đó là mình tự yêu bản thân
mình chứ đâu phải mình yêu người. Yêu kiểu ấy là một hình thức vị kỷ, chứ đâu
phải là tình yêu!
2. Yêu thương là giữ trọn lề luật (x.
Gl 6,2)
Chúng ta đang sống thời Tân Ước, vì thế
chúng ta không nên sống theo tinh thần của Cựu Ước. Thời Cựu Ước, trình độ tâm
linh của con người còn sơ khai, thấp kém, nên tiêu chuẩn để nên công chính vào
thời đó là sống sao cho đúng với lề luật. Càng giữ đúng luật bao nhiêu thì càng
công chính bấy nhiêu. Vì thế, những người Pharisiêu là những người hoàn chỉnh
nhất theo tiêu chuẩn này: họ cố giữ luật sao cho đúng từng chi tiết, từng dấu
phảy một. Tuy họ giữ đúng lề luật tôn giáo từng ly từng tý, đến nỗi có thể nói
rằng khó có ai giữ lề luật chi ly hơn họ, nhưng Đức Giêsu đã nhận ra rằng trong
lòng họ không có tình yêu, trái lại chỉ có lòng ích kỷ. Nếu họ có giúp đỡ ai,
hy sinh cho ai, thì ý hướng khiến họ làm điều ấy là vì lề luật khuyên hay buộc
như vậy, vì họ nghĩ: có làm như vậy thì mới là người công chính, và mới được
Thiên Chúa ân thưởng. Họ giúp đỡ, hy sinh cho người khác rất nhiều, mà lòng họ
có thể chẳng yêu thương người ấy bao nhiêu. Họ làm mọi sự vì lề luật đòi hỏi,
chứ không phải tình yêu đòi hỏi.
Tới thời Đức Giêsu, Ngài thấy Dân Chúa
đã sống trong trình độ tâm linh ấy cả ngàn năm rồi, bây giờ Ngài phải nâng
trình độ ấy lên. Tiêu chuẩn để nên công chính bây giờ phải được nâng cao hơn:
không nên làm vì lề luật buộc, mà vì tình yêu đối với tha nhân đòi buộc và thúc
đẩy. Vì thế, Ngài nói: «Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và
người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời» (Mt 5,20). Ý của Ngài không
phải muốn chúng ta giữ lề luật nhiệm nhặt hơn người Pharisiêu, vì chẳng mấy ai giữ
luật tài hơn họ. Ngài muốn chúng ta công chính hơn họ ở chỗ có tình yêu bên
trong, và làm mọi sự vì yêu thương chứ không phải vì lề luật buộc phải làm như
thế. Điều đó không có nghĩa là Ngài đả phá lề luật, mà trái lại là làm cho lề
luật hay việc giữ luật nên hoàn chỉnh hơn: giữ luật vì tình yêu, đưa tình yêu
vào trong lề luật. Một khi đã có tình yêu đích thực, thì như thánh Âu-Tinh nói:
«Cứ yêu đi rồi muốn làm gì thì làm». Tình yêu sẽ cho ta biết ta phải làm gì.
Theo thánh Phaolô thì lề luật không phải được lập nên cho người có tình yêu, mà
cho người không có tình yêu: «(9) Lề Luật có đó, không phải cho người công
chính, mà là cho hạng người sống ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội
lỗi, phạm thánh phạm thượng, giết cha giết mẹ, sát nhân, (10) dâm dật, kê gian,
buôn người, nói dối, bội thề, và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh» (1
Tm 1,9-10).
Nếu không có tình yêu, thì việc làm
theo luật có tốt đẹp đến đâu cũng vô giá trị. Thánh Phaolô nói rất rõ: «Giả như
tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu
thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1 Cr 13,3). Đem
hết gia tài ra bố thí cho người nghèo là một hành động có vẻ đầy yêu thương,
nhưng nó vẫn có thể phát xuất từ một động lực hoàn toàn vị kỷ, chẳng có chút
tình thương nào: bố thí để mọi người khen, nể phục, để được mang tiếng là
thương người, là đạo đức.
3. Hai thái độ giữ luật trong dụ ngôn
người Samari tốt lành
Trong dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay,
ta thấy có hai thái độ giữ luật:
– Một là của thầy tư tế và thầy Lêvi,
tượng trưng cho tinh thần vị luật của Cựu Ước. Theo họ, trong lề luật, không có
khoản nào qui định cụ thể phải cứu giúp người trong hoàn cảnh như thế này cả.
Trái lại, có những khoản qui định cụ thể về sự sạch sẽ: «(Tư tế lớn nhất trong
hàng anh em) thì không được đến gần người chết, và không được làm cho mình ra ô
uế, dù vì cha hay vì mẹ mình» (Lv 21,11). Như vậy, nếu mình không cứu người ấy
thì mình chẳng lỗi luật, còn nếu đụng đến người ấy mà lỡ người ấy chết trên tay
mình, thì mình ra ô uế, không được tế lễ hay ăn bánh thánh. Thái độ lãnh đạm
của họ đối với người bị nạn quả là có lý vì họ nghĩ: điều quan trọng là làm
theo Lề Luật, chứ không phải là làm theo sự đòi hỏi của tình yêu. Vả lại, Lề
Luật nói: «Phải yêu người thân cận như chính mình» (Lv 19,18), chứ phải yêu bất
cứ người nào đâu! Nếu có tình yêu thì tình yêu ấy chỉ dành cho người lân cận,
nghĩa là sống gần mình mà thôi.
– Hai là của người Samari, tượng trưng
cho những người không sống theo Lề Luật: trong họ, những người tốt thì sống
theo sự đòi hỏi của lương tâm hơn là của lề luật thành văn. Do đó, thấy người
bị nạn thì người Samari tốt lành này động lòng thương, lương tâm và tình thương
đồng loại đã thúc đẩy anh ta cứu giúp người bị nạn đến nơi đến chốn, bất chấp
nạn nhân là người Do Thái, thuộc dòng tộc có hiềm khích với dòng tộc anh. Cách
hành xử đầy yêu thương của anh mới làm đẹp lòng Thiên Chúa.
Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn này để trả lời
cho câu hỏi của anh chàng thông luật: «Nhưng ai là người thân cận của tôi?».
Theo câu hỏi mà Đức Giêsu đưa ra sau dụ ngôn: «Vậy theo ông nghĩ, trong ba
người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?»,
thì vấn đề không phải là ai là người thân cận để mình yêu thương, mà là phải tỏ
ra mình là người thân cận với mọi người, bằng cung cách xử sự đầy yêu thương
với họ. Kinh nghiệm tôi cho thấy: khi có ai tỏ tình yêu thương tôi bằng những
hy sinh cụ thể, dù người ấy là người tôi chưa hề quen biết hay ở xa tôi vạn
dặm, thì hành động yêu thương ấy làm cho người ấy và tôi trở nên gần gũi nhau,
thân mật với nhau. Tình yêu thương và sự hy sinh ấy càng lớn thì sự gần gũi ấy
càng tăng lên, thậm chí đi đến chỗ coi nhau như ruột thịt. Trái lại, dù gần
gũi, dù là họ hàng, máu mủ, ruột thịt mà không yêu thương nhau, thì lại trở nên
như kẻ xa lạ. Như vậy, theo tinh thần của Đức Giêsu, chúng ta phải biến tha
nhân thành ruột thịt, thành gần gũi với mình bằng cách cư xử đầy yêu thương với
họ, hơn là chọn lấy những người nào là ruột thịt hay gần gũi với mình để yêu
thương.
Cầu nguyện
Lạy Chúa, xin cho con một tình yêu đích
thực, vị tha, làm động lực thúc đẩy cho mọi hành động của con. Cho con biết
thật sự quên mình được thể hiện bằng những hy sinh cụ thể cho tha nhân, vì đó
chính là dấu chứng của tình yêu đích thực mà con cần có để nên công chính.
19. Người Samaria nhân từ
Câu chuyện về người Samaria nhân từ làm
cho tôi liên tưởng tới những sự việc vốn xảy ra thường ngày.
Chẳng hạn một người bất ngờ bị trúng
gió, hay bị một tai nạn nào đó, đang nằm quằn quại bên vệ đường. Kẻ qua người
lại, xúm đến coi xem rồi bỏ đi và tặc lưỡi:
- Thật tội nghiệp.
Thế nhưng, chỉ có một người đã vội vã
đi gọi xe cứu thương và đưa kẻ bất hạnh ấy vào bệnh viện. Thiên hạ hỏi xem anh
ta có phải là bà con họ hàng với kẻ gặp nạn hay không, thì anh ta đã trả lời:
- Tôi không có họ hàng bà con chi cả.
Thế nhưng, tôi chỉ biết việc cần phải làm ngay bây giờ là lo cấp cứu cho người
ấy.
Vậy trong số những người chứng kiến, ai
là người công giáo, ai là người đã sống tinh thần của Chúa hơn cả?
Tôi xin thưa đó là người đã vội vã đi
gọi xe cứu thương.
Hằng ngày chúng ta chứng kiến biết bao
nhiêu chuyện đớn đau và buồn phiền xảy ra ngoài đường phố cũng như nơi khu xóm.
Hằng ngày chúng ta cũng được nghe nói đến những tai ương hoạn nạn xảy ra ở chỗ
này hay ở chỗ kia trên thế giới. Tuy nhiên, thái độ của chúng ta vẫn chỉ là
thái độ thờ ơ và dửng dưng, thái độ của kẻ mũ ni che tai, hơi đâu mà để ý đến.
Đó là chuyện bên tây, bên tàu chứ có phải là chuyện của mình đâu mà lo.
Tác phong của chúng ta vẫn chỉ là tác
phong của kẻ "cháy nhà hàng xóm, bình chân như vại". Chúng ta chỉ
biết lo cho bản thân mình, gia đình mình, họ hàng mình, phe nhóm mình mà thôi.
Và chúng ta cảm thấy được bình an thư thái, chẳng có tội lỗi chi cả, vì chúng
ta không ăn gian, không nói dối, không giận hờn, không thù ghét, không cướp
của, không giết người.
Thế nhưng, nếu suy nghĩ chúng ta sẽ
thấy: yêu thương không chỉ dừng lại ở những tiếng "không" lạnh lùng
ấy, nghĩa là không được bằng lòng với khía cạnh tiêu cực ấy, mà còn phải bước
vào khía cạnh tích cực, nghĩa là phải làm gì cho những người mình thương mình
mến chứ.
Khi đọc kinh cáo mình, chúng ta đã thú
nhận những tội đã phạm nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những điều
thiếu sót. Vậy những điều thiếu sót ấy là gì? Tôi xin thưa chính là những điều
chúng ta phải làm mà đã không làm.
Nghĩ xấu, nói hành, ăn trộm, giết
người...đó là những việc làm tội lỗi ai cũng biết. Thế nhưng, không dạy bảo con
cái, không giúp đỡ cha mẹ, không bố thí cho người nghèo, không thăm viếng người
đau yếu khi có thể... đó là những việc thiếu sót và cũng là lỗi tại tôi, lỗi
tại tôi mọi đàng. Chúng ta cần phải thành thật thú nhận trước mặt Thiên Chúa và
trước mặt mọi người để xin ơn tha thứ.
Dưới một góc cạnh nào đó, chúng ta có
thể định nghĩa người Kitô hữu không phải chỉ là những người có Đức Kitô trong
tâm hồn, mang Đức Kitô trong cuộc sống, mà hơn thế nữa, người Kitô hữu còn phải
là người nhìn nhận Đức Kitô trong mọi người, coi những vui mừng và những hy
vọng, những buồn phiền và những lo lắng của người khác là của chính mình. Chia
sẻ những đớn đau và những khát vọng của anh em mình. Coi những vấn đề của người
khác là của chính mình và tìm cách giải quyết. Đó mới là yêu người như mình ta
vậy.
Vì thế, đừng chỉ sống đạo theo luân lý
cá nhân, nhằm cái lợi cho riêng mình, mà còn phải có ý thức xã hội, nhằm cái
lợi cho người khác nữa.
Chẳng hạn khi mở máy truyền hình vào
ban tối, thì cần nghĩ ngay đến người láng giềng đang cần sự yên tĩnh để nghỉ
ngơi. Khi đổ rác thì đừng đổ xuống dòng sông vì phải nghĩ ngay đến phép vệ sinh
công cộng. Khi rước kiệu, thì đừng giăng hàng chiếm trọn cả mặt đường khiến cho
bao nhiêu xe cộ bị kẹt cứng. Trong lúc đi rước, họ lâm râm đọc kinh và hát
xướng. Họ tưởng thế là làm sáng danh Chúa cũng như làm sáng danh mình mọi đàng,
đang khi ở hai đầu dân tài xế, lơ xe và còn biết bao nhiêu hành khách đang lên
tiếng chửi bới họ và rất có thể cũng đang chửi bới đạo.
Hãy biết tế nhị giúp đỡ những người
chung quanh, đó là cách thức làm chứng cho Chúa giữa lòng cuộc đời, bằng không,
danh hiệu Kitô hữu của chúng ta cũng sẽ bị mai một với những phiền toái do
chính chúng ta gây ra.
20. Yêu thương
Tôi xin hỏi các bạn: "Ai trong các
bạn dám nói rằng: đời tôi không bao giờ yêu thương ai hay là không muốn một ai
yêu thương tôi cả?" Chắc chắn là không có ai dám khẳng định như vậy cả.
Thật vậy, nhu cầu và khát vọng yêu thương vẫn tồn tại nơi từng con người, nhưng
vấn đề được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay là: tôi yêu ai? Yêu với một
thái độ như thế nào? Và tôi yêu để làm gì? Những câu hỏi này ắt hẳn mỗi bạn đều
đã có câu trả lời cho chính mình, đó là quan niệm riêng của mỗi người.
Hôm nay, qua trang Tin Mừng thánh Luca
tường thuật cho chúng ta, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta một quan niệm mới
về tình yêu. Và đây cũng là điều cốt lõi cho đời sống người Kitô hữu và được
đặt làm trung tâm điểm của đạo Kitô giáo chúng ta: Mến Chúa và Yêu Người. Chúa
Giêsu đã đặt giới răn yêu thương này trong mối tương quan của người Kitô hữu
với Thiên Chúa và với con người. Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân nơi
người Kitô hữu có một mối quan hệ bổ túc cho nhau để người Kitô hữu ngày càng
trở nên hoàn thiện hơn. Thánh Gioan khi nói về mến Chúa và yêu thương anh em
cũng đã viết: "Ai nói yêu mến Thiên Chúa mà không yêu anh em mình là kẻ
nói dối, vì nếu họ không yêu anh em là người họ trông thấy thì làm sao họ có
thể yêu mến Thiên Chúa, Đấng mà họ không thấy".
Cũng như người thông luật trong bài Tin
Mừng hôm nay: Thiên Chúa thì chỉ có một, nhưng tha nhân thì rất nhiều xét trên
mối tương quan, qua mỗi quan điểm... từ đó anh ta bối rối khi xác định cho mình
người thân cận để yêu thương. Chúng ta nhiều khi cũng vậy.
Qua dụ ngôn người Samaria tốt lành,
Chúa Giêsu đã không định nghĩa thế nào là người thân cận, nhưng Ngài đã giúp ta
nhận ra cho mình mẫu người thân cận của chúng ta, đó không chỉ là những người
thân quen "cùng hội cùng thuyền", cũng không chỉ là những người cùng
tôn giáo, cùng chủng tộc hay cùng một quốc gia, nhưng là những người đang gặp
khốn khó, những người đang cần chúng ta giúp đỡ. Có thể nói khi đến gần ai – không
có bất cứ một sự phân biệt nào – là lúc ta biến người đó thành thân cận của
chúng ta. Nhưng thử hỏi có thể đặt một giới hạn cho tình yêu đối với tha nhân
không?
Người Việt chúng ta có câu:
"Thương người như thể thương thân". Hay như một nhạc phẩm đã diễn tả:
"Yêu là chết đi, là đóng đinh, là biết hy sinh cho người mình yêu".
Vâng, đó là tinh thần của Chúa Giêsu và là lời mời gọi của Chúa Giêsu: yêu
thương tha nhân với một tình yêu vô vị lợi, không tính toán, không lý lẽ và
không đặt một biên giới nào cho tình yêu ấy. Người Samaria đã không ngần ngại
đến với người xấu số kia mà không hề nghĩ đến mình có thể gặp bao điều phiền
toái: hành trình bị gián đoạn và trễ hẹn, sẽ phải tốn kém, thậm chí có thể bị
thiệt thân nữa vì bọn cướp đang rình rập đâu đây. Ông đã không tính toán: khi
dốc cạn dầu và rượu để làm dịu bớt sự đau đớn cho tha nhân, ông không ngần ngại
nhường lưng lừa để đưa tha nhân đến quán trọ và không ngần ngại dốc những đồng
tiền để lo cho người bị nạn.
Yêu tha nhân như chính mình, sứ điệp
Tin Mừng mời gọi ta khi đến với tha nhân hãy biết dẹp đi cái tôi của mình, phục
vụ tha nhân đến nỗi có thể nói được là phải hao mòn chính bản thân mình, để
người thân cận tìm được một niềm vui và an ủi.
Chuyện người Samaria tốt lành ngày xưa
có còn là bài học thiết thực cho các bạn và tôi ngày hôm nay nữa không? Thưa nó
vẫn là một bài học cho chúng ta. Như với người thông luật, Chúa Giêsu cũng
khuyến khích chúng ta: "Hãy đi và làm như vậy để được sự sống đời
đời". Sống bác ái và dấn thân cho tha nhân vẫn ngày ngày là chứng từ sống
động cho đạo tình yêu của Thiên Chúa, nó có sức mạnh cuốn hút người khác đến
với Thiên Chúa.
Cha sở giáo xứ Taejou (Nam Hàn) – cha
Cluny kể rằng: Khi hay tin có một người ăn xin vừa mới chết ở ngoài chợ, các
bạn trẻ trong giáo xứ của ngài đã hy sinh đóng góp tiền mua hòm để lo hậu sự
cho người hành khất xấu số kia. Họ đã xin phép cha xứ đem ông ta đến nhà thờ để
cầu nguyện (vì ông ta cũng vừa được rửa tội), tổ chức thánh lễ và đưa ông ta đi
chôn. Người dân trong giáo xứ hay tin đã đến và tham dự. Mấy ngày sau, cha xứ
có việc đến một làng cách giáo xứ của ngài 30 cây số thì có hai ông lão đến gặp
và nói: "Sự bác ái và kính trọng của người Công giáo đối với người chết
làm chúng tôi hài lòng. Chúng tôi biết được điều Giáo Hội Công giáo đã làm cách
nay mấy ngày cho người chết nơi chợ. Vì thế, chúng tôi muốn xin trở lại
đạo". Và cha Cluny kết luận: "Thật tuyệt diệu! Các bạn trẻ trong xứ
đã làm cho Giáo Hội được thiện cảm và hấp dẫn nơi con mắt của người ngoại giáo
và ngay cả nơi con mắt của người Công giáo".
Ngày nay, một xã hội đang có nhiều con
người bị bỏ rơi, bị bóc lột, bị bỏ sống không ra sống chết không ra chết, luôn
là một thực trạng không thể phủ nhận. Nhiệt huyết của các bạn đang có, tình yêu
của các bạn đang ở thời kỳ sung mãn, các bạn hãy sống làm chứng cho Tin Mừng
bằng chính đời sống bác ái cụ thể và thiết thực.
"Hãy đi và làm như vậy". Sứ
điệp Tin Mừng đang thôi thúc tôi và các bạn nỗ lực mỗi ngày một việc làm cụ thể
trong môi trường của chúng ta đang sống nơi công sở, nơi trường học, trên đường
đi. Các bạn hãy làm với một niềm tin tưởng rằng cho dù một cữ chỉ nhỏ của chúng
ta đối với tha nhân là chúng ta góp phần làm cho tình yêu của Thiên Chúa lan
toả và góp phần xây dựng một nền văn minh tình thương cho thế giới. Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã ngỏ lời với các bạn qua sứ điệp ngày giới trẻ thế giới
lần thứ 16 vừa qua rằng: "Vậy đừng sợ đi trên con đường Chúa đi. Với tuổi
trẻ, chúng con hãy ghi dấu ấn của niềm hy vọng và lòng nhiệt thành vốn là đặc
trưng của tuổi trẻ chúng con trên ngàn năm thứ ba". Chúng ta hãy cùng trở
nên chứng tá cho tình yêu bằng hai nguyên tắc: Tình yêu Thiên Chúa và tình yêu
tha nhân là một; tình yêu tha nhân bao gồm tất cả mọi người, không loại trừ
người ngoại bang hay kẻ thù.
21. Chú giải của Fiches Dominicales
THEO CHÂN ĐỨC GIÊSU, TRỞ NÊN NGƯỜI THÂN
CẬN VỚI BẤT CỨ AI GẶP NẠN
VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
1. Một giới luật yêu thương
Đức Giêsu đã lên đường đi Giêrusalem,
nơi Người sẽ tự ý dâng hiến mạng sống vì yêu anh em mình. Lúc đó có môt người
thông luật đặt câu hỏi này để thử Người: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để
được sự sống đời đời làm gia nghiệp? ". Đức Giêsu đáp lại bằng một câu
hỏi: "Trong luật đã viết gì? ông đọc thế nào? ". Giống như một cậu
học sinh trả lời cho "người mà ông ta muốn thử tầm hiểu biết và tính chính
thống về đạo lý, vị thông luật bắt đầu trích dẫn lệnh truyền của sách Đệ Nhị
Luật 6,4, mà mọi người Do Thái đạo đức đọc mỗi ngày hai lần trong kinh Shema:
"ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn,
hết sức lực và hết trí khôn ngươi". Và ông liền đọc tiếp Luật của sách
Lêvi 19,l8: "Và người thân cận như chính mình ". Trích dẫn câu Kinh
Thánh ấy hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của Đức Giêsu. Người vừa "khen
ngợi câu trả lời, lại vừa khuyên nhủ vị thông luật hãy thực thi giới luật yêu
thương theo hai chiều kích ấy. "Làm" như vậy sẽ cho phép ông nhận
được "sự sống đời đời " làm gia nghiệp, điều ông đã thắc mắc qua câu
hỏi ban đầu.
2. Để đem ra thực hành
" Cuộc đối thoại ngay sau đó được
chuyển sang một câu hỏi mới của vị thông luật, "muốn chứng tỏ mình là
người công chính ": "Những ai là người thân cận của tôi? ". Ta
càng hiểu rõ hơn tại sao có câu hỏi đó, nếu ta biết rằng có một vài khoản trong
Lề Luật tương phản với nhau; trong một vài trường hợp - như phần tiếp theo của bản
văn Tin Mừng sẽ cho thấy lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu người thân cận xem
ra loại trừ nhau.
Đức Giêsu tránh trả lời trực tiếp, để
khỏi sa vào cái "mớ bòng bong " của khoa giải các nố luật. Người nêu
ra cho nhà thông luật ấy một dụ ngôn... mở ra cho giới luật yêu thương tha nhân
một lãnh vực không giới hạn.
Sự kiện xảy ra trên quãng đường dốc rất
thuận lợi cho đạo tặc phục kích; con đường sa mạc (dài 25 cây số) từ Giêrusalem
đến Giêricô là nơi thấp hơn kinh đô đến 1090 mét.
Ngoài tên đạo tặc và người chủ quán, ba
nhân vật hết sức điển hình là một "thầy tư tế', rồi một "thầy Lêvi
". Cả hai là khách qua đường, sau cùng là "người Samaria ". Cả
ba người đều bất ngờ gặp "người bị kẻ cướp trấn lột đánh nhừ tử, rồi bỏ
lại nửa sống nữa chết ở bên đường"; ta không biết thân thế trong đạo ngoài
đời của người đó ra sao. Lối hành văn theo một khuôn mẫu định sẵn của dụ ngôn
càng làm nổi bật nét giống nhau và khác nhau trong cách xử sự của các nhân vật.
- Người đầu tiên đi trên đường này là
một "thầy tư tế", người của phụng tự, người của Đền Thờ. Ông trông
thấy kẻ bị thương, nhưng ông cũng nhớ đến lệnh cấm trong sách Dân Số 19, 11 -
13, 16: "Ai chạm vào xác chết... vào một người bị ám sát...một người chết,
sẽ mắc dơ trong cả ngày, ông quên mất lời Chúa trong sách ngôn sứ Ôsê 6,6:
" Ta muốn lòng nhân từ chứ.không muốn hy lễ ". Ông "tránh qua
bên kia mà đi ".
- Sau đó tình cờ có thầy Lêvi, một nhân
vật tượng trưng cho giới lãnh đạo Do Thái giáo, ông "cũng thấy, cũng tránh
qua bên kia mà đi ", chắc hẳn cũng vì những lý do vừa nói.
- Sau cùng, "một người Samaria đi
đường " cũng tới chỗ ấy H. Cousin nêu rõ: "Người này là một người lạc
giáo, chỉ cộng nhận bộ Luật viết, là Ngũ Kinh, mà phi bác Luật truyền khẩu.
Dưới con mắt của vị thông luật, hẳn đó là người hoàn toàn đối chọi với hai vị
tôi tớ đáng kính của Đền Thờ." ("L'evangile de Luc", Centurion,
tr. 158).
"Vậy trong khi hai vị kia tránh xa
người mà họ coi như một xác chết, và có thể khiến họ thành ra dơ, thì người
Samaria "chạnh lòng thương " - giống như chính Đức Giêsu chạnh lòng
thương trước nỗi đau của bà goá Naim ở 7,13 – khi thấy bà đau khổ. Trong khi
hai vị giáo sĩ kia, vì tôn trọng luật về thanh tẩy đã tách rời lòng mến Thiên
Chúa với lòng yêu tha nhân, và... đã tránh qua bên kia đường, thì người Samaria
lại gần, lấy dầu, lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi
đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc ". Bằng
hành động, ông đã chứng tỏ, ông hiểu rõ ý Thiên Chúa mà ngôn sứ Ôsê đã diễn tả,
hơn những vị đại diện Do Thái giáo chính thống kia nhiều.
R. Meynet còn lưu ý thêm: "Không
ai là người ngoại" trong số ba ứng viên cứu nạn kia, nhưng cả ba đều có
đạo và tuân giữ luật. Nhưng thầy tư tế, và thầy Lêvi đứng về phía quân cướp...;
vì cũng như bọn đó, các ông bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết, các ông
còn mang tội không cứu giúp người bị nạn. Còn người Samaria, là quân lạc đạo bị
người Do Thái khinh miệt và khai trừ, thì lại yêu người bị thương như chính
mình: ông hy sinh bản thân, hy sinh vật cỡi, hy sinh tiền bạc "
("L'Evangile de Luc. ánalyse rhétorique", cuốn 2, trg 126).
3. Trở nên người thân cận với bất cứ ai
gặp nạn.
Để kết thúc dụ ngôn, Đức Giêsu đổi
ngược lại câu hỏi, mà vị thông luật đã đặt ra hồi nảy: "Vậy ai là người
thân cận của tôi?". Đức Giêsu hỏi lại ông ta: "Theo ông nghĩ, trong
ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?
"
Không do dự, vị tiến sĩ luật đáp rất
chính xác: " Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người ấy
". Như vậy, theo ông, không cần biết ai là người thân cận của mình nữa, mà
điều quan trọng là tìm cách nào để trở nên người thân cận, người gần gũi với
bất cứ ai đang cần giúp đỡ. H. Cousin giải thích: "Hỏi ai là người thân
cận của mình, vị thông luật tự đặt mình làm trung tâm thế giới, và nhìn mọi người
như những vệ tinh quay chung quanh mình. Đức Giêsu đảo ngược vấn đề. Người thân
cận là người thực thi lòng thương xót, chứ không phải người hưởng thụ lòng xót
thương".
- Đến lúc này, Đức Giêsu chỉ cần kêu
mời người đối thoại, hãy chứng tỏ tình thương huynh đệ nhưng-không, vô vị lợi,
thực tế, giống như người Samaria lạc đạo " ông hãy đi, và cũng hãy làm như
vậy! "
Chúa nhật XIII, chúng ta đã theo chân
Đức Giêsu lên đường đi Giêrusalem. Hôm nay, chúng ta hiểu rằng con đường lên
Giêrusalem phải qua tình thương huynh đệ, là luật vượt trên mọi luật.
BÀI ĐỌC THÊM:
1. Hãy là người thân cận của mọi người.
Mọi người đều biết dụ ngôn người
Samaria cho ta chứng kiến một sự đảo ngược. Câu hỏi được đặt ra lúc đầu là:
"Ai là người thân cận của tôi? " Cuối cùng lại trở thành "Ai đã
là người thân cân với kẻ bị rơi vào tay bọn cướp? ".
Sự đảo ngược này mang đầy ý nghĩa và
nhiều đòi buộc mới mẻ. Thật vậy, chỉ định trước ai, là đối tượng của lòng xót
thương nơi ta, thiết tưởng là thuận tiện hơn đấy. Hãy để ý xem sinh tử sở hữu:
"của tôi " (thân cận của tôi) được đặt ở chỗ nào. Người ta đã chỉ
trích khá nhiều công việc từ thiện của một vài mệnh phụ, chuyên làm việc từ
thiện, các bà ấy có khách hàng của các bà (xin tạm gọi vậy). Người thân cận
không phải' một khách hàng, cũng không phải cơ hội để ta thực hành nhân đức.
Người thân cận là người cải hoá ta, người bắt ta trở về với mình để kiến tạo ta
nên một người thực sự gần gũi.
Trở nên gần gũi không dễ dàng đâu. Cần
phải có trái tim, nếu không sẽ trở thành giả tạo. Cũng cần phải có sự sáng suốt
và nhất là sự tế nhị cao độ đến nỗi có thể cho đó là một chút nhẹ dạ. Điều đẹp
đẽ nhất trong cử chỉ của người Samaria là tính vô-vị-lợi của ông; ông không
màng tới một lời cám ơn.
Có những người khiến người khác phải
mang nặng quyền lực của họ. Nhưng kẻ đặt trên vai người khác gánh nặng bác ái
từ thiện của họ, thiết tưởng còn trầm trọng hơn. Chỉ có bác thật sự khi nó giải
thoát, khi nó khiến tôi trở nên người gần gũi, nên người anh em vì vốn chẳng ai
mắc nợ ai điều gì. Hoàn toàn nhưng không.
2. Được mời gọi "hãy làm như
vậy", cùng với vị thông luật.
Sao lại trách cứ vị tư tế thánh thiện
và vị "phó tế" nhiệt thành này? Họ là những người có trách nhiệm phục
vụ để Thiên Chúa được tôn vinh và phụng thờ trên hết mọi sự. Hai người tôi tớ
trung thành ấy có lý do chính đáng để giữ sự trong sạch theo luật định, bởi vì
"ai chạm vào xác chết (...), hoặc một người bị ám sát, một người chết
(....) sẽ mắc dơ trong 7 ngày " (Ds 19, 11-13. 16)... Trong trường hợp đó
vị tư tế hoặc thầy Lêvi không được làm việc phượng tự.
Những người giữ luật như vậy lầm rồi.
Vì khi giữ luật, họ lại phản bội luật. Khi tưởng rằng tôn kính Thiên Chúa, họ
lại xúc phạm đến Người. Thiên Chúa ở đó kìa, Người ẩn mình dưới dạng một người
bị thương nửa sống nửa chết trong cái hố bên đường.
Đấy không phải lúc tra ván xem nạn nhân
thuộc tôn giáo nào, quốc tịch nào, chủng tộc hoặc ngôn ngữ nào, cũng không phải
là lúc nhút nhát ẩn mình sau tấm bình phong truyền thống để được an toàn. Việc
đạo đức và lòng sùng kính chỉ là những phương tiện non yếu và tạm thời phải
nhường chỗ cho đức bác ái là cái tuyệt đối nhất định. Đức ái bày tỏ ra trong
tình yêu thương người thân cận là bằng chứng cụ thể tình yêu chân thành của ta
đối với Chúa.
Kết cục có hậu, cái bẫy đã không hoạt
động và viên tiến sĩ luật đã hiểu ra bài học thực hành. Ông ấy, và sau ông, cả
chúng ta nữa, đều được mời gọi hãy làm như vậy. Không phải Lề Luật có thể cứu
độ, cũng không phải các nghi thức và việc tuân hành luật, nhưng chính là việc
hoán cải tâm hồn và Tình Yêu được phục vụ trước hết.
Hiểu Luật theo cách của Đức Giêsu,
không cần tìm xem ai là người thân cận, nhưng đúng là làm thế nào để "trở
nên người thân cận của ai đó? ", là biết "chạnh lòng thương"
biết gạt bỏ mọi thành kiến về giai cấp và chủng tộc, về địa vị và tôn giáo.
Khi cử hành tiệc Thánh Thể, ta đã nhận
biết và tiếp đón Chúa (Lời Chúa và Bánh), thì khi ra về, hãy cố gắng đừng giả
bộ không nhận ra hoặc lẩn tránh Chúa khi ta gặp Người bên vệ đường.
22. Ai là người thân cận của tôi? - Lm
Vũ Phan Long
Trong lãnh vực yêu thương người thân
cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu thực
tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi.
1. NGỮ CẢNH
Đức Giêsu vừa mới đặt đối lập các môn
đệ như là "những người bé mọn" với "các bậc khôn ngoan thông
thái" (10,21); Người tuyên bố rằng các môn đệ có phúc vì được thấy được
nghe nhiều điều mà các ngôn sứ và vua chúa không được (10,23-24). Nay tác giả
Lc tiếp tục phần tường thuật hành trình lên Giêrusalem bằng cách giới thiệu một
trong các vị thông thái để ông này hỏi Đức Giêsu và trắc nghiệm giáo huấn của
Người (10,25-28). Mối phúc được công bố trên các môn đệ nay được nối tiếp bằng
một đoạn văn mang tính khuyến thiện nói về sự sống đời đời và tình yêu đối với
Thiên Chúa và người thân cận. Sau đó, do vị thông luật còn cật vấn, Đức Giêsu
đã kể Dụ ngôn người Samari nhân hậu (10,29-37) để minh hoạ đòi hỏi của tình
yêu.
2. BỐ CỤC
Bản văn có thể chia thành hai phần
chính:
1) Điều kiện để được sống đời đời
(10,25-28):- Người thông luật đặt câu hỏi (c. 25),
- Đức Giêsu trả lời bằng câu hỏi
(c.26),
- Người thông luật trả lời bằng cách
trích Kinh Thánh (c. 27),
- Đức Giêsu xác nhận (c. 28);
2) Dụ ngôn người Samari nhân hậu
(10,29-37):
- Người thông luật cật vấn (c. 29),
- Đức Giêsu kể dụ ngôn để đưa tới câu
hỏi (cc. 30-36),
- Người thông luật trả lời (c. 37a),
- Đức Giêsu xác nhận (c. 37b).
3. VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI
- Thử (25): Động từ ekpeirazein,
"test", để diễn tả một thái độ thù nghịch. Chính câu hỏi về người
thân cận mới là cái bẫy giăng ra cho Đức Giêsu.
- Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi (27): Trước tiên, vị thông luật trích Đnl 6,5 theo bản LXX. Đây
là phần mở đầu của kinh Shema, tức là lời tuyên xưng đức tin mà người Do Thái
đọc mỗi ngày hai lần.
Các phương diện của con người được nói
đến ở đây phải được hiểu theo nghĩa Cựu Ước: kardia, "tim, lòng", là
những phản ứng cảm xúc nhanh nhạy của con người; psychê, "linh hồn",
là sinh lực và khả năng nhận thức; ischys, "sức lực", là chiều hướng
bản năng, và dianoia, "trí khôn", là khả năng trí tuệ và lên kế
hoạch. Tổng hợp lại, các phương diện này muốn diễn tả toàn thể con người.
- yêu mến người thân cận như chính mình
(27): Câu đáp thứ hai này trích Lv 19,18b (vẫn theo bản LXX), nhưng nối với câu
trước như một đơn vị duy nhất. Không có chỗ nào trong Cựu Ước liên kết hai điều
này với nhau cả. Chính Đức Giêsu đã xác nhận cách làm này, và như thế Người đã
đơn giản hoá mà cũng là đào sâu 613 qui định của Lề Luật.
Trong sách Lêvi, "người thân
cận" ở thế song đối với "những con cái của dân ngươi", nghĩa là
người Ít-ra-en. Ở Lv 19,34, tình yêu có mở rộng đến cả "ngoại kiều"
(gêr) trong xứ (x. Đnl 19,10), nhưng không mở ra với những người khác, chẳng
hạn các gôyým, "các dân [ngoại]".
- Cứ làm như vậy là sẽ được sống (28):
nghĩa là được sống đời đời. Chỉ người nào đưa điều răn yêu thương ra thực hành
thì mới đạt được sự sống. Động từ zêsê ("anh sẽ được sống") rất có
thể gợi đến Lv 18,5 là câu có lời hứa ban sự sống cho ai vâng phục các quy tắc
và quyết định của Đức Chúa. Như thế, những lời Đức Giêsu nói đã thêm vào một
lời khuyên cho lệnh truyền của Lề Luật vì lệnh truyền này vẫn còn có tính lý
thuyết. Và đây chính là bài giáo lý tác giả Lc nhắm gửi đến cho độc giả Kitô
hữu.
- từ Giêrusalem xuống Giêrikhô (30):
Theo sử gia Gioxép (J.W. 4.8,3 • 474), còn đường này dài khoảng 150 stadia
(khoảng mười tám dặm, một dặm [stadion] dài khoảng 185m) đi qua vùng "sa
mạc và lởm chởm đá". Giêrikhô, "thành phố chà là" (2 Sb 28,15),
nằm kề ranh giới miền Pêrê, dọc theo một tuyến đường giao thông quan trọng, là
một điểm chiến lược mà đế quốc Rôma quan tâm trong việc cai trị Giuđê. Tại đây
người ta dễ gặp các nhân viên của đế quốc hoặc các sĩ quan, binh lính Rôma.
Thành này không phải là Giêrikhô thời Cựu Ước (= Tell es-Sultan), mà là thành
được Hêrôđê Cả thiết lập khoảng một dặm rưỡi về phía nam trên bờ tây của cánh
đồng Giođan.
- một thầy tư tế (31): Rất có thể thầy
đã xong thời gian phục dịch tại Đền Thờ Giêrusalem, nay đang đi về nhà. Truyền
thống kinh sư sau này cho biết Giêrikhô là nơi có một số tư tế cư ngụ.
- một thầy Lêvi (32): Tên này lúc đầu
chỉ một thành viên của chi họ Lêvi, tức một con cháu của người con thứ ba của
Giacóp (St 29,34). Trong Cựu Ước, danh hiệu "thầy Lêvi" thường được
dùng để gọi những người không thuộc dòng dõi Aharon, nhưng được giao cho làm những
việc lặt vặt liên hệ đến việc phụng tự và các nghi thức ở Đền Thờ.
- người Samari (33; x. 9,52): tức dân
cư Samari. Samari là kinh đô của vương quốc phía Bắc do vua Omri sáng lập vào
khoảng năm 870 tr CG. Sau này, tên gọi "người Samari" (hl. Samaritês)
trở thành một tên gọi mang tính chủng tộc và tôn giáo để chỉ những người cư ngụ
trong miền đất giữa Giuđê và Galilê, về phía tây sông Giođan. Sự đoạn tuyệt
giữa người Samari và người Do Thái được giải thích khác nhau tuỳ mỗi bên.
Thường người ta cho rằng có sự chia lìa đó là do có việc đế quốc Átsua đưa
người Do Thái đi lưu đày sau khi chiếm được đất nước năm 722 tr CG và đưa những
người không phải là Do Thái vào làm thực dân ở trong miền đó (2 V 17,24). Có lẽ
cũng do đó mà sau này những người ở lại quê nhà đả phá những người Do Thái hồi
hương khi những người này xây lại thành và Đền Thờ Giêrusalem (x. Er 4,2-24;
Nkm 2,19; 4,2-9). Dù thế nào, những người Samari chỉ chấp nhận Bộ Ngũ Thư là
Kinh Thánh và đã xây một đền thờ trên núi Garidim (Tell er-Râs) vào thời Hy-lạp
(đền này đã bị phá huỷ dưới thời Gioan Hiếccanô, khoảng năm 128 tr CG).
- chạnh lòng thương (33): Động từ
splanchnizesthai có nghĩa là "đau lòng, lòng quặn thắt".
4. Ý NGHĨA CỦA BẢN VĂN
* Điều kiện để được sống đời đời
(25-28)
Chuyện xảy ra khi một vị thông luật hỏi
Đức Giêsu: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia
nghiệp?". Ông quan tâm đến sự sống đời đời. Ông xác tín rằng ông phải làm
điều gì đó để có sự sống này, chứ sự sống đời đời không từ trời rơi xuống. Câu
hỏi này đi xa hơn những mối bận tâm và lợi lộc hằng ngày. Câu hỏi này giả thiết
là mọi sự không chấm dứt với cái chết, nhưng có một sự sống đời đời, không hề
mai một, một sự sống vượt thắng cái chết. Với mối bận tâm có ý thức và với tinh
thần trách nhiệm, vị thông luật hỏi: "Tôi phải làm gì để cuộc sống bên kia
cái chết không trở thành cho tôi một hoàn cảnh bị phạt, nhưng là một sự sống
vĩnh cửu đầy niềm vui?".
Giống như Đức Giêsu, vị thông luật cũng
đi từ tiền giả định là có một sự sống đời đời. Ông hoàn toàn đồng ý là để đạt được
sự sống ấy, dứt khoát phải yêu mến Thiên Chúa và người thân cận trong cuộc sống
hiện tại. Đức Giêsu đã đánh giá là ông trả lời đúng và đề nghị cứ làm như thế.
* Dụ ngôn người Samari nhân hậu (29-37)
Cảm thấy bị nhục vì phải tự tìm câu trả
lời, vị thông luật chuyển sang bình diện suy lý: "Ai là người thân cận của
tôi? Ai thuộc về khối những người mà tôi phải yêu thương như chính mình
tôi?". Dường như ông xác tín rằng phải có những giới hạn trong số những
người mà ông phải yêu thương. Đối với người Do Thái, chỉ người đồng hương mới
được coi như là người thân cận, và người ta mới phải yêu thương và giúp đỡ. Vẫn
tỏ ra mình làm chủ cuộc tranh luận, Đức Giêsu coi câu hỏi của vị thông luật là
quan trọng, và vì nhắm phục vụ công cuộc cứu độ các linh hồn, Người trả lời
bằng dụ ngôn "Người Samari nhân hậu".
Con đường đi từ Giêrusalem xuống
Giêrikhô băng qua sa mạc. Cho đến cuối thế kỷ XX, đây là một con đường không an
toàn, thường xuyên bị các đám cướp tấn công. Một người vô danh, không rõ địa
vị, nòi giống, quốc tịch và tôn giáo, đã rơi vào tay bọn cướp. Ông bị đánh nhừ
tử, rồi bị bỏ mặc bên vệ đường giở sống giở chết: đây là một tình cảnh hết sức
quẫn bách. Nói rằng một con người ở trong tình cảnh ấy cần được giúp đỡ, và ai
giúp đỡ người ấy là thân cận của người ấy, điều này thật rõ ràng trước mắt mọi
người. Thầy tư tế và thầy Lêvi đã thấy con người nằm đó dở sống dở chết, nhưng
đã sang bên kia đường mà tiếp tục bước đi. Sự bận tâm đến sự an toàn và sự tiện
nghi thì mạnh hơn lòng đồng cảm đối với người bị nạn. Lối xử sự của người
Samari khác hẳn. Ông hành động cách gương mẫu, ông đẩy mọi sự khác vào bình
diện thứ hai và chỉ còn thấy tình trạng cần kíp của con người đang nằm trên
đường dở sống dở chết. Ông đau lòng trước tình cảnh đáng thương, ông tìm mọi
cách để kéo anh ta ra khỏi tình trạng nguy kịch càng nhanh càng tốt. Ông đã tận
dụng tất cả những gì ông có để cứu giúp người bị nạn (dầu, rượu, con lừa, bạc).
Đức Giêsu đã cố tình chọn một người
Samari làm kiểu mẫu. Hạng người lạc đạo ấy, không hề có kiến thức của nhà luật
học, cũng không có phẩm cách của vị tư tế hay thầy Lêvi, lại tỏ ra hết sức nhân
ái và đạo đức. Ông đã thực hành hai điều răn lớn của Cựu Ước về đức mến. Do đó,
chính ông mới đáng được gọi là người Ít-ra-en chân chính.
Đức Giêsu cho thấy rằng trong vấn đề
yêu thương, không thể vạch ra một giới hạn chính xác. Người không nêu ra những
tiêu chí, xác định một con số giới hạn gồm những kẻ mà ta phải yêu thương. Như
trong những trường hợp khác, Người thay đổi hướng nhìn, mở rộng chân trời. Vị
thông luật hỏi: "Ai là người thân cận của tôi, kẻ mà tôi phải yêu
thương?". Đức Giêsu đảo ngược câu hỏi: "Ai đã tỏ ra là [ai đã trở
thành] người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?". Như thế,
Người đã thay đổi tầm nhìn. Dụ ngôn và câu hỏi cuối cùng của Đức Giêsu hoàn
toàn trả lời cho câu hỏi đầu tiên của vị thông luật: "Thưa Thầy, tôi phải
làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (c. 25).
+ Kết luận
Trong lãnh vực yêu thương người thân
cận, người ta không được nghĩ từ bản thân, nhưng phải khởi đi từ nhu cầu thực
tế của bất cứ người nào ta gặp trên đường ta đi. Chỉ khi đó, đời sống ta mới
trở thành con đường đưa tới cuộc sống vĩnh cửu. Vị thông luật tưởng có thể giữ
cuộc tranh luận trên bình diện lý thuyết, nào ngờ Đức Giêsu đã đưa được ông về
bình diện những thực tại sống động và đặt ông trước một chọn lựa: "Ông hãy
đi, và cũng hãy làm như vậy" (c. 37).
5. GỢI Ý SUY NIỆM
1. Có một thái độ ngược lại với thái độ
của vị thông luật: "Tôi chẳng hề quan tâm tìm biết là sau cái chết, sự
sống có tiếp tục chăng và chuyện này xảy ra như thế nào. Tôi đang có khá nhiều
chuyện bận bịu với cuộc sống hiện tại rồi, nên không muốn nặng lòng với những
mối bận tâm về sự sống đời đời. Đàng khác, người ta không biết được gì chắc
chắn. Tôi tìm cách thoả mãn các nỗi niềm chờ mong của tôi trong đời sống hiện
tại, chứ không quan tâm đến một sự sống đời đời có thể có". Một thái độ
như thế đã bị Đức Giêsu đánh giá là "ngu" (Lc 12,13-21). Người ta
không thể giải quyết một câu hỏi bằng cách nhắm mắt lại và không muốn chấp nhận
nó. Người ta tránh trả lời một cách có trách nhiệm câu hỏi về sự sống đời đời,
bằng cách nói rằng người ta không muốn dính dáng gì đến nó. Ngược lại đối với
Đức Giêsu, sự sống đời đời là một thực tại quyết định. Bởi vì nếu không có sự
sống đời đời, nếu không có trách nhiệm trước Thiên Chúa hằng sống, thì rốt cuộc
người ta xử sự thế nào trên con đường đưa tới Giêrikhô cũng chẳng quan trọng
gì. Chẳng bao lâu người ta sẽ quên đi mọi sự. Sẽ chẳng có ai cật vấn tôi và tôi
sẽ chẳng phải trả lẽ với ai cả. Nhưng trách nhiệm trước mặt Thiên Chúa không
phải là chuyện xa lạ với thế giới; trách nhiệm này đưa tới trung tâm của đời
sống hiện tại của chúng ta và qui định hình thức của đời sống này. Nó qui định
điều gì là đúng và điều gì là sai trên đường đưa tới Giêrikhô. Không có trách
nhiệm này, chỉ còn một vấn đề duy nhất là làm thế nào sống càng lâu càng tốt và
sống càng thoải mái càng tốt.
2. Ta không thể nói: "Người thân
cận của tôi có thể còn là người bà con đời thứ ba; người cư ngụ cùng đường phố
với tôi; người cùng làm việc trong một xí nghiệp với tôi; người có thiện cảm
với tôi, v.v.". Đức Giêsu không chấp nhận những giới hạn cho tình yêu
thương đối với người khác. Tôi không được suy nghĩ khởi đi từ chính bản thân:
"Tôi còn buộc phải làm cho ai điều gì? Tôi [còn] phải giúp đỡ ai? Kể từ
điểm đó, chuyện ấy không còn dính dáng đến tôi nữa?". Không phải là bậc họ
hàng hoặc mối thiện cảm sẽ qui định ai là người thân cận của tôi, nhưng là tình
trạng cần được giúp đỡ thực sự trong đó người kia đang lâm vào. Bất cứ ai xuất
hiện trên đường tôi đi, mà đang ở trong tình trạng quẫn bách, đều là người thân
cận mà tôi phải yêu thương và giúp đỡ.
3. Muốn thực sự giúp đỡ người lâm nạn,
người ta phải dấn thân vào trọn vẹn. Việc ấy có thể làm cho ta phải mất thì
giờ, tốn phí tiền bạc, gây phiền toái, làm xáo trộn sự yên tĩnh cũng như chương
trình, thậm chí có thể kèm theo một nguy hiểm cho mình nữa. Nhưng đấy chính là
thực sự yêu thương người thân cận, một tình yêu đưa đến sự sống đời đời. Như
thế, phải luôn mở mắt và có trái tim sẵn sàng để nhận ra được rằng ai đang thật
sự cần được tôi giúp đỡ và tôi phải giúp đỡ người ấy thế nào. Hôm nay trên
đường đời, vẫn còn có vô số "kẻ cướp", nên sẽ còn vô số người rơi vào
tay "kẻ cướp", nằm trên đường ta đi, và chờ đợi ta trợ giúp.
4. Câu hỏi về sự sống đời đời đưa thẳng
vào cuộc sống mỗi ngày của chúng ta. Chúng ta phải chịu trách nhiệm về lộ trình
chúng ta theo hằng ngày, sao cho lộ trình này trở thành hành trình đưa chúng ta
đến sự sống đời đời. Muốn thế, cần biết không vội vàng lo cho bản thân và lo
cho những dự phóng riêng tư, nhưng biết dừng lại để mau mắn giúp đỡ những ai ở
bên vệ đường đang cần được cứu giúp.
5. Đức mến phải phát xuất từ lòng của
từng con người, phải thiết thực và hữu hiệu. Người Samari đã dừng lại, băng bó
vết thương, thanh toán mọi chi phí cho chủ quán. Ông không cần tìm hiểu xem đây
phải chăng là một người Do Thái, tức một kẻ thù không đội trời chung. Ông chỉ
cần biết đây là một người đáng thương cần được cứu giúp, và ông đã cứu giúp.
23. Chú giải mục vụ của Hugues Cousin
MẾN CHÚA VÀ YÊU NGƯỜI THÂN CẬN
Phải làm gì để được sống đời đời? Bản
tóm tắt Lề Luật nói rất rõ (cc. 25-28). Với đề tài điều răn lớn nhất; mà cả hai
tác giả Nhất Lãm khác cũng có (x. Mc 12,28-31) có một câu hỏi khác, riêng của
Luca, câu hỏi về người thân cận; câu hỏi này được làm sáng tỏ bằng dụ ngôn
người Samari tốt lành (cc. 29-37), những tác giả Tin Mừng không ngừng lại giữa
đường; đoạn nói về hai chị em Matta và Maria, cho phép ông tiếp tục minh hoạ
cho điều răn lớn nhất (cc. 38-42). Dụ ngôn đã giải thích phải hiểu thế nào là
yêu người thân cận; câu chuyện về hai chị em cũng làm một công việc tương tự về
điều răn yêu mến Chúa. Toàn bộ bản văn dạy phải trao ban có người khác trong
khi tiếp nhận từ Chúa.
1. Điều Răn Lớn: 10,25-28
Và này có người thông luật kia đứng
lên, một trong những kẻ khôn ngoan và thông thái vắng mặt ở hoạt cảnh trước.
Muốn thử thách Chúa Giêsu về kiến thức của Ngài trong vấn đề Luật, ông ta ép
buộc Ngài tự tuyên bố về điều Ngài quan tâm, dựa vào truyền thống và suy tư cá
nhân của Ngài, đối với cái cốt yếu và quan trọng nhất trong Luật (S. Légasse).
Để đạt mục đích này, ông ta đặt ra một câu hỏi, đã được thoả thuận trong Do
Thái giáo, về điều răn lớn nhất (x. Mc 12,28) hoặc về những phương thế để đón
nhận sự sống của Thiên Chúa (như ở đây và ở Lc 18,18). Lời đáp của Chúa Giêsu
thực ra là một câu hỏi ngược lại về luật; như đối thủ của mình, Ngài biết rằng
đọc Kinh Thánh chính là giải thích Kinh Thánh. Vì thế Ngài mới hỏi: về vấn đề
này: ông đọc thế nào?
Lúc đó Luật sĩ trưng ra điều luật của Đnl
6,4 mà mọi người Do Thái đạo đức đọc hai lần một ngày trong kinh Shema Israel
và nó đòi hỏi nơi họ một sự gắn bó hoàn toàn vào Thiên Chúa duy nhất. Rồi ông
ta nói thêm điều luật của Lv 19,18 về tình yêu người thân cận. Khi đặt hai câu
ấy nối tiếp nhau, ông đã tuân theo truyền thống Do Thái đánh giá tình yêu tha
nhân bằng cách đặt nó ngang tầm mức với tình yêu Thiên Chúa. Một cách đọc Kinh
Thánh như vậy hoàn toàn ăn khớp với lời giải thích của Chúa Giêsu, chính Người
đã đặt ra tình yêu kẻ thù ở trung tâm của ơn gọi Kitô hữu (x. 6,27tt). Trong
khi tán thành ý kiến của ông, Chúa Giêsu mời vị luật sĩ đem ra thi hành giới
răn yêu thương thương theo hai chiều kích: làm như vậy thì sẽ được hưởng sự
sống tròn đầy mà câu hỏi ban đầu đã nói đến. Độc giả cũng được mời gọi nối kết
với hoạt cảnh trước (10,21-24): kết quả cuối cùng của tình yêu đối với Thiên
Chúa và với người thân cận nảy sinh qua năm tháng, phải chăng không là việc
hiểu biết Chúa Cha? Nếu ông luật sĩ thực hành luật mà ông đã phụng tự, ông sẽ
trở lại tình trạng của những người bé mọn và sẽ thấy được sự hiện diện hoạt
động của Thiên Chúa.
2. Dụ Ngôn Người Samari Tốt Lành:
10,29-37
Hoạt cảnh lại tiếp diễn bởi vì ông luật
sĩ đặt một câu hỏi mới, mà ông cho là tuỳ phụ thôi: ông muốn tỏ ra mình có lý
khi đặt vấn nạn ban đầu. Ở đây Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi. Đưa ra một
định nghĩa về người thân cận có thể sẽ rơi vào cái chi li của luật mà Ngài đã
từng trách các Kinh sư và nhóm Pharisêu; Chúa Giêsu sẽ trở thành một luật sĩ
mất! Trái lại, Ngài kể một dụ ngôn (cc.30-35) mà Ngài sẽ kết thúc bằng một câu
hỏi ngược lại (c.36).
Trong hoạt cảnh, những người ẩn danh
được biết qua vai trò xã hội hay tôn giáo của họ: kẻ cướp và chủ quán cư ngụ
tại con đường này; thầy tư tế và Lêvi là khách qua đường, người Samari đi
đường. Người này là một tên lạc giáo chỉ chấp nhận có Luật thành văn là bộ Ngũ
thư và từ chối hoàn toàn luật truyền khẩu. Dưới mắt ông luật sĩ, anh ta hoàn
toàn trái ngược với hai vị đáng kính phục vụ Đền Thờ. Còn về con người nửa sống
nửa chết thì không hề có một lý lịch xã hội nào; người ta cũng chẳng biết anh
ta có phải là Do Thái hay không nữa. Khi dàn dựng các nhân vật như thế, Chúa
Giêsu tránh được cái lôgich của câu hỏi mà ông luật sĩ đặt ra, có thể đưa Ngài
tới chỗ trình bày người thân cận dưới dáng vẻ một anh chàng Samari nửa sống nửa
chết. Thế nhưng, người Samari là một trong những người đi đường ấy. Cũng như
các công chức của Đền Thờ, ông nhìn thấy kẻ bị thương. Nhưng người kia đứng
cách xa bởi vì biết chừng đâu đó là một tử thi và sẽ làm họ bị nhiễm uế: họ
tuân giữ Luật cấm (Ds 19,11-16). Trái lại, người Samari chạnh lòng thương –
cũng chính là thái độ của Chúa khi thấy bà goá ở Nain (7,13). Trong khi các
giáo sĩ, vì tôn trọng Luật về sự trong sạch, tách rời tình yêu Chúa khỏi tình
yêu người thân cận (xc.27) và"tránh qua bên kia" mà đi, thì người
Samari lại săn sóc người bị thương, một hành động được diễn tả bằng sáu động từ
ở câu 34 và tiếp tục những biến thái ở câu 35. Thực vậy, ông ta trao tiền cho
chủ quán để ông này săn sóc người xa lạ này thay cho ông. Như thế, thay vì phải
ở lại do biến cố bất ngờ, ông một mình tiếp tục lên đường. Nếu ông dự trù trở
lại để thanh toán tổn phí phải trả thêm, ông không nói đến việc sẽ hỏi tin tức
về người ông đã cứu giúp.
Phù hợp với tâm trạng của các nhân vật trong
dụ ngôn, câu hỏi ngược lại đầy năng động của Chúa Giêsu đặt ra làm biến đổi câu
hỏi của ông luật sĩ (câu 33 so sánh với câu 29). Ông luật sĩ tự đặt mình làm
trung tâm thế giới khi hỏi ai là người thân cận của ông. Chúa Giêsu đảo ngược
vấn đề:"Ai đã là người thân cận của người bị rơi vào tay kẻ cướp?".
Người thân cận là người tỏ lòng thương xót chứ không phải kẻ thụ hưởng lòng
thương xót."Người thân cận không còn phải là người khác để yêu thương,
nhưng là kẻ đã tỏ ra gần gũi với họ, mà là chủ thể của hành động đã được làm vì
anh ta" (J.Delorme). Người thông luật đã trả lời được chính xác khi bảo
người thân cận chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót (Cl 37). Chẳng sao cả:
chính một kẻ lạc giáo, tức là có một tương quan sai lạc với luật, đã biết giữ
luật của Lêvi 19,18 chứ không phải các chuyên viên phụng tự... Lúc đó, Chúa
Giêsu chỉ cần kêu mời ông luật sĩ cũng làm những việc giống như vậy.
24. Chú giải của Noel Quesson
Và này có người thông luật kia đứng lên
hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự
sống đời đời làm gia nghiệp?"
Vào thời Đức Giêsu, câu hỏi này tất
nhiên không phải mọi người Do Thái đều đặt ra. Những người Pha-ri-sêu tin có
đời sau và sự sống lại của người chết. Nhưng những người Sa-đu-xê-ô không tin
chuyện đó.
Ngày nay, những người ở xung quanh
chúng ta tiếp tục có những ý kiến trái ngược về vấn đề đó. Vậy, điều này không
có gì là mới cả. Dù câu trả lời là khẳng định hay phủ định thì vấn đề đời sống
vĩnh cửu là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất mà con người có thể tự đặt
ra, một vấn đề nghiêm túc nhất, mà sự được thua, rất là mạo hiểm. Pascal đã thử
đem lại một câu trả lời nổi tiếng cho vấn đề đó với "sự đánh cuộc của
Pascal" (Tư tường 343): "Thiên Chúa hiện hữu hoặc không hiện hữu. Nhưng
chúng ta nghiêng về phía nào? Phải đánh cuộc thôi. Điều này không cố ý bạn đã
bị lôi kéo vào rồi. Khi chọn "Thiên Chúa hiện hữu", nếu bạn thắng,
bạn được tất cả; nếu bạn thua, bạn không mất gì cả. Vậy bạn hãy đánh cuộc Người
hiện hữu không chút ngần ngại... Ở đây bạn được một cuộc sống vô cùng với hạnh
phúc vô tận, một khả năng được cuộc đổi lại một con số hữu hạn, những khả năng
mất mát, và điều bạn dùng đặt cược cũng hữu hạn. Điều này loại bỏ hết mọi do
dự... "
Thực vậy, hai giả thuyết (Thiên Chúa
hiện hữu... Thiên Chúa không hiện hữu) không có cùng một trọng lượng. Nếu chúng
ta muốn đánh cuộc trên vấn đề này, vậy có một sự chọn lựa giữa "mặt
sấp" và "mặt ngửa": một cơ may trên một con số giới hạn các ngẫu
nhiên. Nhưng nếu chúng ta nhận định về cái được có thể xảy ra (tất cả... hoặc
không gì cả), lúc đó, theo Pascal, không người đánh cuộc nào mà không ngần ngại
chọn lựa, "Điều xấu nào xảy đến với bạn khi thực hiện sự chọn lựa ấy? bạn
sẽ sống trung tín, khiêm nhường, biết ơn, từ thiện, là một người bạn chân
thành, trung thực.
Thực ra, bạn sẽ không sống trong những
lạc thú bại hoại, trong vinh quang, trong các thú vui; nhưng bạn sẽ không có
những điều vui mừng khác đó sao? Tôi nói với bạn rằng bạn sẽ thu được những
điều đó ngay trong cuộc đời này; và ở mỗi bước chân bạn thực hiện trên con
đường ấy bạn sẽ thấy rõ sự chắc chắn của sự thắng cuộc và sự hư vô của điều mà
bạn dùng để đặt cuộc, rồi bạn sẽ biết rằng bạn đã đánh cược cho một điều chắc
chắn, vô cùng, mà bạn đã không cho gì cho sự đánh cược ấy".
Mọi thời đại và trong mọi nền văn minh,
con người đều hy vọng vào "một đời sau". Đức Giêsu thường nói về nó.
Người cũng nói rằng "đời sống vĩnh cửu" ấy đã được bắt đầu. Đối với
những ai tin, nó đã có mặt nó đã được sống, dù rằng chưa hoàn thành, dĩ nhiên
rồi. Nhưng sự sống ấy chủ yếu là gì? Và phải làm gì để có nó? Đó là câu hỏi của
người thông luật. Cũng là câu hỏi của chúng ta.
Người đáp: "Trong Luật đã viết gì?
ông đọc thế nào? Ông ấy thưa: "Ngươi hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của
ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn người và người thân
cận như chính mình" Đức Giêsu bảo ông ta: "ông trả lời đúng lắm. Cứ
làm như vậy là sẽ được sống".
Trước hết, người thông Luật đọc lại
kinh cầu hằng ngày của những người Do Thái, Kinh Shéma, trích ra từ sách Đệ Nhị
Luật 6,5. Đức Giêsu cũng thường đọc kinh ấy mỗi ngày nhiều lần. Nhưng Người
thêm vào một đoạn rút ra từ sách Lê vi 19,18.
Để được sự sống đời đời, phải yêu
thương! Yêu thương! Câu hỏi và câu trả lời ấy cũng được tìm thấy trong hai Tin
Mừng nhất lãm khác (Mát thêu 22, 34-40; Máccô 12, 28-31). Nhưng chính Lu ca
không còn phân biệt một giới răn "thứ nhất" và một giới răn "thứ
hai" lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng yêu thương người thân cận không thể
tách rời nhau. Còn trong cuộc đời tôi, có được như thế không?
Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có
lý, nên mới thưa cùng Đức Giêsu rằng: "Nhưng ai là người nhân cận của
tôi?"
Cho tới lúc này, chúng ta chưa thấy có
gì độc đáo.
Giáo huấn của Đức Giêsu không khác Luật
của Cựu Ước... và luật của mọi tôn giáo lớn. Sứ điệp của Đức Giêsu nhân bản một
cách sâu xa. Yêu thương là luật nền tảng của con người.
Nhưng câu trả lời của Đức Giêsu cho câu
hỏi: "Ai là người thân của của tôi?" sẽ hướng chúng ta về cái mới mẻ
thật sự có tính cách mạng của Tin Mừng. Đây là một tình yêu phổ quát, yêu
thương cả "kẻ thù" mình.
Đức Giêsu đáp: "Một người kia từ
Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột
sạch người ấy đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình
cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông
tránh qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê vi đi tới chỗ ấy, cũng thấy,
cũng tránh qua bên kia mà đi...
Một "thầy tư tế", một
"thầy Lê vi"! Đức Giêsu dùng cách nói mạnh. Hai chuyên viên về sự thờ
phụng, hai nhà phụng vụ của Đền thờ, lo lắng tuân giữ tỉ mỉ Luật và các nghi
thức. Đức Giêsu lấy hai hạng người ấy để cho chúng ta ví dụ về việc không nên
làm! Hai người này, luôn chăm lo phục vụ Thiên Chúa nhưng có một thái độ hoàn
toàn ghê tởm đối với con người. Ngày nay, các toà án dù không phải của Kitô
giáo hẳn phải buộc họ vào tội danh "không giúp đỡ người đang gặp nguy
hiểm". Tuy nhiên, từ quan điểm riêng, họ có lý: trong tâm thức và Luật Do
Thái, họ nghĩ rằng bổn phận của họ là không được "sờ vào máu" để được
ở trong tình trạng thanh khiết về nghi thức và để bảo đảm việc phụng vụ tại Đền
thờ. Như thế, trong đời sống của chúng ta, một đôi khi chúng ta cáo từ không
muốn giúp đỡ bằng cách viện ra những lý do tất cả thiện ý.
Bằng việc cố ý chọn lựa hai ví dụ đó,
Đức Giêsu nhắc lại cho chúng ta một chân lý quan trọng của Kinh Thánh (Ô-sê
6,6) mà Người đã dùng hai lần để bào chữa việc Người không tôn trọng Luật phụng
tự, vì lợi ích cho một luật khác quan trọng hơn về tình yêu thương huynh đệ
(Mát-thêu 9,13- 12,7; 23,23). Sự lặp lại này, sự nhấn mạnh này rất có ý nghĩa.
Thiên Chúa gắn cho sự "thực hành" bác ái và phục vụ tha nhân trong
đời sống hằng ngày tầm quan trọng to lớn hơn việc thực hành phụng tự và cầu
nguyện của chúng ta. Người ta không phục vụ Thiên Chúa trong Đền thờ nếu trước
tiên người ta không phục vụ Thiên Chúa trong đường phố!
Tôi có là một Người "hành
đạo" chân chính không? Tôi cho từ hành đạo ấy một ý nghĩa nào?
Tôi có "thực hành" bác ái, có
quan tâm đến tha nhân, và phục vụ người khác không?
Nhưng một người Sa-ma-ri kia đi đường,
tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy và chạnh lòng thương ông ta lại gần, lấy dầu
lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên
lưng lừa của mình, đưa về quán trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan
tiền, trao cho chủ quán và nói: "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém
thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác?
Luca là thánh sử duy nhất thuật lại cho
chúng ta dụ ngôn kỳ diệu này. Luca là thánh sử của lòng nhân hậu, thương xót,
của sự truyền giáo cho dân ngoại và của sự nghèo khó.
Các bạn hãy đọc lại sáu hành động của
lòng tốt được mô tả tỉ mỉ ở đây: đây là Triều đại của Thiên Chúa, đây sự thờ
phụng mới chân thật, đây là sự trỗi dậy của nhân ái mới sẽ biến đổi lịch sử cho
phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa.
Và đó là một "Người
Sa-ma-ri"! Một kẻ dị giáo, một người ly giáo, một kẻ thù của những Người
Do Thái trung kiên, một người anh em giả hiệu, một người đáng ghét không chịu
"thực hành" tôn giáo chân chính, một người ô uế không bao giờ đặt
chân vào Đền thánh, một người mà việc mới cùng bàn bị ngăn cấm, một vài ngày,
Giacôbê và Gioan muốn làm lửa từ trời trút xuống họ (Lc 9,52-55). Và Đức Giêsu
lại lấy một người như thế để làm gương!
"Ông chạnh lòng thương xót...
" "esplanchnisthè" Động từ tiếng Hy-lạp này chứa đựng một hình
ảnh: "Splanchna" chính là "ruột gan, bộ lòng". Vậy phải
dịch là: "ông xúc động đến ruột gan". Và từ ấy trong tiếng Do Thái
hay tiếng A-ra-mê-en mà Đức Giêsu đã sử dụng xem ra cũng mang cùng một ý nghĩa:
"Rahamim" cũng chỉ "ruột gan", "lòng mẹ",
"tấm lòng", "sự dịu dàng", "lòng tốt", "lòng
trắc ẩn sâu xa". Vả lại, trong toàn bộ Tân Ước, từ "chạnh lòng
thương" chỉ được dùng để chỉ tình cảm của Đức Giêsu trước những đám đông
khốn khó, những người bệnh tật, những người sầu khổ đủ loại (Mt 9,36; 14,14;
15,32; 20,34; Mc 6,34; 8,2; 9,22; Lc. 7,13; 15,20).
Các Giáo phụ, vốn gắn với những phương
thức suy nghĩ cổ xưa, hầu như đều nhất trí chú giải dụ ngôn này bằng cách áp
dụng vào Đức Giêsu Kitô. Cả Tin Mừng, và trang này cũng thế, trước tiên không
phải là một sách bàn về đạo đức những là sự "công bố", sự "mạc
khải" về tình yêu thương của Thiên Chúa: người Sa-ma-ri tốt lành, trước
hết chính là Đức Giêsu... người đi đường bị thương gần chết, chính là nhân loại
bị sự ác quất ngã... quán trọ, chính là Giáo Hội nơi Đức Giêsu đưa con người
đến cứu chữa. Nếu chúng ta chỉ biến trang Tin Mừng tuyệt diệu này thành một bài
học đạo đức thì quả là tai hại vì trang Tin Mừng này nói với chúng ta
"Thiên Chúa làm điều gì cho con người". Người không ngừng "sinh
ra" con người trong cung lòng Người. Đức Giêsu đã là "hình ảnh của
Thiên Chúa vô hình", thể hiện lòng trắc ẩn như mẹ hiền của Thiên Chúa, và
chúng ta, đối với người "thân cận" của mình chúng ta phải chia sẻ
lòng trắc ẩn đến từ Thiên Chúa! Nếu Tin Mừng trước tiên không phải là một
"khoa đạo đức" điều đó không có nghĩa là Tin Mừng không chứa đựng
những yêu sách đạo đức... vô cùng sâu xa và mạnh mẽ hơn mọi nguyên tắc.
Hãy yêu thương! phải, bạn hãy yêu
thương! Bạn hãy đoàn kết, phải! Đó chính là "sự thờ phụng" thật. Tại
sao? Bởi vì điều đó chính là Thiên Chúa. "Thiên Chúa là tình yêu, và ai
không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa!" (1 Gioan 4,8). Hỡi thầy tư
tế hoặc thầy Lê vi, coi chừng việc thờ phụng của thầy. Thiên Chúa không thích
lễ lạy của Thầy. Người chờ đợi thầy bên ngoài, lúc thầy sẽ gặp mặt Người thân
cận, lúc thầy sẽ ra khỏi nơi làm lễ tế. "Bạn có yêu không? Bạn có yêu
thương tôi không?" Và không chỉ bằng lời chứ?
Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó,
ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay lũ cướp?" Người
thông luật trả lời: "Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót đối với người
ấy" Đức Giêsu bảo ông ta: "ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy".
Đức Giêsu lật ngược hoàn toàn ý niệm về
người thân cận. Người thông luật đã hỏi: "Ai là người thân cận của tôi?
(theo nghĩa thụ động)... trong ý nghĩa này, chính " những người khác"
là Người thân cận của tôi. Đức Giêsu trả lời ông: "Bạn tỏ ra mình là người
thân cận của ai?" (theo nghĩa chủ động)... trong nghĩa này, chính chúng ta
phải là người thân cận" của những người khác, hoặc là không. Người,
"thân cận", nghịch lý siêu phàm của Đức Giêsu, lại chính là
"tôi" khi tôi đến gần những người khác với lòng yêu thương Người tạ
không c.ăn tự hỏi "ai" là người thân cận của tôi... nhưng
"tôi" sẽ là người thân cận của mọi người, không phân biệt như thế
nào?..ôi, sự mạc khải này là của Thiên Chúa!
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét